Not
the Preferred Way to Commit Suicide in "Overthrow"
by Stephen Kinzer - Người Dịch: Trần Thanh
Lưu
Stephen Kinzer là một nhà văn và cũng là nhà
báo Mỹ. Ông là một cộng tác viên kỳ cựu của báo New York Times, từng tác
nghiệp trong hơn 50 nước trên 5 châu lục. Trong thập niên 1980’, ông đã từng
làm phóng sự về các cuộc cách mạng và biến động tại Trung Mỹ. Vào năm 1990,
ông được thăng chức Trưởng Nhiệm sở tại Berlin và viết về sự biến dạng của
các nước Đông Âu sau cuộc cách mạng nhung. Ông cũng đã là Văn phòng trưởng
của New York Times tại Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) từ 1996 đến 2000.
Hiện nay, ông dạy tại về Báo chí và Chính
sách Ngoại giao Mỹ tại đại học Northwestern University, bang Illinois. các
tác phẩm đã xuất bản của ông là Bitter Fruit : The Story of the American Coup
in Guatemala, với Stephen Schlesinger ; (Doubleday, 1982) ; Crescent
and Star : Turkey Between Two Worlds, (Farrar, Strauss and Giroux, 2001)
; All the Shah's Men : An American Coup and the Roots of Middle East Terror, (John
Wiley & Sons, 2003) ; Overthrow : America's Century of Regime Change
from Hawaii to Iraq, (Times Books, 2006) ; Blood of Brothers : Life
and War in Nicaragua, with a new afterword, (Harvard University Press,
2007) ; A Thousand Hills : Rwanda's Rebirth and the Man Who Dreamed It, (John
Wiley & Sons, 2008) - [Theo Wikipedia]
Dưới đây là trích đoạn từ Chương 7 của Cuốn
“Lật Đổ” (Overthrow, Times Book, New York City, 2006) đề cập
đến vai trò của Mỹ, nhất là thái độ không đứt khoát của Tổng thống Kennedy vì
lập trường thiếu thống nhất của các phụ tá, trong cuộc lật đổ chính quyền Ngô
Đình Diệm của quân dân miền Nam..
Các cơ quan thông tấn chẳng bao giờ ngủ nên
không lạ gì khi Malcolm
Browne, phóng viên của Associated Press ở Sài Gòn, vẫn còn làm việc
khi điện thoại văn phòng của mình reo lên vào tối ngày 10 Tháng 6 năm 1963.
Người gọi là (Thượng tọa) Thích Đức Nghiệp, một nhà sư Phật giáo mà
Browne đã quen biết trong khi tác nghiệp về các cuộc xung đột leo thang giữa
Phật giáo đồ và chính quyền do Công giáo-thống trị ở miền Nam Việt Nam. Ông
nói với Browne rằng bất cứ ai xuất hiện tại chùa Xá Lợi sáng hôm sau sẽ chứng
kiến “một sự kiện quan trọng”.
Tối hôm ấy, nhà sư đã gọi vài phóng viên
nước ngoài khác với cùng một thông điệp. Chỉ có Browne coi đó là nghiêm túc.
Ông đã viết nhiều về cuộc nổi dậy của Phật giáo lan rộng và cảm nhận rằng nó
sẽ có thể định hướng tương lai của Việt Nam. Trước bình minh sáng hôm sau,
ông và trợ lý người Việt khởi hành đến chùa. Họ thấy chùa đông nghẹt các nhà
sư trong tăng bào màu vàng nghệ và ni chúng với áo màu lam. Không khí bên
trong đã nóng, ngột, và ngào ngạt mùi hương. Khói cuồn cuộn bay lên từ hàng
trăm lò hương. Chư tăng ni lắng mình trong tiếng niệm kinh.
Browne chọn một chỗ ngồi. Một trong những ni
cô đến gần ông, và trong khi bà rót trà, ông có thể nhìn thấy dòng nước mắt
chảy xuống trên mặt bà. Một vài phút sau đó, TT. Thích Đức Nghiệp trông thấy
ông và đến gần. Ông có một đề nghị đơn giản: đừng vội rời “cho đến khi sự
kiện kết thúc”.
Browne ngồi giữa cảnh này khoảng nửa giờ.
Đột nhiên, theo một hiệu lệnh, các tăng ni ngừng tụng kinh, đứng dậy, và
nghiêm trang theo nhau ra khỏi chùa và kết thành một hàng bên ngoài. Họ tập
hợp phía sau một chiếc ô-tô Austin cũ chở năm nhà sư và họ đi theo chiếc ô-tô
qua các đường phố. Đoàn người dừng ở nơi giao lộ của hai đường Phan Đình
Phùng và Lê Văn Duyệt, một trong những con đường lớn của thành phố. Những
người biểu tình làm thành một vòng tròn để chặn tất cả các lối vào.
Ba nhà sư bước ra khỏi chiếc xe, một vị cao
niên được nâng đở bởi những vị khác. Những vị sư trẻ đặt một đệm vuông trên
mặt đường tại trung tâm giao lộ và giúp vị sư già yên vị theo kiểu ngồi kiết
già tòa sen. Trong khi ngài lần hạt và lâm râm niệm danh hiệu thiêng liêng A
Di Đà Phật, “Vãng Sanh Cực Lạc”, họ lấy một thùng xăng từ xe và tưới một hỗn
hợp xăng màu hồng-và-diesel lên ngài. Sau khi họ bước xa ra, ngài cầm một hộp
diêm, quẹt lên rồi thả xuống đùi mình. Ngay lập tức, lửa ôm trọn ngài.
Trình tự cuộc Tự thiêu của HT Thích Quảng
Đức được Malcome Browne chụp ảnh và sắp xếp lại (đánh số từ 1 đến 9) – World
Press Photo 1963
Lưu ý hình số “2” : Ngồi trên vũng xăng lênh
láng, Hòa thượng Thích Quảng Đức bắt đầu tự mình bật que diêm cho lữa bùng
lên (trong hình số “3”)
Khi gió thổi ngọn lửa khỏi mặt ông ta, tôi
có thể thấy rằng mặc dù đôi mắt nhắm kín, nét mặt của ông bị méo mó bởi nổi
đau đớn cùng cực. Nhưng trong suốt cuộc thử thách của mình, ông không bao giờ
thốt lên một tiếng hoặc thay đổi vị trí của mình, ngay cả khi mùi thịt cháy
lan đầy không khí. Một tiếng kêu van kinh hoàng từ đám đông, và tiếng tụng
kinh rời rạc từ vài nhà sư vì bị gián đoạn bởi tiếng la khóc của nỗi đau đớn.
