Nguyễn Việt
Nữ
Câu trả lời là cả hai. Với phong trào tuyệt vời chống kỳ thị chủng
tộc vì dân quyền cho người da Đen, Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. đã cứu nước Mỹ.
Nhưng với chiến tranh Việt Nam, bất hạnh thay, ông đã giết nưóc Mỹ.
Chúng tôi xin nhấn mạnh khái niệm này, bởi vì nhiều học giả Mỹ
đã bị Hồ Chí Minh đánh lừa, kể cả Tiến Sĩ Martin Luther King Jr, giải Nobel Hoà
Bình.
Tổng Thống Richard M. Nixon cũng từng nói “Không có biến cố lịch
sử nào của nước Mỹ bị hiểu lầm nhiều hơn cuộc chiến Việt Nam. Lúc ấy nó đã
bị tường trình sai, và ngày nay nó bị nhớ sai. Hiếm khi nào nhiều ngưòi
đã sai lầm đến thế. Chưa bao giờ sự hiểu lầm về cuộc chiến đó có những
hậu quả bi thảm đến như vậy.”
Bây giờ thì đã quá trễ, nhưng ít nhất chúng ta phải đánh tan mọi
hiểu lầm để chặn đứng những hậu quả bi thảm để chúng không lan rộng hơn nữa.
Trong chiến tranh Việt Nam vào những năm 60, Tiến Sĩ King đã đưa
ra nhiều lời tuyên bố công khai, thậm chí ông còn giữ một lập trường ôn hòa về
những lực lượng đang lên của phong trào da màu, kể cả những nhóm tranh đấu như
nhóm Cộng Sản thân Mao thuộc đảng Hắc Báo chiến đấu vì “Phong trào Dân quyền”
Người ta chỉ nhớ niềm mơ ước đặc sắc của ông với bài “Tôi có một
giấc mơ”. Nhưng ngày 4 tháng 4 năm 1967 mục sư King đã đến nhà thờ
Riverside ở Manhattan để đọc một bài thuyết giảng tựa đề “Tuyên Bố độc lập về
Chiến Tranh VN” trưóc 3,000 người ngồi chật ních thánh đường.
Ngày 15 tháng Tư năm đó, TS King đã đọc diễn văn trước hàng trăm
ngàn người xuống đường biểu tình chống chiến tranh diễn hành từ Công Viên Trung
Tâm tới trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước.
Bài giảng “Tuyên bố độc lập về Chiến Tranh VN” của vị mục
sư có ảnh hưởng sâu xa, tăng cường ý thức phản chiến khắp nơi, từ các nhà thờ,
trường học tới các xóm nghèo và hàng ngũ chiến binh ở Việt Nam.
Trong 9 trang giấy của bài thuyết giảng, ông nhìn chiến tranh
như một kẻ thù của dân nghèo, như cộng đồng của ông, và ông coi chế độ Miền Nam
VN -chế độ Ngô Đinh Diệm-- được Mỹ ủng hộ là chế độ tàn bạo. TS King gọi nó là
chế độ sát nhân của Diệm. Ông nói nhóm cũa ông từ 1957 đã chọn khẩu hiệu
“Để Cứu Hồn Nước Mỹ”.
Vì thế, năm 1967, ông kết luận, “Nếu linh hồn Mỹ trở nên hoàn
toàn bị đầu độc, thì cuộc phẩu nghiệm tử thi sẽ thấy một phần là Việt Nam”.
Mục sư King đã nói Hồ Chí Minh đã tuyên bố Việt Nam độc
lập từ 1945. Trong tuyên ngôn đôc lập này ông Hồ đã trưng dẫn bản Tuyên Ngôn Độc
Lập của Hoa Kỳ. Nhưng, King nói, “người Mỹ chúng ta đã từ chối, không
nhìn nhận họ”. Chính quyền cách mạng Việt Nam đã được thành lập không
phải do Trung Quốc, mà là bởi các lực lượng bản xứ, trong đó gồm một số người Cộng
Sản.”
(Bài “Ngủ chung với kẻ thù”, TNS James Webb của Virginia đã
nói dù CS có ít đi nữa nhưng ảnh hưởng cũng cực kỳ mạnh)
TS King cũng tố cáo “kẻ cung cấp bạo lực lớn nhất hoàn cầu chính
là chính phủ của tôi (tức chính quyền Mỹ) (Xem Việt Nam và Mỹ Quốc của
Marvin E. Gentleman, xuất bản lần thứ hai, năm 1995, trang 310)
Tất cả chúng ta đều biết, đoàn kết thì chúng ta sống, tuy nhiên,
lúc ấy thật là nguy hiểm và tai hại cho Mỹ Quốc, vì khi mà nước Mỹ gửi quân
sang tham chiến ở Đông Dương chống Cộng Sản, thì tại quốc nội, mục sư King lại
hô hào “đứng ngoài cuộc chiến” !! Vì thế, mấy tháng sau lời tuyên bố đó, vào
mùa thu năm 1967, Bác sĩ Benjamin Spock --bạn thân của TS King—và 4 người
khácđã trao trả cho bộ Tư Pháp một cái cặp đựng đầy thẻ quân dịch. (Không giao
cho người được gọi nhập ngũ!)
Tại sao Hoa Kỳ từ chối không nhìn nhận Hồ Chí Minh vào năm 1945?
1. Lịch sử Mỹ
Tổng Thống thứ 33 của Mỹ, Harry S. Truman (1945- 1953) đã từ chối,
không nhìn nhận Hồ Chí Minh, vì Hồ là một điệp viên của Quốc Tế Cộng Sản
Mở đầu cuộc sưu tầm tra cứu bắt đầu từ nguồn gốc đảng Cộng Sản,
thì sẽ tìm ra thủ phạm không thể sai lầm sau đây:
ÌÌ. Lịch sử Đảng CS việt Nam cho thấy, ngay từ 1920,
Nguyễn Tất Thành, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh đã nhìn nhận rằng ông ta
chẳng biết gì về Quốc Tế hai hay hai rưỡi, nhưng ông ta chỉ biết rằng Quốc Tế 3
đã nói đến “sự giải phóng các thuộc địa, và điều này làm ông ta vui mừng đến chảy
nước mắt,” và nó đã ảnh hưỏng đến quyết định của ông ta gia nhập phong trào Cộng
sản Quốc Tế III (Xem HCM tuyển tập, tập 4, Hà Nội, Nhà XB Ngoại Ngữ, 1960 –
1962, 4: 448-450)
Đối với tôi, thật là buồn cười để nói rằng “tôi là nhà ái quốc
hiến thân cho cuộc Cách Mạng “giải phóng quê hương”, rồi sau đó lại nhắm mắt ngụp
lặn vào một ý thức hệ vô tổ quốc mà tôi tuyệt đối chẳng biết gì về nó ngỏ hầu
thực hiện ý nguyện của tôi là trở thành một nhà ái quốc.
Luận cứ này càng có giá trị hơn khi xem xét thực tế là suốt
trong thời gian đó ông Hồ được vây quanh bởi những cộng tác viên thân thiết và
có hiểu biết rộng trong nhóm Ngũ Long như các bậc tiền bối Phan Chu Trinh, Nguyễn
Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và luật sư Phan Văn Trường. Bốn người này cộng thêm
Hồ Chí Minh tức Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quốc (một tên chung cho cả
năm người). Những bậc tiền bối đã khuyên Thành rằng ý thức hệ Cộng Sản là mối
nguy cho nền văn hóa Việt và cho tương lai tổ quốc.
Cuộc tranh luận dưới đây giữa (nhà cách mạng) Phan Chu Trinh và
Hồ Chí Minh tại Pháp năm 1919:
Vào lúc đó, 95% dân Việt Nam mù chữ, cụ Phan Chu Trinh--một
nhà đại ái quốc – là bạn của cha của ông Hồ, cảm nhận rằng nước nhà không đủ khả
năng chống lại người Pháp, cần phải dựa vào người Pháp để mau mau canh tân xã hội
Việt Nam. Cụ Phan nói:
“Cho phép tôi nhận xét, anh còn quá trẻ, và mọi ngưòi đều thấy
anh cứng đầu quá. Dân Việt Nam hãy còn qúa yếu. Anh muốn rằng 20 triệu
đồng bào ta làm một cái gì đó, trong khi họ không có vũ khí trong tay để chống
lại những vũ khí kinh khủng của người Âu. Tại sao ta lại phải tự sát không vì một
mục đích gì vậy?
Quốc
hãy còn cảm thấy quân Pháp là kẻ thù chính, nên đã trả lời với đầy lòng hận thù
bất diệt:
“Chúng ta là những con người và chúng ta phải sống như những con người. Bất cứ
kẻ nào không đối xử với chúng ta giống như con người thì chúng đều là kẻ thù của
chúng ta. Chúng ta không muốn sống chung với bọn chúng trên trái đất này.”
(Xem “Yêu và Bị Yêu” trang 164-165, xuất bản năm 1993; và Hồ
Chí Minh , a life by William Duiker, xb năm 2000, trang 68)
Nhưng chẳng khác gì “ngựa con háu đá” (chữ của cụ Phan), Hồ bỏ
ngoài tai những lời khẩn nài khôn ngoan của các bậc tiền bối và bạn hữu. Ông ta
bị thu hút vào việc thần thánh hóa và truyền bá thuyết Mác Lê. Còn hơn thế nữa,
ông ta tiếp tục con đường lừă dối (giả vờ giải tán đảng Cộng Sản), khoác áo dân
tộc để ép dân vào con đường mình vạch ra. Bất cứ ai đi trệch con đường ấy hay tỏ
chút nghi ngờ đều bị trừ khử bằng nhiều cách khác nhau: Nhân dân Việt Nam,
kể cả những đồng chí Cộng Sản đã bị khủng bố cho đến tận ngày nay bởi cái mà Cộng
Đảng gọi là “Tư Tưỏng Hồ Chí Minh”
Sau 30 năm làm nghĩa vụ quốc tế cho Quốc Tế 3 ở hải ngoại, về nước
tuyên truyền, liệu người Việt đã hiểu gì về ý thức hệ Cộng Sản của Hồ ? Chẳng
hiểu gì cả. Họ hỏi về nó như sau.
ÌÌÌ. Cây Cộng Sản, Cây Cứt Lợn, Cỏ Bọ Xít hay “Cỏ Bác Hồ” ?
Từ
1941, Hồ Chí Minh trở về vùng Việt Bắc để bắt đầu làm cách mạng chống Pháp, được
biết dưới tên Việt Minh. Trí thức Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Hồ.
Nhưng họ không biết Cộng Sản, vì ý thức hệ Mác Lê chưa từng có trong văn hóa của
họ trước đây. Hai tên đó là những câu hỏi thực, là câu chuyện thực về chủ nghĩa
CS của ông Hồ.
Nếu nói về đạo hiếu đúng nghĩa theo luân lý “Cửa Khổng Sân
Trình” , trong đòan người khổng lồ ai bằng cụ Tú Nho Phan Khôi, người đã từng
đi kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc, đã làm tròn mỹ mãn công tác
phiên dịch sách chữ Hán và chữ Pháp ra tiếng Việt, đã được Bác Hồ ban cho cụ một
chiếc áo blouson Mỹ (Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 55). Nhưng vì “có tim”
nên cụ Phan Khôi bất bình với chính sách khủng bố của Việt Minh, vì cụ đã sớm
thấy lối giết người dã man kiểu Phạm Ngọc Thảo bị đi “mò tôm” ở miền Nam;
nơi khỉ ho cò gáy Việt Bắc, cụ làm bài thơ ám chỉ Việt Minh là lòai thú vật bằng
chữ Hán mà Thế Lữ dịch ý như sau:
“Một mình trước cảnh xanh núi rừng
Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn
Vì ta chạy lọan mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền.”
Đến khi phong trào kháng chiến Việt Minh hiện nguyên hình là Đảng
Cộng Sản, cụ Phan Khôi đã viết bài “Cây Cộng Sản” chỉ ngay vào vùng Việt Bắc,
quê hương cách mạng:
“Có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật Bản ở nước ta trước
kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy
tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có.” Cụ Phan Khôi cho rằng nó mọc
trên thị trấn bị ta phá họai như rừng, ken kít nhau. Nơi gọi là Cỏ Bù Xít vì
nó có mùi hôi như con bọ xít; nơi gọi là Cây Cứt Lợn, nơi gọi làCây Chó Đẻ.
Tên đều không nhã tí nào hết (…) thứ cây ấy những người có học gọi bằng Cây
Cộng Sản. Cụ cho rằng trước kia xứ ta không có Cây Cứt Lợn dại này, mà vì người
Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su để che đất cho mát gốc: “Không
mấy lâu nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngòai đồn
điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với
Đông Dương Cộng Sản Đảng bắt đầu họat động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn
nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được thứ cây ấy cho nên bọn
Tây đồn điền đặt tên nó là “herbe communiste”, đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản,
nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng Sản. Nó còn một tên nữa rất lạ…”
Cụ Phan Khôi còn táo bạo hơn, đã bịa ra rằng có ông già người Thổ
ở vùng Việt Bắc:
“Hỏi ông tên nó là cây gì, ông nói tên nó là “cỏ cụ Hồ”. Thứ cỏ
này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng thì thấy
thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết
tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy.”
Cụ yêu kháng chiến nhưng ghét cộng sản vì chính sách khủng bố
tàn bạo của nó. Cụ đồ nho Phan Khôi đã thẳng thắn vạch mặt chỉ tên Cây Cộng Sản
là Cây Chó Đẻ do cụ Hồ đem vào Việt Nam khi lãnh đạo cách mạng. Sống
9 năm trong chiếc nôi cách mạng, bên cạnh bác Hồ, được ân sủng của Bác, nhưng cụ
Phan đã không vì “chữ hiếu” mà ca tụng kẻ ác. Dĩ nhiên, bài này không được phép
xuất bản. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy nó trong Báo Văn Nghệ ở miền Bắc của
thời Hồ Chí Minh, số tháng 8 năm 1958, vì báo này trích đọan văn nói trên
của Phan Khôi để buộc ông tội phản động.
(Yêu và Bị Yêu, Nguyễn Việt Nữ, trang 184):
IV Những nhân chứng sống vể cộng đảng của HCM trong năm 1945.
Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975 là lúc bắt đầu những đau
buồn do tư tưởng Hồ Chí Minh Trong sắc lệnh 49 nói trên. Sau khi CS nắm quyền,
tất cả các tôn giáo ở Việt Nam đều chung số phận. Một chiến dịch đàn
áp dữ dội nhắm vào Phật Giáo được tung ra khắp miền Nam. (Tại miền Bắc thi
ông Hồ đã quét sạch từ 1945 rồi.) Nhiều tín đồ mọi tôn giáo bị bỏ tù hay sách
nhiễu. Ở đây chúng tôi chỉ xin nói đến 2 trường họp nổi bật tượng trưng cho số
phận của hàng triệu người dân Việt Nam: Người CS nêu tất cả mọi quyền tự
do trong Hiến Pháp. Luật pháp cũng có vẻ văn minh như mọi quốc gia hiện đại.
Nhưng họ bắt bỏ tù ngưòi dân mà không cần xét xử theo thủ tục cần thiết. Nếu có
ai đòi nhân quyền theo đúng luật của chính phủ, thì sẽ bị đánh đập, bỏ tù hay bắt
giam tại gia với sự canh chừng rất nghiêm ngặt của cảnh sát; điện thoại bị cắt;
mọi người thăm viếng đều bị theo rõi. Về việc này hòa thượng Thích Quảng Độ khi
được phóng thích nhân ngày “Quốc Khánh ‘ của CS, mồng 2 tháng 9 năm 1998, đã
nói: “Tôi rời nhà tù nhỏ để vào một nhà tù lớn hơn”
1. Hòa thượng Thích Quảng Độ, Quyền Tăng Thống Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một lãnh tụ tôn giáo dám công khai phê bình chỉ
trích nhà cầm quyền CS Việt Nam.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị bách hại một cách có
thệ thống. Tài sản bị tích thu. Các tu viện và cơ chế Giáo Hội bị giải tán.
Hàng ngàn tăng ni bị bắt hay lùa vào quân ngũ. Với tư cách tổng thư ký của Giáo
Hội, hòa thượng Thích Quảng Độ đã gửi hàng ngàn lá thư cho nhà cầm quyền phản đối
những trường hợp đàn áp tôn giáo cụ thể. Vì thế ông bị bắt năm 1977.
A. Sư phụ của Hòa Thượng bị hành quyết không xét xử trong Cách Mạng
Mùa Thu, năm 1945.
Hòa thượng sinh năm 1928 tại tỉnh Thái Bình (Bắc Việt), đi tu
năm 14 tuổi. Đến khi 17 tuổi, năm 1945, ông đã chứng kiến Việt Minh bắt đầu làm
cuộc Cách Mạng Mùa Thu bằng hành động hành quyết sư phụ của ông, không theo một
thủ tục pháp lý nào, mà chỉ do cái gọi là tòa án nhân dân, do nông dân vô học
xét xử theo hận thù. Trong bức thư ngỏ gửi Tổng Bí Thư đảng CSVN Đỗ Mười
vào năm 1994, ông đã viết:”Vào đúng lúc ấy, tôi nguyện sẽ làm tất cả những gì
có thể làm để chống lại sự cuồng bạo và bất khoan dung, và hiến dâng cuộc đời
tôi để theo đuổi công lý thông qua lời dậy của đạo Phật về bất bạo động, khoan
dung và thương cảm. Tôi chưa bao giờ hối tiếc về quyết định này. Nhưng tôi chỉ
nhận ra được chút ít rằng lời ước nguyền đơn sơ của tôi đã dẫn tôi vào con đường
lát bằng xà lim, tù đầy, tra tấn, giam cầm trong nhiều năm đến như thế này. Chẳng
bao lâu tôi nhận ra rằng tất cả những bạo chúa đều sợ sự thực, và chúng ta phải
sẵn sàng trả giá -- đôi khi một giá rất cao-- để bảo vệ những xác tín và
giá trị mà chúng ta tin là đúng.”
