PHÂN GIẢI:
Pháp là diệu pháp Bát
Nhã, Kinh, Luật, Luận gồm ba thứ đồng gọi là giáo pháp. Thọ trì như pháp là y
theo pháp mà thật hành. Trước do đa văn rồi tìm hiểu, từ tìm hiểu đi đến thật
hành, nhờ thật hành mới chứng được đạo quả. Suy luận rộng ra có 84.000 pháp môn
để đối trị với 84.000 phiền não của chúng sinh, theo bịnh mà cho thuốc, mỗi
pháp môn để đối trị tâm bịnh người đời. Ví như chúng sanh bị bịnh dâm dục, giận
tức, si mê, phải nhờ giới, định, huệ để đối trị, hàng phục Các pháp Tứ Niệm Xứ,
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Thất Bồ Đề phần và Bát Thánh Đạo
phần, 37 phẩm trợ đạo, không một phẩm nào mà chẳng phải diệu pháp cho người tu
hành. Nay nói ý tứ thọ trì là chuyên chỉ thọ trì diệu pháp Bát Nhã. Nhơn vì thọ
trì Bát Nhã, các pháp khác đều đầy đủ. Như trước đã nói, pháp thân phi tướng,
đem diệu lý Bát Nhã, cao siêu chỉ bày, giải tỏa các nghi ngờ, đưa đến lý cùng
cực. Vì thế, nên Ngài Không Sanh lãnh ngộ ý nghĩa, thỉnh Đức Phật gạn hỏi tên
Kinh.
Lúc ấy, Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Sẽ gọi Kinh là gì? Chúng con làm sao phụng trì?
Lúc ấy, Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Sẽ gọi Kinh là gì? Chúng con làm sao phụng trì?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
- Kinh
này gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Vajraprajna Paramita), dùng danh hiệu
ấy, các ông phải phụng trì, lý do vì sao? Tu Bồ Đề! Phật nói Bát Nhã Ba La Mật,
tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, ấy mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật. Tu Bồ Đề! Ý
ông nghĩ thế nào? Như Lai đã có thuyết pháp không?
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng:
- Thưa
Thế Tôn! Như Lai đã không nói pháp.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? 3.000 đại thiên thế giới, đã có bụi trần, thế có
nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa:
- Rất
nhiều, bạch Thế Tôn.
Phật hỏi:
- Tu
Bồ Đề! Các bụi trần, Như Lai nói không phải là bụi trần, ấy mới gọi là bụi
trần, Như Lai nói thế giới, không phải thế giới, ấy mới gọi là thế giới. Tu Bồ
Đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể dùng 32 tướng, thấy Như Lai không? 32
Tướng, Như Lai đầy đủ tướng tốt dung mạo 12 thứ, tướng tốt thân thể 10 thứ,
tướng tốt về tay chân có 10 thứ; dùng 32 thứ tịnh hạnh, tu thành 32 tướng tốt;
32 tướng này đều là tướng ứng thân, ứng thân có thể thấy, pháp thân thì không
thể thấy. Ba mươi hai tướng danh xưng như sau:
1) Tướng
dưới chân an bằng
2) Tướng
chỉ dưới chân có ngàn xoáy tròn như hình cả ngàn cây căm bánh xe.
3) Tướng
tay dài, trước đầu ngón tay nhỏ và nhọn
4) Tướng
tay chân đều mềm mại
5) Tướng
trong kẽ tay, kẽ chân có da mỏng như giăng lưới
6) Tướng
gót chân đầy đặn
7) Tướng
trên bàn chân nổi cao đầy đặn
8) Tướng
bắp vế như lộc vương
9) Tướng
hai tay dài quá đầu gối
10) Nam căn ẩn kín
11) Tướng thân
hình cao lớn và cân phân
12) Tướng các lỗ
chân lông thường chiếu ra sắc xanh
13) Tướng những lông
trên mình uốn về bên mặt
14) Tướng thân thể
sáng chói như vàng tía
15) Tướng quanh mình
có hào quang chiếu ra một trượng
16) Tướng da mỏng và
mịn
17) Tướng lòng bàn
chân, bàn tay, hai vai và trên đỉnh, bảy nơi ấy đầy đặn
18) Tướng hai bên
nách đầy đặn
19) Tướng thân thể
oai hùng như sư tử
20) Tướng thân thể
vuông tròn, ngay thẳng
21) Tướng hai vai
tròn đầy cân phân
22) Tướng 40 cái
răng
23) Tướng răng
trắng, trong, đều và khít nha
24) Tướng 4 răng cửa
to lớn
25) Tướng gò má nổi
cao, như hai mép sư tử
26) Tướng nước miếng
đủ chất thượng vị
27) Tướng lưỡi rộng,
dài, mềm mại
28) Tướng giọng nói
thanh cao, nghe xa, như tiếng nói của Phạm Thiên
29) Tướng con mắt
xanh biếc
30) Tướng lông nheo
dài đẹp
31) Tướng có chòm
lông trắng thường chiếu sáng, mọc giữa chặng mày
32) Tướng trên đỉnh
đầu, thịt nổi cao lên như một bới tóc.
Tu Bồ Đề thưa:
- Không
thể thấy, bạch Thế Tôn! Không thể dùng 32 tướng thấy Như Lai, vì sao? Như Lai
nói 32 tướng, tức là không phải tướng. Ấy mới gọi là 32 tướng.
Phật bảo;
- Tu
Bồ Đề! Nếu có thiện nam cùng thiện nữ dùng thân mạng bố thí như cát sông Hằng.
Nếu lại có người, ở trong Kinh này, cho đến thọ trì một bài kệ bốn câu, vì
người khác giảng nói, phước này rất nhiều.
KHÁI LUẬN:
Phần căn bản, Tu Bồ Đề
nhờ nghe được phần trước, trì nói Kinh này, thành tựu pháp ít có. Kinh ở chỗ
nào, Phật ở chỗ nấy. Tôn trọng Kinh như thế. Do đó, nên đương cơ thỉnh thị tên
Kinh cùng đạo lý phụng trì, Phật Như Lai bảo Kinh này gọi là Kim Cang Bát Nhã
Ba La Mật. Các ông sở dĩ phải phụng trì Kinh này, là vì trong Kinh này chắn ngộ
được đạo lý vô tướng vô trụ, phát sinh Bát Nhã cứng chắc, sắc bén, sáng soi tất
cả (Diệu Trí Huệ), đồng lên bờ giác của chư Phật. Ấy là pháp hy hữu đệ nhất tối
thượng, thường ở trong hàng đệ tử y pháp phụng hành. Phật Như Lai nói đoạn này,
dù là chú ý hiển pháp, nhưng lại lo sợ hàng đệ tử chấp trước tên Kinh này, bỏ
quên tính Kim Cang là Bát Nhã của mỗi người. Vì muốn phá sự chấp tướng tên
Kinh, nên nói Bát Nhã Ba La Mật, tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, chẳng qua là
mượn danh từ gọi là Bát Nhã Ba La Mật mà thôi. Tên Kinh đã không trước tướng,
làm gì lại có pháp để nói; trong tâm thanh tịnh, xưa nay không có tướng Kinh Ba
La Mật, chẳng qua muốn cho người nhận rõ tự tính sang suốt, bổn lai cũng không
có pháp vậy. Đã không pháp thì làm gì có Kinh, không Kinh thì làm sao có nói!
Chúng ta nên biết phàm có nói ra đều là phương thuốc trị bịnh. Trong bộ Truyền
Tam Pháp Yếu: “Phật nói tất cả pháp, vì trừ tất cả tâm; nếu không tất cả tâm,
đâu dùng tất cả pháp”. Bởi vì khi chưa ngộ phải nhờ ngôn thuyết, khi liễu ngộ
rồi thì ngôn thuyết đều phi. Người bị bịnh không uống thuốc, bịnh ấy thật khó
trừ; khi bịnh đã hết, thuốc còn, thì thuốc ấy cũng là bịnh vậy. Đơn cử một
việc, vật nhỏ như vi trần, lớn như thế giới, chính như 32 tướng mà Như Lai đã
nói, đều là một cái giả danh trống rỗng mà thôi. Phật Như Lai, tuần tự dẫn nói
như thế, đều muốn cho chúng sanh pháp chấp tướng để thấy Như Lai tự tánh. Thế
nên, cuối cùng lại so lường phước đức (đây là lần thứ 3), chỉ rõ diệu dụng ly
tướng, nêu bày ý tứ của Kinh. Cho biết rằng không luận bố thí của báu nhiều như
số cát sông Hằng, bố thí thân mạng nhiều như số cát sông Hằng, thật nhiều,
nhưng mà chỉ là tướng bên ngoài, không bằng kiến tánh để thọ trì lý thâm diệu
của Kinh, phước đức rất là thù thắng!
LỜI PHỤ:
Đức Phật nói ba câu:
Bát Nhã Ba La Mật, tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, ấy gọi là Bát Nhã Ba La
Mật. Đây là cương lĩnh của bột Kinh này mà cũng là tinh yếu của Đại Tạng Kinh.
Nói rộng ra, ấy là tâm cang của Phật tổ, là tủy não của thánh phàm; tam giáo,
ngũ tông vô lượng nghĩa nhiệm mầu, đều ở trong Kim Cang này. Kinh Tam Muội nói:
“Tâm không tướng tâm, không chấp hư không, không nương Phật địa, không trụ trí
huệ. Ấy là diệu lý Bát Nhã Ba La Mật”. Ngài Phó Đại Sĩ nói: “Sợ người sinh
“đoạn kiến”, quyền tạm lập hư danh”. Phát Bát Nhã là tâm pháp. Như người uống
nước, nóng hay lạnh tự người đó rõ biết, không thể hình dung cho kẻ khác biết
được! Nếu có nói ra tức là hủy báng Phật.
Phật đủ ba thân:
Một là pháp thân thanh
khiết, là chơn thân của Phật, bản thể thân này không sắc không hình, Bát Nhã
tức là tướng pháp thân chơn tánh vậy.
Hai là báo thân viên
mãn, nhờ phước báo hạnh nguyện vô lượng, thân Phật muôn đức tròn đầy được hiển
lộ. Có chia ra hai loại là tự thọ dụng báo thân và tha thọ dụng báo thân.
Ba la ứng thân tức là
Pháp thân ứng hóa, lại gọi là hóa sinh (trăm, nghìn, muôn, ức hóa thân), ở cõi
trời thân trời, sanh cõi người hiện thân người, trong loài chim hóa thân chim,
trong loài nai hóa thân nai, thiên hình vạn trạng, theo mỗi loài hiện thân, 32
tướng, tức là tướng ứn thân vậy. Bố thí của báu nhiều như số cát sông Hằng, của
báu xưa kia tuy nhiều, nhưng về ngoại tài, thí ra còn dễ. Bố thí thân mạng
nhiều như số cát sông Hằng, xả đó tuy trọng, nó thuộc nội tài, thí đó thật khó!
Dù rốt ráo bố thí tài sản và thân mạng đều là nhơn hữu lậu. Thấy được tánh, sáng
được tâm, mới là chân thật phước đức vô vi!
GIẢNG NGHĨA:
Tu Bồ Đề nghe Phật Như
Lai nói xong phần Kinh ở trước, lúc bấy giờ hướng về Phật Như Lai thưa:
- Bạch
Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên là gì? Chúng con phải thọ trì Kinh này như thế
nào?
Phật Như Lai bảo ngài
Tu Bồ Đề:
- Hiệp
với diệu trí huệ cứng chắc, đưa đến bờ an lạc kia. Kinh này gọi là KINH KIM
CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT. Các ông phải y theo đó mà phụng hành. Vì sao mà đặt tên
như vậy?
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Bát Nhã Ba La Mật ma Như Lai đã nói là bản tánh diệu giác, trạm nhiên
như hư không. Bản thể đã là chơn không, thì làm gì lại có danh từ. Chẳng qua là
sợ người đời sanh đoạn kiến, “bất đắc dĩ” gắng gượng đặt danh từ là Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật, để trong hàng thất chúng đệ tử phụng hành mà thôi.
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai đối với Kinh này có thuyết pháp không?
Tu Bồ Đề đáp rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Bát Nhã là tự tánh tự ngộ, tên đã không thể gọi thì Từ Phụ con làm sao
mà nói năng được.
Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Cát hạt bụi đã có trong 3.000 đại thiên thế giới, nhiều
hay ít?
Tu Bồ Đề đáp rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Rất nhiều.
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Hạt bụi tuy nhiều, song không có thật thể, đều là hư vọng, ấy chẳng qua
tạm gọi là hạt bụi mà thôi.
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Có thể dùng 32 tướng để thấy Như Lai không?
Tu Bồ Đề đáp rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Không thể thấy. Tại sao? Vì Từ Phụ con đã nói 32 tướng đó, ly tướng,
tướng không phải là pháp thân, có tướng, tướng là ứng sanh, cũng chỉ là giả
danh mà thôi!
Phật lại nói thêm:
- Tu
Bồ Đề! Nếu có thiện nam thiện nữ nào, xả thân mạng của họ, nhiều như số cát
sông Hằng, thật hành bố thí để cầu phước; lại có một số người khác, ở trong
Kinh này, thọ trì cho đến một bài kệ bốn câu, rồi diễn nói cho người khác nghe;
phước trì Kinh kia, so với phước bố thí thân mạng trước, thắng hơn rất nhiều!
Thơ 13
Thiện Hiện bạch Phật
những lời,
Kinh này danh hiệu,
hợp thời đặt tên,
Chúng con trì tụng có
nên?
Xin Phật chỉ dạy, dưới
trên thi hành
Kim Cang Bát Nhã là
danh,
Nhưng phi Bát Nhã mới
thành trí siêu,
Gạn hỏi thuyết pháp
mục tiêu,
Thiện Hiền hồi đáp
những điều quá cao
Bồ Đề ông hiểu thế
nào?
Vi trần, thế giới có
vào danh ngôn?
Cả hai theo ý Thế Tôn,
Phi vi, phi thế bảo
tồn Kim Cang.
Nói qua tướng tốt cao
sang,
Cùng là bá thí, tam an
phép mầu,
Truyền bá ai hiểu
chiều sâu,
Phúc đức trí tuệ đứng
đầu tâm linh.
PHẦN LY TƯỚNG TỊCH
DIỆT THỨ 14.
PHÂN GIẢI:
Ly tướng là thế nào?
Là tất cả tướng huyễn; tất cả tướng trang trong thế gian đều là tướng huyễn
hóa. Phàm phu không biết huyễn tướng này hư vọng không chân thật, thế nên chấp
trước thủ xả, chỗ chỗ đều bị mê lầm hư vọng không thiệt. Vọng cảnh mỗi lúc nó
huân tập vào vọng tâm, chân tánh thường xuyên bị tướng ngoại trần ngăn che,
suốt ngày bị hoàn cảnh xoay chuyển, do đó rồi khởi hoặc tạo nghiệp, vì tạo
nghiệp mà chịu quả báo khổ não, nhiều kiếp luân hồi, không bao giờ thôi dứt.
Nếu ai hay xa lìa vọng tưởng, không bị giả tướng cuống hoặc thì không co chấp
trước, thủ xả! Động, tịnh không sanh đó là tịch diệt.
Nói thêm nghĩa tịch
diệt là thế nào? Ban đầu hàng phục ngoại trần, sau diệt trừ nội căn, căn trần
đều giải thoát, trước phá nhân ngã, rồi tiến lên một tầng lại pháp pháp ngã;
tướng năng giác, sở giác cũng phải xa lìa, tiến lên một tầng, “câu sinh” phải
diệt, tướng năng không sở không cũng dẹp. Sanh diệt dứt rồi thì tịch diệt hiện
tiền!
Lúc bấy giờ, Ngài Tu
Đề nghe nói Kinh này, hiểu sâu nghĩa thú, hiểu sâu là ý nói
trong tâm đại ngộ. Nghĩa thú, chính là tôn chỉ lý thú, cảm động chảy
nước mắt, rồi bạch Phật rằng:
- Thưa
Thế Tôn! Thật là ít có. Đức Phật nói Kinh điển thậm thâm như thế, từ xưa đến
nay, khi con được tuệ nhãn, tuệ nhãn là tim của Thánh nhơn có 7 lỗ,
nghe một ngộ nghìn. Đây là mắt trí tuệ vậy, chưa từng được nghe Kinh
điển như thế. Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người nghe được Kinh này, lòng tin thanh
tịnh, sanh được thật tướng, phải biết người ấy thành tựu được công đức hy hữu
thứ nhứt.
- Bạch
Thế Tôn! Nếu cho thật tướng thì là phi tướng. Thế nên Như Lai nói, ấy mới gọi
là tướng chơn thật. Bạch Thế Tôn! Con nay đặng nghe Kinh điển như thế, tin hiểu
thọ trì, tin hiểu là tâm không nghi ngờ, liễu nhiên lãnh ngộ, không
có chi là khó. Nếu đời đương lai, sau 500 năm, có các chúng sanh, đặng nghe
Kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy là hạng hy hữu thứ nhất. Vì sao? Bởi vì
người ấy không có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và cũng không có thọ
giả tướng. Lý do vì sao? Ngã tướng tức là phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh
tướng, thọ giả tướng tức là phi tướng. Vì cớ sao? Vì lìa tất cả các tướng, thì
gọi là chư Phật.
Phật bảo ngài Tu Bồ
Đề:
- Đúng
như vậy, đúng như vậy. Đúng như vậy là sâu hợp với lý của Phật, tức là
ý công nhận vậy. Nếu lại có người, nghe được Kinh này, không hãi, không
sợ, không sệt, không hãi là kinh hãi trong lỗi về lời nói; sợ tức là
lo sợ lý cao trên đượng đạo; sệt nghĩa là khủng khiếp sự khó khăn trên con
đường tu hành, phải biết người ấy rất là hy hữu. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề!
Như Lai nói đệ nhất ba la mật, tức không phải đệ nhật ba la mật, ấy mới gọi là
đệ nhất ba la mật.
- Tu
Bồ Đề! Nhẫn nhục ba la mật, nhẫn nhục: trong tâm bao dung gọi là nhẫn, ngoại
cảnh ngang trái gọi là nhục.
Nhẫn nhục có ba thứ:
1) Sanh
nhẫn: Đây là tâm phân biệt nhẫn chịu? Tức là người đối với ta, tuy vô
lễ muốn gia hại, ta phải nhẫn chịu
2) Pháp
nhẫn: Hạnh Bồ Tát làm việc độ tất cả chúng sinh, không bao giờ sinh
tâm mỏi mệt nhàm chán.
3) Vô
sanh pháp nhẫn: Không thấy sinh nhẫn mà cũng không thấy pháp nhẫn,
nhẫn biết chân pháp tánh không sanh không diệt.
Lại nữa, chữ Nhẫn có 6
nghĩa:
1) Lực
nhẫn: Không quên giận, nhưng không trả.
2) Vong
nhẫn: Nhã nhặn, độ lượng, dung hòa, bị nhục, nhưng như không có gì hết.
3) Phản
nhẫn: Việc gì xảy ra tự trách mình, không trách kẻ khác.
4) Quán
nhẫn: Ngoại cảnh và nội thân đều xem như mộng.
5) Hỷ
nhẫn: Tùy hỷ người hay thành sức nhẫn của ta.
6) Từ
nhẫn: Thương người mang nhục đến cho mình là kẻ si mê, phát nguyện độ họ.