Hai nhà sư trương ra một biểu ngữ lớn bằng vải (viết tiếng Anh), “Một Nhà Sư
Tự Thiêu cho Các Đòi Hỏi của Phật giáo”.
Choáng váng bởi những gì ông đã nhìn thấy,
như một phản xạ Browne bấm máy ảnh liên tục. Sau một vài phút, một xe chửa
lửa và nhiều xe cảnh sát với còi hú xuất hiện, nhưng những người biểu tình
nằm ngay ở phía trước các xe nầy và bám vào bánh xe nên xe không thể tiếp cận
được với giàn thiêu. Nhanh chóng ngọn lửa bắt đầu dịu dần. Khi lửa tàn, vài
nhà sư đã xuất hiện với một quan tài bằng gỗ và cố gắng nâng xác chết của
người đàn ông đặt vào đó. Tay chân của ông đã trở nên cứng ngắt. Chiếc quan
tài đã được mang về chùa Xá Lợi, cả hai cánh tay ló ra ngoài. Một cánh còn
bốc khói.
Những tấm ảnh của Browne về nhà sư tự thiêu
đã làm choáng váng mọi người trên thế giới. Ngày hôm sau, một vị khách thăm
Phòng Bầu Dục nhận thấy rằng Tổng thống John F. Kennedy đã có một xấp ảnh nằm
trên bàn làm việc của ông. Hình như chúng tượng trưng cho sự tan rã của miền
Nam Việt Nam và sự bất lực của tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong vài tháng kế
tiếp, những hình ảnh này đã giúp thúc đẩy chính quyền Kennedy hướng về một
quyết định trọng đại. Diệm đã mất sự tin tưởng của của chính quyền (Mỹ) và sẽ
bị lật đổ.
۞۞۞
Đất nước Việt Nam xanh tươi, uốn lượn như
đuôi rồng dọc theo bờ biển ngoằn ngoèo của Đông Dương, đã trở thành một thuộc
địa của Pháp vào thế kỷ XIX. Nhiều thế hệ của các gia đình người Pháp đã xây
dựng cuộc sống ở đấy, khai khẩn rừng thành những đồn điền cao su và biến Sài
Gòn, thủ đô, thành một tiền đồn thuộc địa lạ kỳ. Trong những năm hỗn loạn sau
khi Thế Chiến II, tinh thần dân tộc và chống thực dân bùng lên ở Việt Nam
cũng như nó đã nổ ra tại những vùng đất xa xôi như Iran và Guatemala. Nhiều
nhà lãnh đạo nước ngoài đã không nhận ra sức mạnh của tinh thần đó. Kẻ đại
cận thị lại là người Mỹ. Sự mù lòa của họ sẽ dẫn Hoa Kỳ đến sự thất bại quân
sự lớn nhất trong lịch sử của nó
Nhật Bản đã chiếm đóng và kiểm soát Việt Nam
trong chiến tranh thế giới. Một đoàn quân du kích Việt Minh, đã tiến hành
chiến tranh du kích chống lại kẻ chiếm đóng, sử dụng vũ khí (và thuốc lá) do
Mỹ thả xuống. Sau khi Nhật đầu hàng, nhà lãnh đạo đảng, ông Hồ Chí Minh, một
người trông có vẻ yếu đuối khoảng 50 tuổi với một bộ râu mỏng, quyết định
rằng đã đến lúc phải tuyên bố nền độc lập của nước ông. Ngày 2 tháng 9 năm
1945, trước một đám đông lớn tại phía bắc thành phố Hà Nội, ông đã đọc một
bài tuyên ngôn mà bất kỳ người Mỹ nào cũng cảm thấy quen thuộc.
Ông tuyên bố “Tất cả mọi người đều sinh ra
có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc.”
Theo bản năng, ông Hồ nhắm đến Hoa Kỳ, một
phần vì ông có điều mà theo một nhà sử học gọi là “cả đời ngưỡng mộ người Mỹ”
và một phần vì ông có ít đồng minh khác. Nước Pháp, quyết định tái lập quyền
thống trị cũ của họ tại Việt Nam, từ chối công nhận chính phủ mới của ông.
Nước Anh, vốn sợ tấm gương của Việt Minh sẽ có ảnh hưỡng đến các thuộc địa
riêng của mình, cũng phản đối ông. Lãnh đạo cộng sản tại Trung Quốc và Liên
Xô lo sợ chủ nghĩa dân tộc của ông. Thật là hợp lý khi ông hướng về
Washington để mong được giúp đỡ.
Tất cả nỗ lực của ông Hồ để thu hút sự hỗ
trợ của Mỹ, trong đó bao gồm việc gửi thư đến tổng thống Harry Truman và
Tướng George Marshall, tỏ ra vô hiệu quả. Người Pháp đã tái lập vai trò cũ
của mình tại Việt Nam. Dần dần ông Hồ nhận ra rằng nếu ông muốn làm cho đất
nước của mình thực sự độc lập, Việt Minh đành sẽ phải tham gia cuộc chiến
tranh khác, lúc này chống lại thực dân Pháp. Cuộc chiến đạt đến đỉnh điểm khi
Dwight Eisenhower đảm nhận chức tổng thống năm 1953.
Toán Biệt kích OSS của Mỹ với hai ông Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp tại Tân Trào vào tháng 8 năm 1945 - Việt Minh chiếm cứ
điểm Điện Biên Phủ của Pháp vào tháng 5 năm 1954.
Lúc bấy giờ, người Pháp đã bị tả tơi sau bao
năm chiến đấu chống du kích Việt Nam. Họ kết luận, với nỗi đau lớn, là họ
phải từ bỏ thuộc địa lộng lẫy của họ và mong cầu hòa bình. Đầu năm 1954, các
nhà đàm phán của Pháp và Việt Minh đã gặp gở tại Geneva. Các nhà đàm phán từ
Trung Quốc, Liên Xô, Anh, và Hoa Kỳ cũng có mặt tại đấy. Bộ trưởng Ngoại giao
Dulles cầm đầu đoàn đại biểu Mỹ. Một nhân vật có tầm vóc ít nhất cũng ngang
bằng, ông Chu Ân Lai, đại diện Cộng sản Trung Quốc. Dulles vốn coi chế độ
Trung Quốc chẳng khác gì ác quỷ, và khi một phóng viên hỏi liệu ông sẽ gặp
ông Chu, ông Dulles trả lời lãnh đạm : “Không, trừ khi xe ô tô của chúng tôi
đụng nhau”.
