Thích Đạt Ma Phổ Giác
Chúng tôi chân thành xin mời tất cả bạn lữ gần xa, cùng ngồi lại bên nhau để thưởng thức những tách trà thơm ngon tinh khiết. Xin mời!
ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Tôi lúc trước, si mê cùng lầm lạc.
Gây biết bao, khổ não cho nhiều người. Nhờ Tam Bảo, mẹ hiền đã tế độ. Tôi vượt
qua, ngục tù trong muôn khổ. Để rồi đây, kết nguyện với muôn loài. Hầu đền đáp,
sẻ chia cùng tất cả . Để cùng nhau, kết nối tình yêu thương.
Giống như cục đất sét, khi chưa được nhào nặn để đưa vào lò nung đúng độ, gặp trời mưa chúng sẽ rã ra, không còn xài vào việc gì được nữa, thậm chí còn làm tổn hại đến cho nhiều người.
Đã làm người trong thiên hạ,
ai không một lần thất bại, nếu ta ngồi yên hay đứng lại một chỗ thì không bao
giờ vấp ngã. Càng bước đi, càng dễ dàng vấp ngã, nhưng nó không làm chết đi
những con người tài đức, mà chỉ là thử thách tôi luyện thêm ý chí, lập trường
cho người có đức hạnh và tài ba. Ngược lại nó, sẽ quật ngã những kẻ mềm lòng,
yếu đuối, bạc nhược, dễ duôi, không có khả năng kiên nhẫn, chịu đựng, để rồi
rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi. Nghịch cảnh hay chướng duyên, không phải là
tảng đá lớn ngăn cản bước đi của chúng ta. Nó chỉ là thềm đá rộng, để giúp cho
bước chân chúng ta đi đều và vững vàng hơn, trong cuộc hành trình trở về thế
giới tâm linh của chính mình.
Giống như cục đất sét, khi chưa được nhào nặn để đưa vào lò nung đúng độ, gặp trời mưa chúng sẽ rã ra, không còn xài vào việc gì được nữa, thậm chí còn làm tổn hại đến cho nhiều người.
Ngược lại. Cục đất sét kia, sau khi đã
được con người nhào nặn và tôi luyện đúng độ trong lò nung, dễ trở thành một
bình trà xinh xắn, cuối cùng đã giúp cho con người có những tách trà thơm ngon.
Chúng tôi chân thành xin mời tất cả bạn
lữ gần xa, cùng ngồi lại bên nhau để thưởng thức những tách trà thơm ngon tinh
khiết. Xin mời!
Đã làm người, ai không một lần vấp ngã
hay thất bại! Vấp ngã nhiều hay ít thực ra không quan trọng, mà quan trọng là
sau khi vấp ngã chúng ta có can đảm đứng dậy hay không? Chúng ta có dám mạnh
dạn nhận diện lỗi lầm để làm mới lại chính mình, hay biết mà vượt qua không nỗi
để rồi phải chịu mang họa vào thân. Cuối cùng bị mặc cảm, tự ti, hối hận suốt
cả cuộc đời chôn vùi trong khuất lấp và sống trong đau khổ lầm mê. Để vượt qua
lỗi lầm sau khi vấp ngã, chúng ta phải tự đứng lên mặc dù rất khó. Nhưng nếu
không nhận ra được lỗi lầm, dù có muốn làm mới lại cuộc đời, làm mới lại chính
mình, cũng phí công vô ích. Vì sao? Vì không thấy mình sai, làm sao sửa sai?
Cho nên, người có lỗi lầm sau khi vấp
ngã, hãy can đảm nhận ra điều sai quấy của mình, nguyên nhân từ đâu đến, do
khách quan hay chủ quan, nếu là khách quan, ta hãy nên quán chiếu xem xét trở
lại, tự mình an ủi lấy mình, biết đây là nghiệp xấu đã gieo tạo từ trước, giờ
đến hồi trả quả. Một con người đáng được tán thán và ca ngợi không phải ở chỗ
chưa bao giờ vấp ngã, mà sau khi vấp ngã, người đó có dám mạnh dạn đứng lên hay
không?
Chúng ta đã biết, trong đời này có hai
hạng người đáng được tán thán và tôn kính. Hạng người thứ nhất chưa từng lầm
lỗi, hạng người thứ hai đã từng gieo tạo tội lỗi, nhưng biết ăn năn sám hối hứa
chừa bỏ và không còn tái phạm lỗi lầm. Giống như con cá khi đã bị mắc vào lưới,
mà còn tìm cách nhảy ra để được thoát thân không phải hay là gì? Cũng đồng là
cá, biết bao con khác phải nằm chờ chết, vì không đủ sức vùng vẫy thoát ra,
đành cam chịu số phận tối tăm.
Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới, là dụ cho
người mắc phải sai lầm làm những điều tội lỗi, mà biết quay đầu làm mới lại
chính mình. Thế gian này vượt cạn lên bờ được mấy ai. Ý chí, niềm tin và nghị
lực có thể giúp chúng ta vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ma túy, cờ bạc, rượu chè, đàng
điếm…chúng ta có thể vượt qua một cách dễ dàng, song để sống làm người không vì
lợi ích riêng tư, luôn sống vì tha nhân, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui
chính mình, đây mới là điều khó làm nhất của một con người.
Ta không thể thay đổi hoàn cảnh hiện
tại, nhưng ít ra ta cũng phải thích nghi với cuộc sống thực tế, khi đối mặt với
khó khăn và chướng ngại. Người có khả năng tu tập, thì dễ dàng vượt qua sóng
gió cuộc đời. Người thiếu niềm tin về chính mình, thường không sáng suốt nhận
định đúng sai, dễ trở nên oán giận, thù hằn, tạo ra nỗi khổ niềm đau cho nhau,
cuối cùng chuốt họa vào thân và chấp nhận cuộc đời đen tối.
Ý chí niềm tin và nghị lực là ba điều
không thể thiếu trong cuộc sống, để chúng ta vững vàng bước đi những bước chân
trên khắp nẻo đường, mà cuộc sống vốn nhiều thay đổi và đầy gian nan thử thách.
Chúng ta phải tin rằng không có gì là cố định cả, mọi thứ đều có thể thay đổi
được. Nhờ có ý chí, chúng ta mới có thể học hỏi từ những thất bại đã qua, cố
gắng vươn lên vượt qua số phận, không nản lòng thất chí khi gặp phải khó khăn
chướng ngại.
Ai cũng có khả năng và sức mạnh của ý
chí, đang tiềm ẩn nơi mỗi con người chúng ta, để vươn lên làm mới lại chính
mình. Muốn vượt qua số phận, ta phải kiên nhẫn bền chí, can đảm dũng mãnh,
siêng năng tinh tấn, để làm mới lại cuộc đời.
Trong cuộc sống ít ai hoàn hảo về mọi
mặt, vì đã gieo nhân tốt xấu lẫn lộn. Muốn vượt qua cạm bẫy cuộc đời, chúng ta
hãy nên chiêm nghiệm câu thơ của Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều: “Tu là
cội phúc, tình là dây oan.”
Tại sao? Tu là cội phúc, tình là dây
oan? Chữ tu ở đây không phải là gì cao siêu mầu nhiệm, không phải cạo đầu vô
chùa hay vào rừng sâu núi thẳm mới gọi là tu. Tu có nghĩa là chuyển hóa thay đổi,
buông xã những gì chấp mắc, trói buộc làm chúng ta không được an vui hạnh phúc,
làm cho mình và người khổ đau.
Tình ở đây mang ý nghĩa thâm sâu hơn,
tình là những thói quen xấu có tính cách hại mình, hại người làm khổ đau cho
nhau như tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn, hiểm độc hận thù, ganh ghét phá bỏ, triệt
tiêu hủy diệt, cho nên nói tình là dây oan. Một cục muối, một củ cà rốt, một
quả trứng, sau khi được đun sôi một thời gian, chúng ta sẽ thấy thế nào?
Cục muối với hình dáng bên ngoài coi vẽ
rắn chắc, nhưng khi bỏ vào nước từ từ sẽ bị hòa tan theo thời gian, củ cà rốt
cứng chắc cũng mềm đi khi bị nấu chín, còn quả trứng tuy vỏ mỏng manh nhưng khi
được luộc qua nước sôi nóng bỏng, lại trở nên cứng cáp hơn. Cũng vậy, nếu con
người không được tôi luyện trong gian khó, sẽ dễ dàng gục ngã trước phong ba
bão táp cuộc đời và khó có thể làm mới lại chính mình.
Bằng kinh nghiệm của bản thân, sau khi vấp ngã
được Phật pháp cứu vớt làm mới lại cuộc đời, chúng tôi có đôi lời chân thành
xin được chia sẻ cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa. Một chút tâm tình, mong được
kết duyên sâu cùng với tất cả mọi người.
Thường Chiếu ngày 10
tháng 8 năm 2010
Kính ghi
PHONG TRẦN CUỒNG NHÂN
VƯỢT QUA CẠM BẪY
CUỘC ĐỜI?
Dòng đời nghiệt ngã, luôn cuốn trôi tất cả dù
đó là nhân nghĩa của một con người. Vì thế, vượt cạn lên bờ được mấy ai? Đường
đời nhiều nỗi gian nan trắc trở, đứng trước dòng thác lũ cuộc đời, với vô vàn
sự cám dỗ, nhiều chông gai, nhiều cạm bẫy. Muốn thưởng thức cái hoa hồng đẹp
chúng ta phải chấp nhận thân gai góc của nó. Hạnh phúc khổ đau, thương yêu thù
hận, hơn thua được mất, con người lúc nào cũng loay hoay lẩn quẩn trong cái
vòng ấy. Do đó chúng ta luôn bị dòng xoáy cuộc đời, nhấn chìm và cuốn trôi.
Muốn vượt qua dòng thác lũ cuộc đời không phải dễ dàng và đơn giản. Nó đòi hỏi
chúng ta phải có thời gian suy xét chiêm nghiệm, tìm tòi quán chiếu soi sáng,
nhờ vậy chúng ta thấu rõ được sự vô thường của vạn vật, nên bớt tham lam, nóng
giận và si mê.
Đã làm người ai không một
lần vấp ngã, nhưng điều quan trọng hơn hết là sau khi vấp ngã, chúng ta có chịu
khắc phục sửa sai và làm mới lại cuộc đời hay không? Người không có ý chí niềm
tin về chính mình, sẽ bị gục ngã trước phong ba bão táp của cuộc đời, nên dễ
dàng buông xuôi cho số phận, đành cam chịu sống trong phiền muộn khổ đau và
chấp nhận cuộc đời đen tối. Đức Phật là bậc toàn tri toàn giác, là tấm gương
tiêu biểu cho kiếp nhân sinh, là bậc minh sư chân chánh, là vị thầy dẫn đường
có một không hai trên thế gian này, giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê để
làm mới lại chính mình.
Ngài đã vượt qua vòng xoáy
cuộc đời, bằng kinh nghiệm xương máu của chính mình. Ngày nay người con Phật
được thấm nhuần lời dạy của ngài, để vươn lên làm lại cuộc đời vượt qua khổ đau
sanh tử. Ngài đã tìm ra chân lý cho con người, không còn bị lệ thuộc vào đấng
quyền năng siêu hình. Làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, không ai
có quyền ban phước giáng họa, cho rằng có một đấng tối cao sắp đặt và định đoạt
tất cả.
Đạo Phật đã mở ra một
trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại chưa từng có
từ trước đến nay, giúp cho con người tìm ra sự thật của chính mình và chúng ta
là chủ nhân ông của bao điều họa phước. Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật
sẽ thành, mọi người đều được bình đẳng như nhau. Đây là một câu châm ngôn bất
hủ, chỉ có trong đạo Phật được lưu truyền cho đến ngày nay.
Một hôm tại tịnh xá Kỳ Viên trời đã gần về khuya, một ánh sáng
chói
chang, làm sáng cả khu vườn Cấp Cô Độc.
Một chư Thiên ở cõi trời, xuống hỏi đức Phật:
Kính bạch đức Thế tôn, làm thế nào để chúng con vượt khỏi bộc lưu.
Phật dạy: Không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.
Qua bài pháp ngắn, chúng ta học được gì
từ lời dạy của Thế Tôn, ngài không nói gì cao siêu huyền bí, chỉ đơn giản một
câu thật ngắn gọn và xúc tích làm cho chư Thiên nhận ra đạo lý chân thật một
cách rõ ràng, không ngoài sắc thân hư dối tạm bợ này. Người đời vì mải mê chạy
theo danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỷ nên lúc nào cũng bị dòng nước
tham, sân, si cuốn trôi do đó bị phiền muộn khổ đau chi phối. Ngày nay với nhận
thức sáng suốt, chúng ta học đạo lý chân thật qua lời dạy Thế Tôn, ai muốn sống
an vui hạnh phúc thì phải biết gieo trồng phước đức.
Tham, sân, si, mạn, nghi, ác
kiến là nhân dẫn đến đau khổ, bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ, là nhân dẫn
đến an vui hạnh phúc. Do bám víu dính mắc chấp trước, nên người đời đam mê chạy
theo dục vọng thấp hèn, mà tham muốn của chúng sanh thì vô cùng tận, do đó
chúng ta dễ dàng bị cuốn trôi tất cả, dù đó là nhân nghĩa của một con người.
Một cuộc đời, một cuộc sống, luôn lẫn lộn sự buồn vui thương ghét, được mất hơn
thua, phải quấy tốt xấu, nên hư thành bại, cuối cùng ai ra đi cũng với hai bàn
tay trắng, không đem theo được gì và không biết đi về đâu?
Đa số mọi người
trên thế gian này đều mắc phải lỗi lầm như thế, nên Phật nói tất cả bị dòng
nước cuốn trôi. Thế giới loài người chúng ta luôn xảy ra chiến tranh, thiên
tai, sóng thần, động đất, bão lũ, hỏa hoạn, ô nhiễm môi trường cũng từ lòng
tham con người mà ra. Tham lam, sân hận, si mê, làm cho con người gây ra không
biết bao là tội lỗi, nên đa số đều sống trong đau khổ lầm mê. Vậy thế nào là bị
dòng nước nhấn chìm? Đây là chỉ cho những người đang tu hành, nhưng vì không
gặp bậc minh sư chân chánh, thầy lành bạn tốt hướng dẫn, do đó bị lạc vào đường
tà. Bị mắc mứu trong hang cùng ngõ cụt, trở lại phỉ báng Phật pháp, nên chấp
trước vào những giáo điều cấm thủ, như ở Ấn Độ tu tập theo cách sống của lòai
chó hoặc hành hạ sắc thân cho tàn hoại để được chứng đạo. Vì vậy Phật nói bị
dòng nước nhấn chìm, Phật do không chạy theo đam mê dục lạc, không cố chấp hủy
hoại thân này, nên ngài an nhiên tự tại giải thoát và không còn bị sự ràng buộc
của thế gian .
Với tâm nguyện từ bi bao la
rộng lớn, đức Phật đã hiến dâng đời mình trong công cuộc hoằng hóa độ sinh, dạy
cho chúng ta biết đạo lý làm người trong đối nhân xử thế hưởng được phước báo
trời người, xa hơn nữa ngài chỉ cho ta phương cách giác ngộ và giải thoát để
vượt qua nỗi khổ niềm đau của sanh tử.
Dù nói hay, dù nói giỏi, nhưng thiếu tu, chẵng khác gì, đãy đựng sách.
Không nói nhiều, nhẫn nhịn nhường, hay khiêm tốn, như hoa sen, vượt bùn lầy.
Học và tu, luôn song hành, dù nói ít, vẫn lợi lạc, khắp quần sanh.
Việc tu học không đơn giản như mọi người
lầm tưởng, người trí thì một nghe ngàn ngộ, tự điều phục chính mình. Còn phàm
phu tục tử như chúng ta, phải nương thầy lành bạn tốt, lánh xa người xấu ác,
mới có thể vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Đạo Phật không đặt nặng ở chỗ nói hay nói
giỏi, mà trọng ở chỗ thực hành, nói và làm tương ưng với nhau, dùng thân giáo
để điều phục chúng sinh bằng những việc làm thiết thực tốt đạo, đẹp đời.
Người tu theo đạo Phật, học
mà không tu giống như đãy đựng sách, học hiểu lời Phật dạy để biết
được lẽ thực của cuộc đời, thật giả phân minh. Khi hiểu được rồi chúng ta phải
biết ứng dụng thực hành, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh
phúc ngay tại đây và bây giờ. Người tu mà không học giống như tu mù, dễ dẫn đến
lầm đường lạc lối, nên vô tình phỉ báng Tam bảo. Người quá ham tu nghe ai nói
tu từ ba tháng hoặc một năm sẽ được chứng đạo nên không cần học hỏi, do đó tu
mù luyện quáng, cuối cùng rơi vào si mê tà kiến.
Vì vậy các tổ thường nói: “
Y kinh giải nghĩa oan cho chư Phật ba đời, lìa kinh một chữ tức đồng ma nói”.
Nhiều người chấp vào kinh từng lời, từng chữ, ai nói khác đi một chút thì không
chịu, cho rằng nói sai lời Phật dạy. Nhưng họ không biết thời Phật còn tại thế
chỉ truyền miệng và được các thế hệ đệ tử đọc tụng sao này mới ghi lại
bằng sách vở. Kinh điển nguyên thủy thường được lặp đi, lặp lại nhiều lần, là
để cho người học dễ nhớ. Ngày nay qua nhiều đời dịch thuật để cho phù hợp với
phong tục tập quán các nước, nên đôi khi cũng có nhiều sơ xót, vì vậy chúng ta
không nên chấp vào từng lời, từng chữ trong kinh mà phê phán đúng sai.
Người học Phật chân chánh, chỉ cần
biết rõ nội dung Phật dạy những gì nếu không sai ý Phật là được. Thời Phật còn
tại thế, không cho người xuất gia trụ xứ một chỗ, chỉ tùy duyên khất thực độ
sanh, không cho Tăng chúng bám víu vào tài sản sở hữu riêng, nên tu hành dễ
dàng chứng đạo. Ngày nay, do nhu cầu chung của xã hội không cho phép chư Tăng
ni đi khất thực, người xuất gia phải ở tại chùa thọ nhận sự cúng dường, của đàn
na tín thí đem đến. Nếu y theo lời Phật dạy ngày xưa, người tu trong thời hiện
tại vi phạm giới luật, đã phạm giới luật làm sao tu? Đạo Phật ra đời là tùy
bệnh cho thuốc, tùy theo phong tục tập quán, tùy theo căn cơ trình độ sở thích
nguyện vọng của mọi người, để làm lợi ích cho tha nhân.
Thời xưa quan niệm người tu là
phải lìa bỏ tất cả, không bám víu vào sở hữu riêng tư, nên phải tùy duyên đi
khất thực. Ngày nay xã hội không chấp nhận như vậy, nên đạo Phật cũng linh động
uyển chuyển theo thời, để dễ dàng tu học và giáo hóa. Đạo đời không thể tách
rời nhau và theo lời Phật dạy: Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này,
từ con người cho đến muôn loài muôn vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn
sự sống. Vì vậy chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận, yêu thương giúp đỡ
lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha. Chúng ta thử làm một bài toán so sánh,
nếu y kinh giải nghĩa thì oan cho chư Phật ba đời, còn nếu lìa kinh một chữ tức
đồng ma nói. Nhà Phật có một công thức bất di bất dịch là: tứ pháp ấn, tam pháp
ấn, nhất pháp ấn.
Tứ pháp ấn là: vô thường, khổ, không, vô ngã.
Tam pháp ấn là: vô thường, vô ngã, niết bàn
tịch tịnh.
Nhất pháp ấn là: Phật tánh hay cái biết sáng
suốt nơi mỗi người chúng ta. Ngoài ba công thức trên, Phật còn dạy chúng ta
biết được đạo lý làm người gìn giữ năm điều đạo đức, tu mười điều thiện ích,
giúp mọi người sống an vui hạnh phúc để vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Dám làm, dám
chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của chính mình không đổ thừa cho ai
hết.
Chỉ có giáo lý nhà
Phật mới dạy cho ta được đầy đủ những điều hay lẽ phải và ngài khẳng định rằng
ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, không ai có quyền ban phước giáng
họa. Luật nhân quả luôn âm thầm tác động chi phối hành động của mọi người, mà
cho ra kết quả tốt xấu không ai giống ai, người giàu kẻ nghèo, người tốt kẻ
xấu, người sang kẻ hèn .v.v..
Trong báo pháp luật và cuộc
sống số 27 tháng 9 năm 2010 có đăng tin, một người tình, một người vợ vĩ đại
với tấm lòng vị tha, đã cảm hóa một tướng cướp từng bị truy nã gắt gao bằng
tình yêu chân thành của mình. Và giờ đây anh là một giám đốc doanh nghiệp, ăn
nên làm ra với một người vợ ngoan hiền dễ thương, cùng các đứa con xinh xắn.
