Tỳ Kheo Visuddhacara
Thích Tâm Quang dịch
Thích Tâm Quang dịch
Tôi viết tác phẩm này nhằm chia sẻ một số suy
nghĩ về cái chết với bất cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu về cái chết. Suy nghĩ về
cách chúng ta có thể trực diện với cái chết – bằng can đảm và tính thanh
thản, có phẩm cách. Và nếu bạn muốn bằng một nụ cười.
Suy nghĩ về cách đương
đầu với khổ đau, cách sống bằng trí tuệ và lòng từ bi, hay bằng nhiều thứ về điều
đó mà chúng ta có thể tập trungđược cho đến khi chúng ta chết.
Nhưng thường thường người ta không thích nói
về cái chết. Bất cứ lúc nào vấn đề này được đề cập, người tạ bắt đầu
cảm thấy khó chịu. Ðặc biệt được coi là cấm kỵ không được nói
đến vào những dịp tốt lành như sinh nhật hay Năm Mới. Làm như đề cập đến
từ chết vào những dịp tốt lành có thể gây tai hại và mang lai vận rủi hay chết
sớm! Ðương nhiên, tôi không đồng ý với những ý tưởng như thế. Với tôi,
điều đó chỉ là dị đoan. Tôi có thể hiểu dù cho người ta coi vấn đề về
cái chết trong những dịp tốt lành là không ý nhị. Nhưng tôi cho rằng nghẫm nghĩ
về cái chết và cả đến những dịp như sinh nhật và Năm Mới là tốt và đúng,
có lẽ nên suy ngẫm nhiều hơn nữa vào những dịp như vậy. Tại sao? Bởi vì chúng
ta có thể xét thấy chúng ta không phải ngày một trẻ lại mà ngày một già đi
và cứ mỗi năm trôi qua mang chúng ta đến gần nhà mồ. Trong suy ngẫm như thế,
chúng ta có thể đánh giá lại đời sống mình, thẩm xét lại vị trí của mình
và xem xét liệu chúng ta có đi đúng hướng hay không - hướng của trí tuệ và
từ bi.
Là một nhà sư, tôi thường trầm tư (thiền) về
cái chết. Việc này nhắc nhở tôi sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn, không
uổng phí ngày giờ vô ích dù tôi phải thú nhận tôi vẫn còn thỉnh thoảng lãng phí
thì giờ quý báu; vì như quý vị biết cái tâm đôi khi rất bướng bỉnh và lười
biếng. Tuy nhiên bởi suy ngẫm thường xuyên về cái chết, tôi luôn nhớ rằng tôi
phải tìm ra nhiều thì giờ hành thiền tuệ giác hơn nữa để tôi có thể thanh
lọc tâm ra khỏi những ô nhiễm của tham sân và si.
Ðức Phật khuyên chúng ta nên thường xuyên suy
ngẫm về cái chết, hàng ngày hay vào bất cứ lúc nào. Nó sẽ khơi dậy trong chúng
ta sự tỉnh thức – ý thức cấp bách để phấn đấu tích cực hơn nữa nhằm loại
bỏ khổ đau do tâm ô nhiễm và bị lừa dối mang lại. Tôi thích nói về cái chết. Ðó
là đề tài sở thích của tôi. Phải chăng tôi bệnh hoạn? Cũng được đi - Cứ
tiếp tục. Bạn có thể nói tôi bệnh hoạn và gì đi nữa tùy bạn. Không sao cả.
Tôi không bận tâm. Người ta, có nghĩa không chỉ có tôi mà cả bạn nữa, phải thừa
nhận nhân quyền căn bản được bầy tỏ quan điểm và cảm nghĩ miễn là bầy tỏ như
vậy một cách chính đáng, đồng cảm, không bị áp đặt và bất bạo động.
Không ai có thể giận dữ với một người vì việc bầy tỏ bằng cách thức như vậy, dù
không may là đôi khi chúng ta quên và trở nên nóng nảy. Nhưng trở lại với đề
tài này, tôi luôn cân nhắc, tôi luôn băn khoăn và vẫn đang băn khoăn: Tại
sao chúng ta sống? Tại sao chúng ta chết? Tất cả cái đó là gì? Cái đó
để làm gì? Cho mụcđích gì? Vì cứu cánh gì?
Chắc chắn nhiều câu trả lời đã được
đề nghị. Tôi chắc chắn có nhiều người rất vui vẻ cho tôi những câu trả lời về
những câu hỏi này từ khi con người biết suy nghĩ và cân nhắc. Nhưng tôi không
thể nói là tôi đã thỏa mãn với tất cả những câu trả lời được đưa ra.
Tôi vẫn còn đang tìm kiếm. Trong những ngày này tôi đã trở thành một
nhà sư Phật Giáo và hành thiền. Tôi nguyện giữ năm giới không giết hay làm hại,
không trộm cắp hay lừa đảo, không phạm tội gian dâm như ngoại tình, không
nói dối và không dùng rượu hay ma túy. Thêm nữa là một nhà sư, tôi phải tuân
thủ cuộc sống độc thân và những giới khác của một nhà sư.
Tôi không thể nói cho đến nay tôi đã tìm
thấy tất cả những câu trả lời đối với những câu hỏi của tôi, nhưng tôi đã
tìm thấy sự an ủi, sự thoải mái nào đó trong giáo hệ của Ðức Phật.
Tôi có thể nói hiểu lời dạy của Ðức Phật về chánh niệm và từ bi. Và tôi vẫn
thiền. Có lẽ tôi có thể tìm thấy tất cả câu trả lời vào một ngày nào đó.
Sẽ rất tốt đẹp nếu tôi có thể. Nhưng nếu tôi không làm được, thì cũng
không sao. Những vấn đề nào mà tôi đã thử thách. Tôi sẽ rất sung
sướng dù cho tôi phải thử chết. Vì dẫu sao thì tôi cũng đã thử. Bằng cách đó
đời sống của tôi vẫn còn có ý nghĩa, ít nhất là ở mứcđộ nào đó. Và đương
nhiên theo đường lối này, tôi sẽ cố gắng truyền bá càng nhiều càng tốt sự
vui vẻ và hạnh phúc theo khuynh hướng và khả năng của tôi.
Tôi đã cố gắng viết cuốn sách này để
chia sẻ sự hiểu biết giới hạn của tôi về cuộc sống và cái chết. Tôi cảm thấy
chúng ta cần thảo luận vấn đề cái chết một cách thẳng thắn. Chúng ta không
nên sợđưa đề tài này ra.
Nếu không, làm sao chúng ta có thảo luận và
học hỏi được? Khi chúng ta có thể thảo luận công khai, học hỏi và hiểu
biết, điều đó rất tốt vì chúng ta có thể đi đến chấp nhận cái chết.
Chúng ta có thể biết cách đối phó với nó tốt hơn. Ðiều này rất quan trọng;
vì lý do đơn giản là tất cả chúng ta đều phải chết. Không ai có thể
thoát khỏi. Và nếu chúng ta không thể hiểu cái chết ngay bây giờ, làm sao chúng
ta có thể hiểu vấn đề đó khi chúng ta nằm trên giường lúc lâm chung, vào
lúc sắp thở hơi cuối cùng? Phải chăng chúng ta thể vượt qua được sợ hãi và bối
rối? Cho nên tốt hơn là chúng ta học hỏi tất cả về cái chết ngay từ giờ. Chắc
chắn điều đó sẽ rất có ích cho chúng ta. Vậy chúng ta không cần sợ hãi
nữa. Chúng ta sẽ có lòng tin, và khi cái chết đến chúng ta có thể ra đi với
nụ cười. Chúng ta có thể nói: "Tử Thần, cứ làm điều xấu nhất
đi. Ta biết mi rồi và ta có thể mỉm cười".
Tôi đã viết tác phẩm này một cách thẳng
thắn và hấp dẫn theo khả năng. Tôi đã cố gắng để nó không quá học thuật
hay cứng nhắc. Tôi chỉ muốn quý bạn vui vẻ đọc cuốn sách này, khúc khích cười
những phần có thể đáng cười và có thể học được một hay hai sự việc có
thể giúp ích cho bạn trong cuộc sống, tình thương và chết chóc. Ngoài ra tôi
không viết thiên về tư cách một tu sĩ với một người không chuyên môn mà là cách
nói của con người với con người. Cho nên tôi đã viết hoàn toàn tự do vói
mục đích truyền cảm, đi vào lòng người. Mặc dầu tôi không thể nói tôi đã
thành công hay thất bại đến đâu! Chỉ quý bạn sẽ là sự phán xét tốt nhất về điều
đó.
Vì tôi là một nhà tu Phật Giáo, độc giả
sẽ thấy nội dung có nhiều chuẩn tắc đạo đức và khái niệm Phật Giáo. Ðương
nhiên, một số giá trị như tình thương và từ bi là phổ biến. Chúng không thuộc
về một tôn giáo nào cả mà thuộc về tất cả. Tất cả các tôn giáo đều dạy tình
thương và từ bi. Chúng đều là những tôn giáo tốt. Nhưng chính chúng ta
những tín đồ lại không tuân theo. Cho nên chúng ta giết, làm thương tổn,
và gây tác hại dưới danh nghĩa tôn giáo. Ai là người đáng trách ngoài
chúng ta ra! Không phải tôn giáo hay những khai sáng ra tôn giáo bao giờ cũng
thuyết giảng tình thương, trí tuệ, và lòng khoan dung, tha thứ và từ bi sao.
Nếu chúng ta có thể tỉnh thức trước sự ngu si của chúng ta thì chúng ta có thể
thương yêu thật tình. Chúng ta có thể sống như anh chị em với độ lượng,
kiên tâm và thông cảm, với tình thương và từ bi.
Tôi viết tác phẩm này chủ yếu là cho Phật tử.
Nhưng những người không phải là Phật tử có thể đọc và tìm thấy một số lợi
ích, một số lãnh vực đồng thuận, đánh giá đúng và hiểu biết chung. Tối
thiểu, họ cũng biết đến quan điểm của Phật Giáo, cách giải quyết vấn đề và
trí tuệ của Phật Giáo. Ðiều bổ ích là biết quan điểm của nhau, nó dẫn đến
độ lượng hơn, thông cảm hơn và đánh giá đúng cách giải quyết và niềm tin
của người khác. Về phần tôi, tôi không có một chút ý thích nào nhằm đổi
đạo của người khác. Việc đó phải thật rõ ràng. Hãy để cho mọi người thực
hành tôn giáo của riêng họ và hãyđể cho họ rèn tập tốt tôn giáo của họ, như
người trúng giải thưởng Hòa Binh Nobel, Ngài Ðạt Lai Lạt Ma đã nói từ bi rốt
cuộc là cốt lõi của tất cả tôn giáo.
Tôi đã cố gắng chia sẻ sự hiểu biết của
tôi trong khả năng tốt nhất của tôi. Nhưng tôi chắc chắn sẽ có một số khuyết
điểm ở chỗ này chỗ kia. Hay ở một số lãnh vực có thể có những khác biệt trong
việc giải thích hay hiểu biết. Rất có thể bạn không thích hay không đồng ý
với một số sự việc tôi nói. Hay bạn có thể không thích cách tôi diễn đạt. Bạn
có thể nghĩ điều đó không thích hợp, khiếm nhã, vô tình, ủy mị, khó chịu, méo
mó, vô lý, hay gì đi nữa. Cũng được đi. Ðiều này là tự nhiên. Chỉ cần
có hai người là sẽ có những bất đồng ý kiến. Bạn chỉ cần không chấp thuận
những điều bạn không đồng ý, bác bỏ chúng ấy là nói vậy. Bạn không cần phải
chấp nhận mọi điều tôi nói. Tại sao bạn phải chấp nhận? Ðương nhiên
bạn có một tâm tốt của mình, và bạn có thể nghĩ và quyết định cho chính
bạn. Chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý mà không bối rối hay giận dữ.
Chúng ta có thể đồng ý hay không đồng ý mà vẫn giữ được tình bằng
hữu. Phải chăng chúng ta không thểâ? Ðó là việc tuyệt vời nhất, cái tinh
hoa của sự trưởng thành tinh thần. Vì mỗi người chúng ta quyết định một
cách thành thực và ngay thẳng cho chính chúng ta những điều chúng có thể
hiểu và những điều chúng ta không thể hiểu. Chúng ta không cần phải tin
mọi thứ hay bất cứ thứ gì.
Chính Ðức Phật đã nói tốt hơn là phải xem
xét cẩn thận, điều tra nghiên cứu và kiểm tra cho chính chúng ta trước khi
chấp nhận một điều gì. Ngay cả đến những lời của Ðức Phật cũng
phải được kiểm tra kỹ lưỡng. Rốt cuộc, Ðức Phật không ngoại trừ điều
nào cả. Ngài không bao giờ tin trong niềm tin mù quáng. Ngài không bao giờ bảo
chúng ta chỉ tin vào điều Ngài nói hay chỉ bác bỏ điều người khác
nói. Mà Ngài bảo chúng ta hãy điều tra nghiên cứu, thực hành và minh định
cho chính chúng ta. Nếu chúng ta thấy điều gì tốt, điều ấy là điều
thiện, lành mạnh dẫn đến loại bỏ tham sân si, thì chúng ta chấp nhận. Nếu
không, chúng ta bác bỏ. Ðó là một lời khuyên tuyệt hảo. Cho nên lấy ý của Ðức
Phật, tôi bao giờ cũng thích nói: Không tin vào điều gì cả. Nhưng hãy suy
nghĩ, thực hành và minh định cho chính mình. Với tôi đó là cách giải
quyết tốt nhất và an toàn nhất. Nhưng về bất cứ lỗi lầm nào trong phần trước
tác cuốn sách này, tôi xin lỗi và xin được tha thứ.
Nguyện cầu tất cả chúng sinh đều hạnh
phúc. Chúc cho chúng ta tìm được trí tuệ và hạnh phúc mà chúng ta đang
tìm kiếm theo con đường riêng của từng người; và vui đọc sách!
---*---
XIN CHÀO TỬ THẦN,
CHÀO TỪ BIỆT CÕI ÐỜI
CHÀO TỪ BIỆT CÕI ÐỜI
Một ngày nào đó khi tôi chết, vì tôi phải
chết, tôi muốn chết với một nụ cười trên môi. Tôi muốn ra đi bình thản,
muốn chào tử thần như một người bạn, có thể nói vui vẻ: "Xin chào Tử Thần,
Chào Từ Biệt Cõi Ðời".
Tôi có thể tưởng tương chính tôi có một cuộc đối
thoại với tử thần. Có lẽ có thể như thế này: "Chào Thần Chết! Mi có khỏe
không? Ta đã chờ đơi ngươi từ lâu. Suốt đời ta mong mỏi ngươi đấy.
Phải chăng rốt cuộc ngươi đang đến với ta? Ðã đến giờ ta phải ra đi
rồi phải không?
"Ðúng, đúng, Tử Thần! Ta đang đến
đây. Hãy kiên nhẫn. Ta đã sẵn sàng. Ngươi không biết ta là gì? Từ lâu ta đã
dự tính chào ngươi bằng một nụ cười. Phải, Tử Thần à, ta hiểu. Ngươi không phải
xin lỗi. Ta biết ngươi có việc phải làm. Ta không có gì chống lại ngươi cả.
Không có cảm nghĩ khó chịu. Không có gì là riêng tư, ta hiểu.
"Như ta đã nói, Tử Thần à, suốt đời
ta mong đợi lúc này. Ðể xem liệu ta có thể gặp ngươi với một nụ cười không. Ít
ra cũng để xem liệu ta có hứng trong cái chết không, nếu không có hứng ở
trong cõiđời. Bây giờ ngươi đang cho ta cơ hội này và ta cảm ơn ngươi về điều
đó.
"Phải, ta đã nghe rất nhiều về
ngươi. Ngươi không đợi ai. Ngươi đến như một tên trộm ban đêm. Ngươi
không mặc cả với một ai. Ngươi không chấp nhận câu trả lời "không".
Tử thần, được rồi. Ta sẽ đến với ngươi
một cách vui vẻ. Ta đã mệt rồi. Tấm thân này như một cái vỏ vỡ. Nó đã rệu
rã. Nó đã sống lâu hơn thời gian nó được sử dụng. Như ngươi thấy, ta
đã sẵn sàng kề cái chết. Và ta đã chịu đựng tất cả sự đau đớn này, cố
gắng mỉm cười với tất cả khách đến mời gọi ta. Tử thần, nói thật với
ngươi, lẽ ra ngươi phải đến sớm hơn. Xét cho cùng sự đau đớn này, ngươi là
khoảng thời gian thoải mái như của trời cho. Nhưng nói đủ rồi. Tử Thần,
không lần lữa nữa. Nào lênđường. Hãy cầm tay ta."
Và ta phải đi như ta thường mơ ước với nụ
cười trên môi. Cách chết đẹp đẽ biết là nhường nào! Tất cả những người xúm
quanh tôi không cần phải khóc. Họ vui vẻ vì thấy tôi đang mỉm cười. Họ sẽ
biết tôi được lắm chứ. Cái chết chẳng là cái gì mà phải sợ hãi. Hãy đối xử
với cái chết như một người bạn. Hãy sẵn sàng nói lời chào tử thần và chào từ biệt
cõi đời.
Ðương nhiên không ai được miễn trừ trước
cái chết. Tất cả chúng ta phải chết. Như Ðức Phật đã nói: Ðời
sống mong manh và cái chết là điều chắc chắn. Trong khi chúng ta sống
chúng ta đau khổ khi chia lìa xẩy tới với cái chết của một người thân. Cả
hai ông bà tôi đều đã chết. Tôi không nhớ ông nội tôi. Ông chết lúc tôi
còn rất trẻ. Nhưng tôi nhớ bà nội tôi. Bà rất ân cần với tôi. Bà cũng rất nghèo
khổ. Bà thích sống ở miền quê trong khi cha mẹ tôi lại sống ở thành thị. Tôi
nhớ một lần bàđến thăm chúng tôi, tôi xin bà năm xu. Lập tức bà lấy ngay ví tìm
ra năm xu và đưa cho tôi. Vào thờiđó có thể mua đồ với năm xu:Bạn có thể
mua được một cục nước đá hay một ly nước đá với năm xu. Nếu bạn muốn uống nước
dừa do người da đỏ bán bạn có thể mua được hai ly nước dừa với năm xu! Và với
năm xu bạn có thể mua được năm cái kẹo.
Cha tôi chết lúc tôi mười tuổi. Tôi nhớ có đến
thăm cha tôi lần cuối vào một đêm tại Bệnh Viện Ða Khoa, Cha tôi nằm chết
tại đấy vì bệnh lao và các biến chứng khác. Tôi nhớ mẹ tôi nói với cha
tôi: "Này Beh, đây là con Johnny đến thăm" Cha tôi không
nói được. Ông thở qua ống dưỡng khí ở mũi. Ông dường như nhìn tôi một cách
yếu ớt. Tôi còn nhỏ. Tôi không biết gì về cái chết, nhưng bây giờ tôi biết khá
hơn. Bà mẹ tội nghiệp của tôi đau khổ. Bà đã chứng kiến quá nhiều cái
chết và đã có một đời sống cực kỳ khó khăn từ hồi còn trẻ. Chắc chắn, đời
sống không phải là thảm hoa hồng với bà.
Một trong những người anh em tôi chết khi còn
nhỏ. Một người anh em khác chết lúc 23 tuổi cùng với vị hôn thê. Ðó là một thảm
kịch. Hai người bị chết đuối. Tôi vẫn còn nhớ nhìn thấy xác của họ tại nhà
quàn. Mẹ tôi than khóc lòng đau xót. Thật là đau đớn cho bà vì mất
một đứa con trai thân yêu một cách bi thảm như vậy. Tôi hoàn toàn choáng
váng và không biết làm gì để hiểu được điều này. Lúc đó tôi đã 16
tuổi. Tôi cố gắng ra vẻ thờ ơ, vô tình. Tôi gắng cầm nước mắt. Tôi nói và xử sự
như không có gì xẩy ra và như thể cái chết với tôi là chuyện hàng ngày, không
cần phải sầu thảm. Tôi coi điều đó là không quan trọng và cố tỏ ra vẻ lạnh
lùng.
Nhưng lúc một mình, tôi khóc. Tôi khóc một
cách đắng cay. Sau lễ mai táng tôi quay trở lại nghĩa địa. Tôi đi vòng
vòng trong nghĩa địa đầu nặng trĩu. Tôi đào đất và trồng hoa chung
quanh mộ của anh tôi và mộ người yêu dấu của anh. Tôi khắc vào cây thánh giá
bằng gỗ những chữ sau: "Không tình yêu vĩ đại nào bằng tình
yêu của một người đã chịu hy sinh thân mình vì bạn", vì anh tôiđã
chết trong khi cố gắng cứu người vợ chưa cưới. Và tôi nói với Thượng Ðế .Tôi
hỏi Ngài: "Hỡi Ðức Chúa Trời, Sao Ngài cư xử với tôi thế này? Tại sao Ngài
bắt anh tôi? Phải chăng đó là ý muốn hay lòng khát khao của Ngài? Nếu thế, xin để
ý muốn của Ngài được thực hiện. Tôi chấp nhận việc đó". Vì các bạn
thấy lúc đó tôi là một người Cơ Ðốc Giáo tốt. Và ý muốn của Thượng Ðế phải đi
trước tất cả mọi việc khác. Không được nghi hoặc. Nhưng bây giờ tôi là một Phật
tử, tôi tin là tôi hiểu hơn một chút. Phải, không có Thượng Ðế nào bắt anh tôi.
Nếu chúng ta chấp nhận sự sống, chúng ta phải chấp nhận cái chết. Chết là phần
thiết yếu của sự sống. Như Ðức Phật đã nói, chính vô minh đã làm cho
vạn vật trong vòng khổ đau, và chúng ta cứ trôi lăn hết kiếp này đến
kiếp khác theo những hành vi của chúng ta. Thiện mang điều lành và ác mang điều
xấu. Tôi phải thú thật rằng tôi có thể hiểu rõ hơn với cách Ðức Phật nhìn vào
mọi sự.
Sau này trong cuộc sống tôi chứng kiến nhiều
cái chết hơn. Là một nhà báo, tôi đã nhìn thấy xác những người chết vì tai
nạn, băng đảng đánh nhau, tự tử, độc dược vân vân... Tôi đã viết những chuyện
bi kịch, cảm xúc hay bi thảm về người ta chết ra sao. Có một người hôn đứa
con gái nhỏ từ biệt rồi tự bắn vào đầu mình. Có một cặp trai gái thỏa
thuận cùng nhau tự tử trên giường của một khách sạn. Người con gái chết vì
thuốc độc họ mang theo, người con trai thoát chết. Và có tên cướp khét
tiếng bị bắn chết bởi Cảnh Sát vào Ngày Tết. Tên cướp này bị theo dõi nên đã
không thể sốngđể nhìn thấy hết ngày đầu năm mới. Nhưng đối với tôi đó chỉ
là một câu chuyện nữa. Tôi chưa bao giờ nghĩ sâu xa về cái chết. Tôi hoàn toàn
bị tê liệt bởi nó. Tất cả tôi muốn là câu chuyện hay được đặt trên trang
nhất của tờ báo. Hầu như không có cảm nghĩ hay tình thương trong tôi đối
với những nạn nhân tội nghiệp. Tôi quả là một người nhẫn tâm và ích kỷ chỉ chú
trọng đến phúc lợi của mình.
Mãi sau này, là một nhà sư, tôi đã gặp
những cái chết – vào lúc này tôi thấy nhiều cảm nghĩ và từ bi hơn. Khi tôi thăm
người bệnh tôi thông cảm với họ. Tôi cố gắng hết mình để an ủi họ. Với
những người Phật Tử, tôi tụng kinh, những bài kinh Phật. Tôi nói với họ câu Ðức
Phật dạy: Thân bệnh nhưng đừng để tâm bệnh. Chúng ta có thể
không làm được gì nhiều cho thân nhưng chúng ta có thể làm được gì đó
cho tâm. Chúng ta có thể giữ tâm bình tĩnh khi chúng ta đau yếu. Chúng ta
có thể chú tâm. Chúng ta có thể theo dõi sự tăng giảm của đau đớn, nó đến và đi
từng đợt như thế nào. Chúng ta có thể hiểu biết bản chất của khổ đau.
Chúng ta có thể gặp nó và học hỏi từ nó. Chính đó là một cuộc thử nghiệm –
làm sao chúng ta hiểu rõ bản chất của sự sống, làm sao chúng ta hiểu rõ rằng
không có cái ngã thường còn nơi đây mà chỉ có sự thay đổi liên miên
của sinh và diệt, giống như dòng sông trôi chảy bất tận; làm sao chúng ta hiểu
rõ chính cái vô minh, tham ái, luyến chấp, giận hờn, sợ sệt vân vân của chúng
ta là nguyên nhân của khổ đau.
Bằng sự hiểu biết đó chúng ta có thể đứng
lên đón nhận cái đau đớn. Chúng ta có thể coi điều đó là việc bình thường.
Chúng ta có thể giữ bình tĩnh và ôn hòa. Thậm chí không một chút gì ngã lòng.
Ðúng chúng ta có thể mỉm cười, ngay cả lúc đau đớn. Chúng ta có thể nói: "Này đau
đớn, mi thật tình muốn ta chết phải không? Người khác có thể gục ngã với mi
nhưng với ta thì không. Ta đã được huấn luyện và sắt đá với mi. Ðức
Phật dạy ta nên đáp lại mà không giận dữ hay ghét bỏ. Cho nên ta cố gắng đáp
lại mi không giận dữ hay ghét bỏ. Ta hiểu rằng bằng chánh niệm và an lạc trong
tâm ta, ta có thể vượt lên mi. Ta có thể cười mi. Mi dạy ta đời là khổ đau.
Nhưng mi cũng dạy rằng ta có thể vượt lên mi." Và bạn có thể mỉm cười
trước cơn đau. Bạn sẽ cảm thấy khỏe hơn ngay lập tức.
---*---
Cuộc sống hầu như là bèo bọt
Chỉ có hai điều trân quý
Tử tế với người phiền muộn,
Can đảm tự trong lòng
Chỉ có hai điều trân quý
Tử tế với người phiền muộn,
Can đảm tự trong lòng
Adam Gordon
---*---
HAI QUYẾT TÂM
Khi tôi viết những dòng này, tôi nhớ lại mới
hôm qua một nhà sư bạn tôi chết. Ông bị ung thư giaiđoạn cuối cùng đã tám
tháng. Khi tôi ở bên cạnh ông tại bệnh viện một vài ngày trước khi ông chết,
ông đang ở trong cơn đau đớn. Tôi cố gắng đút cho ông ăn một chút canh
nhưng ông không ăn được. Ông trông rất hốc hác và khủng khiếp. Ông hầu như
không nói được. Bênh ung thư đã tàn phá thân thể ông và không phải là
một nhiệm vụ dễ dàng để chịu đựng cho tinh thần của ông. Tôi cố nài ông
lưu ý quan sát cái đau đớn như ông thường làm trong lúc hành thiền, để
càng giữ được bình tĩnh và thanh thản càng tốt. Ông là một người thiền định
vững vàng và tôi chắc chắn ông đã thiền về chính phút cuối cùng này.
Tôi nhớ lại một dịp khác khi tôi đến thăm
một ông già khả ái bị bênh bạch cầu. Ông cũng ở trong cơnđau đớn. Ðau đớn
hiện trên nét mặt ông. Có những giọt mồ hôi trên trán và mặt ông. Tôi lấy cái
khăn và nhẹ nhàng lau mồ hôi cho ông. Tôi ghé vào tai ông thì thầm cố gắng làm
cho ông giảm đau. Ông này cũng là người hành thiền và tôi lại nhắc nhở ông
giữ chánh niệm quan sát cái đau càng điềm tĩnh càng tốt. Tôi cảm thấy
vui khi nhìn thấy vẻ đau đớn biến mất trên mặt ông. Một lúc sau đó
thân nhân đến và tôi ra về. Một vài giờ sau, ông chết. Tôi vui vì đã có
thể giúp ông một chút trước khi ông tắt thở.
Mặc dù có hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng vẫn
có khổ đau. Hạnh phúc hình như rất phù du – nó ra đi không đợi chờ
chỉ để rồi được thay thế bằng phiền muộn và bất mãn. Bởi vì sự sống kết thúc
bằng cái chết nên tự nó là một thảm kịch. Có người nói đời sống giống như
một củ hành: bạn bóc nó làm chảy nước mắt. Ðức Phật nói sinh là khổ đau vì
sinh dẫn đến suy tàn và chết. Chúng ta nên hiểu rõ điều này. Nếu
chúng ta chấp nhận sự sống chúng ta phải chấp nhận cái chết. Nếu chúng ta muốn
khóc khi người nào đó chết thì chúng ta cũng nên khóc vào lúc người ấy ra đời.
Vào lúc đứa trẻ sinh ra thì mầm mống của cái chết đã ở trong nó.
Nhưng chúng ta lại mừng rỡ khi đứa trẻ được sinh ra. Chúng ta cười và chúc
mừng cha mẹ đứa trẻ. Nếu chúng ta hiểu sinh – nó phải dẫn đến cái chết –
thì khi cái chết đến chúng ta có thể đối mặt với nó bằng một nụ cười.
Nhìn con người chết trong đau đớn ra sao,
thân thể của họ bị suy sup vì bệnh, và thấy tất cả đời sống phải kết liễu
bằng cái chết (sự việc đó đã làm cho tôi hiểu mỗi lần đi đến nhà quàn để
tụng kinh), hai quyết tâm phát sinh trong tâm tôi: Trước nhất, đến lúc tôi
chết, tôi muôn chết với một nụ cười trên môi. Tôi muốn tôi có thể giữù chánh
niệm và được thanh thản. Nói một cách khác tôi muốn giữ bình tĩnh. Tôi
muốn có thể vẫn mỉm cười dù cái đau đớn nó hành hạ tôi đến thế nào đi
nũa. Tôi muốn tôi có thể mỉm cười với tất cả khách khứa đến thăm viếng tôi. Tôi
muốn tôi có thể mỉm cười với tất cả các bác sĩ và y tá tốt bụng săn sóc tôi.
Tôi muốn tôi có thể mỉm cười với những bệnh nhân bạn tôi để giúp họ làm bất cứ
cách nào có thể ở bênh viện, hoặc để truyền cảm hứng hoặc để an ủi.
