Monday, April 22, 2013

BÀN TAY NHUỐM MÁU CỦA HỒ CHÍ MINH


Nguyễn Hữu Nguyên lược dịch
                                                                Nguyễn Việt Nữ giới thiệu    

 Lời người viết.- Bài trình bày dưới đây đã được Hubbell viết và đăng trên tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 11 năm 1968 cùng với lời giới thiệu của Trung Tướng Thủy Quân Lục Chiến Lewis W. Walt, Quân đoàn I, Nam Việt Nam (1966-1967). Trung Tướng Walt viết:

Bài tường thuật này đã diễn tả một cách trung thực bản chất thực sự của kẻ thù tại Nam Việt Nam. Tôi đã chứng kiến cảnh một em bé trai hai tay bị chặt đứt. Tôi  đã nhìn những chiếc đầu người bị bêu trên đầu cọc và những thân hình bụng bị mổ toang ra. Trong hai năm phục vụ tại Nam Việt Nam, cùng sát cánh chiến đấu và làm việc với lực lượng của miền Nam, tôi học hỏi được rằng các sự khủng bố của Cộng Sản trong bài này không phải là các biến cố tai nạn chiến tranh lẻ tẻ mà là do một chương trình tàn sát có chủ định sẵn. Và đó là lý do khiến chúng tôi đã đáp ứng lại lời kêu gọi trợ giúp của Nam Việt Nam mà chúng tôi tin những nỗ lực cứu giúp quốc gia này của chúng tôi rất đáng giá, cần thiết và chủ yếu.”
 Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng. Một trong các đứa con của hai người, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày qua. Quá sợ hãi, họ tìm đến Trung Tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị Việt Cộng bắt cóc. Rồi thì đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các cánh đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó chạy vội ra, ôm lấy nó vào lòng. Cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ đeo một cái bảng có ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó: Nếu ông ta hay bất kỳ người nào trong làng cả gan đi bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới, sẽ chịu những gì còn tệ hại hơn nữa cho các đứa con còn lại của ông ta.

Tại một xã khác không cách xa Đà Nẵng là bao, Việt Cộng cũng đưa ra những lời cảnh cáo tương tự. Tất cả những người dân được tập trung lại trước nhà viên xã trưởng, kể cả vợ của ông ta đang bụng mang dạ chửa và bốn đứa con để chứng kiến cảnh khủng bố dã man của bọn chúng. Lưỡi ông xã trưởng bị cắt đứt, và hạ bộ của ông ta cũng bị thiến rời ra, đem nhét vào trong mồm trầy trụa máu rồi khâu lại. Sau khi ông ta chết, bọn Việt Cộng xoay ra hành hạ bà vợ bằng cách dùng dao rạch bụng bà ta ra. Đứa trẻ chín tuổi bị chúng dùng một que nhọn xuyên qua từ tai bên này sang tai bên kia. Hai đứa kia cũng bị giết chết một cách tương tự. Chỉ còn đứa bé gái 5 tuổi được bọn chúng cho  thoát chết, để rồi nó chỉ còn biết cầm tay người mẹ đã chết mà gào khóc.

Trung Tướng Walt đã đến trụ sở một quận lỵ, một ngày sau khi quận này bị Việt Cộng và bộ đội miền Bắc tràn ngập. Một số binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, không bị chết trên chiến trường và bị bắt. Chúng trói những binh sĩ này lại rồi bắn vào mồm hay vào sau gáy họ. Vợ con của họ, có trẻ em mới 2 hay 3 tuổi, bị bọn chúng đưa đi diễu hành trên đường phố trần truồng trước khi bị chúng đưa ra hành quyết. Có người cổ họng bị cắt đứt, có người bị chặt đầu hay bị mổ bụng. Xác họ được đem bêu trên các hàng rào kèm gai theo với những tấm bảng cảnh cáo dân làng, nếu tiếp tục ủng hộ chính quyền Sàigòn, cũng sẽ bị chung một số phận. Những hành động khủng bố như vậy không phải là những hành động lẻ tẻ mà là do một chính sách có chủ định sẵn của chúng.

Trong khi đó, có những người thơ ngây và chống đối Hoa Kỳ trên khắp thế giới, vì bị mê hoặc bởi những luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản, nên đã đánh trống khua chiêng, rêu rao chống lại tính chất vô luận của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tại Nam Việt Nam như oanh tạc bằng Không Quân hay xử dụng tới bom Napalm (thực ra rất hạn chế cho những trường hợp thật cần thiết mà thôi) gây ra nhiều thiệt hại cho dân chúng, ngày cũng như đêm, trong nhiều năm chinh chiến. Cộng Sản đã chỉ nêu lên những hành động mà chúng cho là tàn bạo, dã man của miền Nam nhưng đã  bỏ qua hay lấp liếm những tội ác mà chính chúng đã phạm vào một cách kinh tởm ghê gớm. Tính tới cuối năm 1967, chúng đã phạm vào khoảng 100,000 trường hợp khủng bố, chống lại người dân miền Nam Việt Nam qua những chuỗi dài hành động bạo tàn vô tận như tra tấn, sát hại chẳng khác gì dưới thời đại của Đức Quốc Xã.