Dulles đến Geneva hy vọng ngăn chặn một thỏa
thuận. Ông đã thành công rất ít trong việc nầy, và rời khỏi nơi ấy sau một
tuần. Không lâu sau đó, các nhà đàm phán còn lại đồng ý một sự phân vùng tạm
thời của Việt Nam dọc theo vĩ tuyến 17. Cộng sản sẽ kiểm soát ở phía bắc và
có thủ đô tại Hà Nội. Cựu đồng minh của Pháp sẽ thành lập một chính phủ riêng
ở phía nam, với thủ đô tại Sài Gòn. Sẽ có các cuộc bầu cử toàn quốc trong hai
năm, sau đó miền Bắc và miền Nam sẽ được tái hợp. Trong khi chờ đợi, ngoại
quốc không được gửi vũ khí hoặc quân đội vào bất cứ bên nào của Việt Nam.
Pháp chấm dứt nền cai trị của mình ở Việt
Nam với một buổi lễ thích nghi lặng lẽ. Vào ngày 9 tháng mười 1954, dưới một
bầu trời mưa, một nhóm nhỏ các binh sĩ tập hợp quanh một cột cờ tại Sân vận
động Hà Nội và hạ lá cờ tam tài xuống. Một lính kèn thổi vài điệu sầu thảm.
Không có bài hát hoặc bài phát biểu. Trong vòng tám năm chiến tranh không
chính đáng, Pháp bị tổn thất thảm hại với 44.967 người chết và 79.560 người
khác bị thương.
Rất ít người ở Hà Nội biết đến buổi lễ. Họ
đã quá bận rộn chuẩn bị đón đoàn quân Việt Minh chiến thắng của họ. Những
ngày sau khi Pháp rút lui ; 30.000 quân du kích diễn hành vào thành phố.
Chiến thắng của họ chưa hoàn thành, bởi vì Việt Nam đã bị chia đôi, nhưng sự
phân chia chỉ có hai năm thôi. Ông Hồ Chí Minh đã gây ra một cuộc bại trận
kinh hoàng cho kẻ thù giàu mạnh hơn nhiều. Ông là người nổi tiếng nhất của
đất nước. Nhiều người Việt cho rằng qua cuộc bầu cử năm 1956, ông sẽ được
chọn để lãnh đạo đất nước của họ.
Ngoại trưởng Dulles đã làm mọi cách mà ông
có thể làm để giữ cho Pháp lưu lại tại Việt Nam, nhưng họ vẫn quyết định ra
đi. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông ta chịu ngồi yên khi các cử tri
Việt bầu một người Cộng sản để lãnh đạo đất nước thống nhất của họ. Ông không
bao giờ xét tới khả năng tìm kiếm một cuộc hòa giải với ông Hồ. Thay vào đó,
ông ta đã ra tay phá bỉnh hiệp định Geneva bằng cách làm cho sự chia cắt đất
nước trở thành vĩnh viễn.
Chỉ đạo dự án này đầy tham vọng này, Dulles
đã chọn Đại tá Edward Lansdale, chuyên gia chống phản loạn thành đạt nhất của
Mỹ vào thời đó. Lansdale đã giành một chiến thắng lớn trong việc đập tan quân
du kích ở Philippines, hợp tác với một nhà lãnh đạo người Phi nói được tiếng
Anh, Ramon Magsaysay mà ông đã lôi ra từ chỗ vô danh, tài trợ rộng rãi, điều
động leo qua các cấp chính trị, và cuối cùng đặt vào ghế tổng thống. Ông cần
cùng loại đối tác cho dự án Việt Nam của ông. Có một kẻ đang chờ đợi.
Ngô Đình Diệm là một người sùng đạo Công
giáo, xuất thân theo một con đường quan lại Việt Nam khá dài. Ông đã học về
hành chính công cộng [Ghi chú của người dịch : từ trường Hậu Bổ], ở tuổi 30,
đã làm Thượng thư Bộ Lại trong nội các thân Tây của Hoàng đế Bảo Đại. Về sau
ông nghiêng về nền độc lập nhưng vì do việc chống Chủ nghĩa Cộng sản mạnh mẽ
của mình mà ông đã từ chối tham gia Việt Minh. Năm 1950, ông du hành tới Mỹ,
nơi ông đã dành hai năm sống một cuộc sống tu sĩ ẩn dật tại chủng viện
Maryknoll tại Lakewood, New Jersey, và Ossining, New York. Ông cũng đã có
nhiều cuộc tiếp xúc chính trị quí giá. Thông qua sự trung gian của kẻ chống
Cộng hung hản là Hồng y Francis Spellman, ông đã gặp các viên chức Bộ Ngoại
giao và các thành viên có ảnh hưởng của Quốc hội. Spellman đã đặc biệt giới
thiệu ông đến các chính trị gia Công giáo, trong đó có Thượng nghị sĩ John F.
Kennedy của Massachusetts.
Khi người Mỹ phải tìm ra một người Việt Nam
để thực hiện cuộc đấu thầu của họ tại Sài Gòn, ông Diệm là một trong số ít
người mà họ biết đến. Lúc bấy giờ, ông là một người độc thân đẩy đà béo tốt
53 tuổi, sống ẩn dật tại một tu viện Benedictine tại Bỉ. Dulles và Lansdale
chưa hề gặp qua ông ta, nhưng Lansdale bảo chứng cho lập trường chống-Cộng
sản đáng tin cậy của ông ta, và đó là tất cả những gì Dulles cần nghe. Nước
Pháp không có ứng cử viên nào tốt hơn để đề nghị. Cả Hoàng đế Bảo Đại dễ sai
bảo đang sống tại Cannes cũng chẳng có ai. Vài tháng trước khi quân Pháp rút
đi, ông Diệm đã được đánh bóng cho hợp lệ. Ông đã bay từ Paris đến Sài Gòn,
và nhậm chức thủ tướng vào ngày tốt mà người Á đông gọi là ngày “song thất”,
ngày thứ bảy của tháng thứ bảy, ngày 7 tháng 7 năm 1954.
Lansdale đã cho ông Diệm một vài ngày để ổn
định, và sau đó đã đến gặp ông tại Dinh Gia Long hoa lệ, trước đây là nơi cư
trú của thống đốc Pháp. Rảo bộ xuống một trong các hành lang của dinh nầy,
ông đã đụng vào cái mà sau này ông mô tả là “một người đàn ông tròn trịa
trong bộ âu phục màu trắng”, và hỏi xem Thủ tướng Chính phủ Diệm đang ở đâu.
Người đàn ông trả lời rằng “Tôi chính là
Diệm đây”.