Thay vì những bác sĩ và y tá hỏi tôi có khỏe
không, tôi muốn hỏi họ: "Bác sĩ có khỏe không? Chị có khỏe không? Hôm nay
quí vị thế nào? Quí vị biết không quí vị đang làm một công việc cao cả.
Chúng tôi rất may mắn có quý vị. Xin tiếp tục công việc tốt đẹp này. Xin
cảm ơn quý vị nhiều." Và với những khách là Phật tử, tôi sẽ nói Phật Pháp.
Tôi sẽ nói: Hãy nhìn tôi. Tôi sắp chết rồi. Kết thúc rồi! Quý bạn biết đấy
hành thiền lúc sắp chết không phải là dễ. Vậy nên trong khi bạn còn khỏe hãy cố
gắng tận dụng điều đó. Hãy hành thiền! Hãy thực hành Pháp! Không còn hối
hận sau này. Ðừngđợi đến lúc bạn đau nặng thì đã quá trễ. Nhưng nếu ngay
bây giờ bạn thực hành thiền, khi bạn bệnh, bạn sẽ không bị khó khăn nhiều lúc
phải đối phó với cơn đau. Bạn có thể quan sát nó và thậm chí vượt qua nó.
Các bạn biết đấy, Ðức Phật bảo chúng
ta rằng mọi thứ đều vô thường. Nếu chúng ta hành thiền chăm chỉ đầy đủ,
chúng ta có thể hiểu được sự thật về vô thường sâu xa hơn, như vậy chúng ta sẽ
không bị trói buộc vào tâm và thân này. Chúng ta biết chắc chắn thân này không
phải của chúng ta, tâm này cũng chẳng phải của chúng ta. Hiểu biết, chúng ta có
thể buông bỏ. Chúng ta sẽ không bị trói buộc vào vào những dục lạc thô thiển
của sự sống. Chúng ta có thể sống một cách khôn ngoan hơn. Chúng ta về già một
cách thanh nhã. Và chúng ta không cần sợ chết.
Ðức Phật nói khổ đau gắn liền với đời
sống. Và chúng ta phải học hỏi cách sống với nó và vượt qua nó. Chỉ bằng cách
áp dụng chánh niệm vào cuộc sống hàng ngày và hành thiền chúng ta có thể thâm
nhập vaò chân lý của khổ đau. Khi chúng ta hiểu được khổ đau một cách sâu
xa, chúng ta sẽ tranh đấu để loại bỏ nguyên nhân của nó, đó là tham ái, bị
trói buộc vào đời sống, vào sức cám dỗ của những cảnh tượng vui thích, âm
thanh dịu dàng, những mùi vị dễ chịu, và những đụng chạm êm đềm.
Chúng ta sẽ cố gắng thanh tịnh tâm trước tất cả các ô nhiễm.
Theo Ðức Phật, khi tâm chúng ta được tẩy
sạch tham sân và si, chúng ta sẽ vượt qua được tất cả khổ đau. Chúng ta sẽ
không bao giờ phản ứng lại bằng luyến chấp và ác cảm với bất cứ gì. Thay vìđiều
đó sẽ có trí tuệ và từ bi trong chúng ta. Chính điều này chính là chấm dứt
khổ đau. Không bám víu nữa chúng ta sẽ không bao giờ khổ đau. Cả đến cái
đau thể xác cũng không làm tinh thần đau vì tâm không phản ứng bằng ác cảm
và giận dữ. Tâm sẽ bính an. Có chấp nhận và hiểu biết. Khi chúng ta chết trong
lúc có loại trí tuệ và an bình này, Ðức Phật nói điều đó là sự chấm dứt
khổ đau. Không còn tái sanh, không còn trở lại vòng sinh tử. Nếu chúng ta
không tái sanh, không còn suy tàn và chết kèm theo khổ đau. Chấm dứt! Hạ
màn! Cái khối đau khổ bị dập tắt. Và chúng ta có thể nói giống như các vị
thánh thời cổ đã nói, Làm được cái đáng phải làm. Ðược sống
là cuộc đời thánh thiện.
Ðương nhiên, ngay bây giờ chúng ta có thể vẫn
còn xa mục tiêu. Nhưng người ta nói, hành trình ngàn dậm bắt đầu bằng một
bước đi. Cho nên tôi là người lạc quan. Vâng, tôi là một Phật tử và một người
lạc quan. (Ai nói người Phật tử là người bi quan?) Và tôi tin rằng mỗi bước đi
trên con đường chánh niệm sẽ mang chúng ta bước gần hơn tới mục tiêu – mục
tiêu Niết Bàn, sự kết thúc của mọi khổ đau. Và là một người lạc quan, tôi
thích nghĩ rằng sớm hay muộn chúng ta sẽ đạt tới Niết Bàn.
NÓI CHUYỆN ÐÓ BẰNG CẢ HOA LÁ
Và khi tôi đang nằm trên giường bênh
viện, tôi thích nói Phật Pháp với tất cả những ai hỏi han tôi, hay bất cứ ai
muốn nghe.
Hơn nữa, tôi có thể gửi hoa tặng đến tất
cả những bạn hữu ngoài kia. Tôi có thể đính kèm một cái thiệp với thông điệp
như sau: "Chào bạn! Bạn có mạnh khỏe không? Bạn có thích những đóa
hoa này không? Hoa này không đẹp phải không? Bạn có thì giờ để
tạm nghỉ và thưởng thức cái đẹp của bông hoa và hít hương thơm ngát của nó
không? Và khi bạn nhìn vào bông hoa, bạn có nhìn thấy những cặp mắt long lanh
của người thân hay đứa con bạn không? Bạn có cảm thấy hiểu hy vọng và sợ
hãi của họ không? Hay là bạn quá bận, quá lo lắng với những kế hoạch tham vọng
trần tục, sự theo đuổi danh vọng và của cải của bạn phải không?
"Bạn đã xem xét kỹ bản chất của vô
thường chưa bạn – làm sao tất cả phải úa tàn và chết? Và làm sao trong khi chúng
ta sống, chúng ta phải sống có ý nghĩa để sau này khỏi phải ân hận. Cũng
vậy, giống như bông hoa đang úa tàn, tôi cũng đang chết. Nhưng tôi
gửi những lời cầu chúc tới ban. Chúc bạn khoẻ và hạnh phúc! Tôi hy vọng bạn sẽ
tìm được thì giờ cho những người thân yêu của bạn tập hành thiền. Ban biết
không, kiếm tiền, có nhiều đồ xa xỉ, vui hưởng dục lạc không phải là mọi
thứ. Những thứ đó có thể làm cho bạn vui một lúc nào đó thôi, nhưng
thực tế tử tế và tình thương yêu quan trọng hơn nhiều: nó làmõ cho bạn thỏa mãn
và hạnh phúc nhiều hơn. Xin tha thứ cho tôi vì đã thuyết giảng những lời
làm nhàm như vậy nhưng xin hãy lưu ý đến những lời của một người sắp chết.
Hãy cho phép người ấy được giãi bày. Ðúng, trong khi bạn sống bạn nên cố
gắng trải rộng vui vẻ và hạnh phúc càng nhiều càng tốt. Hãy tha thứ cho mọi
người. Không nên nuôi dưỡng một thái độ hằn học nào hay coi bất cứ ai là
kẻ thù của bạn. Luôn luôn nhớ rằng đời sống ngắn ngủi và chẳng bao lâu tất
cả chúng ta đều phải chết. Và thương yêu chính là cho chứ không phải là
nhận. Cho tình thương không kèm theo điều kiện. Tình thương không mong mỏi được
đền bù. Hãy cố gắng trau dồi loại tình thương đẹp đẽ như vậy. Chúc bạn
hạnh phúc!" Tôi kết thúc bằng lời tái bút: – "Hãy bảo trọng. Không
cần phải đến thăm tôi. Nhưng bạn có thể vui sướng cho tôi. Vì tôi đang
mỉm cười và tôi sung sướng là tôi có thể chết với một nụ cười trên môi. Tạm
biệt và chúc may mắn"
Và nếu tôi không nói được vì quá mệt thì
tôi vẫn có thể mỉm cười để cho thấy mọi việc đều tốt đẹp, và bệnh chỉ hại
cái thân tôi nhưng không hại cái tâm tôi. Bằng cách đó ta vẫn có thể
truyền cảm hứng cả đến khi chúng ta bệnh. Lúc ấy người ta sẽ đánh giá Phật Pháp
cao hơn, và thực hành chăm chỉ hơn. Lẽ đương nhiên, nếu tôi đang nói với
những người bạn không phải là Phật tử, tôi phải được áp đặt quan điểm tôn
giáo của tôi lên họ. Tôi có thể giãi bày quan điểm của tôi chứ không đời
nào lại ápđặt cho họ quan điểm ấy. Giống như tôi không muốn họ áp đặt quan điễm
của họ cho tôi, vậy cũng thế tôi phải không áp đặt cho họ quan điểm của
tôi. Chúng ta phải tôn trọng quan điểm tôn giáo của nhau và phải có tình thương
yêu-khả ái với nhau. Bằng cách này, sẽ có chung sống hòa bình.
---*---
ÐỐI PHÓ VỚI BỆNH TẬT –
THÁI ÐỘ THÍCH HỢP
THÁI ÐỘ THÍCH HỢP
Chúng ta không nên coi bệnh tật và khổ đau
là thứ hoàn toàn tàn phá chúng ta, và vì thế chịu thất vọng và ngã lòng. Trái
lại (nghĩa là trường hợp người Phật tử), chúng ta phải coi đó là cuộc trắc
nghiệm xem chúng ta đã hiểu lời Phật dạy tốt đến đâu, và chúng ta có
thể áp dụng sự hiểu biết mà chúng ta cho là đã học tốt đến mức nào.
Nếu chúng ta không đối phó được về mặt tinh thần, nếu chúng ta bị suy sụp,
nó cho thấy sự hiểu biết của chúng ta về Phật Pháp, sự thực hành của chúng ta,
vẫn còn yếu. Vì vậy bằng cách này, đó là cuộc trắc nghiệm và cơ hội cho
chúng ta thấy mức độ chúng ta đã quán triệt sự thực hành của chúng ta.
Rồi bệnh cũng là cơ hội cho chúng ta nâng cao
hơn nữa sự thực hành kiên nhẫn và khoan dung của chúng ta. Làm sao chúng ta có
thể thực hành và phát triển đến viên mãn (toàn hảo) ví như lòng kiên nhẫn
nếu chúng ta không trắc nghiệm, nếu chúng ta không bị đặt vào những hoàn
cảnh khó khó khăn và khốc liệt? Vậy nên bằng cách này, chúng ta có thể coi bệnh
là cơ hội cho chúng ta trau dồi thêm nhẫn nại.
Chúng ta cũng có thể nhìn vào sức khỏe không
phải chỉ là sự vắng bóng của bệnh tật mà còn là khả năng trải qua bệnh, và học
hỏi và phát triển từ đó. Ðúng, một định nghĩa mới lạ về sức khỏe
như thế bắt nguồn từ một số chuyên gia y tế như Bác Sĩ Paul Pearsall của Bệnh
viện Sinai tại Detroit, Hoa Kỳ. Thấy bệnh không bao giờ trừ tiệt được và
cuối cùng chúng ta phải gục ngã bằng cách này hay cách khác ra sao, những bác
sĩ này đã đi đến định nghĩa về sức khỏe có thể giúp ta có thể thích
nghi với bệnh khi nó đến. Ðiều đó đúng phải không? Cho dù nhiều máy
móc, phương pháp và thuốc men tinh vi đến thế nào đi nữa, người ta
vẫn cứ gục ngã trước ung thư, bệnh AIDS, bệnh đau tim và nhiều bệnh khác.
Cuối cùng, không có lối thoát. Chúng ta phải
hiểu và chấp nhận sự thật, để khi nó đến và chúng ta phải gục ngã, chúng
ta có thể gục ngã một cách thanh tao. Chắc chắn, chúng ta sẽ chữa trị bệnh bằng
hết sức mình, nhưng khi bất chấp những cố gắng cao nhất của chúng ta, chúng ta
thất bại và bệnh tiếp tục gia tăng, chúng ta phải chấp nhận và cam chịu với cái
không thể tránh được.
Phân tích đến cùng, không phải vấn đề
là chúng ta sống lâu bao nhiêu mà là chúng ta sống tốt đẹp ra sao mới đáng
kể, và điều đó gồm cả cách chúng ta có thể chấp nhận bệnh tật của chúng ta
đến mức nào, và sau hết chúng ta có thể chết ra sao. Về mặt này, Bác sĩ Bernie
S. Siegel trong cuốn sách của ông, "Hòa Bình, Tình Thương và Chữa
Bệnh", viết:
Những bệnh nhân khác thường
không cố gắng để không chết. Họ cố gắng để sống cho đến khi họ chết. Họ đã
thành công, mặc dù hậu quả bệnh tình như thế nào, vì họ đã chữa lành đời
sống của họ, chơ dù họ không chữa được bệnh của họ.
Và ông cũng nói:
Một cuộc đời
thành công không phải về cái chết. Ðó là về sống tốt đẹp. Tôi đã thấy có
người mới hai tuổi và chín tuổi đã thay đổi được người ta và cả các
cộng đồng bởi khả năng của họ về tình thương, và đời sống của họ
thành công dù ngắn ngủi. Mặt khác, tôi biết nhiều người sống lâu hơn rất nhiều
và không để lại gì ngoài sự trống rỗng.
Cho nên thật tuyệt vời rốt cuộc là đời
sống của chúng ta có thể được chữa lành mặc dầu bệnh của chúng ta có thể không được
chữa khỏi. Sao vậy? vì khổ đau là vị thầy giáo và nếu chúng ta học bài
thuộc, chúng ta có thể trở nên thành người tốt hơn một cách đáng ngạc
nhiên.Chúng ta đã không nghe những chuyện có những người trải qua đau
đớn nhiều, thoát khỏi, đã thay đổi thành người tốt hơn ư? Nếu họ không
kiên tâm, ích kỷ, cao ngạo và không thận trọng trước đó, bây giờ họ có thể
trở nên kiên nhẫn, tử tế, lịch thiệp, và nhũn nhặn hơn. Ðôi khi họ nhận thấy
bệnh là một điều tốt cho họ – bệnh đã cho họ cơ hội để xem xét lại
lối sống và những giá trị quan trọng hơn trong đời sống. Họ đi đến đánh
giá cao gia đình và bạn hữu hơn, và quý trọng thời gian họ đã sống với
những người thân yêu. Và nếu họ bình phục lại được, họ sẽ dành nhiều thì
giờ hơn cho những người thân, và làm những việc thực sự quan trọng và có ý
nghĩa nhiều hơn.
Nhưng cho dù chúng ta bị gục ngã vì bệnh chúng
ta vẫn có thể học hỏi và phát triển từ nó. Chúng ta có thể hiểu được cái
mong manh của sự sống và lời dạy của Ðức Phật đúng ra sao – có một yếu
điểm trong sự sống. Chúng ta có thể trở nên tử tế hơn, cảm niệm nhiều hơn về
lòng khả ái mà chúng ta nhận được từ người khác. Chúng ta có thể tha thứ
những ai đã làm cho chúng ta đau đớn. Chúng ta có thể thương yêu một cách
hào phóng và sâu xa hơn. Và khi cái chết đến, chúng ta có thể chết bằng sự
chấp nhận và an bình. Bằng cách đó, chúng ta có thể nói đời sống của chúng
ta được chữa lành vì chúng ta hòa hợp với thế giới và chúng ta sống trong bình
an.
CHÚNG TA CÓ THỂ HÀNH THIỀN
Khi chúng ta ốm và nằm liệt giường, chúng ta
không cần phải thất vọng. Chúng ta vẫn có thể hành thiền khi chúng ta nằm trên
giường. Chúng ta có thể quan sát tâm và thân chúng ta. Chúng ta có thể giành được
bình tĩnh và sức mạnh bằng cách hành thiền hơi thở. Chúng ta có thể quan sát sự
hít vào và thở ra, biết chúng ta hít vào và thở ra. Việc này có thể cho chúng
ta ấn tượng bình tĩnh. Hay chúng ta có thể quan sát cái bụng phồng lên và xẹp
xuống khi hít vào và thở ra. Tâm của chúng ta có thể đi theo sự lên xuống,
và hòa nhập với nó. Việc này cũng có thể cho ta sự bình tĩnh. Và từ sự bình
tĩnh này, sự hiểu biết có thể phát sinh. Chúng ta có thể nhìn thấy tính chất
nhất thời và hủy diệt của tất cả các hiện tượng, và có thể hòa hợp với sự thật
về vô thường, bất toại nguyện và vô ngã.
Nếu chúng ta đã học thiền chánh niệm hay
thiền Minh Sát [*], thời gian có thể trôi qua dễ dàng. Có nhiều đối tượng
chúng ta có thể quan sát trong bất cứ tư thế nào dù nằm, ngồi đi hay đứng.
Chúng ta có thể biết tư thế của chúng ta đang ở tư thế nào, và cảm thấy những
cảm giác phát sinh trong thân chúng ta. Chúng ta có thể quan sát chúng bằng cái
tâm vững vàng và bình thản. Và lẽ đương nhiên, tâm cũng phải là đối
tượng quan sát. Cho nên chúng ta có thể quan sát các trạng thái của tâm. Tất
cảđều có thể được quan sát – buồn bã, thất vọng, bồn chồn, lo lắng, suy tư – và
tất cả chúng phải quađi nhường bước cho trầm tĩnh, an lạc và trí tuệ. Trạng
thái thiện và bất thiện đến rồi đi. Chúng ta có thể quan sát tất cả chúng
bằng sự hiểu biết và trầm tĩnh.
[*] Thiền Minh Sát tức Tuệ giác thiền
hay Chánh niệm thiền. Trong Thiền Minh Sát, hành già dùng chánh niệm để
quan sát bản chất hiện tượng tinh thần và thể chất, cuối cùng nhận thấy cái đặc
điểm của vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Với sự giới thiệu vào thiền Minh
Sát, và sự tu tập một loại thiền khác gọi là từ bi thiền, hay thương yêu-khả ái
thiền, xin mời bạn xem "Thiền Minh Sát" và "Kiềm Chế Nóng Giận
Trải Rộng Tình Thương", cả hai đều cùng một tác giả và phát hành bởi
Trung Tâm Thiền Mã Lai, Penang
Ðôi khi chúng ta có thể biểu lộ lòng thương
yêu-khả ái. Lập đi lập lại nhiều lần chúng ta có thể nguyện cho tất cả
chúng sinh:
Nguyện cho chúng sinh
tất cả đều được khỏe mạnh và hạnh phúc
Nguyện cho chúng sinh đều thoát khỏi tổn hại và hiểm họa.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau tinh thần.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau thể xác.
Nguyện cho chúng sinh có thể chăm lo cho chính mình một cách hạnh phúc.
Nguyện cho chúng sinh đều thoát khỏi tổn hại và hiểm họa.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau tinh thần.
Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau thể xác.
Nguyện cho chúng sinh có thể chăm lo cho chính mình một cách hạnh phúc.
Cũng bằng cách đó thì giờ có thể trôi qua
một cách hoàn toàn thích hợp cho dù chúng ta nằm liệt giường. Chúng ta có thể
truyền lòng từ bi-khả ái đến các bác sĩ, y tá và các bệnh nhân đồng
cảnh ngộ. Chúng ta cũng có thể truyền từ bi khả ái đến những người thân, họ
hàng và bè bạn chúng ta. Hơn thế nữa chúng ta có thể thỉnh thoảng suy nghĩ về
Phật Pháp, nhớ lại những gì chúng ta đã đọc, nghe hay hiểu biết. Suy
nghĩ như vậy, chúng ta có thể đáp lại được khổ đau của chúng ta bằng trí tuệ và
trầm tĩnh.
Giáo huấn của Ðức Phật là trau dồi tâm, hành
thiền, và làm như vậy cả khi chúng ta bị ốm đau. Thật ra, vào những thời điểm
như vậy chúng ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để tập trung chánh niệm của
chúng ta. Ai biết, Niết Bàn hay trí tuệ tối thượng, có thể đạt được vào
lúc trút hơi thở cuối cùng! Trong kinh, Ðức Phật có kể trường hợp một người ốm
– bị khổ sở vì cảm giác đau đớn thể xác, buồn bã, đau dữ dội, hành
hạ, làm quẫn trí, khó chịu làm tàn lụi cuộc sống. Nhưng con người ấy không ngã
lòng. Người ấy cảm thấy samvega - một ý thức cấp bách phấn đấu dù ở vào
những giờ phút cuối cùng. "Người ấy đã cố gắng phù hợp" Ðức Phật
nói, "Tâm của người ấy kiên quyết vào Niết Bàn, Người ấy đã tự mình
nhận thức được chân lý tối thượng, người ấy thấy Niết Bàn bằng cách thâm
nhập vào bằng trí tuệ".
---*---
Ðúng là, đúng là
người chủ hộ bị ốm, thân của ngươi yếu và gây trở ngại. Vì ai mang cái thân
này, hỡi này chủ hộ, chỉ muốn sức khỏe chốc lát thì hoàn toàn ngu dại. Hỡi này
chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện:
"Dù thân bệnh, tâm tôi không bệnh."
Hỡi này chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện.
"Dù thân bệnh, tâm tôi không bệnh."
Hỡi này chủ hộ, vì vậy, ngươi phải tự rèn luyện.
Ðức Phật
---*---
NGỢI KHEN KUAI CHAN
Tôi muốn nói với bạn về một hành giả du già
can đảm, đã chết êm ả do bệnh ung thư với tiếng "Niết Bàn" trên
môi. Tên bà là Kuai Chan và bà ra đi vào ngày 18 Tháng Chạp Năm 1992 tại
Kuala Lampur. Bà bốn mươi ba tuổi. Chồng bà, Billy, kể cho tôi nghe bà đã đương
đầu với bệnh tình ra sao. Thấy câu chuyện đầy hứng thú, nhất là đối
những hành giả du già (tu thiền), tôi xin phép ôngđược kể lại trong sách này,
và tôi cảm ơn ông đã đồng ý cho phép tôi.
Bà Kuai Chan được chẩn bệnh lần đầu tiên
với bệnh ung thư vú vào tháng 4 năm 1989. Vào thời gian này bà đã tu tập
thiền Minh Sát vào khoảng độ một năm. Bà bình tĩnh chấp nhận bệnh tình.
Billy nói, "Vợ tôi chấp nhận bệnh, đó là cái nghiệp của
bà" (nghiệp là một định luật tự nhiên của nguyên nhân và
hậu quả). Bà không đổ cho ai hay bất cứ cái gì. Bà cũng không cay đắng
hay rơi vào tình trạng ngã lòng. Bà hết sức vững vàng và giữ bình thản cho đến
lúc chết". Kuai Chan đã trải qua phẫu thuật để loại bỏ vú bị
nhiễm. Ba tháng sau bà lại phải giải phẫu lẫn thứ hai khi người ta thấy những
tế bào ung thư vẫn còn ở trong khu vực này. Sau đó bà được xạ trị và
hóa trị có tác động phụ tối thiểu. Trong suốt thời kỳ chữa bệnh ung thu vú
và trong sáu tháng cuối đời khi được chẩn đoán là bệnh ung thư phổi giai đoạn
cuối, bà đã từ chối không uống một thứ thuốc giảm đau nào. Billy nói,
"Bà không muốn thứ thuốc giảm đau nào". Cả đến khi cơn đau
lên đến cực độ bà vẫn từ chối không uống thuốc giảm đau, ngay cả đến
một viên Panadol. Bà là một người kiên quyết, rất mạnh mẽ và đáng khâm
phục"
Quyết định không chữa trị bằng thuốc giảm
đau vì bà muốn giữ tâm bà càng trong sáng và tỉnh táo càng tốt. Bà là hành giả
du già, và tất cả những hành giả du già trân quý chánh niệm. Họ không muốn một
thứ thuốc nào làm cho tâm họ trì độn và làm hại sự thiền định của họ.
Cho nên nếu họ lâm bệnh họ sẽ làm như vậy. Kuai Chan đã sửa soạn đối
đầu với cái đau nên bà đã từ chối thuốc giảm đau. Bà chỉ chấp nhận xạ
trị - hóa trị cho ung thư vú của bà vì phương pháp này có thể dẫn đến chữa
lành bệnh. Nhưng về sau, bà bị ung thư phổi và được cho biết đã ở giai đoạn
cuối bà đã từ chối chữa bằng xạ trị-hóa trị mà bệnh viện đề nghị làm
cho bà đỡû tức thở. Và khi bác sĩ đề nghị thuốc giảm đau như
morphine, bà cũng từ chối.
Billy cho biết khi trong đợt ung thư vú
đầu tiên Kuai Chan có một chút khó khăn với cơn đau sau khi giải phẫu. Là hành
giả du già, bà đã có thể nhận thấy cơn đau rất rõ ràng và cơn đau
sẽ biến đi. Nhưng ung thư phổi là một sự thử thách thực sự với bà. Cơn đau
luôn lên đến cực điểm nhưng bà vẫn từ chối không dùng thuốc. Có nhiều lúc
bà bị ngất xỉu và ngã sóng soài trên sàn nhà khi cơn đau đột phát. Nhưng
bà vẫn bình tĩnh. Bà cũng bị ho dữ dội dai dẳng nhiều ngày đêm. Billy ở
bên cạnh bà và khi thấy bà không ngủ được ban đêm ông cố làm bà dịu cơn đau
bằng cách xoa dầu, chà sát và những cách chữa trị truyền thống. Billy đưa
ba đến các thầy thuốc Trung Hoa và mua nhiều loại thuốc bắc và sắc lên cho
bà uống.
Billy nói chính niềm tin tưởng và thiền định
đã khiến bà có thể đối đầu với khổ đau với một mức độ thanh thản và tự tại
phi thường. Cả hai đều đã hành thiền với Thượng Tọa Sujiva tại một đạo
tràng tại Ðài Bắc năm 1988. Sau đó Kuai Chan tiếp tục tham gia thường xuyên các đạo
tràng khổ hạnh của Thượng Tọa Santisukharama tại Kota Tinggi,
Johor.
Khi được chẩn đoán bị ung thư phổi sau
đợt ho vào tháng bẩy năm 1992, bác sĩ cho biết bà chỉ sốngđược một tháng nữa.
Chỉ cho Kuai Chan và Billy hình chụp tia X, ông chỉ rõ ung thư đã lan tràn
ra sao khắp cả phổi. Ông cũng rất ngạc nhiên thấy Kuai Chai vẫn đi được và
trông rất khỏe mạnh, mặc dù tình trạng ung thư tàn phá phổi của bà. Nhưng bác
sĩ không biết là Kuai Chan có một tâm thép. Bà đã sống được sáu tháng
nữa. Ðối với bà không phải là một cuộc chiến để sống mà là chết có
nhân cách. Khi bà và Billy gặp tôi tại Trung Tâm Trí Tuệ ở Petaling Jaya khi
tôi đến thăm nơi đây vào tháng 7, họ hỏi họ có thể làm gì. Tôi bảo họ:
Ðiều một hành giả du già có thể làm là thiền định! Nếu tôi là bà tôi sẽ
thiền định cho đến lúc cuối cùng. Họ được khích lệ và Kuai Chan kiên
quyết dành những ngày còn lại hành thiền tại nhà. Billy nói ông hỗ trợ bà tận
tình.
Nhưng bà không cho là cơn đau có thể ghê
gớm đến thế. Bà nói bà chưa từng thấy cơn đau nào như vậy. Nhất là ở
phần dưới lưng, nóng như đốt và đau như cắt. Bà đã dồn tất cả
sức mạnh tinh thần để biết cái đau đớn nhưng bà vẫn không thành công. Nó
quá nhiều. Có những lúc bà nằm đó bất lực không nhận biết được cái đau đớn
nữa. Bà hơan toàn cam chịu. Nhưng bà vẫn không uống thuốc giảm đau. Bà
tham khảo với thầy dạy thiền, Thượng Tọa Sujiva khuyên bà trải lòng từ bi khả
ái và tu thiền sổ tức hít thở để giảm thiểu cơn đau khi bà chịu không nổi
nữa. Việc làm này khiến cho bà dễ chịu. Từ sự dễ chịu này bà có thể tiếp tục
thiền minh sát. Một hôm sau ba tuần chiến đấu với cơn đau dai dẳng, bà có
một kinh nghiệm độc đáo. Bà nói với Billy trong khi nhận thấy cái đau
như cắt, bà quan sát thấy nó càng ngày càng nhỏ đi cho đến khi nó biến
hẳn. Bà nói bà cảm thấy như tất cả giác quan đều bị cắt bỏ, như thể không
có danh-sắc (tâm và thân) vào lúc đó tâm và thân đã cùng nhau biến đi
với cái đau. Bà nói với Billy bà cảm thấy giống như bà trải nghiệm Niết Bàn, và
bà cảm thấy cực kỳ sung sướng. Sau kinh nghiệm này, bà không bao giờ gặp phải
loại đau đớn cực độ nữa.
Mười ngày trước khi lâm chung, Billy mang bà
vào một bênh viện tư vì bà khó thở. Bác sĩ đặt ống dưỡng khí cho bà. Hình
chụp tia X cho thấy những tế bào ung thư đã lan rộng hơn nữa làm trầm
trọng sự nghẹt thở. Chữa bằng xạ trị – hóa trị được đề nghị không phải là
có thể chữa lành bệnh mà chỉ để giảm nhẹ bệnh tình. Nhưng Kuai Chan không
muốn tâm mất sáng suốt nên bà đã từ chối. Sau năm ngày bà đòi Billy đem
bà về nhà vì bà cảm thấy không có lý do nào nữa để bà phải ở lại bênh
viện. Billy lắp bình dưỡng khí tại nhà, mang bà về nhà và để bà thở qua
ống dưỡng khí hầu làm giảm bớt khó khăn về hít thở của bà. Năm ngày sau từ 13
Tháng Chạp đến lúc bà chết ngày 18 Tháng Chạp bà dường như ở trong tình
trạng thiêm thiếp ngủ, thỉnh thoảng mới tỉnh dạy. Hai ngày trước khi chết bà
vẫn còn nhớ ngày sanh nhật thứ 17 của đứa con gái vào ngày 17 Tháng Chạp.
Bà nhắc Billy luộc hai quả trúng cho đứa con gái và cho con gái một bao
(lì sì) đỏ, Billy đã làm theo lời bà.