Anh thật sự đã hoàn lương và xứng đáng là người chồng, người cha, nhờ người vợ
nhân hậu với tấm lòng bao dung và độ lượng. Nếu không có chị, thì giờ đây anh
phải sống trong ngục tù tội lỗi. Anh thầm cảm ơn chị, đã đem đến cho anh một
tình yêu thương chân thành nhất, để giờ đây anh mới cảm nhận được thế nào là an
vui hạnh phúc.
Phạm văn Bình tức (Bình bò)
là biệt danh của tướng cướp từng gây nhiều trọng án, từng gây ra nỗi kinh hoàng
và sợ hãi cho nhiều người. Từ nhỏ anh ta được bố mẹ chiều chuộng quá mức, nên
đua đòi theo chúng bạn xấu ác làm những điều sai quấy như trộm cắp, móc túi,
giựt dọc và từng bảo kê một vài tụ điểm nỗi tiếng. Tuổi đời tuy chưa được mười
hai, anh ta đã phải vào trường dành cho thiếu niên hư hỏng. Sau khi được mãn
hạn giáo dục trở về, tưởng anh ta cố gắng tu chí làm ăn, nhưng không ngờ với
chứng nào tật đó. Anh ta trở nên lì lượm bản lỉnh, bắt đầu tập hợp các tay anh
chị ma cô tổ chức cướp giựt có vũ khí bằng cách đánh nhanh rút gọn, gây sự chú
ý hoang mang cho nhiều người và làm đau đầu các nhà chức trách.
Anh ta một thời tung hoành
ngang dọc, cùng đám bạn giang hồ thứ thiệt tại các tỉnh miền Bắc. Vì quá nỗi
danh nên anh ta coi thường thiên hạ, thật ra anh ta chưa thấy quan tài chưa đổ
lệ, chưa đi mưa chưa thấy lạnh và chắc chắn đi đêm cũng có ngày gặp ma. Trong
một phi vụ cướp giựt ở Hà Nội anh ta cùng đồng bọn bị sa lưới và được đưa đi
cải tạo lâu dài. Thời gian ở tù bẩy năm đã làm cho anh ta chai lì và hung dữ
hơn. Anh ta giống như một con thú hoang điên cuồng chưa được điều phục hung
hăng dữ dằn, đã tổ chức trốn trại rồi cướp vũ khí của một cán bộ quản giáo và
bắn một công an bị thương.
Sau khi trốn khỏi trại giam
Thanh Cẩm Thanh Hóa anh ta phải trốn chui, trốn nhũi, luôn sống trong lo âu và
sợ hãi. Những ngày tháng ấy Phạm văn Bình sống lang thang vất vưỡng như con ma
đói và chỉ mong làm sao qua mắt được pháp luật, ngày nào hay ngày đó. Anh ta
thật sự chưa có một ngày an vui hạnh phúc, vì luôn sống trong phập phòng lo sợ,
để rồi mai đây không biết số phận của mình sẽ ra sao? Mỗi một ngày trôi qua là
một ngày anh ta thở phào nhẹ nhõm, vì chưa bị ai phát giác ra mình, là kẻ tội
phạm trốn lệnh truy nã đặc biệt.
Giờ thì anh đang sống êm đềm
hạnh phúc bên mái ấm gia đình, với người vợ thủy chung nhân hậu tuyệt vời và
các con ngoan hiền xinh xắn. Thật là một điều kỳ diệu nhiệm mầu không thể ngờ,
nếu ngày ấy không có cô thôn nữ Phạm Thị Huyền hy sinh và cao thượng, thì bây
giờ cuộc đời của anh sẽ ra sao? Gông cùm, tù tội và khổ đau. Anh bây giờ là một
giám đốc có uy tín, luôn đem lại bình an và hạnh phúc cho nhiều người, không
bao giờ làm ai phiền muộn về mình, nếu ai có duyên gặp anh. Sự đổi thay này như
có một phép mầu vô tận, nhờ tấm lòng vị tha của người vợ ngoan hiền đã chịu
đựng hy sinh suốt cả thời gian dài, để giúp anh làm mới lại cuộc đời làm mới
lại chính mình, bằng tình yêu thương chân thành nhất.
Anh nhớ lại những ngày mới
trốn trại và lây lất sống qua ngày, bằng cái nghề móc túi trên các chuyến xe
khách Bắc Nam. Trong thời gian này, anh phải lòng cô thôn nữ diệu hiền bán hàng
nước ở đất Phú Xuyên Hà Tây. Anh dấu bật tung tích của mình và nói dối với nàng
ấy rằng, anh là tài xế lái xe Bắc Nam với tên Tuấn. Cứ thế ngày lại, ngày qua
sau nhiều lần trò chuyện tâm tình, cùng với những món quà hết sức ấn tượng, trái
tim hai người đã bắt đầu rung động theo nhịp đập của con tim. Họ đã thật sự yêu
nhau tha thiết và đắm đuối. Với thân phận một tên tướng cướp đang bị lệnh truy
nã, xưa nay chưa từng làm việc nặng nhọc. Nhưng vì sức mạnh của tình yêu đã
giúp anh hăng say lao vào công việc đồng áng một cách nhiệt tình và tích cực,
nhờ vậy anh được lòng cả gia đình chị.
Dù được chị yêu thương,
nhưng anh vẫn cứ phập phòng lo sợ, vì quá khứ tội lỗi của mình. Anh tự suy nghĩ
bâng quơ, rồi đây mình sẽ vĩnh viễn mất hết tất cả, khi mọi người biết được sự
thật anh là tên tội phạm. Tình yêu giữa hai người càng ngày càng gắng bó và sâu
đậm, đó là dấu hiệu báo trước cuộc tình ta tan vỡ kể từ đây. Rồi chuyện gì đến
sẽ đến, anh đã bị phác giác. Biết được chuyện tình của hai người không thể tách
rời nhau được, các công an chuyên án dùng tình yêu thương để thuyết phục anh.
Nhờ chị động viên an ủi và khuyên anh ra đầu thú, để hưởng chính sách khoan
hồng.
Như sét đánh ngang tai, một
sự thật quá phũ phàng chị không ngờ người mình yêu là tướng cướp đang bị lệnh
truy nã khẫn cấp. Cả gia đình chị, ai cũng đều bàng hoàng sửng sốt về người rễ
tương lai. Chị không đủ can đảm và nghị lực để bỏ anh, vì chị đã yêu anh thật
sự. Chị quá đau khổ vì đã trót lỡ yêu anh, nhưng dứt không được, bỏ thì không
đành. Bằng tất cả sức mạnh tình yêu và nghị lực phi thường, chị chấp nhận hy
sinh tất cả để động viên khuyên anh ra đầu thú, cùng với những lời hứa hẹn thủy
chung. Em sẽ chờ anh, em sẽ đợi anh về và chỉ có anh là hình bóng để cho em
nương tựa suốt cả cuộc đời. Anh yên chí học tập cải tạo tốt, để mau sớm trở về
đoàn tụ với gia đình. Em sẽ là mãi mãi của riêng anh.
Những lời nói ấy lúc nào
cũng văng vẵng bên tai anh, như được rót mật vào lòng. Bao nhiêu dự định toan
tính để chuẩn bị vượt biên trong vài ngày nữa, bổng phút chốc tan thành mây
khói. Anh ra đầu thú theo tiếng gọi của tình yêu và nhờ vậy anh đã làm mới lại
chính mình để vươn lên, vượt qua số phận tội lỗi.
Phép mầu thứ nhất từ người
vợ ngoan hiền đã yêu anh chân thành và chấp nhận hy sinh tất cả, giúp anh vượt
lên mặc cảm tội lỗi quá khứ, để làm mới lại cuộc đời. Trong thế gian này nếu
không có tình yêu thương nhân loại, tình người trong cuộc sống và tình yêu lứa
đôi thì cuộc đời này trở nên khô cằn, héo hon. Nhờ tình yêu lứa đôi con người
mới tự hoàn thiện chính mình, xây dựng hạnh phúc gia đình và dấn thân phục vụ,
góp phần an vui vào cộng đồng xã hội. Phép mầu thứ hai là nhờ lòng bao dung và
sự cảm thông của cha mẹ vợ, khiến anh cảm nhận được tình người trong cuộc sống.
Và chính cha mẹ vợ anh, chấp nhận cho anh cùng con gái cưới nhau trước khi vào
trại để lãnh án tù mà không sợ tiếng đời bêu rếu. Cảm động trước tình yêu chân
thành của người vợ trẻ và được sự hun đúc động viên của cha mẹ vợ, anh như
người chết đi sống lại thức tỉnh cơn mê muội, quyết định làm mới lại cuộc đời.
Anh thật sự hạnh phúc hơn
bao giờ hết, vì được tất cả mọi người quan tâm ưu ái và tạo tất cả mọi điều
kiện thuận lợi nhất, để giúp anh làm mới lại chính mình. Nhờ vậy, anh không còn
phải bận tâm lo lắng và yên chí bền lòng một mực cố gắng học tập cải tạo và lao
động tốt, để mau sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Ước mơ của anh đã trở thành
sự thật, anh được nhà nước ân xá và giảm án gần một nửa thời gian. Chị ấy,
người vợ nhân hậu thủy chung, đã cảm hóa anh bằng tình yêu thương chân thật, từ
tấm lòng hy sinh cao cả và sức chịu đựng bền bỉ kiên cường. Thật ra anh quá
diễm phúc gặp được người vợ hiền lương mẫu mực, nhân từ và đạo đức. Nhờ cô thôn
nữ hiền thục, đã hết lòng vì anh hy sinh hết tất cả và chị còn rước đứa con
riêng của anh, về nhà chăm sóc nuôi nấng, tử tế đàng hoàng, để anh yên tâm học
tập cải tạo tốt.
Ngày anh trở về, cha mẹ vợ
đã cho anh miếng đất để cất nhà ở và còn cho anh mượn sổ đỏ để anh thế chấp vay
vốn làm ăn. Trời đã không phụ người biết ăn năn hối cải, để làm mới lại cuộc
đời và giờ đây anh thật sự hoàn lương sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Anh
luôn tự hào hãnh diện về sự chung thủy của vợ mình, khi chưa lấy anh có rất
nhiều người đến dạm hỏi, nhưng cô ta đều một mực từ chối. Cảm động trước tấm
lòng hy sinh cao cả của người vợ và sự hổ trợ đắc lực của cha mẹ vợ, cùng với
chính sách khoan hồng và sự độ lượng của quý ban chính quyền các cấp, để anh
sớm hoàn lương trước thời hạn gần một nửa.
Để động viên và an ủi chồng
những năm tháng ở tù. Chị càng cố gắng làm lụng siêng năng hơn và chấp nhận
nhín ăn, bớt mặc, để đủ tiền nuôi đứa con riêng của anh và dành dụm chút ít
hàng tháng đến thăm anh. Nếu không có người vợ ấy, chắc chắn cuộc đời anh đã
chết chìm trong tội lỗi. Đây là câu chuyện khó tin nhưng mà có thật, để những
ai còn đang say mê đắm chìm trong vũng bùn tội lỗi, hãy nên sớm hồi tâm quay
đầu làm mới lại chính mình cùng vươn lên, vượt qua số phận u mê và tối tăm. Anh
Bình đã hư hỏng và phạm tội, do thói quen tham muốn hưởng thụ quá nhiều, nên từ
nhỏ đã móc túi trộm cắp, lường gạt nhiều người, vì vậy cuộc đời của anh luôn
gắn liền với tù, tội. Ấy thế mà, nhờ tình yêu thương chân thành của người vợ,
đã dám hy sinh tất cả để giúp anh hoàn lương làm lại cuộc đời và làm mới lại
chính mình.
Hiện tại anh Bình là một
giám đốc doanh nghiệp ăn nên làm ra, đảm bảo nuôi sống gia đình và cùng tham
gia góp phần xây dựng, đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Chúng ta thử nhìn
lại quá khứ của vị giám đốc này xem sao, từ nhỏ đã ma cô theo thói côn đồ, móc
túi trộm cướp, bảo kê một vài tụ điểm. Được đưa đi giáo dưỡng các trại thanh
thiếu niên hư hỏng, tưởng đã hoàn lương làm lại cuộc đời. Không ngờ sau khi
được giáo dục trở về, vẫn chứng nào tật đó và ngựa quen đường cũ. Anh ta bắt
đầu tham gia vào các phi vụ cướp giựt có quy mô tổ chức lớn, nên cuối cùng bị
sa lưới pháp luật trở lại.
Thông thường các tội phạm bị giam
giữ lâu ngày trong các trại giam, không được nghe các câu chuyện về các bậc
thánh nhân vĩ đại, để học hỏi những điều hay lẽ phải và bắt chước làm theo cái
hay của các ngài. Chính vì thế, có nhiều người mới ban đầu chỉ phạm tội nhẹ do
một phút bốc đồng nóng giận, nhưng sau khi ra tù lại gây tội ác tày trời như
lường gạt, cướp của giết người, một cách dã man. Bởi vì, trong tù hằng ngày
phải tiếp xúc với nạn đại bàng lộng hành chuyên trấn lột và áp bức tù nhân.
Cuộc sống trong tù hằng ngày phải tiếp xúc với các tay giang hồ bịp bợm, đầu
trộm đuôi cướp, ích kỷ và độc ác, nên càng ở tù lâu càng dễ bị tiêm nhiễm những
thói hư tật xấu.
Vì thế trại tù chỉ là nơi giam giữ
tạm thời, chứ không có phương pháp giáo dục cụ thể, cho nên vấn đề hoàn lương
là một vấn nạn cần phải nghiên cứu và hội thảo để tìm ra quyết sách tốt đẹp.
Nhớ lại quá khứ tội lỗi của mình khi xưa, tôi phải thầm tán dương người đã hoàn
lương trong câu chuyện này. Bản thân tôi khi ra tù, quyết định làm lại cuộc
đời, nhưng cầm tờ đơn xin việc trên tay đi đến đâu, cũng đều bị từ chối hết. Lý
lịch đen đã làm cho tôi đau khổ tột cùng, mặc cảm, tự ti với thân phận thấp hèn
của mình, nhưng biết làm sao đây?
Điên tiết, buồn chán, hận
thù và bất mãn lên tột đỉnh, muốn làm lại cuộc đời mà chẳng được. Thật ra ai
cũng có ước mơ đáng quý và trân trọng nhưng vì thiếu hiểu biết và mê muội nên
hành động trong vô minh. Muốn có một cơ hội tốt làm mới lại cuộc đời và có một
việc làm ổn định để nuôi sống bản thân. Cuộc sống của chúng ta sẽ không còn giá
trị nữa, khi phải ăn bám cha mẹ hoặc sống nhờ vào người thân.
Chán chường, buồn tủi, héo
sầu, cô đơn với những giây phút vô cùng bi quan chán nản. Trong cơn tuyệt vọng
não nề chúng tôi cảm thấy phiền muộn hận thù nhiều hơn. Mặc cảm, tự ti trong
tâm trạng khổ đau vô cùng, tôi luôn oán than trách móc xã hội, hận đời đen bạc.
Nhớ lại khi xưa mình đã đã làm lại cuộc đời nhờ tham gia vào lực lượng TNXP
phục vụ các vùng kinh tế mới. Thế là còn chút hy vọng mong manh tôi đã xin trở
lại Lực lượng TNXP để làm mới lại cuộc đời. Các bạn bè của tôi ngày xưa ai cũng
thăng quan tiến chức hết, riêng tôi phải sống trong mặc cảm dày dò, chính vì
thế mà tôi bắt đầu sa ngã trở lại.
Nhưng rồi thời gian cũng
trôi qua tôi đã có vợ có con, hoàn cảnh cuộc sống lúc này càng khó khăn hơn.
Tôi đã tán tận lương tâm bỏ ra đi, để lại nỗi đau người vợ trẻ và hai đứa con
thơ khi đứa con thứ hai mới vừa đầy tháng tuổi. Tôi tiếp tục lao vào các cuộc
vui chơi trác táng với một suy nghĩ nông cạn “ Chết là hết không có ngày mai”
và lần này tôi hoàn toàn bị bế tắc tưởng chừng như không còn lối thoát. Chính
Phật pháp đã cứu đời tôi, nhờ sự hướng dẫn và sự hy sinh cao cả của người mẹ.
Anh Bình nhờ tình yêu thương
chân thành của người vợ đã chấp nhận hy sinh tất cả, bất chấp mọi đàm tiếu dư
luận thế gian, nhân tình thế thái, nàng vẫn một lòng chung thủy và kiên nhẫn
bền chí chịu đựng. Đây là mối tình đẹp như mơ làm nên lịch sử có một không hai
trên thế gian này, để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời, như hương thơm luôn bay
ngược chiều gió. Nhờ sức mạnh của tình yêu lứa đôi, cùng với sự hy sinh cao cả
của người vợ, nhờ lòng bao dung và tha thứ, cảm thông và độ lượng. Hồi gia và
hoàn lương để làm lại cuộc đời cho những con người lầm lỗi, không phải là
chuyên đơn giản và dễ làm, đó là vấn nạn cho những người đang nắm cán cân công
lý và trách nhiệm của gia đình .
Mới đây trong báo công
an đã thông tin nhân đạo, ông Liên Khui Thìn người đã có sáng kiến đề xuất và
thành lập quỷ hoàn lương được nhà nước chấp nhận, hiện đang hoạt động chính
thức. Đây là điều kiện thứ nhất làm cho người hoàn lương không bị tổn thương tự
ái và mặc cảm, nhờ bảo mật lý lịch quá khứ. Thứ hai là giúp cho người hoàn
lương phải có đời sống kinh tế ổn định, với việc làm chân chánh. Thứ ba là được
sự hổ trợ và giúp đỡ của gia đình, không bị người thân hất hủi coi thường
và khinh khi. Thứ tư là phải sám hối phát nguyện hứa chừa bỏ, không tái phạm
lỗi lầm vì biết được sự tác hại của nó. Thứ năm phải có ý chí, niềm tin, nghị
lực và tin sâu nhân quả, đây là điều kiện tiên quyết để người hoàn lương thật
sự vươn lên, vượt qua số phận của chính mình. Thứ sáu hoàn lương đối với con
nghiện ma túy là một vấn đề nan giải và phức tạp, bởi vì khả năng để khắc phục
cơn ghiền lâu dài đối với tệ nạn này quả thật rất khó. Theo sự tìm hiểu của
chúng tôi, hiện nay chỉ số con nghiện hoàn lương thật sự có kết quả tối đa, từ
ba đến sáu phần trăm là cùng.
Theo kinh nghiệm của chúng tôi,
qua thời gian tiếp xúc với nhiều con nghiện ma túy, hầu như đại đa số đều bó
tay xin chào thua, không đủ khả năng để vượt qua cơn nghiện lâu dài. Nó giống
như cơn bệnh ung thư phải dùng hóa chất cực mạnh để cầm cự, ma túy làm cho con
người thèm khát đến cực độ và vật vã đến tột cùng. Chúng tôi cũng không phải là
người hay ho tài giỏi gì, ngày xưa vượt qua được, là nhờ đam mê đậm đà thứ khác
và chỉ thật sự vượt qua chính mình là nhờ gặp Phật pháp. Hiện nay chỉ có một
phương pháp duy nhất là cách ly con nghiện hoàn toàn với một trung tâm giáo dục
lâu dài, nếu làm được như vậy thì xã hội sẽ giảm bớt tổn thất thiệt hại về kinh
tế quốc gia, giảm bớt thiệt hại về con người, giảm bớt các chứng bệnh của thời
đại và nhiều thiệt hại khác không thể tính kể. Nếu không thì, nhân loại sau này
sẽ sống chung với ô nhiễm đa năng, cùng các bệnh ngặt nghèo của thế kỷ và sẽ
làm cho con người bị băng hoại đạo đức. Bị thiệt hại tổn thất nặng nề về con
người và kinh tế, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng đã đến hồi báo động. Ngay
bây giờ các nhà lãnh đạo đất nước kết hợp với các ban nghành đoàn thể, cùng
ngồi lại hội thảo vấn nạn ma túy toàn cầu. Nếu không có biện pháp thích hợp để
ngăn chặn tệ nạn ma túy và giải pháp hoàn lương đúng đắn, thì sự thiệt hại tổn
thất quá lớn lao không thể tính kể đối với con người và xã hội về sau này.
DO ĐÂU SANH LẦM LỖI?
Đã làm người trong trời đất, ai cũng muốn công
danh tột đỉnh, giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng. Chính vì vậy, con người
bất chấp mọi hiểm nguy, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, nên động cơ lập
nghiệp do lòng tham lam sai sử làm tổn hại nhiều người. Có người đạt được công
danh hiển hách, công thành danh toại, có người cũng đuối sức oằn oại, rơi vào
hố sâu vực thẳm, rốt cuộc chỉ còn tay trắng. Chỉ vì, động cơ lập nghiệp từ sự
ham muốn quá độ, mà lòng tham con người, thì không bến bờ nhất định, như giếng
sâu không đáy.