Đại tá CIA Edward Lansdale và ông Diệm tại
Sài Gòn vào năm 1955
Đó là bước khởi đầu của một cuộc hợp tác
dài, bất hạnh mà Lansdale đã che chở cho Diệm, và trong vòng một vài tháng đã
cứu ông ta khỏi hai cuộc mưu toan đảo chính, mà một cuộc đã bị dập tắt bằng
cách hối lộ các nhà lãnh đạo phiến quân với 12 triệu đô-la của CIA.
Sau đó, ông đã phát động các chiến dịch chống Cộng sản mà Dulles đã gửi ông
đến để tiến hành.
Các chiến thuật của Lansdale bao gồm từ phá
hỏng các chiếc xe buýt của thành phố Hà Nội cho đến mua chuộc thầy bói để tiên
đoán sự khổ ải dưới nền cai trị của Cộng sản. Một trong những kế hoạch lớn
nhất của ông là giúp lập ra một cuộc di cư của hàng trăm ngàn giáo dân Công
giáo từ Bắc vào Nam, thúc giục họ phải bỏ chạy với một chiến dịch gồm thông
điệp phát thanh tuyên bố “Chúa Kitô đã đi vào Nam” và “Mẹ Maria đã rời miền
Bắc”. Những điều này không gây ra được cuộc nổi loạn mà Lansdale đã dự kiến,
và với mỗi ngày trôi qua, cuộc bầu cử cả nước càng đến gần hơn. Mọi người đều
nhận ra rằng nó sẽ đưa ông Hồ, người cha già dân tộc lên làm tổng thống của
một nước Việt Nam thống nhất. Eisenhower đã đoán rằng “có thể là tám mươi
phần trăm dân số” sẽ bầu cho ông Hồ. Điều này đặt cho người Mỹ một vấn nạn
nghiêm trọng. Khi một phụ tá mang đến Bộ trưởng Ngoại giao Dulles một điện
văn từ ông Diệm đề nghị một lối thoát, ông đã đọc nó ngay lập tức.
“Ông ta ngồi rất yên lặng”, Paul Kattenburg
Chánh Sự Vụ chuyên trách Việt Nam của Bộ Ngoại giao nhớ lại. “Chúng tôi đều
ngồi rất lặng lẽ. Tôi có thể nhớ lại rõ rệt tiếng tích tắc của cái đồng hồ
treo tường, và hơi thở nặng nề của ông ta khi ông đã đọc xong tờ giấy – quay
sang chúng tôi, một ít người trong chúng tôi đã có mặt tại cuộc họp đó, và
nói rằng, ‘Tôi không tin Diệm muốn tổ chức bầu cử, và tôi tin rằng chúng ta
nên hỗ trợ ông ta trong vụ này.’”
۞۞۞
Việt Nam dự trù bị chia đôi chỉ trong hai
năm mà thôi. Điều ấy đã bị thay đổi sau khi ông Diệm và Dulles quyết định
không tổ chức cuộc bầu cử năm 1956 theo lịch trình. Không có cuộc bầu cử thì
không thể có sự thống nhất. Thay vào đó là hai quốc gia mới ra đời: Bắc Việt
Nam và Nam Việt Nam.
Vào cuối năm 1955, sau một cuộc trưng cầu
dân ý mà, theo một phúc trình, ông đã giành được 98,2 phần trăm số phiếu, ông
Diệm đã lật đổ vua Bảo Đại và tự phong mình làm quốc trưởng. Ông đã sử dụng
quyền lực mới của mình để áp đặt một bản hiến pháp cho ông được toàn quyền
[cai trị]. Trong khi ông Hồ cai trị miền Bắc Việt Nam theo phong cách truyền
thống Cộng sản, thông qua một bộ chính trị gồm các đồng chí tin cậy, ông Diệm
đã lập một bộ chính trị của riêng mình, lấy từ những bà con thân tín. Họ trị
vì đất nước như là một gia đình.
Người em trai nhỏ nhất của ông Diệm, Ngô
Đình Cẩn, không nắm giữ chức vụ chính thức nào nhưng đã cai trị miền Trung
Việt Nam như một lãnh chúa phong kiến. Anh trai trưởng, Ngô Đình Thục, là một
tổng giám mục Công giáo và cũng là một nhà kinh tài tham lam đã làm giàu bằng
cao su, gỗ, và bất động sản. Một người thứ ba, Ngô Đình Luyện đã trở thành
đại sứ tại Anh. Kẻ quan trọng nhất và nổi nhất là người em thứ tư của tổng
thống, Ngô Đình Nhu, và bà vợ thích khoa trương của Nhu. Ông Nhu, một kẻ
ngưỡng mộ say mê Machiavelli, đôi khi được gọi là “Rasputin người Việt”, [Ghi
chú của người dịch : Grigori Yefimovich Rasputin là tên đạo sĩ, thuật sĩ Nga
gian ác sống trong nội điện của Nga Hoàng Tsar Nicholas II, và cũng là kẻ đã
làm sụp đổ triều đại phong kiến cuối cùng Romanov này của Nga] đã là cố vấn
thân cận nhất và là bản-ngã-hoán-vị của Tổng thống Diệm. Bà Nhu, một kẻ miệng
lưỡi bảo vệ chế độ, đã từng nói bà ta không sợ chết bởi vì “Tôi yêu quyền
lực, và trong đời sau, thậm chí tôi có cơ hội đạt được quyền lực còn mạnh hơn
bây giờ”.
“Bộ Chính trị” của ông Ngô Đình Diệm : Tổng
giám mục Ngô Đình Thục, Cố vấn Ngô Đình Nhu và vợ là “Đệ nhất Phu nhân” Trần
Lệ Xuân, và “Lãnh chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn.
Quyết tâm của Mỹ để bảo vệ sự độc lập của
Nam Việt Nam khiến ông Hồ và các đồng chí của mình phát động cuộc chiến tranh
chống thực dân lần thứ ba của họ. Năm 1960, họ tuyên bố một chiến dịch quân
sự nhằm vào “việc tiêu diệt Đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm”. Vài tháng sau
đó, một loạt các nhà lãnh đạo của các nhóm đối kháng chính trị và tôn giáo ở
miền Nam đã công bố thành lập một liên minh mới, Mặt trận Giải phóng Quốc gia
[Ghi chú của người dịch : Đúng ra là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam : hay gọi tắt là Mặt Trận Giải Phóng, MTGP] để có thể đối đầu với
chính quyền ông Diệm về chính trị trong khi du kích bây giờ gọi là Việt Cộng,
tiến hành cuộc chiến tranh trên chiến trường.