Vào ngày 18 Tháng Chạp, bà tỉnh dạy lúc 9 giờ
sáng với một nụ cười. Bà hỏi, "Có phải tôi ngủ không?" Billy trả lời:
"Phải đã năm ngày rồi, em biết không?" Bà ngạc nhiên. Bà dường
như rất sung sướng và mỉm cười. Bà nói bà không cần uống thuốc bắc nữa. Bà lại
nhớ lại ngày sinh nhật của đứa con gái và mặc dầu Billy đã nói cho bà
biết là ông đã đưa bao lỳ sì đỏ cho đứa con gái như bà đã
dặn, Bà lại nói lần nữa với Billy, "Hãy cho cho đứa con gái một phong
bao nữa (bao lì sì khác) nhân danh tôi".
Billy nói, vào khoảng 2 giờ chiều Kuai Chan
muốn nói cái gì với ông ta nhưng quá yếu không nói nổi. Billy nhắc bà hãy duy
trì tâm trạng vô tư, đừng lo lắng gì về chồng và các con, và cảm thấy tự
do để ra đi êm ả. Ông nói, họ đã thảo luận nhiều lần về việc này
trước đây, rằng nếu bà có thể lành bệnh thì tốt, và nếu không thể chữa được,
thì cũng phải chịu: bà có thể đi một cách thanh tao, hiểu biết nghiệp
luật, rằng tất cả chúng ta một ngày đó bắt buộc phải chia lìa.
Vào lúc ba giờ, khi đứa con trai 15 tuổi,
đi học về và báo với me: "Mẹ ơi, con đã về", bà hiểu tuy không
nói được. Bà gật đầu để ra dấu bà biết.
Vào khoảng ba giờ ba mươi phút, Billy nói,
Kuai Chan tận dụng sức lực nói rõ ràng bằng tiếng Quảng Ðông, Woh Yap
Niphoon, có nghĩa là "Tôi đã vào Niết Bàn", câu này có ý nói
nói là bà tin tưởng bà đã thực hiện hay chứng nghiệm Niết Bàn. Và bà chỉ
vào bụng. Ðó là lời cuối cùng của bà, bà ra đi một cách rất êm ả vào
khoảng 45 phút sau. Billy nói Kuai Chan, trong lúc hành thiền, thường quan sát
sự chuyển động lên xuống của bụng xẩy ra mỗi lần hít vào hay thở ra. Bà
thấy sự lên xuống của cái bụng là một đối tượng tốt để đặt tâm vào, và bà
thường khuyến khích các hành giả du già nên bám vào đối tượng ấy. Bất chấp
hiện tượng nào của thân hay tâm khi ta áp dụng chánh niệm và tập trung vào,
cuối cùng ta có thể thấy sự sinh diệt của hiện tượng và đi đến hiểu biết
tính chất vô thường, cái bất toại nguyện và vô ngã của chúng. Sự hiểu biết có
thể tiến tới đỉnh cao trong việc đạt Niết Bàn, trạng thái chấm dứt khổ đau.
Những ô nhiễm của tham sân và si sẽ bị hoàn toàn bị loại bỏ khi chứng nghiệm
Niết Bàn đạt được ở trình đô A La Hán [*].
[*] Về kinh nghiệm chấm dứt những hiện
tượng duyên hợp trong khi thiền định, Niết Bàn có thể đạt được ở bốn
bậc thánh quả. Mặc dầu kinh nghiệm của Niết Bàn là chấm dứt những hiện tượng
duyên hợp ở tất cả bốn bậc. Niết Bàn chỉ có một vị, đó là vị "an
lạc" kết quả về phương diện loại bỏ những ô nhiễm tinh thần tuy nhiên khác
biệt ở mỗi bậc của bốn bậc.
Ở bậc thứ nhất Tu Ðà Hoàn
(Nhập lưu) tham và sân bị yếu đi nhưng chưa bị loại bỏ hoàn toàn. Hai ô
nhiễm này bị yếu đến độ người đắc quả Tu Ðà Hoàn không thể phá năm
giới, không giết (cả đến một côn trùng) không trộm cắp hay lùa bịp, không ngoại
tình, không nói dối và không uống rượu và không dùng các chất ma túy. Ở bậc thứ
hai Tư Ðà Hàm (Nhất Lai), những ô nhiễm bị yếu hơn nữa. Ớ bậc thứ ba A Na Hàm
(Bất Lai), lạc thú nhục dục và sân hoàn toàn bị loại bỏ. Nhưng vẫn còn dấu vết
của vô minh và ham thích một thiên nhiên không nhục dục, có nghĩa là một ham
thích dược tái sinh vào cảnh trời Phạm Thiên không nhục dục. Ở bậc thứ tư A La
Hán (Bất Sanh, quả thánh hoàn toàn) tất cả ham muốn/ thamđều bị loại bỏ. A La
Hán sống kiếp cuối cùng và không còn bị tái sinh nữa.
Billy nói khi giờ phút cuối cùng sắp tới, mặt
của Kuai Chan rạng rỡ, khi bà nói, mắt của bà long lanh và sáng. Vào khoảng 4
giờ 15 chiều, Billy nhận thấy bà đã tắt thở. "Bà trông rất bình thản,
thanh thoát. Billy nói, Bà đã ra đi một cách rất an lạc.
Vào khoảng 4 giờ chiều hôm ấy, một người bạn đạo,
Lily, cư ngụ ở xa Petaling Jaya 25 cây số, đột nhiên có ý nghĩ trải tâm từ
bi-khả ái đến Kuai Chan. Lily ngồi xuống và thiền định, gửi đi tất cả
những tư tưởng về từ bi-khả ái đến Kuai Chan. Bà ta nói bà thấy Kuai Chan rất
thanh thản trong một ảo ảnh trong suốt như pha lê. Khi bà ngừng thiền, bà ta
nhìn đồng hồ lúc đó là 4 giờ 15, cùng lúc Kuai Chan ra đi.
Chết theo cách Kuai Chan đã chết, rõ ràng
là một cái chết đẹp đẽ. Cách ra đi nào tốt hơn – với tâm bà tập trung về
Niết Bàn. Ai có thể nói cái kinh nghiệm duy nhất nào bà đã trải qua? Chỉ
có mình bà biết thôi. Nhưng có một điều chắc chắn là, tâm bà vững vàng vào
lúc cuối cùng, hướng về Niết Bàn. Tôi cớ thể nghĩ rằng bà đã đạt Niết
Bàn. Nếu bà đã không làm được thế trong đời này, tôi nghĩ rằng bằng
tâm vững chắc và cương quyết của bà, bà sẽ trải qua tái sanh lành làm người hay
người trời, và sẽ đạt được mục tiêu hằng ấp ủ trong kiếp sống đó.
Là một Phật tử, Bà đã chỉ dẫn cho Billy
tổ chức cho bà một tang lễ đơn giản, không có những nghi lễ và nghi thức
không cần thiết. Theo ý muốn của bà, Billy đã thu xếp việc hỏa táng vào
ngày hôm sau. Một vài nhà sư Phật Giáo, một số hành giả du già và bạn bè tụng
kinh Phật. Tang lễ rất giản dị theo lời bà yêu cầu. Billy thu thập tro cốt và đem
rắc tại cây bồ đề tại thiền đường sư phụ của họ tại Jahor.
Hồi tưởng lại đời sống cùng nhau, Billy
nói Kuai Chan là một người vợ tốt nhất mà ông đã có được:"Chúng
tôi lấy nhau đã 22 năm và bà đã sát cánh với tôi qua thăng trầm, qua
nhiều thử thách và cực khổ. Bà có một tâm tính vui tươi và hoạt bát. Bà bao giờ
cũng thương yêu và ân cần. Ngay cả lúc bà ốm bà vẫn tuyệt vời. Bà không bao giờ
phàn nàn. Bà không ngã lòng. Không có giận hờn hay cayđắng nơi bà. Bà vẫn bình
tĩnh và vững vàng. Bà vẫn có thể mỉm cười và cười lớn. Bà chấp nhận tất cả khổ đau
với thái độ trang nhã. Bà nói thân bà bệnh nhưng tâm bà không bệnh. Tâm bà vẫn
sung sức và khỏe mạnh. Sự quan ngại của bà không phải cho chính bà mà cho người
khác. Bà nói nếu bà có thể sống thêm 10 năm nữa, bà sẽ thực hành Phật Pháp
nhiều hơn. Bà rất quan tâm đến tôi và những đứa con.
"Thực ra bà đã chịu đựng khổ
đau tốt hơn tôi. Tôi không thểâ chịu nổi khi thấy bà quá nhiều đau đớn.
Tôi cố gắng cho bà uống thứ thuốc bắc tốt nhất hy vọng có thể chữa khỏi hay cho
bà được nghỉ ngơi. Ðôi khi tôi hỏi tại sao tất cả việc đó lại
xẩy ra cho bà. Và tôi nghĩ: Hãy để cho bà sống thêm mười năm và cuộc đời
tôi ngắn đi mười năm. Xin để cho tôi cho bà 10 năm của đời tôi. Nhưng lẽ đương
nhiên điều đó không phải là để cho chúng ta nói. Chính nghiệp mới có
quyền ăn nói cuối cùng.
"Bà thường nói với tôi: "Ðó là
nghiệp của em, Billy à. Cái đó hoàn toàn đúng. Em không biết em đã
làm gì trong quá khứ. Em phải chấp nhận nghiệp của em." Ðôi khi bà nói:
"Em rất hối hận vì đã đem đến cho anh tất cả khó khăn này,
Billy, tất cả cái khổ đau này. Billy biết không em nợ anh rất nhiều trong
cuộc đời này." Tôi phải nói với bà xin đừng nói thế. Tôi nói, bà
không nợ gì tôi cả. Chúng ta là vợ chồng phải không? – và bà là người vợ tuyệt
vời của tôi. Chúng ta cùng trải qua những lúc thăng trầm, và bây giờ là giờ
phút cần thiết của bà, tôi sẽ ở bên cạnh bà. Chúng ta sẽ một mất một còn cùng
nhau, tôi nói với bà, tôi cam đoan với bà.
"Vào những dịp khác, bà nói với tôi:, Này
Billy đây là giáo lý chân chính, con đường thực sự, tôi rất tin điều
đó", và bà nhắc tôi đừng lơ là thực tập hành thiền, không nên tự mãn
mà phải tu tập chăm chỉ. Chúng tôi đã mất một thời gian tìm kiếm một giáo lý mà
chúng tôi có thế hiểu. Và khi chúng tôi tình cờ gặp Phật Giáo và thiền Minh Sát
vào năm 1988, chúng tôi đã say mê nó. Ông biết không, chúng tôi thường cùng
nhau bàn luận Phật Pháp mỗi đêm bên tách trà. Mối liên hệ của chúng tôi
rất tuyệt vời."
Người anh em họ của Kuai Chan, Sati, hỏi liệu
bà có sợ bệnh ung thư không, bà trả lời không, bà không sợ bệnh này. Bà sẵn
sàng chịu đựng đau đớn mà không dùng thuốc. Bà quả là một hành giả du già
can đảm, mặc dù hết sức chênh lệch, mà vẫn kiên trì thực hành Pháp. Bà làm
tôi băn khoăn, nếu tôi, một nhà sư mà ở hoàn cảnh như bà, bị ung thư, tôi có
thể chịu được nhiều như thế không, có can đảm và chịu đựng như thế
không? Bà quả là một tấm gương đầy cảm hứng, một vị thầy làm gương cho tất
cả chúng ta. Tôi phải cảm ơn Billy đã đưa ra chuyện riêng tư của mình để
chia sẻ với chúng ta câu chuyện truyền cảm này để chúng ta có thể can đảm
trong việc tu tập cương quyết hơn nữa và phấn đấu mạnh hơn nữa.
Billy yêu cầu tôi ghi nhận lòng biết ơn của
ông đối với Thượng Tọa Sujiva và những nhà sư khác cùng với các hành giả
du già về tất cả sự giúp đỡ ân cần mà họ đã cho ông và Kuai Chan.
Những bạn hành giả Du già tại Trung Tâm Trí Tuệ Phật Giáo, PJ, đã đặc
biệt hỗ trợ tinh thần và khuyến khích Kuai Chan trong suốt thời gian bà bệnh.
"Tôi không biết làm sao bầy tỏ lòng biết ơn của tôiđến tất cả mọi người đã
giúp đỡ tôi. Xin vui lòng nói với họ, tôi xin cảm ơn tất cả, xin được
nói, Cảm ơn quý vị. Cảm ơn quý vị rất nhiều về mọi thứ mà quý vị đã dành
cho Kuai Chan."
Phần tốt nhất đó trong đời sống của một người lương
thiện là những hành động nhỏ nhoi
không sao kể xiết bị lãng quên về lòng tốt và thương yêu.
CHÚNG TA PHẢI LÀM TRÒN
BỔN PHẬN CỦA CHÚNG TA
BỔN PHẬN CỦA CHÚNG TA
Trước đây tôi đã nói khi tôi nhìn thấy
một người bệnh, người sắp chết và người chết, hai quyết tâm phát sinh trong tâm
tôi. Một là có thể chịu đựng sự đau đớn và cái chết với một nụ cười, có
thể giữđược chánh niệm và tự tại cho đến lúc cuối cùng. Bây giờ tôi muốn
nói đến quyết tâm thứ hai. Vâng, khi nhìn thấy con người và thực ra tất cả
chúng sinh đang sống, đều phải chịu đau khổ nhiều như vậy, tôi cảm thấy ít
nhất chúng ta có thể làm được, trong khi chúng ta còn sống, là đóng
góp làm nhẹ bớt khổ đau chung quanh chúng ta.
Nhiều người đang phục vụ nhân loại theo
nhiều cách thức phi thường. Mẹ Theresa, chẳng hạn, đã dành cả cuộc đời để
săn sóc những người thiếu thốn và cơ cực. Nhiều người và tổ chức đã dấn
thân vào làm những công tác xã hội cho người bệnh, người tàn tật, người chết đói,
người già, những người sắp chết và nhiều người khác. Tất cả những đạo sư
tôn giáo vĩ đại đều kêu gọi các đệ tử hãy nhân từ. Jesus Christ nói:
"Hãy thương yêu người láng giềng như chính thân mình" Và Ngài tán
dương những người cho người đói ăn, cho người khát uống, cho quần áo người
trần trụi, cho chỗ ở kẻ bần hàn, thăm viếng người bệnh và người bị giam cầm.
Ngài nói rằng: "Vì các ngươi đã làm thế cho một trong những người anh
em của ta, tức là các ngươi đã làm cho chính ta". Có một câu tương tự
trong Kinh Koran chỗ nhà Tiên Tri Mohamed nói Thượng Ðế có thể nói trong Ngày
Phán Xét:" Ta đói mà các ngươi không cho ta ăn. Ta bị bệnh mà
các ngươi không đến thăm. Và khi được hỏi bởi một người hoang mang
không hiểu như thế là thế nào, Thượng Ðế trả lời "Như một người xin bánh
mà ngươi không cho. Như một người bệnh mà ngươi không đến thăm".
Trong Ðạo Phật, mặc dầu chúng ta không tin vào
Ðấng Thượng Ðế Sáng Tạo, chúng ta tin vào điều thiện và hô hào không giết
hại cả đến một con vật hay côn trùng. Chúng ta tin vào Nghiệp luật- đó
là thiện đem lại thiện, ác đem lại ác. Cho nên chúng ta bao giờ cũng phải
bám chặt vào điều thiện: tránh không giết hại, trộm cắp, lừa đảo, tà dâm,
dối trá, uống rượu và các chất say. Chúng ta tự rèn luyệnđể tiến đến chỗ chúng
ta làm điều thiện vì lợi ích làm điều thiện và không phải vì sợ hãi địa
ngục hay mong muốn được phần thưởng. Chúng ta làm điều thiện vì chúng ta
thích làm điều thiện và tự nhiên ngả về điều thiện. Nói một cách khác
chúng ta không thể tránh được làm việc thiện. Ðiều thiện với chúng ta là một.
Ðức Phật chỉ thị các đệ tử của Ngài phải
nhân từ và quan tâm đến người khác. Ngài nói một chút cố gắng cũng có giá
trị khi cho. Cả đến ném một vài mẩu bánh xuống nước cho cá ăn cũng
được tán dương bởi Ðức Phật. Một lần, mấy nhà sư không săn sóc một nhà tu
bệnh, Ðức Phật đích thân tắm rửa cho vị sư bệnh này và khuyên bảo các vị
kia: "Ai săn sóc người bệnh chính là săn sóc ta". Ðức Phật kêu gọi
các vì vua hãy trị vì với lòng từ bi. Ngài khuyên các nhà vua nên loại trừ nghèo đói
vìđó là một trong những yếu tố góp phần vào sự cướp bóc và các tội khác. Là một
người yêu hòa bình, Ngài đã từng ngăn cản được khi hai quốc gia đang sắp
sửa lâm vào vòng chiến vì tranh chấp một dòng sông. Ðức Phật hỏi họ: "Cái
nào quan trọng hơn – nước hay máu của con người sẽ chảy vì chiến tranh?"
Hai bên lâm chiến thấy sự tranh chấp điên rồ của họ đã rút lui không đánh
nhau.
Một trong những vị vua nhân từ nhất chịu ảnh
hưởng trước những lời Phật dạy là Asoka, trị vì Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ Ba trước
Công Nguyên, khoảng 200 năm sau khi Ðức Phật nhập diệt. Nổi tiếng về lòng
nhân đạo, sự rộng lượng và lòng tốt cửa Ngài trải đến cả con vật.
Ngài được nổi tiếng vì đã lo liệu bác sĩ cho cả người lẫn súc vật.
Ngài đã xây công viên, trạm nghỉ ngơi cho khách bộ hành và nhà tế bần cho
những người nghèo và người bệnh. Mặc dầu là một Phật tử thuần thành, Ngài cho
dân ngài hoàn toàn tự do trong việc thờ phượng và ủng hộ các giáo phái khác.
Trong một sắc lệnh nổi tiếng khắc trên đá, Ngài nói Ngài "Chúc mừng
những người của tất cả những tôn giáo sống ở mọi nơi trong vương quốc của Ngài
... vinh danh người của tất cả các tôn giáo, thành viên của những dòng tu và cư
sĩ, bằng tặng vật và những biểu hiện quý trọng khác". Ngài muốn tất cả các
tôn giáo đều được kính trọng vì "bằng cách kính trọng tôn giáo là
nâng cao niềm tin của chính tôn giáo mình và đồng thời phục vụ niềm tin
của những người khác... Cho nên chỉ có hòa thuận không thôi là đáng khát
khao ... (Và Ngài, Asoka) mong muốn người của tất cả các tôn giáo khác hiểu
biết học thuyết của nhau và tìm được học thuyết lành mạnh..."
Asoka coi vai trò của Ngài như một người cha
nhân từ và coi dân như con khi nói rằng Ngài muốn họ được mọi loại thịnh
vượng và hạnh phúc. Ðức Phật nếu có thể chứng kiến triều đại của Hoàng Ðế Asoka,
thì Ngài sẽ hết sức vui mừng khi thấy giáo lý của Ngài đã được tôn
trọng triệt để một cách chuyên cần bởi vị hoàng đế vĩ đại này. H.G. Wells
trong cuốn "Outline of History" (Lịch Sử Ðại Cương) có nói, trong số
các vị hoàng đế đã đến và ra đi trên thế giới, "tên của
Hoàng đế Asoka sáng chói, sáng chói hầu như một tinh tú không có ai ngang
hàng". Chắc chắn tất cả những chính phủ sẽ thành công khi nghiên cứu và áp
dụng cách giải quyết nhân đạo của Hoàng Ðế Asoka trong việc trị vì.
Cũng vậy, nếu chúng ta đi theo những lời Ðức
Phật dạy, thì chúng ta cũng giống như Asoka, làm việc theo đường lối của
chúng ta để giảm bớt khổ đau và trải rộng hòa bình và hạnh phúc. Chính Ðức Phật đã
là tấm gương tốt đẹp nhất cho chúng ta soi, Ngài đã dành cả cuộc đời
để chỉ cho con người lối thoát khỏi khổ đau. Vâng, Ðức Phật không những
quan tâm đến việc làm nhẹ bớt khổ đau, mà Ngài còn quan tâm đến
việc loại bỏ nó hoàn toàn. Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài đã bỏ cả 45 năm
cuộc đời còn lại dạy cho con người con đường loại bỏ khổ đau. Ngài dạy con đường
chánh niệm.
Ðức Phật thấy chỉ bằng cách giải quyết triệt để
mới có thể loại bỏ được khổ đau. Mặc dù săn sóc người bệnh, chữa lành bệnh tật,
cung cấp thực phẩm và các trợ giúp vật chất cho người túng thiếu là một phần
thiết yếu trong việc đối phó với khổ đau, Ðức Phật muốn tham gia
nhiều hơn là chỉ có những triệu chứng: Ngài muốn tìm cách chữa lành hoàn toàn
chứng bệnh khổ đau. Cho nên Ngài đã thiền định toàn bộ câu hỏi đời
sống và cái chết. Và Ngài thấy muốn giải quyết vấn đề từ gốc rễ, chúng ta
cần phải xem xét lại toàn bộ tâm. Khổ đau thực chất là tinh thần. Khi có đau
đớn thể chất, người ta thường phản ứng bằng buồn rầu, sợ hãi và ngã lòng. Nhưng
người tu thiền, Ðức Phật dạy, có thể chịu đựng cái đau thể chất mà không
có khổ đau tinh thần. Nói một cách khác, người ta không phản ứng bằng buồn
rầu, lo lắng, thất vọng, ác cảm, giận hờn vân vân... Thay vì, người ta có thể
phản ứng bằng bình tĩnh và thanh thản. Người ta có thể vui và thậm chí an ủi và
khuyến khích người khác!
Cho nên Ðức Phật thấy vấn đề thực chất là
tinh thần. Nếu chúng ta có thể giải thoát tâm chúng ta khỏi tham, sân và si
(thuộc bản chất đời sống) Ðức Phật dạy chúng ta hoàn toàn có thể vượt
quađược và loại bỏ khổ đau tinh thần, như lo lắng và bồn chồn, phiền muộn
và than khóc. Về khổ đau thể chất, chúng ta phải thừa nhận không thể tránh
khỏi chừng nào mà chúng ta có cái thân này. Tất cả chúng ta đều biết không
ai có thể tránh khỏi tuổi già, bệnh và chết. Nhưng Ðức Phật dạy một khi thanh
lọc được tâm ra khỏi tất cả những ô nhiễm của tham, sân vân vân thì cái đau
thể chất không làm chúng ta sợ hãi nữa. Ta trở nên không lay chuyển. Không có
gì có thể làm ta lo ngại nữa, cả đến cái đau cực độ mà những bệnh như ung
thư có thể mang lại. Tâm ta vẫn có thể giữ luôn luôn trầm tĩnh. Bởi vậy khi đệ
tử của Ðức Phật, Anurudhha, một lần được hỏi làm sao ông có thể giữ
bình tĩnh khi ông bệnh nặng, Ngài trả lời đó là vì ông đã có thể làm
chủ được tâm ông do tu tập chánh niệm như đã được dạy bởi Ðức
Phật.
Cũng để kết luận, Ðức Phật dạy đối
với một người hoàn hảo đã bỏ được tham sân si, không còn tái sanh
nữa. Khi người ấy chết, đó là kiếp cuối cùng. Người ấy đã đạt
được trạng thái Niết Bàn – sự an lạc hoàn hảo. Không phải tái sanh người ấy
không bao giờ còn bị tuổi già, bệnh và chết. Ðức Phật nói, chỉ điều đó là
chấm dứt khổ đau.
LÀM NHẸ BỚT KHỔ ÐAU
Trong khi phấn đấu để chấm dứt hoàn toàn
khổ đau, chúng ta nên, trên con đường tu tập, giúp làm nhẹ bớt khổ đau
bằng bất cứ cách nào chúng ta có thể. Vâng, rõ ràng không thiếu gì khổ đau
trên thế giới. Nhiều người khổ đau theo nhiều cách khác nhau. Nếu chúng ta
đọc báo, chúng ta thấy khổ đau khắp nơi. Người ta tranh chấp, đánh nhau, giết
chóc, cướp bóc, nói dối, lừa đảo và gây khổ đau lẫn nhau bằng nhiều cách.
Do vô minh chúng làm hại lẫn nhau. Xa hơn nữa, thiên tai, tai nạn, rủi ro, chết đói,
bệnh tật khắp nơi. Và bệnh tật tuổi già, và cái chết luôn bám sát chúng ta ở
từng bước.
Vâng, thế giới này đầy khổ đau. Tại sao
chúng ta lại còn thêm vào nữa? Thay vì phải chăng chúng ta nên cố gắng làm nhẹ
khổ đau? Dù chúng ta không làm được nhiều, chúng ta vẫn có thể làm được
ít. Mỗi một cố gắng nhỏ nhoi cũng đáng kể. Có người nói: Không ai mắc
sai lầm lớn hơn là không làm gì dù chỉ làm một chút. Mỗi người chúng
ta đều có thể làm được việc gì đó, theo khuynh hướng và khả năng
của mình. Ðể khởi sự chúng ta có thể bắt đầu tử tế hơn. Chẳng hạn chúng ta
có thể ngăn chặn nóng giận của chúng ta. Mỗi khi chúng ta nóng giận chúng ta
gây nên đau đớn cho chính chúng ta và người khác. Nhưng nếu chúng ta có
thể nén được giận của chúng ta và trau dồi khoan dung và kiên nhẫn, thương
yêu và từ bi, chúng ta có thể trở nên người tử tế hơn, và đó có thể là một
thành công để giúp gieo rắc sự vui vẻ và hạnh phúc .
Nói một cách khác chúng ta phải bắt đầu
bằng cách tẩy sạch tâm ta khỏi những chất chứa bất thiện và tiêu cực của tham
sân và si. Tương ứng với khả năng kiềm chế các trạng thái bất thiện của ta,
tình thương yêu và từ bi sẽ phát triển nơi chúng ta. Chúng ta có thể tử tế hơn
trong quan hệ với những người kề cận và chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể
cố gắng nói năng một cách đáng yêu và nhẹ nhàng hơn, và tránh lời nói thô tục
và cục cằn. Chúng ta có thể trở nên ân cần và quan tâm đến người khác
nhiều hơn. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến phúc lợi riêng của chúng ta thì chúng
ta không thể thương yêu hữu hiệu. Muốn thương yêu tốt đẹp, chúng ta không
nên coi trọng phúc lợi của mình mà phải chú ý đến phúc lợi của người khác.
Cho nên chúng ta phải hỏi chính mình. Chúng ta có thương yêu đủ không?
Chúng ta có quan tâm đủ không? Nếu không chúng ta không thể hành động để
làm nhẹ bớt khổ đau. Chính vì không có thương yêu và từ bi thực sự mà
chúng ta có thể hành động.
Một thiền sư từng nói rằng nếu bạn muốn biết
bạn đã thực sự yêu thương, bạn nên gần người thân yêu của bạn một ngày, và
nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng trong tay bạn. Hãy nhìn thẳng vào mắt nàng và hỏi
nàng: "Em thân yêu, anh có yêu em đúng mức không? Anh có yêu em đủ
không? Anh có làm em hạnh phúc không? Nếu là không, xin em cho biết thiếu cái
gì để anh có thể thay đổi và yêu em nhiều hơn?" Nếu bạn hỏi nàng dịu
dàng với tình yêu chân thật và quan tâm, thì nàng có thể khóc. Sư trưởng nói, đó
là dấu hiệu tốt. Vì nó có nghĩa là bạn đã chạm đến đúng vào tình cảm
của nàng. Và rồi ở đấy có thể có sự trao đổi tâm tình giữa bạn và nàng.
Và vì vậy nàng có thể nói với bạn giữa những
tiếng thổn thức sao bạn đã không có ý tứ gì rất nhiều lần. Chẳng hạn nàng
có thể nói: "Anh không còn mở cửa xe cho em nữa. Anh thường mở cửa xe cho
em khi lần đầu anh theo đuổi em và cả đến năm đầu lấy nhau. Anh cũng
cẩn thận xem em ngồi ngay ngắn chưa rồi anh mới nhẹ nhàng đóng cửa xe. Bây
giờ anh không làm như thế nữa. Anh vào xe trước và cho ngay máy chạy. Em phải
tự mở cửa và vào xe thật nhanh. Nếu không anh có thể chạy xe đi trước khi
em kịp đóng cửa! Em muốn khóc khi anh sử xự như thế. Cái gì đã xẩy ra cho
con người lịch sự và có ý tứ mà em đã lấy?"
Và nàng có thể tiếp tục: "Anh đã
không nắm tay em nữa khi qua đường. Anh đi trước và muốn em phải theo anh.
Rồi khi chúng ta vào nhà hàng. Anh không mở cửa và mời em vào trước. Anh không
kéo ghế cho em ngồi. Anh không hỏi em thích ăn gì mà tự động đặt các
món ăn anh thích. Anh không mua những bộ áo đẹp cho em nữa. Anh không mua tặng
phẩm gì cho cha mẹ em, ngay cảđến những dịp lễ hội. Và mặc dầu anh có thể nhớ đến
việc cho em quà vào ngày sinh nhật, nhưng anh không kèm theo thiệp sinh nhật
với những lời tình cảm đẹp đẽ. Nói tóm lại, anh đã không làm những việc
nhỏ bé dễ thương mà anh thường làm cho em khi anh theo đuổi em và cưới em.
Nếu em biết anh sẽ thay đổi như thế này, có lẽ em đã suy nghĩ lại về
việc lấy anh. Em băn khoăn không biết thực sự anh còn yêu em hay quan tâm đến
em nữa không?" Và nàng có thể tiếp tục một mạch nêu lên một bản danh sách
về những bất hạnh của nàng. Nàng có thể thổn thức to hơn và bạn có thể ngạc
nhiên vì bạn không biết nàng đã giữ trong lòng tất cả những thứ đó,
nàng đã không nhận ra tất cả những sự việc nho nhỏ dễ thương mà bạn thường
làm cho nàng, và nàng đã không hiểu sự bầy tỏ quan tâm và thương yêu tuy
nhỏ bé nhưng quan trọng của bạn.
Ðương nhiên, rất có thể bạn cũng có những
phiền muộn chính đáng. Cho nên đây là dịp tốt để bạn thổ lộ,
nhưng bằng một cách thật dịu dàng. "Ồ, anh xin lỗi về cách sử xự vô tâm và
không ý tứ của anh, em thân yêu. Tin anh đi, anh thật tình. Xin tha lỗi
cho anh. Từ nay trở đi anh sẽ làm lại cho em. Anh hứa anh sẽ không cẩu thả
trong tương lai. Anh sẽ trông nom em thật tốt. Anh sẽ bắt đầu làm trở lại
những việc nho nhỏ mà anh đã lơ là làm cho em. Anh không nhận ra được
là em đã quá nhớ những thứ đó.
