Cái nguy cơ từ phương Bắc thì thường trực từ mấy nghìn năm nay
rồi. Và bây giờ nó càng rõ hơn. Cho đến nay, từ nhân dân, trí thức, nói chung
là mọi tầng lớp xã hội, đều xót ruột lắm ! Và người dân Việt thấy nguy cơ là
vận mệnh đất nước bị đe doạ cùng với sự toàn vẹn lãnh thổ…
Ký một lúc 10 văn kiện
Theo cuốn Hồi ký Trần Quang Cơ, thì “Ngày 29.8.1990, đại sứ
Trung Quốc tại Hà Nội Trương Đức Duy xin gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và chủ
tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười, chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch
Dân và chủ tịch Quốc vụ viện Lý Bằng mời Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, Chủ Tịch
Hội Đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh
Tứ Xuyên vào ngày 3.9.1990 để hội đàm bí mật về Campuchia và vấn đề bình thường
hóa quan hệ hai nước”.
Như vậy là “biến cố Thành Đô” ấy – mà nhà báo David Thiên Ngọc
gọi là “Chiếu chỉ Thành Đô” - đã diễn ra trong vòng bí mật mà Thứ trưởng Ngoại
giao Trần Quang Cơ cho “đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại” của
Hà Nội; chính cố vấn Phạm Văn Đồng lúc ấy cũng phải thốt lên rằng “…đi để rồi
ký một văn bản mà ta không lường trước được hậu quả…”; Thủ tướng Võ Văn Kiệt có
lần phải nhìn nhận rằng “Mình bị nó lừa nhiều cái quá…TQ luôn là cạm bẫy!”.
Lần này, khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “bệ kiến Thiên Triều”
tại Bắc Kinh, tác giả David Thiên Ngọc qua bài tựa đề “Chiếu Chỉ Thành Đô II”
lưu ý rằng:
Trong lịch sử ngoại giao từ xưa nay trên toàn thế giới chưa có
một ai đại diện cho một nước nào cho dù là nhỏ bé, thiếu độc lập, thiếu tự chủ
cũng chưa có một lãnh tụ nào trong một cuộc tạm gọi là bang giao vừa bước chân
xuống miền đất khách chưa kịp tẩy trần mà ký một lúc 10 văn kiện như ông Trương
Tấn Sang và tập đoàn… theo đuôi! Ở đây xin nói thẳng ra rằng các văn kiện đó,
"Họ" đã viết sẵn theo chủ ý và âm mưu của họ theo kịch bản của quân
sư mà kẻ ký chỉ biết hạ bút và không được phép biết nội dung nó là gì?
Khi báo động về “Văn kiện đầu hàng”, blogger Bùi Tín khẳng định
rằng “Mọi người Việt Nam yêu nước không thể không bàng hoàng và phẫn nộ khi đọc
kỹ văn kiện nói trên, không thể không nhận định đây là một văn kiện tuyên bố
đầu hàng bọn bành trướng và xâm lược phương Bắc”, nhất là, theo nhà báo Bùi
Tín, Bản tuyên bố chung VN-TQ “Không hề có một chữ nào về Hoàng Sa, Trường Sa
là đất Việt Nam bị cưỡng chiếm bằng vũ lực. Không một yêu cầu nào về việc bảo
vệ tính mạng tài sản của ngư dân VN trong vùng biển quốc gia của mình. Không
một lời bác bỏ nào đối với cái lưỡi bò phạm pháp trên bản đồ Trung Quốc. Chủ
quyền quốc gia đã bị hoàn toàn từ bỏ. Lũ giặc bành trướng được coi là bạn bè
thân thiết nhất, là đồng chí tin cậy nhất, còn hơn anh em ruột thịt”. Nhà
báo Bùi Tín nhận xét tiếp về “Biến cố Thành Đô II” này:
Đọc thật kỹ bản Tuyên Bố Chung, có thể dễ dàng nhận ra
nó được phía Trung Quốc khởi thảo và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng
góp hay thay đổi gì hết. Bản Tuyên Bố Chung hoàn toàn phản ánh
tham vọng bành trướng và xâm lược của đế quốc Cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối
với đất nước Việt Nam, phục vụ dã tâm biến nhà nước Việt Nam Cộng sản thành một
chư hầu của Trung Quốc, biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Trung
Quốc, với sự tiếp tay của nhóm lãnh đạo CS bất tài và tham nhũng đã thoái hóa
đến cùng cực.
Ở đây xin nói thẳng ra rằng các văn kiện đó, "Họ" đã viết sẵn theo chủ ý và âm mưu của họ theo kịch bản của quân sư mà kẻ ký chỉ biết hạ bút và không được phép biết nội dung nó là gì?