Những hành động khủng bố được bắt đầu từ khi lãnh tụ độc tài đỏ Hồ Chí Minh củng cố được quyền lực tại miền Bắc. Hơn một năm, trước ngày lịch sử 1954 chiến thắng Pháp tại Điện Biên Phủ, Hồ đã cho thi hành một chiến dịch tàn bạo đối với chính nhân dân của y. Hầu hết tại các làng mạc miền Bắc, những đoàn cán bộ võ trang điều động dân chúng tới để chứng kiến những buổi đấu tố các địa chủ mà chúng cho là cường hào, ác bá. Rồi thì tới lượt các nhà trí thức, các giáo viên, nói tóm lại tất cả những ai có thể là nguồn chống đối lại chúng mai sau này, cũng được chúng gom lại để khủng bố rồi cưỡng ép làm những bản tự thú về những tư tưởng lầm lẫn trong quá khứ hay những tội lỗi họ không bao giờ làm.

Tiếp theo là những tòa án nhân dân được thiết lập để xét xử họ. Có nhiều trường hợp các nạn nhân đã bị hành quyết, bị chặt đầu hay bị hành hạ, trói tay, trói chân thẩy xuống các hố tập thể và vùi đất, đá lên cho tới chết.

Hồ lại cho tái diễn những hành động khủng bố này từng định kỳ một. Có khoảng từ 50.000 tới 100.000 người được coi như đã bị giết chết một cách tàn nhẫn trong các cuộc tắm máu như vừa kể trên. Trong thập niên 1950, Hồ cũng đã đập tan những cuộc nổi dậy tại Bắc Việt Nam, đặc biệt nhất là vụ nổi dậy của nhân dân (Quỳnh Lưu) tỉnh Nghệ An tháng 11 năm 1956, và ngay cả tại Nam Đàn, Nghệ An, là nơi sinh quán của Hồ chí Minh. Vì dân chúng nổi lên, chống đối lại sưu cao thuế nặng nên Hồ phải đưa quân đội tới đàn áp. Khoảng 6.000 nông dân, không võ trang, đã bị tàn sát.

Sau khi đã củng cố được miền Bắc rồi, Trung Ương Đảng Bộ Cộng Sản Việt Nam họp tại Hànội ngày 13 tháng 3, 1959 đưa ra quyết định phải có hành động chống lại miền Nam Việt Nam. Chúng đưa những cán binh nằm vùng đã ở lại miền Nam sau khi Pháp thất trận năm 1954. Nhiệm vụ: loại bỏ các nhà lãnh đạo tại miền Nam, thanh toán tất cả những ai có thân nhân phục vụ trong quân lực VNCH, các nhân viên dân chính, cảnh sát, hoặc tất cả những ai không chịu đóng thuế cho chúng.

Một du kích quân Việt Cộng bị bắt đã cho biết các hoạt động của nhóm 8 người của y tại các làng mạc miền Nam như sau: “Lần đầu tiên chúng tôi vào làng này, chúng tôi đã hạ sát bốn người đàn ông mà huyện ủy của chúng tôi cho biết họ là những phần tử phản động rất nguy hiểm đối với chúng tôi. Một người đã theo Pháp, tham gia vào trận chiến chống lại chúng tôi và rồi bây giờ lại ủng hộ chính quyền miền Nam. Một người khác đã có cảm tình với quân đội chính phủ và vài người khác là địa chủ và họ đã bị chặt đầu”.

Trung Tướng Walt cũng cho biết về chính sách cách mạng của Việt Cộng khi chúng vào hai ngôi làng khác. Trong một trường hợp, một em bé gái 15 tuổi đã cung cấp tin tức của Việt Cộng cho toán Thủy Quân Lục Chiến của Tướng Walt. Em đó sau này bị Việt Cộng bắt cóc đem vào rừng, hành hạ, tra tấn, trước khi chặt đầu em, như để cảnh cáo cho những người khác trong làng. Những kẻ sát nhân kia không ai khác mà chính là người anh ruột của em bé gái nạn nhân, cùng với một đứa em của em bé gái nạn nhân, và hai “đồng chí” của y.

Thành tích diệt chủng của Cộng Sản.