"Nhưng em thân yêu, xin đừng giận
dỗi với điều mà anh sắp nói. Vì anh có nhiều lầm lỗi, em cũng nên biết có một
số điều em thường làm cho anh mà em chưa bao giờ làm. Chẳng hạn anh thích ăn
đùi gà chiên theo lối sambal belacan mà em thường nấu cho anh. Nhưng bây giờ em
không còn nấu món ấy nữa, không kể đến những thứ súp cà chua và những món
khác. Em biết không, người già nói về cách đi vào lòng con người là qua
bao tử hãy còn rất thích đáng.
"Ngày xưa em thường đánh thức anh
dạy với một nụ cười và một cái hôn nhẹ nhàng trên má nhưng nay em đâu còn
làm như thế nữa. Ðôi khi em còn dạy trễ nên anh phải tự làm để ăn sáng hay
ăn tại văn phòng. Em đã thường đợi cửa khi anh đi làm về và hỏi anh
ngày ấy ra sao. Em thực tình muốn biết và em tỏ ta rất có tình cảm và an ủi khi
anh có chuyện không vui. Nhưng dạo này dường như em không quan tâm đến
việc anh sống ra sao nữa, liệu anh có ngày làm vui vẻ hay vất vả không. Em bận
xem truyền hình, la các con, hay ở các nơi sửa sang sắc đẹp hay làm cái
này cái nọ. Khi anh gọi, "Hello, em thân yêu, anh đã vế", đôi
lúc em gắt và nói những thứ đó không thật khả ái, vân vân và vân
vân..."
Và như vậy cả hai trao đổi tâm tình.
Truyền thông rất quan trong trong quan hệ. Có phải không? Quan hệ sẽ tan vỡ khi
không có truyền thông, và cả hai phía đều giữ phiền muộn trong lòng, nuôi
dưỡng chúng trong tâm. Nhưng khi có sự truyền thông, sẽ có sự thông cảm. Cởi mở
trong lòng cả hai phía sẽ đưa đến thông cảm và thương yêu. Nếu hai người
quan tâm đủ và coi trọng quan hệ của họ thì họ sẽ trò chuyện tâm sự. và áp
dụng các biện pháp sửa chữa khi cần. Bằng cách ấy, quan hệ sẽ trở nên mạnh mẽ
và đẹp đẽ với mỗi ngày qua.
Mỗi một người chúng ta cần phải đóng góp
bằng cách riêng của mình, bằng bất cứ đường lối nào mà ta biết ra sao.
Trong trường hợp của tôi, là một nhà sư, tôi có thể đóng góp bằng cách
chia sẻ chút ít kiến thức về Phật Pháp mà tôi biết, một chút hiểu biết mà tôi
có. Tôi có thể khuyến khích người ta tu tập thiền định và hướng dẫn họ một
chút trên con đường này. Tôi có thể kêu gọi người ta hãy thương yêu và
quan tâm, ân cần và nhẫn nại vân vân... Ðương nhiên chúng ta không hoàn toàn,
có những lúc chính chúng ta thất bại không góp phần được. Nói thì thật là
dễ nhưng thực hành điều ta thuyết giảng thì thật là khó, điều đó rất
đúng. Cho nên tôi phải là người đầu tiên thừa nhận những thiếu sót của tôi
và chấp nhận sửa chữa. Trong khi phán xét tôi hay những người khác, tôi cầu
mong người ta xem xét giảm nhẹ những yếu tố như ý tốt. Chúng tôi có ý tốt và
không có ý làm hại. Nhưng vì những nhượcđiểm, không khéo léo, không kiên nhẫn,
không độ lượng, kiêu ngạo vân vân... chúng ta có thể làm người khác đau
đớn mặc dù chúng tôi muốn làm tốt. Nhưng nếu là một người cao thượng, người đó
có thể hiểu và tha thứ. Khả năng tha thứ là một đức tính tuyệt vời, cho
nên có câu nói, lầm lỗi là con người; tha thứ là siêu phàm, đã được
đặt ra.
Hãy tận dụng cơ hội để cho và chính bạn
sẽ biết cách tốt nhất để đóng góp. Tất cả chúng ta có những kỹ năng, tài ba
và năng khiếu khác nhau, điều kiện và hoàn cảnh cũng khác. Cho nên mỗi chúng ta
chỉ có thể đóng góp theo đường lối riêng của mình, tùy theo hoàn cảnh và
khuynh hướng. Ðiều quan trọng là cố gắng; chúng ta làm theo khả năng. Như chúng
ta đã nói, mỗi chút cũng đáng kể và khi thời gian qua đi, chúng ta sẽ
thấy thực tế chúng ta đã làm được một chút gì phải lẽ. Và đó là
nguyên nhân cho chúng ta hoan hỉ. Ðương nhiên nó không có nghĩa là chúng ta cứ
nghỉ ngơi trên vòng hoa chiến thắng. Còn nhiều việc phải làm. Nên chúng ta phải
tinh tấn; chúng ta phải tiếp tục tấn tới.
---*---
Người ấy sống tràn đầy
tâm từ ở phương thứ nhất, cũng như vậy ở phương thứ hai cũng như vậy ở phương
thứ ba, cũng như vậy ở phương thứ tư, đúng vậy ở bên trên, bên dưới, chung
quanh người ấy sống tràn đầy tâm từ cả thế giới, ở khắp nơi, theo mọi
cách, tâm từ ấy sâu xa trải rộng, mênh mông, không thù hằn, không ác ý.
Ðức Phật
Hiểu biết mọi thứ là tha thứ
mọi thứ
Và lúc ấy sẽ có có tình thương yêu
Và lúc ấy sẽ có có tình thương yêu
Vô danh
---*---
THƯƠNG YÊU LÀ HIỂU BIẾT
Muốn chết tốt đẹp chúng ta phải sống tốt
lành. Nếu chúng ta đã sống tốt lành chúng ta có thể chết êm ả. Sẽ không
còn nuối tiếc. Chúng ta sẽ ra đi một cách an bình, mãn nguyện rằng chúng
ta đã làm cái chúng ta có thể, rằng trên con đường mà chúng ta đã
gieo rắc cảm thông và hạnh phúc, rằng chúng ta đã sống theo nguyên tắc và
lời cam kết trước những lý tưởng về thương yêu và từ bi.
Thương yêu là hiểu biết. Thương yêu không phán
xét hay kết tội. Thương yêu lắng nghe và cảm thông. Thương yêu quan tâm và đồng
tình. Thương yêu chấp nhận và tha thứ. Thương yêu không biếtđến chướng ngại. Nó
không phân biệt mà nói: Tôi là Nguyên Thủy, bạn là Ðại Thừa hay Tây Tạng. Nó
không nói: Tôi là Phật tử và bạn là Cơ Ðốc, Hồi Giáo hay Ấn Giáo. Hay tôi là
người Trung Hoa, bạn là người Mã Lai, người Ấn Ðộ hay người Lai Âu Á. Hay tôi
là người Phương Ðông và bạn là người Phương Tây; hay tôi là người Mã Lai, bạn
là người Nhật Bản, Hoa Kỳ, Miến Ðiện, Thái và vân vân...
Thương yêu vượt qua tất cả chướng ngại. Thương
yêu thấy và cảm thấy chúng ta đều là một giống nòi, một giống người. Nước
mắt của chúng ta đều giống nhau; chúng đều mặn, và máu của chúng tađều đỏ.
Khi có loại tình yêu và từ bi này chúng ta có thể có cảm tình với người khác.
Chúng ta có thể thấy chúng ta cùng đi trên một con thuyền trong biển dông
bão của cuộc đời. Chúng ta là những bạn đau khổ trong luân hồi, cái
bất tận xẩy ra trong vòng sinh tử. Chúng ta là anh em và chị em.
Khi chúng ta nhìn thấy và cảm thấy điều
này, thì tất cả những chướng ngại về nòi giống, tôn giáo lý tưởng vân vân... sẽ
biến mất. Chúng ta có thể vươn tới bằng con tim của tình thương yêu thanh
khiết. Chúng ta có thể hiểu và cảm thông với đau khổ của người khác. Từ bi
sẽ tăng lên và tràn đầy trong lòng chúng ta. Và trong bất cứ cái gì chúng
ta nói hay làm, tình thương yêu và từ bi này cũng sẽ in dấu. Nó sẽ xoa dịu và
làm lành. Nó sẽ góp phần vào hòa bình và hiểu biết.
CON NGƯỜI VÀ CON BỌ CẠP
Tình thương đi đôi với từ bi. Khi chúng
ta có một trái tim thương yêu, từ bi nảy sinh dễ dàng nơi chúng ta. Bất cứ lúc
nào chúng ta nhìn thấy một người khổ đau, chúng ta cảm thấy muốn chìa tay
ra làm cho người ấy đỡ đau. Từ bi có đặc tính là muốn loại bỏ khổ đau.
Nó có thể đặc biệt được cảm thấy khi chúng ta tự ý hành động để loại bỏ hay
làm giảm bớt khổ đau của người khác. Có một câu chuyện làm sáng tỏ vấn đề:
Một người trông thấy một con bọ cạp sắp sửa bị chìm trong vũng nước. Ý muốn cứu
con bọ cạp đột nhiên nổi lên trong tâm, và không lưỡng lự chìa tay ra nhấc
con bọ cạp ra khỏi vũng nước và để nó trên mặt đất. Con bọ cạp đốt
người đó. Và muốn qua sang bên kiađường con bọ cạp lại bò đi và đi
thẳng vào vũng nước. Nhìn thấy nó quờ quạng và sắp bị chìm lần nữa, người ấy
bắt nó lần thứ hai và lại bị nó đốt. Một người khác đến và nhìn thấy tất
cả sự việc xẩy ra liền nói với người ấy: "Tại sao bạn ngu đần đến như
thế? Bây giờ bạn thấy bạn bị đốt không những một lần mà bị đốt đến hai
lần! Thật là ngu dại đi cứu con bọ cạp". Người ấy trả lời: "Thưa
Ngài, Tôi không thể chịu được việc này. Ngài thấy, bản tính của con bọ cạp
là đốt. Nhưng bản tính của tôi là cứu. Tôi không thể chịu được ngoài
việc cố gắng cứu con bọ cạp".
Ðúng, đáng lẽ người ấy có thể dùng trí
tuệ và sử dụng một cái gậy hay một thứ gì đó để nhấc con bọ cạp ra khỏi.
Nhưng người ấy có lẽ đã nghĩ rằng có thể nhấc con bọ cạp ra bằng tay theo cách
ấy mà không bị nó đốt. Hay người ấy có lẽ đã nghĩ rằng con bọ cạp ở trong
cơn hoạn nạn khốc liệt như vậy sẽ không đốt mình. Dù sao, tinh thần của
câu chuyện là phản ứng tự phát của người ấy trong việc muốn cứu một chúng sinh
khác, mặc dầu chúng sinh ấy chỉ là một côn trùng. Câu chuyện cũng cho thấy
người từ bi là như vậy mặc dù có thể nhận được sự bội ơn của người mình đã
cứu giúp, điều đó không thành vấn đề. Ðó chính là bản tính muốn
giúp đỡ và nếu có thể giúp nữa thì người ấy vẫn làm. Người ấy không biết
nuôi dưỡng niềm cay đắng hay ác cảm ra sao!
Từ bi là tiếng nói của con tim. Ở vào lúc khi
chúng ta bị thúc đẩy bởi tình thương và từ bi, chúng ta chìa tay ra giúp đỡ
không phân biệt nòi giống, tín ngưỡng, hay quốc tịch của người khác. Dưới ánh
sáng của từ bi, sự nhận dạng về nòi giống, tín ngưỡng vân vân trở thành thứ
yếu; chúng trở thành vô nghĩa. Hơn nữa, từ bi như vậy không phải chỉ giới hạn ở
con người mà còn trải rộng tới tất cả những vật sống gồm có súc vật và côn
trùng. Song hàng với đề tài từ bi như tiếng nói của con tim, tôi muốn kinh
gửi quí vị một bài thơ
TIẾNG NÓI CỦA TỪ BI
Ðại Thừa Nguyên Thủy
Kim Cang Thừa
Cơ Ðốc Phật Hồi Ấn Ðộ Giáo
Người Mã Hoa Ấn Ðộ Lai Âu Á
Mã Lai Nhật Bản Mỹ Phi Châu
Người Da trắng Da đen Da vàng Da nâu
và vân vân... và vân vân...
như bạn muốn.
Vấn đề đó là gì?
Tiếng nói của từ bi
là tiếng nói con tim.
Khi con tim nói
Ngàn hoa đua nở
Và tình thương tràn ngập
như mặt trời bình minh
ùa qua cửa sổ
Không cần lời
một cái nhìn, một tiếp xúc
đủ
để nói
mà ngàn tiếng không bằng.
Và Từ bi rực sáng
như vì sao sáng lạn
trong bầu trời ban đêm.
Chướng ngại sụp đổ
lay động thành kiến
Giành lại ưu thế
Tình thương và từ bi,
chế ngự mọi sợ hãi, hoài nghi
chữa lành các vết thương,
bao trùm.
Cơ Ðốc Phật Hồi Ấn Ðộ Giáo
Người Mã Hoa Ấn Ðộ Lai Âu Á
Mã Lai Nhật Bản Mỹ Phi Châu
Người Da trắng Da đen Da vàng Da nâu
và vân vân... và vân vân...
như bạn muốn.
Vấn đề đó là gì?
Tiếng nói của từ bi
là tiếng nói con tim.
Khi con tim nói
Ngàn hoa đua nở
Và tình thương tràn ngập
như mặt trời bình minh
ùa qua cửa sổ
Không cần lời
một cái nhìn, một tiếp xúc
đủ
để nói
mà ngàn tiếng không bằng.
Và Từ bi rực sáng
như vì sao sáng lạn
trong bầu trời ban đêm.
Chướng ngại sụp đổ
lay động thành kiến
Giành lại ưu thế
Tình thương và từ bi,
chế ngự mọi sợ hãi, hoài nghi
chữa lành các vết thương,
bao trùm.
Tôi cảm thấy nếu chúng ta cố gắng trau dồi
loại tình thương ấy và từ bi ấy, và đến lúc cái chết tới, chúng ta sẽ ra
đi an bình. Cho dù chúng ta không thành công 100 phần trăm ở trong tình thương
yêu toàn hảo, chúng ta vẫn sung sướng và mãn nguyện rằng chúng ta đã cố
gắng. Và chắc chắn chúng tađã thành công ở một mức độ nào đó.
NĂM GIỚI
Nếu chúng ta cố gắng trau dồi loại tình thương
này, thì việc giữ năm giới không khó khăn gì. Giới thứ nhất như các bạn biết là
không giết, không lấy mạng sống cho dù là con vật hay côn trùng. Ðó là một giới đẹp
đẽ. Giới đó có nghĩa chúng ta tôn trọng sự sống. Nói đúng hơn là chúng ta không
những tôn trọng sự sống mà chúng ta còn trân quý nó. Ðời sống quý giá cho tất
cả. Khi chúng ta cho sự sống là chúng ta cho một tặng phẩm cao quí nhất. Khi
chúng ta giữ được giới này chúng ta trở nên tử tế hơn Không những chúng ta
kiềm chế không giết, chúng ta còn kiềm chế không làm hại bất cứ chúng sinh nào.
Ðúng, trong cái thế giới bất toàn hảo này,
người mạnh cuớp bóc kẻ yếu, giết chóc lan tràn. Chúng ta có thể nhìn thấy điều
này trong thế giới động vật, con hổ ăn thịt con nai ra sao, con rắn bắt
con nhái, con nhái bắt chuồn chuồn, con chim bắt sâu, và cá lớn nuốt cá bé. Và
con người chúng ta giết thú vật và cá và thậm chí giết lẫn nhau. Nhưng chúng ta
ở đây không phải để xét xử hay kết tội. Chúng ta hiểu những nhược điểm của
con người và bản chất không hoàn chỉnh của cuộc sống. Ðức Phật cũng hiểu như
vậy. Ngài nói khi chúng ta có thể thanh tịnh tâm của chúng ta và đạt Niết
bàn thì chúng ta có thể không chọn cuộc sống bất toàn hảo, cái vòng sinh tử
này. Chính chúng ta sẽ kiểm tra xem liệu chúng ta có thể làm được điều này
không. Khi chúng ta đã tẩy sạch được tất cả tham, sân si trong tâm
chúng ta, chúng ta sẽ biết chắc bằng kinh nghiệm trực tiếp liệu Ðức Phật
nói đúng hay không. Cho đến lúc đó, tôi có niềm tin chẳng là gì tốt hơn là đi
theo con đường của Ðức Phật, con đường thanh tịnh tâm.
Mỗi người trong chúng ta phải đi theo con
đường phát triển của chúng ta. Hãy để cho mỗi người chúng ta cố gắng giữ
giới thứ nhất với khả năng tốt nhất của mình: chúng ta không nên giết; chúng ta
nên dung nạp sự sống, cho sự sống.
Giới thứ hai là không trộm cắp hay lừa đảo,
không lấy bất cứ thứ gì với ý định bất lương. Chúng ta lương thiện chúng
ta kiếm sống bằng đường lối thật thà. Có một số người nói rằng một con người
thành thật không thể thành công hay không thể giàu có. Tôi không đồng ý
với điều này. Tôi chắc chắn có rất nhiều người chân thật giữ đúng nguyên
tắc của họ đã thành công. Và hơn thế nữa họ vui hưởng hạnh phúc của một
lương tâm trong sạch và tâm an lạc. Mặt khác những người lừa đảo đều bị lộ
chân tướng và cuối cùng bị trừng phạt. Cho dù họ có thể tìm cách thoát khỏi sự
phát hiện, họ vẫn bị khổ vì sợ bị phát hiện và những day dứt của lương tâm tội
lỗi. và khi họ chết, cái khổ đau của tái sinh thống khổ chờ đợi họ. Như
vậy, thành thật đã luôn luôn và sẽ luôn luôn là cách xử sự tốt nhất. Ðừng
nghe những kẻ nói ngược lại. Người thành thật sẽ thành công hơn. Cho dù chúng
ta phảiđương đầu với những chướng ngại to lớn hơn, chúng ta cũng không lừa đảo
để thành công. Chúng ta thà thành thật mà nghèo còn hơn là giàu có mà không
thẳng thắn. Không có gì hạnh phúc hơn khi có một lương tâm trong sạch nhất là
lúc chúng ta đương đầu với cái chết.
Giới thứ ba là có trách nhiệm trong vấn đề
tình dục. Nếu hai người hôn phối gìn giữ mối quan hệđứng đắn, ân cần, thương
yêu và trung thành với nhau, thì tình yêu của họ được bảo vệ. Không có
người thứ ba nào có thể xen vào giữa. Trách nhiệm tình dục rất quan trọng. Vì
nếu không có trách nhiệm, sự đối xử tàn nhẫn sẽ xẩy ra. Bọn chủ chứa ma cô
hủy hoại đời sống của các thiếu nữ; và những người bị gục ngã bởi tính ham
nhục dục là những kẻ tiếp tay cho những hành vi ác độc. Nhưng ở đây chúng
ta sẽ không phán xử mà là biện hộ cho tình thương yêu và từ bi thực sự. Ðúng,
nếu chúng ta có thể thanh tịnh tâm chúng ta và kiềm chế những ham muốn nhục
dục, thì sẽ có ít đau khổ và ít bị lợi dụng hơn trong thế giới này. Và
bệnh AIDS đáng sợ nay đã trở thành một tai họa trên khắp thế giới cũng có
thể bị ngăn chặn.
Giới thứ tư là không nói dối mà nói sự thật.
Một lần nữa chúng ta không nên nghe những kẻ nói rằng ta sẽ không thành công
nếu không nói dối và đóng vai giả dối. Lòng chân thật là một trong thập
pháp (mười đức hạnh) được triệt để tuân theo bởi một Bồ Tát (một người
muốn đạt Phật quả). Tất cả những người Phật tử cũng phải phát triển những đức
hạnh đến một mức độ đáng kể nếu muốn đạt được A La Hán quả - giải thoát khỏi
vòng sinh tử. Ðức Phật muốn chúng ta hết sức ngay thẳng nênđã khuyến cáo chúng
ta không nói dối thậm chí khi nói đùa chơi. Cho nên chúng ta nên cố gắng
hết mình để giữ giới cao quý không nói dối này. Hơn nữa mặc dù chúng ta
không đi tìm nó, thanh danh của một người chân thật vẫn lan tràn xa rộng.
Thâm chí người gièm pha cũng phải thừa nhận và kính trọng người chân thật.
Giới thứ năm là không uống rượu và dùng ma túy
vì chúng làm tâm đần độn. Và chúng cũng có hại cho thân thể. Một số người
nghĩ rằng giới này cho phép uống một chút có tính cách giải trí nhưng tôi không
nghĩ như vậy. Ðức Phật không muốn chúng ta làm hại chánh niệm có thể quay về
khiến chúng ta làm hại những giới khác. Ngoài ra, rượu rất có hại cho sức khỏe
của chúng ta. Về ma túy tất cả chúng ta đều đồng ý những chất ma túy mạnh
như heroin (bạch phiến) rất có hại. Nhưng thuốc lá được một số người nghĩ rằng
không ở trong giới này. Ở thời đại Ðức Phật, thuốc lá rõ ràng
chưađược khám phá ra. Tuy nhiên dưới ánh sáng của ngày nay, chứng cớ y khoa quá
mạnh về sự tai hại của thuốc lá và những cố gắng của các chính phủ trên khắp
thế giới cấm hoặc cắt bớt sự sử dụng thuốc lá, chúng ta tin tưởng để nói
rằng nếu Ðức Phật ở đây ngày nay thì Ngài cũng khuyến cáo chúng ta đừng
hút thuốc lá, vì Ngài không muốn chúng ta làm hại đến sức khỏe thể chất
chúng ta và Ngài cũng chẳng muốn chúng ta bị nghiện ngập với chất ma túy nhẹ
nhưng đã được chứng tỏ có hại này.
Có thể nói nhiều hơn nữa về tai hại của rượu
và thuốc lá đã trút và vẫn còn đang trút lên đầu xã hội nhưng điều
đó không nằm trong phạm vi cuốn sách này để đi vào một cuộc thảo luận dài
về đề tài này. Chỉ cần rằng chính quan điểm của chúng ta ngay cả đến
cái gọi là uống chơi và hút sách cũng có phần vi phạm đến tinh thần của
giới thứ năm này. Cho nên tốt hơn là tuyệt đối giữ giới nhất là trường hợp
về rượu khi đã xét kỹ đến những lời dạy của Ðức Phật: Này các tỳ
kheo, dùng các chất say trong lúc tu tập, phát triển, và thi hành lặp đi
lặp lại, khiến chúng ta đi vào đia ngục, thế giới thú vật, và thế giới ngã
quỷ, và kết quả tối thiểu ta cũng phải tái sanh làm người bị mất trí".
Khi chúng ta giữ năm giới, chúng ta đem hạnh
phúc và yên ổn đến cho người khác. Bằng cách nào? tại sao không một ai còn
phải lo lắng về chúng ta. Họ không còn phải lo sợ chúng ta. Họ sẽ thấy an toàn
và thoải mái với chúng ta. Vì họ có thể thấy được bảo đảm là chúng ta
không làm hại họ, trộm cắp của họ hay lừa đảo họ. Chúng ta sẽ không ngoại
tình với vợ chồng của họ. Chúng ta không nói dối họ. Và gì nữa chúng ta không
uống rượu không hút thuốc lá, họ không phải lo lắng về con cái họ bắt chước
chúng ta quen thói rượu chè hay hút thuốc lá hay nguy hiểm mà họ phải đối
đầu bởi phảiï hít các làn khói thuốc. Họ sẽ cảm thấy họ có thể tin chúng ta vì
chúng ta không còn uống rượu. Chúng ta là người có đạo lý và giữ vững cách
sống trung thực và đạo đức. Chúng ta không làm hại ai. Những kẻ say đắm
dục lạc có thể nghĩ rằng chúng ta sống một cuộc đời buồn tẻ và chúng ta khờ
dại. Nhưng điều đó không thành vấn đề. Chúng ta hạnh phúc vì chúng ta
là thế. Chúng ta hạnh phúc vì chúng ta hạnh phúc. và nói thật, chúng ta sẽ được
tán dương bởi người hiền.
Cho nên thật tốt lành khi chúng ta giữ năm
giới cơ bản. Hơn nữa chúng ta tu tập sự khoan dung và tử tế. Chúng ta quan tâm
và chia sẻ bất cứ gì chúng ta có thể. Chúng ta cũng trau dồi chánh niệm như lời
Ðức Phật khuyên. Chúng ta cố gắng sống một cuộc đời có chánh niệm. Chúng
ta hành thiền để đạt nhiều hiểu biết hơn nữa về bản chất cuộc sống của
chúng ta, đặc tính của nó là vô thường, khổđau và vô ngã. Bởi vậy khi chúng ta
thực hành những điều ấy, chúng ta đã sống một cuộc sống thiện, thì ta có
gì phải sợ khi chúng ta chết? Chúng ta có nuối tiếc gì?
Ðó là lý do tại sao chúng ta nói để chết êm
ả chúng ta phải sống tốt đẹp và rằng khi chúng ta sống tốt đẹp, chúng
ta có thể chết êm ả. Chúng ta có thể ra đi an lạc, mãn nguyện rằng
chúng đã làm tất cả những gì chúng ta có thể. Ðúng, chúng ta thể mắc một
số sai lầm trên đường đời. Nhưng ai mà không lầm lẫn? Jesus Christ có lần đã
nói: "Hãy để cho kẻ không tội lỗi ném hòn đá đầu tiên". Cho
nên trước khi chúng ta học hỏi và trở nên chín chắn, chúng ta có thể đã có
một số hành vi xấu. Việcđó có thể hiểu được, vì tất cả chúng ta đều không
hoàn hảo. Nhưng vấn đề là một khi chúng ta nhận thức được những lỗi
lầm của chúng ta, chúng ta bắt đầu trau dồi tình thương yêu và từ bi, chúng ta
bắt đầu giữ giới và thanh lọc tâm trí. Chúng ta có thể có hạnh phúc vì
chúng ta có thì giờ thay đổi để đi đúng đường. Như người tạ thường nói
muộn còn hơn không. Chúng ta đễn muộn một chút sau những người khác nhưng
ít nhất chúng ta cũng vẫn tới.
---*---
CHÚNG TA LÀ NHỮNG CỨU TINH
CỦA CHÍNH MÌNH
Ðôi khi là một nhà sư tôi được yêu cầu đến
tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn cho gia quyến của người chết nhưng đôi
khi tôi cũng cảm thấy không giúp được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai trò
của một nhà sư đi tụng kinh đám tang.
Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ tuổi đến gặp
tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng
tiếng Phúc Kiến: "Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở con
đường cho cha tôi". Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm lòng từ bi mà tôi có thể
tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối rối vàđau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20
tuổi và là một người con gái có hiếu. Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình:
"Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người như thế nào đây? Con đường
tưởng tượng nào tôi sẽ vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng đặt chân
lên? Làm sao tôi có thể nói với người phụ nữ trẻ tuổi tội nghiệp đang ở
trong tình trạng buồn phiền và bối rối rằng không có con đường nào như cô
có lẽ đã tưởng tượng như thế?"
Ðức Phật cũng có lần ở trong tình thế như vậy
và Ngài đã trả lời ra sao? Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Ðức Phật và
hỏi Ngài: "Bạch Thế Tôn, cha con chết. Xin mời Ðức Phật đến và cầu
nguyện cho cha con, cứu độ linh hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên đàng.
Những người Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Ðức Phật lại còn mạnh
hơn họ nhiều. Nếu Ngài sẽ làm điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng
về thiên đàng".
Ðức Phật trả lời, "Rất tốt, hãy đi
ra chợ và và đem về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ". Người
trẻ tuổi sung sướng vì Ðức Phật đã hạ cố thi hành một số thần thông để
cứu linh hồn cha của mình. Anh ta vội vã đi ra phố và mua các thứ mà Ðức
Phật bảo. Ðức Phật chỉ dẫn cho anh ta để bơ vào một bình và để đá vào
bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao. Người trẻ tuổi làm theo và cả
hai bìnhđều chìm xuống đáy ao. Rồi Ðức Phật tiếp tục: "Bây giờ
hãy lấy một cái gậy và đập vỡ hai bình đó ở dưới ao". Người trẻ
tuổi làm theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì nhẹ đã nổi lên còn
hòn đá vì nặng nên vẫn ở dưới đáy ao.
Rồi Ðức Phật nói: "Bây giờ nhanh lên đi
tập họp tất cả những thầy tu. Hãy nói với họ đến và tụng kinh để bơ
chìm xuống và viên đá nổi lên." Người trẻ tuổi nhìn Ðức Phật, sửng
sốt, nói, "Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc chắn Ngài
không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. Ðiều đó ngược
lại với qưi luật tự nhiên."
Ðức Phật mỉm cười và nói: "Này con, con đã
thấy nếu cha con có một cuộc đời lương thiện thì những hành vi của ông
cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông cũng lên thiên đàng. Không ai có
thể cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống lại nghiệp luật thiên
nhiên. Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc đời bất thiện thì cũng giống như
hòn đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào địa ngục. Dù tụng kinh nhiều đến
đâu đi nũa bởi tất cả các thầy tu trên thế giới này cũng không thể gây thành
khácđược."
Người trẻ tuổi hiểu rõ. Anh chữa lại quan niệm
sai lầm của anh và ngừng đi loanh quanh đòi hỏi cái không thể được.
Nụ cười của Ðức Phật đã đi tới điểm: Không ai có thể cứu chúng
ta, tối thiểu của tất cả sau khi chúng ta chết. Theo nghiệp luật, chúng ta là
sở hữu chủ của những hành vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những
hành vi của chúng ta. Những hành vi của chúng ta thực sự là tài sản của chúng
ta. Chúng là chỗ nương tựa thực sự của chúng ta, là những thân nhân thực sự của
chúng ta. Chúng là trung tâm từ đó chúng ta xuất phát. Khi chúng ta chết,
chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất cứ thứ đồ
gì của cá nhân chúng ta. Cũng chẳng có thể mang được một trong những người
thân để cùng đi với chúng ta. Giống như chúng ta đến một mình theo nghiệp
của chúng ta thì chúng ta cũng phải ra đi một mình. Nếu chúng ta hiểu rõ
nghiệp luật, thì chúng ta sẽ cảm niệm thấy sống một cuộc đời lương thiện
quan trọng đến như thế nào trong khi chúng ta còn sống. Ðợi đến lúc chết
thì sẽ quá muộn. Có một chút gì đó có thể làm được.