Washington coi sự hình thành của Mặt trận
Giải phóng Dân tộc chẳng qua chỉ là một trò tuyên truyền giựt gân của Cộng
sản. Đó là một lỗi lầm thảm thiết. MTGP, một liên minh khá rộng của các đảng
phái chính trị thiên tả, trí thức thành thị, và các chuyên gia lớp trung lưu,
phát triển thành một phong trào mạnh mẻ trong nhiều tỉnh. Trong thời gian hai
hoặc ba năm đầu hình thành, và ở một mức độ nào đó, ngay cả về sau này, khi
nó trở thành trực tiếp liên minh với miền Bắc Việt Nam, nó có những quyền lợi
khác hẳn với những quyền lợi của người Cộng sản. Người Mỹ không bao giờ tìm
cách thăm dò những khác biệt ấy hoặc mở bất kỳ kênh liên lạc nào với lực
lượng thường dân chống Diệm.
Bộ trưởng Ngoại giao Dulles ngã bệnh, nghỉ
hưu, và mất năm 1958. Sau đó, Tổng thống Eisenhower dường như hết còn quan
tâm đến Việt Nam. Vào ngày 19 tháng 1 năm 1961, một ngày trước khi ông
rời chức vụ, ông đã giới thiệu tóm tắt cho Tổng thống-được bầu Kennedy về
những điểm lộn xộn trên thế giới. Có nhiều chuyện để nói. Chế độ thân Mỹ tại
Lào đã bị sụp đổ. Một cuộc nổi loạn chống thực dân đang hoành hành ở Algeria
và một cuộc dấy động khác dường như sắp bùng phát tại Congo. CIA đã đào tạo
được một đội quân bí mật để xâm lược Cuba với hy vọng lật đổ chế độ mới của
Fidel Castro. Căng thẳng đã dâng cao tại Berlin. Tuy nhiên phải mất vài
tháng, cho Kennedy mới nhận ra được những khía cạnh kỳ quặc của cuộc họp.
“Ông biết đấy”, Kennedy tỏ sự ngạc nhiên với
một phụ tá, “Eisenhower không bao giờ đề cập đến nó, không bao giờ thốt lên
từ ngữ ‘Việt Nam’.”
Trong nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy, số
binh sĩ Mỹ tại miền Nam Việt Nam tăng từ 865 đến 16.500. Kennedy đã gửi phi
cơ chiến đấu, trực thăng, pháo binh nặng, và đủ các loại vũ khí khác, không
có thứ nào có thể xoay chuyển được chiến cuộc. Trong thực tế, như nhà báo và
sử gia Stanley Karnow đã viết sau này, Viện trợ Mỹ “thì nghịch lý, làm mất
sinh lực của chế độ Diệm”.
Viện trợ, chủ yếu là quân sự, đã làm Diệm
càng tin rằng ông ta đang tiến hành một cuộc xung đột qui ước và nó củng cố
sự đề kháng của ông về các cải cách chính trị, kinh tế và xã hội. Hơn nữa,
các đội quân của ông càng lúc càng miễn cưỡng đối đầu thẳng thừng với Việt
Cộng, mà càng ỷ lại vào các cuộc không kích và pháo kích của Mỹ để làm công
việc cho họ. Điều này phù hợp với Diệm, người đã chỉ thị các sĩ quan của
mình nên tránh thương vong. Trong quan điểm của ông ta, vai trò chính của họ
không phải để chiến đấu chống Việt Cộng mà để bảo vệ ông ta chống lại các
cuộc đảo chính có thể xảy ra.
Một trong những đặc phái viên đầu tiên của
Kennedy gửi đến Việt Nam - sẽ còn dài dài nhiều nữa - là Phó Tổng Thống
Lyndon Johnson, người đã bay tới Sài Gòn vào Tháng 5 năm 1961. Khi trở về, Johnson
là một người tin tưởng vào “lý thuyết domino", bị thuyết phục rằng nếu
để Cộng sản chiếm được Nam Việt Nam, thì không mấy chốc họ sẽ đẩy cuộc chiến
của họ đến “bãi biển Waikiki”. Trong một bài phát biểu của mình, ông đã đi xa
như khen ngợi Diệm như là “Churchill của Đông Nam Á”, mặc dù sau đó khi
Karnow hỏi ông rằng ông có thực sự tin điều đó không, ông ngập ngừng và trả
lời “Cục cứt họ, Diệm là thằng nhãi duy nhất mà chúng ta có ở đó”. (Shit,
Diem’s the only boy we got out there – Lyndon Johnson’s interview, 1961,
Saigon)
Với dòng ngắn gọn ấy, Johnson kết tinh chính
sách Hoa Kỳ tại Việt Nam trong cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960.
Diệm là người thay chân Mỹ. Thiếu một nền tảng quần chúng, lôi ra từ một
nhóm tôn giáo mà chỉ đại diện cho 10 phần trăm dân số đất nước mình, bao
quanh bởi một gia đình tham nhũng và không màng đến công việc hàng ngày của
chính phủ, ông đã được lựa chọn bởi vì không ai khác phù hợp với đòi hỏi của
người Mỹ. Cũng như ở nhiều nước khác, người Mỹ tìm ở miền Nam Việt Nam
một người lãnh đạo vừa có thể là một người quốc gia làm hài lòng đám đông và
vừa còn có thể làm những gì Washington muốn, nhưng chỉ để thấy rằng họ không
thể nào có cả hai [điều kiện đó được].
Hai thế lực đở đầu cho ông Diệm và chế độ
của ông: Vatican và Mỹ
Ông Diệm trở nên khó chịu với vai trò của Mỹ
ngày càng tăng ở nước ông. Đã hơn một lần ông than phiền với đại sứ Hoa Kỳ
tại Sài Gòn, Frederick Nolting, rằng quân đội Mỹ chỉ làm gia tăng cường độ
của cuộc xung đột bằng cách khiêu khích những phản ứng mạnh mẽ từ phía Bắc.
Dù vậy những toán lính, được gọi là "cố vấn" như một cách để duy
trì viễn tưởng rằng họ không tham chiến, ồ ạt đổ vào. Giữa năm 1961 và 1963,
họ tham gia vào hàng trăm trận đánh, và máy bay Mỹ đã bay hàng ngàn xuất kích
ném bom chống lại các vị trí Việt Cộng. Trong cùng thời kỳ đó, 108 người Mỹ
bị giết, và Hoa Kỳ bị mất 23 máy bay.