Trong khi đó sức người có
hạn, càng tham lam bao nhiêu thì càng mau tan hoại và sụp đổ bấy nhiêu. Vì vậy
mà, cơ cầu xây dựng sự nghiệp của mình bằng xương máu thiên hạ, thì sự nghiệp
mau chóng điêu tàn. Bởi tại sao? Vì tham cho riêng mình, nên càng vơ vét bóc
lột nhiều của thiên hạ, do đó dễ dẫn đến gây thù, chuốc oán. Đã gây thù chuốc
oán, thì trước sau gì cũng tàn sát giết hại lẫn nhau. Đó là quy luật vay trả,
trả vay theo tiến trình diễn biến của nhân quả. Để biết được lòng tham của con
người đến độ nào, nhà vua ra lệnh cho một người: “Kể từ rạng sáng ngày mai, khi
mặt trời mới mọc cho đến khi mặt trời lặn, ngươi khoanh vùng chu vi đất được
bao nhiêu ta sẽ cho hết.”
Nghe xong, người kia vô cùng
mừng rỡ, liền trở về nhà bàn bạc với vợ con, làm cách nào để có thật nhiều đất.
Phen này gia đình chúng ta sắp giàu to rồi, người thì bàn thế này, kẻ thì bàn
thế kia, cuối cùng anh ta quyết định, sẽ không lãng phí một phút giây nào, khi
chưa hết giờ đo đất. Hôm sau, anh ta đã có mặt sẵn từ tờ mờ sáng trước đền vua.
Khi mặt trời vừa ló dạng, anh ta cắm đầu chạy, không màng đến cơm nước gì cả,
nhìn lại thấy khoảng đất vẫn còn quá nhỏ, mặc dù đã mệt lã người, nhưng anh ta
vẫn tranh thủ không bỏ phí chút thời gian nào. Mặt trời đã ngã về chiều, như
báo hiệu sắp hết giờ đo đất, anh ta cố ráng thêm chút nữa, nhưng sức người có
hạn và cuối cùng anh ngã quỵ bên vệ đường.
Câu chuyện trên mang tính cách
biểu trưng, minh họa cho lòng tham không bờ bến của con người, như giếng sâu
không đáy. Con người thì không có tội lỗi gì, chỉ có tâm tham lam ích kỷ, điều
hành sai sử, thân này chỉ là vật phụ thuộc, muốn làm cái gì thì trước hết phải
suy nghĩ, tính toán rồi mới làm. Nhưng con người thường không biết, tưởng thân
này là chủ tể cố định nên làm cái gì cũng để phục vụ cho thân này, vì vậy mà
sinh ra si mê, tham đắm ích kỷ, cho thân này là thật ta và sẽ trường tồn mãi
mãi. Nếu nó là ta thì trước sau như một không thể thay đổi chuyển biến, nhưng
từ khi mở mắt chào đời cho đến khi khôn lớn, thân này luôn thay hình đổi dạng
tùy theo thời gian của mỗi người, mà có hình dáng và tính cách khác nhau. Con
người sống ở đời luôn phải chạy đua với thời gian để tranh thủ sở hữu được
nhiều thứ về mình. Chúng ta nếu không nhận thức đúng về giá trị cuộc sống, thì
cũng giống như chàng trai tham đất trong câu chuyện.
Do lầm chấp thân này
thật là ta, nên làm cái gì cũng vơ vét về cho mình, do đó tham được thì càng
thêm tham, tham không được thì sinh ra thù hằn, giận dữ. Đã hận thù thì trước
sau gì, cũng gây khổ đau cho nhau, do đó sống trong bất an, lo âu và sợ hãi.
Chúng ta lúc nào cũng lo sợ đủ thứ, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ mất mát, sợ
thiệt thòi nên cố giữ gìn, giữ không được thì sinh ra đau lòng tiếc nuối, cho
nên khổ đau bắt đầu có mặt. Ở đời ít ai bằng lòng với hiện tại lúc nào cũng ham
muốn khổ cầu lao tâm nhọc trí để được tiền tài, danh vọng, quyền lợi, địa vị,
sắc đẹp, ăn sung mặc sướng…
Nhưng mấy ai được thỏa mãn
nhu cầu tham muốn của mình. Bởi lòng tham con người không đáy và đời sống con
người thì quá ngắn ngủi, mong manh tạm bợ, có người sự nghiệp chưa thành đã ra
người thiên cổ. Vì lòng tham vốn vô hạn mà sức con người thì có hạn, nên người
con Phật ngoài việc làm ăn để sinh sống, cũng cần dành chút thời gian nghiên
cứu học hỏi, tu hành. Thế gian này là một chuổi dài nhân duyên, cái này có thì
cái kia có, cái này không thì cái kia không, tất cả đều nằm trong lý tương đối,
chúng ta không gieo nhân tốt mà đòi gặt quả lành làm sao được.
Nhiều người không hiểu, chỉ biết
làm sao để giành lấy về cho mình, lấy không được thì sinh ra tức giận thù hằn
ghét bỏ, rồi tìm cách trả thù khi có cơ hội, cho nên càng thêm gây thù, chuốc
oán. Chúng ta có quyền tham muốn nhưng phải lấy nhân quả làm nền tảng, gieo
nhân lành thì được quả tốt, gieo nhân ác thì phải chịu khổ đau, quả trổ sớm hay
muộn là do các duyên phụ thuộc, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, chúng theo
ta như bóng với hình. Khi chúng ta có mặt trong cuộc đời với hai bàn tay trắng
và khi ra đi cũng với chừng ấy, mà chỉ mang theo nghiệp tốt xấu, lành dữ. Người
con Phật hãy nên sáng suốt chọn lựa cho mình một con đường hướng thượng, chớ
đừng vì tham cầu cho cá nhân của mình quá mức như chàng trai trên mà mang họa
vào thân.
CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI MỚI HAY
Trước những mất mát thiệt hại và
khổ đau của nhân lọai, đời sống con người thật là bấp bênh, trong bầu vủ trụ
bao la này. Đã làm người ai không khỏi một lần rơi nước mắt, kiếp luân hồi dài
đăng đẵng, mệt mỏi chán chường, thất vọng lo âu. Thức đêm mới biết đêm dài,
đường xa mới thấy càng thêm mệt mỏi, con người cứ mãi lăn lên lộn xuống, khi
thì hưởng phước báo cõi trời muốn gì được đó, vì không cần phải làm lụng vất
vã. Lúc thì tung hòanh ngang dọc khiêu chiến khắp các cõi trời người, chẳng coi
ai ra gì như các vị Thần A Tu La, khi thì nữa khóc nữa cười, vui ít khổ nhiều
trong thế giới Ta bà này. Có lúc khổ đau cùng cực, bị hành hạ và đọa đày trong
ngục tù tội lỗi không có ngày cùng, có khi thì ngu si mê muội lạc loài không
biết gì trong các lòai súc sinh và cam chịu đói khát vật vờ trong tận cùng sâu
thẳm của kiếp ngạ quỷ ( quỷ đói ). Nếu ai biết gieo trồng phước đức, gìn giữ
năm điều đạo đức, làm mười việc thiện, tu tập thiền định thì được đi ba đường
trên. Ngược lại thì bị đọa xuống ba đường dữ, để chịu khổ đau triền miên trong
dòng đời vô tận.
Ý thức được kiếp người vui ít khổ nhiều, luôn
bị nhiều thứ ràng buộc không có ngày hạnh phúc thật sự. Có hai huynh đệ trên
đường đi tìm chân lý, tình cờ đi ngang qua dòng sông thấy một ghe chài đang
dùng lưới để đánh bắt cá. Lưới đang được từ từ kéo lên ghe, một con cá nhảy vọt
ra khỏi lưới.
Vị sư huynh thấy thế liền vỗ tay, khen:
“Hay quá! Hay quá! Con cá giống người tu.”
Vị sư đệ nói: “Có gì mà hay! Cá ở ngoài
lưới mới hay.” Vị sư huynh nói : “Ngươi chưa hiểu hết thâm ý của ta.”
Hai người mới đi thêm một đoạn đường
khoảng vài cây số, vị sư đệ mới nhận ra được thâm ý sư huynh, nên thành tâm sám
hối. Câu chuyện trên đã cho ta một bài học sống ở đời, học chuyện xưa để ngày
nay mọi người chúng ta cùng nhau suy gẫm. Ai trong cuộc đời chưa từng một lần
vấp ngã? Vậy cá ở ngoài lưới mới hay, hay là cá nhảy khỏi lưới mới hay?
Nếu cá ở ngòai lưới thì còn gì để nói,
cá đã vào lưới mà còn nhảy ra được, thì mới thật là hay. Đạo lý nhà Phật dạy
cho mọi người ngay nơi nghiện ngập si mê, luôn bị phiền não chi phối và sai sử,
chúng ta cố gắng vượt qua được mới thật là hay. Sống ở đời trước sự cám dỗ của
tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỷ, nên đa số chúng ta đều
bị lưới ái tình xiết chặt làm cho mê muội đắm say, giống như cục năm châm khi
gặp sắt tự động hít vào. Con người lúc nào cũng khao khát thèm thuồng, quyến
luyến như dòng nước thấm ướt, mặc dù không ai chỉ bày dạy bảo, mà con người vẫn
tự cảm biết, nên khi gặp người khác phái thì trái tim bị rung động thổn thức,
dẫn đến yêu thương hò hẹn và kết tình chồng vợ. Từ đó phát triển mạnh mẽ thêm
nghiệp nhân tình ái, càng ngày càng thêm sâu kín đậm đà.
Một nữ tử tù bị kết án tử hình vì tội tổ chức
mua bán ma túy, trong thời gian chờ đợi thi hành án. Nằm trong phòng biệt giam
chờ ngày chết, không biết ả đã cấu kết bằng cách nào, để làm xiêu lòng hai cán
bộ quản giáo cho phạm nhân vào quan hệ với ả, cuối cùng ả đã có bầu. Từ án tử
hình được giảm xuống còn án chung thân và ả nhờ đó mà thoát chết. Câu chuyện
này khó tin nhưng mà có thật, được đăng trên báo đời sống và pháp luật. Vì vậy,
Phật thường dạy thế gian này, nếu có cái thứ hai giống nghiệp tình ái, bảo đảm
không ai có thể tu chuyển được, mai mà chỉ có một thứ ấy đã làm điêu đứng cả
lòai người. Thực tế bây giờ, có một thứ làm chết người trong thiên hạ đó là ma
túy, ai dính vào vòng này khó bề vượt qua, họa hoằng lắm chỉ có một vài người
bỏ hẳn, không tái nghiện. Nằm trong phòng biệt giam, đối diện với cái chết
trong từng phút giây, vậy mà ả vẫn có thể dùng mỹ nhân kế, để thuyết phục hai
cán bộ quản giáo và cuối cùng phải chịu chia án với ả, mỗi người sáu năm tù
giam.
Tình đời là thế đó, nếu nó không có sức quyến
rũ, hấp dẫn lạ kỳ, thì người ta đâu phải mệt nhọc làm lụng vất vã, có khi phải
bỏ mạng sa trường cũng vì chút ấy. Như cuộc sống lòai tầm, tự nhả tơ quấn quanh
mình làm kén, bao che thân thể để bảo tòan mạng sống, nhưng khi được kín đáo
rồi, thì người ta cho vào nồi nước sôi luộc chết. Ngược lại, nữ tử tù kia biết
lợi dụng điểm yếu của đa số con người, khó ai thóat được cái vòng lẩn quẩn ấy,
nên đã cứu nàng thóat khỏi cái chết trong tầm tay. Luật pháp dù nghiêm minh tới
đâu vẫn còn kẽ hở, vì bị tiếng sét ái tình chi phối, con người cũng vì chút đó
mà rơi vào vòng lao lý, tù tội. Thế nhân tự nghĩ lại xem, ai trong cuộc đời có
đủ khả năng và bản lỉnh để vượt qua nó, ngoại trừ các vị Bồ Tát và các bậc tu
hành chân chánh. Cũng đồng là cá, bao nhiêu con cá khác không thể vẫy vùng để
nhảy ra khỏi lưới, cuối cùng bị người đánh cá bắt bỏ vào giỏ, chờ giờ làm thịt.
Vậy con cá kia nhảy ra khỏi lưới, không giống người tu là gì! Nếu mới sinh ra ai
cũng là Thánh hết, chúng ta đâu cần phải tu làm chi cho mệt nhọc và uổng công
vô ích?
Chính chúng ta huân tập nhiều thói
hư tật xấu, nghiện ngập đam mê, đắm say đủ thứ, tham lam, sân giận, si mê, ích
kỷ, ganh ghét và hận thù. Nhờ gặp Phật pháp đã giúp cho chúng ta biết cách làm
chủ bản thân, để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Vậy ngay bây giờ người con Phật hảy
dùng tuệ giác của chính mình, để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an
vui hạnh phúc. Nếu ai chấp nhận số phận đã an bài, giống như bèo dạt mây trôi,
mặc tình đi theo dòng đời mê muội, ai làm sao mình làm vậy, chẳng cần suy nghĩ
tìm tòi, đành chịu chết chìm trong vũng bùn tội lỗi. Người như thế thì trên
trách trời, dưới óan ghét xã hội sao quá bất công, để rồi mãi mãi phải chịu
sống trong phiền muộn khổ đau.
Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất, thì
cũng từ đất đứng lên, không nên oán trách đổ thừa cho ai cả, mà chính mình phải
tự vươn lên để vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Phật và Bồ tát chỉ có nhiệm vụ hướng
dẫn cho chúng ta, còn làm được hay không là phải do chính bản thân mình. Vì thế
đứng trước dòng thác lũ cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn bình yên vô sự, nhờ biết
áp dụng lời Phật dạy. Ai cũng biết sự cám dỗ của tiền tài, sắc dục, lợi danh
luôn thôi thúc mời gọi chúng ta, nếu không có sức tỉnh giác ta sẽ dễ dàng gục
ngã trước dòng xoáy cuộc đời và sống trong đau khổ lầm mê.
Phật nói, trong đời có hai hạng
người đáng được tôn kính và tán thán ca ngợi: Hạng người thứ nhất, từ nhỏ đến
lớn chưa từng vi phạm lỗi lầm, nhưng luôn làm những đều thiện ích để giúp đỡ
nhân loại. Hạng người thứ hai, hay làm những việc xấu ác, hại mình hại người,
nhưng biết ăn năn sám hối quyết chừa bỏ, cố gắng khắc phục sửa sai, ý chí dũng
mãnh, tinh tấn tu hành, dám chịu từ bỏ những thói quen tật xấu để làm mới lại
chính mình.
Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới là chỉ cho
hạng người thứ hai, đã vào lưới mắc lưới, mà còn nhảy ra được, không phải hay
là gì! Vì vậy, thiền sư khi thấy cá nhảy khỏi lưới mới khen rằng: “Hay quá! Con
cá giống người tu.” Người con Phật cần phải thấu đáo chỗ này, để cố gắng tiến
tu. Bởi có lỗi lầm nên quý vị mới đến chùa sám hối, tụng kinh, niệm Phật, ngồi
thiền và hay làm những điều phước thiện. Còn nếu chúng ta cứ chấp nhận số phận
như là một định mệnh, phó mặc cho thần linh thượng đế chẳng cần phấn đấu vươn
lên làm lại cuộc đời, thì vô tình đẩy ta vào con đường cùng không lối thoát.
Đạo Phật không chấp nhận như
thế, không thể đổ thừa cho số phận, nếu nói theo thực thể cố định như có một
cái gì quy định sẳn. Hạng người nầy đáng thương hơn là đáng ghét vì họ thiếu
hiểu biết, ít học hỏi, chẳng bao giờ gieo trồng phước đức nên suy nghĩ và hành
động không sáng suốt, đành cam chịu chấp nhận số phận đã an bài, để rồi suốt
cuộc đời sống trong đau khổ lầm mê. Định kiến này sẽ không còn tác dụng đối với
người dám làm mới lại chính mình, dám từ bỏ những điều bất thiện và quyết tâm
khắc phục lỗi lầm, vì thế nhân quả có thể thay đổi được. Nếu nói cái gì cũng là
cố định hết, thì trên đời này không một ai tu được, nếu có tu cũng chẳng lợi
ích gì.
Trở lại câu chuyện cá nhảy
khỏi lưới, đã bị vướng vào lưới mà còn nhảy ra được, vậy không phải hay là gì?
Do đó Thiền sư nói: “Hay quá! Hay quá! Con cá giống người tu.”Vậy thế nào là
người tu? Người tu ở đây không hạn cuộc là người xuất gia hay tại gia, là người
dám sửa đổi những thói quen tật xấu của bản thân, dám thừa nhận lỗi lầm, để làm
mới lại chính mình. Biết sám hối hổ thẹn, quyết chí sửa sai, dám nhìn nhận sự
thật, dám từ bỏ không tái phạm nữa, đó là người tu. Tu có nghĩa là sửa, là thay
đổi và chuyển hóa. Đổi xấu thành tốt, đổi ác thành thiện, đổi dở thành hay, nói
chung là sửa đổi những thói quen có hại cho người và vật.
Tu là cốt chuyển ba nghiệp ác
thành ba nghiệp thiện, đây là nền tảng của sự tu hành và là bước đầu của người
học Phật. Muốn cất nhà lầu ba tầng, thì trước tiên chúng ta phải biết xây dựng
nền móng nhân quả, chứ không thể cất ngay tầng thứ ba được. Vậy nghiệp là gì?
Nghiệp là năng lực, là hành động, được lặp đi lặp lại nhiều lần từ thân, miệng,
ý, của mỗi người lâu ngày trở thành thói quen. Thói quen đó có sức mạnh lôi
cuốn chi phối sai sử lại con người, đi theo hai chiều hướng tốt hoặc xấu. Khi
xưa chưa biết tu, thì ta luôn làm các việc xấu ác, ý suy nghĩ rồi miệng nói
năng và thân hành động làm khổ nhiều người, nay biết tu rồi thì cũng ngay nơi
đó mà chuyển ba nghiệp thân, miệng, ý, thành tốt lành. Người tu thì việc ác
lánh xa không làm, việc lành nên cố gắng thực hiện, khi chưa biết tu thì thân
có khi làm ác, miệng nói lời hung dữ, ý nghĩ xấu, ganh ghét và hận thù. Nay
biết tu rồi thì thân tâm luôn hướng thượng, giúp đỡ và chia sẻ cho người khi
gặp khó khăn, hoạn nạn. Miệng nói lời hòa nhã dịu dàng dễ nghe, ý luôn nghĩ
điều tốt lành thánh thiện.
Cứ sau một lần thất bại và vấp
ngã, người không có niềm tin về chính mình sẽ bị gục ngã trước, để rồi chấp
nhận cuộc đời đen tối, mặc cho dòng đời cuốn trôi. Và sau nhiều lần thất bại sẽ
chôn vùi những con người quá yếu đuối, bạc nhược, hèn nhát, kém cỏi. Ngược lại,
sẽ giúp cho những người có ý chí và nghị lực phi thường, đối với họ chỉ là thử
thách. Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời, mà dạy chúng ta dũng
cảm đối diện với cuộc đời, dùng trí tuệ từ bi để làm mới lại chính mình, vượt
qua biển khổ sông mê, nhằm góp phần phục vụ lợi ích cho hạnh phúc gia đình, xây
dựng xã hội và thế giới hòa bình an lạc lâu dài.
Người thật tâm muốn làm mới lại
cuộc đời, ngay nơi vấp ngã đó, hãy can đảm đứng lên vứt bỏ hết tất cả. Giống
như chú cá kia dám nhảy khỏi lưới để thóat thân, vậy không phải hay là gì? Còn
nhiều con cá khác vì không đủ khả năng thoát ra đành cam chịu mắc lưới, để chờ
ngày làm thịt. Như người nghiện rượu, nếu ngày nào không có, tay chân run lẩy
bẩy không thể làm được việc gì, bắt buộc mỗi sáng phải đưa vô một hoặc hai xị,
mới có thể tỉnh táo trở lại. Đó là chỉ nói sơ về tác hại của người ghiền rượu.
Muốn bỏ những thói quen nghiện ngập si mê cũng không khó khăn gì, chúng ta phải
nhận thức được sự tác hại của nó, tin sâu nhân quả, nhân nghiện ngập, quả si mê
và cuối cùng dẫn đến cướp của, giết người không gướm tay, để thỏa mãn cơn ghiền
của mình. Chúng ta phải quyết tâm dũng mãnh, vượt qua giai đoạn vật vã khốn
khổ, đa số người đời vì không chịu nỗi chỗ này, nên đành chấp nhận sống trong
nghiện ngập và đam mê si dại. Có nhiều người bỏ được thói quen xấu rồi, nhưng
khi gặp bạn bè nói bóng, nói gió, đàn ông không biết uống rượu là pê-đê, nghe
vậy tức quá. Để chứng minh cho mình không phải là pê-đê, nên tiếp tục uống rượu
trở lại, rốt cuộc rồi chứng nào tật đó, vì ai cũng thích được khen hơn là bị
chê, dù biết đó là lời khen lấy lòng. Cũng vậy con người ai cũng thích cảm giác
khoái lạc hơn, là bị những cơn vật vã hành hạ khốn khổ.