TÁI SANH NGAY TỨC KHẮC
Tuy nhiên, có một vai trò mà người thầy tu có
thể áp dụng trong việc tụng kinh tang lễ. Ðó là cách chia sẻ công đức của
Phật Giáo. Chia sẻ công đức hay hồi hướng công đức ảnh hưởng thế nào? Trước khi
chúng ta có thể giảng nghĩa điều này, trước hết chúng ta phải hiểu cái gì
xẩy ra vào lúc chết. Theo Ðức Phật, tái sinh xẩy ra lập tức sau khi chết, thức
có tính chất sinh diệt không ngừng. Không có khoảng cách giữa cái chết và tái
sinh kế tiếp.Vào lúc chúng ta chết thì lúc sau tái sinh xuất hiện, cả trên bình
diện con người cũng như bình diện thú vật, bình diện ngạ quỷ, bình diện của A
Tu La, bình diện địa ngục, hay bình diện thiên giới.
Ta tái sanh theo nghiệp của ta. Nếu ta sống
một cuộc đời lương thiện, nói chung ta sẽ được sự tái sanh tốt. Tâm ở
trong trạng thái thiện vào lúc chết làm cho tái sanh tốt đến. Ta có thể
tái sinh làm người hay thần ở một trong nhiều cảnh giới cõi trời. Ðức Phật có
thể nhìn thấy bằng năng lực tâm linh những cảnh giới khác nhau về kiếp sống, và
cũng nhìn thấy chúng sinh chết ra sao và tái sinh ngay lập tức theo những hành
vi của chúngï. Ðức Phật và nhiều các nhà sư ở thời đại của Ngài đã có
thể nhớ lại được tiền kiếp.
Nếu ta sống một cuộc đời tội lỗi, thì tái
sinh xấu sẽ đến – một trong bốn trạng thái thống khổ là địa ngục, ngã
quỷ, súc sinh hay A Tu La. Nhưng dù tái sinh vào bất cứ nơi nào, ta cũng không
ở đấy vĩnh viễn. Khi thọ mạng ở trong đó hết hạn, cái chết xảy ra và nó đi
vào một tái sinh mới. Cho nên kiếp sống ở địa ngục hay ngã quỷ cũng không
vĩnh viễn. Có hy vọng: sẽ có cơ hội, tuy có thể phải mất một thời gian không kể
xiết để có cơ hội này. Cho nên tốt hơn là đừng để rơi vào những nơi
thống khổ, một khi đã rơi vào đó không ai biết sẽ phải ở đó bao lâu.
Có thể dường như vô tận!
Tương tự như vậy, kiếp sống ở cõi trời cũng
không vĩnh viễn. Khi kiếp sống tại đó đã mãn, rất có thể rơi vào bình diện
thấp hơn. Chỉ có các bậc A La Hán đã rũ bỏ tất cả ham muốn để tái
sinh, đã loại bỏ được tất cả những ô nhiễm của tham, sân và si, sẽ không
phải tái sinh. Lúc chết họ không còn phải sinh vào bất cứ một trong 31 bình
diện kiếp sống. Họ không còn bị luân hồi, không còn bị vào vòng sinh tử. Họ đạt
được vô dư niết bàn, tức là dập tắt được toàn bộ khổ đau của thân và
tâm. Nhưng cho đến khi trở thành A La Hán, vẫn phải tái sinh.
CHIA SẺ CÔNG ÐỨC ẢNH HƯỞNG RA
SAO
Bây giờ muốn hồi hướng công đức được hữu
hiệu, điều cần thiết là người nhận công đức phải biết việc gì đang
xẩy ra. Người đó phải có mặt và có thể chấp thuận những hành vi thiện được
tiến hành bằng tên người ấy hay nhân danh người ấy. Nếu người ấy chấp thuận,
thì sự chấp thuận hay trạng thái tâm vui vẻ là một trạng thái thiện trong tâm.
Nói một cách khác, người ấy giành được công đức cho chính mình
bằng cách vui mừng những hành vi lương thiện đã được làm vì người ấy.Bởi
vậy không phải là chúng ta chuyển công đức của chúng ta cho người ấy. Việc
đó theo nghĩa đen không thể làm được. Cái xẩy ra là người ấy vui mừng và
sự vui mừng ấy là một hành vi công đức khiến cho sự khổ đau của người ấy
có thể giảm đi và hạnh phúc của người ấy tăng lên.
Nếu sau khi chết, tái sinh xảy ra trong bình
diện con người hay thú, chúng sinh sẽ không ở trong vị trí biết được điều
gì xẩy ra – chẳng hạn vẫn còn là một bào thai trong dạ con người mẹ. Trong
những hoàn cảnh như vậy, người ấy không thể vui hưởng hay chia sẻ trong việc
làm công đức.
Nếu một người đã bị tái sinh vào địa
ngục, người ấy cũng không thể biết cái gì sẽ xẩy ra trên thế giới này vì người
ấy bị đau khổ ở địa ngục, đây là một bình diện khác của kiếp sống trong đó
người ấy không hiểu biết về cái gì diễn ra nơi đây trên trái đất. Nếu
người ấy được tái sinh làm người của cõi trời, cũng không hẳn là người ấy có
thể tiếp xúc được với thế giới này. Người ta nói rằng vì quá sung sướng và
quá bận rộn tìm hiểu những cái tuyệt vời của kiếp sống mới họ không thể quan
tâm ngayđến cái gì đang xẩy ra trên trái đất. Thời gian chỉ là tương đối,
và một ngày ở tầng trời Tavatimsađược nói rằng bằng 100 năm ở trái đất! Cho nên
vào lúc mà người trời, ấy là nói vậy, nhìn xuống dưới này, chúng ta tất cả đều
đã chết và đi rồi! Hơn thế nữa, chúng ta không thể nói chắc người trời tự
động có thần thông tâm linh để nhớ lại tiền kiếp của mình, mặc dù kinh sách có
ghi lại một số trường hợp người trời nhớ những gì họ đã làm ở tiền kiếp để
được tái sinh vào cõi trời.
Cho nên trong kinh Tirokutta, Ðức Phật nói với
một người Bà La Môn là chỉ có thần hồn bất hạnh (peta) mới có thể chia sẻ công đức.
Những thần hồn này, tuy ở trong những cảnh giới riêng của họ, có thể quan sát
bình diện của loài người bằng chính mắt của họ. Nếu họ nhận thức được
những hành vi công đức được làm cho họ, và vui hưởng về điều này, thì
họ có thể giành được công đức do sự vui mừng của họ. Ðương nhiên không
ai muốn người thân của mình tái sinh làm thần hồn bất hạnh (peta). Người ta
thích nghĩ là họ sẽ tái sinh làm người hay làm người ở cõi trời.
Vì thế người Bà La Môn hỏi Ðức Phật cái gì sẽ
xẩy ra nếu người chết đã giành được sự tái sinh tốt.Ðức Phật trả lời,
chia sẻ công đức vẫn là tốt, vì ta sẽ ít lạc hướng hơn luân hồi, lúc bắt đầu
chắc chắn có một số thân quyến của chúng ta ở tiền kiếp đã có tái sinh không
may thành petas. Vì tuổi thọ của peta rất dài, họ vẫn còn ở quanh quẩn đâu
đó. Cho nên chúng ta chia sẻ công đức với thân quyến quá cố, và với tất cả
chúng sinh. Ngoài ra, Ðức Phật nhấn mạnh, người làm hành vi tốt vì người đã
rađi chính mình cũng giành được công đức.
Chia sẻ công đức là một truyền thống Phật
Giáo. Người Phật tử làm những hành vi tốt như cúng dường thực phẩm và những đồ
cần thiết cho các thầy tu, bảo trợ in kinh và bố thí cho công cuộc từ thiện,
như chỗ ở cho người già, bệnh viện từ thiện và cơ sở cho người tàn tật. Rồi
người ấy mời những người đã ra đi và tất cả chúng hữu tình vui hưởng
và chia sẻ công đức. Ðiều này tự nó là hành vi tốt, người làm không
"mất" tý công đức nào mà còn được hưởng nhiều hơn bởi sự
chia sẻ, vì hànhđộng chia sẻ là một hành vi công đức khác. Cho nên người
sống có hai công đức – thứ nhất là thực hiện hành vi tốt và thứ hai là
chia sẻ công đức.
Sự có mặt của các nhà sư để tụng kinh
Phật và nói Pháp cho những người thân bị mất mát vào lúc buồn phiền của họ,
cũng là một sự hỗ trợ tinh thần to lớn. Nhà sư có thể nhắc nhở những thân nhân
còn sống về giáo lý vô thường, khổ đau và vô ngã của Ðức Phật. Các nhà sư
thuyết phục thân nhân chấp nhận sự khổ đau với trí tuệ, và phấn đấu
chuyên cần hơn để dạt Niết Bàn, sự chấm dứt hoàn toàn tất cả khổ đau.
Nếu chúng ta hiểu và chấp nhận khái niệm Phật
Giáo về tái sinh xẩy ra ngay lập tức, thì chúng ta sẽ hiểu được điều quan
trọng là phải thực hành những hành vi tốt trong khi chúng ta đang sống.
Bởi làm những hành vi tốt, chúng ta có nghiệp tốt. Nghiệp là di sản thực sự của
chúng ta, vì chỉ có hành vi hay nghiệp mới có thể theo chúng ta. Sau khi chết,
việc đốt vàng mã, nha cửa, xe cộ bằng giấy vân vân... không có lợi lộc gì
cho người chết. Việc làm này đi ngược lại với cái hợp lý của nghiệp. Hơn
thế nữa chúng ta có thể quyết định – làm sao có thể đốt cái gì ở nơi đây
lại có thể biến thành cái gì ở bên kia thế giới hay ở bất cứ nơi nào. Cái gì được
đốt thì chỉ là cháy; nó vẫn là cái bị cháy. Trong pham vi nghiệp luật, cũng vậy
dâng cúng đồ ăn cho người chết cũng vô nghĩa. Khi tái sinh, chúng sinh mới
sinh tồn bằng loại đồ ăn thích hợp với bình diện của kiếp sống. Bởi vậy chúng
ta thấy Ðức Phật không bao giờ bảo chúng ta cúng đồ ăn cho người chết hay
đốt vàng mã, vân vân...
Hiển nhiên, những nghi thức và nghi lễ về tang
chế được truyền thừa từ thế hệ này đến thế hệ nọ không có một tư
tưởng nào là căn bản và có nghĩa lý. Ðiều mà Ðức Phật dạy là, như đã giải
thích trước đây, làm một số hành vi tốt vì hay để tưởng nhớ đến người
chết và rồi chia sẻ công đức bằng cách tụng bằng tiếng Pali hay bằng ngôn
ngữ chúng ta có thể hiểu được: Xin đem công đức này hướng về những
người chết. Xin những người chết hoan hỉ và chia sẻ công đức đã được
làm.
TANG LỄ PHẬT GIÁO LÀ MỘT TANG
LỄ ÐƠN GIẢN
Con đường Phật Giáo có nghĩa lý và đơn
giản. Nếu chúng ta hiểu và đánh giá cao con đường Phật Giáo, thì tang lễ
Phật Giáo sẽ rất đơn giản tránh nghi thức và nghi lễ dị đoan, tránh
sợ hãi, lo lắng hay bối rối. Ta không cần phải đốt cái này cái kia,tiến
hành những loại nghi thức xa lạ, và phải tuân thủ tất cả những điều cấm
kỵ, tất cả những thứ hoàn toàn vô nghĩa và gây bối rối cho những người sống
thường bị cuốn theo điều đó vì sợ hãi, áp lực xã hội hay dốt nát hơn là
bất cứ cái gì khác. Ta không phải mời những người chuyên nghiệp để tụng
kinh hay thực hiện các nghi thức cho một lệ phí nặng nề lên tới cả ngàn Mỹ Kim
hay thuê một ban nhạc để cử nhạc mặc dù có thể là nhạc rất nghiêm trang.
Là một Phật tử, ta chỉ cần mời những nhà sư
Phật Giáo để tụng kinh Phật Giáo không cần phải dài. Sẽ là tốt nếu có thể
những kinh này được dịch ra tiếng Anh hay Trung Hoa để tất cả mọi người có
mặt có thể hiểu được, cảm niệm và sưy ngẫm về cái đã được tụng những
điều Ðức Phật đã dạy về bản chất của sự sống và cái chết. Quan trọng
nhất là giữ năm giới bởi người cư sĩ – tụng bằng tiếng Pali, được phiên dịch
thì tốt hơn theo nhà sư. Sự gìn giữ và tuân theo năm giới là sự tu hành căn bản
của người cư sĩ Phật Giáo. Sau khi thọ giới, nhà sư có thể nói Pháp để an
ủi, khuyên giải và khuyến khích người có thân nhân chết.
Trong truyền thống Nguyên Thủy, các nhà sư
không thu một khoản lệ phí nào về buổi lễ của họ. Lễ này các nhà sư làm do lòng
từ bi, để hỗ trợ tinh thần cho những cư sĩ thuần thành trong giờ cần thiết
của họ. Bởi vậy các nhà sư không tìm kiếm sự đền bù bằng tiền bạc vì điều
đó không hòa hợp với tinh thần Phật Pháp. Tuy nhiên, những cư sĩ thuần thành đôi
khi cúng dường một phong thư đỏ cho vị sư để mua những thứ cần thiết, như y áo
hay thuốc men. Số tiền này, nếu cúng dường, chỉ là một biểu hiện biết ơn. Thực
ra, các nhà sư không mong muốn phong bì đỏ, và nếu nó được cúng dường
thì chỉ là sự cúng dường hoàn toàn theo sáng kiến của người cúng dường. Phơng
bì này là biểu hiện sự biết ơn không phải là lệ phí mà là cúng dường. Lệ phí,
trong trường hợp tang lễ, thường là một món tiền lớn lao được ấn định bởi
người làm dịch vụ tang lễ trước khi đồng ý tiến hành những tế lễ tỷ mỉ. Và
như chúng tôi đã nói điều đó không phải là việc làm của một nhà sư.
Những thân quyến, đương nhiên có thể cúng
dường đồ ăn cho các vị sư tại chùa. Những người có khả năng hơn có thể
cúng dường in kinh sách Phật Pháp để biếu không. Họ cũng có thể cúng dường cho
những cơ sở từ thiện, cho những người nghèo, và những người túng thiếu. Thay vì
những vòng hoa tang, thân quyến và bạn bè nên được khuyến khích cúng cho
những hội từ thiện đặc biệt. Tất cả những việc như thế làm tang lễ có ý nghĩa –
bớt đi những lề thói vụng về đem đến nhiều bối rối và uổng phí tiền bạc.
CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC HỎI TỪ
NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Người chết có thể đem thiêu hay đem
chôn ngay – vào cùng ngày hay ngày hôm sau. Trên phương diện này tôi nghĩ những
gia đình Trung Hoa nên học hỏi một đôi điều từ đám tang của người Hồi
Giáo mà tôi được biết là đơn giản, thực tế và không tốn kém. Một
người Hồi Giáo bạn tôi nói cách thức của người Hồi Giáo là chôn ngay vào ngày
chết hay chậm nhất là ngày hôm sau. Cho nên nếu một người Hồi Giáo chết lúc 2
giờ chiều, người chết có thể được chôn trước khi mặt trời lặn vào cùng
ngày. Nếu người chết vào buổi tối hay đêm, người ấy được đem chôn
ngày hôm sau.
Tang lễ không tốn kém, dễ lo liệu vì như người
bạn tôi nói, Hồi Giáo không khuyến khích tiêu pha phung phí mà khuyến khích đơn
giản và tiết kiệm. Một đám tang Hồi Giáo theo như bạn tôi nói có một quan
tài với giá ít ỏi là 500 đồng (tiền Mã Lai) – rất khác với một tang lễ
Trung Hoa có thể tốn kém đến 30,000 đồng hay hơn nữa! Thủ tục tang lễ của
người Hồi Giáo, trong phạm vi Hồi Giáo, tương đối đơn giản và có ý nghĩa. Tang
lễ của người Cơ Ðốc Giáo cũng đơn giản, không tốn kém và có ý nghĩa đối
với người Cơ Ðốc Giáo, và sư chôn cất được thi hành trong phạm vi 48
giờ.
Tôi tin rằng trong đời sống chúng ta
không bao giờ ngưng học hỏi. Thường có những cách làm tốt hơn và có ý nghĩa
hơn. Nếu chúng ta duy trì tâm cởi mở và không thành kiến chúng ta có thể học
hỏiđược từ những người khác. Trong Kinh Kalama, Ðức Phật khuyên chúng ta
phải luôn luôn suy nghĩ và điều tra nghiên cứu chính chúng ta. Nếu chúng
ta thấy một thói quen tốt và có ý nghĩa thì chúng ta nên theo; nếu chúng ta
thấy nó xấu và vụng về thì chúng ta không theo nó, hay nếu chúng ta đã
chót theo nó, chúng ta nên đủ dũng cảm và khôn ngoan để bỏ nó đi. Ðức
Phật nói, không có gì mà ta phải theo một cách mù quáng không hiểu biết hay
không đặt câu hỏi. Ðức Phật khuyến khích chúng ta đặt vấn đề và điều
tra nghiên cứu. Cả đến những lời của Ngài cũng phải điều tra nghiên
cứu, và chỉ khi thấy những lời nói ấy đúng thì hãy theo. Ðức Phật không
muốn chúng ta có niềm tin mù quáng mà là một niềm tin căn cứ vào kiến thức kinh
nghiệm trực tiếp.
Cho nên, nếu chúng ta thấy những sự thực hành đơn
giản và tốt ở những tôn giáo và truyền thống khác, chúng ta có thể áp dụng và
theo chúng miễn là chúng không mâu thuẫn với niềm tin đạo lý của chúng ta.
Về phương diện này, chúng ta có thể học hỏi từ những người về cách họ thi hành
tang lễ nhanh chóng và không tốn kém. Chúng ta cũng nên loại bỏ những lề thói
dị đoan và không phải là Phật Giáo của chúng ta.
Tôi thấy có nhiều dị đoan trong tang lễ
truyền thống của người Trung Hoa, và chính tôi đã thấy những lề thói này
trong khi tụng kinh ở tang lễ. Tôi cảm thấy bát lực vì tôi chỉ có thể chứng
kiến trong thầm lặng. Có một chút mà ta có thể làm được. Truyền thống rất
khó để thay đổi, và bất cứ cố gắng nàođể thay đổi thường gặp phải sự chống đối
mãnh liệt và thâm chí bị kết tội nữa.
Có những lúc tôi ngần ngại không muốn đi
tụng kinh tang lễ vì băn khoăn rằng sự có mặt của tôi ở đó là phụng sự cho mục
tiêu gì. Nhưng tôi luôn luôn hưởng ứng và cố làm những gì có thể được bằng
cách nói Pháp và làm trong sáng tỏ lập trường của Phật Giáo bằng sự khéo léo có
thể được. Tôi nghĩ rằng bây giờ là thời điểm cấp bách mà người Phật
tử Trung Hoa xét lại những thói quen tang lễ theo truyền thống và nên giản dị
hóa theo trí tuệ Phật Giáo. Tôi có thể bị chỉ trích về quan niệm của tôi nhưng
tôi cảm thấy nếu chúng ta không nói lên, chúng ta sẽ làm hại cho cộng đồng
Phật Giáo.
Nếu tôi có thể đề xuất một tang lễ Phật
Giáo đơn giản, tôi sẽ đề nghị việc hỏa táng nên được tiến hành cùng ngày
nếu có thể được, còn nếu không thì vào ngày hôm sau. Tuy nhiên một số
người muốn giữ thi thể một vài ngày để thân quyến và bạn bè ở xa có thể về
tiễn biệt người ra đi lần cuối, hay với nhiều lý do riêng tư. Cho nên việc
quyết định sẽ là một quyết định riêng tư do gia đình lo liệu.
Tôi đề nghị thiêu hơn là chôn vì nhiều suy xét thực tế như thiếu đất,
dân số tăng trưởng, và tiết kiệm chi phí tang lễ có thể hướng vào những nhu cầu
có nghĩa hơn như từ thiện.
Người chết nên được tắm rửa, sạch sẽ và
mặc quần áo bởi thân nhân hơn là người lạ. Việc này có ý nghĩa vì xác thân là
người yêu dấu của chúng ta, và điều tối thiểu chúng ta có thể làm được
là nhẹ nhàng thi hành vời lòng thương yêu và kính trọng. Thi hài được mặc
quần áo không cần thiết phải khoa trương hay hình thức mà người chết nên mặc đồ
thường được thích mặc khi còn sống. Thi hàiđàn ông nên được tắm rửa và mặc
quần áo bởi thân quyến đàn ông, và thi hài phụ nữ thì do thân quyến phụ
nữ. Chúng ta không nên cảm thấy sợ hãi gì về xác chết, nhất là xác chết của
người thân yêu.
Cũng không có điểm nào nói là phải để
đồ trang sức trên thi thể. Một lần trong khi tụng kinh tại tang lễ, tôi thấy
những người lo việc mai táng phục sức xác người chết với những chiếc nhẫn và
những bông tai làm cho người chết. Việc này thật mỉa mai và vô nghĩa khi cho
rằng dù tái sinh nào thì người chết cũng sẽ mang theo, ông ấy hay bà ấy không
thể mang theo một thứ gì ngoại trừ toàn bộ những hành vi tốt và xấu.
Khi nhấc xác từ trên giường và đặt vào
quan tài, việc này nên để thân quyến làm, và bao giờ thi thể cũng phải được
tiến hành một cách kính trọng và nhẹ nhàng. Thói quen quay lưng lại phía người
chết khi thi hài được đưa vào quan tài hay khi quan tài được đặt vào
xe tang là một việc kỳ cục. Người chết là người thân yêu của chúng ta và chính
chúng ta trước nhất phải nhẹ nhàng đặt thi hài vào quan tài, hoặc đứng
chứng kiến một cách kính cẩn trong khi những người khác làm. Quay đi để
lưng hướng về người chết với tôi là một biểu hiện thất kính! Tôi không thể
không nghĩ rằng nếu tôi là người chết tôi sẽ bực mình vì bị đối xử một
cách như thế.
Thói quen quay lưng lại chỉ là một dị đoan
khác. Tại sao chúng ta phải sợ sự không may giáng xuống chúng ta nếu chúng ta
không tuân theo những điều cấm kỵ như thế? Là người Phật tử chúng ta nên tin
vào nghiệp, nghiệp chính là nơi nương tựa và hỗ
trợ đích thực của chúng ta. Làm tốt được tốt làm xấu bị xấu. Chúng ta
nên sợ những hành vi xấu, như không giữ giới, và những hành vi xấu như thế sẽ
mang lại khổ đau. Ðiều cuối cùng chúng ta cần sợ là dị đoan,
những điều cấm kỵ vô căn cứ.
Quan tài không cần đắt tiền. Nó phải được
đặt ở phòng lớn với một số hoa sắp đặt khéo léo chung quanh và hình ảnh
của người chết. Một vài câu Phật Pháp có ý nghĩa, một đoạn trích hay tục
ngữ có thể treo để suy ngẫm. Không cần giữ vòng hoa tang đến, thay vì vòng
hoa tang, tiền phúng viếng nênđược gửi cho các cơ sở từ thiện mà gia đình
người chết có thể định rõ. Nên tiêu pha thế nào để tiết kiệm bằng
cách tổ chức tang lễ đơn giản và có ý nghĩa để có thể hướng về tổ chức từ
thiện.
Ðồ ăn không cần phải để trước linh cữu
người chết vì chúng ta đã giải thích, người chết sẽ không thểăn. Ðốt
giấy tiền vàng mã cũng vô nghĩa và không nên làm. Ðốt nến và hương cũng không
cần thiết. Thực ra nhiều lề thói dị đoan và những điều cấm kỵ thường
đi kèm với nghi lễ truyền thống của người Trung Hoa nên được dẹp bỏ, khi
nhớ đến những lời của Ðức Phật là một người cư sĩ thuần thành phải có năm
đức tính: "Người cư sĩ phải có niềm tin, giữ kỷ luật tinh thần, không
tin vào những điềm triệu dị đoan; tin vào nghiệp, không tin
vào điềm báo; không tìm thiên thần quỷ vật ngoài nơi đây (ngoài hệ
thống của Ðức Phật) và chứng tỏ danh dự nơi đây (có nghĩa là tôn trọng hệ
thống của Ðức Phật và không nên tự mình lệ thuộc vào những lề thói không phải
là Phật Giáo)".
Mặc quần áo tang chế là không cần thiết. Ðức
Phật không muốn chúng ta than khóc hay phiền muộn mà chấp nhận sự thật về việc
chia lìa và cái chết bằng trí tuệ và sự thanh thản. Soka hay
phiền não là một trạng thái tâm không lành mạnh và ta phải vượt qua nó bằng
chánh niệm và suy ngẫm khôn ngoan. Bởi vậy các bậc Tư Ðà Hàm và A La Hán (đã đạt
được giai đoạn thứ ba và thứ tư của quả vị thánh) không than khóc và phiền não.
Khi Ðức Phật nhập diệt, những nhà sư đã đạt được thánh quả Tư Ðà
Hàm và A La Hán không khóc. Hiểu biết bản chất của vô thường, họ không phiền
não dù cho Ðức Phật qua đời trước mắt họ.
Ðức Phật cũng chẳng phiền não khi hai đệ
tử lớn của Ngài là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên chết trong vòng hai tuần kẻ
trước người sau vào khoảng sáu tháng trước Ngài. Chính Ðức Phật đã nhận
xét: "Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời, này các tỳ kheo, về những bậc giác ngộ
như khi cặp đệ tử qua đời,Ðấng Giác Ngộ không phiền não, không than
khóc". Và Ðức Phật nói thêm: "Vì về cái sinh ra, đi đến trụ, hợp
thành, và phải bị hoại thì làm sao lại nói nó không phải ra đi? Ðương
nhiên, điều đó là không thể được.
"Cho nên, này các tỳ kheo, các ngươi là
hải đảo của chính các ngươi, là nơi nương tựa cho chính các ngươi chứ
không có nơi nương tựa bên ngoài nào khác, với Giáo Lý là hải đảo, Giáo Lý
là nơi nương tựa, không tìm nơi nương tựa nào khác."
KHÔNG TRIỆT BỎ ÐƯỢC PHIỀN
NÃO, MÀ PHẢI THỪA NHẬN VÀ XUA TAN NÓ BẰNG CHÁNH NIỆM VÀ HIỂU BIẾT
Cho nên nếu chúng ta để tâm lời Phật dạy,
chúng ta có thể giữ bình tĩnh trước phiền não. Ở đây chúng ta phải nhấn
mạnh là chúng ta không nói là chúng ta phải triệt bỏ phiền não bằng sức mạnh,
lờđi, hay phủ nhận sự tồn tại của nó. Không, đó là cách giải quyết không khéo
léo.
Cách giải quyết của chúng ta là thừa nhận và
quan sát trạng thái phiền não của tâm. Qua chánh niệm và suy ngẫm khôn ngoan,
chúng ta có thể ngăn chặn phiền não và trở nên bình tĩnh. Chánh niệm và hiểu
biết là con đường trung đạo và là con đường tốt nhất – nó cũng không
liên quan đến việc triệt bỏ và cũng chẳng phải cho lối thoát chồ những cảm
xúc tiêu cực và thiếu xây dựng. Chánh niệm là thừa nhận và quan sát, từ đó,
hiểu biết, chấp nhận, hòa hợp và trí tuệ nẩy sinh. Chúng ta không thể phủ nhận
hay triệt bỏ những cảm xúc. Chúng ta thừa nhận và quan sát chúng.
Trong sự thừa nhận và quan sát đó, chúng
ta có thể đối phó tốt hơn với sự xáo trộn và xung đột có thể xẩy ra trong
tâm chúng ta. Chúng ta có thể sử dụng cách suy nghĩ khôn ngoan về tính chất của
vô thường, khổ đau và vô ngã. Chúng ta có thể rút ra những bài học từ trí tuệ
của người xưa và bằng cách đi đến thừa nhận phiền não của chúng ta. Nói
một cách khác, trí tuệ có thể nẩy sinh. Chúng ta có thể hiểu và chấp nhận phiền
não. Và phiền não sẽ không thể chi phối tâm của chúng ta hay áp đảo chúng
ta. Ðây là ý mà chúng ta muốn nói khi chúng ta nói áp dụng cẩn thận chánh
niệm dẫn đến sự hiểu biết và tự tại.
Bằng cách này chúng ta sẽ không than van.
Chúng ta có thể quan sát xúc cảm của phiền não trong chúng ta, và nó có thể bị
ngăn chặn khá tự nhiên, không cần chúng ta phải biểu lộ thái độ thô lỗ về
việc đó. Sẽ có bình tĩnh, chấp nhận và hiểu biết. Cho dù chúng ta không kiềm
chế nổi và phải khóc, chúng ta vẫn có thể hạn chế. Cuối cùng chúng ta có thể
giành lại được sự kiềm chế và lắng dịu. Chánh niệm sẽ tới giúp chúng ta và
giúp chúng ta hòa hợp với phiền não. Chúng ta sẽ hiểu sự thật của khổ đau,
chân lý mà Ðức Phật và các đạo sư khôn ngoan khác đã dạy, và chúng ta có
thể lại cười.
Trở lại với đề tài than khóc, chúng ta có
thể thấy trong phạm vi trí tuệ và không-phiền não, việc mặcđồ tang chế là không
cần thiết. Nó không có nghĩa là chúng ta không hiếu thảo, hay chúng ta thương
yêu người thân ít hơn, nếu chúng ta không mặc đồ tang chế. Không, chúng ta
vẫn hết sức kính trọng người thân nhưng chúng ta không thấy công đức gì khi
phơi bày công khai và không cần thiết phiền não của chúng ta. Tôn kính và phiền
não ở đây là vấn đề rất riêng tư. Chúng được cảm thấy trong tâm
của chúng ta và không cần phải phô bày ra trước công chúng.