- David Thiên Ngọc
Blogger Bùi Tín nêu lên câu hỏi rằng đây có phải là một cạm bẫy
do nhóm lãnh đạo mới Trung Nam hải giăng ra để “nhử ông Trương Tấn Sang chui
vào tròng”, buộc ông Sang phải “nhận cả gói, không sửa đổi, du di gì được, dù
một li” ? Vẫn theo nhà báo Bùi Tín, sau khi đọc Kỹ văn bản ấy, Ông có cảm giác
như VN đã “hội nhập vào trong lòng TQ. Tuy 2 mà một. Hoà nhập triệt để về mọi
mặt, đặc biệt là về quốc phòng, về đối ngoại, về an ninh, trị an xã hội, về
đảng, nhà nước, về quân đội, về công tác đảng, bảo vệ đảng, bảo vệ quân đội. Cứ
như ở thời kỳ quan hệ anh em đồng chí bền chặt nhất vậy”.
Báo Tổ Quốc báo động rằng “Họ đem đất nước vào hẳn quỹ đạo của
TQ”. Tờ báo tin chắc là ông Trương Tấn Sang tới Bắc Kinh để “chính thức hoá
những gì đã được quyết định từ trước và do TQ áp đặt”, và lưu ý:
Ai cũng biết quan hệ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam là một
quan hệ lệ thuộc nhưng sự lệ thuộc đó đã trở thành toàn diện và triệt để sau
những gì mà ông Sang vừa ký, bởi vì nó còn được "thúc đẩy", "mở
rộng", "tăng cường" và "làm sâu sắc thêm". Đặc biệt
nghiêm trọng là Việt Nam đã cam kết "điều phối" và "phối
hợp" với Trung Quốc, nói cách khác, nhận mệnh lệnh của Trung Quốc
trong các quan hệ đối với thế giới, kể cả với Liên Hiệp Quốc. Chúng ta mất
chủ quyền. Và chúng ta cũng có nguy cơ mất cả lãnh thổ bởi vì chính quyền CSVN
đã chấp nhận để bảy tỉnh biên giới Việt Nam "hợp tác" và "cùng phát
triển" với các khu tự trị của Trung Quốc ở biên giới…
TQ "thuần hóa"
VN
Tổng Bí thư Đỗ Mười (P)
cùng với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân (T) tại Đại lễ đường Nhân dân ở
Bắc Kinh ngày 14/7/1997. AFP photo
Blogger Nguyễn Văn Huy lưu ý về “thời gian thảo luận những vấn
đề hệ trọng liên quan đến tương lai đất nước trong vài ngày chắc chắn là không
đủ”, và tin chắc rằng “nội dung của những thỏa thuận đã được hai bên trao đổi
và thảo luận từ lâu”. Do đó, theo blogger Nguyễn Văn Huy, chuyến Hoa du
của ông Trương Tấn Sang “chỉ là để ký kết những gì đã đồng ý từ trước”. Khi
thắc mắc về “ Một sự im lặng khó hiểu”, tác giả Nguyễn Văn Huy đặt ra một số
câu hỏi, chẳng hạn như:
-Ông Trương Tấn Sang được ai hay định chế nào cho phép hoặc ủy
quyền ký những văn bản hệ trọng liên quan đến tương lai Việt Nam ?
- Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ đã có những nhận xét nào
về nội dung bản Tuyên bố chung ?
-Những đại biểu quốc hội, có bao nhiêu người được hỏi ý kiến về
những văn kiện vừa được ký kết ?
Và tác giả nhận xét tóm tắt rằng:
Qua Tuyên bố chung này, khó có thể biện bạch Việt Nam là một
quốc gia độc lập với Trung Quốc, nếu không muốn nói chính quyền cộng sản Việt
Nam đang chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước sang tay người Trung Quốc. Theo
nội dung của bản Truyên bố chung, Trung Quốc có quyền tham gia vào tất cả mọi
lãnh vực sinh hoạt chính trị và kinh tế của Việt Nam, trong khi đó phía Việt
Nam không thể và cũng không đủ điều kiện để tham gia ngược lại.
Khi báo động về tình trạng TQ đã “thuần hoá” VN, nhà báo Vi Anh
nhận xét rằng Chủ Tịch Nước Trương tấn Sang “đi sang Tàu triều cống,
diện kiến Tập cận Bình như thần tử diện kiến long nhan, tái xác
nhận thái độ thần phục Thiên Triều”. Ông Trương Tấn Sang tuyên bố “nhất
trí, đồng tình, hồ hởi, phấn khởi”, giải quyết vấn đề Biển Đông
trên nguyên tác song phương do phương Bắc đề ra, chứ tuyệt đối không cho
nước thứ ba nào bên ngoài can dự vào. Vẫn theo nhà báo Vi Anh, “Giải
quyết những tranh chấp tay đôi giữa con sói và con trừu, thì Biển Đông
và đảo của VN coi như từ chết tới bị thương, bị kẻ mạnh nuốt hết
!”.
Blogger Gò Cỏ May thì lưu ý rằng mặc dù hai nước CS anh em
Việt-Trung từ lâu đã bình thường hoá bang giao và hợp tác chặt chẽ, không ngừng
nâng mối quan hệ chiến lược giữa 2 đảng, 2 nhà nước lên “tầm cao mới”, nhưng “
thật lạ kỳ, cứ mỗi đợt gặp gỡ cấp cao như thế là Trung Quốc lại gia tăng các
hoạt động gây căng thẳng trên các vùng biển mà Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên
bố chủ quyền “không tranh cãi”. Phía Trung Quốc thì hành động. Còn phía Việt
Nam lại chỉ cho Người phát ngôn Bộ Ngoại Giao lên tiếng phản đối, chứ
giới chóp bu thì đều bị cái vòng kim cô ‘đại cuộc’ mang tên ý thức hệ kiềm tỏa,
ngậm tăm”.
Qua Tuyên bố chung này, khó có thể biện bạch
Việt Nam là một quốc gia độc lập với Trung Quốc, nếu không muốn nói chính quyền
cộng sản Việt Nam đang chuyển giao quyền lãnh đạo đất nước sang tay người Trung
Quốc.
- Tác giả Nguyễn Văn Huy
- Tác giả Nguyễn Văn Huy
Trong khi nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn báo động rằng “Việc ông Trương
tấn Sang công du Trung quốc lần này với những cam kết về một sự ‘hợp tác chiến
lược toàn diện’ trên tinh thần ‘đồng chí anh em’ chỉ đẩy đất nước lún sâu hơn
vào hiểm họa lệ thuộc ngày càng nhiều hơn vào Trung Quốc mà thôi”, thì nhà báo
Bùi Tín lưu ý “ Nước cờ này đã đẩy đảng CSVN đang núng thế thụt sâu thêm xuống
hố suy thoái”.
Khi nêu lên câu hỏi rằng có phải “ VN thiếu vắng lãnh tụ ?”, tác
giả Phạm Dzũng nhận định rằng “ Trong cuộc chiến Tàu-Việt từ ngàn xưa tới nay,
sách lược muôn đời của Tàu vẫn là tàn hại nguyên khí của dân Việt, và chúng ra
tay rất sớm -‘tiên hạ thủ vi cường’ ”. Vẫn theo tác giả thì “Hiện tượng bế tắc
tương lai và suy yếu toàn diện vừa về lãnh đạo, vừa về văn hóa, xã hội, kinh tế
và quốc phòng của Việt Nam chứng tỏ rằng TQ đã thành công trong sách lược làm
Việt Nam suy thoái triệt để. Mối nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ bọn xâm lược không
cần phải trực tiếp ra mặt, mà lại sai khiến được chính nhà cầm quyền Việt
Nam…”.
Tác giả Phạm Dzũng nhận thấy hành động của giới cầm quyền trong
nước liên tục trấn áp dân và liên tiếp nhượng bộ phương Bắc một cách vừa lén
lút, vừa công khai chứng tỏ rằng Bắc Kinh đã nắm được giới cầm quyền Hà Nội, mà
nổi bật nhất hiện nay là bộ máy công an… Như vậy, theo tác giả, “chính là Tàu
đang cai trị VN”. Và mọi phản đối máy móc, chiếu lệ của nhà cầm quyền VN đối
với hành vi xâm lược, ngang ngược của TQ ở biển Đông và biên giới phía Bắc chỉ
là để “che mắt thiên hạ nhằm chuẩn bị giao hết căn nhà VN cho chủ mới….”.
Tuy nhiên, tác giả bày tỏ tin tưởng rằng “bên này biên giới mong
manh của sự bi quan” trước nguy cơ mất nước vào tay phương Bắc, thì phong trào
chống đối ngày càng lớn mạnh của tuổi trẻ cùng người dân trong nước trong bối
cảnh ngày càng dân chủ hóa toàn cầu, người dân Việt vẫn có thể tin vào tiền đồ
của một dân tộc đã chiến đấu mấy ngàn năm để tồn tại.
No comments:
Post a Comment