Như người hút á phiện, chích xì ke
chẳng hạn, nếu người hút chích liên tục từ hai lần trở lên sẽ bị ghiền và rất
khó bỏ. Có hai loại cảm giác khoái lạc, làm cho con người đam mê say đắm khó
rời xa, đó là khoái lạc nam nữ và khoái lạc ma túy. Trong tình yêu lứa đôi nhờ
biết cách vung bồi cho nhau nên duy trì được hạnh phúc gia đình. Khoái lạc nam
nữ đã giúp cho nhiều người sống có trách nhiệm và bổn phận hơn, trong sự nghiệp
phát triển duy trì nòi giống nhân loại. Khoái lạc ma túy làm cho con người bị
sa đọa trầm trọng gây ra thảm họa cho loài người trong hiện tại và tương lai.
Tác hại của nó hơn gấp trăm ngàn lần các thứ khác, ai dính vào vòng này coi như
thân tàn ma dại, con người trở nên tàn ác vô lương tâm và sẵn sàng hành động dã
man để có tiền thỏa mãn cơn nghiện.
Người nghiện ma túy trăm
người chỉ bỏ được một là cùng, hiện tại đã đến hồi báo động cho thế giới loài
người, cứ mỗi ngày có thêm một trăm người bị bệnh sida. Tệ nạn xã hội càng ngày
gia tăng, đến nỗi nhà tù mọc lên như nấm, sự thiệt hại về con người và vật chất
quá lớn do con nghiện gây ra không sao tính kể. Thế kỷ thứ hai mươi mốt trở về
sau, con người sẽ sống chung với bệnh hoạn, sống chung với ô nhiễm môi trường,
sống chung với người nghiện ngập, sống chung với thiên tai, sống chung với nhiều
người không có tình yêu thương chân thật, vì đạo đức suy đồi, nhân cách thấp
kém, hiểu biết nông cạn. Chúng ta luôn bị lệ thuộc vào nhu cầu vật chất quá
lớn, nên tâm linh mai một, xã hội tha hóa, con người trở nên ác độc với nhau
nhiều hơn, vì không có tình yêu thương chân chính.
Vì vậy chúng ta đang sống
trong thời đại ô nhiễm, mà không si mê nghiện ngập quả thật là một điều rất
khó, nhưng khi đã vướng vào rồi mà thoát ra được, mới là người đáng khâm phục
và tôn kính. Như cá nhảy khỏi lưới. Hay quá! Hay quá!
MA TÚY VÀ SỰ TÁC HẠI CỦA NÓ.
Tại sao hút chích và mua bán
xì ke ma túy không có trong giới cấm? Tuy không có trong giới cấm, nhưng nó nằm
trong giới thứ năm không được uống rượu và các chất gây say sưa nghiện ngập.
Thời Phật tại thế chắc chưa phát sinh tệ nạn ma túy, nên chúng ta không nghe
Phật nói trong các bản kinh. Nói đến cảm giác khóai lạc của người hút chích xì
ke, thì không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ cho hết được. Ngược lại, khi cơn
ghiền đã đến, con nghiện sẽ không làm gì được, ngáp ngắn ngáp dài trong người
bãi oải, dã dượi, vật vã, khó chịu tột cùng. Để làm giảm bớt và xoa dịu cơn vật
vã, ta phải đánh thật mạnh vào bắp vế non hàng trăm cái, mới tạm thời giảm bớt
nồng độ vật vã. Nếu gia đình nào đã tìm nhiều cách để giúp cho con nghiện cai
mà không được, thì chỉ còn cách duy nhất là gởi con nghiện vào các trung tâm và
cho lập nghiệp lâu dài. Đây là giải pháp an tòan và hiệu quả nhất, có thể thay
đổi chuyển hóa cuộc đời con nghiện. Tạo công ăn việc làm tại chỗ, không cho con
nghiện giao thiệp tiếp xúc bên ngòai, đưa giáo lý nhân quả nghiệp báo, luân hồi
tái sanh, để giáo dục con nghiện ý thức được sự tác hại quá lớn trong hiện tại
và hậu quả nhiều kiếp về sau.
Có một bà mẹ nọ nhà rất khá
giả, vì quá thương con nên bà ta chiều chuộng con mình một cách thái quá, chúng
muốn gì được nấy bà chẳng cần tìm hiểu nguyên nhân. Nhờ có sắc đẹp mặn mà
nên bà ta dễ làm các nhân tình lớn tuổi đắm đuối say mê khó rời xa. Do đồng
tiền có được không phải bằng mồ hôi nước mắt của mình tạo ra, nên bà ta tiêu
xài hoang phí và chẳng cần quan tâm đến con cái. Hai đứa con của bà chẳng thèm
làm ăn gì hết, chúng ỷ lại vì có mẹ nuôi nên tối ngày la cà các trà đình tửu
điếm, cuối cùng vướng vào nghiệp ma túy.
Bà ta giàu có và sống được
nhờ là vào sắc đẹp của mình nên để con muốn làm gì thì làm, chúng đòi hỏi nhu
cầu gì bà đều đáp ứng đầy đủ. Nhưng phước báu con người có giới hạn ở không ăn
riết núi cũng mòn. Tiền cuổm được của các tình nhân già bao nhiêu, cũng không
đáp ứng đủ cho chúng. Mẹ thì dùng sắc đẹp của mình để lấy tiền các lão già mê
gái, con thì hút chích đàn điếm.
Thật lòng mà nói bà ta có vô
số tình nhân lớn tuổi, nhưng cuối cùng rồi tất cả đều phải chia tay, khi
sự nghiệp của những người này không còn nữa. Bởi vì mỗi một ngày bà ta đến một
nhà hàng cao cấp và sang trọng, nay thì đi với người này mai thì đi với người
kia, bà thay tình như thay áo mỗi ngày. Con bà vì quen thói được chiều chuộng
từ nhỏ, nên chúng đã hư hỏng và còn đam mê nghiện ngập khi tuổi đời còn quá
trẻ, cuối cùng hai đứa được đưa vào trung tâm cai nghiện, vì quá thương con nên
bà bằng mọi cách móc nối, để đem cái thứ chết người đó vào trung tâm. Đứa con
nhỏ vì phê quá liều nên bị chết, đứa con lớn thì đang nghiện nặng và bị sida
cũng đang chờ thần chết rước đi, cuối cùng bà ta bị tán gia bại sản và phải ở
nhà mướn.
Giờ này tuy bà ta tròn trèm
gần sáu mươi tuổi rồi nhưng vẫn còn hương sắc mặn mà, vậy mà vẫn có người
thương và thuê phòng trọ ở với bà ta, nếu chúng ta chỉ nhìn phía sau thì rất dễ
lầm lẫn. Chúng tôi có thời gian đi ăn hôi với bà mỗi ngày, nên hiểu rất rõ hoàn
cảnh sống của bà. Đồng tiền làm ra không chân chánh và nuông chiều con quá mức
là căn bệnh trầm kha của một số bà mẹ trong thời hiện đại, do đó nhiều gia đình
phải tan nhà nát cửa. Thảo nào ông bà ta thường nói: “Con hư tại mẹ, cháu hư
tại bà” là rất đúng chứ không sai.
Người thời xưa cho rằng á
phiện là loại thuốc an thần giảm đau cực kì hiệu quả, làm cho cơ thể thông minh
sáng suốt lạ lùng, nó có tác dụng chữa bệnh rất cao. Vì thế, người giàu sang mới
có tiền dùng nó, còn người dân bình thường không có khả năng với tới. Nó còn có
tác dụng cầm máu nhanh chóng và giảm đau cực kỳ hiệu quả, chỉ để sử dụng trong
ngành y học. Một người nữ đang mang thai, sắp đến kỳ khai hoa nở nhụy, bị cơn
đau bụng hành hạ dữ dội không cách nào chịu nỗi, oằn oại rên la rất là thảm
thiết. Vì quá đau chịu không nỗi, nên cô ta có ý định nhảy xuống giếng tự tử.
Chồng cô là người nghiện xì ke ma
túy sợ cô chết, đành ngậm đắng nuốt cay chích cho cô một mũi. Nhờ vậy khống chế
được cơn đau và từ đó cô trở thành bạn chích với chồng. Thế là một thời gian
sau, hai vợ chồng bị bắt vô trung tâm cai nghiện, chồng cô bị sida và qua đời
sau thời gian ngắn. Cô vì có con nhỏ nên được cho về. Nhưng chứng nào tật nấy,
vì không đủ sức vượt qua cơn ghiền, nên cuộc đời cô ta chết chìm trong nghiện
ngập, nhà cửa đều bán sạch hết và trở nên thân tàn ma dại. Đây là câu chuyện có
thật xảy ra tại Quận Thủ Đức. Sau này cô ta phải mua phấn bán hoa và bị bệnh
sida, cuối cùng từ giả cõi đời để lại đứa con thơ không nơi nương tựa. Vì vậy
người con Phật phải khéo thận trọng trong quan hệ giao tiếp, nên tránh xa bạn
bè xấu ác, luôn thân cận học hỏi bậc hiền Thánh, nếu không được như vậy thà
sống một mình còn hơn, phải chịu chết chìm trong si mê nghiện ngập.
Bồ tát là con người giác ngộ
từng phần đang tiến bước trên con đường Phật quả. Bởi giác ngộ nên bồ tát ngừa
từ nhân, không dám làm việc xấu ác. Còn chúng sinh chờ đến quả khổ, mới than
trời trách đất, đổ thừa tại bị thì là…cuối cùng đành nhắm mắt xuôi tay để cho
nghiệp xấu chi phối. Nhất là người bị nghiện xì ke khó lòng bỏ được chúng, vì
nó đã ăn sâu vào trong tâm thức. Người nào can đảm dũng mãnh lắm, mới bỏ được
hẳn không bị tái nghiện trở lại. Còn không thì phải đam mê thứ khác thật sâu
đậm, mới có thể vượt qua nỗi. Chính bản thân chúng tôi bỏ được, cũng chỉ bằng
cách đó mà thôi, ngọai trừ trường hợp đặc biệt do Bồ tát thị hiện đi vào đời
cứu độ chúng sanh, bằng không thì phải chấp nhận sống trong nghiện ngập si mê.
Nhiều cha mẹ vì quá thương
con, sợ con bị hành hạ dằn vặt chịu không nỗi, nên vô tình giết chết con mình
bằng cách tiếp tế chi viện mỗi ngày. Thương con kiểu đó vô tình hại thêm, làm
cho con mình thêm bệnh ỷ lại, nên không chịu cố gắng kiên trì vượt qua. Con
chịu si mê chết chìm trong nghiện ngập, mẹ đồng lõa tiếp thêm tội lỗi và cuối
cùng hai mẹ con cùng đi chung một xuồng sa đọa. Gia tài sự nghiệp mấy chục năm
chắt chiu làm việc tích cóp bấy lâu nay, đều tan tành theo mây khói vẫn không
cứu được con mình. Chúng tôi có biết một người nghiện xì ke lớn hơn tôi khỏang
ba bốn tuổi, bị nghiện từ tuổi thiếu niên vì là cậu út con của một gia đình
giàu có tiếng tăm, biết con mình chơi cùng với nhiều người bất hảo. Sợ ảnh
hưởng đến uy danh và thanh thế gia đình, nên cha mẹ đã bắt buộc anh ta, không
được ra khỏi nhà và sẵn sàng cung cấp đầy đủ nhu cầu cần thiết. Đây là giải
pháp tạm an tòan, thuộc gia đình có nhiều quyền lực và giàu có trong xã hội.
Phương pháp này tạm thời
giúp cho người nghiện, không rơi vào tình trạng cướp của giết người, không gây
xáo trộn về an sinh xã hội. Quản lý con nghiện chặt chẻ nhờ vậy giảm bớt tệ nạn
xã hội. Cách giải quyết trên chỉ tạm thời giúp cho con nghiện, không phạm pháp
trong hiện đời và kéo dài đời sống thêm năm mười năm nữa là cùng. Nhưng sẽ để
lại hậu quả rất nghiêm trọng cho nhiều đời về sau theo luật nhân quả luân hồi
của đạo Phật. Vì sao? Chúng ta không hóa giải nghiệp nhân trong hiện tại, để
cho bị chết chìm trong đam mê tội lỗi, coi như bao nhiêu phước báo trong hiện
đời con nghiện, đã hưởng hết và còn mang theo thói quen nghiện ngập và si mê.
Theo luật nhân quả nghiệp báo,
nhân si mê nghiện ngập trong hiện tại nếu không hóa giải được, thì vô số kiếp
về sau phải bị đọa lạc vào chỗ khốn cùng. Như con thiêu thân lao vào lửa, như
bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sinh, đều do si
nghiệp. Khi được làm người trở lại thì bị thân thể xấu xí, hôn ám si muội,
không làm chủ bản thân dễ dàng rơi vào chỗ tối tăm mờ mịt. Vì không còn phước
nên hiện đời không ai giúp đỡ, đành lao vào việc trộm cướp để có tiền hút
chích. Nếu không may bị chủ nhân phát hiện, sợ quá bất đắc dĩ giết luôn gia chủ
để bịch đầu mối, cuối cùng tăng thêm tội nữa là tội giết người. Thế là quả xấu
chồng quả xấu, người này sẽ không còn cơ hội làm mới lại chính mình, nên đời
này kiếp nọ sống trong mù mịt tối tăm, khó mà có cơ hội vươn lên làm lại cuộc
đời và mãi mãi sẽ là người từ tối vào tối. Nên trong bài kệ sám hối của vua
Trần Thái Tông nói về nghiệp ngu si là :
Căn tánh đần độn,
Ý thức tối tăm,
Chẳng hiểu tôn ti,
Không phân thiện ác.
Chặt cây hại mạng,
Giết gấu gãy tay,
Mắng Phật chuốc ương ,
Phun trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức,
Bội nghĩa bội nhân,
Không tỉnh không xét,
Đều do si nghiệp.
Những tội như thế,
Rất nặng rất sâu,
Đến lúc mạng chung,
Rơi vào địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp,
Mới được thọ sanh,
Dù được thọ sanh,
Lại mắc ngu báo.
Nếu không sám hối,
Đâu được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài,
Thảy đều sám hối.
Nếu ai đã lỡ vướng vào
nghiệp tội si mê này rồi, thì khó có khả năng được làm người trở lại. Nếu được
làm người, làm người thấp kém bần cùng và dễ dàng bị thói quen đam mê nghiện
ngập cuốn hút. Do hết phước nên sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại nghiện
ngập nữa nên phải trộm cướp, cuối cùng rơi vào hố sâu tội lỗi như người bị mắc
dưới bùn không chân, càng nhích càng lún sâu, đành chịu chết dần chết mòn trong
đau khổ lầm mê. Cứ thế tội chồng tội, để rồi mãi sống trong tối tăm mờ mịt.
Cha mẹ con nghiện, muốn giúp
cho con mình vượt qua được những thói quen mê muội này, thường con nghiện không
đủ sức tự cai một mình, nên cần phải nhờ nhiều người thân hổ trợ. Gia đình cần
phải cố gắng kiên trì, bền chí chịu đựng để giúp con nghiện cai tại nhà như
sau: Thứ nhất là con nghiện phải chấp nhận cách ly hoàn toàn tuyệt đối, không
cho quan hệ và giao tiếp với bạn bè bên ngòai. Đây là điều cần yếu quan trọng
đầu tiên, nếu để con nghiện tự do đi lại, con nghiện dễ dàng bị cám dỗ, lôi
cuốn trở lại. Thứ hai hướng dẫn con nghiện phát nguyện sám hối hứa chừa bỏ,
không tái phạm và thường xuyên suy tư quán chiếu thấy được tác hại của nó làm
hao tài tốn của cho người thân có thể dẫn đến tán gia bại sản, vợ con khốn khổ.
Nếu gia đình không có khả năng đáp ứng nhu cầu, con nghiện có thể lường gạt
hoặc trộm cướp để có tiền hút chích, không khéo dẫn đến tình trạng cướp của giết
người không thương tiếc. Đã dính vào nghiệp này rồi thì tiền mất tật mang, mê
muội ngu si, vô số kiếp sống trong đau khổ lầm mê, không có ngày thoát
ra.
Đa số người nghiện xì ke ma
túy đều là con nhà giàu, từ chỗ cha mẹ thiếu quan tâm, chỉ biết thương con,
chiều con muốn gì được nấy, đòi gì được đó. Vô tình giết chết con mình! Cha mẹ
do chạy theo nhu cầu sự sống, mải mê làm giàu, bảo vệ công danh sự nghiệp sợ
không bằng người, cứ thế mỗi khi con cần gì chẳng cần quan tâm đến, cứ chu cấp
thỏa đáng theo nhu cầu của con mà chẳng cần tìm hiểu.
Như bản thân chúng tôi lúc
còn chích xì ke, trong thời gian ở tù vì tội móc ngoặc hối lộ, nhưng do khôn
khéo luồn lách giỏi nên được làm tù trưởng tự do đi lại bình thường. Chính vì
thế, càng ở lâu trong tù càng tạo thêm nhiều tội lỗi, chúng tôi móc nối các
phạm nhân nghiện ma túy mua một bán mười, đem vô cho họ chích trong trại giam
tạo thành đường dây lớn mạnh. Đời sống của tôi lúc đó như ông hòang con được
bao bọc che chở của nhiều thế lực, nên hiên ngang móc nối làm nhiều phi vụ phi
pháp tung hòanh ngang dọc một thời trong tù. Sau này khi đi tu rồi, ngồi suy
gẫm lại mới thấy tội lỗi vô cùng và sự tác hại lớn lao của nó. Người có địa vị
quyền lực càng cao nếu không biết tu sẽ gây ra vô số tội lỗi, một xã hội nếu
người lãnh đạo ít tham nhũng và ham sắc đẹp thì đất nước đó mau tiến bộ và giảm
nhiều tệ nạn xã hội.
PHẬT PHÁP ĐỘ VUA A DỤC HOÀN THIỆN
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm
năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng thời kỳ này,
người ta gọi ông là ông vua độc ác. Khi sắp lên ngôi vua, ông đã giết gần hết
số anh em cùng cha khác mẹ, giết vô số quan lại và hàng trăm ngàn cung phi mỹ
nữ. Mỗi ngày ông thường đem nhiều phạm nhân ra hành hình, lấy thú vui giết
người làm niềm vui chính mình. Ông giết người không gớm tay, riết rồi không còn
phạm nhân để giết nữa. Một số quan cận thần thấy thế, mới tìm cách khuyên nhủ
nhà vua, tìm một truyền nhân giết người thay thế cho vua, để vua bớt mang tiếng
bất nhân, bất nghĩa. Điều kiện duy nhất, làm sao tìm được một người có tâm giết
hại giống như nhà vua. Lệnh được truyền đi qua thời gian gần một tháng, mới tìm
được người như ý muốn. Tên này là một thợ săn khét tiếng, không những săn thú
mà còn hành hung người một cách tàn nhẫn. Để chứng tỏ mình là kẻ giết hại không
gớm tay, tên thợ săn liền giết cha mẹ hắn, để chứng minh cho hành động của
mình. Sau khi đến gặp nhà vua, hắn đưa ra điều kiện hễ ai vào đó thì không được
ra, dù là vua.
Thế là địa ngục trần gian được lập
ra, dưới sự cai quản của hắn. Bên ngoài trang trí giống như hoa viên du lịch để
làm mờ mắt thiên hạ. Một hôm, có thầy Tỳ kheo đi hóa duyên vô tình lạc vào địa
ngục trần gian. Bỗng một giọng nói đanh thép vang lên, này gã ăn mày kia, ngươi
đã lạc vào địa ngục trần gian, hễ ai đặt chân vào đây coi như tan thây mất
mạng. Này gã đầu trọc kia, ngươi đã tận cùng bằng số rồi nên mới lạc vào đây,
số mi thật xui xẻo, thôi thì hãy ngoan ngoãn chờ ta ban tội chết cho. Ha! Ha!
Biết khó bề thoát thân, thầy Tỳ kheo liền tìm kế hoãn binh, nên nói với tên sát
nhân rằng: Tôi là người tu hành, tôi không sợ chết đâu, chỉ vì chưa chứng được
đạo quả bồ đề, nên ông hãy thương tình gia hạn cho tôi một tháng. Có lẽ nhờ sự
gia hộ của chư Phật, tên sát nhân đã kỳ hạn cho thầy Tỳ kheo bảy ngày.
Đây là cơ hội tốt nhất để thầy Tỳ
kheo cố gắng tu tập, nhưng thời gian bảy ngày quá ngắn ngủi. Đối diện với cái
chết sắp kề cận bên mình, ấy thế mà đã sáu ngày trôi qua, thầy Tỳ kheo vẫn
không có một tia sáng giác ngộ nào hết. Buổi chiều ngày thứ sáu, một phụ nữ
được đưa vào với tội danh ngoại tình lăng chạ với người khác, nên bị hành hình
rất dã man rồi cuối cùng chết liền tại chỗ. Nhìn thấy hình ảnh thảm thương đó,
thầy Tỳ kheo nghĩ đến thân phận con người rất mỏng manh tạm bợ, mạng người
không có giá trị gì hết, thấy đó rồi mất đó. Thầy Tỳ kheo chợt nhận ra đạo lý
vô thường ngay nơi thân này, không có gì là thường còn vĩnh viễn, và cứ như thế
thầy Tỳ kheo quán sát một cách rõ ràng tường tận, nhờ miên mật tinh cần thầy đã
chứng quả A-la-hán trong đêm cuối cùng.
Tờ mờ sáng, tên sát nhân đã vào
với vẻ mặt lạnh lùng, giọng nói oang oang nghe đến rợn người: “Giờ chết đã đến,
ngươi còn ân hận gì không” ? Thầy Tỳ kheo thản nhiên trả lời: “Hôm nay là ngày
tốt, ông muốn giết ta bằng cách nào cũng được.”Tiếng cười vang lên thật quái
đản, chúng ném thầy Tỳ kheo vào cái nồi đồng thật lớn, bên ngoài chất thật
nhiều củi rồi châm dầu đốt lửa, lửa đã cháy đỏ hừng hực thật lâu, khiến cho
nước trong nồi sôi lên sùng sục, kéo dài khoảng gần hai tiếng đồng hồ, sức nóng
đã làm cho tên sát nhân phải đứng xa ra. Tên sát nhân yên trí rằng thầy Tỳ kheo
đã chết, nên cho người mở nắp nồi ra xem. Không ngờ ai nấy đều ngạc nhiên,
chứng kiến vị Tỳ kheo đang ngồi kiết già, sắc mặt người trong sáng lạ thường,
tỏa ra một ánh hào quang diệu kỳ làm cho tên sát nhân và mọi người hoảng hồn sợ
hãi, liền tấu trình lên cho vua A-dục biết.
Vua A-dục nhìn thấy tận mắt những
đều chưa từng thấy từ trước đến nay. Cuộc đời của ngài đã từng đi chinh chiến
khắp nơi đánh đông dẹp tây, tung hoành các nước để thỏa mộng ước bình thiên hạ,
không một ai có thể qua khỏi lưỡi gươm của ngài. Vậy mà thầy Tỳ kheo này, vẫn
sừng sững hiên ngang ngồi trong nồi đồng với nước sôi sùng sục. Chứng kiến tận
mắt, hình ảnh người tu hành có diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngài bất giác rơi
lệ, quỳ xuống xin thầy Tỳ kheo tha thứ tội lỗi, ăn năn sám hối hứa chừa bỏ
những điều sai trái từ trước tới nay do mình gây ra.
Sau đó thầy Tỳ kheo giảng pháp cho
nhà vua nghe về đạo lý làm người và nhân quả nghiệp báo. Vua liền thức tỉnh
phát nguyện quy y Tam Bảo hộ trì chánh pháp, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp,
tin theo lời Phật dạy giữ gìn năm điều đạo đức.
Thứ nhất không được giết
người và hạn chế tối đa giết hại các loài vật. Không gian tham trộm cướp của
người một cách bất chính trộm là lấy lén, cướp là công khai lấy, giành giựt
lấy. Ba là không được tà dâm, Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng không
được quan hệ với người khác ngoài vợ chồng chính thức. Ăn ở với người cùng
huyết thống gọi là loạn luân, quan hệ giữa người và thú gọi là cuồng dâm. Tự
mình khoái lạc gọi là thủ dâm, quan hệ với người đồng phái gọi là đồng tính
luyến ái hay còn gọi là pê-đê, còn quan hệ nếu xảy ra với người trưởng thành và
trẻ chưa tới tuổi vị thành niên gọi là bạo dâm. Thứ tư là không được nói dối để
hại người. Thứ năm là không uống rượu và dùng những chất gây say có hại cho sức
khỏe và tinh thần. Nhà vua nghe xong phát nguyện đời đời kiếp kiếp hộ trì Tam
bảo giúp dân chúng an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy.
Một vị vua tàn bạo giết người không
gớm tay nhưng nhờ gặp giáo pháp của Như Lai thế tôn, bậc chánh đẳng chánh giác,
vua A-dục đã được thầy Tỳ kheo dùng thân giáo hóa để trở thành một người Phật
tử thuần thành, chuyện này từ xưa đến nay thật là hiếm có. Chỉ có chánh pháp
của Phật mới có công năng trị lành tất cả bệnh, nếu ai biết hướng tâm quay về,
dù người đó tàn bạo, độc ác tới đâu, cụ thể như vua A-dục. Một khi đã thấm
nhuần giáo lý Phật đà rồi, thì có thể trở thành con người hiền lương đạo đức và
không làm tổn hại cho ai. Ban đầu vua A-dục là một vị vua khét tiếng tàn bạo và
độc ác không ai bằng, lấy sự giết hại làm niềm vui chính mình. Sau nhờ sự diệu
dụng không thể nghĩ bàn của Phật pháp, vua A-dục trở thành vị hoàng đế anh minh
sáng suốt, hết lòng thương yêu dân chúng như con đẻ của mình.
Ngày hôm nay, Phật giáo được lưu
truyền rộng khắp là nhờ một phần công lao của ngài, một người đã giác ngộ và
phát nguyện hộ trì Tam Bảo. Nếu không phải là giáo pháp của Như Lai thì làm sao
có thể chuyển hóa được vị hôn quân mê muội này. Giáo pháp của đức Phật không
thể nghĩ bàn, không những thuyết phục bằng lời nói, mà còn dùng thân giáo của
chính mình để đối tượng được cảm hóa tâm phục, khẩu phục, không còn lý lẽ nào
để nghi ngờ nữa. Nhờ được chuyển hóa mà vua A-dục trở nên người có công rất lớn
trong việc phát triển và mở mang đạo lý làm người truyền rộng ra các nước
phương xa. Cụ thể là con của ngài xuất gia đầu Phật và đã đến đất nước Tích Lan
để truyền bá Phật pháp.
VUA A DỤC DÙNG PHƯƠNG
TIỆN GIÁO HÓA
Từ khi gặp được Phật pháp, vua
A-dục mỗi khi ra ngoài đường, gặp bất cứ vị Tỳ kheo nào cũng đều bước xuống xe
đảnh lễ và chào hỏi rất tôn kính, làm cho một vị quan đại thần tỏ vẻ không hài
lòng và bất bình. Vị quan này quen theo lối phân biệt giai cấp, cho vua là trên
hết không ai bằng. Người thời xưa quan niệm trời sinh ra vạn vật, nên các vị
vua tự xưng là thiên tử, tức con trời. Vua thay mặt trời trị vì thiên hạ, nên
vua là cao cả, là quí báu, thậm chí nếu thần dân thiên hạ lỡ đặt tên con mình
đồng tên với gia tộc của vua, đều bị mang tội khi quân. Do đó, quyền lực của
những ông vua thời phong kiến rất độc tôn, độc tài, muốn giết ai thì giết, muốn
phong quan tiến chức cho ai thì phong, tùy ý giết người như vua A-dục thời kỳ
chưa gặp Phật pháp.
Phật pháp có công năng gì mà
chuyển hóa được vua A-dục, một con người bạo ác trở thành vị vua anh minh sáng
suốt, vì lợi ích nhân loại và lợi ích muôn loài? Trở lại câu chuyện, vị quan
đại thần không chấp nhận các vị Tỳ kheo là người đáng tôn kính, đảnh lễ, thưa
hỏi, cúng dường. Người xưa quan niệm rằng vua là trên hết, vua là con trời, ai
gặp vua thì phải đảnh lễ cung kính, nếu không thì mang tội khi quân, sẽ bị trị
tội tùy theo mức độ nặng nhẹ. Nếu là ngày trước, vua A-dục chưa biết Phật pháp,
có lẽ quan đại thần ấy đã mồ xanh cỏ rồi, làm gì có thời gian để giải bày. Do
vậy, vua A-dục vẫn im lặng không thèm trả lời.
Để chứng minh cho sự hồi đầu
của mình sau khi gặp Phật pháp, lấy tình thương bao dung mà tha thứ và độ
lượng. Nhà vua đã phương tiện giáo hóa quan đại thần bằng cách ra lệnh cho tất
cả quan văn võ trong triều, mỗi người đều đem bán đầu súc vật, riêng vị quan
đại thần phải bán đầu người. Đầu súc vật, các quan đều bán được hết, riêng đầu
người của quan đại thần là không bán được. Vua A-dục mới hỏi cắc cớ, tại sao
đầu người lại không bán được, mà đầu súc vật lại bán được, vậy đầu người hèn hạ
nhất trên đời nầy hay sao? Vua lại hỏi thêm, chỉ cái đầu này hèn hạ hay các cái
đầu khác cũng vậy? Viên đại thần ấp úng, không trả lời được nên cuối cùng đành
im lặng, chờ sự chỉ giáo của vua A-dục.
Vua nói:Ta không nhờ Phật pháp thì
đầu ngươi cũng chẳng kém chi đầu này, Phật pháp không thể nghĩ bàn, ngươi lấy
tâm phàm tục đo lường thánh trí, giống như người mù sờ voi, ngươi cố ý muốn
ngăn cản ta, đó là điều tốt theo cách nhìn của ngươi, vì ngươi trung thành với
ta, đó là điều đáng khen ngợi, ta không phủ nhận điều ấy. Nhưng ngươi muốn ngăn
cản ta, đảnh lễ các thầy Tỳ kheo, đó là do ngươi quá cống cao ngã mạn, thấy
mình là trung tâm của vũ trụ, thấy mình là cao cả. Nếu mình là cao cả, tại sao
đầu người không bán được, mà đầu súc vật lại bán
được?
Con người dù hèn hạ đến đâu,
một khi biết tu nhân tích đức làm mới lại chính mình, thì ai thấy cũng tôn
trọng quý kính. Các thầy Tỳ kheo dám bỏ hết những gì đang có, để sống đời tỉnh
thức rày đây mai đó, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nhà ngươi có
làm được như thế không, mà dám khinh khi coi thường. Đó là tâm niệm của ngươi
quá nhỏ nhoi và ích kỷ. Trong cuộc đời này nếu mình làm không được thì nên tùy
hỷ với người làm được, để được thêm tình yêu thương và hiểu biết. Tùy hỷ với
người có nhân cách phi thường, chúng ta sẽ có thêm nhận thức đúng đắn về đạo
đức và giá trị chân thật trong cuộc đời.
Ta nay nhờ gặp Phật pháp,
nên làm mới lại cuộc đời, bằng tất cả tấm lòng chí thành chí kính. Như vậy, ta
có lầm lỗi chỗ nào mà ngươi dám ngăn cản ta, như thế có phạm tội khi quân hay
không? Nghe được những lời nói chân tình của nhà vua, vừa là chỉ dạy, vừa là
khuyên nhủ, vị quan đại thần thức tỉnh nhận ra lỗi lầm của mình, ông cúi đầu lạy
tạ sám hối, nguyện từ nay về sau không còn nói những lời vô lễ ấy nữa. Một con
người vô đạo như vua A-dục, nếu không gặp Phật pháp thì làm gì có được, những
lời nói chân thành và hành động cao thượng như trên.
Phật pháp có công năng chuyển hóa
tối tăm, u mê thành trong sáng hiện thực, chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh
phúc, ngay tại đây và bây giờ. Chỉ có Phật pháp mới phù hợp với lòng người, con
người được quyền làm chủ bản thân, họa phúc đều do mình tạo lấy, mình làm lành
được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Phật pháp rất thực tế và nhiệm mầu,
ai phát tâm tu theo sẽ tự tin chính mình không còn bị lệ thuộc và ỷ lại vào bên
ngoài. Dám làm, dám chịu trách nhiệm hoàn toàn trước những suy nghĩ, nói năng
và hành động của mình, không đổ thừa cho ai hết.
Nhờ tin sâu nhân quả, chúng
ta không dám làm điều xấu ác, cái gì hại mình và người thì tìm cách chuyển hóa,
nếu đã lỡ lầm gây tạo tội lỗi, thì cố gắng sám hối tìm cách từ bỏ, không lặp
lại lỗi lầm xưa. Dám chịu trách nhiệm đối với sự sai trái của mình, hứa nguyện
không tái phạm để mình và tha nhân ngày càng gắn bó nhau hơn, trong tinh thần
đòan kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
KINH NGHIỆM NGỪƠI XƯA
Ca dao Việt Nam có câu:
Cá không
ăn muối cá ươn,
Con cãi
cha mẹ trăm đường con hư.
Thông thường các bậc cổ nhân là
những người đi trước lớn tuổi, đã từng trải nghiệm trong cuộc sống, đã thắm
thía cuộc đời nhiều nỗi đắng cay. Nên các ngài thường lấy kinh nghiệm thực
tiễn, để hướng dẫn cho người sau có những kinh nghiệm quý báu, dù thời thế có
thể đổi thay, nhưng những lời dạy ấy, vẫn không bao giờ bị mai một.
Có một bầy rùa đang sống
trong một hang động hoang dã xa xôi, nơi đây ít người lui tới. Cách đó không
xa, có một đồng cỏ xanh tươi bao bọc chung quanh hồ nước trong vắt, rất thích
nghi với đời sống loài rùa. Vậy cớ sao, bầy rùa kia lại ở nơi hoang dã, để phải
chịu cảnh sống cơ cực bần hàn? Chính vì vậy, mà các rùa con hay thắc mắc với mẹ
chúng, tại sao chúng con không được sống nơi trù phú, phì nhiêu để hưởng thụ
các món ngon vật lạ, mà phải sống cơ cực nơi hang sâu núi thẳm vậy mẹ? Các con
không biết đó chứ! Tuy nơi đây cực khổ thiệt, nhưng đảm bảo được tính mạng an
toàn cho các con. Chỗ có nhiều lợi dưỡng, là nơi giăng bẫy của một số người ác
tâm, họ luôn rình rập chúng ta, sẵn sàng bắt lấy chúng ta để làm thịt.
Mặc dù được nghe rùa mẹ giải
thích cặn kẽ, nhưng đám rùa con vẫn còn háo hức, thèm thuồng được một chuyến
chu du miền hoa thơm cỏ lạ. Chúng cùng to nhỏ với nhau, chắc là không có người
ác tâm, như mẹ mình nói đâu, một con trong bọn nói, mình lớn cả rồi lại thông
minh lanh lợi, nếu lỡ gặp người ác tâm bọn mình liền lặn ngay xuống đáy hồ, họ
làm sao bắt được? Hay quá! Hay quá! cả bọn rùa reo lên. Sợ nguy hiểm mà bỏ qua
thú vui trước mắt, thật là uổng phí quá chừng. Chúng ta phải ra đấy ngắm cảnh
xem hoa, để tận hưởng khoái lạc cuộc đời, há chi phải tự giam cầm nơi hang cùng
hiểm hóc và nhỏ hẹp này.
Trong lòng nghĩ như vậy,
nhưng chúng vẫn còn lo sợ. Do ham muốn và thèm khát thôi thúc, cả bầy rùa đồng
quyết định ra hồ chơi một chuyến cho biết. Cuộc phiêu lưu bắt đầu, chúng âm
thầm xuống khe núi, lặng lẽ bò đến bờ hồ, lòng vô cùng phấn khởi và thích thú
trong chuyến du hí đầu tiên. Nhớ lời rùa mẹ dặn, chúng cảnh giác coi có sự cố
gì xảy ra không? Nhưng nhìn quanh, nhìn quẩn, chẳng thấy có dấu hiệu gì là đáng
nghi ngờ và nguy hiểm, nên chúng không còn lo sợ nữa, vô tư đùa nghịch với nhau
không cần cảnh giác. Chúng tự nhủ thầm tiếc quá, bấy lâu nay bị giam hãm nơi
nước độc rừng sâu, bỏ phí bao tháng ngày vui thú đầy khoái lạc hấp dẫn này.
Tưởng chừng như cuộc vui được kéo dài trọn vẹn, nào ngờ đâu giông bão đang kéo
đến, mà chúng vẫn không hay biết gì.
Bất thình lình, từ trên
không trung, một tấm lưới phủ trùm trên đầu chúng chụp xuống, lũ rùa cố gắng
hết sức bò thật nhanh nhưng không còn kịp nữa, tấm lưới đã tóm gọn tất cả! Chỉ
có một con trong bọn nhờ tinh mắt, nhanh chân nên đã trốn thoát, về được tới
nhà. Rùa mẹ biết chuyện không may đã xảy ra, khi thấy rùa cả trở về một mình,
liền hỏi lũ em con đâu rồi sao không thấy, chắc tụi con lén ra hồ chơi phải
không? Mẹ đã bảo rồi mà, các con chẳng chịu nghe. Rùa anh buồn bã nói với rùa
mẹ, con nhớ lời mẹ dặn, cảnh giác trước mọi tình huống xảy ra, nên con đã thoát
được lưới tử thần của những người ác tâm, còn các em con do mải mê vui đùa
hưởng lạc thú, nên đã bị bắt hết cả rồi.
Rùa mẹ nghe nói, liền
khóc rống lên, con ơi là con. Mẹ đã bảo rồi mà, các con không chịu nghe, nên
mới xảy ra chuyện đáng tiếc như thế này. Xưa nay, ông tổ nhà rùa chúng ta đã
từng khuyên nhủ con cháu, phải nên sống trong rừng sâu núi thẳm mà tu thân tích
đức, đừng vì ham chỗ đẹp đẽ cao sang quyền quý, mà phải chuốc họa vào thân. Các
con còn quá nhỏ, ăn chưa no, lo chưa tới, không chịu nghe lời mẹ dặn, nên đã tự
giết mình khi tuổi đời còn non trẻ.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đã
cho chúng ta một bài học sống ở đời, con người vì quá đam mê lạc thú trần gian,
nên bỏ ngoài tai những lời chỉ dạy của người xưa đã qua thời gian trải nghiệm
trong cuộc sống. Những bậc hiền nhân, những người đi trước từng có nhiều kinh
nghiệm, trong trường đời danh lợi và đã đứng lên từ những vấp ngã, để vượt qua
cạm bẩy cuộc đời.
Do ỷ tài cậy sức, học cao
hiểu rộng, một số người xem thường lời dạy cổ nhân và nghĩ rằng thánh nhân thời
xưa lạc hậu, nên họ nói: “Tuổi trẻ thời nay khôn hơn người xưa nhiều” nhưng họ
đã quên mất một điều, người xưa nhờ có tu tập, biết quán chiếu và xem xét, khi
muốn làm việc gì. Người trí khi nghe lời dạy thánh nhân, biết được tai hại đam
mê hưởng thụ quá đáng, nên tránh được những sai lầm đáng tiếc. Còn chúng ta, vì
quá mê muội và tự mãn trong sự hiểu biết của mình, chẳng thèm lắng nghe những
lời chỉ dạy của người xưa nên mới bị mang họa vào thân. Vì thế, cổ nhân từng
răn nhắc chúng ta: “Không thầy đố mày làm nên” chúng ta quá coi thường lời dạy
người xưa, không thèm học hỏi lắng nghe ỷ lại tài năng và sức lực của mình.
Những lời chỉ dạy bổ ích của bậc trưởng thượng đều xuất phát từ tấm lòng yêu
thương chân thật, giúp chúng ta không rơi vào hố sâu tội lỗi. Chúng ta đã biết,
sự sống trên thế gian này muốn tồn tại, phải tương tàn tương sát lẫn nhau, mạnh
hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, đó là nói sự sống của loài súc sanh. Còn con người thì
sao? Con người nhờ có trí khôn và sự hiểu biết nên có thể nhận định suy xét,
tìm hiểu đúng sai, nhưng một khi con người đã làm ác rồi, thì không ai bằng.
Bởi vậy người xưa do kinh
nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài
lúc nào cũng thương tưởng chúng ta, đắng môi, mỏi miệng, để truyền đạt cho nhân
thế những lời dạy quý báu, bổ ích. Nhưng chúng ta không chịu nghe, đến khi gặp
nạn rồi đành chịu chết chìm trong tội lỗi, có sám hối ăn năn cũng không làm sao
kịp. Lũ rùa kia không nghe lời dạy của mẹ, cả đàn ngốc nghếch ngông nghênh để
tự làm hại mình, như chú bé con vì ham chút mật ngọt trên dao bén, mà phải chịu
họa đứt lưỡi.
Riêng chú rùa đàn anh, luôn
nhớ lời mẹ dạy và lúc nào cũng cảnh giác cao độ, nên đã thoát khỏi lưới tử thần
trong đường tơ kẽ tóc. Nhiều người tự cho mình có đủ khả năng, ngang dọc tung
hòanh trong thiên hạ, đến khi mang họa vào thân, mới thấy lời dạy cổ nhân thật
là chí lý, có ăn năn hối hận thì cũng đã muộn màng. Chúng ta thường quên mất
một điều, bậc thánh nhân, người hiền đức, các ngài đã từng trải qua bao gian
nan trắc trở, nhờ đó mà kinh nghiệm sống thường rất chừng mực và sâu sắc. Thậm
chí có những điều ta chưa biết, nhưng các ngài đã biết, rồi bằng kinh nghiệm
của chính mình, để chỉ cho chúng ta biết được điều hay lẽ phải, tránh được tai
nạn trong đời. Ấy thế mà có người chẳng chịu nghe, ngược lại còn phê phán người
xưa sau quá lạc hậu.