Như Lai nói không phải
nhẫn nhục ba la mật, ấy mới gọi là nhẫn nhục ba la mật. Vì sao? Tu Bồ Đề! Như
xưa kia tôi bị vua Ca Lợi cắt đứt thân thể. Xưa là chỉ cho đời
trước mà nói. Vua Ca Lợi, chữ Ca Lợi là tiếng Phạn (Kaliraja). Ý nói chính là
ông vua cực ác.Tôi ở trong lúc ấy, không có ngã tướng, không có nhơn tướng,
không có chúng sanh tướng mà cũng không có thọ giả tướng. Vì sao? Vì lúc bấy
giờ, khi tôi bị cắt đứt chân tay, nếu có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh
tướng và thọ giả tướng, phải sanh giận tức. Tu Bồ Đề! Lai nữa trong quá khứ 500
đời, 500 đời tức là 500 kiếp, khi làm vị tiên nhẫn nhục, vị
tiên nhẫn nhục chính là Phật Như Lai, ở trước 500 kiếp, thời gian thành tiên,
mang danh hiệu của một vị tiên, ở trong lúc ấy, không có ngã tướng,
không có nhơn tướng, không chúng sinh tướng và không tướng thọ giả.
Thế nên Tu Bồ Đề, Bồ
Tát phải xa lìa tất cả tướng, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không
trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sanh tâm, phải
sanh tâm “vô sở trụ”; nếu tâm có trụ thì bị phi trụ. Vì thế cho nên Đức Phật nói
tâm Bồ Tát, không nên trụ sắc bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích cho tất cả
chúng sanh nên bố thí như vậy.
Như Lai nói tất cả các
hình tướng, tức là phai tướng. Lại nữa nói tất cả chúng sanh, tức là phi chúng
sanh. Tu Bồ Đề! Như Lai nói lời chân thật, nói lời đúng lý, nói lời như như,
nói lời không cuống hoặc, nói lời không sai khác. Tu Bồ Đề! Pháp sở đắc
của Như Lai, pháp ấy không thật không hư.
Tu Bồ Đề! Nếu tâm Bồ
Tát trụ nơi pháp mà làm việc bố thí, như người vào nhà tối, tức là không thấy
được vật gì, nếu tâm Bồ Tát không trụ pháp mà thật hành bố thí, như người có
mắt sáng, yến sáng mặt trời soi, thấy tất cả các sắc. Tu Bồ Đề! Đời đương lai,
nếu có thiện nam, thiện nữ nào thường ở trong Kinh này, thọ trì, đọc tụng thì
được Như Lai dùng trí huệ Phật, đều biết người ấy, đều thấy người ấy, đều được
thành tựu công đức vô lượng vô biên!
KHÁI LUẬN:
Phần căn bản, nhân
Ngài Tu Bồ Đề đến lúc này, nghe Kinh hiểu sâu, đã lãnh ngộ đạo lý “nếu thấy các
tướng phi tướng, tức thấy Như Lai” cảm động từ trong tâm khảm, thương mến, khóc
lóc, phát lên một tiếng khen ngợi “Thế Tôn ít có”. Ở trong phần thứ 2 của Kinh
này, cũng đã có khen ngợi một tiếng “ít có Thế Tôn”. Khen ngợi trong phần thứ
hai lá tán thán Phật Thế Tôn chỉ dạy trong sự đi đứng nằm ngồi đều có Bát Nhã chân
tâm lưu độ. Còn khen ngợi trong phần này là tán thán Phật Như Lai chỉ thị diệu
dụng Bát Nhã, như thâm nhập 9 lớp. Đem so sánh một lớp phòng nhà; từ trước chỉ
cho thấy mặt ngoài, xem qua kiểu quy mô tráng lệ; giờ đây tiến đến phòng nhà
bên trong. Phật Như Lai cũng vì Tu Bồ Đề đã ngộ hữu tướng đều là hư vọng, phi
tướng thì thấy được mật nghĩa của Như Lai, thế nên liền cố gắng công phu thực
hành. Thật hành thì không ngoài sáu pháp ba la mật (tức là lục độ; Trí huệ, bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, và thiền định). Bởi vì nhẫn nhục là một độ
rất khó thật hành, chung quy vì vọng tưởng chưa diệt.
Nhẫn nhục chưa đến
nơi, khiến tâm hồn bị sợ sệt, bị Kinh hãi. Thế nên tín tâm không kiên cố. Vì
thế Ngài dùng bản thân hành nhẫn nhục, không bốn tướng để gắng tới ba la mật.
Đã chĩ rõ trong văn Kinh, nếu Bố Tát còn có ngã tướng, nhơn tướng, v.v…tức
không phải là hạnh Bồ Tát. Lại đem mỗi phần trước, thường nói phước đức, phần
này lại nói công đức, bởi vì công thành quả mãn phước không đủ diễn tả vậy.
LÒI PHỤ THUỘC:
Bát Nhã dịch là diệu
trí tuệ, trước đã nói qua rồi. Nhưng diệu trí tuệ ấy phân chia để nói, có chia
ra mấy loại: có văn tự diệu trí tuệ, quán chiếu diệu trí tuệ và thật tướng diệu
trí tuệ v.v…hai câu căn bản “phân biệt nghe nói Kinh này, hiểu sâu nghĩa thú”,
tức bao trùm 3 loại diệu trí tuệ này. Nghe nói Kinh này tức là văn tự diệu trí
tuệ. Hiểu sâu nghĩa thú tức là quán chiếu diệu trí tuệ. Còn thông suốt tức là
thật tướng diệu trí tuệ.
Như Lai đời trước có
một kiếp bị vua Ca Lợi phân cắt thân thể. Mẩu chuyện như sau:
Một hôm, Vua Ca Lợi
hướng dẫn đoàn cung phi, mỹ nữ vào trong rừng núi thưởng ngoạn và săn bắn. Nhơn
lúc Vua mệt an nghỉ, và ngủ say một giấc. Đến lúc tỉnh dậy, không nhìn thấy
đoàn cung phi, mỹ nữ, chỉ thấy vài cận vệ. Vua bèn dùng các cận vệ đi tìm kiếm.
Xa xa thấy có một tòa trong động lớn, các cung phi mỹ nữ đều ngồi trong động,
vây quanh một vị sư để nghe thuyết pháp.
Vua Ca Lợi rất giận,
chỉ vào mặt vị sư trách rằng:
- Tại
sao Ông quyến rũ các mỹ nữ đến đây?
Vị sư đáp:
- Tôi
thật không làm như thế.
Vua lại gạn hỏi:
- Vì
sao thấy nữ sắc mà nói không ham muốn?
Vị sư trả lời;
- Vì
tôi giữ giới.
Vua gạn hỏi:
- Ông
giữ giới tu hạnh gì?
Vị sư trả lời:
- Tôi
tu hạnh nhẫn nhục.
Vua nghe hai tiếng
nhẫn nhục, liền nỗi giận đùng đùng, rút gươm xông tới, hỏi:
- Ông
biết đau không?
Vị sư đáp:
- Thản
nhiên.
Vua càng tối tăm mặt
mày, liền chặt đứt thân thể nhà sư, rồi hỏi;
- Ông
có đau không? Và có thù hận ta không?
Sư đáp:
- Đã
không có ngã thì làm gì có hận thù.
Lúc bấy giờ, bốn vị
Thiên Vương trong lòng chấn động và phẫn nộ trước sự độc ác của nhà Vua, nên
cho một trận cuồng phong, đá chạy cát bay, thiên long bát bộ đồng đến hộ trì.
Vị sư bị cắt đứt chi thể, được hoàn lại như cũ. Ông Vua lo sợ, quỳ gối trước vị
sư, cầu xin chuộc tội và ăn năn sự độc ác. Vị sư liền xin chư Thiên Vương đại
xá lỗi lầm cho nhà Vua, bầu trời trở lại quang đãng. Ông Vua cũng hồi tâm phát
nguyện hướng thiện. Vị sư cũng phát nguyện rằng: Khi nào tôi thành Phật, sẽ độ
cho ông trước.
Vua Ca Lợi, sau 500
đời là ngài Kiều Trần Như gọi đủ là A Nhã Kiều Trần Như (Ajnata-Kaundinya) sinh
trong chủng tộc Bà La Môn, tại thành Ca Tỳ La Vệ, Ấn Độ. Ngài giỏi về bói
thuật, thời gian Đức Thích Ca mới giáng sinh, ngài từng được mời xem bói thuật.
Sau khi đức Thích Ca xuất gia, tu khổ hạnh trong núi, bên bờ sông Ni Liên
Thiền; lúc ấy Kiều Trần Như là một trong năm vị thường theo hầu hạ đức Thế Tôn.
Trụ sắc bố thí là tâm
chấp tướng. Trụ pháp bố thí là chấp pháp tướng. Không trụ pháp bố thí, thì
không chấp pháp, cũng chẳng chấp phi pháp. Không chấp pháp thì không thật,
không chấp phi pháp thì không hư. Bố thí như thế thì được chánh giác viên minh,
không bị chướng ngại. Như người có mắt, yến sáng mặt trời chiếu soi, thấy các
vật sắc, nên nói chánh giác thật là chí lý vậy. Nếu bố thí mà trụ tướng, tức là
có ngã, nhơn v.v…bốn tướng chưa quên, thì sẽ cùng chúng sinh kết duyên thương
ghét vậy! Như thế đó lẫn nhau làm cha mẹ, con cháu, thọ oan gia trái chủ, trăm
kiếp nghìn đời, ân oán khó mà giải tỏa, luân hồi trong đường sanh tử, đâu có
lúc nào ra khỏi. Vì thế nên Phật Như Lai chỉ dạy thật hành hạnh bố thí, không
nên trụ tướng, chính vì lý do nêu ở trên.
GIẢNG NGHĨA:
Tu Bồ Đề nghe Phật Như
Lai nói Kinh, lúc nghe trong tâm sâu ngộ lý thú. Có cảm tưởng buồn hận vì khi nghe
được nghĩa lý Kinh này thì tuổi đã già, hai hàng nước mắt lăn tròn trên gò má,
hướng về Phật Như Lai cất tiếng khen ngợi:
- “Thế
Tôn thật là ít có”. Bạch Đức Phật! Sư Phụ đã nói nghĩa lý Kinh điển sâu sắc như
thế, con từ trước đã được tuệ nhãn, mặc dù được “nhất văn thiên ngộ:, nhưng
chưa từng nghe Kinh điển thâm áo như thế. Tu Bồ Đề lại thưa:
- Thế
Tôn! Con vừa nghe lý thú của Kinh này, trong tự tính thanh tịnh, đã chứng ngộ
rằng mình có thật tướng toàn chơn từ xưa đến nay. Nếu có người nào được nghe
Kinh này, phát tâm nhứt niệm chánh tín, tâm rất thuần chánh, không bị dục trần
mảy may, liền hiện diệu trí tuệ thanh tịnh, sanh tướng “chân thật bất hư”. Đó
là người biết tu, thành tựu được công đứt ít có thứ nhất của chư Phật.
Tu Bồ Đề lại nói:
- Bạch
Thế Tôn! Lý rốt ráo của thật tướng Bát Nhã ấy, không như thái hư, không có hình
tích, nếu ai chấp trước ngộ thật tướng, tức không phải là thật tướng. Do đó,
nên Từ Phụ chỉ nói thật tướng mà thôi.
Lại một lần nữa Tu Bồ
Đề thưa:
- Bạch
Thế Tôn! Con hiện tại được nghe Kinh này, vì từ lâu sau khi chứng được tuệ
nhãn, con rất tin lời chân thật, hiểu lý nhiệm mầu kia, tín phụng tu trì, không
có gì khó khăn cả. Nếu đời sau 500 năm, thời kỳ mạt pháp ác trược, xa cách Từ
Phụ lâu đời, chúng sinh chìm đắm nơi biển khổ, khi nghe được Kinh này mà có
lòng tín giải thọ trì, thì những người ấy thật là minh liễu tự tánh thứ nhất,
rất là dễ tu dễ chứng. Vì sao? Bởi vì người ấy đốn ngộ chơn không, quyết không
có ngã, nhơn v.v…bốn tướng. Khi xa lìa bốn tướng thì những người ấy quyết
đã ngộ được phi tướng nhơn và ngã đều quên. Nếu xa lìa tất cả các tướng, tâm
kia không tịch, tức là được giác ngộ hoàn toàn, cùng với chư Phật đồng đẳng
chính gọi là bậc Phật.
Phật Như Lai bảo ngài
Tu Bồ Đề rằng;
- Như
ông đã nói, sâu hợp lý Phật, sau nếu có ai nghe được diệu pháp Bát Nhã, không
ngờ vực (tâm không thoái chuyển), phải biết những người ấy thật là ít có. Vì
duyên cớ gì thế? Bởi nhờ Ba La Mật thứ nhất mà tôi đã nói: nguyên do các Kinh
cũng đều từ đó lưu xuất. Trí tuệ này đến bờ kia. Nếu còn chấp trước bờ kia, ấy
chẳng qua là đặc danh Ba La Mật thứ nhất mà thôi.
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Phàm cảnh mạ nhục đưa đến, tâm rỗng rang đối xử, không nên giận tức,
loạn diệu trí tuệ của mình. Tâm ta phải đồng như hư không, tức là đến được chỗ
giác. Ấy là nhẫn nhục Ba La Mật. Nhưng chân không bản lai vô tướng, ngoài không
biết nhục, trong không thấy nhẫn, tự nhiên cả hai. Do đó, nên Như Lai thường
nói: Chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, ấy mới gọi là nhẫn nhục Ba La Mật! nói đến
sự nhẫn nhục, như tôi kiếp trước, thời gian bị Vua Ca Lợi cắt đứt thân thể, vì
tâm như hư không, nên không khởi bốn tướng. Sở dĩ được như thế, là vì thời gian
bị cắt đứt thân thể, sự nhẫn nhục đã đến chỗ cùng tột. Thời gian ấy, nếu khởi bốn
tướng, quyết định có lòng oán hận, không thể quên thù, trở thành quả khổ. Làm
sao mà nói là nhẫn nhục? Tôi hồi tưởng lại 500 kiếp thuộc đời quá khứ về trước,
khi làm nhẫn nhục tiên nhơn, thường thật hành hạnh nhẫn nhục.Ở trong đời đó,
chính không vướng quả bốn tướng, nhờ nhiều kiếp đốn ngộ chơn không. Thật sự mà
nói, người đời tu hành không phải một mai, một chiều mà được thành đạt. Cũng
nên biết rằng nhẫn nhục Ba La Mật, thật là cấp thiết trước tiên cho những ai tu
hành trên đường đạo. Quan trọng bước đầu, ta phải phá tâm giận tức, mới xa lìa
bốn tướng, bốn tướng đều không, mới hoàn thành hạnh nhẫn.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Vì duyên cớ nói trên, nên Bồ Tát muốn thành đạo, tâm phải trống rỗng. Xa
lìa tất cả vọng niệm, mới hay phát được đạo tâm vô thượng Bồ Đề; không nên khởi
vọng niệm chấp nơi sắc, cũng chẵng nên khởi vọng tâm trước nơi thanh, hương,
vị, xúc, pháp, phải sanh tâm “vô sở trụ”. Tâm ấy mới là viên thông vô ngại,
thuần chơn không tham dục, tất cả không lãnh thọ sự ràng buộc. Nếu ở trên lục
trần, có một trần bị trụ trước, thì khó mà giải thoát trần lao, tức không phải
là trụ xứ của Bồ Tát. Thế nên, Như Lai tôi thường nói, tâm Bồ Tát xưa nay trống
rỗng nhưng sáng suốt; nếu trụ nơi sắc, thì không thể giác ngộ. Tôi nói: Không
nên trụ sắc bố thí, chính là ý này vậy.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Bồ Tát do không trụ giác tâm này, phát tâm rộng lớn, không những vì mình
mà là vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, phải nên bố thí vô tướng như trên. Tất
cả các hình tướng Như Lai tôi đã nói thì nên xa lìa. Vốn là điểm cốt yếu cho
các vị Bồ Tát giải thoát mà thôi. Kỳ thật bản thể toàn không đều là phi
tướng. Lại nói thêm cho tất cả chúng sanh, cũng là dẫn đạo, cho các vị Bồ Tát
sau khi diệt độ mà thôi. Kỳ thật vọng tâm tự xa lìa, nếu thấy bản tánh, tức là
không còn tánh chúng sinh nữa.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Như Lai tôi nghiệm xét pháp bát nhã đã được, cùng các pháp thế gian
không đồng. Các pháp thế gian không chấp trước bên này thì cũng chấp trước bên
kia. Chơn như vô tướng mà tôi đã nói là không thật; tự tính đầy đủ là không hư.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát tâm trụ trước nói pháp mà làm việc bố thí thì bốn
tướng chưa trừ, như người đi vào trong nhà tối, hôn ám ngăn che, không thấy
được vật gì cả; trái lại nếu Bồ Tát, tâm không trụ nơi pháp, mà làm việc bố thí
đồng với người đã mở mắt Kim Cang, nhìn suốt ngọn đè bát nhã, tánh sáng chiếu
soi bốn phía, suốt thông chơn không, rõ biết tất cả cảnh vật, thấy suốt các thứ
hình sắc.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Dề! Như Lai tôi sau khi diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào, hay đối với
Kinh này, thọ trì đọc tụng, tức đến quả vị Bồ Đề, thành tựu Như Lai tự tánh.
Công đức của các vị ấy, không phải hàng tiểu quả, quyền thừa mà so sánh được.
Chắc chắn cảm ứng đến Như Lai tôi, quyết đem trí tuệ vô thượng mà chiếu giám
(đều biết đều thấy) những người ấy, đều được thấy tánh thành tựu công đức, khắp
thí muôn kiếp, vô lượng vô biên.
Thơ 14
Tu Bồ Đề! Hiểu nghĩa
Kinh,
Khen ngợi lý thú,
quang minh Phật truyền,
Thế Tôn chỉ giáo nghĩa
huyền,
Không lo, không sợ,
ngồi thuyền ba la.
Trở lại Phật chỉ cái
ta,
Nếu ai nhẫn nhục, chắc
là phá tan,
Kể lại sự tích tâm
cang,
Cuối cùng thắng lợi,
thân an tâm thiền!
Ly tướng bố thí diệu
huyền,
Những lời chân thật
hiện tiền kính dâng,
Bố thí, trì tụng trừ
‘sân,
Công đức khó tả, khó
phân cho cùng!
PHẦN CÔNG ĐỨC TRÌ KINH THỨ 15
PHÂN GIẢI:
Phần trước đã nói nhẫn
nhục xả thân, đều là phá ngã chấp. Sau khi phá ngã chấp lại phải suốt ngộ lý
Bát Nhã; trái lại nhẫn nhục xả thân chỉ là lợi ích tầm thường. Nếu chỉ biết xả
thân nhẫn nhục, mà không chịu thọ trì Kinh điển, trở thành anh hùng can đảm thế
gian, đối với chơn tánh khó mà hiển lộ hoàn toàn. Nếu ai hay nhẫn nhục xả thân,
mà cũng hay thọ trì Kinh điển, suốt ngộ cái phi của hai chấp, hai ngã đều diệt,
chắc chắn được công đức pháp tánh, thì không thể nghĩ bàn vậy.
Tu Bồ Đề! Nếu có thiện
nam cùng thiện nữ nào, phần đầu của ngày (sáng) đem
thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng; phần giữa của ngày (trưa) lại
dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng; phần sau của ngày (chiều) cũng
dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng. Như vậy không lường trăm
nghìn muôn ức kiếp, đem thân mạng bố thí; nếu lại có người nghe Kinh điển này,
lòng tin không trái, phước này hơn kia, huống chi chép viết, thọ trì, đọc tụng,
vì người giảng nói. Tu Bồ Đề! Tóm lại mà nói. Kinh này có công đức vô biên, không
thể nghĩ bàn, không thể xứng lượng, Như Lai vì người phát tâm đại thừa mà nói,
vì người phát tâm tối thượng thừa mà nói. Chỉ rõ sự sanh tử, không độ
chúng sinh, gọi là tiểu thừa; những bật duyên Giác, nửa vì người, nửa vì mình,
gọi là trung thừa; Bồ Tát độ khắp tất cả gọi là đại thừa. Còn tối thượng thừa
là thế nào? Là Phật thừa tế độ tất cả các bậc Bồ Tát. Nếu có người hay
thọ trì đọc tụng, rộng vì người giảng nói, Như Lai đều biết người ấy, đều thấy
người ấy, đều được thành tựu công đức không thể lường, không thể xưng, không có
biên giới, không thể nghĩ bàn, những người như thế, thì được gánh vác sứu mệnh
Như Lai, cho đến khi chứng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Gánh
là dùng vai để gánh, vác thì dùng lưng để vác. Nói Vô Thượng Chánh Đẳng là bậc
cao quý. Đạo do người hoằng, xác nhận dùng thân thừa nhiệm, do đó phải thành
tựu được đại công đức vậy.