Ông Diệm than phiền về “tất cả các binh lính
này tôi không bao giờ yêu cầu họ đến đây”. Trong một cuộc kinh lý Vịnh Cam
Ranh, ông chỉ ra hải cảng và nói với các phụ tá của ông, 'Người Mỹ muốn có
một căn cứ ở đó, nhưng tôi không bao giờ chấp nhận." Khi Đại sứ Nolting,
sau một kịch bản được viết ở Washington nói với ông rằng Hoa Kỳ muốn “chia sẻ
tiến trình quyết định trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự”, ông trả
lời “Việt Nam không muốn thành một nước bảo hộ”. Người ta bắt đầu gọi ông ta
là một kẻ được bảo hộ lừng khừng, một khách hàng từ chối cư xử giống như một
khách hàng, một kẻ múa rối tự giựt lấy dây của riêng mình. Tồi tệ nhất lại
đến khi người em trai và cố vấn trưởng, Ngô Đình Nhu, gợi ý rằng có lẽ là
thời gian đã đến để thương lượng với Việt Cộng.
“Tôi chống chủ nghĩa cộng sản từ quan điểm
của học thuyết, nhưng tôi không chống cộng sản từ quan điểm chính trị hay
nhân đạo”, Ông Nhu đã nói với một phỏng vấn viên truyền hình vào mùa xuân năm
1963. “Tôi xem những người cộng sản như anh em, con cừu đi lạc. Tôi không
nghiêng về một cuộc tấn công chống lại những người cộng sản bởi vì chúng tôi
là một đất nước nhỏ, và chúng tôi chỉ muốn sống trong hòa bình”.
Màn cuối trong vở kịch thống trị của Diệm đã
hé mở. Vào ngày 8 tháng Năm, Phật tử tụ tập ở Huế để đánh dấu ngày
Đản sinh lần thứ 2.527 của Đức Phật. Bạo quyền địa phương, Ngô Đình Cẩn -
cũng là em trai của tổng thống - đã đồng ý quyết định thi hành một nghị định
cũ cấm quần chúng ăn mừng không được treo cờ ngủ sắc của Phật giáo, mặc dù
chỉ một vài ngày trước đó cả thành phố đều phất phới biểu ngữ Công giáo đánh
dấu kỷ niệm lần thứ 25 ngày Tổng giám mục Ngô Đình Thục được thụ phong. Phật
giáo đã bắt đầu một loạt các cuộc biểu tình phản đối. Cảnh sát đã bắn vào họ,
giết chết một người phụ nữ và tám trẻ em.
Lãnh đạo Phật giáo đã phản ứng bằng cách
tung ra một chiến dịch toàn quốc chống lại Diệm. Họ phân phát tờ rơi, gặp gỡ
với các nhà báo nước ngoài và tổ chức các cuộc biểu tình và tuyệt thực. Người
dân hưởng ứng chính nghĩa của họ, thường ít dính dáng gì đến tôn giáo. Họ là
những người nghèo nổi lên chống lại những người giàu, người bình dân bất chấp
quyền lực của kẻ độc tài, và, theo lời phóng viên David Halberstam của New
York Times, “người Á đông thế kỷ XX, phản đối chống lại những người Á đông
già nua được uốn nắn từ một quá khứ quan lại”.
Khi ông Diệm đã không đáp ứng với phong trào
này, các nhà lãnh đạo Phật giáo đã thông báo rằng các nhà sư có thể tự sát
như một cách để biểu lộ độ sâu của sự tức giận của họ. Diệm coi thường mối đe
dọa này. Nhiều người Mỹ tại Việt Nam, bao gồm cả một số phóng viên tin tức,
cũng coi thường như thế. Một người không coi thường là Malcolm Browne.
Nhà sư đã tự thiêu cho đến chết vào sáng
ngày 11 tháng sáu có Pháp danh là Thích Quảng Đức. Ông ở tuổi sáu
mươi bảy, đã thành một tỳ kheo gần nửa thế kỷ, và được tôn kính như là
một Bồ Tát, một người đang trên đường đạt đến giác ngộ nhưng chọn từ bỏ nó để
giúp đỡ những người khác trở nên giác ngộ. Trong một lời tuyên bố mà các đồng
tu của ông phân phối sau khi ông chết, ông đã “kính cẩn” cầu xin Diệm tỏ
“lòng nhân đức và lòng từ bi” đối với tất cả các tôn giáo. Thành viên to mồm
nhất của gia đình cầm quyền, Bà Nhu, trả lời bằng cách giểu cợt cảnh tượng mà
bà gọi là “nướng thịt”. Bà nói rằng “Hãy để họ tự thiêu. Chúng tôi sẽ vổ
tay”.
Chúc thư của Hòa thượng Thích Quảng Đức: “Trước khi nhắm mắt
về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy
lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo
để giữ vững nước nhà muôn thủa.”
Bà Đệ nhất Phu nhân Ngô Đình Nhu trả lời bằng cách giểu cợt cảnh tượng mà bà gọi là “nướng thịt” rằng “Hãy để họ tự thiêu. Chúng tôi sẽ vổ tay”.
Không ai ở Washington coi nhẹ cuộc tự thiêu. Nó là một phần của
một dòng chảy đều đặn các tin xấu từ Việt Nam mà Tổng thống Kennedy và các
phụ tá của ông buộc phải đối mặt trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1963. Du
kích quân Việt Cộng đã thiết lập quyền kiểm soát hơn 20 phần trăm của miền
Nam Việt Nam và di chuyển tự do trong một vùng rộng lớn gấp đôi. Quân đội Nam
Việt Nam đã tõ lộ miễn cưỡng chiến đấu. Tham nhũng trong giới quan quyền,
được nuôi dưỡng bởi các chương trình viện trợ Mỹ phủ phê, đã lan tràn. Ông
Diệm mất sự ủng hộ của dân. Để giữ trật tự, ông buộc phải cai trị bằng đàn
áp, phần lớn được điều hành bởi người em trai và cố vấn trưởng, ông Ngô Đình
Nhu.
Một trong các quyết định đầu tiên của tổng
thống Kennedy sau khi nhà sư tự thiêu là thay thế Đại sứ Nolting, một người
Virginia phong nhã đã trở nên gần gũi với Diệm. Ông Kennedy xem xét việc đề
nghị Lansdale, nhưng có một quy tắc bất thành văn là không được bổ nhiệm viên
chức của CIA làm đại sứ, nên ông đã bỏ ý tưởng ấy. Thay vào đó, ông đã chọn
một nhân vật hoàn toàn khác hẳn, một trong những đối thủ chính trị lâu đời
nhất của ông, Henry Cabot Lodge, một trụ cột quý tộc của Đảng Cộng hòa.
Lodge đã đại diện cho tiểu bang Massachusetts
tại Thượng viện cho đến năm 1952, khi ông mất ghế vào tay ông Kennedy.
