Thursday, January 31, 2013

NHÂN MÙA PHẬT ĐẢN, NGHĨ VỀ CHỦ THUYẾT "TAM VÔ" CỦA MÁC-LÊ VÀ GIÁO LÝ PHẬT GIÁO


Nguyễn Việt Nữ - Khỏi nói dài dòng, đa số chúng ta đều biết đến chủ thuyết “Tam vô”: (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) của giáo chủ Karl Marx (1818-1883) và Vladimir Ilyich Ulyanov Lenin (1870-1924) mà đứa học trò xuất sắc nhất của Lênin là Hồ Chí Minh đã đem về dựng tượng thờ hiện còn tại vườn hoa Ông Thưởng thủ đô Hà Nội.
Danh hiệu “học trò xuất sắc nhất của Lenin”  là do Đại sứ Cộng Sản Mai Văn Bộ gán cho, người đã tham dự “hòa đàm” Paris đưa đến hiệp định “đình chiến” Ba Lê  ngày 27 tháng 1 năm 1973 dẫn đến đại họa mất nước hiện nay. Ông ta đã viết sách hãnh diện phong “Hồ Chí Minh là học trò xuất sắc nhất của Lênin”.

TUYÊN BỐ CỦA PHONG TRÀO CON ĐƯỜNG VIỆT NAM VỀ TRƯỜNG HỢP CÔNG DÂN LÊ ANH HÙNG

Như đa số mọi người quan tâm vụ việc đều được biết, ngày 24 tháng 1/2013, một số giới chức công an mặc thường phục và quân phục đã đến tận nơi làm việc của công dân Lê Anh Hùng để đưa ông đi một nơi nào không rõ. Sau đó, các thân nhân và bằng hữu của công dân Lê Anh Hùng tìm ra rằng: ông bị đưa vào Trại Tâm Thần, nơi dành riêng điều trị những bệnh nhân tâm thần tại Viên An, Ứng Hoà, Hà Nội.

Wednesday, January 30, 2013

DƯỚI MÁI CHÙA HOANG


“Phàm chỗ nào có rắn thì đều có thứ lá trị rắn độc”

Nguyễn Việt Nữ

Trên đây là câu nói đầy triết lý của Sư cụ Vân Không tục danh là Trần Xà Nhân. Xà là rắn, rắn lớn, rắn độc như rắn mãng xà.

Một “thần dược” tâm lý tìm được dưới mái chùa hoang thời xa xưa nhưng lại rất gần gũi để chữa bệnh cho mọi người.

Dù xa, gần; cũ, mới, tưởng cũng rất hợp để nhắc lại khi chúng ta sắp đi vào mùa Xuân Quý Tỵ 10 tháng 2 năm 2013.

   Xin mời quí vị đọc tác phẩm do Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch

Monday, January 28, 2013

LIÊN THÀNH VÀ CHIẾN DỊCH "DÙNG TÔN GIÁO DIỆT TÔN GIÁO"


  Nguyễn Việt Nữ - Tôn thờ chủ nghĩa Tam Vô: Vô gia đình, Vô tổ quốc và Vô tôn giáo. Để đạt đến mục tiêu đó, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam càng ngày càng tung nhiều “chưởng” dùng tôn giáo diệt tôn giáo để họ đánh nhau mà đảng Cộng sản được …trường tồn.

Do đó mà một trận đánh từ quyển “Biến Động miền Trung” (BĐMT) của ông Liên Thành đã công khai lên án Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất là Cộng Sản. Các hàng giáo phẩm Phật giáo không thấy có lợi trong việc tranh đấu cho 90 triệu dân trong nước đang oằn oại với niềm đau Hán hóa  nên không hề trả lời. Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ đang bị giam lõng trong nước và giáo sư Võ Văn Ái, cơ sở Quê Mẹ trụ sở tại Paris, Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Thế Giới, liên tục lôi tội ác Cộng sản lên diễn đàn thế giới và hiện vẫn tiếp tục lên tiếng cho dân tộc từ trên 20 năm nay. 

BAO GIỜ TA LẠI BIỂU TÌNH?

Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh

Nguyễn Thu Trâm

"Con chim Việt còn biết chỉ đậu ở Cành Nam, sao con người Việt mà lại đi hầu dái ngụy Hán? Cha lú thì chú phải khôn! Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Bộ Chính Trị có ngu dốt, u mê, lầm lạc đi làm những kẻ nô lệ giặc Tàu để dâng bán dần đất đai, biển đảo của Tổ Quốc Việt Nam cho Ngụy Hán, thì những người cầm bút viết văn, làm báo phải khôn sáng hơn, phải tỉnh trí hơn để biết phải đứng về phía nhân dân, phía dân tộc mà gìn giữ đất đai biển đảo mà tiên tổ bao đời đã khai hoang lập ấp và truyền tử lưu tôn cho ngàn đời con cháu chứ! Sao lại hùa theo những kẻ vong nô mãi quốc cầu vinh đó để nối giáo cho giặc, mà chống lại đồng bào?"

NGHỆ THUẬT DỐI TRÁ

Trần Trường Sa (Danlambao) - Xin quý vị đừng lầm là tôi muốn nói đến cái nghệ thuật của sự dối trá. Ở đây tôi muốn nói đến một bộ môn nghệ thuật làm việc dối trá, chẳng có chút nghệ thuật nào cả. 

Sunday, January 27, 2013

NHÌN LẠI TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG THẤY GÌ VỀ HỒ CHÍ MINH?


  Nguyễn Việt Nữ - Xin trả lời ngay: thấy rõ nhiều gương đạo đức ác ôn của Hồ Chí Minh!

 Bài nầy giúp các cháu ngoan Bác Hồ có nhiều bài học đạo đức tha hồ mà dự thi viết “Đạo đức Hồ Chí  Minh”. Đây là một đạo đức lịch sử cho các thế hệ trẻ cần khắc cốt ghi tâm mỗi lần làm lễ kỷ niệm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.

Ngày 17/1/2013, tại Ðại học Quốc gia Hà Nội có tổ chức cuộc hội thảo khoa học quốc tế chủ đề "Hiệp định Pa-ri, 40 năm nhìn lại". Dịp nầy trận “Điện Biên Phủ trên không” được nhắc đến. Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm nay được 102 tuổi thọ, đang nằm chờ đi gặp tổ Mác-Lê, nhưng cuộc hội thảo vẫn làm lễ kỷ niệm 40 năm 'Điện Biên Phủ trên không' dẫn tới  40 năm ngày ký kết hiệp định Paris (27-1-1973 - 27-1-2013) như hình dưới đây.

Cả hai quyển sách Tướng Giáp viết về hai trận chiến thắng Điện Biên Phủ đều chỉ nhằm phá vỡ  bế tắc tại bàn hội nghị quốc tế hầu “Chấm dứt chiến tranh, vãng hồi hòa bình”, (HĐ Geneve và HĐ Paris) nhưng không bao giờ đảng của ông tôn trọng chữ ký cả. Nhưng khai thác hai quyển sách nầy cũng đưa được nhiều chứng tích lịch sử chính nghĩa về phía Việt Nam Quốc Gia và đồng minh Hoa Kỳ, đảng Cộng Hòa lúc ấy.