Vì cớ sao? Tu Bồ Đề!
Nếu người nào ưa pháp quá nhỏ bị chấp trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sinh
kiến và thọ giả kiến, đối với Kinh này, không thể nghe thọ đọc tụng, vì người
giải nói. Tu Bồ Đề! Nơi nào chốn nào, nếu có Kinh này, tất cả trời, người, A Tu
La, trong thế gian, phải lo cúng dường. Phải biết nơi ấy, chính là bửu tháp,
đều phải cung kính, làm lễ đi nhiễu, dùng các hoa hương rải trên chỗ kia.
KHÁI LUẬN:
Phần trước nói đến
công đức trì Kinh được thành tựu, phần này lại dùng pháp để so lường (đây là so
sánh tướng phước huệ lần thứ 4), dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông
Hằng, nhưng không bằng nghe Kinh điển này, lòng tin cùng phước đức không trái
nghịch. Tóm lại mà nói, trì Kinh công đức thù thắng hơn bố thí. Ỳ nói rõ công
vô trụ bát nhã từ nơi nghĩa lý của Kinh. Nếu trừ ngã, nhơn v.v…các việc
cố chấp thì không thể nghe thọ, đọc tụng, vì người giải nói. Như vậy là thế
nào? Nhơn vì tướng phần vì hạng tiểu căn mà thuyết pháp; kiến phần vì bậc đại
căn mà giảng pháp. Tướng phần là nhơn ngã tướng. Kiến phần là pháp ngã tướng.
Người ưa pháp quá nhỏ là thế nào? Là ưa hô hào bẻ không phá tướng, ‘thù bất
tri’ kiến phần hày còn quá nhiều vậy. Kiến phần của mỗi người chưa phá, thì
pháp ngã chấp vẫn còn. Ai còn có pháp ngã chấp, tức là chưa hiểu sâu lý bát
nhã, chưa đạt được tế bát nhã. Tự lợi còn chưa trọn thì làm sao có lợi tha. Vì
thế nên nói phải phá tan bốn ngã tướng v.v…Những ai ưa pháp quá nhỏ, tức là
không thể đối với Kinh này vì người khác giải nói.
Lại nữa, không thể suy
tôn Kinh này có toàn thân Như Lai. Gắng gượng cho mọi người, không luận Tăng,
tín đồ cúng dường ngoại hộ. Điểm chính thọ trì Kinh này là để sáng suốt trong
lòng, cầu đạt đến cảnh giới chí thành vô vọng. Nếu ai thọ trì Kinh này được như
vậy, cúng dường tâm sáng suốt, thì tâm ấy tức là Phật, cần gì phải ngoài thân
tìm Phật. Như Lai chỉ ở trong tự tâm của chính mình mà thôi
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật bảo:
- Tu
Bồ Đề! Nếu có thiện nam tín nữ nào, ở trong một ngày, sáng sớm dùng thân mạng
bố thí nhiều như số cát sông Hằng; đúng ngọ lại dùng thân mạng bố thí nhiều như
số cát sông Hằng; rồi chiều lại cũng dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát
sông Hằng. Những người như thế, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp lâu xa, mỗi
ngày ba thời, đều bố thí như thế, chính mình (các người ấy) sẽ đặng phước đức
bố thí. Nếu lại có người hay dùng tâm không trái nghịch, chánh tín Kinh này,
thì phước đức thù thắng nhiều hơn sự xả thân mạng nói ở trên. Huống chi là tay
viết, miệng tụng, vì người giảng nói ý nghĩa của Kinh, giữ tâm lợi mình lợi
người, chẳng những sáng chói tự tánh của mình, lại còn khiến mọi người thấy
tánh, căn lành thuần thục, lợi ích không cùng tận, sự nhiều phước đức kia, đâu
có thể lấy chi mà so sánh được.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Nói một cách dễ hiểu, công đức xứng tánh mà làm, không thể dùng tâm
nghĩ, miện bàn, không thể nào dùng số nhiều ít xưng lường. Thật là công đức
không có ngằn mé vậy. Phật Như Lai thuyết Kinh này công đức có ngằn mé
hay không? Vì Kim Cang Bát Nhã là bản tính diệu dụng của người đời, là tối
thượng thừa của đại thăng Bồ Tát, không phải là nơi của hàng tiểu quả đạt đến
được. Vì thế nên Phật Như Lai vì khai thông cho hàng đại căn tính, nên nói lý
nhiệm mầu chơn không này; vì khai thông cho những bật tối thượng thừa, nên
thuyết minh pháp Kim Cang Bát Nhã này. Nếu có hạng đại căn tánh, thọ trì Kinh
điển đại thừa này, rộng vì người đời khai phát diệu chỉ, thì những bậc ấy công
dụng đức hạnh thành công cho người gồm cả thành đạt cho mình, không thể xưng
lường, không thể nghĩ bàn, không thể dùng biên tế chỉ bày được. Những bật ấy in
hợp tâm Phật, công đức được thành tựu, chỉ có Phật Như Lai thấy được biết được.
Các vị ấy công đức này đã thành tựu, đầy đủ khả năng đảm nhiệm chánh pháp vô
thượng Bồ Đề của Như Lai. Vì duyên cớ trên, nên các hạng ưa thích pháp quá nhỏ
mọn, hạn thuộc trong chỗ thấy nghe, không khỏi có ngã, nhơn v.v…tư kiến, đối
với giáo pháp tối thượng thừa đại thặng này, liền khởi tâm kinh hãi sợ sệt. Tự
tâm đã không thể yên tịnh, thì làm sao mà nghe thọ đọc tụng vì người giải nói
Kinh này ư?
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Những hàng người đại thặng, mỗi chỗ, mỗi nơi, nói Kinh điển này, hay
khiến người nghe, tâm khai ý giải, căn lành thông cảm, chắc được trời, rồng,
hàng bát bộ, thánh thần đều đến cúng dường, hộ vệ pháp thân. Khắp hiện hoa
quang tam muội, thẳng vào một tòa bảo tháp xá lợi, hay khiến xa gần kính ngưỡng
đảnh lễ, tung rải hoa báu hương thơm, những chỗ trì Kinh này. Ấy là việc cúng
dường chí lý vậy! Có thể nói một người tâm sáng, chư Thiên cùng dường hoan hỷ!
Thơ 15
Có người bố thí thân
dùng,
Trải qua nhiều kiếp
phước trùng trùng lai,
Không bằng trì tụng
những ai,
Vì người giải nói đức
hoài thiên thu.
Nếu ai đọc tụng công
phu,
Như Lai thấy biết
đường tu đắc thành,
Đứng ra gánh vác hạnh
lành,
Vô Thượng Chánh biến
tung hoành mười phương.
Những ai ưa pháp tầm
thường
Bốn phía còn chấp là
đường gian nan,
Chỗ nào xứng lý Kim
Cang,
Chư thiên hoan hỷ,
cúng dàng thường xuyên
PHẦN HAY TỊNH NGHIỆP
CHƯỚNG THỨ 16
PHÂN GIẢI:
Nghiệp chướng là thế
nào? Hoặc là nghiệp, hành động đời trước, hoặc là hành động hiện tại, đều có
thể ngăn che chơn tánh.
Hành động đời trước,
chính là sức nghiệp của đời trước, những hành động thuộc nhiều đời nhiều kiếp
về trước, không thể tính kể. Bởi vì từ vô thỉ kiếp trở lại, những nghiệp đã tạo
đều thu nạp vào ruộng thức thứ tám, gặp duyên phát hiện, quả thuần thục liền
sanh, luân chuyển trong sáu đạo, không bao giờ thôi dứt, hòa hợp vọng sanh, hòa
hợp vọng tử, sinh diệt không thôi, đều là nghiệp lực không thể nghĩ bàn, sức nó
lôi cuốn mạnh mẽ. Trong Kinh có nói: “Nghiệp lực của chúng sanh, nếu có hình
tướng, đầy cả hư không, không đủ chỗ chứa”. Nói như thế để biết nghiệp lực của
chúng sanh vốn thuộc hư vọng, chỉ vì chúng sanh không rõ duy tâm, do đó tạo ra
những nhơn hư vọng, tức là thọ khổ hư vọng. Do đó mà chúng ta rõ được nghiệp
chướng từ xưa đến nay vốn là không, nếu chưa rõ là phải hoàn lại nợ đời trước.
Nói về hành động hiện
tại (hiện nghiệp), tức là đời dữ năm trược này, chúng sinh trả nợ những gì đã
tạo công cộng đời trước, vì nó liên quan đến đời này vậy. Nếu có chúng sanh nào
thọ trì đọc tụng Kinh này, biết rõ tất cả huyễn tướng, đều là “duy tâm sở hiện”,
năm uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, không bị vật chuyển mà hay chuyển được
vật, thì không thọ các khổ hư dối này. Tuy nhiên muốn rõ duy tâm, cần phải sâu
thông Bát Nhã. Nếu thâm nhập được Bát Nhã thì rõ các sự vật đều không, tất cả
hư vọng dứt sạch. Thế nên chỉ có Bát Nhã mới hay tịnh trừ được nghiệp chướng.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Các
thiện nam thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng Kinh này, nếu bị người khinh tiện. Những việc khinh tiện
rất nhiều, hoặc là bị ganh ghét, hoặc sanh tị hiệm, hoặc ôm lòng giận mà gia tâm
phỉ báng, hoặc ỷ thế mà lấn lướt, thậm chí bị gia hại bởi dao, gậy, ngói, đá.
Tất cả đều nằm trong hai chữ khinh tiện. Người ấy đời trước tạo nhiều
tội nghiệp, phải đọa vào đường ác, đời này bị người khinh tiện; (đọc tụng Kinh
này) tội nghiệp đời trước, chắc chắn được tiêu diệt, sẽ chứng đặng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tu Bồ Đề! Tôi nhờ thuở
quá khứ vô lượng kiếp a tăng kỳ, a tăng kỳ dịch âm là tiếng Hoa, dịch nghĩa là
vô lượng số. Ở trước Đức Phật Nhiên Đăng gặp được tám trăm bốn nghìn
muôn ức na do tha các Đức Phật, gặp, ý nói gặp gỡ. Na do tha dịch âm
thành tiếng Hoa, có nghĩa là một muôn muôn, thảy đều cúng dường dâng
thờ, không bỏ qua một vị nào. Nếu lại có người, ở trong đời mạt phát về sau
thường thọ trì đọc tụng Kinh này, thu được công đức, đối với công đức của tôi
đã cúng dường các Đức Phật, trăm phần không bằng một, nghìn muôn ức phần, cho
đến toán số thí dụ cũng không bì kịp.
Tu Bồ Đề! Nếu có thiện
nam và thiện nữ nào, ở trong đời mạt pháp về sau, hay thọ trì đọc tụng Kinh
này, chỗ được công đức, nếu tôi nói đầy đủ, nói đầy đủ chính là
nói rõ ràng, hoặc có người nghe, tâm liền cuồng loạn, hồ nghi không
tin. Tu Bồ Đề! Phải biết nghĩa của Kinh này không thể nghĩ bàn, quả báo cũng
không thể nghĩ bàn
KHÁI LUẬN:
Văn trên nói công đức
trì Kinh như thế nào. Phần này là chỉ rõ công đức trì tụng làm sáng tỏ Bát Nhã,
có lợi ích ly chướng xuất triền; chẳng những diệt tội mà còn được thắng quả.
Chia chẻ mà nói, có hai việc không thể nghĩ bàn:
Một là đời này thọ trì
đọc tụng Kinh này, tội nghiệp đời trước tiêu diệt một cách dễ dàng.
Hai là chẳng những
tiêu diệt tội nghiệp đời trước, lại còn đăng quả bồ đề.
Việc trước chỉ rõ
phước báo không thể nghĩ bàn. Luôn dẫn chứng Phật Như Lai tự Ngài khi chưa gặp
Phật Nhiên Đăng, mặc dù cúng dường vân thờ nhiều đức Phật, nhưng không bằng
người đời sau thọ trì đọc tụng Kinh này, công đức nhiều hơn; đem số muôn ức để
dụ cho trần sa đều không thể nào bì kịp. (Đây là lần thứ năm, dùng công đức
cúng Phật để so sánh với công đức trì Kinh). Lại giải bảy có thiện nam thiện nữ
nào đời mạt pháp về sau thọ trì đọc tụng Kinh này, công đức không có chi sánh
được.
Như Lai cũng vì các
bậc hạ căn nói pháp, do đó không thể nào chẳng nói quả báo khiến họ cảm động.
Nếu đem công đức này, nói ra tất cả thì sợ chúng sinh hiểu lầm đại phước, tâm
bị cuồng loạn, trái với ý chánh trong Kinh, qua đạo lý vô tướng vô trụ, giống
như tin mà không tin, gây thành sự hồ nghi. Do đó nên nói quả báo nghĩa Kinh,
không thể nghĩ bàn, chẳng qua là muốn cho chúng sinh hồi tâm tịch chiếu, nương
theo giáo pháp tu trì, để sáng suốt tự tánh. Nếu đem Kinh điển mà nghĩ bàn thì
trở thành cách ngại.
Tóm lại, Như Lai chỉ
rõ Kinh này, vì một điều làm khuôn phép mà phát tâm Bồ Đề. Đại Bồ Tát phải như
thế mà hàng phục tâm kia, thiện nam tín nữ cũng phải y theo thế đó mà hàng phục
vọng tâm thì chắc chắn không có gì sai khác giữa Phật và chúng sinh.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Mỗi khi có thiện nam thiện nữ đều thường hay thọ trì đọc tụng Kinh này,
chẳng những không được người, trời, cung kính mà lại bị người khinh tiện là vì
cớ sao? Đó chính là do các vị đó đời trước có tội nghiệp lớn. Đã có tội nghiệp
thời đời sau phải bị vào ba đường ác là địa ngục, quỷ đói, và súc sanh, chịu
khổ không cũng tận. Đời nay, nhờ công đức trì Kinh, giảm bớt tội nghiệp kia,
rồi bị người khinh tiện, đó là việc phải có. Tu trì dần dần, trừ được quả hiện
tại, tội diệt phước sanh, tự nhiên sẽ chứng được Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bổ Đề! Tôi nhớ nghĩ đến đời trước xa xưa, trải qua số kiếp không lường. Trước
khi chưa gặp đức Phật Nhiên Dăng, tôi đã từng cúng dường vô số đức Phật, nỗi
đức Phật đều tự như, đều thành tâm chuyên ý cúng dường, số nhiều không thể tính
kể. Thế mà đời sau có những người đối với Kinh này thọ trì đọc tụng, thấy được
bản tánh của họ, dứt được sự luân hồi, đem công đức ấy so sánh với Như Lai tôi
trước kia về công đức cúng dường, lại thù thắng hơn xấp muôn muôn lần.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Nếu có thiện nam tín nữ nào, ở đời rốt sau thường thọ trì đọc tụng Kinh
này, quyết được công đức vô lượng không nghi. Đây là những lời Như Lai tôi lược
nói, nếu nói rộng thì công đức ây bao trùm cả trời đất, số lượng hơn số cát
sông Hằng; sợ những người hạ căn nghe đến, tâm tánh bị cuồng loạn, những bật
căn tánh khá thì lại sanh lòng hồ nghi, lại cho lời của tôi nói là quá đáng mà
ngạc nhiên than thở.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Phải biết công đức, do nơi nghĩa Kinh, mà được quả báo. Nghĩa Kinh rất
là cao siêu, khó mà suy lường, quả bảo rất là trọng yếu, không thể nào nói cho
hết.
Thơ 16:
Những ai đọc tụng hữu
duyên,
Dù bị khinh tiện, tội
khiên đã làm,
Trì Kinh dứt sạch lòng
phàm,
Sẽ đặng chứng quả độ
hàm linh căn!
Xưa tôi ở trước Nhiên
Đăng,
Cúng dường chư Phật
như hằng hà sa,
Có người mạt thế lâu
xa,
Trì Kinh công đức hơn
ta rất nhiều!
Mạt thế trì tụng biết
điều,
Nói lắm sợ kẻ đăm
chiêu hồ nghi.
Tu Bồ Đề thật trí tri,
Nghĩa Kinh, quả báo
khó ghi tận tường.
PHẦN CỨU KÍNH VÔ NGÃ
THỨ 17
PHÂN GIẢI:
Ngài Tu Bồ Đề đối với
ý trụ tâm và hàng phục tâm, thô trần đã dẹp, tế hoặc khó dung. Đến đây lại
trình bày thỉnh trước, muốn đặng đạo lý trụ tâm và hàng phục tâm rốt ráo. Do
đó, nên đức Phật hoàn toàn dùng những việc trên thân mình để khai thị, khiến
mọi người biết nhân không, pháp không, rốt ráo là vô ngã vậy.
Lúc bấy giờ, ngài Tu
Bồ Đề lại bạch Phật rằng:
- Thưa
Thế Tôn! Có thiện nam và thiện nữ, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
thế nào phải trụ, làm sao hàng phục vọng tâm?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
- Có
thiện nam cùng thiện nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải sinh
tâm như thế nầy, ta nên diệt độ cho tất cả chúng sinh, diệt độ tất cả chúng
sinh rồi, nhưng không có một chúng sinh nào thật diệt độ.
- Vì
cớ sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát còn có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sinh tướng và
thọ giả tướng, tức không phải là Bồ Tát. Lý do vì sao? Tu Bồ Đề! Thật không có
pháp gì chắc thật để phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hay không?
- Bạch
Thế Tôn không. Như con đã hiểu Phật đã nói nghĩa đó, khi Thế Tôn ở chỗ Phật
Nhiên Đăng, không có đặng pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật nói:
- Đúng
như vậy, Tu Bồ Đề! Thật không có pháp nào để Như Lai chứng đặng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nếu có pháp để Như lai chứng đặng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Phật Nhiên Đăng tức không thọ ký cho tôi, ở đời sau, sẽ được
thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca dịch âm tiếng Phạn Sakya,
Trung Hoa dịch là Năng Nhân. Mâu Ni cũng dịch âm từ Phạn ngữ Muni, Trung Hoa
dịch là Tịch Mặc. Vì thật có pháp để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, thế nên Phật Nhiên Đăng cùng tôi thọ ký nói rằng: Ông ở đời sau, sẽ đặng
làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Vì cớ sao? Như Lai tức là các pháp đúng như
nghĩa.
Nếu có người nói, Như
Lai chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Thật không có pháp để
Phật chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Như lai đã đặng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong đó không thật không hư. Thế nên Như Lai
nói tất cả pháp đều là Phật Pháp. Tu Bồ Đề! Đã nói tất cả pháp, tức không phải
tất cả pháp. Ấy mới gọi là tất cả pháp. Tu Bồ Đề! Thí như thân người cao lớn.
Tu Bồ Đề nói:
- Bạch
Thế Tôn! Như lai thường nói thân người cao lớn, tức là không phải cao lớn, mới
gọi là cao lớn! Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng như thế, nếu nói thế nầy, ta sẽ diệt độ
vô lượng chúng sinh, tức không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Tu Bồ Đề! Vì thật không
có pháp gì gọi là Bồ Tát. Thế nên Phật nói tất cả pháp, không ngã, không nhơn,
không chúng sanh, không thọ giả. Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nói như thế nầy, ta sẽ
trang nghiêm cõi Phật, tức không phải trang nghiêm, ấy mới gọi là trang nghiêm.
Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát thông suốt có ngã, pháp, Như Lai nói ấy mới gọi là Bồ Tát.
KHÁI LUẬN:
Tu Bồ Đề! Cho đến lúc
nầy nghe Phật giảng nói nghĩa Kinh, và lời hộ niệm phú chúc cho các vị Bồ Tát,
rất là rõ ràng. Hiện tại lại hỏi các thiện nam, tín nữ, phát tâm Bồ Đề, làm sao
hàng phục vọng tâm. Những kiến chấp thánh phàm chưa dứt, đối với tất cả chúng
sanh tức là nghĩa phi chúng sinh, lại chưa được triệt ngộ. Hơn nữa, nghe Như
Lai vì những người phát tâm đại thừa mà nói, vì những ai phát tâm tối thượng
thừa mà nói, luôn cả các thiện nam, thiện nữ, các thứ công đức trì Kinh, nghĩa
Kinh và quả báo không thể nghĩ bàn. Liên tưởng đến các thiện nam cùng thiện nữ
phát tâm bồ đề, không thể nào mà không thọ trì Kinh nầy.
Nhưng hiện tại và đời
sau, các thiện nam tín nữ chưa được thân thừa các diệu pháp đã nói từ trước, vị
tất đã lãnh hội những lời nói về đại thừa và tối thượng thừa nói trên. Nếu khi
phát tâm bồ đề nầy, phải hàng phục vọng tâm như thế nào? Câu hỏi nầy ý chánh đã
hỏi trong phần thứ hai của bản kinh nầy. Tự độ, độ tha, một tấm lòng rộng lớn,
ở nơi đây có thể nhận thấy. Do đó, nên Phật Như Lai mới dùng vô pháp phát tâm
đề, đoạn trừ pháp nghi của Ngài Tu Bồ Đề.
GIẢNG NGHĨA:
Trong thời gian nầy,
Ngài Tu Bồ Đề đương cơ hướng về Đức Phật Như Lai xin hỏi:
- Thiện
nam, tín nữ nào đã phát tâm bồ đề, làm sao hay khiến tâm bồ đề thường trú? Làm
thế nào hàng phục được vọng niệm?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
- Tâm
Bồ Đề xưa nay đầy đủ, đương thể hiện thành, chẳng qua chỉ vì chúng sinh, bị
trần nhiễm ngăn che. Thiện nam, tín nữ nào đã phát tâm bồ đề, lòng ham muốn
chấm dứt, lý mới trở về chơn ngã. Đó là trụ tâm, ấy là hàng phục được tâm,
không cần cầu việc gì hơn nữa (phải sanh tâm như thế). Như tất cả chúng sanh,
phiền não, vọng tưởng, thủ xả, nhơn ngã, tham giận, ganh ghét, các loại trong
bốn tướng. Như Lai tôi phải dùng nhiền phương tiện để trừ diệt và độ thoát.
Nhưng Như Lai tôi thường nói diệt độ, chẳng qua chỉ điểm chơn tán, khiến chúng
sanh tự ngộ, trong không thấy ngã tướng hay độ. Bởi vì chúng sinh đã thấy chơn
tánh, đã diệt độ rồi thì bát nhã quán chiếu thường trú không diệt; nói một cách
rốt ráo, thật không có một chúng sanh nào được tôi độ cả. Vì duyên cớ gì thế?
Bởi vì Bồ Tát học đạo, nếu còn tâm nhờ Như Lai tôi diệt độ, thì in tuồng như
bốn tướng chưa trừ, tức từ đâu mà phát tâm Bồ Đề? Lam sao xưng là Bồ Tát?
Đức Phật lại bảo Tu Bồ
Đề:
- Chính
là tánh vốn không tịch, hồn nhiên thiên nhiên, ai phát tâm nầy, chẳng qua là tự
tu tự ngộ mà thôi! Trong chơn tánh, thật không có pháp phát tâm Bồ Đề.
Đức Phật nói tiếp:
- Ý
ông nghĩ như thế nào? Như Lai tôi khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, có pháp gì đặng
tâm bồ đề nầy không?
Tu Bồ Đề đáp:
- Thế
Tôn không có pháp đặng tâm bồ đề nầy, đó là đạo lý mà Từ Phụ thường nói. Từ Phụ
khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, tự tánh tự ngộ, đều không có pháp gì chứng đặng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
- Đúng
như vậy! Phật nói, Tu Bồ Đề! Như Lai tôi, thời gian ấy, các hạnh đã tu, thật
không đặng pháp bồ đề.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Nếu nói có phương pháp chứng đặng bồ đề, thì Phật Nhiên Đăng không cùng
tôi thụ ký, tương lai sẽ được truyền trao phương pháp thành Phật. Lại nữa làm
sao ký đời sau sẽ được làm Phật ư? Thật tại nhân vì không có pháp gì chứng đặng
bồ đề cả. Vì thế, nên Phật Nhiên Đăng, mới cùng tôi trao lời thọ ký, dự định
đời sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ông có biết ý nghĩa của Như Lai
không? Như Lai là bản tính trạm nhiên, không nhiễm không trước, như như bất
động, nên gọi lài Như Lai. Thản như người không biết dụng ý ấy, lầm nói là Như
Lai tôi, riêng có pháp có thể đặng Bồ Đề.
Ngài dạy thêm:
- Như
Lai tôi đã đặng bồ đề là bình đẳng chân như, diệu pháp thật tướng, không thể
dùng sắc tướng mà thấy, không thể dùng lời nói mà cầu. Vì thế, nên Như Lai tôi
nói trong các pháp, hay tự ngộ chơn như, đều là Phật Pháp.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Song các pháp không thể đắm chìm trong cái đó. Nói rằng tất cả pháp,
chẳng phải thật có đối với tất cả sự vật. Đó chỉ là giả danh mà gọi là tất cả
pháp mà thôi.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Ví như thân người cao mà lại lớn, đó có thật lớn hay không?
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Ví như thân người cao ma lại lớn, đó có thật lớn hay không?
Tu Bồ Đề thưa:
- Bạch
Thế Tôn! Pháp thể thanh tịnh, lượng của nó như hư không như hư không, mới gọi
là lớn. Đức Từ Phụ thường nói thân lớn, nó có sinh diệt, lại có hạn lượng, làm
sao cho là lớn, chẳng qua là giả danh để gọi mà thôi.
Phật dạy thêm:
- Bồ
Tát cũng như thế, thanh tịnh chơn như, gọi là Bồ Tát. Độ sinh là bổn phận của
Bồ Tát, nếu nói ta là Bồ Tát, phải diệt độ tất cả chúng sinh, thế là đã có ngã
tướng, không phải là Bồ Tát. Ấy là thế nào?
Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Chỉ có sự thanh tịnh, gọi là Bồ Tát, thật không có pháp gì khác mà gọi
là Bồ Tát. Do đó, nên Như Lai tôi nói trong tánh không có bốn tướng, chơn tánh
không không suốt suốt, chẳng những không chúng sanh, mà không có chỗ nào gọi là
Bồ Tát, nên biết lại không có chỗ nào gọi là diệt độ.
Đức Phật lại dạy:
- Tu
Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nói, ta sẽ trang sức nghiêm chỉnh cõi nước của Phật, ấy là
còn trước có tướng, không được gọi là Bồ Tát. Vì lẽ đó mà Như Lai tôi nói trang
nghiêm cõi Phật, chẳng phải trang nghiêm bên ngoài, chẳng qua là trang nghiêm
giả danh mà thôi.
Đức Phật lại dạy thêm:
- Tu
Bồ Đề! Nếu buông bỏ đại triệt đại ngộ, nhơn không pháp không, rỗng nhiên vô
ngã, thân ta đã không làm gì có tâm trang nghiêm độ sanh. Như thế thật là Bồ
Tát.
Thơ 17:
Tu Bồ Đề bạch Phật
thương,
Làm sao an trụ, khỏi
vương vọng trần?
Phật dạy giải toải dần
dần,
Rồi mới đi đến toàn
phần chứng chơn.
Xưa kia nhờ đó ta hơn,
Nhiên Đăng thụ ký,
Năng Nhơn ta bà,
Tâm ai còn chấp Phật
Đà
Vô Thượng Chánh Đẳng
ắt là khó thông!
Vì thế Phật nói chơn
không,
Khiến cho sinh chúng
đại đồng thân tâm,
Loài người, cõi Phật
thậm thâm,
PHẦN NHỨT THỂ ĐỒNG
QUÁN THỨ 18
PHÂN GIẢI:
Đây nói tâm, Phật cùng
chúng sinh cả ba không sai khác. Lìa chúng sanh không có Phật, lìa Phật không
có chúng sinh, lìa tâm cũng không có chúng sanh và không có Phật. Trong tâm
chúng sanh đều có Phật tánh, rồi qua lại sáu đường, tùy nghiệm mà lưu chuyển. Trong
biển tánh của Phật vốn có chúng sinh, mà bao la muôn loài, tùy duyên bất biến.
Danh tuy có chia phàm thánh, sự thật thể chỉ có một mà thôi. Chỗ sai khác đó,
là tại vì chúng sinh, theo nghiệp dời đổi, rồi bỏ quên bản thể. Chư Phật không
bị nghiệp chuyển vì đã liễu ngộ được chân tâm. Chỗ vi tế chuyển cùng không
chuyển kia là do mức độ biết được chơn tâm, vọng tâm tới mức độ nào. Ngộ thì
toàn tướng thành tánh, tức chỗ vọng thất chơn. Mê thì toàn tánh thành tướng,
tức là chỗ chơn khởi vọng. Chơn vọng đồng thời, chẳng phải một, chẳng phải
khác. Nói nhứt thể đồng quán, tức là nói chúng sanh Phật tánh sẵn có, cùng với
Phật không hai không khác. Phật biết chúng sinh đồng thể, nhơn đồng thể mà khởi
ra lòng đại bi.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có nhục nhãn không?
- Như
thế, bạch Thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có thiên nhãn không?
- Bạch
Thế Tôn! Như Lai có thiên nhãn.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có huệ nhãn không?
- Đúng!
Bạch Thế Tôn! Như Lai có huệ nhãn.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có pháp nhãn không?
- Như
thế! Bạch Thế Tôn! Như Lai có pháp nhãn.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có Phật nhãn không?
- Chính
vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai có Phật nhãn.
Trong Kinh thường nói:
Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, và Phật nhãn. Gọi chung là ngũ
nhãn. Ấy là minh giác trong bản tính. Phàm thấy hình sắc của chúng sinh đầy đủ
là nhục nhãn, sắc thân tự có nhục nhãn. Phàm thấy cả đại thiên thế giới, huệ
tánh chiếu soi, yến sáng thâu nhiếp cả nghìn sa giới, gọi là thiên nhãn. Phàm
thấy được tự tính bát nhã, trở lại soi sáng bên trong, đuốc trí thường minh. Ấy
gọi là huệ nhãn. Phàm thấy các pháp đều không, rõ sự vật chẳng có, suốt thông
cả thế giới, gọi đó là pháp nhãn. Phàm phóng hào quang sáng chói phá các tối
tăm, thường chiếu chơn tánh, trên từ chư thiên, dưới đến địa ngục, mảy may
không chướng ngại, ấy gọi là Phật nhãn.
Lục phàm chúng sinh,
đều đủ năm thứ con mắt nầy, cùng Phật không hai. Vì bị bốn tướng, sáu trần ngăn
che, chỉ có nhục đoàn nhãn hiển lộ mà thôi. Sách Nho nói: “Tim thánh nhơn có
bảy lỗ”, tức là chỉ cho ngũ nhãn vậy.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như trong sông Hằng đã có cát, Phật hỏi cát ấy
có thật hay không?
- Bạch
Thế Tôn! Đúng như vậy. Như Lai nói có cát ấy.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như trong một sông Hằng đã có số cát, số cát
trong sông Hằng như thế, cát trong sông Hằng, dùng một hạt cát so sánh
một sông Hằng, so sánh hết cát kia, số nhiều của sông Hằng đã là vô lượng, đem
vô lượng sông Hằng để so sánh thế giới. Một hạt cát so sánh một thế giới, mỗi
thế giới đều có 3.000 đại thiên thì thế giới lại thành vô lượng vô biên. Thế
giới Phật nhiều như số cát trong những sông Hằng. Thế giới Phật, trong
3.000 đại thiên, quyết có một đức Phật thi thiết giáo hóa, nên gọi đó là thế
giới Phật. Như vậy có nhiều hay không?
- Bạch
Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
- Trong
các cõi nước ấy, đã có chúng sinh, có bao nhiêu loại tâm, Như Lai đều biết. Vì
sao? Vì Như Lai nói các tâm, đều là phi tâm, ấy mới gọi là tâm. Phi
tâm là tâm thể của người, xưa nay nó thanh tịnh, tất cả vọng niệm do trong hỷ,
nộ, ai, lạc, ái, ố, bi sinh ra, đều không phải tâm bản nhiên, nên gọi là phi
tâm. Lý do vì sao? Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ, không thể đặng; tâm hiện tại,
không thể đặng và tâm vị lai cũng không thể đặng. Suy nghĩ việc trước
là tâm quá khứ, suy nghĩ việc bây giờ là tâm hiện tại và suy nghĩ việc sau là
tâm vị lai. Không thể đặng, chính là ý nói bản lai không có
KHÁI LUẬN:
Văn trên phá pháp chấp
cùng ngã chấp, kết thành thông đạt không ngã pháp; không nói là “vô pháp” mà
nói là “vô ngã pháp”, thì biết rằng diệt pháp là ngoan không,
không đủ để nói diệu giác tròn sáng. Pháp chấp thì trụ tướng cũng không đủ để
nói diệu giác tròn sáng. Nói ngã, pháp thế nào? Pháp chẳng phải có nhưng không
rơi vào hư không, pháp chẳng phải không, song dính líu với tích môn; như vậy biết
là “phi pháp” và “phi phi pháp”. Ai thông suốt nghĩa thật tướng
kia, nhưng phải quên là “phi pháp và “phi phi pháp”. Những
cảnh giới ấy, không đủ khả năng quán lại chiếu soi bên trong thì khó mà biết
chỗ nhiệm mầu của nó. Do đó, nên phần căn bản dùng năm loại mắt, quán sa – giới
đặt thành câu hỏi. Muốn quán người, trước phải quán ta, quán sát thấy ta xưa
nay tánh giác thanh tịnh, rồi nhận rõ tâm bồ đề nầy, tức là đạo tâm vậy. Quán
sát thấy ta, sau khởi ý niệm lăng xăng, tức là biết không phải tâm bồ đề
nầy cũng tức là tâm người phàm mà thôi.
Chúng sinh ở thế giới
hằng sa, đều đủ có Phật tánh, cho nên gọi là Phật thế giới. Đức Phật quán sát
mình rồi quán sát người, thì thấy chúng sinh nhứt thể; cho nên, nói bao nhiêu
thứ tâm, Như Lai đều biết. Chúng sinh chạy theo tâm vọng, bỏ mất đạo tâm chính;
cho nên nói đều là phi tâm, ấy mới gọi là tâm. Các thứ tâm ở quá khứ, hiện tại
và vị lai, đều là vọng tâm. Trong tánh giác xưa nay, không có các vọng nầy.
Tóm lại, tâm thể chân
thật, linh minh của nó có trước trời đất, mỗi người đều có đầy đủ: “Vô cực”. Tâm
đó xưa nay thanh tịnh vô vi, nhưng sau đó lại bị trần lao che lấp; muốn người
trong cõi nầy phân biệt tâm người và tâm đạo, không có công quán chiếu giác sát
thì không thể được. Năm thứ mắt, mắt có đủ thần diệu giác sát; phi giác sát,
không thể thông suốt “vô ngã pháp”.
LỜI PHỤ THUỘC
Ngài Đức Sơn Đại Sư,
nghiên cứu tinh thông tạng luật, thông suốt các kinh tánh tướng. Điểm chính
Ngài thường giảng Kinh Kim Cang Bát Nhã, rất là đắc ý. Đức Sơn Đại Sư họ Châu,
người đời thường gọi là Châu Kim Cang. Ngài thường nói với bạn đồng học rằng:
“Một mảy lông có thể thôn tính biển cả, hạt cải để trên mũi nhọn, mũi nhọn bén
không động, học cùng chẳng học, chỉ có ta mới biết mà thôi”. Lời nói bí yếu
trên, khiến đồng học thán phục một thời. Lúc bấy giờ ở phương nam nhiều vị mới
tu chạy theo thiền tông, Đức Sơn Đại Sư có vẽ bất bình, Ngài nói: “Sa môn nghìn
kiếp phải giử đủ oai nghi học Phật, muôn đời phải đủ tế hạnh học Phật. Huống
chi học còn không được thành Phật. Ma tử ở phương nam kia dám nói câu thẳng chỉ
lòng người, thấy tánh thành Phật. Ta sẽ đến quét sạch hào huyệt kia, diệt ý
kiến đó, để trả ơn đức Phật.”
Lúc ấy, Ngài mang tập
Kim Cang Sớ Sao, ra khỏi nước Thục, sang đến đất Phong Dương. Đi giữa đường bị
đói, bị khát. Thấy có một tiệm trà, bà cụ đang bán bánh. Đức Sơn Đại Sư
đến trong tiệm mua bánh, nước để ăn uống. Bà cụ trong tiệm trà chỉ tập
Kinh, rồi hỏi đó là vật gì?
Đức Sơn Đại Sư đáp:
- Đây
là tập Kim Cang Sớ Sao.
Bà cụ hỏi rằng;
- Ngài
thường giảng Kinh gì?
Đại Sư đáp;
- Tôi
thường giảng Kinh Kim Cang
Bà cụ nói:
- Tôi
có một câu hỏi, nếu sư đáp được thì tôi xin cúng dường buổi điểm tâm này, nhược
bằng trái lại thì xin Ngài rời sớm chốn nầy.
Đức Sơn Đại Sư xin bà
cụ hỏi. Bà cụ lại hỏi:
- Tâm
quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai cũng không thể
được mà trong Kinh Kim Cang đã nói, không biết ý của sư sẽ điểm tâm nào?
Đức Sơn Đại Sư nghe
câu hỏi nầy, không thể nào đáp một cách dứt khoát, nên mang hành lý ra đi. Sau
đó Đại Sư đến chùa Sùng Tín, xứ Long Đàm, hết sức tinh tiến học hỏi và thật
hành Phật Pháp, một hôm Ngài được đại triệt đại ngộ. Lục tổ đã nói: “niệm
trước, niệm sau và niệm hiện, mỗi niệm không bị nhiễm tà kiến”. Ngài Trương
Chuyết cũng nói: “Một niệm không sanh toàn thể hiện”. Nhơn thuộc phi tâm, cho
nên phải gọi là tâm. Nếu biết tâm thể tịch tịnh, vốn không một vật, thì quá
khứ, hiện tại và vị lai, cũng không can hệ gì, thì đâu có mấy loại tâm, làm gì
có tên thật để mà gọi ư?
GIẢNG NGHĨA;
Đức Phật bảo ngài Tu
Bồ Đề
- Ý
ông nghĩ như thế nào? Như Lai tôi có nhục nhãn không? Có thiên nhãn không? Có
pháp nhãn không? Có Phật nhãn không?
Tu Bồ Đề đáp;
- Vâng,
bạch Thế Tôn, Như Lai có đủ ngũ nhãn.
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như số cát sông Hằng, đem một hạt cát, so như
một sông Hằng, tính hết số cát đó, so với thế giới chư Phật, thế giới chư
Phật có nhiều như số cát sông Hằng không?
Tu Bồ Đề đáp:
- Rất
là nhiều, bạch Thế Tôn!