Thay vì nhấn mạnh những hình thức thương tiếc
bề ngoài không cần thiết, lòng hiếu thảo phải kết hợp với những hành động
hướng về người già khi họ còn sống. Những hành vi tự chúng sẽ nói lên. Quả là
hết sức bất hạnh nếu một số người nghĩ rằng những nghi thức và nghi lễ cầu kỳ
trong tang lễ và việc mặc quần áo tang chế sẽ bù đắp được cho những hành
vi thương yêu và quan tâm không được bầy tỏ khi người chết còn sống.
Tuy nhiên, với sự đúng mức trong dịp
trọng thể, có thể mặc quần áo "lễ nghi". Ta có thể chọn bộ đồ
mầu sẫm, trắng hay một mầu thích hợp hơn trong tủ áo của mình. Như vậy đối
với tâm tôi thế là đủ dù người chết, nếu đã là một người Phật tử vui
vẻ và hiểu biết, có thể không muốn chúng ta mặc những quần áo "tang
chế" mà vui mừng là đã sống một cuộc đời lương hảo và đã đi
tới một tái sinh tốt đẹp hơn. Cho nên trước khi chết, người ta có thể yêu cầu
không đi theo thói dị doan hay than khóc mà chỉ cầu một tang lễ đơn
giản. Người ta có thể ủy thác cho một người có trách nhiệm xem xét tất cả những
ước nguyện của mình có được thi hành không. Người ta có thể viết trên giấy
và ký trước sự hiện diện của nhân chứng để tất cả người liên quan đều
biết và tuân theo lời ước nguyện của mình.
Bầu không khí chung trong nhà và suốt cả tang
lễ phải là một bầu không khí thanh tịnh và hiểu biết. Những hoạt động
không thích hợp như rượu chè, cờ bạc tuyệt đối không được phép. Tất cả
phải là kính cẩn và cư xử bằng sự đúng mức thích đáng. Những đoạn có ý
nghĩa trong Kinh Phật có thể thinh thoảng được đọc lên và được suy ngẫm
bởi thân quyến trong gia đình và những người có mặt. Một người có thể đứng
đầu trong sự suy nghĩ. Nếu tất cả những người liên quan đều có sự hiểu
biết tốt về Phật Pháp, họ có thể ngăn chặn phiền não. Người nhiều cứng rắn hơn
có thể an ủi người phiền muộn. Bằng cách ấy, sẽ có bầu không khí an lạc và hiểu
biết trong toàn bộ nghi thức. Và những người có mặt cảm thấy quyết tâm và có động
cơ hơn để phấn đấu hăng hái hơn trong việc tìm kiếm tinh thần, và sống với tình
thương yêu và từ bi hơn.
Một khóa lễ cho người chết có thể được cử
hành tại nhà. Những thân quyến lớn tuổi trong gia đình có thể hướng dẫn
cuộc lễ, trong đó đời và những hành vi thiện của người chết được kể
lại. Con cái nhắc lại lòng khả ái và tình thương to lớn của cha mẹ và
quyết tâm sống một cuộc đời gương mẫu trong sự hồi tưởng của họ.
(Về phương diện này, cha mẹ đã để
tâm đến thực tế là các hành vi vượt qua đời sống thể chất. Một đời sống
lương thiện là một di sản tốt nhất để lại cho con cái. Một di sản vừa thôi
thúc vừa để lại phẩm giá cho người thừa kế. Hương thơm của những hành vi và đời
sống gương mẫu sẽ còn mãi sau khi cha mẹ đã ra đi)
Có thể mời một vị sư để hướng dẫn một
thời Pháp thích đáng. Khóa thiền có thể tổ chức ở phòng lớn. Ðiều đó có
thể là hành vi công đức và vừa là sự biểu hiện lòng tôn kính đối với
người quá cố. Người quá cố, nếu là một thiền gia vững vàng, chắc chắn sẽ rất
sung sướng nếu biết được mọi người ngồi chung quanh quan tài và thiền định.
Nếu được tái sinh lên cõi trời, và có thể nhìn thấy những gìđang diễn ra, và
tôi chắc chắn người ấy sẽ rất thích thú. Chắc chắn tôi sẽ rất thích thú nếu tôi
nhìn xuống và thấy mọi người đang thiền chung quanh cái quan tài của tôi.
Niềm vui của tôi sẽ bất tận. Và nếu có thể tôi sẽ xuống và vui vẻ ngồi thiền
với mọi người, nhưng, đương nhiên, bạn phải thứ lỗi cho tôi: Tôi biết tôi đang
thả lỏng trí tưởng tượng của mình.
Vào ngày thiêu, tất cả những công đức đã đạt
được lại được chia sẻ. Một danh sách những tổ chức thiện nhận được tiền tặng
cũng được đem ra đọc. Một khóa lễ có ý nghĩa có thể được cử hành tại nhà thiêu
ngay trước khi quan tài được đưa vào lò thiêu. Những đoạn kinh có ý
nghĩa từ các bộ kinh có thể được tụng. Những đoạn kinh này nói về cái vô thường
của đời sống, cái chết không tránh được và sự cần thiết sống một cuộc đời
lương thiện, hành thiền và phục vụ đồng loại. Việc này có thể giúp mở mang
trí tuệ nhiều hơn nếu khóa lễ này được đặc biệt biên soạn và được đọc
lên vào dịp này. Nếu một vị sư hướng dẫn toàn bộ khóa lễ thì rất tốt nhưng nếu
không thể được thì một người lớn trong gia đình, thân quyến hay bạn
bè có thể đúng ra.
Sau khi thiêu xong, chúng ta phải làm gì với
tro cốt? Ở xứ Phật Giáo Miến Ðiện, tôi được biết thường thường xác thiêu
thành tro để lại tại nhà thiêu. Thân nhân không thu thập tro vì tin rằng
người quá cố ngay sau khi chết đã có cuộc tái sinh mới, và xác thân để
lại chỉ là một cái vỏ rỗng. Tuy nhiên thói quen của người Trung Hoa tại Mã Lai
lại giữ tro cốt để ở chùa hay ở những nơi giữ tro cốt với chi phí đáng
kể. Cảm nghĩ riêng của tôi là không có mục đích nào để giữ tro cốt vì
nó không phục vụ cho nhiều mục tiêu, không cần thiết phải dâng cúng hay cử hành
một khóa lễ nào trước tro cốt. Vì, như chúng ta biết về Pháp, tro cốt chỉ là
những thành phần của vật vô tri trong khi thức đã đi vào một tái sinh
mới, một xác thân mới trong một kiếp sống mới nào đó. Cho nên tôi nhất trí
với cách để lại tro cốt của người Phật Tử Miến Ðiện. Nếu chúng ta
muốn tưởng nhớ và tôn kính người quá cố, chúng ta nên sống một cuộc đời
lương hảo và làm những hành vi thiện để tưởng nhớ. Vào ngày giỗ người quá
cố, chúng ta có thể cúng dường (thực phẩm và tặng phẩm) tại chùa hay quyên góp
cho những cơ sở từ thiện.
Tất cả những đề xuất về phương diện tang
lễ mà tôi đã trình bày trên đây, có ý nghĩa và đáng chú ý hơn
những lề thói hiện nay. Nhưng đương nhiên điều đó là tùy độc giả
quyết định cho chính mình. Ðây chỉ là cảm nghĩ của tôi, cách tôi nhìn vào điều
đó. Tôi hiểu rằng nhiều người cảm nghĩ khác hẳn. Họ có thể không đồng ý với
tôi, và họ có quyền làm như vậy. Vì tôi bao giờ cũng có niềm tin dứt khoát là
không ai có thể áp đặt quan điểm của mình lên trên một quan điểm của
người khác. Chúng ta tất cả đều có tâm riêng của chúng ta và phải được
phép suy nghĩ và quyết định cho chính chúng ta.
Cho nên tôi xin nói rõ ràng nơi đây tôi
không áp đặt quan điểm của tôi lên bất cứ ai. Thay vì tôi chỉ là bầy tỏ và chia
sẻ chúng. Và tôi xin để cho mỗi người tự quyết định cho chính mình điều
mình muốn tin tưởng và theo. Mỗi người phải cảm thấy tự do làm điều mà
mình nghĩ rằng thích hợp. Hơn nữa, quyết định một tang lễ sau khi có người
chết, phải có sự bàn thảo và đồng thuận giữa những người trong gia đình.
Cho nên tốt nhất là trước khi chết hãy làm cho rõ ràng loại tang lễ mà mình
muốn. Và việc này nên làm bằng cách viết ra, ký tên và có nhân chứng. Sẽ không
có ý kiến phản đối sau khi người ấy chết. Thân nhân gia đình nên tôn trọng
và làm theo những ước muốn của người ấy.
Ðương nhiên, những đề xuất của tôi không
toàn diện. Chúng không bao gồm tất cả những chi tiết và khía cạnh của một tang
lễ. Chúng chỉ là một khuôn khổ thô sơ, chỉ là một món ăn nào đó cho
tư tưởng. Có thể có những biến thể khác. Cho nên nó sẽ rất tốt nếu một nhóm
Phật tử có cùng tâm ý và được tôn trọng ngồi bàn với nhau để hình
thành một tang lễ Phật Giáo đơn giản bao gồm tất cả các khía cạnh và chi
tiết, và trả lời tất cả những câu hỏi có thể nảy sinh. Trước tiên là những điều
cần được xem xét là những lề thói hiện tại. Chúng như thế nào? Chúng có ý nghĩa
gì? Chúng ta có biết và hiểu những gì chúng ta đang làm không? Tại sao
chúng ta thực hành chúng? Chúng có ý nghĩa không? Chúng có phù hợp với Phật
Pháp không? Hay chúng là những lề thói dị đoan hay những thói quen không
thể hòa hợp với sự hiểu biết của chúng ta về Pháp đã được thuyết
giảng bởi Ðức Phật.
Từ những gì tôi có thể nhìn thấy nhiều thói
quen trong một gia đình Trung Hoa tự nhận là có lối sống Phật Giáo về đời
sống, không thể hòa hợp với Pháp. Dường như nhiều người chỉ làm theo những nghi
thức tang lễ mà không có ý niệm chúng là gì. Họ chỉ làm theo những chỉ dẫn mà
không hỏi han hay hiểu biết. Vào lúc tang lễ, họ quả thật rất bối rối và quẫn
trí. Họ chỉ bàn theo những điều được bảo vì đó là truyền thống và họ
không thể đi ngược lại mà không bị chê trách và bị kết tội là bất hiếu vân
vân... Cho nên sự tham gia thực sự vô nghĩa. Ðối với tôi, tất cả dường như khá
cảm động. Vô minh và cam chịu trước bất cứ điều gì được thực
hiện dường như là chương trình làm việc.
Cho nên một nhóm Phật tử đáng kính nhìn
vào tất cả những lề thói này có thể đi đến một sự lựa chọn có ý nghĩa phù
hợp với Phật Pháp. Chi tiết về tang lễ được đề xuất với nhiều lựa chọn
khác nhau sẽ được soạn thảo sau khi đã thực hiện một cuộc nghiên cứu tình hình địa
phương. Một cuốn sách toàn diện cung cấp tất cả những lựa chọn về tang lễ khác
nhau và những thông tin cần thiết có thể được biên soạn và phổ biến. Một đề
án như thế sẽ là một sự phục vụ lớn lao cho Cộng Ðồng Phật Giáo thường bị bối
rối không biết cái gì cấu thành một tang lễ Phật Giáo thích hợp.
VỀ PHẦN TÔI
Ðối với tang lễ của chính tôi, tôi đã đưa
ra ý nghĩ thích hợp về cách tôi muốn thân xác tôi được xử lý ra sao sau khi
chết. Thân xác thực sự không là gì khác hơn một cái xác sau khi chết. Nó sẽ trở
về với đất. Cho nên tôi muốn làm một hành vi thiện cuối cùng có nghĩa là
tặng xác cho bệnh viện. Bác sĩ có thể lấy giác mạc ở mắt tôi và trao tặng phẩm
tuyệt vời này cho một người mù. Hãy tưởng tượngđến sự vui mừng như thế nào khi
người mù có thể nhìn lại được, và tặng phẩm sẽ quí giá đến nhường nào
với người ấy. Và hãy tưởng tượng tôi cũng sung sướng đến thế nào khi biết đã
tặng cho người ấy tặng phẩm về thị lực. Tặng phẩm này không có sư hy sinh gì về
phần tôi cả, vì thân xác không còn sử dụng được gì sau khi chết. Cho nên
tôi có thể làm hành vi thiện cuối cùng trước khi thân bị tan rã.
Nếu có thể, bác sĩ lấy tim, thận, phổi, gan và
bất cứ cơ quan nào có thể dùng được sau cái chết của tôi, đem ghép cho
người khác. Và bất cứ gì còn lại có thể đem lợi ích cho những sinh viên y
khoa trong việc nghiên cứu của họ. Họ có thể thực hành mổ xẻ xác tôi. Cuối
cùng, họ có thể tùy nghi xử lý những gì còn lại của thân tôi như họ muốn. Có
thể phần còn lại làm phân bón cho đất và cây cối lớn cho bóng mát và hoa đẹp.
Và cũng bằng cách này, không ai cần phải lo lắng cho tôi về cái gọi là tang lễ
thích hợp. Mỗi người đều có thể để lại xác cho bệnh viện để tùy nghi xử lý
những gì mà họ nghĩ là thích hợp. Việc này sẽ làm cho mọi người dễ dàng hơn.
Nói cho đúng, nó sẽ làm cho mình nhẹ nhõm. Không ai còn bị bị phiền phức
về chuyện của tôi.
Và nếu có người nói về một tang lễ thích hợp
cho tôi và việc bầy tỏ lòng tôn kính cuối cùng, tôi sẽ nói: Xin đừng bận
tâm về việc đó. Tang lễ không dành với tôi. Nhưng nếu bạn thực tâm nhớ đến
tôi, xin bạn hãy làm điều thiện. Hãy làm bất cứ điều thiện nào bạn
thích để tưởng nhớ đến tôi. Hãy sống một cuộc đời lương hảo. Hãy quan
tâm và chia sẻ. Hãy tha thứ và thương yêu. Hãy rộng lượng và mở rộng con tim.
Hãy tử tế và lịch sự. Ðó là tất cả những gì tôi yêu cầu. Ðiều đó sẽ làm
cho tôi rất hạnh phúc – biết rằng tôi đã có thể truyền bá thông điệp
tốt nào đó và đã có ảnh hưởng tốt nào đó.
Này các tỳ kheo, một tỳ kheo
phải đối diện cái chết của mình bằng
chánh niệm và thấu triệt rõ ràng.
Ðó là huấn thị của ta cho các ngươi.
phải đối diện cái chết của mình bằng
chánh niệm và thấu triệt rõ ràng.
Ðó là huấn thị của ta cho các ngươi.
PHẢI CHẾT THANH THẢN
Tất cả chúng ta một ngày nào đó sẽ phải
chết. Chúng ta phải chết thanh thản và an bình. Cho nên, một người sắp phải
chết chúng ta nên cố gắng làm cho cái chết càng thanh thản và đẹp đẽ cho
ông ấy hay bà ấy càng tốt. Vâng, bạn ngạc nhiên cái chết có thể lại đẹp đẽ
ư? Nếu bạn ngạc nhiên, đó là vì chúng ta thường ác cảm đối với cái
chết. Nỗi sợ về đau đớn và cái bấp bênh thường đến sau cái chết. Rồi có sự
gắn bó với người thân của chúng ta phát sinh nhiều đau đớn trong tâm của chúng
ta khi phải lìa bỏ họ.
Tuy nhiên chúng ta nên nhận thức rằng sự hiểu
biết và thái độ sai lầm của chúng ta là nguyên nhân của khổ đau.
Chúng ta không hiểu Pháp đủ sâu xa. Chúng ta không hiểu và thâm nhập bản chất
của tâm và thân là vô thường, khổ đau và vô ngã. Chúng ta không biết cách
buông bỏ một cách uyển chuyển, cách cam chịu với cái không tránh được.
Khi bà mẹ kế của Ðức Phật Maha Pajapati Gotami
sắp chết vào lúc ở tuổi 120 già lão, A Nan và những nhà sư nữ khóc. Maha
Pajapati Gotami nhẹ nhàng quở trách họ: "Tại sao các ngươi khóc, con trai
và con gái của ta. Các ngươi không trông thấy thân ta đã trở nên già nua
và hom hem sao? Nó giống như nơi rắn thường lui tới của bệnh tật, nơi nghỉ ngơi
của tuổi già và cái chết, cái nhà của khổđau. Ta mệt mỏi đã phải lớn lên trong
cái xác thân này. Nó chẳng là gì cả nhưng là một gánh nặng cho ta. Ðã từ lâu ta
mong mỏi sự giải thoát Niết Bàn. Và ngày hôm nay điều mong ước của ta sắp
thành hiện thực. Thật ra cái chết của ta là hạnh phúc. Ðó là lúc cho ta đánh
trống mãn nguyện và sung sướng. Tại sao các ngươi lại khóc?"
Ðức Phật, khi Ngài sắp chết giữa môi trường
thiên nhiên dưới hai cây sala (tha la) trong rừng, cũng bảo Ðức A Nan đừng
khóc vào lúc Ngài chết. Ngài nói người có trí tuệ và trầm tĩnh phải chấp nhận
sự thật về cái chết và chia ly cùng tất cả những gì mà chúng ta thương yêu là
không thể tránh được.Ðức Phật nhắc chúng ta phải tu tập thiền chánh niệm để
đạt được trí tuệ giúp ta đối đầu với cái chết bằng sự thanh thản. Ngài nói với
các tỳ kheo: "Bởi vậy các con phải tự rèn luyện. Chúng ta phải chấp nhận
cái chết bằng chánh niệm và tự tại." Và lời dặn dò cuối cùng của Ðức Phật
là: "Tất cả những gì do duyên hợp đều phải tan rã. Các con phải phấn đấu
chuyên cần."
Người sống một cuộc đời đẹp đẽ có thể
chết một cách đẹp đẽ. Một ngày nọ tôi tình cờ đọc mấy dòng hồi tưởng rất
cảm động trong một tờ báo. Khi bà trút hơi thở cuối cùng và đi vào
cõi bất diệt, mặt bà sáng ngời và môi bà nở một nụ cười. Chị F, trông thấy vậy,
thốt lên: "Hãy nhìn kìa, bà đang nhìn thấy Thượng Ðế". Việc này
xẩy ra như vậy, tôi biết bà là một người Cơ Ðốc Giáo, đã chết một cái chết đẹp
như vậy. Bà có tính dịu dàng, tử tế và lúc nào cũng quan tâm đến phúc lợi
của người khác. Tôi được biết bà là một nhà giáo thường tìm các học trò yếu kém để
dạy thêm và khuyến khích chúng. Bà được thương yêu sâu xa và trân quý bởi
gia đình và tất cả những người đã tiếp xúc với bà. Tôi được biết
bà bao giờ cũng là một người dễ thương và thương yêu tất cả mọi người quả thật đời
bà giống như một vị thánh.
Vì đã sống một cuộc đời đẹp như vậy,
thảo nào bà đã chết một cái chết đẹp. Tôn giáo của chúng ta có thể
khác nhau nhưng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, người được giải Hòa Bình Nobel,
nói rằng: "Từ bi là cốt lõi của tất cả tôn giáo." Niềm tin sắt đá
của tôi là nếu chúng ta đã sống một cuộc đời tốt đẹp, thì khi chúng
ta chết chúng ta sẽ chết một cái chết đẹp dù chúng ta là Phật Tử, Cơ Ðốc
Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo hay của bất cứ quan điểm nào hay niềm tin nào. Như
Ðức Phật nói, chính hành vi tạo thành con người. Trong phương diện này, tôi
thường nói với người Phật tử: thà là một người Cơ Ðốc Giáo, một người Hồi Giáo
tốt còn hơn là một Phật tử xấu. Bởi vậy, người Cơ Ðốc Giáo tốt khi họ chết họ
có thể thấy Thượng Ðế của họ hay ánh sáng. Người Phật tử có thể thấy những hình
ảnh tinh thần của Ðức Phật, a la hán, thiên nhân, hay cảnh thiên đường và
ánh sáng rực rỡ.
Jack Kornfield, một vị thầy thiền Minh Sát
người Mỹ, có lần kể trong tờ báo Inquiring Mind khi ông viếng thăm Howard
Nudleman, một bác sĩ phẫu thuật và là một người tu thiền một ngày trước khi ông
chết về ung thư ra sao. Ông nhớ lại rằng khi ông đi vào phòng ông Howard
giống như ông đi vào một ngôi chùa như thế nào. Và khi ông nhìn vào ông
Howard, ông Howard nhìn ông mỉm cười, một nụ cười ngọt ngào không thể tưởng
tượng được, một nụ cười mà ông Kornfield không bao giờ có thể quên được
trong quãng đời còn lại của ông.
Vâng, tôi tin chắc có rất nhiều chuyện cảm động
về những cái chết đẹp của những người con người đẹp. Cho nên, chính cái chết có
thể là một sự kinh qua đẹp. Khi chúng ta sống một cuộc đời lương hảo, và
thân này trở nên yếu ớt và suy sụp, chúng ta có thể đối mặt với cái chết
một cách tao nhã khi biết rằng chúng ta đã sống một cuộc đời thiện và
bây giờ đã đến lúc chúng ta tiến tới.
Cho nên khi một người thân yêu sắp phải chết,
chúng ta nên hiểu biết và để cho người ấy ra đi an bình. Chúng ta cố gắng
làm điều đó vì người đó càng thanh thản và đẹp đẽ càng tốtõ. Rõ
ràng, chúng ta không nên khóc lóc than van. Than khóc chỉ gây khó khăn thêm cho
người sắp chết. Ðương nhiên nếu người ấy là một người Phật tử hiểu biết và còn đủ
sức để nói thì người ấy, giống như Ðức Phật, sẽ nhẹ nhàng quở trách: Này các
người thân yêu, tại sao các người phải khóc? Ðức Phật chẳngđã dạy ta bằng nhiều
cách là chia ly không thể tránh được trong đời sống đó sao? Làm sao có thể
là cái mà phải tan rã lại không tan rã? Ðiều đó không thể được. Cho nên
chúng ta phải suy ngẫm sâu xa về Pháp. Này người thân yêu của tôi, thân này
không phải của chúng ta. Tâm này cũng không phải của chúng ta. Chúng sinh diệt
theo duyên hợp. Chúng ta phải tu tập chánh niệm sâu xa để thấy việc này,
cho nên, đừng bám víu nữa, chúng ta có thể giải thoát khỏi sinh tử. Người
thân yêu của ta, hãy mạnh lên. Dù tôi phải cáo từ bạn, tôi muốn nhắc nhở các
bạn về những lời dặn cuối cùng của Ðức Phật: "Tất cả những hiện tượng do
duyên hợp đều phải tan rã. Cho nên, ta kêu gọi các con, hãy phấnđấu chuyên
cần."
Vâng, tất cả Phật tử nên nhớ lời dặn cuối cùng
của Ðức Phật cho chúng ta là hãy phấn đấu không mệt mỏi để đạt được trí
tuệ hầu giải thoát chúng ta khỏi sinh tử. Một người tu thiền định phải thiền về
cái chết. Người ấy có thể quán hơi thở, thở ra hít vào của mình hay bụng phồng
lên và xẹp xuống do hít vào thở ra. Nếu gặp phải khó khăn gì, người ấy có thể
nhận thức về chúng, ghi nhận chúng là thế không sợ hãi lo lắng mà bình tĩnh và
vững tâm. Người ấy có thể quán thấy những cảm giác đau đớn, chịu đựng
chúng dù chúng lên cao độ. Người ấy có thể tự nhắc nhở mình, chúng chỉ là
những cảm giác, mặc dù là cảm giác khó chịu. Người ấy cũng thấy chúng vô
thường, chúng không ngừng sinh rồi diệt. Người ấy sẽ hiểu và không bám víu hay
bị ràng buộc vào thân. Người ấy biết cả tâm lẫn thân cũng sinh và diệt theo
duyên hợp. Người ấy có thể suy ngẫm: "Thân này và tâm này không phải của
tôi. Chúng chẳng bao giờ thuộc về tôi cả. Chúng sinh vì duyên hợp, và theo
duyên hợp, chúng sẽ diệt. Cho nên, mắt này không phải của tôi, tai này không
phải của tôi, mũi này không phải của tôi... Thân này được tạo thành bởi
bốn yếu tố, đất, lửa, nước và gió, chúng tượng trưng cho những đặc
tính của vật chất, những đặc tính về tính cứng, tính mềm, sức ép, sức căng,
nóng và lạnh vân vân... Chừng nào năng lượng của nghiệp còn kéo dài kiếp sống
của tôi trong cỡi đời này, thân này còn sinh tồn. Khi năng lượng của
nghiệp cho đời này hết, thì thân này chết và một cái tâm mới được duyên
hợp bởi cái tâm cũ vào lúc chết. sinh ra trong thân mới. Nếu tôi đạt được
a la hán quả, không cần phải tái sinh nữa. Nếu tôi không có a la hán quả, tuy
nhiên, đã sống cuộc đời thiện, tôi không sợ tái sinh. Tôi có thể có
một cuộc sống mới làm người được phú cho mọi điều tốt đẹp và thông minh
hay một chúng sinh ở cảnh trời và từ đấy tôi tiếp tục con đường phát triển
cho đến khi tôi đạt được Niết Bàn tối hậu, sự chấm dứt sinh tử."
Suy ngẫm như vậy, người tu thiền sẽ trở nên
rất bình tĩnh và vững vàng. Người ấy sẽ trở nên rất an lạc. Người ấy có thể mỉm
cười ngay cả trước cái đau đớn và với những người tập hợp chung quanh. Với
tâm rất an lạc, cảm giác đau đớn của thân có thể chấm dứt. Người ấy có thể
chết thanh thản và an lành, nhẹ nhàng chút hơi thở cuối cùng.
NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SUNG
SƯỚNG
Khi Cấp Cô Ðộc, người nhân đức và đại
ân nhân của Ðoàn Thể Tăng Già sắp chết, Xá Lợi Phất, người Ðệ Tử lớn nhất
của Ðức Phật, thuyết giảng về sự không quyến luyến cho ông. Xá Lợi Phất nhắc
Cấp Cô Ðộc là đời sống chỉ là một tiến trình tùy thuộc vào duyên hợp, và
tâm và thân tạm bợ này không có gì đáng để bám víu vào. Xá Lợi Phất đưa
ra một bản danh sách toàn bộ những cái màđời sống cấu thành, cho thấy tất cả đều
là duyên hợp phù du không thể bám víu vào được. Ngài giảng: "Cho nên
Cấp Cô Ðộc không nên hiểu theo những dạng thức nhìn thấy và mắt, âm thanh và
tai, mùi và mũi, vị và lưỡi, xúc và thân, và ý thức tùy thuộc vào tất cả những
thứ này. Cấp Cô Ðộc không nên hiểu theo nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức. Ông nên hiểu bản chất vô thường của chúng và quan
sát sự sinh diệt của chúng, không bám víu vào chúng và hay không thích chúng.
"Tương tự như vậy, Cấp Cộ Ðộc không nên
hiểu theo sự tiếp xúc tùy thuộc vào mắt và hình dạng, tai và âm thanh và vân
vân... Ông không nên hiểu theo cảm nghĩ dù thích thú hay không thích thú, cảm
nghĩ nảy sinh tùy thuộc vào sự tiếp xúc. Ông phải xem xét tất cả chúng bằng
trầm tĩnh, hiểu biết thực chất của vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Thân được
tạo thành bởi bốn yếu tố giãn nở, dao động, cố kết, và nhiệt độ. Tâm
được tạo thành bởi cảm nghĩ, nhận thức, hoạt động tinh thần và thức. Tất
cả chúng đều vô thường và lúc nào cũng thay đổi. Xá Lợi Phất khuyến
khích Cấp Cô Ðộc không nên luyến chấp vào một trong những thứ đó.
Không có gì trong thế giới này có thể gọi là cái ngã thường còn. Trong ý nghĩa
tối hậu, không có cái ngã trong tâm và thân. Và cho nên không có gìđể Cấp Cô Ðộc
bám víu vào."
Khi nghe được Pháp sâu xa này, một niềm
an lạc và sung sướng lớn lao bao trùm Cấp Cô Ðộc. Và ông ta đã khóc. Thị
Giả của Ðức Phật, Ngài A Nan có mặt lúc ấy tiến lại gần và hỏi Cấp Cô Ðộc tại
sao ông khóc. "Có phải vì ông đã không chịu nổi cơn đau?"
"Không phải", Cấp Cô Ðộc trả lời. Không phải là như thế. Mà đúng
hơn là vì bài thuyết giảng của Xá Lợi Phất quá đẹp đến nỗi đã làm cho ông
xúc động sâu xa. "Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ cảm xúc
như thế. Cho nên đó là lý do tại sao tôi khóc," ông nói với A Nan và
Xá Lợi Phất. Những giọt nước mắt của ông không phải là nước mắt phiền não mà là
những giọt nước mắt vui sướng – vui sướng vì nghe và hiểu được Pháp sâu xa
như thế.
Cấp Cô Ðộc hỏi tại sao Pháp như thế không được
thường thuyết giảng cho các cư sĩ. Xá Lợi Phất trả lời vì người cư sĩ thường
thấy khó lĩnh hội Pháp sâu xa như thế, họ đều bị luyến ái vào rất nhiều
lạc thú sẵn có trong đời sống. Cấp Cố Ðộc phản đối là có những
người có thể hiểu và lĩnh hội Pháp sâu xa này, và những ai không được nghe
sẽ bị thiệt thòi. Ông thúc giục Xá Lợi Phất thường xuyên thuyết giảng về không
luyến chấp cho những người khác như bài giảng mà ông vừa được thuyết
giảng.
Ít lâu sau, Cấp Cô Ðộc chết. Vì lúc cuối cùng
của ông rất an lạc và đã sống một cuộc đời lương hảo, theo lời Ðức
Phật, ông được tái sinh ở cung trời Ðâu-xuất. Khi một người đã đạt
được bậc thứ nhất của thánh quả (Tu-đà-hoàn) người ta tin rằng Cấp Cô Ðộc có
thể, trong bảy kiếp, sẽ đạt giác ngộ hoàn toàn và do đó sẽ giải thoát
khỏi tái sinh.
Cũng có những câu chuyện về những thầy tỳ kheo đắc
quả A la hán (giác ngộ hoàn toàn) trên giường lúc sắp chết. Cho nên những hành
giả du già ngày nay có thể thiền định đến lúc cuối cùng, họ biết họ có thể
thực hiện kiến thức tuệ giác, hiểu thấu về vô thường, khổ đau và vô ngã,
và thậm chí đạt được thánh quả vào lúc chết.
Một hành giả du già có thể trải tâm từ, thương
yêu-khả ái. Cả đến lúc sắp chết, người ấy có thể trải những ý nghĩ thương
yêu-khả ái đến tất cả chúng sinh. "Nguyện cho tất cả chúng sinh đều
hạnh phúc. Nguyện cho chúng sinh thoát khỏi tai họa và nguy hiểm. Nguyện tất cả
chúng sinh thoát khỏi khổ đau tinh thần .... khổ đau thể chất... Nguyện
cho họ quan tâm lẫn nhau trong hạnh phúc". Chết với những tư tưởng thương
yêu cho tất cả chúng sinh là một cách chết cao thượng. Trong cuốn Visuddhimaga,
một cuốn sách thiền kinh của Phật Giáo, có nói rằng một người có thói quen trải
tâm từ, sẽ chết rất an lạc, như thể là ngủ thiếp đi một cách dễ chịu. Và
nếu người ấy không đạt được thánh quả A la hán, và phải tái sinh thì cũng
tái sinh vào cõi trời.
Vâng, một người du già không sợ chết. Người ấy
có thể từ bỏ một cách thanh nhã thân và tâm vì biết rằng sống hay chết chỉ là
hai mặt của một vấn đề, vì hiểu rằng trong khi chúng ta còn sống chúng
tađang chết từng chập một, chết vào mỗi lúc qua đi, và bị tái sinh vào mỗi
lúc mới đến. Các hiện tượng tinh thần và thể chất không ngừng sinh và
diệt. Không có gì đứng nguyên dù chỉ một giây. Ðiều này cũng đã chứng
minh được trong vật lý lượng tử nơi người ta thấy rằng các hạt hạ nguyên
tử triệt tiêu năng lượng với mức 10 tới 22 lần chỉ trong một giây. Ðức
Phật cũng nói các hiện tượng tinh thần và thể chất không ngừng sinh ra và tan
biến. Chừng nào mà chúng ta chưa loại bỏ được năng lượng nghiệp-tái sinh
bằng cách nhổ tận gốc rễ những ô nhiễm của tham sân và si, thì chúng ta vẫn
tiếp tục phải tái sinh. Chết trong sự sống này chỉ là sự chấm dứt của tuổi thọ
cho thân và tâm trong sự sống này. Nhưng ngay lúc mãn hạn của tâm vào lúc chết,
không có khoảng cách nào, một tâm mới nảy sinh nhập vào một thân mới theo
nghiệp hay những hành vi của chúng sinh ấy trong đời trước. Cho nên người
du già hiểu tâm lúc chết căn bản không khác gì tâm ở mọi lúc nên không sợ hãi.
Người ấy chấp nhận cái chết trong chánh niệm và tự tại phù hợp với chỉ dẫn của
Ðức Phật.
LÀM CHO BẦU KHÔNG KHÍ THANH
THẢN
Khi tạo bầu không khí thanh thản cho một người
sắp chết, chúng ta phải biết sở thích của người đó, những gì thích, những
gì không thích của người ấy. Thí dụ, người ấy thích hoa. Chúng ta nên có hoa
trong phòng bệnh cạnh giường. Người ấy có thể thích chết trong căn phòng ấm
cúng của mình, trong môi trường quen thuộc và thanh bình với mình. Cho nên nếu
có thể người ấy thích chết ở nhà hơn là ở bệnh viện. Nhưng nếu không thể được
và cần để bệnh viện săn sóc, chúng ta nên cố gắng làm cho cảnh chung quanh
trong bệnh viện càng riêng tư, ấm cúng và thanh bình càng tốt. Một phòng riêng
thì tốt nhất, nhưng không phải tất cả mọi người có thể có đủ khả năng để
trả tiền. Dù bất cứ ở chỗ nào, chúng ta cũng cố gắng làm cho bầu không khí càng
thanh bình càng tốt.
Có thể có một hình ảnh nhỏ của Ðức Phật mà
người ấy thích ngắm. Nếu như vậy, chúng ta có thể để bức hình bên cạnh hoa
ở bên cạnh giường. Thái độâ nghiêm trang thanh thản ở hình Ðức Phật có thể
làm cho an tâm. Nhìn vào bức hình này, ta nhớ đến trí tuệ và lời dạy của
Ðức Phật. Việc đó có thể cho nhiều an ủi và an lạc, nhất là những lúc cần
thiết. Căn phòng phải được sạch sẽ và ấm cúng. Người sắp chết có thể thích
cái giường của mình hướng về của sổ để có thể nhìn được cây cối có
thể làm cho tâm an tịnh. (Thí dụ, Ðức Phật đã chọn cái chết trong thiên
nhiên giữa hai cây sala (tha la) đang nở hoa tại rừng Câu Thi Na)
Nếu chẳng may người sắp chết mất bình tĩnh và
lộ vẻ sợ hãi, lo âu hay đau đớn, thân nhân nên làm cho người ấy an tâm.
Thí dụ như người thân có thể cầm tay người sắp chết trong tay hay vuốt nhẹ vào
trán, nói năng ngọt ngào để người ấy an tâm. Người vợ có thể nhắc nhở nhẹ
nhàng người sắp chết về Pháp, sự cần thiết phải giữ tâm bình tĩnh và hành
thiền. Bà ấy cũng có thể an tâm người sắp chết hãy đừng lo lắng gì về bà
hay con cái, rằng đã có giáo lý của Ðức Phật và sẽ sống nương nhờ vào giáo
lý ấy. Bà ấy biết cách săn sóc cho mình và những đứa con. Bà cũng có thể
nhắc người sắp chết là tài sản, người thân yêu và tâm và thân rốt cuộc cũng
không phải là của chúng ta. Chỉ có những hành vi của chúng ta mới là tài sản
thực sự theo chúng ta. Bà cũng nhắc nhở ông ấy về cuộcđời lương thiện của ông,
sự săn sóc của ông cho gia đình, và tất cả những hành động thiện mà ông đã
làm. Nhớ như vậy và hiểu rõ Pháp, người ấy có thể trở thành mạnh mẽ. Người ấy
có thể mỉm cười và thanh thản. Cái chết không còn làm cho người ấy sợ hãi.
Ðương nhiên những gì chúng ta đã nói chỉ
là một thí dụ cho một diễn tiến có thể xẩy ra. Ðến lúc đó, không thể có
kịch bản nào được sửa soạn cho việc này. Nhưng nếu ta hiểu Pháp ta có thể
phản ứng Pháp theo trực giác và theo hoàn cảnh lúc ấy, nói và làm điều
phải để giúp đỡ người ra đi một cách an bình.
Vào thời Ðức Phật, Nakulamata, vợ của
Nakulapita chỉ làm như sau: Bà đã an tâm người chồng khi ông này sắp chết.
Bà ta nói với chồng: "Anh thân yêu, đừng chết với bất cứ nuối tiếc
nào hay luyến chấp bất cứ thứ gì. Giáo chủ của chúng ta, Ðức Phật đã nói
chết theo cách như vậy thật không khôn ngoan chút nào."
Hiểu tính chồng, bà tiếp tục: "Anh thân
yêu, anh có thể nghĩ rằng khi anh đi rồi, em không thể nuôi nấng con cái
và giữ gia đình êm ấm. Nhưng đừng nghĩ như vậy, em rất khéo tay về
cuốn bông và chải len. Em có thể nuôi nấng con cái và giữ gia đình êm ấm.
Cho nên, hãy thanh thản."
Và bà ta đã an tâm người chồng là bà sẽ
giữ đức hạnh và tu tập Phật Pháp cho đến khi đạt được giác ngộ. Và
nếu ai nghi ngờ việc này, hãy để cho họ đi hỏi Ðức Phật là người mà
bà ta chắc chắn là sẽ bầy tỏ lòng tin tưởng ở nơi bà. Nghe thấy những lời bảo đảm
như vậy, thay vì chết, Nakalapita cảm thấy khỏe hơn rất nhiều và đã khỏi
bệnh! Sau này, khi cặp vợ chồng thắm thiết này đến gặpÐức Phật, Ðấng Thế
Tôn đã nói với Nakulapita rằng Nakulapita đã rất may mắn có một người
vợ như Nakulamata: "Ông thật hết sức may mắn có người vợ như Nakulamata đã
hết sức thương yêu và từ bi với ông, bà đã mong muốn ông được hạnh
phúc và có thể khuyên nhủ ông trong lúc cấp thiết"
Thân quyến cũng nên ủng hộ triệt để những
gì có thể cho người sắp chết. Như đã nói trước đây họ không nên khóc
vì khóc sẽ gây khó khăn cho người chết. Nhưng nếu họ thấy khó kìm hãm nổi mình
thì hãy suy ngẫm về Pháp. Họ có thể suy ngẫm rằng cái chết không thể tách rời
sự sống. Khi có sự sống ắt phải có cái chết. Ðó là điều chúng ta phải chấp
nhận một cách tế nhị. Ngoài ra khi thân đã hư hoại và bệnh nặng, thì thật
là mừng để "thoát khỏi" nó. Nhận lấy một cuộc kiếp sống
mới, người ấy sẽ khá hơn. Suy nghĩ một cách khôn ngoan, thân quyến có thể giành
lại được sự tự tại và giúp đỡ người sắp chết ra đi xứng đáng và thanh
thản.
CHẬP TƯ TƯỞNG CUỐI CÙNG
Chập tư tưởng cuối cùng hay lúc chết được
cho là rất quan trọng. Nếu ta chết vì sợ hãi, giận dữ, tham lam hay bất cứ với
trạng thái tinh thần bất thiện nào, thì tái sinh xấu sẽ nảy sinh. Nếu ta chết
trong thanh thản, hiểu biết, với chánh niệm và trầm tĩnh, tái sinh tốt sẽ xảy
ra. Thường thường nếu ta có một cuộc sống thiện thì chập tư tưởng cuối cùng đương
nhiên sẽ là chập tư tưởng thiện. Những hành vi thiện ta đã làm có thể xuất
hiện trước tuệ nhãn. Hay ta có thể có những ảo giác về định mênh sắp tới,
như nhìn thấy quang cảnh ngoạn mục ở cõi trời và những người rất đẹp. Trái
lại nếu ta sống một cuộc đời tội lỗi thì những hành vi ác đã làm có thể
xuất hiện trước mắt ta hay có những ảo giác về lửa địa ngục hay có thể
nhìn thấy những điềm xấu khác. Trong đời sống tuy nhiên chúng ta không hẳn
là tốt hay cũng không hẳn là xấu, có một sự pha trộn xấu và tốt trong chúng ta.
Nhưng nếu xếp toàn bộ chúng ta là tốt thì chúng ta tin là sẽ có một tái sinh
tốt.
Nếu chúng ta có một sự hiểu biết rõ ràng về
sống và chết, chúng ta có thể chết với sự vững vàng và trầm tĩnh. Chúng ta có
thể, như đã nói, hành thiền cho đến lúc cuối cùng, giữ vững chánh
niệm và tự tại. Vì đã sống một cuộc đời thường là thiện và hơn nữa có
thể giữ chánh niệm trong lúc trực diện với cái chết, chúng ta chắc chắn được
bảo đảm một tái sinh tốt – lại là người tốt – hay chư thiên, một chúng sinh ở
cõi trời. Cũng có hy vọng là chúng ta có thể nhanh chóng, dù bất cứ tái sinh
nào đã xẩy ra, chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử, cho nên không còn phải tái
sinh, chúng ta sẽ giành được an lạc của Niết Bàn.
Ðôi khi có câu hỏi sau đây: Cái gì sẽ xảy
ra nếu không giữ được chánh niệm, nhất là khi người ấy không trải qua sự
rèn luyện hành thiền nào? Chẳng hạn nếu người ấy chết trong trường hợp hôn mê
thì sao? Hoặc người ấy đột nhiên bị chết đột ngột trong một tai nạn xe
cộ thì sao? Theo sự hiểu biết của tôi về kinh sách được dạy của Ðức
Phật, tôi có thể nói rằng nếu ai đã sống một cuộc đời lương thiện,
thì những cơ may là chập tư tưởng tốt sẽ xuất hiện vào lúc chết và một tái sinh
tốt sẽ nảy sinh. Nghiệp của chúng ta là nơi nương tựa đích thực của chúng
ta (nghiệp quả), cho nên theo tổng số sức nặng về những hành động thiện mà
chúng ta đã làm sẽ dẫn chúng ta đến một tái sinh tốt. Ðó là lý
do tại sao chúng ta phải sống một cuộc đời thiện trong lúc còn sống, và
không chờ đến lúc gần chết thìđã quá muộn. Nhưng vì trong đời sống
chúng ta đã làm cả xấu lẫn tốt, có khả năng là chúng ta có thể vụng nhớ đến
những hành vi xấu thay vì những hành vi tốt vào lúc chết. Cho nên giữ chánh
niệm quan trọng hơn tất cả; chánh niệm giúp ích nhiều. Với chánh niệm, những tư
tưởng xấu không thể thâm nhập tâm chúng ta và chúng ta có thể chết bình tĩnh,
thanh thản. Chánh niệm là một đức tính tuyệt vời – có thể giúp chúng ta
trong cả sống và chết – tại sao chúng ta không trau dồi và phát triển nó trong
khi chúng ta còn sống?
---*---
Một tỳ kheo chuyên tâm
chánh niệm về cái chết thì lúc nào cũng siêng năng. Vị tỳ kheo ấy nhận thức
được sự tan vỡ ảo tưởng của tất cả các loại đang trở thành (sự sống). Thắng được
sự luyến ái vào đời sống, vị tỳ khéo ấy lên án tội lỗi. Vị ấy tránh tích
trữ nhiều. Vị ấy không bợn chút tham lam nào về vật dụng cần thiết. Nhận thức
về vô thường phát triển trong mình, theo sau là xuất hiện sự nhận thức về khổ đau
và vô ngã. Nhưng trong khi chúng sinh không phát triển chánh niệm về cái chết
không tránh nổi sợ hãi, khủng khiếp, và bối rối vào lúc chết như thể đột
nhiên bị bắt bởi thú rừng, ma quỷ, rắn, trộm cướp, hay kẻ giết người thì vị tỳ
kheo ấy không một chút sợ hãi, và không bi rơi vào bất kỳ tình trạng nào như
vậy. Và nếu vị ấy không đạt được cái bất tử, thì ít nhất vị ấy cũng đi
về một định mệnh hạnh phúc khi thân tan rã.
Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimaga)
---*---
SUY NGẪM VỀ CÁI CHẾT
Khi sống, thỉnh thoảng suy ngẫm về cái chết là
tốt. Thực ra suy ngẫm hàng ngày càng tốt. Ðức Phật dặn chúng ta thường xuyên
suy ngẫm về cái chết vì có rất nhiều lợi lạc đạt được từ sự suy ngẫm này.
Trước nhất chúng ta phải hiểu rõ rằng suy gẫm
về cái chết không phải là chúng ta phải trở nên rầu rĩ, sợ hãi, không lành mạnh
hay ngã lòng, hay cảm thấy như tự giết mình. Không, chắc chắn là không, chúng
tôi muốn nói rằng chúng ta nên suy ngẫm về cái chết một cách khôn ngoan, có thể
sống một cách khôn ngoan và từ bi hơn.
Thí dụ, bất cứ lúc nào tôi bị khó chịu hay nản
lòng, tôi phải (nếu tôi không quá vô tâm) suy ngẫm theo những hàng chữ sau đây: Ðời
sống ngắn ngủi, chảng bao lâu chúng ta đều sẽ chết. Cho nên cãi nhau
hay tranh giành có ích gì? Giận dữ có ích gì? Không có ý nghĩa chút nào cả. Tốt
hơn là tôi giữ sự an lạc của tôi. Tranh cãi hay giận dữ không giải quyết được
vấn đề. Nó chỉ gây ra thêm thù oán và bực mình. Nghĩ như vậy tôi có thể bình
tĩnh lại, kiềm chế mình để khỏi bị kích động bởi những cảm nghĩ mạnh mẽ,
và liên hệ với người khác một cách lịch sự và khéo léo hơn. Ðương nhiên, không
phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đôi khi (có lẽ là nhiều lần) tôi đã
quên và bị kích thích của tài hùng biện và xúc cảm, nhưng khi tôi tự nhớ lại về
sự ngắn ngủi của đời sống và cái vô nghĩa của nóng giận đùng đùng,
tôi có thể bình tĩnh lại một chút và nói năng một cách lịch sự và thận trọng
hơn.
Tương tự như thế, khi tôi bị dao động hay
lo lắng về một việc gì đó, tôi sẽ nghĩ rằng tất cả những lo lắng và băn
khoăn có ích gì. Cuộc đời cứ tuần tự vi tiến, cái chết chờ đợi mỗi người
chúng ta. Không ai trong thế giới này có thể thoát chết. Tử thần là người thực
thi bình đẳng vĩ đại, và là người san bằng chênh lệch trong xã hội. Cho
nên, trong khi tôi còn sống, tốt hơn là phải sống tốt hết sức mình, và điều
đó có nghĩa là sống theo Pháp, sống trong chánh niệm, từ lúc này đến lúc
khác, từ ngày nàyđến ngày khác, chỉ làm những điều tốt nhất mà tôi có thể,
cứ thế mỗi ngày. Suy nghĩ khôn ngoan như vậy, tôi có thể kiểm soát những lo
lắng, sống nhẹ nhàng và sung sướng hơn.
Hơn nữa, chúng ta có thể suy xét rằng có hay
không lo lắng tất cả chúng ta đều phải già và chết. Cho nên chúng ta có
thể già mà không lo lắng! Làm điều đó sẽ là khôn khéo hơn. Không ai là
người không đồng ý là chúng ta chắc chắn sung sướng hơn nếu không lo lắng.
Mặt khác, tất cả những lo lắng làm tổn thọ, khiến cho chúng ta phát bệnh sớm và
chết. Cũng bằng cách nghĩ này, chúng ta có thể kiểm soát lo lắng và sống một
cuộc đời hạnh phúc hơn. Bởi vậy, suy nghĩ về cái chết một cách khéo léo
khiến cho chúng ta rộng lượng và nhẫn nại hơn, tử tế và lịch sự hơn, cho cả
chính chúng ta và người khác.
Rồi chúng ta có thể trở nên ít bị ràng buộc
vào của cải vật chất, ít tham lam. Vâng, khi chúng ta nhận thức sâu xa cái ngắn
ngủi của cuộc đời, và không thành vấn đề chúng ta có thể có bao nhiêu
nhưng chúng ta không thể mang theo chỉ một xu khi chết chúng ta sẽ trở nên ít
keo kiệt hơn. Khi chúng ta rộng rãi một chút thì bắt đầu vui trong việc
chia sẻ và cho đi, thương yêu và quan tâm. Lúc đó chúng ta sẽ nhận
thức ra rằng đời sống không chỉ là chỉ gom góp và tích trữ của cải. Chúng ta sẽ
thích rộng lượng hơn, chia sẻ và mang niềm vui và hạnh phúc vào cuộc đời
của những người khác. Mang niềm vui và hạnh phúc cho người khác là làm cái cho đời
sống có ý nghĩa và đẹp đẽ. Ðiều đó mới đáng kể. Tình thương yêu
và từ bi nảy nở và thăng hoa trong chúng ta giống như hoa nở đẹp của cây. Chúng
ta trở nên thành những người thực sự đẹp, đắm mình trong từ bi, đáp
lại bằng tấm lòng không có bất cứ sự kỳ thị giống nòi, giáo phái, tôn giáo, địa
vị xã hội vân vân... Ðời sống của chúng ta sẽ có một luồng sáng mới và chúng ta
có thể nói chúng ta thực sự hạnh phúc và đầy tình người. Và khi cái chết đến,
chúng ta không có gì nuối tiếc. Chúng ta có thể mỉm cười với cái chết một cách
hạnh phúc và an bình.
KHI BỐN TRÁI NÚI ÐỔ XUỐNG
Ðức Phật có lần nói dùng lối so sánh để
gây ấn tượng cho chúng ta sự cần thiết sống một cuộc đời có ý nghĩa. Ngài đặt
câu hỏi này với Hoàng Ðế Pasenadi: "Này Hoàng Ðế, Ngài làm gì khi Ngàiđược
biết bốn trái núi lớn, một từ hướng Bắc, một từ hướng Nam, một từ hướng Ðông
và một từ hướng Tây, đang tiến về hướng vương quốc của Ngài, nghiền nát
mọi vật sống và không có gì thoát khỏi?"
Hoàng Ðế Pasenadi trả lời: "Bạch Ðức Thế
Tôn, trong một thảm họa lớn lao như vậy, sự hủy diệt đời sống con người
quá lớn, và tái sinh làm người rất khó đạt được, tôi có thể làm gì để
cứu vãn mà sống một cuộc đời ngay thẳng và làm những hành vi thiện?"
Ðức Phật đã làm cho vua hiểu vấn đề: "Thưa Hoàng Ðế, tôi
nói để Ngài biết – tuổi già và cái chết đang lăn vào Ngài. Vì tuổi
già và cái chết đang lăn vào Ngài, Ngài phải làm gì?" Hoàng Ðế trả
lời rằng trong hoàn cảnh như thế tất cả việc cấp thiết là phải sống một cuộc đời
lương thiện và thực hiện hành vi tốt. Nhà vua thừa nhận tất cả uy quyền, uy
thế, của cải và lạc thú mà nhà vua hưởng như một hoàng đế, có thể khi đứng
trước cái chết chỉ là con số không.
Ví thế khi chúng ta suy nghĩ một cách khôn ngoan
về cái chết, chúng ta sẽ nhận ra rằng của cải, uy quyền, uy tín và những lạc
thú nhục dục không phải là mọi thứ. Chúng không thể bảo đảm hạnh phúc cho
chúng ta. Nhiều người có chúng nhưng vẫn sống một cuộc đời sóng gió và bất
hạnh. Một số người hối tiếc đã hành hạ, áp bức và làm hại người khác trong
khi theo đuổi điên cuồng những tham vọng trần tục của họ. Sau khi đã
tiến được tới đỉnh, họ thấy là thành quả rốt cuộc không phải là thỏa mãn
mà thậm chí trống rỗng và vô nghĩa. Ðôi khi họ ước ao phải chi họ đã có
nhiều thì giờ hơn để sống với thân quyến và bạn bè và bộc lộ sự quan tâm
và trìu mến hơn. Họ nuối tiếc đã lơ là với người thân yêu. Một số người đã đạt
được mức đô khá thành công, đã thay đổi thái độ giữa chừng. Họ đã
dành nhiều thì giờ hơn cho người thân, bạn bè và xã hội và sửa soạn vì điều
thiện cao cả hơn, bỏ những tham vọng cao nhất để bằng lòng với cái ít hơn.
Nếu chúng ta biết được một số người giàu
có và thành công đã xáo trộn đời họ ra sao, chúng ta sẽ học được một
bài học từ sự lầm lẫn của họ. Một hôm tôi đọc cuốn sách với tựa đề "Những
Người Giầu Có Nhất Trên Thế Giới Thua Cuộc" .Tôi thấy đây là một cuốn
sách giáo dục. Tựa đềù hoàn toàn thích đáng. Họ là những người thua
cuộc trong đời sống bất chấp của cải của họ. Vâng, tôi đã học được
khá nhiều Phật Pháp trong cuốn sách đó, làm sao mà tiền bạc và thành công không
bảođảm hạnh phúc riêng cho họ. Thay vì họ đã không hạnh phúc bất chấp của
cải và thành công của họ. Ðọc biết về những người giàu có và nổi tiếng như
Howard Huges, Mario Lanza, Elvis Presley, Marylyn Monroe và Aristotle Onassis, đã
sống và chết ra sao, tôi không thèm muốn như họ.
Những nhân vật đầy quyến rũ như Elvis và
Monroe chết vì ma túy quá độ, sống qua câu châm ngôn:"Từ nghèo khổ đến
giàu có, và từ giàu có đến rỗng không". Tất cả của cải và thành công
của họ không mang lại hạnh phúc mà họ tìm kiếm. Hạnh phúc vẫn tránh né họ. Họ
có vẻ khá tệ héo hon vì nóng giận cao độ, phiền muộn, sợ hãi và trống
rỗng. Lấy trường hợp của một người phụ nữ thừa kế một gia tài vô cùng to lớn,
lấy chồng bẩy lần mà không tìm thấy hạnh phúc. Bà nói với người viết tiểu sử
của bà: "Tôi thừa hưởng mọi thứ trừ tình yêu. Tôi lúc nào cũng tìm kiếm nó
vì không biết nó là cái gì". Sáu cuộc hôn nhân đầu kết thúc bằng ly
dị và cuộc hôn nhân cuối kết liễu bằng ly thân. Chung cuộc, mặc dù của cải lớn
lao, người ta nói bà chỉ là một người đàn bà đau khổ dễ bị thương tổn
bị ảnh hưởng bởi cô đơn. Bà chết vào năm 66 tuổi với một vài người bạn bên
giường mà không có người chồng nào đến. Những chuyện bi thảm như vậy, tôi
chắc chắn, có thể cũng tìm thấy ở phương Ðông.
Ðương nhiên, đề cập đến những người khác,
chúng tôi không có ý xem thường một cách tự cho làđúng. Nhưng chúng tôi chỉ
muốn nhấn mạnh tầm quan trọng về việc có những giá trị thích đáng trong đời
sống, hiểu bản chất của tình thương và từ bi thực sự. Chúng tôi cũng không có ý
lên án sự giàu có và thành công hay nói rằng bạn không nên phấn đấu vì
chúng. Không, chúng tôi không nói như vậy. Chúng tôi hiểu rõ là chúng ta phải
thực tế và hiện thực. Chúng tôi hiểu rằng nếu các bạn đang làm việc trên
thế giới này thì lý đương nhiên bạn cố gắng hết mình để kiếm được
càng nhiều của cải càng tốt. Sau hết, nếu bạn muốn làm điều thiện và giúp đỡ
người khác, như xây dựng cơ sở từ thiện, bệnh viện và trung tâm hành thiền, và
cúng dường thực phẩm cho các nhà sư và người nghèo túng, bạn cần phải có tiền.
Cho nên chúng tôi không nói là bạn không nên cố gắng làm một cư sĩ để làm
giàu cho chính bạn. Nhưng đương nhiên, trong việc kiếm của cải, bạn nên
làm bằng phương tiện lương thiện, không làm hại người khác.
Nói một cách khác, điều chúng tôi nhấn
mạnh là sự đúng mức về luân lý. Chúng ta cần có những giá trị tinh thần,
nhận thức sâu sắc là hạnh phúc không phải là sự ham mê lạc thú mà là chia sẻ và
quan tâm. Khi chúng ta có những giá trị đúng, chúng ta có thể sống có ý
nghĩa và mang niềm vui và hạnh phúc đến tất cả những người ở trong môi
trường đời sống của chúng ta. Khi chúng ta hiểu Pháp nhất là chân lý về vô
thường, khổ đau và vô ngã, chúng ta không bám víu vào danh vọng hay lợi
lạc. Chúng ta có thể sống khiêm nhường và từ bi, chia sẻ của cải và thành công,
và tìm thấy niềm vui trong việc làm cho người khác hạnh phúc. Nhưng khi chúng
ta không hiểu thấu sâu xa về những gì cấu thành hạnh phúc – mà hạnh phúc thực
sự đến từ cái tâm đã thoát khỏi tham, sân và si – rồi thì chúng ta không
hiểu chúng ta có thể làm điều sai lầm, chúng ta nhất định bị chìm vào vũng
bùn nhục dục đi đến sự kết liễu thống khổ. Cho nên điều quan trọng là
chúng ta hãy suy ngẫm cẩn thận về sự sống và cái chết, và lái vào đúng
hướng, con đường thích hợp.
Ý THỨC CẤP BÁCH
Suy ngẫm về cái chết cũng có thể mang lại cái được
gọi là Samvega bằng tiếng Pali – một ý thức cấp bách có thể
tiếp sức cho chúng ta làm tất cả các điều thiện mà chúng ta có thể làm được
trước khi chết và đặc biệt là hành thiền để trải nghiệm được chân lý
sâu xa hơn và sự hiểu biết. Ðức Phật nói hầu hết mọi người tất tưởi vội vã ở bờ
bên này; họ không tìm cách vượt sang bờ bên kia. Ý Ðức Phật muốn nói chúng ta
tất cả đều bị vướng mắc vào những mưu cầu khoái cảm trong những lạc thú
trần tục của đời sống. Chúng ta không tìm cách vượt khỏi phàm trần – vượt
qua sinh tử, để nếm rượu thần tiên của hạnh phúc bất tử, Niết Bàn bất tử.
Niết Bàn là gì? Niết Bàn không thể mô tả được
mà mỗi người phải trải nghiệm nó cho chính mình. Nhưng Ðức Phật đã cố gắng đưa
ra một số ý niệm về Niết Bàn là thế nào. Thí dụ, Ngài mô tả Niết Bàn là cái bất
sinh, không nguồn gốc, không hình dáng, không điều kiện, bất tử, hạnh phúc
cao nhất, an lạc to lớn nhất. Niết Bàn tượng trưng một trạng thái bất sinh bất
diệt, không sinh hay tử. Nó được mô tả như ngọn gió thổi tắt những ngọn
lửa của tham, sân và si, sự chấm dứt của tâm và vật, sự dập tắt khổ đau. (Ðể đọc
thêm về Niết Bàn, hãy đọc cuốn "Bản Chất Của Niết Bàn", tác
giả Mahasi Sayadaw, phát hành bởi Tổ Chức Buddha Sasana Nuggaha, Rangoon, Miến
Ðiện)
Một người đạt được trạng thái Niết Bàn,
trạng thái này có thể thực hiện được trong quá trình thiềnđịnh, được gọi
là giác ngộ. Một người giác ngộ có thể là bậc A La Hán hay Ðức Phật. Sự khác
biệt giữa A La Hán và Ðức Phật là A La Hán đạt giác ngộ, bằng cách lắng
nghe một người giác ngộ khác trong khi Ðức Phật đạt giác ngộ bởi
chính mình.