Tuesday, January 22, 2013

VÀI LỜI CUỐI CÙNG CHO BÁC SỸ TRƯƠNG THÌN

Bác sỹ Trương Thìn
Nguyễn Thu Trâm

Đã khá lâu tôi không nhắc đến tên của bác sỹ Trương Thìn trong các bài viết của tôi, bởi khi hai nhạc sỹ trẻ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình bị đưa ra tòa xét xử và kết án vào ngày 30 tháng 10 năm 2012, trong  một bài viết để lên tiếng về sự việc đó, tôi đã đặt câu hỏi “Sao Không Xuống Đường?” trong đó tôi đã nêu đích danh các nhân sỹ trí thức, các dân biểu, nghị sỹ, các tu sĩ, các giáo sư đối kháng với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chuyên xuống đường biểu tình, chống đối… và tôi cũng đã hỏi Bác sỹ Trương Thìn và một số cựu sinh viên “cấp tiến” của miền Nam rằng sao các anh không xuống đường để đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trả tự do cho hai nhạc sỹ trẻ yêu nước, như các anh đã từng xuống đường, đã tuyệt thực để đòi hỏi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho những sinh viên cộng sản Dương Văn Đầy, Đỗ Hữu Bút, Nguyễn Ngọc Phương , Cao Thị Quế Hương, Huỳnh Tấn Mẫm…  bị bắt vào ngày 10 tháng 3 năm 1970 khi cơ quan công lực đã có đủ bằng chứng rằng đó là những đoàn viên, đảng viên cộng sản, là cán bộ thành đoàn được mặt trận giải phóng cài cắm vào đội ngũ sinh viên học sinh để lèo lái tập thể sinh viên Sài Gòn tham gia vào nhiều hình thức đấu tranh chống chính quyền, phá rối hậu phương của Việt Nam Cộng Hòa…  Rồi không lâu sau khi bài viết được đăng tải trên các báo mạng, thì từ Sài gòn một thân hữu của bác sỹ Trương Thìn đã gửi email cho tôi báo tin rằng hiện bác sỹ Trương Thìn đang bệnh rất nặng, có thể là những ngày cối đời và ông cũng hết sức ray rức về những việc làm của mình trong thời trai trẻ lạc lầm. Thân hữu của Bác sỹ Trương Thìn cũng mong tôi đừng nhắc lại chuyện quá khứ của ông và nhóm sinh viên do ông phụ trách nữa. Từ đó, tôi đã không còn nhắc gì đến chuyện buồn về những việc làm của một số nhân sỹ trí thức miền Nam và của nhóm sinh viên học sinh ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản đó cho đến nay.

Monday, January 21, 2013

DIỄN VĂM NHẬM CHỨC NHIỆM KỲ II CỦA TỔNG THỐNG OBAMA


 “Đồng bào thân mến, lời tuyên thệ tôi đã đưa ra trước đồng bào hôm nay, giống như lời tuyên thệ đã được  đưa ra bởi những người  phục vụ tại điện Capitol, là một lời thề đưa ra với Thượng Đế và đất nước, không đưa ra với đảng hoặc phe nhóm; do đó, chúng ta phải thực thi một cách trung thành lời thề đó trong suốt thời gian chúng ta phục vụ.”

Cuối bài diễn văn có câu:

“Xin cảm ơn, cầu xin Thượng Đế ban phúc lành cho mọi người, và xin Ngài mãi mãi ban phúc lành cho Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.”
Các “vệ tinh” của nhóm Giao Điềm sẽ chống?

SAO ÔNG KHÔNG VỀ VỚI HÁNG ĐỒNG VÀI BUỔI?

Trường Trung Học HÁNG ĐỒNG
Lời Dẫn: VTV1 trong chương trình “Chào Buổi Sáng” ngày 12/1/2013 đã đưa một phóng sự rất nóng lên truyền hình về chuyện hơn một trăm em học sinh cấp 1-2 của xã vùng cao Háng Đồng (huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La) đang phải tá túc trong những căn lều tuềnh toàng dựng tạm bên sườn núi trong giá rét, nhiệt độ thường xuyên dưới 10 độ C, có hôm ban đêm xuống dưới 4 đô C. Lều tạm nơi các em ở không có cánh cửa, các em phải trèo lên vách để chui ra chui vào bằng một lỗ hổng gần mái lều. Các em phải nằm trên các tấm ván trải trên sàn nhà với những tấm chăn mỏng. Ban đêm những hôm trời mưa, mái lều bị dột nước lênh láng sàn nhà, các em phải đốt lửa lên để sưởi ấm suốt đêm.

Saturday, January 19, 2013

VONG THƯ TỪ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

Lời Tác Giả:  Luật Biển VN được Quốc Hội nước CHXHCN VN thông qua ngày 21/6/2012 đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam. Vậy có nghĩa là, những ai đã hi sinh trong các cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa trước giặc ngoại xâm đều là những Liệt Sĩ hi sinh vì Tổ Quốc. Thế tại sao, 74 người lính VNCH hi sinh trong Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974, mới cách đây 39 năm thôi mà chưa được nhà nước Việt Nam hay một cấp chính quyền địa phương nào công nhận họ là những Liệt Sĩ? Phải chăng, việc hi sinh của thiếu tá Ngụy Văn Thà và 73 đồng đội của anh đã đi ngược lại ý nguyện của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong bức công hàm gửi chính phủ Trung Quốc ngày 14/9/1958, nên nhà nước CHXHCN Việt Nam không dám chấp nhận?


Nhân ngày Hoàng Sa, 19/1/2013, kính xin gửi tới quí vị độc giả gần xa. 

Friday, January 18, 2013

LỜI THƯƠNG TỪ BÀ QUẢ PHỤ NGỤY VĂN THÀ


Lời Tác Giả:  Chỉ còn đúng một ngày nữa là tròn 39 năm ngày Hoàng Sa bị quân xâm lược Trung Quốc cưỡng chiếm. Ngày 19/1/1974 đó đã được đánh dấu bằng một trận Hải Chiến Hoàng Sa oanh liệt giữa Hải Quân VNCH với quân Trung Quốc xâm lược. Do phía Trung Quốc có lực lượng đông, chuẩn bị kĩ lại được Hoa Kỳ bật đèn xanh và Miền Bắc làm ngơ, nên Hải Quân VNCH đã thất bại! Nhưng tấm gương chiến đấu dũng cảm và xả thân vì Tổ Quốc của các chiến sĩ ta thì muôn đời sau sẽ được lịch sử ghi danh.

Thursday, January 17, 2013

XIN ĐỪNG LÃNG QUÊN NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT XUYÊN THẾ KỶ


Tù Nhân Chính Trị Trần Tư tại nhà tù nhỏ BA SAO
Nguyễn Thu Trâm - Xuân lại về, một mùa đoàn viên nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Dù tất bật mưu sinh trên khắp mọi miền của đất nước, dù cơm vẫn chưa đủ no, áo vẫn chưa đủ lành, nhưng Xuân về Tết đến mọi người Việt Nam đều trở lại quê nhà để sum họp với gia đình để vui Xuân, đón Tết, để tống cựu, nghênh tân, để tiễn đưa những buồn đau, những đen đủi những bất hạnh của năm cũ và đón nhận những niềm vui, những phước hạnh và những điều an lành trong năm mới. Xuân về, Tết đến cũng là dịp để người ta dành cho nhau những lời chúc tụng tốt đẹp cùng những ước vọng cho một năm mới, ấm no hơn, hạnh phúc hơn, tự do hơn, dân chủ hơn và nhân quyền hơn. Vì vậy, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì những ngày Xuân ở quê nhà cũng ấm cúng hơn gấp vạn lần so với những ngày Tết đến, Xuân về nơi khám lạnh của những người đã dấn thân vì nền tự do, dân chủ nhân quyền cho quê hướng đất nước và vì quyền sống, quyền làm người của 90 triệu đồng bào mà phải lụy vòng lao lý.

TẾT QUÝ TỴ SẮP ĐẾN RỒI EM ƠI TRỞ VỀ ĐI!


Lời Tác Giả: Tôi vừa nhận được lá thư của kỷ sư Nguyễn Ngọc H., một sinh viên cũ của tôi tại Sài Gòn kể về người bạn gái cùng quê Châu Thành, Tây Ninh đã lấy chồng Đài Loan cách đây 7 năm. Bấy lâu nay, anh ta cứ tưởng cô ấy đã được sống trong hạnh phúc với người chồng Đài. Ai ngờ vừa rồi, khi về thăm quê ghé nhà ba má cô bạn gái, anh ta mới được gia đình cho xem bức thư cô ấy vừa gửi về nói rõ tình trạng khốn khổ của cô đã phải chịu đựng người chồng vũ phu tại Đài Loan hơn 7 năm qua. Sau khi được ba má của cô gái xác nhận đó là sự thật, anh ta vô cùng sửng sốt nên đã kể cho tôi câu chuyện này qua lá thư đó. Tôi xin phép được chép bức thư ra thành văn vần và xin được trân trọng gửi tới quí vị độc giả gần xa để mong được sự sẻ chia của quí vị nhân dịp Tết Quý Tỵ.

Wednesday, January 16, 2013

MẬU THÂN 1968: KẺ ĐỒ TỂ VÀ NHÂN CHỨNG SỐNG


Vũ Thế Phan (Danlambao) - Lời người đăng: Tôi không là người Huế cũng chẳng quen biết anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan, nhưng qua những tài liệu tôi sưu tầm được về họ trong sự kiện Mậu Thân 1968 ở Huế và sau khi đối chiếu, tôi nghĩ phải cho đăng bài này chỉ để chứng minh cùng cư dân mạng rằng hai anh em nhà Hoàng Phủ là hai tay bất nhất, nói láo. Dám làm mà không dám chịu: công thì đã lãnh, tội thì vẫn chối quanh! Nếu họ có oán tôi thì tôi xin chịu, nhưng họ nên oán Internet thì đúng hơn! 

Tuesday, January 15, 2013

HÃY CHỤP DÙM TÔI...

Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ. 
 
Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.
Đừng khoe tôi những yến tiệc linh đình,
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.
Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,

 


Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.

o O o

Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.

o O o

Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan
Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt nam,
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.
Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.
Chụp giùm tôi số phận những thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.
Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.
Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.
Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những anh hùng không uốn gối
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.
Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.
Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.

o O o

Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.
Chiếc thuyền con, ca nước lã cầm hơi,
Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.
Rồi tha phương lữ thứ,
Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.
Lòng người chóng nguôi ngoai,
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ!

Trần Văn Lương

Monday, January 14, 2013

NHỮNG HIỂM HỌA TIỀM TÀNG CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN TẠI CAMBODIA

Chuyện kể lại sự thật của một chiến sĩ Biệt Kích nhảy toán, sau ngày 30 tháng 4, 1975 vẫn tiếp tục chiến đấu chống bạo quyền Cộng Sản Việt Nam, sống lưu vong trên đất nước của mình suốt 30 năm, năm 2006 Biệt Kích Tango Ngô Văn Tài trốn sang Cambodia nhưng nơi đây cũng đầy dẫy mạn lưới tình báo của Việt Cộng… xin mời độc giả đọc một bài có giá trị về đấu tranh hiện nay.
Tác giả Ngô Văn Tài



Từ sau ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu người Việt nam đã bỏ nước ra đi tìm tự do bằng đường thủy, đường bộ, và bằng tất cả mọi phương tiện mà họ có thể có được. Cái giá của tự do dân chủ mà người dân Việt mất nước phải đánh đổi là chính tài sản và tính mạng của họ và gia đình. Tất nhiên để có được khoảng 3 triệu người Việt đến được bến bờ tự do, thì cũng có xấp xỉ con số đó, gồm cả phụ nữ và trẻ em, đã phải vĩnh viễn nằm lại đâu đó trên hành trình đi tìm tự do đó mà mối hiểm họa đến từ nhiều phía: sự truy sát của công an biên phòng và hải tuần của cộng sản Việt nam, bão tố phong ba, hải tặc cướp giết.




Sunday, January 13, 2013

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA TRUNG QUỐC ĐỜI CHU - TẦN: I. KHỔNG TỬ


I. KHỔNG TỬ

551 – 479 trước Công Nguyên 

1 . SƠ YẾU CUỘC ĐỜI 

Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, tự Trọng Ni nguyên quán ở Làng Xương Bình, nước Lỗ đời Chu. Nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Cha tên Hột, là một lực sĩ trứ danh đương thời. Có lần nước Tề tiến công nước Lỗ, quân Lỗ bị vây. Vào đêm, Khổng Hột chỉ huy 300 dũng sĩ phá được vòng vây, cứu thoát quan Đại Phu là Tạng Hột. Sau đó, cưới bà Nhan Thị, thân sinh Khổng Tử.

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA TRUNG QUỐC THỜI CHU- TẦN: II. LÃO TỬ


II. Lão Tử
570 trước Công Nguyên 

1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI 

Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, người Khổ huyện, nước Sở, sinh vào đầu năm Chu Linh Vương, khoảng 570 tr. CN tuy cùng thời với Khổng Tử, nhưng lớn hơn mười chín tuổi. Một việc mà người đời sau hay nhắc tới, là có lần Khổng Tử thỉnh giáo cùng Lão Tử. Cứ theo sách cổ ghi lại, thì nội dung cuộc hội đàm đó như sau (dịch theo ý chính cổ văn Hán): 

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA TRUNG QUỐC THỜI CHU - TẦN: III. MẠNH TỬ


III. Mạnh Tử
372 – 289 trước Công Nguyên 
1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI

Mạnh Tử họ Mạnh tên Kha, tự Tử Dư, sanh vào năm thứ tư Chu liệt Vương, 372 tr. CN. Sau 107 năm, tính từ khi Khổng Tử qua đời. Người ta được biết về thân thế của Mạnh Tử, có phần ít hơn Khổng Tử, nhất là chẳng ai được rõ đời sống thời thơ ấu của Người ra sao. Tục truyền về truyện "Mạnh mẫu (mẹ thân sanh Mạnh Tử) tam thiên". (Để chọn láng giềng tốt cho Mạnh Tử, bà mẹ đã phải dời chỗ ở những ba lần), theo kết quả khảo cứu, thì chẳng có sự thật đó.

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA TRUNG QUỐC THỜI CHU- TẦN: IV. TRANG TỬ


IV. Trang Tử
1.     SƠ YẾU CUỘC ĐỜI.
 Trang Tử tên Chu, người nước Tống gần như cùng thời với Mạnh Tử, nhưng vì là một "ẩn giả", cho nên đời sau chẳng được rõ làm về thân thế cùng đời tư của Trang Tử. Tuy nhiên, trong giới trí thức Trung Quốc, xưa cũng như nay, ít có ai lại chẳng biết đến Trang Tử, bởi Người đã có trước tác để lại trên trăm ngàn lời, trong đó có rất nhiều truyện ngụ ngôn, liên quan tới đời sống bản thân của Trang Tử. Dù cho những truyện đó có thật hay giả tạo, cũng đã dựng lên một hình bóng Trang Tử sống động trong lòng người, lưu truyền trên lịch sử Trung Quốc hơn hai ngàn năm nay. Thật ra phần đông người Trung Hoa vẫn chưa rõ lắm về triết lý nhân sinh của Trang Tử, nhưng ai nấy đều thích nghe truyện Trang Tử. Từ đó, người ta cũng đã hiểu được phần nào, Trang Tử là một con người ra sao. 

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA TRUNG QUỐC THỜI CHU - TẦN: V. TUÂN TỬ


V. Tuân Tử

 298 – 238 trước Công Nguyên

 1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI.

 Tuân Tử tên Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh. Đời Hán đặt tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi lại xưng hô "Tuân Tử". Tuân Tử người nước Triệu, sanh vào năm nào không được rõ, chỉ biết "Niên giám Tuân Tử", bắt đầu ghi chép sự tích của Người từ năm Triệu Huệ Văn Vương nguyên niên, tức 298 tr. KN. TL và mất vào năm thứ 25 Sở Khảo Liệt Vương, tức 238 tr. CN. Đại để là, trước 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm về việc trau dồi học vấn, khoảng trước sau 50 tuổi đi du hành qua các nước, từ 60 tuổi trở đi, những năm đầu làm huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những năm sau thì mở lớp dạy học, y như Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Đúng vào năm 50 tuổi, Tuân Tử đến nước Tề. Tuy được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử làm "Tế tửu , một danh hiệu vinh dự trong buổi "quốc yến", nhưng rốt cuộc chẳng được trọng dụng. Sau khi rời Tề sang Tần, Tuân Tử được gặp tể tướng Phạm Tuy. Lúc đó Tần là một cường quốc, thường ỷ thế mạnh đe dọa chư hầu. Phạm Tuy hỏi cảm nghĩ của khách ra sao, đối với Tần. Đáp lại câu hỏi đó, trước hết, Tuân Tử ca ngợi Tần là một nước có tập tục tốt, núi non đẹp, hơn nữa là, quan lại dốc lòng vì dân, triều đình làm việc mau mắn. Nhưng tiếp theo thì vuốt mặt chẳng nể mũi, thẳng lời phê bình nước Tần hãy còn khiếm khuyết đạo Nho. Chiếu theo tiêu chuẩn của Tuân Tử thì, thiếu đạo Nho tức là thiếu Lễ nghĩa, mà lễ nghĩa là linh hồn của quốc gia. Tuân Tử khen điều hay, chê điều dở của Tần một cách thẳng thắn, chẳng ngại mếch lòng ai như vậy là thái độ nhận chân nghiêm túc, phải là phải, trái là trái của con người Nho học. Song cũng vì thế, nên Tuân Tử đã thiếu dịp may thi thố tài đức, thực hiện lý tưởng chính trị của mình, đành phải trở về cố quốc. Ở Triệu là nơi nước nhà, Tuân Tử từng biện luận phép dụng binh với Lâm Vũ Quân, trước mặt Triệu Hiếu Thành Vương. Lâm Vũ Quân dựa vào nguyên tắc "xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị" của Tôn Tử binh pháp, cho ràng kẻ dùng binh giỏi, bao giờ cũng "quyền mưu thế lợi " và "công đoạt biến trá", nghĩa là không từ bỏ bất cứ thủ đoạn gian trá nào. Ngược lại, Tuân Tử có quan điểm khác hẳn, Người nhấn mạnh kẻ giỏi về quân sự là biết "thiện phụ dân", tức là dựa vào sức mạnh của dân một cách hiệu quả. Tuân Tử cho rằng, được dân ủng hộ mới nắm chắc phần thắng, cho nên "thiện phụ dân", là cái vốn quý nhất của người điều khiển chiến tranh.

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA THỜI CHU - TẦN: VI. MẶC TỬ


VI. Mặc Tử
Khoảng 479 – 381 trước Công Nguyên

1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI.

Mặc Tử tên Địch, người nước Lỗ. Cho đến nay, vẫn chưa xác định được năm sanh và năm mất, chỉ biết khoảng chừng vào thời sau Khổng Tử, trước Mạnh Tử. Ban đầu có theo học đạo Nho, nhưng về sau cho rằng, "Nhân nghĩa" của nhà Nho gần như lẩm cẩm, "Lễ nhạc" của nhà Nho quá ư phiền toái, nên tự khởi xướng ra học thuyết mới, nặng về công lợi và giá trì thực dụng. 

BẢY ĐẠI TRIẾT GIA THỜI CHU - TẤN: VII. HÀN PHI TỬ


VII. Hàn Phi Tử
280 – 233 trước Công Nguyên

1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI.

Hàn Phi, phỏng chừng sinh vào năm 280 trước CN. vốn thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn, tuy có theo hợc đạo Nho dưới môn Tuân Tử cùng Lý Tư, nhưng lại có tư tưởng khác biệt với thầy. Tuân Tử chú trọng về việc giáo hóa Lễ Nghĩa, còn Hàn Phi cùng Lý Tư thì nặng về pháp chế và quyền thuật, đi theo con đường hoàn toàn trái ngược với đạo Nho. Hàn Phi từng bảo: "Ngô ái ngô sư, ngô bưu ái chân lý". (Ta mến thầy ta, nhưng ta càng chuộng chân lý hơn). Hàn Phi viết rất nhiều sách, và đã nhiều lần dâng kiến nghị lên vua Hàn, nhưng chẳng được trọng dụng. Khi tác phẩm của Hàn Phi truyền sang nước Tần, lúc vua Tần đọc tới hai thiên "Cô phẩn" và "Ngũ xuẩn", thấy rất hạp với ý tưởng của mình, đã thán phục rằng: "Chao ôi, nếu trẫm mà có duyên gặp được người này, thì có chết cũng chẳng còn ân hận ".