Sau sự thất bại ấy, Ngoại trưởng Dulles sắp xếp cho ông ta làm Đại sứ Mỹ tại
Liên Hiệp Quốc, nơi ông đã đóng vai trò hỗ trợ trong việc lật đổ Jacobo
Arbenz ở Guatemala. Năm 1960, ông Lodge là đồng ứng viên với Richard Nixon
trên phiếu của đảng Cộng hòa mà Kennedy và Lyndon Johnson đánh bại. Sự nổi
danh của ông, kinh nghiệm ngoại giao của ông, nền tảng chính trị mạnh mẻ của
ông tại Washington, và sự thành thạo về Pháp ngữ của ông đã làm cho ông thành
một sự lựa chọn hợp lý cho chức vụ ở Việt Nam. Kề cả cái phả hệ đảng Cộng hòa
của ông. Kennedy và các phụ tá của ông đều biết rằng chức vụ ở Sài Gòn đầy
rủi ro và thích cái ý tưởng có một đảng viên Cộng hòa để đổ lỗi nếu mọi việc
bị sai quấy.
Ông Lodge tìm thấy Nam Việt Nam trong tình
trạng hỗn loạn khi ông đến Sài Gòn vào buổi tối ngày thứ Sáu, 23 tháng tám
năm 1963. Tình trạng bất ổn ngày càng tăng, khi có thêm cuộc tự thiêu của
bốn nhà sư Phật giáo, và đã làm Tổng thống Diệm đặt đất nước dưới luật giới
nghiêm. Các đội cảnh sát đã tấn công chùa chiền Phật giáo và bắt giữ
hàng trăm nhà sư, trong đó có ngài tăng thống Phật giáo tám mươi tuổi. Ở Huế
họ đã đánh một trận chiến đường phố ác liệt tám giờ liền chống lại những
người biểu tình Phật tử.
Ngày cuối tuần ấy tại Washington, trong một
sự biểu lộ kinh hải của nhầm lẫn và sai hiệu lệnh của chính quyền Kennedy đã
vấp vào một tiến trình “thay đổi chế độ” kết thúc bằng máu. Nó là đỉnh cao
của tuần tranh cãi về cách đối phó với Diệm. Một số trong chính quyền tin
tưởng rằng ông vẫn còn là hy vọng tốt nhất cho miền Nam Việt Nam. Những người
khác đã bỏ rơi ông ta và phù phép cho sự sụp đổ của ông.
Ngày thứ bảy, 24 tháng Tám, cả ba người ủng hộ
Diệm mạnh nhất ở Washington đã ra khỏi thủ đô. Ngoại trưởng Dean Rusk đang
tham dự một trận đấu banh Yankees ở New York, Bộ trưởng Quốc phòng Robert
McNamara thì đang nghỉ mát tại Wyoming, và Tổng thống Kennedy đang ở tại nhà
nghỉ mát trên Cape Cod. Vì thế bộ máy ngoại giao của Mỹ đều nằm trong tay
của ba viên chức cấp thấp hơn, tất cả đều muốn Diệm bị lật đổ.
Người hăng say nhất là Trợ lý Ngoại
trưởng Ngoại giao Roger Hilsman, chuyên gia trưởng của Đông Á Sự Vụ. Hilsman,
đã một thời là lính đặc công ở Miến Điện trong Thế chiến thứ II, coi mình
là chuyên gia trên cả hai việc chống nổi loạn và chính trị của Đông Dương.
Vào ngày thứ Bảy ấy, ông đã thảo ra một điện thư định mệnh gởi cho Lodge. Điện
thư nầy ra lệnh cho ông Lodge nói trực tiếp với ông Diệm rằng Hoa Kỳ “không
thể chịu đựng được nữa một tình huống mà trong đó quyền lực nằm hết trong tay
của Nhu” và yêu cầu rằng Diệm cắt đứt tất cả quan hệ chính trị với người em
của mình. Nếu Diệm “vẫn còn ngoan cố và từ chối”, điện thư nói, “chúng ta
phải đối mặt với khả năng rằng chính Diệm không thể được duy trì”.
“Phù hợp với các điều nêu trên”, điện thư đã
kết luận, “Đại sứ và các nhóm trong nước cần khẩn trương xem xét lại tất cả
việc khả thi thay thế lãnh đạo và thực hiện các kế hoạch chi tiết làm sao
chúng ta có thể thay thế Diệm nếu điều này trở nên cần thiết”.
Buổi chiều hôm đó, Hilsman và một trong
những đồng minh chính của ông, Phụ tá Ngoại giao Everell Harriman, đi tìm
George Ball, người đang Xử lý thường vụ Bộ Ngoại giao trong khi Rusk vắng
mặt. Họ tìm ra ông ta trên sân Golf Road tại Maryland. Ball là thành viên thứ
ba của bộ ba chống-Diệm ở Bộ Ngoại giao. Ông thích điện thư của Hilsman và
đồng ý điện thoại Kennedy và khuyên được gửi đi Sài Gòn.
Vì lý do vẫn chưa được biết rõ ràng, tổng
thống Kennedy đã không tập trung vào mức độ nghiêm trọng của điện thư này.
Ông có thể đã bị phân tâm bởi những thú vui cuối tuần của ông. Ông George
Ball đã dùng lời lẽ đúng cách trong lối kêu gọi để trấn an tổng thống. Tổng
thống Kennedy đã chỉ sửa một thay đổi nhỏ trong tin nhắn, và rồi chấp thuận
nó. Ông Kennedy nói : “Geoge à, nếu Rusk và Gilpatrick đồng ý, thì tiến
hành”.
Không Rusk và cũng chẳng Phụ tá Quốc phòng
Roswell Gilpatrick được tham vấn, nhưng ông Ball đã không đề cập đến điều đó.
Sau khi gác điện thoại, ông gọi Rusk tại New York và nói với ông ta rằng ông
đang chuẩn bị để gửi một điện thư đến Sài Gòn mà Tổng thống Kennedy đã phê
duyệt. Ngoại trưởng Rusk, cũng như thói quen của mình, nói với họ rằng bất cứ
điều gì Tổng thống chấp thuận đều tốt đối
với ông ta. Thậm chí ông còn tăng cường điện thư với một câu mới : “Ngài
cũng có thể nói với các cấp chỉ huy quân sự tương ứng, chúng ta sẽ cung cấp
hỗ trợ trực tiếp cho họ trong bất kỳ thời gian tạm thời khi cơ cấu chính
quyền trung ương bị dứt đoạn”.
Theo thủ tục của Bộ Ngoại giao, một điện thư có
tầm quan trọng như thế này phải được chấp thuận không chỉ đơn giản bởi
tổng thống và ngoại trưởng mà còn bởi bộ trưởng quốc phòng, giám đốc CIA, và
chủ tịch của ban Tham mưu trưởng liên quân. Tất cả đã ngoài tầm liên lạc
vào buổi tối thứ bảy ấy, thay vào đó, Ball kiểm tra với các phụ tá của họ.