(Hòa thượng đã gửi lá thư ngỏ cho Tổng Bí Thư Cộng Đảng Đỗ Mười,
kèm theo 44 trang tài liệu nhan đề “Nhận định về những Sai lầm tai hại của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Dân tộc và Phật giáo”.
B.
Bà mẹ 84 tuổi bị giết bằng cách để cho chết dần chết mòn vì thiếu dinh dưỡng và
săn sóc y tế.
Hòa thượng Thích Quảng Độ bị bắt ngày 25 –2-1982 vì chống việc
thành lập một giáo hội Phật Giáo Việt Nam do nhà nưóc bảo trợ, tức Phật Giáo Quốc
Doanh (PGQD), một tổ chức bị kiểm soát bới Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam của Đảng
CS, và vì phản đối những cố gắng đem Phật Giáo VN Thống Nhất nhập vào tổ chức
Phật Giáo quốc doanh. Tất cả bản sao của hàng ngàn lá thư gửi cho nhà cầm quyền
sau chiến tranh kết thúc nhằm phản đối sự đàn áp tôn giáo, đã bị thiêu hủy
trong tháng 7 năm 1982, khi Công An chiếm giữ bản doanh của Giáo Hội PGVNTN tại
chùa Ấn Quang. Phải mất 5 ngày mới đốt hết những tài liệu và hồ sơ của
GHPGVNTN.
Hòa Thượng bị đầy tới một làng xa xôi thuộc Vũ Đoài, Thái Bình
(Miền Bắc Việt Nam), phải sống ở đó 10 năm trong tình trạng tù tại gia. Bà mẹ
84 tuổi của ông cũng bị đầy tói đó cùng với ông. Bà cụ mất năm 1985 vì thiếu
dinh dưỡng và săn sóc y tế. Năm 1990, bộ trưỏng Công An Mai Chí Thọ, một trong
những bộ mặt thế lực nhất, mời hoà thưong Quảng Độ giữ một chức vị trong giáo Hội
Phật Giáo Quốc Doanh ở Hà Nội. Nhưng ông đã khước từ. Ông trở lại Saigon
vàơ tháng 3 năm 1992 (Nguồn Võ Văn Ái, phát ngôn viên của GHPGVNTN, Email: queme@free.fr)
Tóm lại ai phát biểu hay tra cứu về việc nhà cầm quyền CS đàn áp
người dân thì chắc chắn sẽ gặp khó khăn rắc rối, chẳng hạn như chứng nhân sống
số 2 dưới đây.
2. Linh Mục Công Giáo, cha Thađêo Nguyễn Văn Lý
Cha Lý, một tù nhân lương tâm, là một linh mụcCông Giáo,
giáo phận Huế thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã, hiện đang bị giam tại gia để điều
trị về y tế tại Nhà Hưu Dưỡng của tòa Tổng Giám Mục Huế, địa chỉ 69 Phan Đình
Phùng, Huế, Việt Nam. Ngày 8 tháng 6 năm 2010, cha Lý nộp bản cáo trạng số
1, tố cáo chính quyền Cộng Sản bắt giam một cách phi pháp trái với công
pháp quốc tế lần thứ 4 từ ngày 18-2-2007 cho tới thời gian vô hạn định.
Bản khiếu nại gửi tới 3 nơi sau:
--Tòa Án Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, tại Thụy Sĩ
--Tổ chức Quốc Tế Nhân Quyền
Sao gửi các ông
-- Nguyễn Minh Triết, chủ tịch Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt NamN
-- Nguyẽn Tấn Dũng, thủ tướng CHXHCN Việt Nam
Vấn đề lý thú ở đây là, cha Lý quyết định gửi bản khiếu nại vào
ngày 8 tháng 6, là đúng ngày, cách nay một thập niên, Tổng Giám Mục Nguyễn Kim
Điền đã bị đầu độc tại bệnh viện Chợ Rẫy, Saigon, và cha Lý Tin như vậy.
Tiếp theo, Cha Lý đã viết rằng “Lý do là vì từ ngày 7 tháng 2
năm 2007, tôi đã phân phát những tài liệu phô bày sự thực về Hồ Chí Minh và những
tài liệu khác về công lý, dân chủ và nhân quyền; sản xuất và xuất bản bán nguyệt
san Tự Do Ngôn Luận; Tôi là đồng sáng lập viên khối 8406 với Bản Tuyên Bố Tự Do
và Dân Chủ cho Việt Nam vào ngày 8 tháng 4 năm 2006,: Tôi ủng hộ và giới thiệu
đảng Thăng Tiến Việt Nam.
Rồi cha Lý nói ông khiếu nại dựa trên cơ sở pháp lý của Hội Nghị
Quốc Tế về các quyền công dân và chính trị của Liên Hiệp Quốc công bố ngày 16
tháng 12 năm 1966 mà Cộng Sản Việt Nam đã tham gia ngày 24 tháng 9 năm 1982.
1. Các Mác: Khoảng 170 năm trước Các Mác đã không bị bắt
khi ông ta viết cuốn Tư Bản Luận (Das Capital) rồi tuyên Ngôn Cộng Sản ở Luân
Đôn.
2. Khoảng 100 năm trước, Nhóm người Việt Yêu Nước mang tên
tập thể là Nguyễn Ái Quốc gồm có các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn Thụ, Nguyễn
Như Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí MInh) đã viết những bài xã
luận và sách, báo chống nước Pháp thực dân tại Paris mà không bao giờ bị bắt
giam.
3. Ký giả người Việt chống Thực Dân Pháp ở Việt Nam:
Khoảng 90 năm trước, cụ Hùynh Thúc Kháng đã xuất bản báo Tiếng Dân ở Huế năm
1927, cụ Nguyễn An Ninh xuất bản báo Tiếng Chuông Rè ở Saigon năm 1923.
Những người đó đã chẳng hề bị bắt vì thách đố chủ nghĩa Thực Dân
Pháp. Trong thời gian đó, tại miền Nam Việt Nam các đảng viên Cộng Sản cũng
không hề bị bắt, khi họ hoạt động công khai.”
Rồi cha Lý nói với thế giới rằng, “Cho tới hôm nay, trong tất cả
4 lần bị bắt của tôi, tôi đã bị giam giữ, kết án và bỏ tù 7 lần tổng cộng 17
năm và 7 lần bị giam tại nhà tổng cộng 14 năm; và ngay cả với 5 năm tù còn lại
và 5 năm quản chế tại gia, tôi vẫn coi tôi vô tội, vì tôi luôn luôn làm những
gì mà hội nghị quốc tế cỗ võ. Nhà nước Việt Nam Cộng Sản từng là hội viên của hội
nghị này đương nhiên họ có bổn phận phải tuân thủ. Trái lại, khi nhà cầm quyền
Việt Nam Cộng Sản bắt giữ và kết tội tôi, họ đã vi phạm các công ước quốc tế mà
họ đã ký kết. Họ chẳng bao giờ tuân thủ những công ước này trong suốt 65 năm
qua.
Cha Lý nói ông bị 3 năm tù biệt giam, với bệnh cao áp huyết
bất thường phức tạp với 4 lần lên cơn đau tim (một lần mới đây vào tháng 5 năm
2010), kéo theo nhiều lần đột qụy khiến tôi bị bại liệt nửa người bên trái,
chính quyền Cộng Sản phải bồi thường cho tôi ít là 10 tỷ Đồng Việt Nam.
Về “tổn thương tâm lý” Linh mục Lý yêu cầu:
Một lời xin lỗi của chính phủ Việt Nam Cộng Sản, một Đồng Bạc
danh dự; chấm dứt mọi hành động đàn áp, bắt bớ, ngưng bỏ tù các nhà hoạt động
ôn hòa là những người đang đấu tranh cho công lý, tự do và dân chủ cho Việt
Nam. Phải phóng thích ngay lập tức và vô điều kiện tất cả mọi người hoạt động
cho nhân quyền.
Cha Lý đã gửi kèm theo thư khiếu nại, một bản liệt kê 44 kỹ
thuật trừng trị thân xác và tra tấn (…) một phương pháp đánh đập tra tấn tinh
vi mà vết thương sẽ lành trong vòng từ.. đến 6 tháng. Sau đó chúng sẽ lành, hoặc
chỉ làm đau trong nội tạng, dẫn đến cái chết và chỉ để lại dấu vết rất nhỏ bên
ngoài. Những dụng cụ để hành xác hay tra tấn thì rất tàn bạo, vừa hiện đại vừa
thanh nhã, rất khó khám phá, nhưng lại dễ tìm thấy như, ánh đèn, cây viết, thước
kẻ, bàn, ghế, sàn nhà, trần nhà, cửa sổ, bàn tay, găng tay, dép nhựa, giầy,
còng tay, roi điện, gậy.
Ngoài ra, viêc hành xác còn mang tính quái dị của loài thú, ám ảnh về sinh lý dục
vọng một cách bệnh tật, hoang dại khó có thể tin được. Nhưng tất cả đều hoàn
toàn là sự thật, như được mô tả đầy đủ bởi những nạn nhân (như nữ tù nhân Lê Thị
Kim Thu, nữ luật sư Lê Thị Công Nhân). Họ sẵn sàng đích thân làm chứng nếu tòa
đòi. (Chữ ký)
Kết luận 4 trang liệt kê danh sách 44 kỹ thuất tra tấn vô nhân đạo,
cha Lý đặt câu hỏi, “Tại sao chế độ nay dã man xấu xa và tàn ác như thế? Và cha
tự trả lời rất chính xác và đầy đủ mà tóm gọn là: Vì họ là những đồ đệ của
những Lênin, Stalin, đặc biệt là Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh!
Những tương phản này đủ trả lời câu hỏi của TS King rằng tại sao
chúng ta từ chối không nhìn nhận Hồ Chí Minh, khi chínhh phủ của ông ta năm
1945 là chính phủ dùng bạo lực kinh khủng nhất.
Nhưng đó là đã 55 năm rồi. Dưới đây là một chuyện khác có tính lịch
sử liên quan đến câu hỏi của TS King.
Bài học hoàn toàn đầy đủ về Cộng Sản, 35 năm sau chiến tranh.
Cộng sản chiếm Miền Nam Việt Nam ngày 30 –4- 1975, vi
phạm một cách trắng trợn bản thỏa hiệp Paris. Cho đến năm 2010 là 35 năm
không tiếng súng. Nhưng đời sống của nhân dân trở nên tồi tệ hơn.
Năm 1967, mục sư Luther King đề cử nhà sư Phật Giáo Thích Nhất Hạnh
làm ứng viên giải Nobel Hòa Bình, vì ông này là một kẻ phản chiến hoạt động
trong những năm 1960. Chính Quyền Miền Nam gửi ông ta du học và giảng
dậy các vấn đề tôn giáo ở đại họcColumbia. Ông ta đã đứng về phe chống chiến
tranh Việt Nam, cùng một lập trường “độc lập với chính quyền” và với Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, để đi theo mục sư King. Rồi ông ta trở về nước
mà không có hành động kỷ luật nào, trái với Hồ Chí Minh là kẻ đã trưng dẫn
Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Nhưng Hồ đã bỏ tù tất cả những nhà bất đồng
chính kiến.!
Nhưng năm 1966 ông ta lại đi du lịch Mỹ Quốc và cả Âu châu trong
một sứ mạng “hòa bình” của phong trào phản chiến. Ông ta được thế giới chú ý,
và không trở về nước.
Sư Nhất Hạnh ở lại Pháp, lập làng Mai để dậy đạo Phật từ đó tới
nay. Người ta gọi ông là Thiền Sư, một bậc Thầy đáng kính. Nhưng những người ủng
hộ cuộc chiến chống Cộng không ưa ông, ngay cả dù họ thích những tác phẩm về
giáo lý Phật giáo viết rất hay. Họ coi Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là
người đã góp sức vào chiến thắng của CS, khiến đời họ khổ.
Đảng CSVN không bao giờ từ bỏ mục đích của nó là triệt hạ mọi
tôn giáo. Điều này thật ghê tởm đến độ Hoa Kỳ đã phải gọi Việt Nam CS là nước cần
quan tâm đặc biệt (CPC). Vì thế, nhằm xóa bỏ điều đó đi, nhà nước CS đã mời nhà
sư Thích Nhất Hạnh về nước đi một vòng Việt Nam thăm viếng quê
hương.. Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã khuyên nhà Sư này đừng về, vì tình hình vẫn
còn đáng sợ lắm. Nhưng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh vẫn giữ ý định về nước với một
phái đoàn tôn giáo khoảng một trăm người.
Nhà cầm quyền CS đã tập họp dân lại cho ông thuyết giảng trên mọi
miền đất nước từ Bắc chí Nam. Với những phái đoàn Phật Giáo từ nước ngoài
về, tự do đi lại trong nước như vậy, người ta sẽ không còn có thể nói chính quyền
cố tình bách hại Phật Giáo ở ViệtNam nữa. Rồi một chuyến về thăm quê hương
như thế lại tái diễn trong vòng 3 năm, phái đoàn Phật Giáo nước ngoài ở lại khoảng
hai ba tháng mỗi lần.
Rất rõ ràng, chính quyền CS đã tiến bộ một cách tốt đẹp! Bên
Công giáo VC cũng cho ra vô ào ạt. Dân được đi Chùa, nhà thờ, Thánh thất nhiều
hơn. Vì thế chính quyền Hoa Kỳ thời Tổng Thống George W. Bush phải lấy Việt Nam ra
khỏi danh sách các nước đáng quan ngại về tự do tôn giáo.(CPC)
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại kêu toáng lên phản đối Tổng Thống,
Vì họ biết tỏng đi rằng bọn CS đã chẳng thay đổi gì.
Trong 3 năm làm thân theo tình đồng chí, đảng CS Việt Nam cho
phép một tăng sĩ chủ trì tu viện Bát Nhã, thuộc tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam là tu
viện nằm trong hệ thống Phật Giáo Quốc Doanh, được sang Pháp tu học với Thầy Nhất
Hạnh. Và khi về nước nhà sư Quốc Doanh đã mời các đệ tử của Thầy Nhất Hạnh từ
Pháp về VN, tới tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng để tu tập, dạy môn sinh theo môn
phái của Thích Nhất Hạnh. Việc này đã được Chủ Tịch nước CS Nguyễn Minh Triết
chấp thuận.
Thích Nhất Hạnh và một số tăng đòan Làng Mai đã đứng chụp hình tại
phủ Chủ Tịch tại Hà Nội cùng với Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết với tướng Võ Nguyên
Giáp, anh hùng Điện Biên. Thật là thân mật, ấm cúng.
Vị Sư quốc doanh chủ trì tu viện Bát Nhã Lâm Đồng đề xuất với Thầy
Thích Nhất Hạnh là hãy thu tiền từ cộng đồng Phật tử hải ngoại và các môn sinh
của ông ta trên khắp thế giới để mở lớn tu viện Bát Nhã Lâm Đồng để có thể chứa
thêm người. Khi đã thu được khoảng một triệu Mỹ Kim tiền cúng dường, thì tu viện
hiện đại ở Lâm Đồng đã gần hoàn tất. Khoảng 400 tu sinh trẻ từ khắp nơi trong
nước đang tu tập...thì lúc đó người ta mới thấy cái tài rất ư là khéo léo của
CS hiện ra.
Kể từ tháng 7 năm 2008, có tin nhóm người của Thích Nhất Hạnh phải
ngưng sinh hoạt ở Việt Nam, vì các tu sinh sống bất hợp pháp. Họ bắt buộc
phải ra đi. Tiếp theo nghe nói chùa Phước Huệ cho họ trú ngụ để lánh nạn. Chùa
này cũng ở Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng. Nhưng nhà Sư chủ trì tu viện Phước Huệ
bị công an tôn giáo đánh đập phải nằm bệnh viện vì “tội” chứa tu sinh của Lâm Đồng,
Đến năm 2009, càng ngày càng có nhiều tin bi thảm cho bất cứ ai
dám cho 400 tu sinh nạn nhân tá túc. Lương thực, áo quần, vật dụng thường ngày
cho họ có lúc không còn. Điện trong tu viên bị cắt. Rồi từ đó trở đi, tu viện
Bát Nhã Lâm Đồng bị bố ráp. Bọn côn đồ dùng búa tạ tấn công tu viện, đập phá cửa
sổ và nhà cửa và đe dọa những người ở trong đó. Nhân dân khắp thế giới đọc tin
các hãng thông tấn AP, Nữu Ước Thời Báo, nghe đài BBC hay các đài địa phương đều
biết những tin rùng rợn suốt cả năm.
Ví dụ như ngày 2 tháng 11 tỉnh trưởng Lâm Đồng (Luôn luôn phải
là đảng viên CS) đã đòi vị Sư chủ trì đã cho 400 Tăng Ni Sinh tá túc tại chùa đến
và yêu cầu nhà Sư phải bắt buộc họ rời chùa trước đầu tháng 12.
Ngay cả trên bản tin của Làng Mai của mình, Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh cũng không giấu tin đó, chẳng hạn các bài báo dưới đây:
“ Tu Viện Bát Nhã ở Việt Nam đã bị phá hủy hoàn toàn”
Vào buổi sáng, 150 tên côn đồ đã xông vào tu viện Bát Nhã Lâm Đồng,
VN. Đám đông này đã bạo hành trục xuất 130 nhà sư là những môn sinh của Thiền
Sư Thích Nhất Hạnh. Công an mặc thường phục được biết đã có mặt trong bọn côn đồ.
Cảnh sát mặc đồng phục chặn mọi ngả đường tới tu viện. Các viên chức chính quyền
từ chối không chịu can thiệp. Họ bảo rằng không có gì xảy ra trong khuôn viên
tu viện.
Đám đông, võ trang bằng gậy gộc và búa đã phá nát các cửa sổ và
cửa ra vào. Các Tăng, Ni Sinh, có người chưa đầy 18 tuổi, bắt đầu tọa thiền và
ca hát, để chống trả một cách hòa bình. Họ bị tấn công, xô đuổi bằng bạo lực và
lôi ra khỏi chỗ ở đẩy vào trận mưa như thác đổ. Rồi bị chất đống một cách thô bạo
lên xe tải và tắc xi chở đi xa rồi quăng xuống vệ đường. Một số khác đã đi bộ
15 cây số khỏi tu viện. Họ bị đấm, đá nếu té ngã. Hai vị Sư lớn tuổi hơn đã bị
đánh và bắt giữ mà chẳng có tội gì. Vào lúc này không biết một trong hai nhà Sư
đó, là Sư huynh Pháp Hội, đang bị giam giữ ở đâu. Sau khi đã tấn công được các
Tăng sinh, bọn côn đồ tiến đến khu các Ni sinh. Chúng phá cửa rồi dồn tất cả
230 cô vào một nhà. Họ bị giam ở đó suốt đêm, chờ đợi trong đe dọa là sẽ
bị hành hung vào ngày hôm sau. Bị bỏ lại mà không có lựa chọn nào, các Ni cô và
Ni sinh cỡ tuổi dưới 25 đã rời bỏ nhà ở của họ cho một tương lai vô định.
Một đề mục khác,“Hành hung chống Thích Nhất Hạnh và các môn
sinh”
(Trích dẫn) Tác giả giải thích lý do bài học “toàn hảo” của Cộng
Sản:
“Thiền Sư Thích Nhất Hạnh rơi vào cảnh thất sủng với chính
quyền Cộng Sản, khi Ngài trả lời cuộc phỏng vấn của một phóng viên người Ý rằng
Đức Đại Lai Lạt Ma phải được phép trở về Tây Tạng. Chính quyền Trung Quốc bèn
làm áp lực với Hà Nội buộc phải trừng trị các đệ tử của Thích Nhất Hạnh đang sống
ở Việt Nam.”
Chao ôi! chỉ vài lời nói “Đức Đạt Lai Lạt Ma phải được phép
trở về Tây Tạng”. Và mặc dù Thích Nhất Hạnh đã cứu Việt Cộng trong chiến
tranh Việt Nam trong những thập niên trước, và trong hiện tại ông ta
đã làm cho Mỹ đưa VC ra khỏi danh sách các nước bị quan tâm. Vậy mà VC đã chẳng
đếm xỉa gì đến lòng nhiệt tình của Thiền Sư đối với họ. Họ phải vâng lời Tầu Cộng
trước đã, để phá hủy hoàn toàn tu viện Bát Nhã bằng 150 tên khủng bố dùng những
kỹ thuật khủng bố tinh vi: với công an mặc thường phục trà trộn trong đám côn đồ,
với cảnh sát mặc đồng phục ngăn chặn các ngả đường dẫn tới tu viện. Các viên chức
chính quyền từ chối không chịu can thiệp lấy cớ rằng chẳng có sự gì xảy ra
trong khuôn viên tu viện!
Không lạ là khi Thích Nhất Hạnh nói rằng khi trở về Việt Nam, Sư
Ông hy vọng làm giảm sự căng thẳng giữa nhà cầm quyền CS và Phật Giáo, thì Giáo
Hội PGVNTN đã phê bình ông, gọi ông là “ngây thơ”. Theo bài báo thì Giáo Hội
PGVNTN đã cáo buộc ông hợp tác với nhà cầm quyền CS và cho nó dịp hành động
chính đáng khi bách hại Phật Giáo Việt Nam.
Chúng tôi nghĩ, Thầy Thích Nhất Hạnh chỉ rộng lượng quá trong tư
tưởng. Sự thực là ông đã biết rằng từ sau 1975, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, như
đã nói ở trên, đã gửi hàng ngàn thư cho nhà cầm quyền, để phản đối những trường
hợp đàn áp tôn giáo rõ ràng. Và hòa thượng đã bị bắt giam từ năm 1977 đến nay.
Hiện thời hòa thượng vẫn còn bị giam tại gia một cách nghiêm ngặt.
Rồi đùng một cái, chỉ trong 3 năm từ 2005 đến 2008, Thích Nhất Hạnh
tỏ ra vui thích lạ lùng để giúp làm “những căng thẳng giữa chính quyền CS và Phật
Giáo đã giảm” ?
Chúng tôi hy vọng đây là bài học tuyệt hảo về Cộng Sản cho tất cả
mọi tấm lòng yêu chuộng hòa bình. Nhưng như Tổng Thống Richard Nixon đã viết, quân
CS đã mang hòa bình đến cho miền Nam Việt Nam và Cambodia,
nhưng là một nền hòa bình của nghĩa địa”
Những nhân chứng sống và những câu chuyện thật trên đây đã chứng
tỏ rằng, từ khi nhận được sự trao đổi mậu dịch song phương và mở cửa cho việc
buôn bán tự do, rồi vào tổ chức mậu dịch thế giới (WTO), chính quyền CS đã
không hề thay đổi chút nào về chính trị. Nhưng những ngưòi yêu thích CS mà
không biết sách lược đấu tranh của chúng, sau khi thăm viếng Việt Nam, đã
vội kết luận rằng Việt Nam đã tiến bộ nhanh , và những người này tìm
đủ mọi cách để tăng cường mậu dịch giữa hai nước, và làm áp lực để hợp tác song
phương về giáo dục và đào tạo lực lượng lao động cho Việt Nam.
Người
ta chỉ nhìn thấy sự tiến bộ bề ngoài, còn bên trong thì người nghèo vẫn nghèo
hơn. Có một vài thay đổi về vật chất, đúng vậy; nhưng về tinh thần thì đang chết.
Chúng ta phải làm gì? Có rất nhiều điều phải làm. Nhưng trước hết
là kêu gọi Tổng Thống Barack Obama. Vì cách đây mấy tháng ông đã nói với thế giới
về sự bất bạo động của mục sư King là điều không thể thực hành được trong mọi
hoàn cảnh. Nó sẽ dẫn đến câu hỏi là “tại sao Cộng Sản chiến thắng”?
Kêu gọi Tổng Thống Obama
Khi nhận giải Nobel Hòa Bình ngày 9-12-2009, Tổng Thống Barack
Obama đã tự hào ca ngợi những thành tích mà các Tổng Thống Richard Nixon và
Ronald Reagan đã cống hiến cho thế giới.
Do đó, chúng tôi xin nhắc độc giả nhớ lại những lời tuyên bố tuyệt
vời của ba vị Tổng Thống liên quan đến mục sư TS King và chiến tranh Việt Nam.
Trước hết là lời tuyên bố của Tổng Thống Obama tại Na-Uy:
“Chỉ cho tới khi Châu Âu được giải phóng, thì cuối cùng nó (châu
Âu) mới thấy hòa bình. Nước Mỹ chưa bao giờ chiến đấu chống một nền dân chủ, và
các đồng minh thân thiết nhất của chúng ta là những chính phủ bảo vệ các quyền
công dân.”
Vâng, đúng vậy, một trong những đồng minh hay người bạn thân nhất
của chúng ta (Mỹ) trong chiến tranh Việt Nam là chính phủ Nam Việt Nam. Họ
đã (chiến đấu để) bảo vệ các quyền của công dân.”
Nhưng, đáng tiếc là cuối cùng, sự việc đã bị đảo lộn cả.
Tổng Thống Nixon giải thích tại sao? Bởi vì:
“Có quá nhiều trí thức Mỹ và những bậc thượng lưu ưu tú của nền
văn hóa Mỹ đã tự tỏ ra là họ xuất sắc sán lạn, nhưng họ bị chột một con mắt: Họ
có xu hướng chỉ thấy điều xấu xa ở phía bên Hữu, chứ không thấy xấu ở phía bên
Tả. Họ có thể cực kỳ đơn sơ và ngây thơ về những thực tế củă cuộc chiến toàn cầu
mà chúng ta đang chiến đấu trong đó. “Chiến tranh là xấu” Hòa bình là tốt. Ngày
nay, vấn đề Phương Tây sống hay chết nằm trong tay lực lượng ưu tú mới của
mình.
“Nước Mỹ thua ở Việt Nam, vì lực lượng ưu tú này luôn luôn mô tả
trước là Diệm, rồi sau là Thiệu là những nhà độc tài tham nhũng, và cuộc chiến
là xấu xa không đáng để tham chiến. Họ làm ngơ không đếm xỉa đến điều này là, nếu
không chiến đấu thì sự thể sẽ còn tồi tệ hơn như thế nào....Các đài truyền hình
thì lãng mạn hóa đối phương gọi chúng là những nhà cách mạng. Cũng giống như tờ
Nữu Ước Thời Báo lãng mạn hóa phe Fidel Castro hai thập niên trước, mô tả anh
ta là thành tố chính trong việc làm cho cuộc cách mạng của anh ta trở nên chính
đáng, và làm cho anh ta nắm chắc phần thắng.
Cộng Sản nguy hiểm cho Tây Phương hơn là chủ nghĩa phát xít của
Đức Quốc Xã. Bởi vì nước Nga khi nó tới mọi quốc gia mà nó muốn thống trị thì
nó làm như nó tới để giải phóng nước đó khỏi sự đàn áp của Đế Quốc.” (Xem
tác phẩm The Real War của R Nixon trang, 259)
Tổng thống Nixon biết rất rõ về Cộng Sản, ít nhất kể từ khi ông
là phó Tổng Thống vào năm 1953. Cộng Sản giết dân vô tội trong Cải Cách Ruộng Đất
ở Nga, tàn ác hơn Hitler. Vì vậy trong sách ông đã viết về năm 1930 là năm Hồ
Chí Minh, với tư cách là một điệp viên của Quốc Tế Cộng Sản đã tổ chức nên đảng
Cộng sản Đông Duơng ở Hương Cảng (Đông Dương gồm Việt Nam, Ai Lao và Cambôdia).
Lúc đầu Hồ đặt tên là Đảng CSVN. Nhưng liền sau đó phải theo lệnh của Liên Xô cải
danh là đảng CS Đông Dương.
“Công cuộc tập thể hóa nền nông nghiệp Xô Viết vào năm 1930, là một trong những
sự tàn ác đáng ghi nhớ nhất trong lịch sử loài người, bằng nhiều cách nó là kiểu
mẫu cho thảm họa diệt chủng tại Cambodia trong thời đại chúng ta.”
Đúng là chính phủ Nam Việt Nam, một đồng minh của Mỹ, dù là
Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, cho dù là quốc gia kém hiện đại, không bằng
Mỹ. Vì đó là một nền Cộng Hòa rất non trẻ. Nhưng chế độ đó tốt hơn chế độ Cộng
Sản của miền Bắc một trăm lần.
Nixon nói:
“Tôi đưa ra hai bảo đảm cho Thiệu: Chúng tôi sẽ tiếp tục gửi cho
ông đủ quân viện để giữ được cân bằng lực lượng, và chúng tôi sẽ
đánh trả một cách nhanh chóng những toan tính của miền Bắc nhằm vi phạm những
điều khoản của hiệp định đính chiến. Nam Việt sẽ giải quyết những vi
phạm nhỏ của miền Bắc về ngưng bắn. Và Hoa Kỳ sẽ trả đòn chống lại những vi phạm
lớn... Nhưng Hạ viện do đảng Dân Chủ kiểm soát, họp kín đã bỏ hiếu 154/ 75 chấp
thuận việc cắt hẳn ngân sách quân viện để mở các cuộc hành quân ở Đông Dương.
Điều này là một sự đầu hàng hèn nhát trước những đòi hỏi cực đoan nhất của Bắc
Việt.”
Chúng ta thua ở Việt Nam khi chiến thắng đã kề là do “Quốc
Hội tự chuốc lấy chiến bại.” Nixon đã viết như thế trong tác phẩm No
More Việt Nam.
Vì vậy Nixon đã liệt kê 10 quy luật cho các vị kế nhiệm ông noi
theo trong những năm đầy nguy hiểm trước mắt.
Hai trong số đó là:
-- Luôn luôn giúp bạn hữu của chúng ta, ít nhất cũng bằng đối
phưong chúng ta giúp bạn của họ, tức kẻ thù của chúng ta.
-- Đừng bao giờ đánh mất lòng tin. Khi có chính nghĩa thì lòng
tin có thể chuyển rời núi non. Lòng tin mà không có sức mạnh thì vô dụng. Nhưng
sức mạnh mà không có lòng tin thì chẳng có hiệu quả gì. (The Real War, trang
271)
Trước cử tọa gồm hàng ngàn người tại Oslo, Tổng Thống
Obama định nghĩa hòa bình như sau: “Vì hòa bình không phải chỉ thuần túy là
không có xung đột bề ngoài. Chỉ có hòa bình công chính đặt nền tảng trên những
quyền cố hữu và phẩm cách của mỗi cá nhân mới có thể thực sự bền vững.”
Và bởi vì Tổng Thống Nixon ghi nhận những sự tàn ác ở Cambodia,
nên Tổng Thống Obama nói như ông đồng ý với Tổng Thống Nixon về chiến tranh và
hòa bình tùy theo từng hoàn cảnh, và ông cũng có vẻ đồng ý với Tổng Thống
Reaggan rằng chiến tranh Việt Nam là chính đáng:
“Khi xảy ra hành động diệt chủng ở Darfur, hiếp dâm có hệ thống ở Congo,
hay đàn áp ở Miến Điện – thì phải có những hậu quả. Và chúng ta càng sát cánh
bên nhau, thì chúng ta càng ít phải đối diện với sự chọn lựa giữa sự can
thiệp vũ trang và sự đồng lõa với áp bức.”
Trong diễn văn Obama tuyên bố với thế giới rằng việc thực thi
thuyết bất bạo động của mục sư King không phải lúc nào cũng thực thi được.
“Sự bất bạo động thực hành bởi những nhân vật như Gandhi va King
có lẽ không thực tế và không phải trong hoàn cảnh nào cũng có thể làm được.”
Nhiều lần trong cuộc thảo luận có truyền hình cũng như ở Oslo,
ông đã tuyên bố rằng: “Chúng ta đang ở trong tình trạng chiến tranh”
Tổng Thống Nixon, trong một tác phẩm đã ghi trường hợp khi tướng
Douglas McArthur bị Tổng Thống Truman cách chức tư lệnh chiến trường ở Hàn Quốc.
Trong diễn văn từ biệt năm 1951 Tướng McArthur đã nói: “Trong chiến tranh,
không có gì thay thế được chiến thắng. Có một số người muốn nhượng bộ Trung Quốc.
Họ mù quáng không nhìn ra bài học rõ ràng của lịch sử, vì lịch sử nhấn mạnh một
cách không thể sai lầm rằng nhân nhượng hòa hoãn chỉ làm cớ cho một cuộc chiến
mới đẫm máu hơn.
Sau nầy nếu người Mỹ bị giặc chết trên đất Mỹ xin nhới đến
Truman..”
Vâng, đúng vậy. Chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc từ 1953,
nhưng Nam, Bắc Hàn vẫn có những cuộc chạm súng chết cả trăm ngàn người, cho đến
nay Bắc Hàn vẫn tiếp tục cuộc xung đột với Tầu Cộng đứng ở đàng sau. Thậm
chí đông đảo quân nhân Mỹ vẫn còn đóng tại đó để sẳn sàng đối phó. Cho đến
năm 2009 quân số Mỹ giảm xuống còn 30,000.
Vào tháng 3 năm 2010, Bắc Hàn đã phóng ngư lôi đánh chìm chiến hạm
Hải Quân Cheonan, gây thiệt mạng 46 thủy thủ! Và liên tục Bắc Hàn vẫn là
một nhà nước Cộng Sản dùng cái đói của người dân để làm tiền Mỹ, với sự xúi biểu
ngầm của Trung Cộng. Tàu Đỏ và Hồi giáo quá khích cấu kết nhau, năm 2001 quả thật
vụ 9/11/2001 tòa song sinh ở Nữu Ước bị máy bay đụng thành bình địa, có gần
3,000 người chết. Người Mỹ đã thật sự chết trên đất Mỹ! Trung Cộng đã trở thành
cường quốc thứ nhì qua mặt Nhật, đã thống lãnh rõ nhất là Đông Nam Á và muốn
làm chủ Thái Bình Dương thì Mỹ mới giựt mình quay đầu trở lại Việt Nam. Vậy có
phải là khi nhượng bộ Triều Tiên năm 1951, đã có “chiến tranh lạnh” ở Đông
Dương chết hàng triệu người cả 52.000 chiến binh Mỹ, gần 2 triệu người Miên do
Pol Pot, đồng chí của Tàu Cộng giết…(1975-1979)
Mong hàng chữ “nhân nhượng hòa hoãn (với Trung Cộng) chỉ làm cớ
cho một cuộc chiến mới đẫm máu hơn.” của Mc Arthur chỉ đúng tới đó thôi.
Cuộc chạy đua giành Thái Bình Dương hiện nay sẽ không đưa đến đẩm máu nữa!
Thời nay là thời chiến của Tổng Thống Obama, thời của chiến
tranh chống khủng bố ở Iraq và Afghanistan.
Tổng Thống Nixon cũng định nghĩa: “Khủng bố cũng đóng vai trò chủ
yếu trong các cuôc chiến tranh gọi là giải phóng của Cộng Sản.
Thực tế là, sau khi Hoa Kỳ hạ Taliban năm 2001, và Quốc Hội bỏ phiếu chấp
thuận cho Tổng Thống George W. Bush đem quân vào Iraq, thì Saddam biết y phải
đi đâu. Vì thế y đã ra lệnh cho thông dịch viên ngoại ngữ của y tìm cho y những
cuốn sách của Hồ Chí Minh trong thập niên 1960.
Nếu chúng ta nhớ lại khi quân Mỹ lục soát những dinh thự của
Saddam ở Baghdad, thì ở trên TV, chúng ta thấy những tấm hình của y lấy từ Hà Nội,
và cả những tấm hình to tướng của Stalin, lãnh tụ cũ của Liên Xô được trưng bày
bên cạnh hình Hussein. Điều này chứng tỏ tổng thống Iraq trị nước
theo chủ thuyết khủng bố tàn bạo của Stalin. Và Hồi giáo quá khích cũng đã dùng
chiến thuật chiến tranh của Hồ Chí Minh cho đến tận ngày nay, năm 2010.
Tổng Thống Reagan chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam ngay
từ khi ông làm Thống Đốc Tiểu Bang California. Khi có những lệnh đình chỉ
có tính phản chiến, như yêu cầu rút quân để cứu mạng những chiến binh Mỹ, Thống
Đốc Ronald Reagan đã nói với họ: “Các người có thể kẻ một đường biên giới giữa
2 sự việc không? Nếu vì muốn cứu mạng một người Mỹ, các nguời phải đẩy có lẽ
hàng ngàn người Việt Nam vào chỗ chết...” “nhân mạng là nhân mạng
.” “Kết thúc cuộc chiến này không phải chỉ đơn thuần bằng cách kêu gọi
hãy ra khỏi đó và về nhà. Vì cái giá cho thứ hòa bình loại đó sẽ có thể là một
ngàn năm đen tối cho những thế hệ chưa sinh ra.” (Xem phim Vietnam!Vietnam!
của John Ford)
Những lời tiên tri của Tưóng Douglas McArthur và Thống Đốc
Ronald Reagan từ những thập niên trước đã được chứng tỏ là đúng đối với nhân
dân Bắc Hàn và Việt Nam. Tôi ước mong những điều đó sẽ không xảy ra cho
người Mỹ. Bởi vì Tổng Thống Barack Obama tuân thủ luật Habeas Corpus giành
cho những kẻ giết người khát máu đang thề tiêu diệt Mỹ Quốc.
Hơn 80 triệu dân Việt Nam hiện không có được một tương
lai tươi sáng, cũng vì cái lệnh cho kẻ tội phạm ngọai quốc được xét xử theo thủ
tục dân sự. Tòa án tối cao Anh Quốc đã theo luật này để đưa Hồ Chí Minh ra khỏi
khám đường Hương Cảng năm 1932.
Lại một lần nữa, về vấn đề này, Tổng Thống Nixon đã nói, những quy
luật pháp lý tại Hoa Kỳ đòi hỏi Tổng Thống làm chiến tranh dưới các luật lệ của
Bá Tước Queensbury trong một thế giới mà những thái độ tử tế có thể trở thành
những cản trở chết người. Bọn Xô Viết không tuân thủ luật lệ nào, trừ luật nói
rằng chiến thắng là tất cả. Không ai bảo chúng ta phải làm giống như bọn họ để
dành phần thắng.Triết gia Nietzsche đã viết, “Ai đánh nhau với cá sấu thì trở
nên cá sấu”. Nixon thêm: “Nhưng chúng ta phải nhớ rằng kẻ nào không chiến đấu
thì sẽ bị cá sấu nuốt“ (No More Vietnams, trang 225). Đó là thân phận của ba
dân tộc Việt, Miên, Lào của Đông Dương.
Nixon cũng làm sáng tỏ hiểu lầm bi thảm cho nước Mỹ:
“Những kẻ phản chiến tin rằng Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng là linh hồn của cách mạng Việt Nam, là một phong trào yêu nưóc của ngưòi
bản xứ tự động nổi lên chống lại chế độ đàn áp của Diệm.
Ý tưởng lầm lạc này đã tạo nên một chiến dịch tuyên truyền mạnh
mẽ tại Phương Tây. Nó đã trở thành điểm hội tụ của các lực lượng phản chiến, đồng
thời làm cho người ta tưởng rằng Hoa Kỳ đã can thiệp vào cuộc nội chiến.”
Đó là lý do tại sao ở đầu bài này chúng tôi đã nói TS King “giết”
linh hồn của Mỹ Quốc trong chiến tranh Việt Nam, vì Quân Đội Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam, bạn thân nhất của người Mỹ, là lực lượng hùng mạnh nhất vùng Đông Nam
Á vào thời gian đó.
Vào lúc này đây, Trung Hoa Đỏ là nước tàn bạo nhất, khát
khao quyền lực để kiểm soát Thái Bình Dương là vùng ảnh hưởng tới nhiều nước, kể
cả Nhật Bản.
Sen Katayama is a Japanese International Communist agent
who works (in )the same period with Ho Chi Minh in Europe, (They) see (s) each
other in Belgium (Bruxelles) in 1924 (In his book penned T.
Lan, re-published in 1999, p. 39, Ho writes so). This means Japan also
has Communist Party a long time as Vietnam until now. Few years ago,
the Ho’s orphan Nong Duc Manh, currently is Secretary General of the Vietnam
Communist Party, he came to Japan for an International Communist
meeting and vice versa in 2009. (***Câu cuối này tối nghĩa, không sao dịch cho
đúng được)
Chúng ta cần phải học bài học rất thông suốt của lịch sử nước
này.
Theo quyển sách “Vừa Đi Đường Vừa kể chuyện” của Hồ Chí Minh,
bút hiệu T Lan, (tái bản năm 1999, trang 39) thì Sen Katayama là điệp viên của
Quốc Tế Cộng Sản Nhật Bản. Hai người gặp nhau tại Bỉ năm 1924. Đìều đó có nghĩa
là Nhật Bản cũng có đảng Cộng sản cũng lâu tới ngày nay như Việt Nam. Mấy
năm trước đây, con mồ côi của ông Hồ là Nông Đức Mạnh đang giữ chức Tổng Bí Thư
đảng CS Việt Nam đã sang Nhật dự họp hội nghị Quốc Tế Cộng Sản, và đổi lại, năm
2009 viên chức Đảng Cộng Sản Nhật cũng tới Hà Nội hội họp.
May thay, nhờ ơn tướng McArthur, đảng CS Nhật đã chẳng bao
giờ có thể lãnh đạo nước Nhật. Bởi vì cũng như Hồ là người của Stalin, ở Nhật
cũng có Sen Katayama là tay sai của Stalin đã tuyên bố rằng người Nga
có thể chiếm đóng ở phần cực bắc của đảo Hokhaido. Sau thế chiến II, tướng
McArthur được bổ nhiệm làm “Tòan quyền” tại Nhật năm 1945, ông hứa là sẽ ném hết
đảng viên Cộng Sản vào tù, nếu có một lính Nga nào đặt chân lên đất Nhật. Vị tướng
này đã cứu nước Nhật khỏi cơn hấp hối chia cắt thành hai phần, một CS ở miền Bắc
và một không CS ở miền Nam tương tự Việt Nam thời chiến tranh lạnh (Xem tác phẩm
LEADERS của Nixon, trang 123)
Hồ Chí Minh đánh Pháp từ 1946 đến 1954. bọn CS, trong mọi trưòng
hợp, chỉ là một trong nhiều nhóm đánh quân ngoại xâm. Nhưng chúng là thành phần
tàn ác nhất và đã chiến đấu có hiệu quả. (REAL WAR của Nixon tr 43)
Hồ Chí Minh, một tay sai của Stalin, đã tuyên bố độc lập năm
1945. Y là kẻ nguy hiểm nhất cũng như Cộng Sản trong nước Nhật. Khi Stalin trao
trả tù binh của Thế Chiến 2 vào năm 1949, những tù binh này được đội ngũ hóa và
tuyên truyền nhồi sọ. Bọn Xô Viết ra lệnh cho đảng CS Nhật phải nhấn mạnh những
chiến thuật phi pháp và khủng bố, và bỏ chính sách mưu tìm một cuộc “cách mạng
hòa bình.”
Nhưng thủ tướng
thứ 3 của Nhật sau thế chiến từ 1946, ở tuổi 67, trừ thời gian vắn khi Yosheda
(1878-1967) không nắm quyền, ông ta đã cùng với tướng McArthur làm việc chung với
nhau từ 1946 để dựng lên một nước Nhật mới từ cảnh điêu tàn do chiến tranh gây
ra.
Tổng Thống Nixon nói, thủ tướng Shigeru Yosheda (1878-1967)
là một anh hùng không được ca tụng (Unsung heroes) thời hậu chiến, hầu
như chẳng ai biết đến ông, trừ người Nhật.
Nixon gặp ông nhiều lần, lần cuối là vào năm 1964. Yosheda, một
người chống Cộng mãnh liệt nhất mà Nixon đã gặp. Ông cũng là người thực tế đủ để
biết rằng nước Nhật cần sự bảo vệ khỏi những kẻ thù của mình. Ông cũng thực tế
đủ để biết rằng dân Nhật không đủ sức trả cái giá của sự bảo vệ đó. Và
ông cũng sắc sảo đủ để hiểu rằng Hoa Kỳ sẽ trả thay cho. Shigeru Yosheda trở
thành người quyến rũ đối với Tây Phương cũng như Tướng McArthur quyến rũ đối
vói Đông Phương vậy.
Chống lại chính sách liên minh an ninh với Hoa Kỳ của Yosheda,
năm 1960 cả hai phe hữu phái ủng hộ sự tái võ trang, và tả phái chống Mỹ nổi loạn,
biểu tình đầy các phố ở Tokyo với những biểu ngữ đuổi Mỹ: “Yankee hãy cút về nước”.
Như vậy sẽ dễ cho Yosheda để đưa ra một hình thức trung lập Liên
Á Châu. Nhưng ông biết rõ trung lập chỉ có nghĩa cho một nước yếu kém,
như một ngạn ngữ Nhật nói: “Ếch ngồi đáy giếng chẳng biết trời cao đất rộng ra
sao.”
Hầu hết các tướng lãnh chỉ nhìn vế cuối cuộc chiến. McArthur
nhìn vượt quá cuộc chiến. “trong chiến tranh không có gì thay thế chiến
thắng.” Ông đã nói vậy. Nhưng khi được chỉ định là tư lệnh tối cao
sau chiến tranh cho Nhật Bản năm 1945, McArthur đã cho phụ nữ đi bầu. Mười bốn
triệu nữ cử tri đã đi bỏ phiếu lần đâu tiên vào tháng 4 năm 1946.
Những vấn đề chính yếu về chính sách đối ngoại của Yosheda đã cống
hiến to lớn cho sự phát triển Nhật Bản đưa nước này lên hàng siêu cường quốc về
kinh tế. Những nhà phê bình thì bảo nó biến Nhật thành thuộc địa của Mỹ.. Những
người chống đối ông thì nói nó làm Nhật Bản thành cô nhi của châu Á. Trái lại,
Yosheda đã giúp nó trở thành người khổng lồ. Yosheda còn sống thêm 13 năm nữa,
sau khi đã rời nhiệm sở năm 1954. Những chính sách của ông đã mang lại kết quả
tốt. (Xem tác phẩm của Nixon Những Lãnh Tụ, (Leaders, các trang 109, 122,
123,125, 127)
Về người của Stalin ở Việt Nam, Tổng Thống Nixon kết luận:
“Hồ Chí Minh là một tay lừa đảo xuất sắc. Ông ta để cả đời để sống giả vờ như
là một người đàng hoàng trái hẳn với con người thật của ông ta. Ông
chỉ là nhà ái quốc theo nghĩa ông ta muốn có thể lập một quốc gia Cộng Sản,
nếu nó là một phần của đế quốc Pháp. Sự trung thành duy nhấtcủa ông ta là đoạt
được chính quyền cho mình và ý thức hệ của mình. Ông ta làm cho tính toán sách
lược đấu tranh của ông ta trở nên đơn giản. Ông ta lý luận rằng nếu người Pháp
nắm quyền lực, điều đó có nghĩa là ông ta sẽ không nắm được, vì thế ông ta phải
đuổi người Pháp đi để có chỗ cho ông ta. Hầu như chẳng có gì trong tiểu sử của
Hồ cho thấy ông ta đặt lòng yêu nước bên trên chủ nghĩa Cộng Sản. *Xem No
More Vietnams, của Nixon)
Xin lên mạng http://www.youtube.com và tìm xem DVD
Hồ Chí MInh, con người và huyền thoại, do linh mục Công Giáo Nguyễn Hữu Lễ
trình chiếu tại Hoa Thịnh Đốn vào tuần lễ cuối của tháng 6 năm 2010. Tổng Thống
Nixon xuất bản cuốn sách về Hồ Chí Minh năm 1985. 25 năm sau nội dung cuốn sách
này đã được chứng thực bởi nhiều nhân chứng trong cuốn DVD tài liệu lịch sử nói
trên. Tổng Thống Hoa Kỳ dĩ nhiên đã biết rõ về Cộng Sản trước người Nhật và người
Việt.
Vì vậy, chúng tôi thành tâm cầu nguyện để các toà án Liên Bang tại
Hoa Kỳ hãy chấp nhận đơn kiện của Linh Mục Tađêo Nguyễn Văn Lý mà can thiệp để hàng
triệu nạn nhân CS được phóng thích khỏi nhà tù lớn Việt Nam. Trong những nạn
nhân này, như Cha Lý liệt kê, có ông Nguyễn Hữu Cầu hiện bị giam tại
nhà tù XuânLộc, tỉnh Đồng Nai đã gần 30 năm. Năm 1981, ông Cầu đã nộp đơn tố
giác phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang và Nguyễn Thế Đồng, công tố uỷ
viên tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Nam Việt, vì công tố viên này đã phạm 5 tội
nghiêm trọng (Lạm dụng tình dục, giết người hàng loạt, buôn lậu ma túy) và tham
nhũng, từ đó ông Cầu đã bị bắt và tuyên án tù chung thân.
Ông đã gửi trên 500 khiếu nại tới Tòa Án Tối Cao, Chủ Tịch nước
trong vòng hơn 25 năm qua, mà không có hồi âm. Cho đến khi những bạn đồng tù với
ông là các ông Nguyễn Mạnh Hảo, Nguyẽn Bắc Truyền, Trần Văn Sương được tạm thả
ra ngày 10-7-2010 để điều trị những bệnh nặng (giống Cha Lý) và những người này
loan báo trên đài Á Châu Tự do về tình trạng của ông Nguyễn Hữu Cầu: Mù một mắt,
mắt còn lại cũng mù về pháp lý, và còn bị đau gan, nhưng xem ra chẳng được thế
giới quan tâm.
Xin hãy thương tình cứu giúp người tù bất khuất Nguyễn Hữu Cầu,
và hàng trăm người khác đang ở trong tình trạng tương tự.
Sau cùng nhưng không phải kém quan trọng, chúng tôi kêu gọi Hoa
Kỳ hãy đưa Việt Nam Cộng Sản trở lại danh sách nước bị quan ngại đặc biệt vì những
vi phạm trắng trợn quyền tự do tôn giáo, như trường hợp hòa thượng Thích Quảng
Độ. Trong báo cáo của bộ ngoại giao về nhân quyền năm 2009, đoạn về những nhà
hoạt động chính trị còn bị giam giữ tù tại gia ở Saigon (TP HCM), đã không
nói gì đến Hòa Thượng Thích Quảng Độ, mặc dù vị hòa thượng 81 tuổi này là lãnh
tụ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và đã 9 lần được đề nghị giải Nobel
Hòa Bình. Những nhân vật đề nghị gồm cả 60 nghị viên của Quốc Hội Âu Châu, 67
nghị sĩ Quốc Hội Italia, cả nhiều nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ và các học
giả Mỹ. Ngoài ra tưởng cũng nên nhắc lại rằng ông cũng được đề nghị giải Nobel
Hòa Bình của năm 2010 này nữa. *Nguồnquene@free.fr)
Chúng ta ai cũng yêu chuộng hòa bình. Nhưng hòa bình dưới các chế
độ độc tài Cộng Sản, khủng bố như Hồ Chí Minh, Saddam Hussein, Taliban
thì giết nhiều người còn hơn chiến tranh.
Nguyễn Việt
Nữ
No comments:
Post a Comment