Đức Phật lại bảo ngài
Tu Bồ Đề
- Không
luận là nói các thế giới xa nhiều như số cát sông Hằng; chính là gần nhứt, như
trong quốc độ mà các ông đang ở, đã có những tâm của chúnhu1ninh, theo vọng
tình mà thay đổi,chạy theo ngoại cảnh mà sanh vọng tâm, điên đảo mộng tưởng,
mỗi loại vọng tâm đều không đồng nhau. Như Lai tôi dùng năm loại mắt thanh
tịnh, đều thấy và biết hết. Ấy là nhờ duyên cớ nào? Như Lai tôi đã nói tất cả
tâm, đều là vọng tâm của chúng sinh, không phải trong tính không có chơn tâm
thường trú, biết nó không phải là tâm vọng tưởng hẳn, mới hay hiện bản thể bồ
đề. Như thế mới có thể gọi là tâm. Đó là duyên cớ gì?
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Như Lai tôi, cái phi tâm đã nói, ấy là chơn tâm thường trú, tịch nhiên
không động, vật đến thì giác ngộ. Quá khứ không có tâm lưu lại, hiện tại không
có tâm chấp trước, vị lai không có tâm dự kỳ, xét lại bên trong, thì cả ba tâm
đều không thể được. Biết kia không thể được thì bát nhã xuất hiện thanh thanh
tịnh tịnh. Nhờ đó, tâm người tịnh thì tâm đạo sanh; đây mới là chân tâm bồ đề.
“Nhất thể đồng quán” vậy.
Thơ 18:
Tu Bồ Đề! Ngũ nhãn
tôi:
Ông thấy có thật trong
đời nầy không?
Thiện hiện lời đáp rất
thông,
Tất cả đều có ngoài
trong tinh tường.
Thế giới Phật quốc so
lường,
Sông Hằng số cát tỏ
tường nào hơn,
Bồ Đề bạch Phật tánh
chơn
Hai bên so sánh Phật
hơn quá nhiều!
Xét về tâm thức một
chiều,
Ba thời không có là
điều như nhiên,
Phi tâm Phật dạy
thường xuyên,
Kim Cang tánh đức đại
viên muôn loài.
PHẦN PHÁP GIỚITHÔNG
HÓA THỨ 19
PHÂN GIẢI:
Pháp giới tức là mười
pháp giới. Thông hóa là trí sáng thông suốt pháp giới, đưa vào hóa cảnh vậy.
Phần trước nói ba tâm không thể được, đã nói tâm không thể được, thì phước
không cần gì phải tu. Đây lại sợ người đời hiểu lầm, nên nói diệu lý phước mà
không phước, đặng mà không đặng. Bởi vì phước mà không phước, mặc dù bố thí, mà
quên sự bố thí. Đặng mà không đặng là sao? Là tuy có năng có sở, nhưng quên cả
năng lẫn sở. Đại phàm trụ tướng bố thí đều là công dụng hữu vi, không trụ tướng
bố thí, tức là công dụng vô vi. Phước hữu vi có ngày hưởng hết, phước vô vi,
thời gian vĩnh viễn không cùng tận. Một bên là chỗ sở hành của vọng tâm, một .
bên là chỗ kiến tánh của chơn tâm. Phần thứ 8 ở trên nói về bố thí bảy món báu,
không bằng thấy tánh là nhiệm mầu. Phần thứ 11 nói bố thí bảy báu, không bằng
trì Kinh này là thú thắng. Bởi vì trụ tướng là nhơn hữu lậu, nghiên cứu kỹ
không thể nào đặng quả vô lậu vậy. Chỗ cao siêu của Bát Nhã, ấy là phước đức
không thật tánh, ở trong không ngã, pháp, thông suốt vô ngại, sáng chiếu thật tế
chơn không, thông hóa cả pháp giới, vô lượng vô biên vậy.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Nếu cò dùng bảy thứ quý báu, đầy cả 3.000 đại thiên thế
giới, để mà bố thí, người dùng nhân duyên ấy, được phước nhiều không?
- Bạch
Thế Tôn! Như thế! Người đó dùng nhân duyên ấy được phước rất nhiều.
- Tu
Bồ Đề! Nếu phước đức có thật, Như Lai không nói được nhiều phước đức, vì phước
đức nó không, phước đức không, tức là tâm lượng như hư không, nên đặng
phước không lường. Như Lai mới nói được nhiều phước đức.
KHÁI LUẬN:
Phần này là lần thứ 6,
dùng bảy thứ quý báu bố thí, so lường với công đức trì Kinh. Trước nói chỗ được
phước đức. Ấy là phước đức hữu tướng. Đoạn văn này nói về phước đức ly tướng.
Luận về đặng phước, tất có nhân duyên, có nhân duyên gì, tức là có phước ấy. Dù
nếu có người, lấy tâm không thể đặng làm nhơn, dùng của báu đầy đại thiên thế
giới làm duyên, bố thí đến mọi người, thì trong tâm có trụ trước nhân duyên;
lại trụ nơi tướng hữu vi, cho là phước đức thật có (đây là gồm cả tài thí cùng
pháp thí). Phật Như Lai đối trị ý này không nói được nhiều phước đức. Nên dùng
tâm không làm nhân, thí của báu làm duyên, không trụ trước thì được nhiều phước
đức, không thể so lường được. Tóm lại phần căn bản trước đã nói tâm không thể
được, sợ chúng sinh đời sau, hoặc nghi phước không thể tu, nên dùng phước vô
phước, rất là phá hại. Liền nói nhân duyên bố thí, phước do trồng bên ngoài,
không bằng phước huệ song tu, phước huệ tự tính liền sanh một cách huy hoàng.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật bảo:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Nếu có người dùng bảy thứ quý báu đầy cả 3.000
đại thiên thế giới, đem ra bố thí. Người ấy dùng của này làm nhân duyên, trồng
dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu (nhơn hữu lậu). Người đó sẽ đặng quả phước đức
có nhiều không?
Tu Bồ Đề đáp:
- Bạch
Thế Tôn! Người ấy nhờ nhơn duyên bố thí, phước đức rất nhiều.
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Nếu đem phước đức hữu tướng cho là thật mà làm việc bố thí, thì tâm hồn
bị đắm trước về phước, phước báo kia có hạn lượng, Do đó, nên Phật Như Lai
không nói được nhiều phước đức. Phước đức mà Như Lai đã nói đến là bố thí không
trụ tướng, dùng tâm không cầu phước (phước tánh vốn không, đức từ huệ phát
sinh) mới là công đức vô vi thanh tịnh. Thế nên, Như Lai nói phước đức rất
nhiều.!
Thơ 19:
Tu Bồ Đề! Nên xét soi,
Người đem cua báu cho
loài hàm linh,
Nhơn duyên, phước đức
phát sinh,
Bao nhiêu thắng lợi
xin trình bấy nhiêu!
Bạch Thế Tôn! Phúc rất
nhiều,
Như Lai thường dạy
những điều cao hơn,
Phước đức vô tướng
toàn chơn,
Dung thông tánh tướng,
Linh Sơn hiện bày.
PHẦN LY SẮC LY
TƯỚNG THỨ 20
PHÂN GIẢI:
Trong Kinh văn nói:
Các tướng là phi tướng, nói đi nói lại hai, ba lần. Đến đây nói ly sắc ly
tướng, cùng văn trước lại sâu sắc hơn một tầng. Trước nói các tướng phi tướng là
khiến cho người phá “tướng phần”. Sau đó, nói một đoạn rốt ráo vô ngã là phá
“kiến phần” vậy. Tướng phần thuộc về sắc. Kiến phần thuộc về tâm. Tâm này là
vọng tâm hay suy xét sự lý, vọng tâm này không thể hàng phục, mỗi thời gian vin
níu với sáu trần giả cảnh, tức là pháp trần lưu ngại. Tu Bồ Đề đã đặng huệ nhơn
không, biết 32 tướng là phi tướng. Rõ đặng kiến tướng phi chơn là phá kiến vậy.
Nhơn, pháp, đều không, sắc tâm đều bỏ, tức là ngộ được phi không, phi sắc, lý
chẳng phải một, chẳng phải khác. Bởi vì sắc tâm hai pháp, đối đãi nhau mà có,
lìa đó là không được, tức đó cũng chẳng được. Nếu nói ly tướng, thì sắc thân
chưa từng chẳng phải là pháp thân. Nếu nói tức tướng, thì người nói pháp không
phải là sắc thân. Pháp thân chân chánh không thể dùng tức tướng kiến, cũng
không thể dùng ly tướng kiến. Tức tướng kiến gọi là trụ tướng. Ly tướng kiến
gọi là đoạn diệt. Nếu tức tướng mà không trụ tướng, ly tướng không sa vào đoạn
diệt, ở trong tướng ngộ phi tướng kia, ở trong ngộ phi sắc kia. Thì đó là diệu
lý thật hiểu biết lý tướng ly sắc vậy.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Phật có thể dùng đầy đủ sắc thân thấy được
không? Đầy đủ là tròn đầy thành tựu, ý nói mảy may không kém thiếu.
Sắc thân là ý nói 32 tướng tốt.
- Chẳng
như vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai không thể dùng đầy đủ sắc thân mà thấy được. Vì
sao? Vì Như Lai thường nói đầy đủ sắc thân, tức không phải đầy đủ sắc thân. Ấy
mới gọi là đầy đủ sắc thân.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có thể dùng đầy đủ các tướng mà thấy được
không? Đầy đủ các tướng, thần thông biến hóa, không những là 32 tướng
tốt.
- Bạch
đức Thế Tôn! Không phải như vậy. Như Lai không thể dùng đầy đủ các tướng mà
thấy được. Vì sao? Vì Như Lai nói các tướng đầy đủ, tức không phải đầy đủ. Ấy
mới gọi là các tướng đầy đủ.
KHÁI LUẬN:
Phần thứ 5 trước là
muốn cho mọi người thấy Như Lai vô tướng. Phần thứ 13 đã nói, cùng với kia thấy
sự giả có của 32 tướng, không bằng trì Kinh thấy tánh là chơn. Trong phần này
nói chẳng những 32 tướng là giả có, tức là thần thông biến hóa cũng không phải
là tướng chân thật. Tóm lại, phần này cùng với phần thứ 5 và phần thứ 13 ý
tướng đồng, chẳng qua là ý có cạn có sâu mà thôi. Dụng ý phải nêu hai điểm như
sau:
1) Nói
Phật không tướng mới thấy, sợ e trong hàng đệ tử, nghi ngờ cho rằng đã không
thân tướng, thì ai đã thuyết pháp
2) Người
tu hành trong đời mạt pháp, phần nhiều chấp sắc tướng, thiên trọng nơi bên
ngoài với sự hương hoa, lễ bái, không chịu ngộ chân tánh tự mình. Do đó, nhắc
đi nhắc lại, cốt yếu pháp sắc tướng đều là chấp trước hư vọng, để hiển lý, ly
vọng thấy chơn.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Phật có thể dùng sắc thân đầy đủ thấy được
chăng?
Tu Bồ Đề đáp;
- Bạch
Thế Tôn! Như Lai không thể dùng sắc thân đầy đủ mà thấy được, vì cớ sao? Vì Từ
Phụ đã nói “Sắc thân đầy đủ, phải dùng tịnh hạnh, thế mới đầy đủ 32 tướng, mặc
dù có thần thông biến hóa cũng không phải thật tướng kia vậy. Cho nên nói rằng
đầy đủ sắc thân, không phải thật đầy đủ, đặc biệt gọi đó mà thôi.
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông suy nghĩ như thế nào? Như Lai có thể dùng các tướng đầy đủ thấy
được không?
Tu Bồ Đề đáp:
- Bạch
Thế Tôn! Như Lai không thể dùng các tướng đầy đủ mà thấy được. Ấy là duyên cớ
gì? Bởi vì Từ Phụ thường nói đầy đủ các tướng, không nên cố chấp các tướng, sắc
thân đã thuộc hư giả, các tướng cũng không chân thật. Như Lai các tướng biến
hiện, lấy pháp giới làm thể, khắp đầy hư không, ẩn hiện không thường, đặc biệt
không thể chìm sâu nơi hình tướng. Cho nên gọi là phi đầy đủ mới thật là đầy đủ
Thơ 20:
Nghĩ gì về sắc thân
này,
Dù cho thân Phật đủ
đầy tinh thông,
Thấy được sắc tướng
hay không?
Sắc mà phi sắc, liễu
thông đạo mầu.
Ba hai tướng tốt khó
cầu,
Không nên dùng sắc
trong bầu chân như.
Thế nên dùng trí vô
sư,
Tướng mà phi tướng,
mới trừ lòng tham.
PHẦN PHI THUYẾT SỞ THUYẾT – THỨ 21
PHÂN GIẢI:
Phi thuyết là Như Lai
thật không có ngôn thuyết. Pháp Như Lai đã nói, chẳng qua là muốn giải tỏa các
ràng buộc của chúng sinh, rốt ráo không có pháp thật để nói. Nếu chúng sinh
chấp trước Như Lai có ngôn thuyết, theo lời nói mà sinh ra hiểu biết, liền rơi vào
chướng ngại ngôn ngữ văn tự, cho nên nói rằng phi thuyết. Sở thuyết tức là có
xứ sở, có xứ sở tức là sa vào thinh trần. Phi thuyết sở thuyết là sao? Bởi vì
không thể chấp trước thân tướng năng thuyết, cũng không thể chấp trước thinh
trần sở thuyết, không sa vào hai bên có và không. Sự thuyết pháp của Phật,
không có pháp nhứt định để nói, tùy theo trình độ cao thấp của chúng sinh, ứng
cơ mà thuyết. Phải dùng pháp nào đắc nhật, Phật liền đem pháp đó dắt dẫn. Do
đó, nên bậc chân chánh thuyết pháp, không ngôn thuyết, không khai thị; vị chân
chánh nghe pháp, không nghe mà cũng không đắc. Nếu ai ngộ được diệu lý nầy, mới
thật vào cảnh Bát Nhã.
- Tu
Bồ Đề! Ông chớ nói Như Lai nghĩ thế này; “Ta đã có thuyết pháp”. Chớ nghĩ như
vậy là vì sao? Nếu có người nói Như Lai đã có thuyết pháp, tức là hũy báng
Phật. Không thể nào hiểu lời tôi đã nói. Tu Bồ Đề! Người nói pháp, không có
pháp gì để nói, mới gọi là thuyết pháp.
Lúc bấy giờ, ngài Huệ
Mạng Tu Bồ Đề bạch với Phật rằng: Huệ Mạng là thí dụ đem trí huệ làm thân mạng.
Sinh mạng khi chết là tiêu diệt, còn huệ mạng thì được vĩnh viễn không bao giờ
hoại diệt.
- Bạch
Thế Tôn! Vả lại có chúng sinh, ở trong đời vị lai, nghe nói pháp ấy, có sanh
được lòng tin chăng?
Phật dạy:
- Tu
Bồ Đề! Kia không phải là chúng sinh, mà cũng không phải không chúng sinh. Vì cớ
sao? Tu Bồ Đề! Chúng sinh, chúng sinh là thế nào, Như Lai nói phi chúng sinh ấy
mới thật là chúng sinh
KHÁI LUẬN:
Phần này là tiếp nối
với văn ở trên, chẳng những thân tướng phi thân tướng, tức là nói pháp cũng phi
thuyết pháp. Dùng lời nói chẳng phải pháp mới gọi là pháp để phá chỗ nghi pháp
đối với Tu Bồ Đề. Dùng câu không phải chúng sanh mới gọi là chúng sanh là để
phá cái nghi có chúng sanh đối với Ngài Tu Bồ Đề. Thật là thuyết pháp, phải
biết đối với giáo pháp, nên không có trụ trước. Thật sự chúng sinh, nên biết
diệt độ cho chúng sinh kỳ thực không có chúng sinh nào diệt độ cả.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Như Lai tôi vì cơ duyên cảm ứng, tùy người ngộ bản tánh, gọi đó là yếu
điểm, đầu tiên chưa từng có niệm thuyết pháp. Ông chớ nói Như Lai tôi có tâm
nghĩ về thuyết pháp, đem pháp ấy khai thị cho người đời, ông chớ nghĩ như thế
đó, vì sao? Vì nếu có ai nói Phật đã có thuyết pháp, ấy chính là người hiểu biết
cạn cợt, câu nệ ở nơi văn tự, tức không khác gì người hủy bán đức Phật, không
thể nào hiểu rõ đạo lý của tôi đã tuyên nói.
Đức Phật lại nói:
- Tu
Bồ Đề! Như Lai tôi, đã có phương tiện thuyết giáo ấy, chẳng qua là mượn khẩu
thuyết diệu lý chơn không. Xưa nay không có pháp, chẳng qua là vì trừ diệt tà
ngoại của chúng sinh mà nói, đó tạm gọi là thuyết pháp mà thôi.
Lúc ấy, Tu Bồ Đề hướng
về Như Lai thưa;
- Bạch
Đức Thế Tôn! Con lo sợ chúng sinh ở đời vì lai, nghe nói, thuyết pháp mà không
pháp, nói mà không nói, họ không thể tin hiểu, thì làm sao sanh lòng tin được?
Đức Phật dạy:
- Chúng
sinh mỗi người có Phật tánh (nên nói phi chúng sinh), hiện còn chưa giải thoát
(nên nói chẳng phải không chúng sanh). Vì duyên cớ ấy nên phải tạm gọi là chúng
sanh, đó là chưa liễu ngộ. Nếu đã liễu ngộ, tức thì “lập địa thành Phật”, vượt
ra ngoài danh từ chúng sinh.
Thơ 21:
Các ông chớ nghĩ rằng
ta,
Hô hào thuyết pháp
trong đà độ sinh,
Nếu ai bảo Phật giảng
Kinh,
Ấy là hủy báng, lại
khinh phép mầu.
Pháp mà cón nói còn
cầu,
Chưa phải pháp thật
trong bầu vô vi,
Huệ Mạng bạch Phật
tường tri,
Nói thế còn sợ đa nghi
muôn loài.
Nhưng rồi Phật giảng
trong ngoài,
Chúng sinh chớ nghĩ
bản hoài chúng sanh,
Kim Cương đức tánh
tinh anh,
Thoát ly tất cả các
danh từ thường.
PHẦN KHÔNG PHÁP CÓ THỂ
ĐƯỢC, THỨ 22
PHÂN GIẢI:
Diệu pháp bát nhã vốn
là vật trong nhà mình, xưa nay không mất, từ đâu mà có đặng. Chỉ có chỗ đặng
đều là lòng chấp chưa quên, năng, sở, chưa phá. Trước nói người đặng phước đức,
đấy là phân tích bên sự. Nay nói không đặng là nói về lý tánh phước đức, không
phải quả phước đức để so sánh. Quả phước đức còn có tướng thấy được, lý tánh
phước đức thật không có tướng, làm gì thấy được. Chẳng những không pháp gì
được, tức là người “năng đắc” cũng không. Tướng phần là “sở đắc”, kiến phần là
“năng đắc” ; năng, sở đều phá, tức không thấy chúng sanh “sở độ” , không thấy
thân mình là “năng độ”. Thế nên vô lượng chúng sinh ta độ, thật không chúng
sinh nào được ta diệt độ cả.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng;
- Thế
Tốn! Đức Phật đặng bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hay là không chứng
đặng?
Đức Phật nói:
- Như
vậy, như vậy. Tu Bồ Đề, tôi đối với bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho
đến không có một chút pháp nào có thể đặng, ấy mới gọi là bực Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
KHÁI LUẬN:
Trước thường nói tất
cả đều không, đức Phật đối với Bồ Đề (chánh giác) thật không có pháp gì có thể
đặng. Tu Bồ Đề triệt ngộ lý này, nhơn lại đương cơ hỏi thẳng Phật Như Lai đặng
đạo Bồ Đề, rốt ráo thật không chỗ đặng ư? Dấu hỏi này, mặc dù in tuồng nghi
vấn, gạn lại chỗ ngộ. Luận về “vô sở đắc”, mới là chơn đắc. Nói không đắc mà
đều đắc, mới là chơn đắc. Phần này nói Như Lai không có pháp gì đặng Bồ Đề, cốt
yếu phát minh Kinh Văn; diệt độ chúng sanh, thật không chúng sanh nào được diệt
độ, đối với pháp không trụ tướng để thật hành đạo lý bố thí mà thôi.
LỜI NÓI PHỤ:
Lý vô đắc rất là tế
nhị và cao thâm. Lúc sơ tổ đến đông độ phá chấp được sáu tôn, quán sát chỗ phá
chấp kia có lời vấn đáp ‘vô đắc tôn”, mới vừa rõ chơn lý “không pháp gì có thể
đặng”. Tổ sư hỏi:
- Ông
nói không đặng, không đặng cái gì? Đã không chỗ đặng, cũng không “năng đắc, sở
đắc”.
Luc bấy giờ trong đại
chúng có ngài Bửu Tịnh trả lời:
- Con
nói không đặng, chẳng phải không ‘năng đắc, sở đắc’, sẽ nói “năng đắc, sở đắc”,
không đặng mà đặng”.
Tổ nói:
- Đặng
đã không đặng, đặng cũng chẵng phải đặng; đã nói “năng đắc, sở đắc. năng đắc,
sở đắc’ cái nào.
Ngài Bửu Tịnh lại
bạch:
- Thấy
đặng không phải đặng, chẳng phải đặng mới là đặng. Nếu thấy không đặng, gọi là
“năng đắc, sở đắc”.
Tổ sư nói:
- Đặng
đã không đặng, ‘năng đắc, sở đắc’ cũng không đặng, đã không sở đắc, làm sao có
‘năng đắc, sở đắc’.
Ngài Bửu Tịnh lập tức
giải tỏa lưới nghi.
Đoạn vấn đáp trên đây
là pháp rất sâu. Tôn này lúc ấy bao gồm trong “Vô đắc tôn’. Thù bất tri còn giữ
cái tâm ‘vô đắc’, là đã bị chấp hai chữ ‘vô đắc’. Diệu pháp Bát Nhã không cho
sa vào ngôn ngữ văn tự. Nếu chấp trước không quên, đem tri kiến chúng sanh,
vọng lường trí Phật, thì càng tìm càng xa. Vô Thượng Chánh Giác tức là trí huệ
bổn lai thanh tịnh, chẳng phải riêng có pháp gì có thể đặng. Chỉ không còn một
pháp, mới thông muôn pháp, mới là Vô Thượng Bồ Đề.
Có pháp có thể đặng,
Trở thành pháp ràng
buộc,
Không pháp có thể
đặng,
Ấy mới là giải thoát.
GIẢNG NGHĨA:
Tu Bồ Đề hướng về Phật
Như Lai bạch:
- Thưa
Thế Tôn! Từ Phụ con đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rốt ráo thật không
chỗ nào đặng ư?
Phật bảo rằng:
- Như
vậy, như vậy! Tu Bồ Đề! Tôi ở trong giáo pháp một mảy may cũng không đặng, vì
có đặng là có mất. Đem sự đặng mất ấy nói, đều là vật ở ngoài thân, không phải
tự tánh vậy. Tự tánh Bồ Đề, người người đều đủ, đâu có thể nói được, không có
một mảy may nào có thể được. Ấy là Vô Thượng Bồ Đề
Thơ 22:
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng:
Thế Tôn chứng đặng
Tánh-Hằng cao siêu,
Vô Thượng Chánh Giác
mục tiêu,
Như Lai chỉ dạy, những
điều con nghi.
Phật dạy như thế liễu
tri,
Vô Thượng Chánh Đẳng
vô vi muôn đời,
Quả vị còn chứng còn
lời,
Trở thành những vật
tạm thời có không.
PHẨN TỊNH TÂM HÀNH THIỆN, THỨ 23
PHÂN GIẢI:
Đoạn văn này từ ý
‘không có pháp gì có thể đặng’ mà đến. Phàm phu ra làm nghiệp lành, đều từ tâm
cầu phước đức. Đã có tâm cầu phước đức, tức là thiện phước đức hữu vi. Vừa có
tâm chấp trước đều là bất tịnh. Nay nói tịnh tâm, tức là không có tâm năng đắc,
sở đắc, năng cùng sở không trụ, nên gọi là tịnh tâm.
Nói về thiện hạnh là
thế nào? Tức là không có việc làm ‘năng hành và sở hành’, năng sở không lập.
Cho nên gọi là thiện hạnh. Tóm lại tịnh tâm hành thiện là thế nào? Tức là thiện
sở hành cũng quên, tâm năng hành cũng quên. Phát tâm từ bi, làm việc lợi ích,
ngoài không chấp tâm sở độ, trong không chấp tâm năng độ, không chấp trước bốn
tướng, thật hành tất cả pháp lành. Ấy gọi là chân chánh đắc bồ đề.
Lại nữa, Tu Bồ Đề!
Thiệt Pháp bình đẳng, bình đẳng là thể của chân chánh, tu thiện là dụng của chơn tánh.
Bởi vì chơn tánh đầy dẫy nhân từ, tu thiện là chỗ nhơn từ phát hiện, nhưng
không bị phù trần che lấp, mây hết mặt trăng sáng, chỉ còn một bờ Bồ Đề mà
thôi, không có cao thấp. Ấy gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì
không có ngã, không có nhơn, không có chúng sanh và không có thọ giả, thật hành
tất cả pháp lành. Phàm như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ, đều là pháp lành minh tâm kiến tánh. Y theo pháp ấy mà
thật hành, có thể phá ngã, đến chân, sùng đức, theo đạo, để tạo quả vị chí
giác, liến đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Đã nói pháp
lành, Như Lai nói tức không phải pháp lành. Ấy mới gọi là pháp lành.
KHÁI LUẬN:
Trước đã nói Phật đối
với pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không có một pháp nào có thể đặng.
Đức Phật lại sợ Tu Bồ Đề chấp trước cái vô ngã, nên phải kêu để nói thêm: bản
giác mỗi người đều có, thánh nhơn hay phàm phu đều không sai khác, nhứt luật
bình đẳng, không có cao thấp. Vì không có ngã, không nhơn, không chúng sanh,
không thọ giả, thật hành tất cả pháp lành, liền đặng giác ngộ. Tóm lại Bồ Đề
vốn không pháp, nhưng không thể không nhờ pháp tu trì. Đã đặng giác ngộ, pháp
cũng chẳng lập, chính là trong Kinh văn nói rõ, có ngã, nhơn v.v…bốn tướng, tức
không phải đạo lý Bồ Tát, nhưng đối với các pháp không có nghĩa sở trụ, lại
được chỉ rõ.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật bảo ngài Tu
Bồ Đề:
- Tôi
đã nói pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là chân tánh. Tại thánh không
thêm, ở phàm không tổn, người người đều đủ, kiếp kiếp tương đồng, nên gọi là
bình đẳng. Phật cùng chúng sanh, tánh không cao thấp. Ấy gọi là Vô Thượng Bồ
Đề. Vì lẽ ấy nên ở trong chân tánh, vốn không có vọng niệm ngã, nhơn v.v...bốn
tướng. Có vọng niệm ấy thì bị phù trần căn che lấp. Vì thế nên thật hành tất cả
pháp lành để minh tâm kiến tánh, để thành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác (quả Phật). Đức Phật lại bảo Tu Bồ Đề:
- Như
Lai tôi đã nói thiện pháp là thế nào? Đó là diệu tính tự nhiên trong bản tánh,
xưa nay không có ác, thì làm sao mà gọi là thiện, chỉ vì muốn khai ngộ cho
chúng sanh, quyền gọi đó là thiện mà thôi.
Thơ 23:
Tu Bồ Đề! Lý phải
thông,
Thật pháp bình đẳng,
chớ mong xa gần,
Quả Phật muốn được có
phần,
Dứt trừ bốn tướng, ân
cần pháp cao!
Không nên nghĩ tưởng
công lao,
Pháp lành còn nói làm
sao gọi lành,
Như Lai nhắc nhở đành
rành,
Chữ Phi chữ Tức hoàn
toàn lòng ta.
PHẦN PHƯỚC TRÍ KHÔNG
SANH, THỨ 24
PHÂN GIẢI:
Phước có hai thứ:
Phước thế gian và phước xuất thế gian. Phước thế gian nhờ sự bố thí mà có. Gieo
nhân gì thì được quả phước ấy. Ấy là thiện hữu vi. Đặng phước thiện hữu vi,
hưởng hết phước lại bị đọa lạc trong biển khổ sinh tử. Phước xuất thế gian, nhờ
quán chiếu Bát Nhã mà có. Ai hay thâm nhập được bát nhã, tức là được giải thoát
tự tại. Ấy gọi là phước vô tận. Phước không hết cũng không đọa lạc.
Trí cũng có hai thứ:
Trí thế gian và trí xuất thế gian. Trí thế gian là thế nào? Đối với tất cả pháp
thế gian hiểu rõ ràng, tuy nói rằng sự lý rõ ràng, nhưng chưa xả trần tướng,
còn bị sự chướng. Trí xuất thế gian là thế nào? Đối với tất cả pháp xuất thế gian
hiểu biết tận tường, năng sở đều quên, trừ hết lý chướng. Nay nói phước trí
không so sánh là sao? Ấy là phước trí xuất thế gian. Chỗ khác nói là phước
thanh tịnh, phước vô lậu. Không phải là phước thế gian như trên đã nói, và là
trí hữu lậu mà có thể so sánh được.
- Tu
Bồ Đề! Nếu trong 3.000 đại thiên thế giới, đã có các núi Tu Di lớn, như thế bảy
món báu chứa nhóm trong ấy, có người mang ra bố thí. Nếu có người dùng Kinh Bát
Nhã Ba La Mật này, cho đến một bài kệ bốn câu v.v…thọ trì đọc tụng, vì người
khác giảng nói, đối với phước đức (bố thí) trước, trăm phần không bằng một,
trăm nghìn muôn ức phần, cho đế toán số, thí dụ cũng không thể bằng
KHÁI LUẬN:
Phật Như Lai lo ngại
vì văn trên có nói ‘không có pháp lành”, chưa giải thích cặn kẽ. Phần này lại
nói bố thí, không bằng phước thọ trì bài kệ bốn câu. Trước là nói chấp tướng,
tham cầu lợi ích. Sau là nói ly tướng, siêu thắng vô lượng. Cũng chính là muốn
luận về của báu vàng ngọc là những thứ ở ngoài thân, đặng phước thế gian, thọ
hưởng có khi hết; trái lại Kim Cương Bát Nhã là của báu ở trong thân, là phước
xuất thế gian, thọ hưởng không cùng tận. Dùng đây so sánh với kia, cách xa muôn
muôn lần. Tóm lại, phần này cốt yếu là để so sánh phước cùng huệ (đây là so
sánh lần thứ 7), thấy rằng Phật Như Lai thuyết Kinh chỉ một lần, so sánh cho
người đời thấy, ân cần dặn dò, khó mà nói đến lần thứ hai, thứ ba vậy.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật bảo:
- Tu
Bồ Đề! Tu Di là núi lớn hơn các núi; nếu trong 3.000 đại thiên thế giới, chỗ có
các núi Tu Di, có người chứa nhóm của báu như núi, rồi đem ra bố thí, phước kia
tuy nhiều thật, nhưng đem ra so sánh, nếu có ai thọ trì đọc tụng Kinh Kim Cương
Bát Nhã Ba La Mật này, cho đến một bày kệ bốn câu, đều vì các người khác giảng
nói, thì phước đức trước khó bằng phước đức này. Tuy là từ trăm phần, trăm
nghìn muôn ức phần, cho đến phần nhiều như toán số, phần rộng như thí dụ cũng
không thể bằng một phần trì Kinh.
Thơ 24:
Của báu bố thí hằng
sa,
Dĩ nhiên được phước,
nhưng mà còn thiên,
Thọ trì Bát Nhã tinh
chuyên,
Dùng bốn câu kệ, giảng
khuyên mọi người.
So với phước đức vẹn
mười.
Trăm nghìn muôn ức đều
từ lòng ta,
Ngoài dù có phước hằng
sa,
Không bằng tự tánh mới
là viên dung.
PHẦN HÓA, KHÔNG CHỖ
HÓA, THỨ 25
PHÂN GIẢI:
Hóa là thế nào? Dùng
pháp hóa độ vậy.
Không chỗ hóa là thế
nào? Dùng tâm bình đẳng độ chúng bình đẳng, ngoài không thấy có chúng sở
độ, trong không thấy có ngã năng độ, làm pháp quán pháp giới bình đẳng, khi nào
cũng quên mình và người. Văn này là từ câu: “Thiệt pháp bình đẳng, không có cao
thấp”. Đã nói thiệt pháp bình đẳng, không có cao thấp, làm sao lại có chúng
sanh đặng độ vậy. Nếu theo lý pháp giới cùng sự pháp giới so sánh mà quan sát,
tức là ngộ được chộ nhiệm mầu bình đẳng độ chúng sanh. Đứng về sự pháp giới mà
quán sát, thật có chúng sanh được độ, nếu không có chúng sanh được độ thì Bồ
Tát cần gì phải thật hành lục độ vạn hạnh? Đứng về lý pháp giới mà quán sát,
thật không có chúng sanh nào được độ thì Bồ Tát tức không thể nào nhất thể đồng
quán vậy. Rốt ráo chúng sanh làm sao thoát khỏi Bồ Tát hóa độ; Bồ Tát cũng làm
sao mà quên công cuộc độ chúng sanh. Chẳng qua Bồ Tát ngộ lý bình đẳng, biết
tâm, Phật cùng chúng sanh cả ba không có sai khác, cho nên nói hóa độ không sai
khác. Do đó, mới nói “hóa không chỗ hóa” vậy.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Các ông chớ nói Như Lai suy nghĩ: Ta sẽ độ chúng
sanh. Tu Bồ Đề chớ nên suy nghĩ như vậy, vì cớ sao? Thật không có chúng sanh
nào Như Lai độ cả. Nếu có chúng sanh được Như Lai độ, thì Như Lai có ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả.
- Tu
Bồ Đề! Như Lai nói có ngã, thì không phải có ngã, nhưng các người phàm
phu cho là có ngã. Tu Bồ Đề! Phàm phu là thế nào? Như Lai nói tức không
phải phàm phu. Ấy mới gọi là phàm phu.
KHÁI LUẬN:
Phần căn bản, Đức Phật
muốn phá nghi là có nhơn ngã, để hiển lộ pháp thân chơn ngã. Trước đã nói thiệt
pháp bình đẳng, không có cao thấp. Phật Như Lai sợ người đời hiểu lầm, nghi ngờ
cho rằng pháp đã bình đẳng thì không có Phật, không có chúng sanh, vì sao lại
nói ta sẽ độ chúng sanh? Chúng sinh là muôn loài chúng sinh, ta độ chúng sanh
là có ngã rồi. Do đó mà Như Lai phải nói vô ngã để kêu gọi thức tỉnh chúng sinh
và phàm phu. Bời vì pháp giới bình đẳng, chúng sanh cùng Phật, đồng trong bản
tánh. Phật cùng phàm phu đồng là một thể; dùng tâm từ mẫu tìm nhiều phương tiện
giải nói để chúng sanh tự giác tự ngộ. Thật thì muốn ngộ tính kia, nên tìm lý
do để độ.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật bảo:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai tôi độ người, chỉ muốn cho chúng sanh
giác ngộ, chỉ dẫn chỗ giải thoát giác ngộ; bản lai chính là tự tánh tự độ. Các
ông chớ nên nói Như Lai tôi có tâm hóa độ chúng sanh.
Đức Phật lại bảo:
- Tu
Bồ Đề! Ông chớ nên nghĩ duyên cớ ấy, nhơn vì tâm chúng sanh bản lai không tịch,
trí tuệ bát nhã vốn tự đầy đủ; nếu nghe Kinh ngộ đạo, chúng sanh tự có thể hóa
độ, thật tại không có chúng sanh để Như Lai tôi diệt độ họ. Nếu nói tất cả
chúng sanh được Như Lai tôi độ hóa thì Như Lai tôi liền có ngã, nhơn v.v…bốn
tướng, pháp bèn có cao thấp, không được bình đẳng vậy.
Đức Phật lại bảo Tu Bồ
Đề:
- Như
Lai tôi có ngã, dù miệng nói có ngã, nhưng tâm không chấp.Ở phàm phu thì chấp
trước có ngã, cho là chỉ có ngã năng độ, chẳng phải ngã thì không thể độ. Đó là
ngã tướng.
Đức Phật lại bảo;
- Tu
Bồ Đề! Mê thì phàm phu, ngộ được làm Phật. Phật cùng phàm phu, vốn đồng một
tính, vốn là bình đẳng, chỉ hay liễu ngộ, tức không phải phàm phu. Nhưng hạng
nào chưa tỏ ngộ, nhơn danh đó mới gọi là phàm phu mà thôi.
Thơ 25
Các ông chớ nghĩ Như
Lai,
Ra tay tế độ muôn loài
chúng sanh,
Thật sự không có trọng
khinh,
Kim Cang tự tánh, chơn
minh vô cầu.
Tu Bồ Đế phải nghĩ
sâu,
Phàm phu phi được mới
mau siêu phàm,
Hóa mà không hóa,
không tham,
Chúng sanh tâm Phật
bao hàm như như!
PHẦN PHÁP THÂN PHI
TƯỚNG, THỨ 26
PHÂN GIẢI:
Pháp thân giáp khắp
pháp giới, không một chỗ nào mà không có pháp thân chơn thể của Như Lai. Pháp
thân Như Lai là đầy khắp pháp giới, tức là không thể trụ tướng để quán Như Lai.
Cho nên gọi là phi tướng. Như Lai biết phàm phu vọng tình cố chấp quá sâu, nếu
nói thẳng pháp thân phi tướng, sợ người đời khó tin hiểu. Do đó, mà từ các phần
trước lớp lớp phá nghi, phá chấp. Đến đây mới tận tình trình bày, bảo ngài Tu
Bồ Đề răng pháp thân phi tướng, thì các nghi vấn từ trước một thời bị phá tan.
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Có thể dùng 32 tướng quán Như Lai được không?
Tu Bồ Đề đáp:
- Đúng
vậy, đúng vậy! Dùng 32 tướng quán Như Lai.
Đức Phật nói:
- Nếu
lấy 32 tướng quán Như Lai, thế Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai. Chuyển
Luân Thánh Vương, tức là bốn vị Đại Thiên Vương, quản thủ thiện ác trong bốn
đại bộ châu: tháng giêng, tháng năm, tháng chín quán sát thiện ác châu Nam
Thiệm Bộ; tháng hai, tháng sáu, tháng mười, quán sát thiện ác châu Tây Ngưu
Hóa; tháng ba, tháng bảy, tháng mười một, quán sát thiện ác Châu Bắc Câu Lư;
tháng tư, tháng tám, tháng mười hai, quán sát thiện ác châu Đông Thắng Thần.
Chuyển động như bánh xe, nên gọi là chuyển luân.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng:
- Thế
Tôn! Như con hiểu Phật đã nói nghĩa, không nên dùng 32 tướng quán Như Lai. Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ rằng: (Kệ là phát lời thành câu).
Nếu dùng sắc thấy ta,
(Như Lai)
Dùng tiếng giọng cầu
ta,
Người ấy hành đạo tà
(đạo tà tức là ngoại đạo)
Không thể thấy Như
Lai.
KHÁI LUẬN;
Văn trên đã nói: Phi
phàm phu, ấy mới gọi là phàm phu. Phần này lại dùng khác với phàm phu của Phật
Như Lai là 32 tướng tốt. Do đó hỏi dùng 32 tướng tốt có thể quán thấy Như Lai
không? Chính vì muốn phá 32 pháp tướng, dạy người không nên trụ tướng Như Lai.
Vì thế nên KINH HOA NGHIÊM nói: ‘Không rõ chơn tánh kia, người ấy không thấy
Phật”. Duy nội quán phản chiếu, tức tánh mà tìm cầu, mới có thể thấy Như Lai.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Có thể dùng 32 tướng quán Như Lai không?
Tu Bồ Đề chưa thấu ý
kia, nghĩ rằng muốn quán pháp Như Lai, sẽ không ra ngoài 32 tướng này. Thế nên
Ngài đáp:
- Đúng
vậy, đúng vậy!
Đức Phật nghe thế mới
hướng về Tu Bồ Đề nói:
- Tu
Bồ Đề Chuyển Luân Thánh Vương, cũng đủ 32 tướng sắc thân; nếu có thể dùng 32
tướng quán Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương đâu không phải là Như Lai ư?
Tu Bồ Đề theo tiếng ấy
thưa rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Con đã hiểu đạo lý mà Từ Phụ đã nói, không nên dùng 32 tướng mà quán
Như Lai.
Thời gian ấy, Phật Như
Lai chỉ bài kệ ly tướng để chỉ dạy. Là pháp thân bình đẳng đồng hư không, linh
giác toàn chơn, diệu thể trạm tịch, lìa ngoài hình tích, vượt hẳn tai mắt; các
ông nếu chạy theo nhan sắc để thấy hình dùng, hoặc nghe theo tiếng dạy, chạy
theo âm thanh, dùng hai yếu tố này để tìm chơn tánh của ta; thì những người ấy
chấp nơi sắc thân thấy Phật, bỏ hẳn con đường chánh, hướng ngoài để tìm
cầu. Đó tức là đạo tà, quyết không thể nào thấy được bản lai diện mục của
Như Lai.
Thơ 26:
Ba hai tướng là Như
Lai,
Thánh Vương cùng Phật
đúng sai lẽ nào?
Tướng tốt là Phật hay
sao?
Không nên chấp trước,
sợ vào đường ma.
Phật dạy dùng sắc thấy
ta,
Âm thanh cầu Phật,
thật là tối tăm,
Hạng ấy hành đạo muôn
năm,
Không bao giờ thấy
chơn tâm Phật đà!
PHẦN KHÔNG ĐOẠN, KHÔNG
DIỆT, THỨ 27
PHÂN GIẢI:
Đoạn là chấp người
chết rồi mất hẳn. Chấp trước sự vật trong thế gian, không khỏi được tri kiến
điên đảo, cho nên ở trong đoạn chấp thường, ở trong thường chấp đoạn. Người đời
chấp đoạn, nhưng pháp Bát Nhã không cùng tận, thì làm sao gọi là đoạn. Trái lại
người đời cho là thường, nhưng pháp Bát Nhã có dụng tùy duyên, không thể gọi đó
là thường. Nay nói không đoạn là thế nào? Là nói pháp Bát Nhã vốn không đoạn,
không thường, không thể dùng kiến chấp rồi cho là đoạn là thường được.
Con diệt là dứt sự
sanh diệt vậy. Người trong thế gian không ngộ được thật tế Niết Bàn vì sanh nói
diệt, vì diệt nói sanh. Cho là diệt, nhưng pháp Bát Nhã vốn không sanh, không
được nói là diệt. Cho là sanh, nhưng pháp Bát Nhã vốn không diệt, không được
nói là sanh. Nay nói không diệt là thế nào? Ấy là nói pháp Bát Nhã vốn không
sanh không diệt, không thể dùng pháp sanh diệt mà luận nói.
- Tu
Bồ Đề! Nếu ông nghĩ như vầy, Như Lai không dùng đầy đủ các tướng, đặng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Chớ nghĩ như thế, Như Lai không dùng
đầy đủ tướng tốt để đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nếu ông
nghĩ rằng, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói các pháp đoạn diệt, tức
là nói tất cả pháp đều không thể ứng dụng.Chớ nghĩ như thế ấy. Vì sao? Vì
người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với các pháp không nói
tướng đoạn diệt. Tức là nói khi chưa giác ngộ, quyết phải y theo Phật
pháp mà tu hành vậy.
KHÁI LUẬN:
32 tướng là tướng
trang nghiêm đầy đủ. Đức Phật đủ công hạnh vô lượng vô biên, rồi sau đó trạm
nhiên viên tịch, hiện ra tướng nhiệm mầu, Phật đặng Bồ Đề, không duyên nơi
tướng mà nhiệm mầu, mà do nơi công hạnh. Công hạnh khi viên mãn thì tướng nhiệm
mầu tự hiện. Tướng nhiệm mầu này, không thể chấp có, cũng không thể chấp không.
Chấp có thì trụ một bên tướng, làm sao thấy được Như Lai. Chấp không lại trụ ở
một bên phi pháp, lấy gì để khuyến lệ công hạnh. Do đó lại phải trình bày, một
là nói “nếu ông nghĩ như vầy”, hai là nói “chớ nghĩ như thế”. Rồi lập lại
“nếu ông nghĩ rằng”: người phát tâm Bồ Đề, nói các pháp đoạn diệt”. Lại trịnh
trọng cảnh tỉnh: “Chớ nên nghĩ rằng: “Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp,
không nói tướng đoạn diệt”. Phần này điểm cốt yếu là muốn pháp tướng phi pháp,
phá sự chấp không của các học giả.
GIẢNG NGHĨA:
Phật Như Lai, dùng 32
thứ tịnh hạnh, thành 32 tướng tốt.Ấy là do nhơn đã tu, nên mới chứng quả bồ đề,
nhờ sức tu hành mới có. Do đó mà phải hỏi gạn: ông hoặc nghi Như Lai, không
dùng tướng tốt cụ túc, để đặng Vô Thượng Bồ Đề này. Lại nữa, chính đáng Phật
bảo: ông chớ nên nghĩ Như Lai thật không đầy đủ nhân duyên tạo tướng tốt nhiệm
mầy này, mà được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Rồi một lần nữa, đức Phật còn cảnh tỉnh:
nếu ông nói không nhờ tu phước, lại được thành bực Chánh Giác, thì tất cả pháp
đều có thể bỏ mà không cần dùng, quyết đến chỗ trầm không trệ tịch, lạnh lòng
mờ trí, rồi thành tướng đoạn diệt. Ý niệm này quyết định không thể khởi. Tóm
lại, người phát tâm chánh giác, không nương theo Phật pháp tu hành thì không
thể được. Cốt yếu là ở nơi KHÔNG nhưng không đoạn diệt, KHÔNG mà chẳng diệt.
Thơ 27:
Nếu ông cứ nghĩ đến
ta,
Không cùng tướng tốt
cao xa chứng thành,
Tu Bồ Đề! Chớ nghĩ
rành,
Như Lai không tưởng
thật hành chánh tri.
Thế là còn đoạn hữu
vi,
Vì sao chớ nghĩ, chớ
ghi đạo mầu,
Vì còn tướng tốt vọng
cầu,
Còn sanh còn diệt, có
đâu siêu phàm!
PHẦN KHÔNG THỌ KHÔNG
THAM, THỨ 28
PHÂN GIẢI:
Lãnh nạp nơi thân gọi
là thọ. Phàm người đối với trần tướng bên ngoài, không luận hoàn cảnh thuận hay
nghịch, chỉ đem tâm thương ghét, đều gọi là thọ. Ngược lại tất cả cảnh thuận
nghịch không thọ thộ mà chỉ phần tế, cũng gọi là thọ. Chỉ có lưu tâm động niệm
đều gọi là thọ. Nếu xét căn bản tìm thọ, tức là ngã vi tế chưa quên. Đã thông
suốt pháp vô ngã, vô ngã thì vô thọ, ngã năng thọ đã không, nên gọi là không
thọ. Thường thấy mình chưa đủ gọi là tham, ham tìm vui ngũ dục không thôi dứt,
gọi đó là tham, tham cầu phước đức gọi đó là tham, ham muốn Niết Bàn cũng gọi
là tham. Bồ Tát sau khi ngộ lý vô ngã, không tham nghĩ ngũ dục, không ruổi tìm
phước đức, không tiến tới Niết Bàn. Thế nên gọi đó là không tham.
- Tu
Bồ Đề! Nếu Bồ Tát dùng bảy thứ báu đầy đủ cả hằng hà sa thế giới, đem ra bố
thí; nếu lại có người, biết được tất cả pháp là vô ngã, thành tựu được đức
nhẫn. Bồ Tát này thắng hơn Bồ Tát chỗ đặng công đức. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Vì
các Bồ Tát không thọ phước đức.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng:
- Thưa
Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát không thọ phước đức?
- Tu
Bồ Đề! Bồ Tát phước đức đã làm, không hề tham trước. Vì thế, nên nói không thọ
phước đức.
KHÁI LUẬN:
Pháp không đoạn diệt,
nhưng pháp lại không chỗ trụ. Phật Như Lai, lại dùng Bồ Tát đem của báu bố thí
đầy sa giới làm thí dụ để hiển thị công đức vô trụ hành thí. Tiếp theo nói
rằng: Nếu có người biết tất cả vô ngã, đặng thành sức nhẫn, người ấy tức là
chơn Bồ Tát, hơn công đức bố thí của Bồ Tát trước (đây là lần thứ 8 dùng 7 thứ
báu bố thí để so lường công đức). Đây là chỉ cho ta công hạnh thực tại phát tâm
Bồ Đề, đã không thể dùng tướng để quán, lại cũng không thể nói tướng đoạn diệt,
đây tự có chân đế tồn tại. Phần này điểm cốt yếu là để phá phước đức không thể
trụ, pháp chấp có của các học giả.
LỜI NÓI PHỤ:
Tất cả pháp phải cần
vô ngã. Không thể vô ngã của người đời đều do không thể nhẫn. Không thể nhẫn
thì làm gì có vô ngã ư? Sở dĩ nhần nhục ba la mật là vì hay nhẫn hay nhục, thậm
chí không những quên nhục, cũng phải quên nhẫn nữa, nghịch đến lãnh chịu, lại
thêm độ thoát, thì ngã mới được thành tựu. Không thể nhẫn, làm gì nói vô ngã,
chỉ không có ngã mới hoàn thành nhẫn nhục. Đầy là bản lãnh tinh tấn kiên cường
để thành Phật. Toàn bộ Kinh hơn 5.000 câu chỉ sớ giải mấy chữ này là lời tinh yếu
của Phật Như Lai.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói;
- Tu
Bồ Đề! Nếu Bồ Tát tuy dùng bảy thứ báu làm việc bố thí trong vô lượng thế giới,
vì tâm trước tướng, nên phước có sở đắc, mặc dù nhiều, nhưng có hạn. Nếu lại có
người, tâm không trước tướng, biết tất cả pháp vô ngã, mỗi thời mỗi thời nhẫn,
mỗi việc mỗi việc nhẫn, kiên trì nhẫn nại, nhẫn ở trong nhẫn, cho dến nhẫn mà
quên nhẫn, vô ngã mới được hoàn thành. Như thế thì Bồ Tát này công đức sở đắc,
so với công đức của Bồ Tát trước lại quá nhiều. Vì sao vậy? Vì nhờ nhơn ly
tướng, thì đặng quả thù thắng, song mà không lãnh thọ.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng:
- Thế
Tôn! Nhơn quả thọ thí, lý nó tự nhiên. Sao lại nói Bồ Tát không thọ phước đức?
Do đó, Đức Phật lại
bảo:
- Tu
Bồ Đề! Bồ Tát bố thí độ sanh vốn là hành chỗ phải hành, ban đầu không có nghĩ
kể công lao, phước đức đến cùng không đến chẳng màng, cho đó rồi thôi. Đó gọi
là không tham không thọ.
Thơ 28:
Bồ Tát bố thí ra làm,
Bảy báu ban rải thánh
phàm ngợi khen,
Thế, thua pháp ngã một
phen,
Công đức thù thắng khó
xem ngôn từ.
Vì sao tu kiến mỗi
người,
Không thọ phước đức
vẹn mười về sau,
Tu Bồ Đề hỏi một câu,
Tai sao Bồ Tát không
cầu vinh quang?
Đức Phật dạy lý Kim
Cang,
Ra làm phước đức chớ
mang lòng trần,
Không tham, không
trước, không phần,
Phúc đức không thọ mới
gần chơn tâm.
PHẦN OAI NGHI TỊCH
TĨNH, THỨ 29
PHÂN GIẢI:
Oai nghi tức 32 tướng,
80 vẻ đẹp, tướng muôn đức trang nghiêm. Tịch tĩnh là thế nào? Tức là thể vắng
lặng, không khứ không lai, chẳng động chẳng tịnh. Trong Kinh Tịnh Danh nói:
“Không khởi diệt tận định, nhưng hiện các oai nghi, lúc nào cũng hiện bày hóa
thân Bồ Tát”. Ý chính muốn nói Đại Bồ Tát, thể dụng không hai, mỗi thời ở trong
định, không có dấu tích khứ lai xuất nhập. Luận về Bồ Tát còn có dụng oai nghi,
không mất thể tịch tĩnh, huống chi là Như Lai ư? Như Lai thì tức oai nghi, tức
tịch tĩnh, tức thể, tức dụng, tức dụng, tức thể, tùy duyên bất biến, bất biến
tùy duyên, vô trụ mà không tự tại vậy. Đoạn văn này là tứ ý vô ngã vô thọ mà
đến. Đã còn nói vô ngã vô thọ, thì Như Lai hiện có khứ, lai, tọa, ngọa, đâu
không phải là ngã tướng ư? Đã hiện ngã có tướng, thì đâu không thật có thọ ư?
Bởi vì chỗ thấy ba thân một và khác chưa quên, không rõ nhất thể của ba thân,
còn chưa ngộ lý bình đẳng pháp thân. Nay nói oai nghi tịch tĩnh là sao? Như Lai
tuy hiện tướng oai nghi, không phải là thể tịch tĩnh. Mặc dù là thể tịch tĩnh,
nhưng tùy tướng hiện oai nghi. Như Lai ba thân tức một thể, một tức ba, ba cũng
tức một. Thế nên nói oai nghi mà tịch tĩnh.
- Tu
Bồ Đề! Nếu có người nói, Như Lai, hoặc đến, hoặc đi, hay ngồi hay nằm, người ấy
không hiểu nghĩa mà tôi đã nói. Vì sao? Vì Như Lai là không có chỗ nào đến, mà
cũng không nơi nào đi, cho nên gọi là Như Lai.
KHÁI LUẬN:
Trước nói Như Lai
không thể dùng tướng quán sát, nhưng lại chẳng phải không tướng. Tướng vốn là
pháp sở hiện, cho nên đối với pháp không nói tướng đoạn diệt, nhưng lại không
thể trước pháp, thẳng nói đến pháp vô ngã, được hoàn thành đức tín nhẫn nhục,
biết tất cả pháp vô ngã, thì Bát Nhã được hiển lộ, thành được sức nhẫn thì
chứng được ba la mật. Từ đây, xét lại chỗ cùng cực, tức là Như Lai. Như Lai là
các pháp như ý, tức là Thành Nhơn từ tâm biến khởi, không vượt ngoài tánh linh,
thì đâu có đến, đi, ngồi, nằm. Phật Như Lai nhơn đó bảo rằng:
- Nếu
có người nói, Như Lai hoặc đến, hoặc đi, có ngồi, có nằm, người ấy không hiểu
được đạo lý mà tôi đã nói. Chính là không liễu ngộ chân đế viên diệu, trụ nơi
tướng danh tự của Như Lai. Ngài lại dạy thêm không chỗ đển cũng không nơi đi.
Ấy gọi là Như Lai. Lời nói ấy như bất động, trước trời đất khí tượng vô cực. Đã
đem nhứt hiệp tướng không thể nói để ra ngoài ngôn thuyết.
Trước đem 32 tướng để
quán Như Lai, là nói tướng ngôn tự. Đây chính là nói danh tự Như Lai. Pháp
tướng không thể chấp, tướng phi pháp không thể chấp, tướng phước đức không thể
chấp, tướng danh tự không thể chấp, thì được tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, như mây tan mặt trăng hiện. Phần này cốt yếu nói rõ ý nghĩa của Như Lai
và chỉ pháp thân vô tướng, cũng chính là để phá tướng danh tự Như Lai không thể
trụ vậy.
LỜI NÓI PHỤ:
Người đời phần đông
dùng trong bốn oai nghi, cầu Phật qua sắc thân hữu tướng, mà không biết Phật
trong Bát Nhã chơn tính. KINH HOA NGHIÊM nói: “Nước trong mặt trăng hiện, mặt
trăng vốn không đến, mây ngăn mặt trăng bị che, mặt trăng cũng chẳng đi đâu.
Cũng như vậy, tâm yên tịnh thì thấy Phật, không phải là Phật từ đâu dến, tâm
nhơ đục thì không thấy, cũng chẳng phải Phật đi đâu”. Tâm người tự có nhơ sạch,
Phật vốn không bao giờ có khứ lai. Ba mươi hai pháp tướng là ứng thân hóa hiện
của Như Lai thôi!
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói;
Tu Bồ Đề! Nếu có người
dùng bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm của Như Lai tôi, mà chỉ cho đó là Như
Lai. Ấy đều là chấp trước ở nơi hữu tướng, thật chưa hiểu được đạo lý mà tôi đã
nói. Duyên cớ ấy là do Như Lai, chơn tánh Phật vậy. Chơn tánh như như, đầy khắp
pháp giới; tùy theo cảm ứng mà có phát hiện, đến vốn không đến, có khi phải ẩn
kín, đi cũng không đi. Duy nhất không khứ lai, cho nên gọi là Như Lai, tức là
diệt không, cảm mà bèn thông suốt đó vậy.
Thơ 29:
Tu Bồ Đề! Nghĩa thậm
thâm,
Nếu có người nói, mê
lầm cần chuyên,
Như Lai nghĩa thật
chân nguyên,
Không đi, không đến,
không riêng, không ngồi!
Xuất trần chấp tướng
giống đời,
Sự thật mà nói không
rời mảy may,
Không lai, không khứ
xưa nay,
Thế nên mới gọi ĐỨC
THẦY NHƯ LAI.
PHẦN NHỨT HIỆP LY
TƯỚNG, THỨ 30
PHÂN GIẢI:
Nhứt (một) thì không
khác, khác thì không nhứt (một). Nếu nói vi trần không phải thế giới thì khác,
nếu nói vi trần tức thế giới là một. Nếu nói là một, thì làm sao có tên vi trần
thế giới; nếu nói là khác thì thật không chia thế giới vi trần. Bởi vì vi trần
nhóm lại tức là thế giới, thế giới tan hoại tức là vi trần. . Nói khác không
được, nói một cũng không được. Nói hợp không được, nói chẳng hợp cũng không
được. Vì hợp một thì không thể khác, hợp khác thì không thể một, đây là mê nơi
một và khác, đều không rõ lý pháp thân bình đẳng. Nói tướng một, khác đều là
hiểu biết của chúng sanh. Kỳ thật tướng một khác, đều do bịnh chấp danh chấp
thủ. Bởi vì thế giới vi trần này đều không phải thật có; nếu vi trần là thật
có, tức không thể nhóm họp thành thế giới; nếu thế giới là thật có, tức không
thể tản mác thành vi trần.
Một vi trần gồm có 5
đại tánh, thế giới cũng gồm có 5 đại tánh. Một vi trần tánh, tức tánh thế giới,
thế giới tánh tức là tánh vi trần, chẳng phải một, chẳng phải khác.Tìm tướng
một khác kia, rõ không thể được. Nếu ai nói một tướng hiệp không phải một hiệp
tướng, đều là biên kiến vậy. Rốt ráo chơn tế pháp thân, tướng nhất hợp không
thể thấy tức là lý nhứt hợp cũng không thể thấy. Danh tướng đều không, ngôn ngữ
đạo đoạn, bình đẳng bình đẳng, trở về chơn tế pháp thân.
- Tu
Bồ Đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đem 3.000 đại thiên thế giới
nghiền nát như vi trần, ý ông nghĩ thế nào? Các vi trần ấy có nhiều hay không?
- Tu
Bồ Đề thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn!
- Vì
cớ sao? Vì nếu vi trần ấy thật có nhiều, Phật liền không nói vi trần ấy là rất
nhiều. Lý do vì sao? Vì Phật nói số vi trần nhiều, tức là không phải là
vi trần nhiều. Ấy mới gọi là vi trần nhiều.
- Bạch
Thế Tôn! Như Lai đã nói 3.000 đại thiên thế giới, tức không phải thế giới, ấy
mới gọi là thế giới. Vì cớ sao? Vì nếu thế giới thật có, tức là nhứt hiệp tướng.
Chân tánh dung thành, hồn nhiên như vậy, không hai không khác. Ấy gọi là nhứt
hiệp tướng. Như Lai nói nhứt hiệp tướng, tức không phải là nhứt hiệp
tướng. Ấy gọi là nhứt hiệp tướng.
- Tu
Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng, tức là không thể nói, nhưng các người phàm phu, tham
trước việc kia. Tham trước là quyến luyến vậy. Tham trước những việc
kia, tức là sắc trong sáu căn vậy.
KHÁI LUẬN;
Phật Như Lai, sợ Ngài
Tu Bồ Đề chấp kiến chưa dứt, không rõ chơn đế bát nhã, chưa thông lý pháp thân,
ứng thân, cho nên dùng 3.000 đại thiên thế giới nghiền nát thành vi trần, lập
thí dụ để pháp trừ. Bởi vì ứng thân không là pháp thân, cũng như vi trần không
lìa thế giới. Thế giới dụ cho pháp thân, vi trần dụ cho ứng thân. Thế giới
nghiền nát thành vi tràn, tức là pháp thân chia thành ứng thân. Vi trần nhóm
thành thế giới, tức là ứng thân quy về pháp thân. Ứng thân chẳng phải khác, ứng
thân cũng là thể của pháp thân. Pháp thân chẳng phải một, pháp thân hay khởi
dụng ứng thân. Vi trần không phải thế giới, nhưng vi trần thật là thể của thế
giới. Thế giới không phải vi trần nhưng thế giới thật do vi trần mà phát khởi.
Đức Phật nói thế giới nghiền nát thành vi trần, chính là nói pháp thân chia mà
thành ứng thân. Pháp thân vốn như hư không, thì ứng thân lại không phải thật
có. Thế giới vốn như hoa trong gương, thì vi trần cũng đồng như mặt trăng dưới
nước. Vi trần đã không thật có thì thế giới cũng không thật có. Thế giới nếu là
thật có, tức là một thể, tức là nhứt hiệp tướng tức là không thể nghiền nát
thành tướng vi trần.
Tóm lai, ứng thân đã
không thật có, pháp thân cũng không thật có. Pháp thân nếu là thật có, tức là
một tướng, một tướng cũng là nhứt hiệp tướng, tức không thể phát khởi thành
tướng ứng thân. Chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải hiệp, chẳng phải
không hiệp. Do đó, nên Như Lai nói nhứt hiệp tướng, tức không phải nhứt hiệp
tướng, chỉ giả danh nhứt hiệp tướng mà thôi! Phần căn bản cốt yếu chỉ rõ có
tướng đều là hư vọng, để phá nhứt hiệp tướng cũng không thể trụ.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật dạy:
- Tu
Bồ Đề! Nếu có thiện nam, tín nữ nào đem 3.000 đại thiên thế giới, nghiền nát
chia thành hạt bụi nho nhỏ, ý ông nghĩ sao? Như thế có nhiều không?
Tu Bồ Đề thưa:
- Bạch
Thế Tôn! Vì hạt bụi không thật, nên thấy rất nhiều. Vì cớ sao? Bởi vì những hạt
bụi này dù nhiều vô số, song không có định thể, khởi diệt chẳng thường, có sanh
có diệt, cuối cùng không thật có. Nếu vi trần thật sự có thì Phật Như Lai tức
không nói là vi trần chúng. Bởi vì Phật nói vi trần chúng không chân thật, tức
là thế giới cũng không thật có, nên tạm gọi đó là vi trần chúng mà thôi.
Tu Bồ Đề lại hướng về
Đức Phật bạch rằng:
- Thưa
Thế Tôn! Từ Phụ đã nói 3.000 đại thiên thế giới, cũng là một sự chứa nhóm vọng
trần, thành tức có hoại, cuối cùng đến chỗ chấm dứt. Hư huyển không thật,
nên chẳng phải thật thế giới. Chỉ tạm gọi là thế giới mà thôi. Ấy là thế nào?
Lý luận trong thế giới bản thể thật có. Duy có nhứt hiệp tướng, nó chính là
chân tính vậy, thường trú không hoại. Một là không thể chia ra làm hai, hiệp
không bao giờ tách rời. Như Lai nói nhứt hiệp tướng, dùng hư không dụ cho bình
đẳng chơn tánh, không thể dùng ngôn nghữ hình dùng, tức không phải nhứt hiệp
tướng, chỉ gắng gượng gọi đó là nhứt hiệp tướng mà thôi.
Như Lai biết Tu Bồ Đề
đã triệt ngộ tính chân thật kia, nên hướng về Tu Bồ Đề nói:
- Đạo
lý nhứt hiệp tướng, không mà chẳng không, nhiệm mầu không thể nói. Nhưng các
hạng người tầm thường, bản tính che lấp vởi vô minh, con mắt tham trước, nhận
huyển duyên cho là cảnh thật, chấp trước nhiều lớp, không thể nào liễu ngộ.
Thơ 30:
Tu Bồ Đề! Nếu có ai,
Đem nhiều thế giới,
công khai đập nghiền,
Trở thành bụi đất chia
riêng,
Ông xem như thế, có
phiền lắm không?
Bạch rằng số ấy khó
thông,
Như Lai đã nói mênh
mông vi trần,
Thế là đừng chấp có
phần,
Luận qua thế giới,
cũng gần như nhau.
Phật nói nhứt hiệp
trước sau,
Tức phi nhứt nhiệp mau
mau kiện toàn,
Những người mê chấp
nói càn,
Tham trước danh tướng,
Kim Cang bị mờ
PHẦN TRI KIẾN KHÔNG SANH, THỨ 31
PHÂN GIẢI:
Thật biết in tuồng như
không biết, nhưng không chỗ nào mà chẳng biết. Thật thấy hình như không thấy,
song không chỗ nào mà chẳng thấy. Phàm phu không ngộ được lý Bát Nhã, không thể
hàng phục vọng tâm. Phàm có biết thấy, ngoài không thể lìa sáu trần, trong
không thể lìa duyên ảnh, biết thấy càng nhiều thì trần lao càng lắm, trọn ngày
bị tri kiến làm mê, không vướng năng tri kiến, thì cũng sa vào sở tri chướng,
không mê nơi tướng phần sở kiến, thì cũng phải mê chỗ kiến phần năng kiến.
Vọng cảnh huân tập
vọng tâm, vọng tâm chấp lấy vọng cảnh, đều là ngoài tâm chấp pháp, đối với tự
mình, trên bản tánh lại thêm chướng ngại. Chỗ khác đã nói: Dứt trừ phiền não
lập thêm bịnh, xu hướng chân như đều là tà. Nếu ai “trực hạ” không sanh tri
kiến, rõ biết niết bàn cùng sanh tử, đều như hoa đốm giữa hư không, bản nguyên
tâm thể thanh tịnh, lúc bấy giờ tròn sáng khắp nơi. Thế nên Đức Phật nói: ta
đối với bồ đề thật không sở đắc, sợ người đời không tin lý này, nên dẫn năm
nhãn bị thấy, năm lời bị nói, chân thật bất hư để chứng minh. Song đã nói rằng
tri kiến, cũng không phải hoàn toàn không tri kiến, nếu toàn không tri kiến,
tức thành đoạn diệt. Đã nói không sanh là không sanh tà tri kiến, chẳng phải là
không chánh tri kiến. Nếu ai thấu dụng bát nhã, không xa lìa tri kiến, khéo hay
phân biết tướng của các sự vật, đối với đệ nhất nghĩa không bao giờ động, liền
liễu ngộ bản tâm, biết như vậy, thấy như vậy, không sanh vọng tướng sự vật.
- Tu
Bồ Đề! Nếu người nói, Phật đã nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả
kiến. Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Người ấy hiểu được nghĩa ta đã nói
không?
- Bạch
Thế Tôn! Chắc là khó hiểu. Người ấy không thể hiểu nghĩa Như Lai đã nói. Vì cớ
sao? Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức không
phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến. Ấy mới gọi là ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến.
- Tu
Bồ Đề! Người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với tất cả sự vật,
phải biết thật đúng, phải thấy thật đúng, biết đúng, thấy đúng, tức là
chơn tri, chơn kiến của Vô Thượng bồ đề, tin hiểu đúng như thật, không
sanh vọng tướng các sự vật.Sự vật đây là muôn sự muôn vật; tướng tức là
hình tích. Không sanh vọng tướng các sự vật là thế nào? Vật gì có hình tướng,
như chấp có ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả, đều không móng vọng tâm chấp tướng. Tu
Bồ Đế Đã nói là pháp tướng Như Lai nói tức không phải pháp tướng. Ấy mới gọi là
pháp tướng.
KHÁI LUẬN:
Đức Phật lại sợ Tu Bồ
Đề nghi thể pháp thân, đã không thể cùng thấy thì làm sao Phật Như Lai cũng
từng nói ngã, nhơn các kiến chấp v.v…nhơn đó mà phá kiến chấp có ly
tướng để hiển lộ chơn đế bát nhã.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật nói:
- Tu
Bồ Đề! Nếu có người nói Đức Phật nói ngã, nhơn v.v…bốn kiến chấp, ý ông nghĩ
thế nào? Người ấy quả thật đã hiểu rõ đạo lý của tôi nói không?
Tu Bồ Đề đáp:
- Bạch
Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói bốn chấp siêu việt ngoài ý nghĩ của người đời, họ
không thể nào hiểu thấu. Những người ấy đâu có thể lãnh hội được đạo lý của Như
Lai đã nói? Bốn kiến chấp mà Thế Tôn đã nói, chỉ vì muốn hàng phàm phu, nhổ
sạch gốc bịnh, chẳng qua là mượn tên của bốn kiến chấp này mà thôi. Nếu diệu
trí tuệ trong chơn tánh như vầng thái dương ở giữa hư không, suốt thông không
ngăn ngại, tức là không cò vọng kiến ngã nhơn, chúng sanh và thọ giả.
Đức Phật lại nói với
Tu Bồ Đề:
- Phàm
người phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác đã liễu ngộ được lý nhiệm mầu vô tướng, tự
nhiên thật hành diệu hạnh vô tướng. Biết như thế thì cái biết không bị che;
thấy như thế thì cái thấy không bị ngăn. Tin hiểu như vậy, tức là giác ngộ
nhiệm mầu, không bao giờ sanh vọng tướng sự vật. Vọng tướng dứt trừ, hằng không
thoái chuyển. Thế là có sự nhiệm mầu vô tướng chân không. Cuối cùng đức Như Lai
nói thêm:
- Tu
Bồ Đề! Pháp tướng vốn không, tức không có pháp tướng. Ở trong không có tướng,
ấy mới gọi là pháp tướng. Thật là pháp tướng chân không thì chẳng có vọng kiến
nào mà có thể so sánh được.
Thơ 31:
Nếu ai còn bị chữ ngờ,
Ngã, nhơn bốn chấp,
tôn thờ lời ta,
Ông có cho đó cao xa?
Hay là giải tỏa cho ra
luân hồi?
Những người phát chí
tô bồi,
Vô Thượng Chánh Đẳng
không rời kiến tri,
Tín giải chơn thật chi
si,
Không sinh vọng chấp,
mâu ni hiện bày.
Pháp tướng đã nói lâu
nay,
Tức phi pháp tướng có
ngài toàn chân,
Ấy là pháp tướng hiện
thân,
Như Lai thuyết giáo,
không cần nghĩ suy.
PHẦN ỨNG HÓA PHI CHƠN,
THỨ 32
PHÂN GIẢI:
Đây là văn tổng kết,
nói rằng pháp thân phi tướng, ứng hóa không thật. Các đoạn trước nói nhơn pháp
đều không, đã là nhơn pháp đều không, trì Kim có lợi ích gì? Sở dĩ phần chót
quy kết vẫn tôn trọng sự thọ trì đọc tụng. Bởi vì chúng sinh mỗi người trước tướng,
nếu không theo pháp Bát Nhã, thọ trì đọc tụng, thì khó mà ngộ lý pháp thân, phi
tướng. Không sanh tuy ngộ toàn thể pháp thân, lại nghi ngờ phát thân không ngôn
thuyết, đã là pháp thân không ngôn thuyết, thì tại sao Như Lai hiện có ngôn
thuyết. Như Lai đã có ngôn thuyết, đó không phải là hữu tướng hữu thuyết? Người
chưa liễu ngộ đều do không hiểu hóa thân của Phật thường nói cáp pháp NHƯ NHƯ.
Kỳ thật hóa thân chẳng phải ứng thân, ứng thân chẳng phải hóa thân, có khi cũng
ứng cũng hóa, có lúc không ứng không hóa, toàn là đại dụng pháp thân. Thế nào
gọi là hóa thân không ứng thân? Pháp thân là pháp thường trú, tùy tâm chúng
sanh được sự cảm ứng, ẩn trong thân Phật, hoặc hiện thân rồng, quỷ.
Thế nào gọi là ứng
thân chẳng phải hóa thân? Ứng theo địa phương, tùy theo căn cơ hiện thân Phật,
chẳng bị nhiếp trong ngũ thú vậy. Thế nào gọi là cũng ứng cũng hóa thân? Thanh
van chỗ thấy tướng là tu để thành Phật, thuộc thân hiện có. Thế nào gọi là
không ứng không hóa thân? Pháp thân báo thân, không thuộc ứng thân cũng chẳng
thuộc hóa thân. Nay nói ứng hóa không chân thật là nói pháp thân vốn không có
tướng ngôn thuyết, mượn hóa thân mà nói. Dùng thân như như, nói pháp như như,
không chấp nơi tướng, không tướng nhưng đều là tướng. Ba thân một thể, một thể
ba thân. Đến đây mới thật là pháp Bát Nhã vô thượng; thể pháp thân như như bất
động.
- Tu
Bồ Đề! Nếu có người đem bảy thứ quý báu đầy vô lượng A tăng kỳ thế giới. A
tăng kỳ là tiếng Phạn Asankhya. Trung Hoa dịch là vô ương số, đem dùng
bố thí; nếu có thiện nam, tín nữ nào phát tâm bồ đề thọ trì KINH KIM CANG này,
cho đến một bài kệ bốn câu v.v…thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói, phứơc này
hơn phước bố thí trước. Làm thế nào vì người diễn nói, là không chấp nơi tướng,
như như bất động. Tâm như gương sáng, nên gọi là như như bất động,
không chấp sự tướng, muôn pháp đều không, như như bất động, tức là viên dung tự
tại vậy. Như như bất động, muôn pháp về nơi chơn tánh cũng như lưỡng nghi, tứ
tượng về nơi thái cực vậy.
- Vì
cớ sao? Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao huyễn hóa, bọt nước, bóng trong
gương. Chiêm bao là khi ngủ thấy cảnh vật giả dối; huyển hóa là huyễn
thành vọng ý, hóa biết vào huyễn, huyễn kết thành hóa đều từ điên đảo, mà phát
khởi; bọt nước là bào bọt tụ động trên mặt nước, có luồng gió thổi là tiêu tan;
bóng trong gương là hình chiếu thành bóng, hình theo bóng diệt, tất cả đều là
hư vọng không thật.Như sương cũng như điển chớp, sương kết tụ thì
mặt trời chiếu soi là tiêu tan; điển chớp, xẹt lên rồi tan, khởi diệt rất mau
chóng vậy, phải quán sát như thế. Chiêm bao, huyễn hóa, bọt
nước, bóng trong gương, sương tuyết, điển chớp, sáu thứ này gọi là “lục quán”.
Quán sáu cái đó đều giả thì chơn quán hiển lộ. Chơn quán tự nhiên tức là như
như bất động, chơn không thật tướng, bản giác của nó có trước vũ trụ muôn loài.
Các Pháp thế gian
thuộc hữu vi,
Như đương ngon giấc
mộng đông thùy,
Như đồ giả dối không
bền chặ,
Như bọt tiêu tan mất
cấp kỳ,
Như bóng bên hình,
không lại có,
Như sương trên cỏ nắng
còn chi,
Như luồng điển nhoáng
không tồn tại,
Nhận xét như vậy, mới
thật tri!
Đức Phật thuyết Kinh
này rồi, trưởng lão Tu Bồ Đề cùng các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di,
tất cả người, trời, a tu la, trong cõi đời nghe Phật thuyết KINH KIM CANG này
đều rất hoan hỷ, tín thọ y giáo phụng hành.
KHÁI LUẬN:
Trước đã nói nhơn
không, pháp không, Đức Phật e sợ người đời sau nghi nhơn, pháp đã không, trì
Kinh đâu có lợi ích gì? Thế nên phần cuối lại nói thêm so sánh phước huệ lần
thứ 9. Nhơn vì trước tướng đặng phước thọ hưởng có thời gian hết, huống là nhơn
hưởng phước mà tạo thêm nghiệm. Duy có phước xuất thế không xót không mất, thụ
hưởng vô cùng tận. Tuy là so lường khuyến nói, song làm cho người đời tỉnh ngộ,
thọ trì đọc tụng kinh điển là thù thắng, đinh ninh lập đi nói lại, muốn cho mọi
người lòng tin thanh tịnh, thật tâm hộ niệm phú chúc một tấm lòng thành vậy.
GIẢNG NGHĨA:
Đức Phật dạy:
- Tu
Bồ Đề! Nếu có người đem bảy thứ quý báu đầy dẫy vô lượng vô ương số thế giới,
thật hành hạnh bố thí, phước vẫn nhiều. Song mà có thiện nam tín nữ, phát tâm
rộng lớn khắp giúp, thọ trì đọc tụng Kinh này dù chỉ là bài kệ bốn câu, không
những tự mình thấy tánh, lại muốn vì người diễn nói, khiến người thấy tánh, thì
phước xuất thế này so sánh với phước bố thí trước thù thắng rất nhiều. Phải
diễn thuyết cho người nghe như thế nào? Cốt yếu là không trước tướng, không
động tâm. Đó là vì duyên cớ gì? Nhơn vì phàm phu trong thế gian có những cách
tạo tác thi vi, hiện diệt bất thường, như đồng cảnh chiêm bao, đồng duyên huyễn
hóa, đồng như bóng trong gương, đồng như sương mai có ánh nắng liền tan, đồng
như luồng điện chớp liền tan. Phàm những gì thuộc về pháp hữu vi, phải làm sáu
cách quán như trên.
Đức Phật lại cặn kẽ
giảng thông pháp bát nhã, nói Kinh này rồi, Tôn giả A-Nan ghi lại Kinh này đầy
đủ, trưởng lão Tu Bồ Đề cùng các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ và
trời, rồng, hàng bát bộ cũng như các chúng quỷ thần A Tu La v.v…đồng ngồi trong
pháp hội đạo tràng , nghe Kinh được sự cảm hóa bởi Đức Như Lai, toàn thể không
sợ hãi, không e dè rất là hoan hỷ, tín thụ lời Phật nói, phụng hành lời dạy của
đấng Thiên Nhân Sư.
Thơ 32:
Nếu ai đem của thực
thi,
Bố thí bảy báu từ bi
giúp đời,
Không bằng những kẻ
đúng thời.
Thọ trì diễn nói những
lời KIM CANG,
Vì sao thắng phước cao
sang?
Không chấp không
trước, tâm an bình thường,
Hữu vi sáu pháp tơ
tường,
Quán sát như vậy, trên
đường thành công.
Phật thuyết Kinh Pháp
vừa xong,
Thất chúng đệ tử, cũng
đông người trời,
Toàn thể tín thọ những
lời,
Phụng hành Kinh giáo,
trọn đời tiến tu.
No comments:
Post a Comment