Các quan chức ở cấp ấy né tránh phủ quyết chỉ thị của tổng thống, và không ai
giám làm vậy.
Một khi các nhóm chống Diệm đã yên tâm với những sự chấp thuận này, họ chỉ cần lệnh tiến hành cuối cùng của tổng thống Kennedy. Ông Michael Forrestal, một thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia, gọi tổng thống để xin phép. Với sự ngạc nhiên, ông thấy tổng thống đột ngột do dự. Ông đã có những xét lại. Ông Kennedy đã hỏi rằng “Các ông có chắc mọi chuyện đều tốt đẹp không ?”
Ông Forrestal tìm cách trấn an tổng thống,
và thế là xong. Lúc 9 giờ 43 phút tối hôm đó, một nhân viên tại Bộ Ngoại giao
gởi điện thư đi. Các cuộc tranh luận đúng ra phải có trước đấy đã nổ ra vào
buổi sáng thứ hai.
Một Kennedy tức giận triệu tập các cố vấn
ngoại giao của ông vào Nhà Trắng và bắt đầu bằng việc khiển trách nghiêm khắc
Hilsman, Harriman, Ball, và Forrestal về cái mà ông gọi là “tính bốc đồng”
của họ. Tướng Maxwell Taylor, chủ tịch của Tham mưu Liên quân, cũng bực mình
không kém. Ông nói ông sẽ không bao giờ chấp thuận điện thư, và cáo
buộc những người soạn thảo nó là dàn dựng “một cuộc chạy nước rút hùng hổ” mà
chỉ khả thi trong một ngày cuối tuần. Phó tổng thống Johnson, Bộ trưởng
Quốc phòng McNamara, và giám đốc CIA John McCone tất cả đều cảnh báo rằng
việc lật đổ Diệm sẽ tạo ra nhiều vấn đề hơn là nó giải quyết. Cuộc tranh
luận kéo dài hơn bốn ngày họp hành, làm cho Kennedy tức giận và nãn lòng. Ông
than với một người bạn trong tuần ấy rằng “Trời ơi ! Chính phủ của tôi đang
tan rã !”
Tại Sài Gòn, Đại sứ Lodge đã hăng say chuẩn
bị cho cách “thay đổi chế độ.” Ông đã gửi tín hiệu đến các tướng bất đồng
và gởi một loạt các loại điện thư đến Washington thúc giục hành động nhanh
chóng chống lại Diệm. Trong một bức đề ngày 29 tháng 8, ông cảnh báo rằng
nếu Hoa Kỳ không “ra tay nhanh” Nam Việt Nam sớm có thể rơi vào tay các chính
trị gia thân cộng hoặc ít nhất là trung lập.
Chúng ta đang lao vào vào một tiến trình lật
đổ chính quyền Diệm mà không còn đường rút lui nào đáng nể. Không có lối quay
trở lại bởi vì uy tín của Hoa Kỳ đã được cam kết công khai cho mục đích này
bằng biện pháp lớn, và sẽ trở nên hơn thế khi sự kiện bị rò rỉ ra ngoài.
Trong một ý nghĩa cơ bản hơn, theo tôi, không có chuyện quay trở lại vì cuộc
chiến không thể thắng được dưới một chính quyền Diệm.
Bản điện thư ấy rõ ràng gây ấn tượng với
Kennedy. Một vài ngày sau khi nhận được nó, ông ngồi trên bải cỏ của nhà
nghỉ mát ở Cape Cod giành cho một cuộc phỏng vấn truyền hình với Walter
Cronkite của CBS. Khi ông Cronkite hỏi nếu ông nghĩ rằng chính phủ Diệm có
thể giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh, ông Kennedy đã cho một câu trả
lời mà cũng là một tín hiệu cho Sài Gòn : “Với những thay đổi trong chính
sách và nhân sự thì tôi nghĩ rằng nó có thể. Nếu nó không thực hiện những
thay đổi ấy, tôi nghĩ rằng cơ hội chiến thắng cuộc chiến sẽ không rất tốt.”
Khi hai ông Diệm và Nhu nghe được điều này, họ hiểu rằng
chế độ của họ đã gặp nguy hiểm. Họ đành tìm một chiến lược mới. Ông Nhu
quyết định đề xuất một cuộc tiếp xúc hữu nghị với miền Bắc. Ngay sau đó, Mặt
trận Giải phóng cho biết họ sẵn sàng tham gia một chính phủ liên hiệp ở miền
Nam, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant kêu gọi “trung lập hóa” miền Nam, và
sự thống nhất cuối cùng của Việt Nam; Tổng thống Charles de Gaulle của
Pháp tán thành ý tưởng; và đại sứ Pháp tại Sài Gòn bắt đầu làm việc bí mật
với một đồng nghiệp Ba Lan để sắp xếp địa chỉ liên lạc giữa các chính phủ của
miền Bắc và miền Nam Việt Nam, mặc dù không đủ bí mật để ngăn CIA biết được
họ đang làm những gì.
Chính quyền Kennedy đang lựa chọn giữa hai
sự chuyển đổi khủng khiếp là hỗ trợ một chính phủ tham nhũng và mất lòng
dân và đang thua trận, hoặc chống lưng cho một cuộc đảo chính lật đổ chính
phủ ấy.
Từ những ưu điểm lịch sử, thực là hợp lý để
hỏi tại sao không có ai gợi ý về sự lựa chọn thứ ba hiển nhiên. Hoa Kỳ có thể
đơn giản rửa tay khỏi cuộc khủng hoảng và để cho dân Việt Nam tự giải quyết. Điều
đó rất có thể sẽ dẫn đến việc thành lập một chính quyền Cộng sản hay thân Cộng
trên toàn bộ đất nước, nhưng đó, vẫn là những gì cuối cùng đã xảy ra. Một
cuộc rút quân vào thời điểm này đã có thể cứu hàng trăm ngàn sinh mạng, tránh
sự tàn phá của Việt Nam, và ngăn cho Hoa Kỳ một chấn thương quốc gia lớn
nhất kể từ cuộc nội chiến. Tại sao không có ai đề nghị điều đó ?
Stephen Kinzer - Trần Thanh Lưu dịch
|
|
Nguồn: Phòng Tìm Hiểu Phật Pháp - E-Temple: HoPhap.Net
|
|
|
Tuesday, June 11, 2013
KHÔNG PHẢI LÀ CÁCH TỰ TỬ ĐƯỢC CHỌN
Labels:
Bình Luận
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment