Saturday, April 22, 2023

LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẾT MỘT TỔNG THỐNG – CHƯƠNG 4

tap1-4

TỔNG THỐNG DIỆM VÀ CÔNG GIÁO

Chúng tôi đơn cử một thí dụ về “mặc cảm Công Giáo” đối với TT Diệm. Vào lần cải tổ Chính Phủ năm 1961, ông Nhu được ủy thác tìm một nhân vật giữ chức vụ Bổ Trưởng Tư Pháp.

Ông cho mời BS Tuyến bàn luận và ngỏ ý:

– Tôi muốn mời một Luật Sư.

Suy nghĩ một lát, ông nói:

– Giới Thẩm Phán thì có chuyên môn nhưng “Sans caractère politique”. Bác Sĩ Tuyến đáp: Trong hoàn cảnh này, ông Cố Vấn nên chọn người trong giới Thẩm Phán.

Ông Nhu băn khoăn: khó lắm. Ông Sĩ đó cũng là Thẩm Phán. C’est comme çà! BS Tuyến trình bày: Giới Thẩm Phán có nhiều người rất khá.

Ông Nhu hỏi:

– Ai đây? Liệu có làm gì được không hay cũng chỉ như ganger quelque chose!

BS Tuyến đề nghị: Phía người Bắc tôi thấy có ông Tòa Nguyễn Văn Lượng. Phía người Nam có ông Tòa Trần Minh Tiết.

Ông Nhu không ngần ngại chấp nhận ông tòa Trần Minh Tiết giữ Bộ Trưởng Tư Pháp vì ông Tiết có ba ưu điểm: người Nam, thẩm phán cao cấp và ở tuổi trung niên.

Vì biết tính ông Tổng Thống nên “chú Nhu” đưa cả hai candidats Trần Minh Tiết và Nguyễn Văn Lượng lên cho ông Cụ tự chọn. Trước đó, ông Nhu có lời khen ngợi nồng nhiệt ông tòa Trần Minh Tiết trước mặt TT Diệm. Ông Tổng Thống chọn candidat Trần Minh Triết theo lời đề nghị của “chú Nhu”. Ông Nhu biết tâm lý ông anh nên đề nghị mà như không đề nghị. Muốn tiến cử ai, ông Nhu thường dùng lời nói khéo, gián tiếp ca ngợi nhân vật này. Trường hợp ông Trần Minh Tiết ông Nhu nói đại cương: “Tiết tương đối còn trẻ, tôi nghe giới Thẩm phán tín nhiệm ông ta lắm…Tiết lại làm việc hăng hái”… Ông Nhu chỉ cần nói như vậy coi như chắc ăn. Nhưng nếu ông đề cử đích danh ai và có tính cách chỉ định thì coi như thất bại, Ông Tổng Thống sẽ lờ đi luôn. Nhưng sau một đêm thì ông thay đổi ý kiến ngay và gọi chú Nhu vào cho biết ông chọn Thẩm Phán Nguyễn Văn Lượng. Ông Nhu trở về phòng và gọi BS Tuyến cho hay: “Ông Cụ nói cái gì cũng Công giáo…Công giáo”. Thẩm Phán Trần Minh Tiết có ưu điểm là người Nam điều mà Tổng Thống lưu ý trước nhất, nhưng ông Tiết lại là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ông Nguyễn Văn Lượng, một Phật tử, được trao cho chức Bộ Trưởng Tư Pháp.

Theo Lương Khải Minh, trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm, mọi sự bổ nhiệm cao cấp đều căn cứ theo 2 yếu tố địa phương và tôn giáo vì ông Tổng Thống muốn như vậy. Một trong mấy cộng sự viên thân tín của ông Tổng Thống lại là một Phật tử như trường hợp ông Võ Văn Hải. Ông Hải theo TT Diệm từ hồi còn thiếu niên. Bộ sở quan nào mà có nhiều viên chức người Bắc, Ông Tổng Thống cũng không chịu hoặc nhiều tín đồ TCG ông cũng không ưng. Cuối cùng Bộ Tham Mưu của ông Nhu đưa ra một giải pháp:

Nếu Bộ Trưởng là người Nam thì ông Đổng lý sẽ là gốc Bắc, ông Tổng Giám Đốc sẽ là người Trung. Trên thực tế, giải pháp này rất khó thực hiện vì vấn đề địa phương nếu có kỳ thị thì chỉ linh cảm thấy sự kỳ thị chứ thực ra làm gì có kỳ thị. Trước sau chỉ có mặc cảm và thành kiến địa phương do địa vị, quyền lợi tạo nên mà thôi. Vấn đề tôn giáo cũng vậy. Trong cuộc sống chung giữa cộng đồng dân tộc từ trước đến nay không có vấn đề kỳ thị tôn giáo song trên phương diện quốc gia nhiều cái vụn vặt và rất tầm thường lại dễ dàng tạo nên những hiện tượng như là kỳ thị tôn giáo.

Những cuộc rước xách với cờ xí rợp trời của tôn giáo cũng là lý do vụn vặt từng đã tạo nên ngộ nhận. Tín đồ TCG lại hay tổ chức rước xách như vậy.

Tuy là việc thiêng liêng và phải được chính quyền tôn trọng nhưng nó cũng dễ dàng tạo nên sự khó chịu của những đồng bào không cùng tôn giáo. Mỗi khi có cuộc rước xách, đồng bào TCG lũ lượt kéo nhau đi và có khi dài cả hàng cây số, giao thông bị tắc nghẽn, cũng dễ dàng gây nên sự khó chịu cho người không cùng tôn giáo.

Linh mục X (yêu cầu tạm ẩn danh trong lúc này vì LM e ngại bị hiểu lầm là đề cao cá nhân) đến thăm Lương Khải Minh rồi ông Minh phàn nàn:

– Cho đến nay, tôi cũng không hiểu mối bất đồng với Đức cha Lê Hữu Từ và LM Hoàng Quỳnh lại như vậy…Chính quyền này là một chính quyền chống Cộng mà Đức Cha Lê cũng như Cha Quỳnh đều là những chiến sĩ chống Cộng.