Năm 1960, khoảng 1.300 thường dân miền Nam Việt Nam đã bị giết chết và khoảng 700 người khác bị bắt cóc mang đi mất tích. Vào đầu năm 1965, đài phát thanh Hànội và đài phát thanh lực lượng Giải Phóng loan tin Việt Cộng miền Nam đã phá hủy được 7.559 xã ấp, và tới cuối năm sau, 15.138 thường dân đã bị hạ sát và 49.929 đã bị bắt cóc mang đi, để rồi, người ta thấy không bao giờ trở lại nữa.

Hành động của Hồ Chí Minh tấn công vào miền Nam được coi như một hình thức diệt chủng. Dù cho Nam Việt Nam có sống sót trong tự do, thì cũng phải đến cả một thế hệ sau mới bù đắp vào được chỗ trống đó. Hồ cũng hy vọng rằng sẽ ép buộc được chính phủ bị tấn công cho áp dụng những biện pháp quá đáng chống khủng bố và những biện pháp này sẽ gây ra sự bất mãn và thù hận trong dân chúng. Một bác sĩ người Úc, W. Wylie, phục vụ trong bệnh viện tại vùng đồng bằng sông Cửu Long nhấn mạnh rằng, không cứ gì một làng, xã đã hợp tác với chính quyền Sàigòn mới phải chịu những cảnh giết chóc của chúng. Những nơi nào, chỉ cần biểu lộ một thái độ trung lập, điều mà Cộng Sản không chấp nhận, cũng thừa đủ để là nạn nhân của chính sách khủng bố của chúng. Bác sĩ Wylie đã kể lại những trường hợp như sau:

Một người xã trưởng đã bị một bọn Việt Cộng siết cổ cho đến chết trước mắt người vợ đang có mang. Sau khi giết người chồng xong, chúng quay sang hành hạ người đàn bà bụng mang dạ, chửa,  chặt cụt hai chân bà ta đi  khiến bà ta phải sanh non. Một đứa con trai 3 tuổi bị bọn Việt Cộng dùng súng tiểu liên bắn chết.

Một cảnh sát viên trong làng bị bọn Việt Cộng dí sát nòng súng vào mặt và lẩy cò, khiến cả đầu ông ta bị nát bấy ra.

Một nữ giáo viên 20 tuổi bị một bọn Việt Cộng dùng mã tấu chém vào gáy. Lưỡi dao đã chém lên quá cao khiến để lòi ra cả óc ra.

Những ống súng phóng lửa nhập cuộc

Ngày 3 tháng Chạp 1967, Cộng Sản tràn vào Dak Son, một làng tại vùng Cao nguyên và gồm có chừng 2.000 dân Thượng. Những người này trước đây đã rời khỏi khu vực chiếm đóng của Việt Cộng và đã chống lại lời kêu gọi của chúng phải trở về những nơi cư ngụ cũ. Hai tiểu đoàn lính Việt Cộng tràn vào làng trong khi dân chúng đang ngủ say. Các cán binh Việt Cộng dùng những súng phóng lửa đốt cháy những người dân ngay trên giường ngủ của họ. Chỉ một số nhỏ thoát được ra ngoài và lẩn tránh trong rừng. Một số khác còn lại lẩn trốn vào các đường hầm trú ẩn đào sẵn sau nhà. Sau khi đốt cháy rụi các nhà cửa, chúng tìm thấy những người trốn trong các đường hầm nên dùng súng phóng lửa vừa đốt vừa thẩy các trái lựu đạn xuống. Xong xuôi chúng rút về phía biên giới Cao Miên. Đến tảng sáng, Dak Son đã diễn ra một hình ảnh kinh hoàng. Tất cả làng giờ đây chỉ là đống than còn âm ỉ cháy cùng với xác người nằm ngổn ngang khắp đó đây. Tính ra đã có 252 xác người, phần lớn là đàn bà và trẻ em, cháy gần thành than. Một số khác còn sống thì bị phỏng nặng hay bị những thương tích đầy mình. Khoảng 500 người đã bị mất tích và nhiều người sau này đã được tìm thấy chết trong rừng vì các vết thương.

Cuộc thảm sát tại Dak Son đã được coi như một cảnh cáo của Việt Cộng cho các dân Thượng khác vẫn cương quyết hợp tác với chính quyền địa phương.

Chận đánh các xe chuyên chở học sinh.

Tinh thần Việt Cộng bị xáo trộn khi thấy chính quyền miền Nam phát triển nhanh chóng hệ thống giáo dục học đường. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1959, số trường học được gia tăng lên gấp ba và sĩ số tăng lên gấp bốn. Sự gia tăng này đã là mục tiêu cho sự phá hoại của Hồ khiến Cơ Quan Thế Giới World Confederation of Organizations of The Teaching Profession, dưới quyền chủ tọa của Shri S. Natarajan, phải cử một phái đoàn tới để điều tra tại chỗ.

Tại tỉnh An Xuyên (Cà Mau), ủy ban điều tra nhận thấy trong niên khóa 1954-55, có 32 trường sở với 3.096 học sinh; tới cuối niên khóa 1960-61 số học sinh gia tăng lên 27.953 và số trường học cũng được bành trướng thêm với 189 trường sở. Trước sự kiện trên, Cộng Sản quyết ra tay phá hoại. Các phụ huynh học sinh được khuyến cáo không để cho con em tới trường. Các giáo viên cũng được cảnh cáo chấm dứt việc giảng dạy các học sinh tại trường. Những giáo viên nào không tuân theo lời khuyến cáo trên của Việt Cộng, bị hạ sát bằng cách cắt cổ, chặt đầu với bản án ghim trước ngực là kẻ thù của nhân dân.

Ủy ban Natarajan cũng báo cáo rằng có lần Việt Cộng đã chận lại một xe chuyên chở học sinh và cấm các trẻ em không được tiếp tục đến trường nữa. Một tuần sau, khi thấy các em vẫn đến trường, Việt Cộng bèn chận xe chuyên chở lại, lựa chọn một em sáu tuổi, chặt đứt hai ngón tay của em rồi nói với các em khác, nếu còn cứ tiếp tục tới trường sẽ phải chịu một hình phạt tương tự.

Chỉ trong một năm, riêng tại tỉnh An Xuyên (Cà Mau), các sự khủng bố của Hồ đã khiến cho 150 trường học phải dóng cửa, hơn 60 giáo viên, hoặc bị bắt cóc, hoặc bị giết chết. Do đó, sĩ số tại toàn tỉnh An Xuyên cũng bị sút giảm đi tới 20.000 học sinh. Cho tới niên khóa 1961-62, tính ra có tới 636 trường học tại Nam Việt Nam phải đóng cửa, và sỉ số cũng bị giảm xuống gần 80.000, vì các hành động khủng bố của Việt Cộng.

Cán cân công lý.

Các hành vi bạo động và phá hoại khủng bố của Việt Cộng vẫn tiếp tục gia tăng. Sau khi Huế được giải tỏa sau ngót một tháng bị Cộng quân tạm thời chiếm đóng trong dịp Tết Mậu Thân, người ta đã khám phá ra được 19 nấm mồ tập thể chôn hàng ngàn thường dân, già có, trẻ có, phụ nữ, học sinh, thầy tu Công Giáo, Phật Giáo, giáo sư, bác sĩ (trong đó có cả một bác sĩ người Đức giảng viên của trường Đại Học Y Khoa Huế) đã bị chúng hạ sát. Một nửa trong số đó đã bị chôn sống, tay chân bị trói chặt bằng dây kẽm gai, đất cát nhét đầy mồm, tuy đã bị chết ngộp nhưng mắt vẫn mở trừng trừng.

Khi chiếm được Huế, các cán bộ Việt Cộng đã mang theo một bản danh sách dài ghi tên những người từng cộng tác với chính quyền Sàigòn hay với các cơ quan quân sự Hoa Kỳ để rồi cứ theo đó truy lùng và bắt bớ, đem ra hành tội với tội danh là những kẻ phản động, kẻ thù của Cách Mạng.

Cuộc tổng tấn công của địch trong trận Tết Mậu Thân đã đánh dấu một sự thay đổi trong chiến thuật của Cộng Sản. Thậm tâm Hồ biết rõ chưa thực sự chiếm được lòng dân trong Nam, nhưng những cán binh Cộng sản tham gia vào cuộc hành quân không thấu hiểu được điều đó. Chúng được chỉ dẫn rằng, chúng không cần tới một kế hoạch rút lui, vì dân chúng sẽ nổi dậy và cùng chiến đấu với chúng để đẩy lui quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng tất cả đã là một điều trái ngược vì quân dân miền Nam đã chiến đấu như những con mãnh hổ.

Những sự tàn bạo dã man của Cộng Sản có thể được ghi lại nhiều không sao kể xiết. Người viết chỉ còn mong một ngày nào đó, nếu Liên Hiệp Quốc giờ này đã chiếu cố tới vụ tàn sát tại Bosnia, và đưa ra trước tòa án quốc tế Le Hague hai phạm nhân Karadzic và Mladic, một về chính trị và một về quân sự, như những Tội Nhân Chiến Tranh, thì một ngày nào đó, những kẻ tay chân của Hồ hiện còn sống cũng sẽ phải ra trước tòa án The Hague để trả lời cho các vụ sát nhân, diệt chủng mà chúng đã phạm, trong thời gian qua, cũng như trong thời gian hiện tại với những nhà tù nhan nhản và những cái mang danh nghĩa là trại cải tạo đối với các cựu quân nhân và dân chính đã từng phục vụ trong quân đội cũng như chính quyền miền Nam. Mong lắm thay.
  
John G. Hubbell

Nguyễn Hữu Nguyên dịch
Nguyễn Việt Nữ giới thiệu 

No comments:

Post a Comment