Ngày nay trên đà tiến bộ của
văn minh khoa học, vật chất, đã góp phần giúp cho con người cải thiện đời sống
ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng ngược lại kéo theo nhiều tệ nạn xã hội, do nhu cầu
hưởng thụ quá mức dẫn đến tình trạng cướp bóc giết hại lẫn nhau, bất chấp luân
thường đạo lý làm người. Người sau, do tiếp thu nền văn minh vật chất hiện đại
nên đa phần tiến bộ hơn người xưa, do đó sanh ra ỷ tài cậy sức. Tự cho mình là
thầy thiên hạ, chẳng chịu nghe lời khuyên nhủ, thiếu kinh nghiệm tu tập, cho
rằng mình thông minh lanh lợi, sinh tâm cống cao ngã mạn. Ai tán thán ngợi khen
nịnh hót tâng bốc thì hoan hỷ, ai thành tâm khuyên nhủ, góp ý, thì cho rằng
người đó là bần cố nông dốt nát. Thường hay bảo thủ không lắng nghe ý kiến
người khác, chỉ biết làm theo ý mình một cách mù quáng, nói và làm trái ngược
nhau. Người ở xa không biết, cho rằng người đó là thánh sống, nhưng khi có dịp
gần gũi thân cận, mới thấy sự thật quá phũ phàng.
Nhiều người hiểu biết sai
lầm, tưởng ai lý luận giỏi là người đắc đạo. Hiểu như vậy vô tình phỉ báng Phật
pháp. Lý luận giỏi chưa hẳn là người đạt đạo nói và làm tương ưng mới thật là
người đạt đạo. Đạo không nằm trong ngôn ngữ lời nói, mà đạo thể hiện nơi hành
động thực tế, nói và làm không trái ngược nhau, nói được phải làm được, không thể
nói việc trên trời, mà làm việc dưới đất. Lúc nào cũng muốn thay đổi thiên hạ
mà không tự thay đổi chính mình. Muốn thiên hạ theo mình, mà mình không tự làm
tốt, biết khuyên mọi người hãy sống với thực tế, mà mình lại vu vơ huyền hoặc.
Mình sống bằng lý luận môi mép, mà lại khuyên mọi người sống chân thật, thực là
lời nói việc làm trái ngược nhau, nói một đường làm một nẻo.
Trong nhà Phật thường nói:
“Mình không biết lội, mà muốn cứu người chết đuối, thật là vô lý.” Vậy mà có
một số người chẳng biết lội lại thích cứu người, đúng là mâu thuẫn cuộc đời.
Hiểu biết và thực hành khác xa một trời một vực. Nhiều người giỏi nghiên cứu
nhưng không có khả năng thực hành, chỉ nghiên cứu suông, nói suông. Thực tế đã
cho chúng ta thấy rất nhiều nhà lãnh đạo giỏi, không có trình độ chuyên môn
cao, nhưng họ biết thích nghi nhu cầu cuộc sống, nên đa phần đều dễ thành công
đem lại lợi ích thiết thực đến cho nhiều người.
Còn những nhà nghiên cứu
suông, nhờ có biện tài ngôn ngữ và có phước duyên lợi khẩu, nên dễ thuyết phục
mọi người tin theo, nhưng thực tế lại rất phũ phàng, vì lời nói việc làm trái
ngược nhau. Cho nên, học kinh nghiệm của người xưa thật là quý báu vô cùng. Tuy
các ngài nói ít! Nhưng, lời nói đó không thể mai một theo thời gian, vì các
ngài biết cân nhắc tuỳ thời tuỳ duyên, biết nương theo phong tục tập quán của
xã hội để làm lợi ích cho nhân loại. Do sự phát triển quá nhanh chóng, con
người cứ mải mê chạy theo nhu cầu vật chất, nên coi thường lời dạy của người
xưa. Có người tuy không bị vật chất cám dỗ, nhưng lại bị danh vọng trói buộc.
Chúng tôi may mắn gặp được
Phật pháp, nhờ có môi trường tốt nên chúng tôi cũng đã từng bước vượt qua nhưng
không phải dễ dàng, nếu tự mãn cho là đủ thì vẫn bị thói quen xấu chi phối. Để
thấy, cái gì đã trở thành thói quen thâm căn cố đế, nếu muốn thay đổi chúng ta
phải trả một giá rất đắc như người chết đi sống lại, thì mới thật sự chuyển hóa
chúng. Nếu đơn giản và dễ dàng, thì người ta đâu cần phải tầm sư học đạo, đâu
phải khổ công rèn luyện tinh cần miên mật, mới có thể vượt qua cạm bẩy cuộc
đời. Người càng học cao hiểu rộng thì sự chấp trước càng lớn, nếu không biết tu
tập và buông xả. Cho nên, nhà Phật không đặt nặng vấn đề văn hay chữ giỏi hoặc
biện tài lưu loát. Ngày xưa Tổ Huệ Năng không biết một chữ, khi vào chùa chỉ
biết giã gạo nấu cơm làm công quả, sau này trở thành vị Tổ thứ sáu Thiền sử
Trung Hoa để lại nhục thân cho đến bây giờ. Đó là một sự thật không thể chối
cãi được. Tại miền Bắc đất nước Việt Nam chúng ta hiện nay, có đến năm nhục
thân của các vị thiền sư để lại là do nhờ công năng tu tập.
Người tu chứng không phải do học
cao hiểu rộng mà được, mà chỉ thấy rõ thân này là một tổ hợp vật chất, do nhiều
yếu tố thành hình, không có cái ngã thực thể cố định. Biết được như thế, chúng
ta làm tất cả việc mà không thấy mình làm. Người học cao hiểu rộng, nếu không
có sự tu tập thì sự chấp ngã càng lớn. Do đó dễ làm tổn hại cho nhiều người,
khi họ lợi dụng quyền hành thế lực.
BỐN ĐIỀU CĂN BẢN ĐỂ
THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI
Phật pháp có nhiều cách để tu tập
và hành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm
nghiệm và quán xét, để giúp chúng ta thăng tiến trên bước đường tu tập và
chuyển hóa đổi thay những gì xấu xa tội lỗi. “Điều ác chưa phát sinh, tìm cách
không cho phát sinh, nếu lỡ phát sinh rồi, thì tìm cách ngăn dừng, không cho
phát sinh nữa. Điều thiện chưa sinh thì tìm cách cho tăng trưởng, nếu điều
thiện đã sinh, thì tìm cách duy trì gìn giữ.” Bốn điều này là nền tảng căn bản
để đưa ta đến an vui hạnh phúc, an lạc thảnh thơi, dù người có tàn ác đến đâu
thậm chí phạm tội ngũ nghịch như giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp
Tăng, làm cho thân Phật chảy máu “hay phá hủy hình tượng Phật” cũng có thể làm
mới lại chính mình như trường hợp vua A-dục đã nói ở trên.
Khi điều ác chưa sinh, ta
tìm cách không cho nó phát sinh. Vậy ác là gì? Ác là những hành động làm khổ
mình, khổ người trong hiện tại và tương lai, người tạo việc ác là kẻ xấu,
thường bị mọi người tránh xa không thích gần gũi. Những việc ác cụ thể như giết
hại, trộm cướp, tà dâm, lường gạt, bóc lột, hà hiếp, lợi dụng, phỉ báng, vu
khống, ganh ghét, tham lam, ích kỷ, sân si… nói chung những gì làm tổn hại cho
người và vật đều gọi là ác. Muốn thay đổi được điều ác chưa sinh không cho phát
sinh rất là khó. Trong khi đó, cuộc sống của chúng ta chỉ cái ăn thôi là đã
giết hại rồi, huống hồ là còn biết bao vấn đề khác làm sao tránh khỏi.
Cho nên theo lời Phật dạy từ
con người cho đến muôn loài, muôn vật, muốn bảo tồn mạng sống phải biết nương
nhờ lẫn nhau. Do đó, đạo Phật chủ trương hòa mình cùng nhân loại và muôn loài,
để kết nối tình yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha. Đạo
Phật là đạo của con người, vì con người và sự sống của muôn loài, là đạo của từ
bi và giác ngộ, là đạo của tình yêu thương và hiểu biết, cùng với sự cảm thông,
bao dung và tha thứ.
Giác ngộ để thấy biết đúng sự
thật, giúp chúng ta thấu rõ bản chất cuộc đời là một trường đau khổ, vì vậy mọi
người hãy nên cố gắng không làm các việc ác để không làm tổn hại cho nhau.
Ngược lại hay làm các việc lành, để cùng nhau chia sẻ nỗi khổ niềm đau, giúp
người vượt qua cơn khốn khó và thấy ai cũng là người thân người thương của
mình, nên chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu đùm bọc giúp đỡ
lẫn nhau. Thái tử Sĩ Đạt Ta lúc còn 7 tuổi, nhân dịp theo cha làm lễ hạ điền
khởi công làm ruộng đầu năm, ngài đã nhìn thấy được cảnh tương tàn, tương sát,
giết hại lẫn nhau của bầu vũ trụ bao la này. Buổi lễ bắt đầu, từng luống đất đã
được cày lên, nhiều thân xác côn trùng được phơi bày, bên cạnh đó không biết
bao nhiêu loài chim, đang chực chờ mổ lấy các côn trùng đó để tìm sự sống,
nhưng chúng đâu biết rằng khi chúng đam mê để tìm kiếm miếng mồi béo bở, thì
mạng sống của chúng như sợi tơ đang treo trước gió, vì những con chim cắt đang
chực chờ để vồ những con chim nhỏ đó. Cứ như thế theo luật tuần hoàn, bọn chúng
ăn nuốt lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, cho đến con người, muốn bảo tồn
sự sống thì phải giết hại không biết bao là loài khác để nuôi sống bản thân
mình.
Sau khi giác ngộ dưới cội bồ đề,
đức Phật đã chủ trương và hướng dẫn cho chúng ta thực hành từ, bi, hỷ, xả.
Người xuất gia thì phải dừng hẳn các việc xấu ác, bằng cách khất thực tùy
duyên, không khởi tâm tham đắm, mong cầu, để dễ dàng chuyển hóa những tâm niệm
xấu xa đê tiện. Nhưng ngày nay, do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học vật chất,
xã hội không chấp nhận người tu sĩ khất thực ngoài đường, vì đa số đều có chùa
và có chỗ định cư rõ ràng. Phần lớn sự sống của người tu sĩ là nhờ vào sự đóng
góp cúng dường của đàn na tín thí, nên việc khất thực dần dần hạn chế.
Tướng cướp Ương Quật Ma La là tên
giết người tàn bạo, một thời đã làm cho đất nước Kiều Tát La hoảng loạn và
không ai dám ra đường vì sợ bị giết. Thuở nhỏ chàng là một sinh viên thông minh
tài trí, được đưa đến học đạo với vị thầy nổi tiếng. Tuổi trẻ tài cao khôi ngô
tuấn tú, nên đã rơi vào mắt xanh của vợ thầy mình, không thuyết phục được người
tình trẻ, bà ta điên cuồng tìm cách mưu hại chàng cho bỏ ghét. Yêu không được
nên sinh ra thù hận, cô vợ bèn giả dối thuật lại hành vi đê tiện của tên đệ tử
cho chồng nghe, tưởng là sự thật nên ông thầy liền nỗi tam bành lục tặc, bừng
bừng, giận dữ. Cô vợ nham hiểm, khéo léo chỉ bày cho chồng một diệu kế không
thể tưởng tượng được.
Sao đó ông thầy gặp người đệ
tử bảo rằng, thời gian con học đạo với thầy, con rất xứng đáng là người được kế
thừa sự nghiệp của ta. Nhưng con muốn được thừa hưởng pháp bí truyền của thầy,
thì phải tuyệt đối thanh tịnh trong sáng và phải rửa sạch ác nghiệp quá khứ
bằng máu của một ngàn người, khi nào làm được như vậy, thì ta sẽ truyền tâm ấn
cho con. Nghe thầy mình chỉ dạy xong, làm cho Ương Quật chết điếng cả người,
không biết phải làm sao? Chàng trai lúc này còn đang do dự, bán tín, bán nghi,
nhưng ông thầy cứ thúc giục mãi, cuối cùng chàng trai đành phải chấp nhận ra
đi, nhưng trong lòng thì lại hoang mang hoảng loạn.
Ương Quật Ma La tài ba lỗi lạc, võ
nghệ cao cường, nên việc giết người đơn giản và dễ dàng, người đầu tiên đã bị
chàng hạ gục trong tích tắc, mặc dù vẫn còn bàng hoàng sửng sốt trong điên dại.
Rồi từ đó gặp ai chàng cũng chém giết bất kể là nam hay nữ lớn hay nhỏ, tin đồn
lan xa đến tai vua Ba Tư Nặc. Được sự trợ giúp của quan quân, nhưng tất cả đều
bó tay và bất lực, vì không ai đủ sức để đương đầu với hắn. Cảnh mất cha, người
mất mẹ, cha mất con, vợ mất chồng, gây ra cảnh tan nhà nát cửa, thịt đổ xương
rơi, người chết bị giết nằm ngổn ngang, người sống sót thì vô cùng kinh hoàng
lo sợ, không biết rồi số phận của mình sẽ ra sao? Tên điên cuồng đó, sao khi
giết người xong, chặt lấy ngón tay xõ lại thành từng xâu, rồi đeo vào người
giống như một báu vật, dân chúng quá lo âu và sợ hãi kêu chàng là người điên
loạn.
Về sao chuyện này đến tai
Phật, thấy được nhân duyên tốt để độ tên tướng cướp, Phật cố ý chọn con đường
để đi đến chỗ hắn đang hoạt động, nhiều người biết được khuyên Phật không nên
đi đến đó. Lúc này Ương Quật Ma La đã giết (999) người và người thứ một ngàn
chính là mẹ của hắn. Hắn đang mừng thầm trong bụng, để chờ đón nhận cái ngày ấy
sắp đến, bỗng nhiên từ đằng xa Phật đi tới, hắn đổi ý định giết mẹ, vì có người
đã chuẩn bị nạp mạng thế. Thấy bóng ngài, hung thủ càng đi nhanh hơn, để mau
hoàn thành sứ mạng cao cả, chiếc gươm hắn cầm sẵn trên tay chuẩn bị ra chiêu
sát thủ. Đức Phật bình thản ung dung từng bước đều như không có chuyện gì xảy
ra, nhưng tên tướng cướp vẫn không tài nào đuổi theo kịp, dù hắn ráng cố sức
chạy thật nhanh, cuối cùng hắn đành phải dậm chân tại chỗ gọi lớn: Này Sa môn
đầu trọc!
Sao ông đi nhanh thế, hãy dừng lại
! Phật bình thản nói : Dù Như Lai đang đi, nhưng Như Lai đã dừng từ lâu, chỉ có
con là chưa dừng bước? Tên tướng cướp ngạc nhiên thầm nghĩ: Chắc Sa môn đầu
trọc không bao giờ nói láo, ta đang dừng, ổng đang đi, mà ổng lại nói, ổng đã
dừng, còn ta đang đi. Sao lại như thế được? Hắn tức quá liền hỏi: Này Sa môn!
Tôi mới là người đang dừng, còn ông là người đang đi, cớ sao ông lại nói năng
ngược ngạo như vậy? Chắc ổng có ý gì đây! Thật vậy, này anh bạn trẻ ạ! Như Lai
đã dừng từ lâu và mãi mãi như thế, Như Lai đã từ bỏ không gây thương đau, hay
giết hại một chúng sinh nào dù là một sinh vật nhỏ bé nhất. Như Lai không bao
giờ gây đau khổ cho ai. Còn con sự giết người không gướm tay chỉ vì chấp trước
sai lầm, nên gây đau thương tang tóc cho nhiều người, làm khủng hoảng và chấn
động cả đất nước Kiều Tát La này, vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Như Lai đã
dừng, còn con thì đang giết người không gớm tay, tội lỗi ấy biết bao giờ mới
trả hết được?
Lời nói của Phật khiến tên tướng
cướp cảm thấy bàng hòang sửng sốt, như đứa con thơ dại khát sữa lâu ngày, giờ
mới gặp được sữa mẹ! Một hồi lâu, chàng ta mới lấy lại bình tỉnh, nhớ lại thời
thơ ấu thường nghe thiên hạ đồn rằng: Có Sa môn Cồ Đàm trước kia là hoàng thái
tử dám từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, để ra đi tìm đạo và đã giác
ngộ. Ngài đã hướng dẫn và giúp đỡ nhiều người vượt qua khổ đau sanh tử, ngài
luôn từ bi cao thượng cứu giúp chúng sinh, chắc chắn đây là ngài rồi! Nghĩ như
thế tên tướng cướp liền vứt bỏ gươm và quỳ xuống đảnh lễ đức Phật kính cẩn thưa
rằng: Kính bạch đức Thế tôn con có mắt như mù nên đã lầm đường lạc lối. Nay nhờ
gặp ngài đã vén mây mù cho con, như người dựng đứng những gì đã ngã, thật hạnh
phúc thay cho con đã được ngài tế độ.
Đúng vậy, này chàng trai trẻ
ạ! Bây giờ con đã vứt bỏ thanh kiếm, con cần Như Lai giúp đỡ điều gì? Kính bạch
đức Thế tôn con như con thú hoang điên cuồng. Đã từ lâu con chưa bao giờ biết
khuất phục một ai, con gặp ngài không bằng uy quyền thế lực, con cảm thấy bình
an và thơ dại trước tấm lòng từ bi bao la rộng lớn của ngài. Con muốn làm lại cuộc
đời thuần lương để được sống yêu thương và hiểu biết, nhưng ai có thể giúp được
cho con, khi con đã giết cả ngàn người như vậy? Con tội lỗi quá chừng! Này Ương
Quật Ma La trên đời này có hai hạng người được xem là đáng tôn kính:
Hạng thứ nhất là người chưa bao
giờ gây tạo tội lỗi, lại hay luôn giúp đỡ người khác làm điều tốt lành. Hạng
người thứ hai là kẻ đã từng gây tạo tội lỗi nhưng biết ăn năn sám hối chừa bỏ,
không bao giờ tái phạm trở lại. Nếu con tha thiết muốn làm người lương thiện,
thì ta có thể giúp đỡ cho con được. Bạch đức Thế tôn con cũng muốn như thế lắm,
nhưng tội lỗi của con đã gây ra quá nhiều, chưa bao giờ có người giết hại như
con. Con làm sao đủ tư cách để làm người lương thiện, huống hồ là được làm đệ
tử của ngài. Một con người chưa từng làm xúc não cho ai?
Con người ta thường hay mặc
cảm tự ti quá khứ lỗi lầm, nên không dám mạnh dạn quay đầu dù đã có người giúp
đỡ. Họ cứ bị ác nghiệp quá khứ dày dò, bị ám ảnh bởi việc làm xấu trước kia,
không dám can đảm sám hối từ bỏ tội lỗi, không dám chấp nhận sự thật. Không dám
tự tin chính mình có khả năng thay đổi cuộc đời, nên đành chấp nhận xuôi tay
phó mặc cho số phận định đọat, cuối cùng sống trong đau khổ lầm mê.
Có người bước đầu vì một phút sai
lầm nho nhỏ không kiềm chế được cơn giận, nên đã vướng vào con đường tù tội.
Sau khi hồi gia lại gây ra những vụ án giết người khủng khiếp làm đau khổ nhiều
người. Một số người mới đầu chỉ phạm tội nhẹ do một phút bốc đồng trong lúc
nóng giận, nhưng khi vào tù một thời gian, sau này trở thành tội phạm nguy hiểm
dã man. Tại sao? Khi ở tù lại tiếp xúc với nhiều thành phần bất hảo, giang hồ
thứ thiệt. Được các đàn anh kể lại thành tích huy hòang một thời khi chưa bị
bắt. Lại trong trại giam không có phương pháp giáo dục cụ thể chỉ là nơi giam giữ
tạm thời. Rồi tình trạng đại bàng lộng hành trong nhà tù cấu kết cán bộ quản
giáo, làm cho con người tăng thêm tội lỗi, học thêm được những mánh khóe xão
quyệt như đàn áp trấn lột công khai, ma mới ăn hiếp ma cũ. Mỗi ngày sống trong
nhà tù vô tình tạo cho phạm nhân, huân tập thêm những thói hư tật xấu, nhất là
những phạm nhân đại bàng, khi ra tù chưa về đến nhà đã phạm tội trở lại.