Linh mục X đáp: Thực ra thì có nhiều nguyên nhân. Theo tôi, điều mà làm cho TT Diệm giận nhất là dạo cuối năm 1954, cha Hoàng Quỳnh lại ủy cho Trần Thiện tổ chức một Trung đoàn Bắc tiến tại Bình Tây do Bình Xuyên tài trợ.

Lương Khải Minh biết vụ đó và cho rằng, trong tình thế nguy nan lúc ấy, Cha Hoàng Quỳnh ủy cho Trần Thiện làm như vậy chỉ vì cha có ý nếu chính quyền Ngô Đình Diệm bị Pháp âm mưu lật đổ thì ít ra Công Giáo di cư còn một lực lượng để tự vệ.

Linh Mục X cho biết Linh mục mới vào yết kiến TT Diệm. Linh mục phàn nàn về việc TT Diệm có vẻ cấm đoán giáo dân treo cờ giáo hội. Lương Khải Minh cho biết:

Cách đây không lâu tôi cũng đề cập đến vấn đề này. Nhưng xứ ta ở trong một tình trạng chậm tiến thì cái gì nó cũng chậm tiến cả.

Linh mục X nói: Cờ giáo hội là cả một sự thiêng liêng, cấm đoán làm sao được. Lương Khải minh đáp: Sự thực là như vậy nhưng trên phương diện quốc gia thì cờ giáo hội Công Giáo trước hết là quốc kỳ của quốc gia Vatican.

Cụ Tổng Thống cũng có lý. Thời gian du học tại Pháp lại không thấy giáo dân Pháp treo cờ Vatican đầy đường như ở Việt Nam.

Linh mục X đáp: Pháp là một chuyện, VN là một chuyện khác. Trên phương diện bang giao quốc tế thì Vatican đối với VN là hai quốc gia. Nhưng Vatican tiêu biểu cho thần quyền đối với chúng tôi.

Linh mục X băn khoăn:

– Nếu tôi trình việc này với Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình thì chỉ tạo thêm hiểu lầm giữa chính phủ với hàng giáo phẩm. Sau vụ bất hòa giữa TT Diệm và Đức Cha Simone Hòa Hiền tôi nghĩ giới Công giáo cũng buồn lòng không ít.

Lương Khải Minh góp lời bàn: Cha nên gặp ông Bộ Trưởng Bùi Văn Lương. Theo tôi Cụ Tổng Thống nói thì nói thế thôi nhưng mai mốt lại quên ngay. Tôi nghĩ cũng chả nên gợi lại.

Đề cập đến vụ đất đai tại khu vườn cao su Phú Thọ, Linh Mục X nói:

– Hai bên còn đang dằng co chúng tôi ở giữa bị kẹt. Nhưng khu vườn cao su trên Phú Thọ trên giấy tờ hợp pháp là tài sản của giáo khu Saigon. Đức Cha Nguyễn Văn Bình ngài hiền lành nên không quyết liệt đó thôi. Tại sao Cụ Tổng Thống lại ngăn cản không cho giáo khu Saigon được phát triển chỉnh trang khu này mặc dù giáo khu Sàigon là sở hữu chủ. Lương Khải Minh đáp: Tôi cũng biết vụ đó. Mới hôm qua, tôi cho các cháu đi dạo mát qua khu này. Khu đất rộng bao la. Nhưng Cha nghĩ coi cụ Tổng Thống quyết định thì không cách nào cản nổi. Nhưng đã thấy nhiều gia đình đến chiếm ngụ. Hình như đã có chương trình phân lô.

Linh Mục X nói: Giả dụ, Giáo khu cứ cho Giáo dân đến xây nhà dựng cửa và phát triển, ông nghĩ sao?

Lương Khải Minh đáp: Theo tôi ông Nhu chả dám nói với cụ Tổng Thống về tôn giáo, chỉ có TT Thơ có thể nói với Tổng Thống thì Cụ mới tin.

Tôi nhớ dạo 1959-1960, Cụ đã cho lập chương trình chỉnh trang khu đất này.

Chắc là chưa có ngân khoản nên chưa thực hiện. Nếu cụ TT làm thế thì gặp phản ứng lớn. Tài sản của giáo khu Saigon chứ đâu phải của Quốc Gia mà Cụ TT cho chỉnh trang sát nhập vào Đô Thành.

TT Diệm tất ghét những chuyện (Afaires xin xỏ). Ông Tổng Thống là một người quốc gia cực đoan cho nên cái gì cứ dính dáng đến Tây là ông không chịu. Nếu ai hay tổ chức nào dùng áp lực đòi ông giải quyết thì sẽ không giải quyết được gì cả. Vụ cờ ” Giáo Hội Vatican” chỉ một ngày sau là êm rồi không ai nhắc đến nữa.

Nhưng đến ngày Phật Đản 1963 thì vụ cờ quạt lại nổ tung. Chính quyền ra lệnh cấm treo cờ vào dịp Đại Lễ này.

Sáng ngày 5-8-63 ông Đổng Lý Quách Tòng Đức vào phòng Tổng Thống để nhận chỉ thị bỗng dưng TT Diệm có thái độ giận dữ. Ông la mắng vu vơ: “Đã ra chỉ thị mà không thi hành quốc gia này còn chi là thể thống”. Tổng Thống Diệm trong giây phút nóng giận như thế ông chỉ thị cho Đổng Lý Đức đánh công điện về thể thức cấm treo cờ tôn giáo. Thực ra không có chuyện cấm treo cờ Phật Giáo mà chỉ ấn định lại thể thức treo cờ tôn giáo tại nơi tôn nghiêm. Ngoài nơi tôn nghiêm thì quốc kỳ phải được tôn trọng trên hết. Điều này rất đúng mặc dầu tôn giáo là thiêng liêng nhưng trong cộng đồng dân tộc với nhiều tôn giáo khác biệt thì quốc gia phải trên hết. Quốc gia đứng trên mọi tập thể. Ông Đổng Lý vốn là một công chức gương mẫu lại có tính nhẫn nại và bao giờ cũng tuân hành đúng y lời chỉ của Tổng Thống. Ngày hôm sau, bức công điện được gửi đi toàn quốc. Trong Phủ Tổng Thống không một ai hay kể cả ông Nhu.

Tại Huế, cố đô của những lăng tẩn chùa chiền, ngày lễ Phật Đản mỗi năm đều như một đại hoa đăng. Đồng bào Phật Giáo ở đây chiếm đại đa số, Huế từ bao nhiêu năm vẫn là một hình ảnh của Thuận Hóa, của Phú Xuân, của tiếng chuông Thiên Mụ và ấp ủ trong chiếc nôi ru bằng từng hồi kinh chùa Bảo Quốc, Diệu Đế, Từ Đàm. Cho nên, lễ Phật Đản là một dịp thiêng liêng trọng đại. Trước ngày lễ, từ nhà đến chùa chiền đã tấp nập và cờ xí rập trời. Phật kỳ tung bay nơi nơi. Mọi năm vẫn thế.

Bỗng dưng chỉ vì một cái công điện, Huế bắt đầu thay đổi và chuyển mình. Ngọn lửa nào đó gặp cơn gió lớn bắt đầu ngùn ngụt bốc cao.

HẬU QUẢ

Vụ cấm treo cờ Phật Giáo chỉ là nguyên nhân gần tạo nên cuộc biến động 1963. Giả sử không có vụ Phật giáo thì cũng có một vụ khác. Tuy nhiên vụ Phật Giáo lại trầm trọng quá và hậu quả của nó thực ghê gớm và kéo dài cho đến nay cũng chưa tiêu tan.

Về vụ Phật Giáo nếu xét theo khía cạnh chính trị thì chính quyền Ngô Đình Diệm đã mắc phải một lỗi lầm lớn. Nếu cắt nghĩa theo sự an bài của định mệnh (nếu cho là có định mệnh) thì vụ Phật giáo quả là một “Fatalite” đối với định mệnh của một ông Tổng Thống và chế độ Ngô Đình Diệm.

Bất cứ một chế độ nào, ngay khi được hình thành đã có sẵn cái mầm của sự tan rã…Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung vào ngày 1-11-63 nhưng nó đã có khởi điểm của sự cáo chung ấy từ nhiều năm trước.

Đối với lịch sử thì sau sự cáo chung của một chế độ là điều quan hệ. Đằng đẵng 7 năm qua, bao nhiêu trò dâu biển, cái cáo chung vẫn chỉ là cái cáo chung… Tất cả chúng ta đang bị cuốn tung vào cơn gió lốc của sự bế tắc, của sự ngóng trông. Giờ viết lên sự thực về vụ Phật Giáo cũng như những mâu thuẫn và bất đồng giữa Thiên Chúa Giáo cũng như chánh quyền Ngô Đình Diệm, chúng tôi chỉ ao ước cùng độc giả sống lại giây phút căng thẳng của năm 63 và từ đó may ra có thể nhìn nhận ra nhau và thấy rằng mình đã bị lừa, đã bị cho thưởng thức “ma túy” về một đổi thay lịch sử trước những chân trời diễm ảo.

CÁ NHÂN và TẬP THỂ

Riêng tập thể Thiên Chúa Giáo nhiều người ngộ nhận rằng, Thiên Chúa Giáo luôn luôn đứng sau lưng “Ngô Tổng Thống” và một lòng hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm. Điều này không đúng. Nếu có thì chỉ cá nhân theo Thiên Chúa Giáo hết lòng với chế độ Ngô Đình Diệm. Vụ “Chủng Viện” năm 1958-1959 là một thí dụ.

Trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành quy chế Tư Thục (1958) các Chủng Viện đều được tự do sinh hoạt và giảng dạy tùy nghi theo thể lệ chung của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Món quà đầu tiên mà chánh quyền Ngô Đình Diệm tặng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo là bắt buộc các Chủng Viện phải đặt dưới quyền kiểm soát của nhà nước.

Chủng Viện nơi đào tạo các linh mục – cũng chỉ được coi ngang hàng với trường Tư. Từ giáo ban đến chương trình giảng dạy đều do Nha Tư Thục Bộ Quốc Gia Giáo Dục kiểm soát và thanh tra. Nhiều quốc gia Tây Phương cũng không đối xử với các Chủng Viện nghiệt ngã như vậy.

Thế là các linh mục đứng lên ùn ùn phản đối. Dư luận trong giáo dân rất xôn xao. Nhiều Linh Mục quá hăng hái đòi kêu gọi giáo dân biểu tình. Nhưng giáo dân làm thế thì kể cũng không đẹp mặt đối với một ông Tổng Thống có đạo Thiên Chúa. Cuộc tranh đấu bất bạo động, âm thầm diễn ra tại các Chủng Viện… Một số linh mục trẻ quá hăng say đã thảo chuyền đơn, thơ luân lưu…để phát động phong trào chống đối. Nhiều linh mục đến Tòa Khâm Sứ làm áp lực thỉnh cầu Đức Khâm Sứ công khai bày tỏ thái độ. Cha Joseph được một số linh mục đặc cử xuống Vĩnh Long để thỉnh cầu Đức Cha Thục can thiệp với chính quyền. Khi bày tỏ sự chống đối quy chế Tư Thục nhằm khống chế và kiểm soát Chủng Viện, Đức Cha Thục lại cho rằng đó việc làm là hợp lý của Bộ Giáo Dục. Rồi Đức Cha Ngô Đình Thục bỗng hầm hầm, bỏ dở câu chuyện đứng lên, nói ngắn ngủi:

Các ông Cha di cư nhiều chuyện lắm“. Cha Joseph cũng không phải tay vừa. Cha Joseph nói lớn: “Đức Cha nói như thế không đúng. Tại sao lại dây dưa đến di cư? Chủng viện Saigon cũng là di cư sao?”

Có lẽ từ vụ Chủng Viện, nhiều Đức Cha trong hàng giáo phẩm bắt đầu lạnh nhạt và xa lánh Đức Cha Thục. Riêng cha Joseph từ dạo đó, tuyệt nhiên không bao giờ gặp Đức Cha Ngô Đình Thục.

Tại Saigon, các linh mục nhiều địa phận tụ tập lại và mở chiến dịch tẩy chay quy chế Tư Thục của nhà nước. Bao nhiêu thư từ, bao nhiêu phản kháng thư được gửi đến Đức Khâm Sứ. Ông Bộ Trưởng Giáo Dục cũng không biết phải làm sao.

Vụ Chủng Viện được gọi như một hành động của chánh quyền Ngô Đình Diệm nhằm hạn chế tự do của hệ thống giáo dục trong Tu Viện Công Giáo. TT Diệm đã từng sống trong tu viện và hiểu rõ hệ thống giáo dục trong tu viện quan trọng như thế nào đối với Giáo Hội Thiên Chúa Giáo.

Tại quốc gia Tây phương, hệ thống Tư Thục cũng như các chủng viện đều được hưởng một quy chế tự do trên tinh thần tôn trọng quốc gia, song vẫn được phép phát triển theo từng sắc thái và khuynh hướng riêng.

Thế nhưng TT Diệm tuy là một tín đồ Thiên Chúa Giáo ông lại làm trái lại tinh thần ấy và với quy chế Tư Thục, ông Tổng Thống “thế tục hóa” hệ thống giáo dục Chủng Viện và hạ thấp giá trị của các Chủng Viện bằng cách xếp chủng viện ngang ngửa với trường Tư. Hàng giáo phẩm Thiên Chúa Giáo Việt Nam coi đây như một sự cưỡng chế tự do ngành giáo dục của Thiên Chúa Giáo.

Các linh mục thuộc nhiều địa phận đồng loạt đứng lên phản đối. Sự thực, nếu không bị kẹt vì Đức Cha Thục và nhất là Khâm Sứ Tòa Thánh lúc bấy giờ hàng giáo phẩm Thiên Chúa Giáo không dễ dầu gì để chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định một cách cứng rắn như vậy. Đức Khâm Sứ Tòa Thánh trực tiếp can thiệp nhưng trước sau TT Diệm vẫn không thay đổi lập trường.

Mọi sự dàn xếp bên trong không đi đến đâu. Một số linh mục xin vào yết kiến và trình bầy nguyện vọng, ông Tổng Thống nghe rồi nói ngắn ngủi: ” Giáo Hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội”.

Linh Mục Joseph: “Xin Tổng Thống cứu xét lại. Các Chủng Viện không thể nào đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của một Giám Đốc Nha Tư Thục”

TT Diệm nhìn Bộ Trưởng Giáo Dục rồi mắng vu vơ: “Anh không hiểu luật lệ gì cả. Anh phải chỉ vẽ cho người ta. Anh cứ ngậm miệng hoài”.

Bộ Trưởng Giáo Dục khi không bị lôi vào vòng chiến và bị mắng oan trước mấy vị Linh Mục. Đó cũng là cách mà TT Diệm thường hay xử dụng để biểu lộ thái độ tức giận. Nói đúng ra thì ông mắng xéo các vị Linh Mục đang hiện diện trước mặt.

Trước khi vào yết kiến TT Diệm thì Linh Mục nào cũng mạnh miệng. Một Linh mục hăng hái nhất “Tôi sẽ nói thẳng cho Cụ Tổng Thống rõ – Tôi sẽ nói hết không nể nang gì cả”. Tuy nhiên, khi gặp TT Diệm, các Linh Mục mỗi người chỉ nói vài ba câu rồi im lặng lắng nghe ông Tổng Thống thuyết giảng.

Kết quả, TT Diệm không nhượng bộ. Giáo hội Thiên Chúa Giáo đành phải chịu vậy nhưng trong lòng vẫn hậm hực. Vụ Chủng Viện đến tai Tòa Thánh Vatican. Tuy Tòa Thánh không có một phản ứng nào (vì đường lối ngoại giao đối với quốc gia Việt Nam) nhưng có lẽ do vụ Chủng Viện vào năm 1960, mà khi Đức Cha ngô Đình Thục qua La Mã xin triều kiến Đức Giáo Hoàng, Đức Cha phải đợi cả nửa tháng mới được vào triều kiến. Kể từ vụ Chủng Viện, mối bang giao giữa Tòa Thánh và chính quyền Ngô Đình Diệm trở nên lạnh nhạt, bên ngoài không mấy ai rõ.

Trong khi đó, TT Diệm lại cho rằng Tòa Thánh Vatican không ủng hộ chính quyền Việt Nam một cách cụ thể.

Kể từ năm 1956, Khi đã thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa , TT Diệm ngỏ ý muốn thiết lập bang giao với Vatican trên cấp bậc Đại Sứ (Nonce). Tin đi tin lại và dàn xếp cả mấy năm vẫn không đạt được kết quả mong muốn.

Ông Ngô Đình Nhu đã hiểu rõ được thế lực của Vatican trên thực tế. Ngoài Anh Pháp Mỹ thì Vatican cũng là một “voix” trong thế lực quốc tế. Nếu được Vatican ủng hộ công khai thì chế độ miền Nam vừa có bề thế tạo được một thành tố quan trọng để áp đảo miền Bắc trên mặt ngoại giao.

Cuộc giàn xếp âm thầm diễn ra trong 7, 8 năm. BS Tuyến cũng như Đại Sứ Nguyễn Dương Đôn (tại Ý Đại Lợi) Đức Khâm Sứ Brini, Ngoại Trưởng VNCH, Ngô Đình Nhu đều là những người đóng vai trò tích cực trong việc thảo luận để thiết lập bang giao với Vatican qua một đường hướng mới. Ta có thể mô tả cuộc dàn xếp đó theo một hình thức đối thoại thế này:

– TT Diệm: Việt Nam đã thu hồi độc lập. Việt Nam là một lãnh thổ toàn vẹn chủ quyền. VN là một quốc gia muốn nối kết liên lạc với Vatican trên cấp bậc Đại Sứ.

– Tòa Thánh Vatican: Vatican biết rõ như vậy. Trên phương diện tinh thần, Vatican ủng hộ VNCH và cư xử với VN như một quốc gia độc lập.

Nhưng trên thực tế VN còn bị chia cắt. Miền Bắc tuy bị Cộng Sản thống trị nhưng trên thực tế họ vẫn là đại diện có thẩm quyền của một nửa lãnh thổ VN và ở đó, Giáo Hội vẫn còn trách nhiệm với giáo dân. Hàng giáo phẩm miền Bắc vẫn thuộc quyền cai trị của Đức Giáo Hoàng.

– TT Diệm: VNCH nói là tiêu biểu đích thực cho toàn dân VN. Hiến Pháp VNCH không công nhận Cộng Sản. Chính phủ miền Bắc là ngụy quân bất hợp pháp. VNCH đã được 50 quốc gia công nhận. Do đó quốc gia Việt Nam tương xứng với quốc gia Vatican trên phương diện ngoại giao và thế quyền.

Tòa Thánh Vatican còn dè dặt chưa thể dứt khoát, nhiều người thường lầm tưởng, vì Khâm Sứ Tòa Thánh tại VN tương đương với một Đại Sứ và như vậy Tòa Thánh đã công nhận và thiết lập bang giao với QGVN. Sự thực vị Khâm Sứ chỉ là vị đại diện có tính cách tôn giáo (Délégué Apostolique). Khâm Sứ Tòa Thánh tuy đi mang xe số dành cho ngoại giao đoàn và được hưởng quy chế ngoại giao thì đó cũng chỉ là trường hợp đặc cách.

Cấp bậc của vị Khâm Sứ chỉ được xếp ngang hàng với một Tổng Lãnh Sự. Từ khi tuyên cáo thành lập chế độ Cộng Hòa, TT Diệm rất mong mỏi được Vatican “chiếu cố” nâng hàng Khâm Sứ lên hàng Đại Sứ.

Vatican vẫn lờ lững. Ông Ngô Đình Nhu đưa ra một điều kiện trong trường hợp Vatican chấp nhận đặt Sứ Thần tại Saigon. Điều kiện ông Nhu muốn Tòa Thánh chấp nhận lại quá tế nhị nhưng thực tại miền Nam phải nêu lên như vậy: Tổng Thống là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Mà Thiên Chúa Giáo chỉ có gần 2 triệu người trong tổng số 14 triệu dân Việt Nam. Nếu Tòa Thánh đặt Sứ Thần tại Saigon thì vị Sứ Thần đó có nên từ chối chức vị Niên Trưởng ngoại giao đoàn không?

Tòa Thánh vẫn im lặng. Nhưng ông Nhu và Bộ Tham Mưu của ông lại băn khoăn: Trường hợp Vatican chấp nhận đặt Đại Sứ tại Saigon, lợi thì có lợi nhưng lại gặp một số tiểu tiết rất tế nhị theo truyền thống ngoại giao.

Vị đại sứ Tòa Thánh đương nhiên trờ thành Niên Trưởng Ngoại Giao Đoàn (một chức vị danh dự nếu không có đại sứ ở Việt Nam lâu năm nhất so với các đại sứ khác). Như vậy sẽ không thuận lợi đối với tâm lý quần chúng nhất là quần chúng chiếm 85% không Thiên Chúa Giáo (Cao Đài, Hòa Hảo, Bahai, Phật Giáo, Khổng Giáo…) Vì rằng, nếu là Niên Trưởng Ngoại Giao Đoàn thì vị đại sứ Tòa Thánh phải xuất hiện hàng đầu trong các cuộc lễ nghi chính thức và chính ông sẽ đại diện ngoại giao đoàn chúc mừng Tổng Thống theo truyền thống ngọai giao quốc tế, hoặc can thiệp vào mọi vấn đề liên hệ đến quyền lợi của Ngoại Giao Đoàn. Đây quả là vấn đề nan giải.

Cuối cùng theo ý ông Nhu thì cứ tạm thời duy trì như cũ nghĩa là nguyên cấp bậc khâm sứ. Mặt khác, Đại Sứ VNCH tại Ý Đại Lợi sẽ linh động giao thiệp hẳn với Vatican theo mức quan hệ bình thường.

Như trên đã viết, TT Diệm là một nhà quốc gia cực đoan. Trong đời sống cá nhân của ông thì tôn giáo là thiêng liêng nhất. Trong đời sống quốc gia nhiều khi địa vị tôn giáo đã trở nên mờ nhạt. Tuy nhiên nhiều chuyện vặt vãnh rất không đáng nói lại trở nên những yếu tố quan trọng tác động tâm lý quần chúng có mặc cảm rằng TT Diệm đã “Công Giáo hóa” quốc gia Việt Nam. Chẳng hạn sau mỗi bài diễn văn hay thông điệp TT Diệm bao giờ cũng kết luận “Xin ơn trên phù hộ cho chúng ta” Sự thực đó là thành ý của ông muốn chứng tỏ ông chống lại chủ nghĩa Cộng Sản vô thần và tin nơi Thượng đế. Nhưng đồng bào không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo lại cảm thấy khó chịu mặc dầu chữ phù hộ là một chữ quen dùng trong các lời khấn vái và văn sớ cúng tế ông bà.

Trên thực tế thì TT Diệm luôn luôn tỏ ra khó tính đối với Thiên Chúa Giáo và nhất là những cha cố “cầu cạnh”. Với mặc cảm thượng tôn uy quyền quốc gia, ông Tổng Thống qua nhiều trường hợp đã tỏ ra quá tự tôn trong cách xử sự với hàng giáo phẩm Thiên Chúa Giáo. Các Cha cố dưới mắt ông chỉ còn là những thần dân mà ông là một vị Hoàng Đế qua tinh thần Dân vi quí, xã tắc thứ chi, Quân vi khinh.

Theo giới thân cận, vào khoảng tháng 3-1961 một vị linh mục thừa sai người Pháp từ Ban Mê Thuột về Saigon và xin gặp Tổng Thống Diệm. Sĩ quan tùy viên vào trình.

– Thưa Cụ, có cha P xin vào hầu Cụ.

Tổng Thống Diệm hỏi: “Còn những ai ngồi ngoài đó”. Sĩ quan tùy viên kể tên một số nhân vật quan trọng đang ngồi chờ tại phòng khách để được vào tiếp kiến. Khi nhắc đến Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh, tỉnh trưởng tỉnh An Giang, ông TT nói “Gọi nó vô”. Ông TT tiếp 3 người khoảng chừng 2 giờ sau đó mới bảo Sĩ Quan tùy viên: “Mời ông cha vô”. Cuộc tiếp xúc ngắn ngủi không đầy nửa giờ. Sau đó, thấy ông Tổng Thống giận dữ, mặt hầm hầm.

Sau này linh mục P tiết lộ: Linh mục đã trình bày thẳng thắn với TT Diệm về một số linh mục Việt Nam đã có những lạm dụng quá đáng về việc khai thác rừng lấy gỗ bán và làm cho thường dân rất bất mãn, nhất là đồng bào Thượng.

Một tuần sau, bất thần TT Diệm đi kinh lý Cao Nguyên. Sau đó có những chỉ thị rất là nghiêm ngặt về việc khai thác rừng.

Lần ấy, ông nổi giận mắng Đại Tá Lê Quang Trọng Tư Lệnh Sư Đoàn 23 “Mi làm tư lệnh trông coi lãnh thổ mà mi không biết chi hết”. Ông Tổng Thống ra khẩu lệnh: “Bất kỳ ai phá rừng chặt cây mi bắt bỏ tù cho ta”. Ông nhắc đi nhắc lại trong cơn tức giận “Bắt bỏ tù, bất kỳ ai”.

Từ đó, Tổng Thống lại càng có mặc cảm đối với một số các cha hay có tính “lo toan chạy chọt”.

Tuy vậy tại các địa phương cũng như các bộ trung ương cấp chỉ huy vì hèn cũng có vì nhu nhược cũng có vì khiếp sợ thượng cấp cũng có cho nên đã xúm nhau bợ đỡ các vị linh mục (tất nhiên là một thiểu số). Họ ngán các “Cha cố” vì cho rằng, các cha cố ảnh hưởng rất nhiều với Tổng Thống và nói gì Tổng Thống nghe điều đó. Do vậy, cứ áo dài đen vào cửa công nào thì công việc đều sẽ qua và trôi chảy. Một số các Linh mục được ông Tỉnh ông Quận và tướng tá bợ đỡ thì dĩ nhiên, tâm lý con người ai không dễ siêu lòng rồi trở nên tự tôn càng ngày càng quá đáng. Trong sự lạm dụng về những vụ lặt vặt như xin giấy tờ, xin môn bài cho đạo hữu, xin hợp thức hóa đất đai, v.v…Những “affaires” vặt vãnh đó đã gây nên rất nhiều ngộ nhận.

Song thực tế giới thân cận nhất tại Dinh Tổng Thống đều xác nhận rằng TT Diệm (khác với ông Nhu và ông Cẩn) ông hết lòng, luôn cung kính hàng giáo phẩm. Nhưng ngoài Đức Cha Ngô Đình Thục thì chẳng một ai có thể lay chuyển được ông Tổng Thống… Nhiều Linh mục được ông hỏi ý kiến nhưng hỏi để mà hỏi thế thôi.

Linh Mục Hồ Văn Vui được gọi là một tu sĩ có nhiều uy tín trong giới Thiên Chúa Giáo miền Nam. Dạo năm 1958, Linh Mục Vui đã nhiều lần công khai phê phán chế độ và trong một bài thuyết giảng tại nhà thờ Đức Bà, Linh Mục Vui đã lên tiếng chỉ trích chính phủ một cách vô tư, thẳn thắn. Khi nghe tin Linh Mục công kích chính phủ, TT Diệm tỏ vẻ tức giận, TT Diệm nói: “Nhà thờ là nơi tôn nghiêm tại sao lại đưa chính trị vào đó mà công kích chính phủ”. Ông Nhu cũng tỏ vẻ tức giận nói với BS Trần Kim Tuyến: “Tại sao Đức Cha Simone Hòa Hiền lại để cho Cha Vui nói lôi thôi như vậy, việc nhà thờ tại sao lại đem chuyện nhà nước xía vô“. Giận LM Vui thì ít nhưng không bằng lòng Đức Cha Hòa Hiền thì nhiều.

Lời nói đi thì nhẹ nói lại thì nặng. TT Diệm lại bị mấy ông dân biểu và bộ trưởng “xàm tấu” rằng: “Cha Vui công kích Tổng Thống thế này kết án chánh phủ thế kia”. Do đó càng tạo thêm hố sâu thay vì tìm gặp linh mục để rõ sự tình song TT Diệm vì tự tôn với uy quyền của một Quốc Trưởng nên không gặp và cũng không công khai bày tỏ một thái độ nào với địa phận Saigon mà lại bảo ông Chủ Tịch Quốc Hội và vài ông dân biểu (là những giáo dân thuộc địa phận thuộc Saigon) tìm cách khác để Đức Cha Simone Hòa Hiền thuyên chuyển Linh Mục Vui đi một nơi khác.

Qua vụ của Cha Vui, giáo dân miền Nam tuy ngoài mặt vẫn vui vẻ với chánh quyền nhưng thâm tâm đa số có mặc cảm rằng chánh quyền Ngô Đình Diệm đã xử ức họ và coi thường giới Công Giáo miền Nam.

Riêng vụ Cha Của thì lỗi cũng không phải do nơi cha mà quy hoàn toàn trách nhiệm cho TT Diệm cũng là oan. Số là sau khi quân đội viễn chinh Pháp rút lui một vài sĩ quan người Pháp đã bán rẻ cho Cha Của mấy chiếc xe thuộc loại phế thải. Sau Nha Cảnh Sát Nam Việt do Trung Tá Trần Bá Thành làm giám đốc đã làm nổ tung vụ này. Sự việc xảy ra mấy hôm sau mới đến tai TT Diệm. Nhưng ông lại không can gián mà cứ mặc cho Tòa xử để làm gương nếu xét thấy có tội… Vụ này Trung Tá Thành muốn chứng tỏ tinh thần vô tư và cứng rắn của cảnh sát và ông đặt Tổng Thống Diệm trước một việc đã rồi.

Việc xét xử cha Của tuy tình ngay lý gian nhưng đã gây mâu thuẫn trầm trọng giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và giáo dân miền Nam thuộc địa phận Saigon.

Lúc ấy dư luận xầm xì rằng, nếu cha Của thuộc địa phận Vĩnh Long của Đức Cha Thục thì cho dù có phạm pháp thực sự cũng không sao. Dư luận lại cũng xầm xì: Cha Của là con tốt thí vì sự bất hòa giữa Đức Cha Simone Hòa Hiền và gia đình TT Diệm.

Từ đó sự liên lạc giữa địa phận Sài Gòn và gia đình TT Diệm càng trở nên lạnh nhạt xa cách. Cuối cùng Đức Cha Simone Hòa Hiền lên trọng nhậm địa phận Đà Lạt cũng là cách tế nhị của giáo hội TCG muốn tìm lại không khí tốt đẹp giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với địa phận Saigon qua một con người trung dung như Đức cha Nguyễn Văn Bình.

CHÙM MÂU THUẪN và NGỘ NHẬN – KỲ THỊ

Năm 1961 -1962, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ngồi trên một nồi “xúp de” sôi bỏng đầy mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa chính quyền với các “khối quần chúng”, mâu thuẫn giữa chính quyền và quần chúng trong hệ thống Ấp Chiến Lược của chính quyền, mâu thuẫn ngấm ngầm giữa chính quyền và các tôn giáo trong đó có Thiên Chúa Giáo. Mâu thuẫn và nứt rạn phân hóa ngay trong giới thân cận của TT Diệm với ông Nhu, và mâu thuẫn giữa ông Nhu với ông Cẩn. Mâu thuẫn giữa ông Cẩn với Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục. Rồi còn bao nhiêu những “bất công may rủi” ở ngay trong hàng ngũ thượng tầng của chế độ. Cái chùm mâu thuẫn này không phải là mâu thuẫn về chính kiến mà lại mâu thuẫn do những cá tính dị biệt cùng thành kiến với ông A bị thất sủng thì y rằng thành kiến cá nhân trở thành kỳ thị tôn giáo. Rồi ông bộ trưởng người Nam có thành kiến và ngộ nhận trở thành kỳ thị Nam Bắc…Chúng tôi nêu ra 2 trường hợp sau đây để có thể thẩm định TT Diệm có kỳ thị tôn giáo không? Đó là trường hợp ông Võ Văn Hải, Chánh Văn Phòng đặc biệt của TT Diệm và ông Nguyễn Đình Thuần. Ông Hải là người cận thân của TT Diệm và như ruột thịt của TT Diệm khi ông Diệm chưa chấp chánh. Có thể nói, hai con người đó một già một trẻ keo sơn với nhau như định mệnh đã an bài, và không thể rời bỏ nhau được. Nếu đòi hỏi điều kiện khoa bảng, thì ông Hải là một nhà khoa bảng. Ông Hải lại là người cần cù biết việc, có đủ lòng tin cẩn của TT Diệm. Nhưng suốt 9 năm ông Hải phải đóng vai trò của một người bị “sáng ông Cụ cằn nhằn, chiều la lối” song ông Hải trước sau vẫn chỉ là một Chánh Văn Phòng bù đầu suốt tháng năm và ông không hề được chế độ đặt ông ở một vị trí khác (người nào ở trường hợp ông Hải mà chẳng mơ ước để có thể thi thố được tài năng). Ông Hải lại “kỵ” ông Nhu.

Phải công nhận rằng, tuy ông Hải thân thiết với ông Diệm nhưng ông giữ được khí khái và lại xa cách ông Nhu. Đó cũng là lý do ông Hải là một Phật Tử thuần thành sinh trưởng trong gia đình Nho Giáo…nhưng không phải vì lý do tôn giáo khác biệt mà ông Hải không được lãnh bộ này hay bộ khác… TT Diệm coi ông quá thân thiết và chức vụ Chánh Văn Phòng chính là phần trái tim của TT Diệm trao cho ông ấp ủ khiến ông Hải phục vụ hết mình, nhưng bổng lộc của chế độ thì lại do những ai “nhanh chân lẹ miệng thụ hưởng”.

Trong chế độ có rất nhiều người ở vào trường hợp ông Hải… Nhưng lại được TT Diệm tin yêu, tín nhiệm như ruột thịt. Vấn đề tôn giáo không quan tâm vì nếu quan tâm thì hẳn nhiên ông Hải không được tin dùng… Tuy có điều, ai được TT Diệm coi như tâm huyết thì nhiều khi lại có cảm tưởng như bị thất sủng, bỏ rơi. Đồng thời có một số người khác “may tay” lại lên như diều gặp gió

Đó là trường hợp ông Nguyễn Đình Thuần. Như ai cũng biết ông Thuần là “đàn em” của ông Trần Trung Dung, và đã làm báo với ông Dung từ ngày còn ở Hà Nội. Ông Dung được coi như một đồng chí của ông Ngô Đình Nhu. Ông thuộc gia đình Công Giáo đạo gốc, từng là bí thư Tỉnh Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng tỉnh Phú Thọ.

Khi ông Dung là Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng thì cất nhắc đàn em Nguyễn Đình Thuần lên Đổng Lý Văn Phòng. Ông Dung tuy là “đồng chí” cận thân của ông Nhu và cũng là hàng con cháu trong gia đình nhưng đến năm 60 thì ông Dung rời bỏ Bộ Quốc phòng (18-10-1960) và ông Thuần được cử thay thế. Dạo đó có dư luận cho rằng ông Dung bị ông Thuần “đá” và tranh chức Bộ Trưởng. Sự thực không đúng như vậy.

Tuy tin cẩn ông Dung, nhưng TT Diệm lại không “chịu” cách thức làm việc của ông. TT Diệm vẫn thường cằn nhằn “Ông ta làm Bộ Trưởng Quốc phòng mà không hiểu gì công việc cả. Khi hỏi đến chi thì nói những vấn đề đâu đâu”, ông Dung tuy xuất thân làm một tri huyện, nhưng có cái lẽ “chất tri huyện” chưa thấm sâu vào mạch máu ông cho nên ông không có cái mẫn cán cần cù của một người ngồi viết công văn, đọc báo cáo và và ghi nhớ hồ sơ cho nên khi TT Diệm hỏi đến các công việc gì ở Bộ QP thì ông Dung chỉ tường trình một cách tổng quát.

TT Diệm không chịu như vậy, cho nên ông phải gọi thẳng ông Đổng Lý. Ông Đổng Lý Thuần vốn là người thông minh, sắp đặt công việc có hệ thống tuy nó bị ghi nhận là quá lanh chân lẹ miệng. Có lẽ nhờ vậy, mỗi khi TT hỏi đến công việc ông đã trả lời rất vừa ý Tổng Thống. Hồ sơ này thế này hồ sơ kia thế kia… Mà thực ra trên phương diện tổng quát, ông Thuần lại thiếu khả năng của một Bộ Trưởng Quốc Phòng vào thời chiến. Thế nhưng ưu điểm của ông là “Cụ hỏi thì thưa ngay. Cụ hỏi hồ sơ nào thì có liền.”

Do đó, thay vì tìm sự công tác trên bình diện lãnh đạo ngành Quốc Phòng ở nơi ông Trần Trung Dung, thì TT Diệm lại chỉ sai phái hỏi han ông Đổng Lý. Khi ông Dung vào TT chỉ muốn mau chóng trình bày một cách tổng quát rồi tùy nghi thi hành, ông Thuần trái lại sẵn sàng có thể ngồi đến bao giờ cũng được để nghe lời “Cụ dạy“. Vốn là người cô đơn khắc kỷ và ưa được dài lời trò chuyện lan man qua công việc và TT Diệm đã tìm được một người vừa ý như ông Thuần luôn luôn biết lắng nghe và làm rất vừa ý. Ngày này qua tháng nọ ông Thuần luôn luôn chứng tỏ cái tài mẫn cán và trở thành người được TT Diệm coi là giới “biết việc”. Khi LS Nguyễn Hữu Châu rời bỏ chức vụ Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống, TT Diệm chưa biết tìm ai thay. Ông Nhu biết ý ông anh nên cũng tuỳ ý ông anh “để ông cụ muốn tìm ai thì tìm” ông Nhu cũng không đoán nổi ông anh sẽ chọn ai. Có điều là cho đến phút chót khi TT Diệm quyết định chọn ông Thuần làm Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống, thì chính ông Nhu vẫn cứ tưởng ông Thuần sẽ được TT Diệm bổ nhậm làm Đặc Sứ Việt Nam tại Tunisie. Ngay ông Thuần cũng không hay biết. Khi Lương Khải Minh gọi điện thoại báo cho ông Thuần hay: “Moa có lời chúc mừng cho toa“. Ông Thuần ngạc nhiên: “Thưa anh có chuyện gì vậy?” Toa được ông Cụ cử làm Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống“. Cho đến lúc ấy ông Thuần mới biết là mình đã được TT Diệm tín nhiệm ở chức vụ quan trọng như vậy.

Ông Thuần trở thành Bộ Trưởng PTT sau này kiêm nhiệm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc phòng (thay thế ông Trần Trung Dung) rồi lại được tạm giữa chức Bộ Trưởng phối hợp An Ninh (chính phủ cải tổ ngày 28-5-61). Giới thân cận Phủ Tổng Thống cho rằng: Ông Thuần là người biết “chiều ý” Tổng Thống đến tuyệt mức.

Cái sự lên như diều gặp gió của ông Thuần cũng như sự “dẫm chân tại chỗ” của bao nhiêu người khác tuy không nói ra nhưng cái mầm bất mãn đã âm ỉ ngay từ trong ruột của chế độ đó. Nhưng cái “bất mãn ở trong nhà” đã không bùng nổ vì vẫn còn TT Diệm. Nhờ thế những mâu thuẫn không tạo nên sức ép tạo thành những tia xẹt.

Trong cuộc tiếp xúc và tâm tình với các “nhân chứng” cận thân TT Diệm, chúng tôi thấy rằng phần lớn những cộng sự viên thân tín của ông đều là Phật Giáo. Điển hình là ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần, BS Bùi Kiện Tín, ông Võ Văn Hải, Đại Tá Đỗ Mậu cũng như Trung Tá Cao Văn Viên. Các Tư Lệnh Lữ Đoàn LBPVPTT như Đại Tá Hoàng Văn Lạc, Trung Tá Nguyễn Ngọc Triển đều là Phật giáo ngoại trừ Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, vị Tư Lệnh cuối cùng của Lữ Đoàn này là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Vì ông TT mặc cảm Thiên Chúa Giáo nên nhiều viêc chức Công Giáo ở trung ương đã không được TT Diệm cất nhắc lên chức vụ quan trọng… Tư Lệnh các binh chủng như Lữ Đoàn Nhảy Dù, Lữ Đoàn TQLC trước sau từ Đại Tá Đỗ Cao Trí, Nguyễn Chánh Thi, đến Cao Văn Viên (ND) và Trung Tá Lê Nguyên Khang (TQLC) đều là Phật Giáo… Vậy thì TT Diệm có kỳ thị Phật Giáo hay không, sử gia sau này sẽ phán đoán một cách công minh. Điều rõ rệt là Tổng Thống Diệm quá nhiều mặc cảm với Thiên Chúa Giáo và thành kiến sâu nặng đối với một số chánh khách thuộc Đảng Đại Việt Quan Lại đã từng tham chánh dưới thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm…

No comments:

Post a Comment