Sự tiến bộ phát triển càng nhanh
khiến con người không theo kịp trào lưu cuộc sống, cứ mải mê chạy theo nhu cầu
vật chất mà quên đi phần tinh thần tâm linh. Thật đau đầu nhức óc đối với
nghành quản giáo phạm nhân, hiện nay chưa tìm ra giải pháp tối ưu để hướng dẫn
cho phạm nhân ý thức được những việc làm sai trái của mình. Ngày nay trên đà
phát triển của văn minh thế giới, các nước tiến bộ đều nhờ các nhà giáo dục tâm
linh đạo đức vào trại để hướng dẫn phạm nhân hành thiền. Sau đó chia sẻ cho họ
hiểu được lý nhân quả nghiệp báo luân hồi, không phải chết là hết, mà chết là
thay hình đổi dạng chuyển sang kiếp sống mới tùy theo phước nghiệp của mọi
người làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, để giúp cho họ có lòng
tin nhân quả sau này hồi gia họ sẽ sống lương thiện hơn.
Ở Việt Nam thầy Nhật Từ đã
vào trại giam K20 Tỉnh Bến Tre, ngòai những món quà vật chất để góp phần năng
cao đời sống phạm nhân, thầy còn chia sẻ cách thức làm mới lại chính mình với
những chủ đề: Quay đầu là bờ. Tự do nội tại. Bỏ kiếp giang hồ. Làm lại cuộc
đời. Đứng dậy sau vấp ngã. Đã giúp cho phạm nhân vượt qua mặc cảm tội lỗi của
quá khứ và tin sâu nhân quả, nên anh chị em nơi đây đã sống tốt hơn. Con người
thời nay do chú trọng về mặt vật chất quá nhiều, nên chúng ta không có thời
gian để ngồi lại suy gẫm, chỉ một bề lo hưởng thụ vật chất do đó dễ dàng bị sa
đọa. Phương tiện vật chất dồi dào sung mãn, thì mặt tâm linh đạo đức bị mai
một, dẫn đến nguy cơ suy đồi nhân cách, do đó tệ nạn xã hội càng ngày càng gia
tăng.
Nhan nhãn mỗi ngày, hình ảnh
giết người cướp của rất dã man, chỉ vì vài trăm ngàn đồng hoặc chỉ vài triệu
bạc mà phế bỏ đi mạng sống con người. Ngồi gẫm lại, mà thật đau lòng xót dạ!
Thế nhân bây giờ, bị tha hóa đến mức không thể tưởng tượng được, chỉ vì một
chút vật chất cỏn con, mà ta đành lòng nhẫn tâm giết hại đến thế sao? Đạo đức
suy đồi, tâm linh mai một, con người sa ngã, thấy biết sai lầm, đam mê hưởng
thụ, đời sống thấp kém, chẳng biết đúng sai, gây thù chuốc oán, không có ngày
cùng. Trong các tội khổ, tội giết hại là tội nặng nhất ! Nhất là giết người,
luật pháp còn không thể tha thứ, huống là luật nhân quả luôn âm thầm chi phối
vay trả, trả vay vô cùng tận, vậy mà tình trạng giết người cướp của trên thế
gian này, vẫn xảy ra ngày càng nhiều hơn.
Sự sống hưởng thụ quá
mức không ý thức được sự tác hại của nó, ỷ lại vào gia đình, cha mẹ thiếu quan
tâm, chỉ biết cấp dưỡng theo nhu cầu để con cái sống phóng túng biếng nhác, nên
dễ dàng bị sa đọa. Đau lòng xót dạ hơn, tuổi trẻ ngày nay còn trong màu áo ngây
thơ, ấy thế mà giết người không gướm tay như vụ án bé Ngọc và Đức Huy mười lăm
và mười bẩy tuổi đăng trên báo đời sống và pháp luật “cố ý giết người để cướp
của chỉ là chiếc xe honda” khi bị bắt Ngọc và Huy tỉnh bơ, coi như chuyện bình
thường không có gì gọi là hối hận cả. Tên Huy giã vờ ngất xỉu để nhờ nạn nhân
đến cứu, rồi sao đó dùng dao đâm cho đến chết, thật khủng khiếp thay mạng sống
con người quá rẽ. Tệ nạn thông tin hình ảnh bạo động công khai, dẫn đến con
người bị lờn thuốc qua sách báo, phim ảnh đồi trị, tác động đến sự hiếu kỳ của
tuổi trẻ, chúng làm thử coi mình có giống nhân vật trong phim hay không?
Ngày nay nền giáo dục nhân
phẩm đạo đức bị xuống cấp trầm trọng, xã hội vẫn chưa có chủ trương chính sách
cụ thể, để làm sao giảm bớt tệ nạn xã hội. Điều đáng mừng nhất hiện nay là tại
Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa Tỉnh Bình Dương đã mạnh dạn xây một ngôi
chùa mang tên Phước Thiện và một giảng đường để cho các trại viên hàng tháng
được sinh họat chương trình kết nối yêu thương, từ thiện duyên lành, sẻ chia
cuộc sống, do thầy Phổ Giác hướng dẫn. Mỗi lần sinh họat như thế các trại viên
được ăn chay một bửa, do nhóm phật tử đoàn từ thiện duyên lành phát tâm ủng hộ.
Ngòai ra còn chương trình ca hát văn nghệ phục vụ thường kỳ cho các trại viên
do nhóm ca sĩ Nguyên Phượng, nhạc sĩ Vũ Ngọc Tỏan, nhóm nghệ sĩ Giang Linh,
nhóm ca sĩ Kim Hà Bình Dương. Chương trình kết nối yêu thương luôn đem đến niềm
vui cho nhiều người, không những bằng lời ca tiếng hát ngọt ngào êm dịu, còn
hướng dẫn các trại viên sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và hành trì niệm Phật
để mọi người được an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ, trong tinh thần
đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Sau đó là những lời chia sẻ chân tình của
người đã từng bị vấp ngã, được Phật pháp cứu vớt giúp cho mọi người thêm vững
niềm tin trong cuộc sống. Nhờ vậy, sau thời gian dài họat động chương trình kết
nối yêu thương đã giúp cho các trại viên không còn than phân trách phận, trên
thì óan trời dưới trách móc xã hội. Mọi người ý thức được trách nhiệm vai trò
sống trong hiện tại, cố gắng tu tập và sống tốt hơn để chuyển hóa những nỗi khổ
niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
PHẬT ĐỘ TÊN TƯỚNG CƯỚP
Lúc này tên cướp thiết tha
muốn trở thành người lương thiện, đang trông chờ vào sự giúp đỡ của Như Lai,
biết được nhân duyên đã chín mùi Phật bảo này chàng trai trẻ: Có một gian phòng
tối tăm suốt một thời gian dài, nếu có ngọn đèn được thắp sáng lên, thì bóng
tối đó có còn hay không? Chắc chắn là không còn bóng tối, dạ thưa ngài! Đúng
thế này chàng trai trẻ, dù con đã giết quá nhiều người, nhưng nếu con thực tâm
biết ăn năn sám hối, luôn thắp lên ngọn đèn trí tuệ, thì ác nghiệp tối tăm của
con sẽ dần dần được tiêu trừ, bóng tối sẽ không còn nữa. Con vẫn có cơ hội được
làm người tốt trở lại và có thể tu chứng như bao nhiêu người khác. Đây là điều
kiện bình đẳng của tất cả mọi người, Như lai xác quyết với con như thế, nếu con
muốn làm người lương thiện. Ương Quật ma la được nghe điều chưa từng nghe và
hôm đó được xuất gia làm Tỳ kheo, trước sự ngỡ ngàng của nhiều thầy trong tăng
đoàn.
Cuộc đời chàng đã được thay
hình đổi dạng kể từ đây, được tu tập dưới sự hướng dẫn của Như Lai thế tôn, như
đứa con thơ lưu lạc lâu ngày, tìm được cha trao cho gia tài sự nghiệp kế thừa.
Lúc này vua Ba Tư Nặc mất ăn mất ngủ mấy tháng nay, mới đến gặp Phật cầu sự chỉ
dạy về tên tướng cướp giết người dã man. Đại vương, nếu bây giờ có ai báo cáo
tên cướp đang ở gần đại vương, thì đại vương sẽ nghĩ sao? Vua Ba Tư Nặc liền
đứng ngay dậy mặt mày tái mét, con sẽ giết hắn liền lập tức để diệt trừ hậu quả
cho nhiều người. Phật nói, nhưng nếu hắn muốn hòan lương, cạo bỏ râu tóc xuất
gia làm tỳ kheo, thì đại vương sẽ đối đãi với y ra sao? Vua nói, chuyện này
không thể có được, tên ác ôn đó làm sao đủ khả năng, thay tâm đổi tánh nhanh
như thế được? Như lai có thể làm được khi hội đủ nhân duyên.
Thật hy hữu thay, ai đầy đủ phước
duyên nên được sinh ra trong thời có Phật và được Phật giáo hóa để trở thành
một con người tốt. Như trường hợp của Ương Quật ma la chân thành tha thiết muốn
được làm người hoàn lương và thật sự ăn năn hối cải nên mới được Như Lai điều
phục bằng tâm từ tỏa sáng. Vua thưa nếu quả thiệt là như vậy, con xin đảnh lễ
bậc thầy ba cõi, có một không hai trên thế gian này, chỉ có ngài mới làm được
điều đó. Phật chỉ một vị sa môn trẻ đang ngồi trên tảng đá, dáng dẻ khôi ngô
tuấn tú hiền hòa. Này đại vương, vị Tỳ kheo đang ngồi đó, cách đây một tuần
được dân chúng gọi là ác quỷ ngón tay. Vua BaTư Nặc bàng hòang sửng sốt một hồi
lâu, mới lấy lại bình tỉnh, khi chính mình mất thấy tai nghe, nên vua cảm thấy
trong lòng nhẹ nhõm, vì từ nay về sau không còn phải lo lắng, bất an và sợ hãi
nữa.
Ngày xưa, các vị vua rất quý
trọng người tu hành chân chánh, nên người nào đã được Phật hóa độ, dù người đó
gây tội ác tày trời vẫn được tha thứ và khoan hồng. Có người chỉ làm ác nhỏ mà
thân phải bị đọa ngục chịu nhiều sự khổ, còn Ương quật ma la tuy giết hại nhiều
người, nhưng được Phật độ xuất gia hưởng phước tu hành, vậy thì nhân quả không
công bằng hay sao? Thật ra nhân quả không cố định một chiều như chúng ta thường
nghĩ trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, nó chỉ đúng cho người nào chấp
nhận số phận đã an bài. Và ngược lại nhân quả có thể thay đổi tùy theo nhân
duyên mà chuyển biến linh động, trải qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu
nói giết hại phải đền mạng, thì dù có tu cũng vậy thôi, đâu có được lợi ích gì?
Kinh nhân quả nói : Giả sử
trăm ngàn muôn kiếp nghiệp đã tạo không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo đến
mình phải chịu. Tuy nhiên nhân quả không cố định, cũng đồng tạo nghiệp xấu
nhưng có kẻ khổ người vui, còn tùy thuộc vào sự tu tập nhiều đời và sự thành
tâm khẫn thiết của người đó trong hiện tại, cho nên có kết quả sai biệt. Từ
nhân đến quả có sự thay đổi liên tục nhiệm mầu, thế nên nếu bảo là cố định thì
thế gian này không ai tu được, vì có tu cũng vậy thôi, ác cố định là ác, thiện
cố định là thiện. Nó đã như vậy có tu cũng uổng công vô ích, vô tình đưa người ta
vào con đường tội lỗi, hết hy vọng thay đổi làm mới lại chính mình.
Như bản thân chúng tôi là
một bằng chứng thiết thực, xưa kia tạo nghiệp si mê nghiện ngập tứ đổ tường,
nếu nói cái gì cũng cố định, thì giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập.
Bởi do trước kia hiểu biết thấp kém nông cạn cho rằng chết là hết, nên mặc tình
hưởng thụ ngập chìm trong tội lỗi, cuối cùng làm khổ mình hại người. Ngày nay
nhờ gần gũi, thân cận bậc minh sư chân chánh chư huynh đệ pháp lữ hiền nhân, ai
cũng ý thức được trách nhiệm bổn phận của mình qua lời Phật dạy, nên cùng nhau
sống hòa hợp, đòan kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, trên tinh thần tu học và
lao động.
Một em bé khi còn nhỏ
chưa biết gì nhờ cha mẹ khéo dạy bảo, cho học hành đàng hòang, lớn lên cậu bé
trở thành người khôn ngoan hiểu biết, giúp ích cho nhân loại. Một miếng đất
hoang, nếu người nông dân biết gieo trồng chăm sóc, nó sẽ biến thành những
luống rau, liếp cải để phục vụ cho con người. Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên
thế gian này cũng đều như thế, không có gì là cố định cả, thế nên ai nói nhân
nào quả nấy là chưa đúng hẳn, nó chỉ đúng khi con người chấp nhận số phận đã an
bài. Nếu nói ác cố định là ác, thiện cố định là thiện, thì còn ai tu tập làm gì
cho tốn công vô ích? Vì thế, có người làm ác nhỏ hiện tiền chịu nhiều quả khổ
lớn, cũng việc ác đó người có phước báu lớn không chịu quả khổ vì người này
biết tu giới, tu thân, tu tâm niệm rộng lớn nên chuyển được quả xấu.
Ương quật ma la nhờ nhiều
đời trước đã gieo trồng phước đức, tuy hiện tại làm tội ác tày trời do gặp bạn
xấu thầy tà xúi giục, không phải do mình cố tâm muốn làm. Sau nhờ gặp Phật giáo
hóa tâm phục khẩu phục, nên đã nhận ra sai lầm của mình, tha thiết ăn năn hối
cải làm lại cuộc đời. Các vua thời Phật tại thế rất tôn trọng đạo pháp, biết
cung kính người tu hành chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, thay gì bị tội chết
theo luật pháp thế gian, ngược lại được ân xá nhờ tu hành.
Đó là tinh thần từ, bi, hỷ,
xả, của đạo Phật, không đưa người ta vào con đường cùng khi đã lỡ lầm gây tạo
tội lỗi. Ngược lại, còn tìm cách giúp cho người đó phát tâm hướng thượng làm
mới lại chính mình. Vì vậy ngày nay, có một số nước trên thế giới đều bỏ án tử
hình, để người phạm tội có cơ hội sống mà suy gẫm lại, những việc làm sai trái
của chính mình. Đó cũng là phương cách tốt nhất, để giúp người vượt qua lỗi lầm
và tội ác. Nếu tin theo số phận đã an bài không thể thay đổi được, vô tình đưa
người ta vào con đường cùng không lối thoát, đành chịu chết chìm trong tội lỗi.
Nhờ tấm lòng từ bi bao la rộng
lớn của Phật, tên tướng cướp Vô Não được xuất gia làm Tỳ kheo và luôn cố gắng
siêng năng tinh tấn tu hành. Tuy nhiên do ác nghiệp cũ quá nặng nề, nỗi ám ảnh
về các nạn nhân bị giết hại do thầy gây ra lúc trước, lúc nào tiếng rên la cũng
văng vẳng bên tai, làm cho thầy luôn bất an và sợ hãi. Mỗi ngày thầy đi khất
thực, đều bị gia đình các nạn nhân chọi đá, đánh đập, chửi rũa, họ nhìn thầy
với đôi mắt căm phẫn, thù hằn. Để gia đình các nạn nhân không làm hại thầy, vua
Ba Tư Nặc đặc biệt ra lệnh ân xá và khuyên tất cả người dân hãy nên tha thứ và
thông cảm cho thầy.
Sự chết chóc và mất
mát của người thân, làm cho gia đình họ bị thiệt thòi về nhiều phương diện,
cảnh vợ mất chồng để mẹ góa con côi, không ai nuôi nấng dỗ dành, con mất cha bơ
vơ sống lạc loài, mẹ mất con trong nỗi niềm thương tiếc.v..v… Vì thế, ngày nào
thầy cũng bị thương tích đầy người trong rất thảm thương, nhưng thầy vẫn không
than óan, trách móc một ai, cứ như thế âm thầm chịu đựng trước sự thù hằn, giận
dữ của nhiều gia đình nạn nhân.
Một hôm, trên đường đi khất
thực tôn giả gặp một thiếu phụ sanh khó, đang nằm rên siết oằn oại bên vệ
đường, nhờ thầy giúp đỡ. Tôn giả nói, tôi mới vào đạo chưa biết pháp này, chỉ
có thầy tôi là Phật mới có thể giúp được chị. Nói xong, tôn giả về gặp Phật
trình bày sự việc như thế! Phật dạy: Con hãy đến gặp chị ấy và thành tâm chúc
lành như sau. Chào chị, từ ngày tôi biết đạo đến nay chưa từng sát sanh, mong
chị được mẹ tròn con vuông. Sau khi nghe lời Phật dạy, tôn giả liền vội vàng đi
đến chỗ người thiếu phụ, chúc lành đến cho nàng. Thật kỳ diệu thay, đứa bé được
chào đời trong niềm vui của nhiều người, từ ngày đó trở về sau chư huynh đệ
pháp lữ đồng tu đều gọi thầy, là người đem bình an và hạnh phúc đến cho nhân
loại.
Ở Việt Nam, thường có
tập tục ăn mừng đầy tháng, có nghĩa là sau khi sinh con được một tháng. Tập tục
này nếu hiểu theo đúng nghĩa là mừng mẹ tròn con vuông. Bởi vì người phụ nữ từ
khi mang thai cho đến lúc khai hoa nở nhụy, không biết bao nhiêu là chuyện rắc
rối xảy ra, khó bảo tồn được mạng sống. Chuyện mang nặng đẻ đau, cho đến khi
được thuần buồm xuôi gió là cả một quá trình nhọc nhằn khổ sở. Vì vậy dân gian
Việt Nam có câu:
Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Do đó khi sinh con được một tháng, chúng ta
thường mời cha mẹ người thân bè bạn đến để ăn mừng. Thực tế đó là mừng mẹ tròn
con vuông, mẹ vẫn còn sống, con vẫn mạnh khỏe, mừng hai mẹ con đều được bình an
suông sẽ. Nhờ nhân duyên đó, tôn giả càng thêm vững niềm tin với chánh pháp,
nên cố gắng tinh cần tu tập và một thời gian sau tôn giả đã chứng quả A la hán
với lực dụng không thể nghĩ bàn. Nhiều nguời thắc mắc, tại sao một con người
hung tàn bạo ngược như thầy, đầy dẫy tội lỗi xấu xa lại được chứng quả nhanh
như thế, trong khi ngài A nan nhiều phước báu hơn thầy vẫn chưa chứng được.
Để giải quyết mối nghi ngờ
của đại chúng, Phật dạy: Mọi người trên thế gian này đều bình đẳng như nhau ở
khả năng giác ngộ và si mê. A nan tuy thông minh lanh lợi, nhưng do sự học hỏi
hiểu biết được huân tập từ bên ngòai vào, cho nên chỉ thông suốt về văn tự chữ
nghĩa, còn dính mắc ở ngôn ngữ, do đó không đạt được đỉnh cao của sự giác ngộ
và giải thoát. Thầy Ương quật ma la trước kia tuy là người hung tàn bạo ác,
nhưng do tinh cần miên mật tu tập, phát sáng được trí tuệ sẵn có của chính
mình, nên đã chuyển hóa được ác nghiệp. Giống như có một căn phòng tối tăm ngàn
năm, nay được thắp sáng bởi ngọn đèn, vậy căn phòng đó có còn tối tăm nữa hay
không? Khi ánh sáng ngọn đèn có mặt, thì tối tăm biến mất, giác ngộ và si mê
cũng lại như thế. Lời dạy của ngài được tóm tắt bằng một bài kệ:
Người
không sợ hãi luôn cao thượng,
Như bậc
đại thánh đã vượt qua.
Không còn
bị dục vọng chi phối, không còn bị nhiễm ô, thật sự giác ngộ.
Người ấy
Như Iai gọi là Bà la môn.
Như có một thiền sư trước kia làm nghề đồ tể,
đang thọc huyết heo bỗng nhiên giác ngộ, liền đi xuất gia trước sự ngạc nhiên
của nhiều người. Ngài có làm bài kệ.
Hôm qua
tâm dạ xoa,
Hôm nay
mặt Bồ tát,
Bồ tát
cùng dạ xoa,
Chẳng cách
một sợi tóc.
Mới hôm nào tâm địa độc ác như quỷ dữ, luôn làm
tổn hại cho nhiều người, mà giờ đây đã hiền lành ngoan ngoản hay giúp người,
cứu vật.
Xưa nay
chỉ một tâm
Khi mê là
phàm phu
Khi tỉnh
liền giác ngộ
Phiền não
tức bồ đề.
Một con người dù làm ác tới đâu, một khi
đã giác ngộ rồi, có thể thay đổi nghiệp nhân xấu ác trở thành nghiệp nhân tốt
lành. Khi mê thì làm việc xấu ác, khi ngộ thì làm việc thiện ích, mê và ngộ chỉ
cách nhau một sợi tóc, nhờ vậy con người ta mới thay đổi và chuyển hóa được
những thói quen tật xấu.
THAY LỜI KẾT
Nghiệt ngã thay dòng đời mê
muội, bởi thấy biết sai lầm nên mới chuốc họa vào thân, dù biết đó là tai hại,
khổ đau, nhưng nhiều người vẫn chịu chết chìm trong tội lỗi. Động lòng trắc ẩn
bi thương trước dòng xoáy cuộc đời với vô vàn sự cám dỗ, nhiều chông gai, nhiều
cạm bẫy, tình đời luôn thay trắng đổi đen. Con người cứ thế loanh quanh lẩn
quẩn trong nỗi khổ niềm đau, để rồi làm chết đi các hột giống tốt lành, gieo đau
thương khổ não cho nhiều người. Thế gian là một trường đời ô hợp luôn
chất chứa muôn ngàn sóng gió lành dữ đúng sai, phải quấy tốt xấu, buồn thương
giận ghét. Tình đời là thế đó, một kiếp người chẳng đáng là bao, vậy mà nhiều
người vẫn bị dòng nước cuốn trôi và nhấn chìm.
Chỉ có đấng Thế tôn vị cha
già đáng kính ngài đã vượt qua cạm bẩy cuộc đời, rống lên tiếng rống sư tử,
trên hai ngàn sáu trăm năm, làm muôn loài thú phải nép mình trong sợ hãi. Ngài
đã xua tan bóng tối mê lầm từ dạo ấy, đem lại quyền làm chủ cho thế giới loài
người, đem lại niềm tin và chân lý mãi sáng ngời trong nhân loại. Thật hạnh
phúc thay! Cho loài người chúng ta, đã biết được những điều chưa biết, đã thấy
được những điều chưa thấy, đã nghe được những điều chưa nghe, mỗi người hãy tự
thắp sáng lên ngọn đuốc của chính mình, thì thế gian này sẽ tỏ sáng, rực sáng
trong niềm an vui hạnh phúc. Ngược lại, nếu ai chấp nhận số phận đã an bài thì
người đó sẽ sống mãi trong tối tăm mê muội, trong ngục tù tội lỗi.
Ta có quyền vươn lên từ sức
mạnh của ý chí, niềm tin và nghị lực, thì mọi việc sẽ có thể thay đổi tốt đẹp.
Nhân quả khác với số phận là có thể thay đổi được, còn số phận thì không. Người
tin sâu nhân quả sẽ làm mới chính mình bằng sức mạnh của trí tuệ, nên dễ dàng
vượt qua sóng gió cuộc đời, bằng nhận thức sáng suốt và việc làm chân chánh.
Người chấp nhận số phận đã an bài thì dễ dàng buông xuôi cuộc sống, yếu đuối
bạc nhược, cuối cùng bị dòng đời cuốn trôi, để rồi phải sống trong đau khổ lầm
mê. Nếu chúng ta chấp nhận cái gì cũng cố định cả, dù có tu cũng
chẳng lợi ích gì. Như bản thân chúng tôi đã từng nghiện ngập đam mê đủ thứ, nếu
không thay đổi được thì giờ đây, tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập.
Nhiều người vì không hiểu thấu lý nhân quả, nên chấp nhận cuộc đời giống như
bèo dạt mây trôi, cứ nghĩ rằng ai làm sao tôi làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo,
chẳng biết suy nghĩ tìm tòi, mặc tình cho dòng đời cuốn trôi. Cái quan niệm đó
chỉ hợp với thời đại xa xưa và ngày nay khoa học đã chứng minh rằng, không có
cái gì do một nhân mà hình thành.
Cờ bạc, rượu chè, hút xách,
đàng điếm, liều lĩnh, bất mãn, buông lung phóng túng và sa đọa chúng tôi đã
từng mắc phải từ lúc còn thơ dại, vậy cái gì đã thúc đẩy tôi khi tuổi đời còn
non kém, để mắc phải sai lầm đáng tiếc. Đó là do sự tác nghiệp của quá khứ quá
sâu đậm, nên bây giờ khi hội đủ nhân duyên liền bị hút vào dòng xoáy của đam mê
tội lỗi. Tuy nhiên nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta không thể nào một
sớm, một chiều, mà thấu rõ được hết. Trong kinh Phật dạy nếu người nào trước
kia lỡ gây tạo nghiệp xấu ác, hiện tại biết tu giới, tu thân, tu tâm hay làm
các điều phước thiện thì nhân quả xấu nhiều đời có thể thay đổi được tùy theo
khả năng tu tập của mình.
Xưa nay
hiền thánh thường khen ngợi
Thật đáng
khâm phục người biết lỗi.
Ai sống mà
không có lỗi
Có lỗi mà
biết sửa đổi hay thay.
Đã làm người dù ít hay
nhiều, ai cũng có thể vấp phải lỗi lầm. Phật pháp chính là chiếc thuyền từ cứu
vớt chúng sinh, làm mới lại chính mình vượt qua dòng sông tội lỗi. Cái hay của
Phật pháp là giúp chúng ta vững niềm tin nơi chính mình, từ đó chúng ta có thể
tự mình đứng lên, vượt qua số phận một cách dễ dàng sau khi vấp ngã. Người trí
thì không cần nương tựa vào ai, mà tự mình chiêm nghiệm quán xét để không bị
rơi vào dòng đam mê tội lỗi. Còn người đang bị mê lầm chưa đủ niềm tin, thì
phải nương thầy lành bạn tốt, tránh xa bạn bè xấu ác và được sự hổ trợ đắc lực
của gia đình, thì mới có thể làm mới lại cuộc đời. Chính bản thân chúng tôi đã
nhiều lần bị vấp ngã, khi chưa gặp Phật pháp, mặc dù đã cố gắng quyết tâm hết
sức mình, để vượt qua những lỗi lầm nhưng không thể nào vượt qua nỗi. Khi chưa
gặp duyên xấu thì không sao, nhưng khi gặp rồi thì chứng nào tật nấy, như ngựa
quen đường cũ khó mà dứt ra. Đây chính là tập khí nhiều đời của chúng ta đã
từng huân tập. Tập là tập quen được lặp đi lặp lại nhiều lần, từ những ý nghĩ,
lời nói rồi hành động, bởi vì huân tập lâu ngày nên nó có sức mạnh chi phối và
sai sử ta chạy theo thói quen đó. Từ vô thủy kiếp đến nay, ai cũng từng luân
hồi vô số kiếp nên chất chứa nhiều thói quen tật xấu, muốn thay đổi và chuyển
hóa chúng, ta phải có thời gian dài quán chiếu xem xét và tu tập thì mới có thể
buông bỏ được.
Thực tế chúng tôi không phải
là người hay ho tài giỏi gì, nhờ nhân duyên nhiều đời đã gieo trồng phước đức,
nên ngày nay hội đủ nhân duyên mới gặp được thầy lành, bạn tốt. Và chúng ta đi
khắp cả thế gian này không ai tốt bằng mẹ. Mẹ là người đã giúp chúng tôi vượt
qua cạm bẫy cuộc đời để gặp được Tam bảo. Nếu ai bây giờ còn mẹ, đó là một
phước báo to lớn vô cùng, vì còn có cơ hội hiếu kính phụng dưỡng báo đáp công
sinh thành dưỡng dục, của hai đấng sinh thành nhất là ơn mẹ rất khó đền!
Nhờ mẹ tôi biết đường tu,
Nếu không có mẹ tôi giờ ra sao?
Cũng nhờ có được mẹ hiền,
Tôi vào cửa Phật tu hành đến nay.
Tình thương của mẹ đối với tôi thật là cao cả
và quý báu, dù tôi tu có thành Phật đi chăng nữa cũng không thể nào trả hết
công ơn của mẹ. Trong cuộc đời này, tôi không thể nào kiếm đâu ra được như
người mẹ của tôi bây giờ, bà như hiện thân bồ tát Quán Thế Âm đi vào đời để cứu
giúp chúng sinh. Nơi nào có khổ đau là nơi đó có Bồ tát, hơn nữa đời người, tôi
làm khổ mẹ quá chừng vậy mà khi tôi gặp nạn, hoặc lường gạt ai, bà sẵn sàng đền
bù tất cả, để giúp tôi vượt khỏi vòng lao lý. Ngày nay tuy tôi được an ổn tu
hành, nhưng vẫn không có nhiều cơ hội để được chăm sóc mẹ trong khỏang đời còn
lại.
Ngược lại, bà lúc nào cũng
thương tưởng nhớ đến tôi, luôn hỏi thăm các em tôi coi thầy Phổ Giác lúc này có
còn tu nữa hay không? Một hôm vì muốn thăm tôi, bà nói gạt với mấy đứa em có
người nói tôi ra đời để có cớ lên Thường Chiếu, khi gặp tôi bà cười hì! hì! Ra
chiều thoải mái lắm, mặc dù bà đang bệnh phải đi xe lăn. Tấm lòng của mẹ đối
với tôi thật là bao la và cao cả! Tôi không biết phải lấy gì, để đền đáp hết
công ơn mẹ, chỉ thầm nguyện trong lòng cố gắng tu hành viên mãn, để cùng mẹ đi
trên con đường giác ngộ.
Trên thế gian này, chắc có lẽ
không có tình yêu thương nào thiêng liêng và cao quý hơn tình mẹ. Từ khi mở mắt
chào đời mẹ đã mớm sửa cho con và nâng niu che chở bằng lời ru tiếng hát ngọt
ngào, để con yên giấc ngủ. Mẹ vẫn âm thầm thức khuya dậy sớm, không quản ngại
thân gầy, để lo cho con từ miếng ăn giấc ngủ, chiến cơm manh áo, mong con được
mau khôn lớn. Đôi lúc mẹ vì con trẻ, mà chịu nhiều gian lao cực khổ và thậm chí
chấp nhận gây tạo tội lỗi, để giúp cho con được an vui hạnh phúc. Khi con chập
chững biết đi, mẹ vui mừng và sung sướng. Đến lúc con trưởng thành mẹ lo cho
con ăn học, xây dựng tương lai sự nghiệp, dựng vợ gã chồng để đắp xây hạnh phúc
gia đình. Ôi, tình mẹ thật là cao cả và sâu nặng. Mẹ đã hy sinh cho con suốt cả
cuộc đời, mà không nghĩ đến bản thân. Ai còn mẹ hãy nên biết ơn và đền ơn, đừng
để mẹ buồn, mẹ khổ.
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ.
Tần tảo sớm hôm, mẹ nuôi con khôn lớn.
Bao bọc chở che, khi con gặp hoạn nạn.
An ủi vổ về, khi con phải đi xa.
Mẹ vẫn bên con, dù biển cạn núi mòn.
Gánh nặng cuộc đời, mẹ mang cả hai vai.
Ai còn mẹ, xin đừng làm mẹ buồn khổ.
Không có mẹ, con đã ra người thiên cổ.
Mẹ là cả bầu trời, thương yêu dịu ngọt.
Mẹ là cả bầu trời, che mát cho con.
Quả thật đi hết trái đất
này, tôi không thể tìm ra được người mẹ nào, như mẹ tôi bây giờ. Mẹ đã cho tôi
tất cả, để được bình yên tận cõi lòng, tôi thầm cám ơn mẹ và quyết chí tu hành
để đền đáp công ơn mẹ. Thật ra bà không chỉ thương mình tôi, mà tám anh em tôi,
bà cũng đều thương yêu như nhau! Đứa làm ăn nên ra bà cũng thương, đứa nghèo
khổ bà càng thương hơn và có những đứa chỉ làm hại hòan tòan như tôi bà vẫn
thương, nhờ tình thương của mẹ, đã giúp cho tôi vươn lên chính mình vượt qua số
phận tối tăm. Ai bây giờ còn mẹ, thì hãy hết lòng hiếu dưỡng không một phút
giây nào xao lãng, đừng để khi mẹ ra đi rồi mới tiếc núôi thương xót mẹ hiền,
thì hãy nên xem xét lại. Nhiều người khi cha mẹ còn sống không cung phụng cấp
dưỡng chu đáu, chờ đến khi chết mới làm đám linh đình nói là báo hiếu cha mẹ.
Người thật tâm cung kính và có hiếu là phải biết lo khi cha mẹ còn sống, giúp
cha mẹ an vui hạnh phúc khi tuổi già. Khi xưa chúng tôi hiểu biết sai lầm, nên
hơn nữa đời người sống trong đau khổ lầm mê. Nhờ mẹ đã giúp cho tôi vượt qua
vũng bùn tội lỗi. Thất chí, bất mãn, buông lung, liều lĩnh, nghiện ngập, si dại
trong đam mê tội lỗi và cuộc đời của tôi nếu không có mẹ bây giờ ra sao?
Ngày nay nhờ tắm mình trong
giáo pháp chư Phật, được sự trực tiếp chỉ dạy của chư hiền Thánh tăng, trên có
Hòa Thượng Trúc Lâm tôn sư là vị Phật sống. Thầy chúng tôi là Bồ tát tái lai
trụ trì Thiền viện Thường Chiếu, viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức với số
chúng Tăng ni hơn cả ngàn người. Trên một ngàn là thiện hữu tri thức, còn tôi
chỉ là hàng sơ cơ học đạo đang từng bước chập chững trên con đường Phật đạo,
như người chết đi sống lại được Phật pháp cứu vớt, với chút kinh nghiệm bản
thân, chúng tôi có đôi lời tâm tình xin gởi đến các pháp lữ gần xa, những ai
còn đang mải mê đắm say trong dòng sông tội lỗi, xin hãy cùng chúng tôi vượt
qua cạm bẫy cuộc đời?
Trong khoảng thời gian bị
đam mê nghiện ngập và nợ nần chồng chất không có khả năng chi trả, bế tắc khổ
đau cùng cực, lại bị sự hăm dọa của chủ nợ. Chúng tôi lo sợ, khủng hoảng không
biết làm cách nào, cùng đường đành nghĩ đến giải pháp chết là hết cho xong
chuyện, nghĩ vậy rồi tôi liền trở về nhà thăm mẹ lần cuối. Nhờ vậy tôi được mẹ
khuyên đi tu và mẹ tôi đã khẳng định đi tu sướng lắm con ơi. Lúc đó tôi nghĩ
thầm trong bụng đi tu làm sao sướng, đi tu khổ thấy bà. Ấy thế mà, lời khuyên
của mẹ đã rót vào tim tôi lúc nào không hay, tôi tự suy nghĩ lại, đi tu để khỏi
phải chết, may ra còn chút hy vọng. Đêm hôm đó tôi thầm cảm ơn mẹ, nếu không có
mẹ giờ đây tôi đã bị đọa lạc vào chốn địa ngục a tỳ. Làm gì hôm nay có thời
gian để cùng chia sẻ với các pháp lữ gần xa một chút tâm tình.
Con tu là nhờ mẹ
Cả cuộc đời thương con
Không quản ngại thân gầy
Công ơn mẹ khó đền.
Mẹ là ánh trăng soi
Xóa tan bao phiền muộn
Mẹ cho con tất cả
Bình yên tận cõi lòng.
Nhờ có môi trường tốt như thế, nên
tôi từng bước cố gắng vượt qua những thói quen xấu một cách dễ dàng và tu học
cho đến bây giờ. Con người có đầu mình và hai tay, hai chân để lao động, làm
việc, phục vụ, dấn thân, vì lợi ích nhân loại. Lao động để thấu rõ sự nhọc nhằn
của đàn na tín thí, họ nhín ăn bớt mặc để cúng dường Tam bảo mong Tam bảo luôn
được trường tồn ở thế gian này để chúng sinh có nơi nương tựa và tu học. Nhờ có
lao động mà chúng ta cảm thông được từ con người cho đến muôn loài, nếu muốn
bảo tồn sự sống thì phải nương nhờ lẫn nhau. Để có cơm ăn, áo mặc con người làm
tổn hại không biết bao loài vật khác. Lao động như ăn cơm, học hỏi như uống
nước, tu sữa như hơi thở, lao động là lẽ sống thiết thực để phục vụ đời sống
cho con người, lao động đem lại giá trị đóng góp giúp cho con người ổn định nhu
cầu ăn mặc ở ngủ nghĩ được chu đáo. Lao động để hiểu được giá trị đích thực của
nó, để bào tồn sự sống, để được đóng góp và phát triển trong tình yêu thương
nhân loại và muôn loài.
Con người nếu không có lao
động sẽ không tồn tại, vì không đáp ứng đủ nhu cầu sự sống. Ngoài ra lao động
còn là phong cách rèn luyện cho cơ thể được điều hòa, làm cho tinh thần được
minh mẫn sáng suốt. Trong lúc lao động, chúng ta vẫn áp dụng tu tập được bằng
những phương pháp trì niệm và lao động là một nhu cầu sống không thể thiếu
trong xã hội. Nhờ lao động chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông sự nhọc nhằn cực khổ
của nhiều người vì miếng cơm manh áo, vì sự sống của thân này mà chúng ta làm
tổn hại biết bao loài vật khác, do đó mọi người cố gắng tu hành không dám ỷ
lại.
Kho tàng vô giá của con người là
nhờ làm việc, lao động, phục vụ, dấn thân vì cộng đồng xã hội nhờ vậy nhân loại
mới tồn tại. Nếu chúng ta sống trên cõi đời này mà không biết siêng năng, cần
mẫn và bằng bàn tay khối óc luôn làm việc không biết mệt mỏi, thì làm sao tìm
được kho tàng vô giá nếu không có sự tinh cần nổ lực lao động. Thiếu nó chúng
ta dễ rơi vào sự hưởng thụ quá độ và làm băng hoại nhân cách đạo đức của con
người, để rồi phải rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi.
Trong cuộc sống, muốn thăng tiến
trên con đường công danh sự nghiệp để trở thành người hiền tài đóng góp cho xã
hội, thì mọi người phải cố gắng ra sức học tập rèn luyện tu dưỡng đạo đức.
Học để biết lời Phật dạy, để biết
được điều hay lẽ phải, biết được nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc, nhân nào
dẫn đến sa đọa khổ đau. Cái hay đạo Phật là khi nghe lời dạy của ngài không bắt
buộc chúng ta phải tin liền, mà cần phải có thời gian quán xét chiêm nghiệm, tư
duy cho đến khi nào thấy được lợi ích thiết thực rồi mới tin. Tin như vậy là
tin sâu, tin khi trí tuệ đã được phát sinh. Trong nhà Phật thường dạy: Muốn
thấu rõ chân lý thì phải văn tư tu, văn là nghe lời Phật dạy, sao khi nghe thì
phải suy tư quán chiếu, tìm tòi nghĩa lý sâu xa của nó, rồi tu là biết cách
dừng những nghiệp xấu ác, chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc. Nên có bài
thơ rằng:
Lỗi lầm sám hối ăn năn
Lấy làm hổ thẹn nguyện hằng sửa sai.
Trong tâm nở một nụ cười
Sống trong tỉnh giác tương lai sáng ngời.
Và trong cuộc đời,
Nếu ai chỉ lỗi cho mình
Hãy nên kết làm tri kỷ
Bởi có bạn hiền như thế
Luôn làm tốt thêm cho ta.
Vâng, ít nhất trong cuộc đời ai cũng có thể có
một lần lầm lỗi, nhưng được người chỉ lỗi quả thật là điều hiếm có, đa phần
chúng ta sống đắc nhân tâm nhiều hơn, do đó kiếm bạn đồng hành rất khó, vì sự
thật mất lòng? Trong cuộc sống nếu chúng ta không có bạn hướng thượng, thà chấp
nhận sống một mình còn hơn. Người xưa thường nhắc nhở con cháu phải biết chọn
bạn mà chơi. Bạn bè khá quan trọng ảnh hưởng đến việc nên hư thành bại của đời
người. Nhiều người công thành danh toại, nhờ biết quan hệ tốt với bạn bè thân
hữu. Nhưng có một số người tán gia bại sản, thân bại danh liệt vì kết thân với
một số bạn bè xấu. Trong kinh Phật dạy: Nếu không tìm được người hơn mình, hoặc
ngang với mình, thà quyết sống một mình, chớ không nên kết bạn với người thấp
kém hơn.
Ai trong chúng ta chưa thật
sự giác ngộ, giải thoát, thì hãy nên dè dặt chọn bạn mà chơi. Bởi vì giữa dòng
đời nghiệt ngã tôi và bạn có thể gặp nhau, nếu hai người cùng đi chung con
đường hướng thượng cùng nhau sẻ chia những nỗi khổ niềm đau và chan hòa tình
yêu thương. Bạn và tôi là chỗ trú ẩn cho nhiều người nương tựa. Có được một
người bạn tốt như vậy, quả thật chúng ta sẽ có một cuộc sống hết sức tuyệt vời.
Còn ngược lại thì sao? Sẽ cùng nhau rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi và chúng
ta sẽ chấp nhận một cuộc đời đen tối. Ai cũng có ước mơ đáng quý và trân trọng
hết, nhưng vì lỡ lầm chọn bạn mê muội, nên đành chôn vùi cuộc đời trong tối tăm
mờ mịt. Và tôi và bạn sẽ nối kết tình thân với nhau trong một duyên tình cờ, để
rồi chúng ta cùng nhau kết nối tình yêu thương và sẻ chia những nỗi khổ niềm
đau trong cuộc sống. Chân thành
thay!
Tôi có ngã, để cùng người thông cảm.
Đem tình thương, chia sẻ đến nhiều người.
No comments:
Post a Comment