Người giác ngộ là người có thể trực diện với
những nỗi thăng trầm của cuộc đời bằng cái tâm điềm đạm. Qua những thăng trầm,
như thua và được, thành công và thất bại, khen và chê, đau đớn hay
thích thú, nổi tiếng hay mang tiếng, người giác ngộ vẫn thanh thản và không lay
chuyển. Họ tiếp tục lối sống ấy không phải là bị lừa dối hay không cảm thấy mà
vì đã được giác ngộ và khôn ngoan; hiểu rõ bản chất thực sự của cuộc
sống, bản chất của hiện tượng vật chất và tinh thần, bản chất vô thường, bất an
cửa chúng và không có một hạt nhân hay cốt lõi nào có thể gọi là cái ngã trong
ý nghĩa tối hậu. Nếu họ không tham đắm vào lạc thú, và thích đau đớn,
không phải là họ không cảm thấy chúng. Họ cảm thấy chúng nhưng hiểu rõ bản chất
thực sự của chúng nên họ không bị áp đảo bởi chúng. Họ có thể chấp nhận cả
đau đớn lẫn lạc thú khi chúng tới bằng trí tuệ và trầm tĩnh.
Cũng vậy đối với những hoàn cảnh trần thế
khác như khen chê, thua được. Nếu họ được khen họ không kiêu căng hay tự
cao tự đai. Họ không hãnh diện. Nếu họ bị chê, họ không buồn phiền hay ngã
lòng. Ðiều ấy không thành vấn đề với họ. Họ vững vàng và không xao xuyến
vì biết mình đã hành động đúng – không một vết nhơ của tham sân và
si, động cơ thúc đẩy họ là thương yêu-khả ái và từ bi. Họ cũng không có ý
thích làm hại đến con kiến hay con muỗi. Lương tâm của họ trong sáng, tâm
trí họ nhẹ nhàng và tự do. A La Hán sống kiếp sống cuối cùng trên trái đất
và khi chết không bị tái sinh nữa. A La Hán chấm dứt như một ngọn đèn, đạt
nirodha – sự chấm dứt. Người ây đạt Parinibbana (vô dư Niết
Bàn) – có nghĩa là người ấy đạt Niết Bàn tối hậu, sự chấm dứt tất cả cuộc
sống, đạt được yếu tố an lạc tối thượng của Niết Bàn. Bởi vậy, A La Hán
trong thời Ðức Phật có câu sau:
Tôi thích thú không
phải trong sự sống
Tôi thích thú không phải trong cái chết
Mà tôi chờ lúc ra đi của tôi trong chánh niệm và tự tại.
Tôi thích thú không phải trong cái chết
Mà tôi chờ lúc ra đi của tôi trong chánh niệm và tự tại.
Một bài kệ khác như sau:
Vô thường là những thứ duyên
hợp
Có bản chất sinh ra và mất đi
Ðã nẩy sinh rồi phải chết đi
Bình lặïng và chấm dứt là hạnh phúc thực sự.
Có bản chất sinh ra và mất đi
Ðã nẩy sinh rồi phải chết đi
Bình lặïng và chấm dứt là hạnh phúc thực sự.
Suy ngẫm về cái chết có thể giải thoát chúng
ta khỏi sự kìm kẹp của cám dỗ nhục dục. Chúng ta sẽ không bị lừa dối bởi của
cải vật chất mà hướng nguồn vui của chúng ta vào một cuộc đời đáng hài
lòng và bổ ích vì sự phát triển trí tuệ và từ bi. Chúng ta được khuyến
khích hành thiền hoặc, nếu chúng ta đã thực hành rồi, hãy tăng gấp đôi nỗ
lực đạt mục tiêu tối hậu giải thoát khỏi tất cả khổ đau.
SUY NGẪM DẪN ÐẾN HIỂU BIẾT VÀ
CHẤP NHẬN
Suy ngẫm thường xuyên về cái chết – về làm sao
không thể tránh được và tài sản đích thực của ta là những hành vi –
có thể khuyến khích chúng ta sống một cuộc đời lương thiện đến mức khi
chết chúng ta sẽ không sợ hãi cái chết.
Hơn nữa khi một người thân của chúng ta chết,
không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều phải chết, phiền muộn không
làm đau đớn chúng ta khi chúng ta hiểu biết và chấp nhận. Ðó không phải là
vì chúng ta không động lòng hay vô tâm. Không, chúng ta có một con tim,
một con tim dễ xúc cảm. Chúng ta có thể cảm động sâu xa nhưng chúng ta
cũng biết bản chất của sự sống, và có thể chấp nhận cái chết đan dệt thành
sự sống.
Giải thích người trí chấp nhận cái chết ra
sao, Ðức Phật nói: "Thấy bản chất của thế giới, người trí không than van.
Khóc lóc, rên rỉ sẽ chỉ dẫn đến khổ đau và đau đớn hơn. Nó không thể
làm người chết trở lại. Người than khóc trở nên xanh xao và ốm yếu. Người ấy đã
làm ngược với chính mình và sự than khóc của mình không đem lại gì
cả." Ðức Phật nói người khôn ngoan đã thực sự nắm vững bản chất của
cuộc sống, đã "rút ra mũi lao phiền muộn và thất vọng".
"Người ấy không có sự bám víu. Vì đã đạt được an lạc trong tâm,
người ấy đã vượt qua tất cả phiền não. Người ấy tự do."
Cho nên chúng ta nên suy ngẫm về những khía
cạnh sâu xa hơn trong những lời dạy của Ðức Phật để chúng ta có thể trực
diện với cái chết không bị phiền não mà hiểu biết. Người ra đi cũng không
muốn chúng ta mất tự chủ. Họ cũng không muốn chúng ta bị đau lòng mà hãy chấp
nhận sự ra đi của họ một cách thoải mái. Vì đã tái sinh, họ đâu
còn hiện diện để nhìn chúng ta khóc than. Khóc than và phiền muộn của
chúng ta không giúp gì cho họ cả. Cho nên cái đó thật phù phiếm. Nếu chúng
ta suy xét sâu xa hơn, chúng ta có thể thấy phiền não của chúng ta là do luyến
chấp. Chúng ta không chịu nổi sự chia ly. Nhưng nếu chúng ta suy ngẫm sâu xa
hơn, và trở nên khôn ngoan hơn, chúng ta có thể chấp nhận cái không thể tránh được.
Thay vì phiền não, chúng ta can đảm. Chúng ta có thể phản ứng một cách có
nghĩa lý, giả thử quyết định sống một cuộc đời cao thượng và gương mẫu để
tưởng niệm hay tưởng nhớ người thân. Một người khôn ngoan chắc chắn không muốn chúng
ta than khóc cho người ấy. Trái lại người ấy muốn nói: "Nếu bạn thực
sự muốn tưởng niệm hay tưởng nhớ đến tôi, xin hãy sống cuộc đời
thiên, làm những hành vi thiện, hãy tử tế với đồng loại... Ðó là tất
cả những gì tôi đòi hỏi".
Khi Ðức Phật sắp nhập diệt, người ta nói hoa
trời và phấn hương gỗ đàn hương từ trên trời rải xuống khắp thân Ngài để
vinh danh Ngài. Và nhạc trời cũng trỗi dậy. Nhưng Ðức Phật cho thấy tất cả
những thứ vinh danh Ngài như vậy không phải là điều Ðức Phật muốn.
"Không phải như vậy mà Như Lai được vinh danh đến tột độ," Ngài
nói. "Nhưng này A Nan, ai tôn trọng Pháp, sống đúng Pháp, bước đúng
con đường của Pháp, đó chính là cách để vinh danh Như Lai đến mức cao
nhất. Cho nên này A Nan, các ngươi phải tự rèn luyện: Chúng ta phải tôn trọng
Pháp, sống đúng Pháp, bước theo con đường của Pháp." Và tuy chúng tôi đã
nói trước đây, chúng tôi muốn nói lại lần nữa: - Lời dặn dò cuối cùng của
Ðức Phật là: "Vayadhama sankhara. Appammadena sampadetha.-Tất cả
những gì duyên hợp đều phải tan rả. Hãy gắng lên chuyên cần (để giải
thoát)."
THAN VAN KHÔNG THỂ TÁC ÐỘNG
ÐẾN TRO CỐT CỦA NGƯỜI CHẾT
Trong những kiếp trước, Ðức Phật là một vị Bồ
Tát (một vị Phật sẽ thành), cũng không biểu lộ phiền não trước cái chết của
những người thân. Ðức Phật có thể bằng tâm linh nhớ lại những tiền kiếp của
Ngài, và được biết rằng có một kiếp Ngài là một nông dân, ngài không phiền
não khi mất một đứa con trai duy nhất. Trái lại, Ngài suy ngẫm: "Cái
gì phải tan rã sẽ tan rã và cái gì phải chết sẽ chết. Tất cả đời sống chỉ
là tạm bợ và phải chết." Khi một người Bà La Môn hỏi tại sao Ngài không
khóc – phải chăng Ngài có trái tim sắt đá, Ngài không cảm động vì đứa
con của Ngài – vị Bồ Tát trả lời rằng Ngài rất quí đứa con của Ngài, nhưng
phiền não không thể mang đứa con trở lại được. "Không có than
van nào có thể tác động đến tro cốt của người chết. Làm sao tôi phải phiền
não? Nó đi theo con đường mà nó phải đi".
Trong một kiếp khác Ngài không khóc trước cái
chết của người anh và đã bị buộc tội là vô tâm, Ngài trả lời những nguời đó
không hiểu tám hoàn cảnh trần thế mà tất cả chúng sinh phải đối diện, tức
là, được và thua, hạnh phúc và bất hạnh, khen và chê, nổi tiếng và bị mang
tiếng. "Vì ông không hiểu tám hoàn cảnh trần thế, nên rên rỉ, khóc than.
Tất cả mọi thứ hiện hữu chỉ là tạm bợ và cuối cùng phải chấm dứt. Nếu ông không
hiểu điều này và vì cái vô minh của ông cho nên ông khóc và than van, tại
sao tôi phải theo ông than khóc?"
Trong một kiếp khác nữa, Vị Bồ Tát không khóc
trước cái chết của người vợ trẻ và đẹp. Trái lại, Ngài suy ngẫm: "Cái
gì có bản chất tan rã thì phải tan rã. Tất cả những gì hiện hữu đều vô
thường", và ngồi xuống một cái ghế gần đấy, Ngài dùng cơm như thường
lệ, cho thấy khả năng tuyệt vời lúc nào cũng sống trong chánh niệm. Những người
tụ tập chung quanh Ngài hết sức ngạc nhiên và hỏi làm sao Ngài có thể giữ bình
tĩnh vào lúc như thế này. Phải chăng Ngài không yêu vợ Ngài, một người rất đẹp
đến nỗi kể cả những người không biết bà cũng không cầm được nước mắt? Vị
Bồ Tát trả lời bằng bài kệ:
Vì sao tôi phải nhỏ lệ
với em
Sammilllabhasini xinh đẹp kia ơi?
Em đi về cõi chết
Từ nay ta mất em .
Vì sao chàng trai yếu đuối than van
Những gì đối với hắn chỉ là vay mượn?
Hắn cũng hít vào hơi thở tử vong
Bị tước đi từng giờ bởi cái chết.
Lúc hắn đứng, hắn ngồi, đi lại hay nghỉ ngơi
Trong cái nháy mắt,
Cái chết xẩy tới ngay.
Ðời sống tôi cho là thứ không vững chắc
Mất bạn bè là chuyện không tránh được
Hãy trân quý tất cả những gì còn sống
Buồn phiền em cũng chẳng sống lại đâu.
(Lược dịch ý)
Sammilllabhasini xinh đẹp kia ơi?
Em đi về cõi chết
Từ nay ta mất em .
Vì sao chàng trai yếu đuối than van
Những gì đối với hắn chỉ là vay mượn?
Hắn cũng hít vào hơi thở tử vong
Bị tước đi từng giờ bởi cái chết.
Lúc hắn đứng, hắn ngồi, đi lại hay nghỉ ngơi
Trong cái nháy mắt,
Cái chết xẩy tới ngay.
Ðời sống tôi cho là thứ không vững chắc
Mất bạn bè là chuyện không tránh được
Hãy trân quý tất cả những gì còn sống
Buồn phiền em cũng chẳng sống lại đâu.
(Lược dịch ý)
Những chuyện rất ngạc nhiên như vậy về sự tự
chủ của Bồ Tát rất đáng kính sợ. Nó cũng dạy chúng ta phải suy ngẫm kỹ và
sâu xa về giáo lý để hiểu rõ chân lý của vô thường và chấp nhận sự thật về
cái chết. Có lẽ khi chúng ta đau khổ vì mất người thân, chúng ta sẽ suy
ngẫm như vị Bồ Tát này và giữ được sự điềm tĩnh.
CÁI CHẾT KHÔNG CÓ GÌ XA LẠ
VỚI CHÚNG TA
Một cách suy ngẫm khác về cái chết để
khắc phục được sợ hãi cái chết, là coi cái chết không có gì xa lạ với chúng ta.
Nổi trôi đằng đẵng trong luân hồi, vòng sinh tử bất tận, Ðức Phật nói
chúng ta đã chết đi và tái sinh nhiều lần không kể xiết – quá nhiều đến
nỗi nếu chúng ta gom tất cả xương khô lại cùng nhau, thì mỗi đống xương đó
có thể cao hơn quả núi cao nhất! Cũng vậy, Ðức Phật nói nước mắt chảy
trong luân hồi vì mất người thân nhiều hơn nước của bốn đại dương.
Ðúng, Ðức Phật nói, chúng ta đã đủ
đau khổ nhiều, để hoàn toàn mỏi mệt về đời sống, hãy tìm kiếm con đường
để ra khỏi cái mê cung khổ đau, con đường để đi đến Niết Bàn bất diệt.
Nhưng không may, chúng ta ít trí nhớ nên không nhớ được kiếp nào trong quá
khứ. Làm sao mà đôi khi chúng ta không thể nhớ nổi những gì chúng ta đã
làm ngày hôm qua! Cho nên chúng ta cứ tiếp tục sống một cách tự mãn, không có ý
thức khẩn cấp gì để trau dồi trí tuệ để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau.
Tuy nhiên trong thời Ðức Phật, có nhiều thầy tỳ kheo, kể cả Ðức Phật dã có thể
nhớ lại được tiền kiếp của mình. Ở thời nay cũng có những chuyện của những
người có khả năng kỳ lạ nhớ lại tiền kiếp của họ. Francis Story và Bác Sĩ Ian
Stevenson đã viết những cuốn sách, đưa ra tài liệu về một số những
trường hợp này.
Khi chúng ta suy ngẫm về tái sinh chúng ta lợi
trên hai phương diện:
Tóm lại chúng ta có thể coi cái chết không có
gì xa lạ với chúng ta. Chúng ta đã gặp nó nhiều lần trước đây. Cho
nên chúng ta không cần đối đầu nó bằng sợ hãi. Chúng ta có thể coi nó chỉ
là một chuyển tiếp, sự thay đổi từ cuộc sống này đến một cuộc sống
khác.
Chúng ta sẽ có động cơ tìm cách ra khỏi
luân hồi, vòng sinh tử. Chúng ta có thể nghiên cứu giáo lý của Ðức Phật sâu xa
hơn. Chúng ta có thể phấn đấu mạnh hơn nữa và thực hành những lời dạy của
Ðức Phật, để phát triển lòng vị tha, đạo đức và thiền định.
CÁI CHẾT NHẤT THỜI
Trong một đường lối khác nhìn cái chết là
cái mà ta trải nghiệm hết lần này đến lần khác. Vì trong ý nghĩa tuyệt đối,
sinh và diệt liên tiếp xảy ra. Theo Ðức Phật, thức lúc nào cũng sinh ra và chết đi.
Khi thức này tan rã thì lập tức thức khác nảy sinh và cứ thế tiếp diễn, vô tận,
cho đến khi và trừ phi chúng ta thực hiện được Niết Bàn tối hậu.
Những hiện tượng về thân thể cũng sinh diệt không ngừng. Cho nên cái mà chúng
ta có chỉ là sự sinh diệt không ngừng của các hiện tượng thể chất và tinh thần.
Ở một mức độ nào đó hồ như sinh và tái sinh luôn luôn xảy ra. Trong
tiếng Pali, nó được gọi làkhanika-maranam - cái chết nhất
thời. Trong cuốn Thanh Tịnh Ðạo, nó được nói đến như sau:
"Theo tuyệt đối,
chúng sinh chỉ có một thời gian sống rất ngắn ngủi, đời sống chỉ tiếp tục chừng
nào mà thức còn. Giống như cái bánh xe, dù chạy hay ngừng luôn luôn dựa vào một điểm
trên chu vi của nó, dù vậy đời sống của chúng sinh chỉ kéo dài trong lúc
thức còn. Chừng nào mà lúc này chấm dứt, thì chúng sinh cũng chấm dứt. Vì người
ta nói rằng: ‘Chúng sinh thuộc về chập quá khứ của thức đã tồn tại, nhưng
không tồn tại trong hiện tại, và cũng chẳng tồn tại trong tương lai. Chúng sinh
thuộc về chập tương lai không tồn tại, cũng chẳng tồn tại trong hiện tại, nhưng
nó sẽ tồn tại trong tương lai. Chúng sinh thuộc về chập hiện tại đã không
tồn tại, nó chỉ tồn tại trong hiện tại, nhưng nó sẽ không tồn tại trong tương
lai.’"
(chuyển ngữ bởi ngài Nyanatikola theo cuốn Tự Ðiển Phật Giáo)
(chuyển ngữ bởi ngài Nyanatikola theo cuốn Tự Ðiển Phật Giáo)
Trong phạm vi này, chúng sinh chỉ là thuật ngữ
qui ước. Phân tích đến cùng, nó chỉ là một chuỗi thức sinh ra và chết đi.
Thức này chết đi thì thức kia nảy sinh - tất cả là như thế. Và chúng ta
gọi tiến trìnhï tiếp tục này là một chúng sinh. Nhưng trong ý nghĩa tuyệt đối,
không có chúng sinh – không có sự thay đổi của linh hồn hay tâm, mà chỉ có một
chuỗi thức sinh ra và chết đi, thức này tạo điều kiện cho sự sinh ra
của thức kia.
Hơn nữa cái chết thông thường mà chúng ta trải
qua vào lúc chấm dứt của tuổi thọ không chỉ là cái chết tối hậu. Một thức khác
tức khắc sinh ra nhưng trong một thân mới hay cảnh giới mới theo tái sinh mà ta đi
vào. Chỉ khi ta đã loại bỏ được những dấu vết tinh thần của tham, sân
và si, thì mới không có tái sinh. Suy ngẫm như vậy, chúng ta cũng có thể đánh
giá đúng bản chất của vô thường, khổ đau và vô ngã. Và chúng ta có thể vượt qua
cái sống và chết dễ dàng.
VẤN ÐỀ ÐÁNG SUY NGHĨ
Mỗi lần bạn nhìn vào tờ báo và gặp mục lời cáo
phó hay những thông báo về cái chết, bạn có suy nghĩ về cái chết không? Bạn có
dừng lại và suy ngẫm sự thật về cái chết của chính bạn không? Bất cứ lúc nào
cái chết đến với những người khác, chúng ta không cảm thấy nhiều về việc
đó. Người chết có thể là người xa lạ với chúng ta. Khổ đau không phải là
của chúng ta, ngoài ra chúng ta đã trở nên hoàn toàn tê liệt trước những
chuyện về cái chết – Chúng được đăng trên báo hàng ngày. Ðọc tin người ta
bị giết ra sao, nhất là trong chiến tranh,sự sống dường như rẻ mạt. Dường như
không có sự tôn trọng gì đối với sự sống. Nhưng khi cái chết đánh vào
người thân của chúng ta, chúng ta chịuđựng ra sao? Và khi chúng ta trực diện
cái chết của chính chúng ta, chúng ta có sợ chết điếng không? Vâng, mặc
dầu chúng ta biết chết và các thảm kịch xẩy ra chung quanh chúng ta, nhưng
chúng ta sững sờ kinh ngạc và không thể chấp nhận nó khi nó thực sự xẩy ra cho
chúng ta.
Khi chúng ta đọc "mục tưởng
nhớ" trong báo chí, chúng ta có thể thấy tuy một người đã chết mấy
năm qua rồi, nhưng người thân vẫn còn khổ vì đau đớn bởi chia ly như thể
nó mới giáng xuống ngày hôm qua. Ðôi khi trong những thông diệp, người hôn phối
hay thân nhân công khai bầy tỏ buồn phiền mà họ vẫn còn cảm thấy và nước mắt
vẫn nhỏ xuống bởi người thân. Chúng ta hiểu đó là tình người cảm thấy như
vậy. Nhưng Ðức Phật dạy chúng ta rằng con người chúng ta có thể tự tiếp thu
bằng trí tuệ và sức mạnh để chấp nhận sự mất mát và chịu đựng một
cách kiên cường. Không phải là Ðức Phật muốn chúng ta vô tâm mà Ngài muốn chúng
ta có trí tuệ để chấp nhận sự mất mát và hiểu biết sự phù phiếm của phiền
não. Nhất định Ngài không muốn chúng ta héo hon vì phiền não, trở nên gầy
gò và yếu đuối, mất tất cả lợi ích trong đời. Ðặc biệt những người
Phật Tử nên hiểu điều này và dođó chấp nhận sự mất mát một cách kiên
cường.
Nếu người Phật tử cần thiết đưa ra thông
điệp với lời cáo phó hay để tưởng nhớ trên báo, tại sao không để những lời
Pháp như: Vô thường là tất cả mọi thứ duyên hợp. Hãy phấn đấu
không mệt mỏi cho Niết Bàn vôvi; hay suy ngẫm một caùch có ý nghĩa về cái
chết: Giống như hạt sương trên ngọn cỏ chẳng mấy chốc vào lúc mặt trời
mọc sẽ biến mất và không tiếp tục tồn tại được lâu; giống như vậy đời sống
của con người giống như hạt sương rơi rất ngắn ngủi và phù du. Ta nên hiểu điều
này một cách khôn ngoan, hãy làm những hành vi thiện và sống một cuộcđời đạo
đức, không ai có thể thoát chết.
Hay nếu ta muốn có tính cách riêng tư, sao
không để một thông điệp như sau: "Anh thân yêu, nếu anh có thể
biết được, anh sẽ hài lòng biết rằng con cái lớn lên rất tốt đẹp. Em
đã dạy kỹ chúng về Pháp, quý trọng những giá trị quý báu của tình thương yêu và
lòng tốt, trí tuệ và hiểu biết. Em cũng dạy kỹ chúng đừng bắt chước bạo
lực và tham lam thường thấy qua truyền thông như truyền hình và phim ảnh. Kết
quả, chúng rất hòa nhã và thân thương với mọi người. Về phần em, em vẫn giữ
giới và hành thiền. Em đang thực hành chánh niệm hàng ngày và ẩn tu một
hay hai lần một năm. Em rất an lạc và phát triển trong Pháp. Em cố gắng không
phiền não, vì anh và em đã hiểu một chút điều Phật dạy – đó là phiền
não thật phù phiếm: Nó không có ích gì. Và em biết anh cũng chẳng muốn em phiền
não, mà là sống một cuộc đời thiên và gương mẫu.
"Tuy nhiên có những lúc, em phải công
nhận, khi em cảm thấy đau đớn, khi em thấy nhớ anh kinh khủng, nhất là khi
nghĩ đến những lúc vui cùng nhau, hạnh phúc mà chúng ta cùng chia sẻ, nụ
cười ngọt ngào và ánh mắt sáng ngời của anh, cách anh cười và chòng ghẹo. Vâng,
khi em lạc vào trong cái nhớ nhung quá khứ ấy, em phải công nhận em cảm thấy
nước mắt muốn trào ra. Nhưng anh thân thương, em có thể tự kiềm chế được.
Em có thể có chánh niệm. Em có thể quan sát cái đau đớn và chấp nhận nó. Em có
thể quan sát tư tưởng và tâm trạng em. Em có thể suy ngẫm giáo lý của Ðức Phật
và hiểu sự phù phiếm của phiền não. Em có thể hạnh phúc và trông vào các phước
báu – ít nhất chúng ta đã có những giờ phút hạnh phúc bên nhau và bây giờ
chúng ta có con cái để sống vì chúng. Em hiểu sự đau đớn đến từ sự
luyến chấp và thiếu sự hiểu biết sâu xa về bản chất của tất cả cuộc sống. Cảm
ơn Ðức Phật đã dạy chúng ta về chánh niệm, dạy chúng ta sống trong hiện
tại, phải luôn luôn hạnh phúc, trông mong vào phước báu, tắm mình trong hạnh
phúc của một cuộc đời đã sống lương thiện.
"Vậy thì, em biết lời nhắn nhủ này đã
dài rồi. Em cũng biết rằng anh không ở đâu đây để nghe. Nhưng nó làm cho
em cảm thấy dễ chịu được bầy tỏ theo cách này. Em cảm ơn anh về hạnh phúc
mà anh đã cho em, và em dành tất cả những hành vi thiện mà em đã làm,
và đời sống thiện mà nay em đã cố gắng sống, tất cả em dành cho kỷ
niệm ngọt ngào và thân thương của anh. Em cũng chúc anh, dù tái sinh tốt thế
nào, cầu nguyện anh hãy tiếp tục tu tập Pháp cho đến khi anh đạt được Niết
Bàn, sự chấm dứt tất cả khổ đau, vân vân... và vân vân..."
Thừa nhận đây là một một thông điệp
khá dài mà tôi đã hơi say mê một chút. Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh
nơi đây là chủ đề của thông điệp, một chủ đề về hiểu biết và chấp nhận. Ðó
chỉ là đưa ra ý niệm về lời nhắn nhủ cách diễn đạt Phật Giáo. Nó có thể
được rút ngắn lại và viết đơn giản hơn. Hay ngoại trừ mục đích giáo dục
của nó (có nghĩa dạy dỗ), lời nhắn nhủ có thể là không cần thiết. Những cảm
nghĩ như vậy có tính cách cá nhân và có thể được giữ riêng tư. Khi ta hiểu
thấu Pháp, ta có thể tiếp tục sống một cuộc đời thiện và mãn nguyện.
---*---
MỘT THẾ GIỚI KHÁC THƯỜNG
Ðọc báo và tạp chí có thể cho chúng ta nhiều
cái đáng suy ngẫm. Bên cạnh những cáo phó, có những chuyện ác liệt nhắc
tới khổ đau trên khắp thế giới, dẫu cho chúng ta có thể chết lặng đi
vì nó. Có những vụ giết người, trộm cướp, hiếp dâm và chiến tranh, những vụ
xung đột tôn giáo, sắc tộc, xã hội và chính trị, ô nhiễm, bệnh tật, chết đói,
nghèo túng, tra tấn, áp bức, khủng bố, tai nạn, tự tử và những thiên tai như động
đất, hỏa hoạn, lụt lội và bão tố. Quả là một bản liệt kê dài và đáng buồn
cứ tiếp tục.
Ðồng thời bên cạnh những tin tức có những bức
tranh và quảng cáo trình bày những người hạnh phúc đang hưởng thụ cuộc
sống như thể không quan tâm gì đến thế giới. Họ cười và chụp hình đằng
sau các xe sang trọng, những lâu đài đồ xộ, những căn phòng khách sạn lộng
lẫy, những chai rượu, thuốc lá, nước hoa, mỹ phẩm, đồ trang phục trình bày
quyến rũ, và đồ trang sức lộng lẫy. Họ đắm mình trong những tiệc tùng,
cuộc thi sắc đẹp và biểu diễn thời trang với những người kiểu mẫu đẹp
và sành điệu diễu hành trên lối đi của bục trình diễn. Sự tương phản đặc
biệt thật mỉa mai, khi bạn nhìn thấy một cuộc biểu diễn thời trang lớn bên cạnh
một bức tranh não lòng của những trẻ em Phi Châuđáng thương chỉ còn da bọc
xương gần chết đói.
Người ta nói chúng ta là người văn minh ghê
tởm bạo lực và sự gây đau đớn điên rồ cho người khác. Tuy nhiên chúng ta
có những trận đấu tranh tài vô địch quyền Anh của hai võ sĩ khỏe
mạnh, vì món tiền lớn, cố hết sức giã vào đầu nhau giữa những tiếng la hét
tán thưởng rầm rộ của người xem, không phải là không giống thời dã mãn của
người La Mã khi những đấu sĩ đánh nhau với sư tử hay với nhau để giải trí
cho những khán giả khát máu. Chúng ta có những người đấu bò, điên lên,
hành hạ và giết con bò chỉ để mua vui. Và mọi người, hay ít nhất những
khán giả đông nghẹt tại đấu trường, dường như nghĩ rằng đó cũng là trò
vui.
Hút thuốc và uống rượu đã gây thiệt hại
rất lớn cho sức khỏe của con người, tuy nhiên các hãng thuốc lá và làm rượu vẫn
cứ cung cấp bằng mọi cách, thậm chí thông qua các võ đài thể thao, những
sản phẩm chết người của họ. Hút thuốc được mô tả một cách lố bịch là
"gặp gỡ sự dịu hiền" và uống rượu ngang bằng với thành công và uy tín
giữa nhiều việc khác! Cái gọi là các nước phát triển bán hạ giá thuốc lá và
những sản phẩm có hại khác cho các nước Thế Giới thứ ba, trong khi kiềm chế sự
tiêu thụ các sản phẩm ấy trong dân chúng của họ. Trong sự tham lam quá quắt của
cải của họ, các hãng xưởng sẵn sàng làm bất cứ cái gì, dường như không có một
chút băn khoăn nào về tất cả những gì họ nói hay làm trong việc cung cấp các
sản phẩm như vậy. Các phương tiện truyền thôngđại chúng như báo chí và tạp chí,
chấp nhận và phát hành quảng cáo vì tham lam số tiền lớn mà họ mang đến,
không thể tự tha trách nhiệm của mình. Họ có nhân quyền cơ bản để thi hành
lương tâm xã hội bằng cách từ chối những quảng cáo có hại nhưng họ chọn cách
không làm thế.
Nhìn vào một tạp chí hàng không bóng loáng,
bức ảnh ông chủ tịch già một hãng bia ở Thái Lan đã khiến tôi lưu ý. Mặc
com lê và với mớ tóc hoa râm, ông ta hãnh diện trình bày, trong phòng họp sang
trọng của ông, một dẫy chai bia sản xuất bởi hãng của ông. Ngay đàng sau
ông là một cái bàn thờ với hình ảnh Ðức Phật chiếu sáng lấp lánh. Ta có thể
nhìn thấy bàn thờ đã được bầy ở giữa phòng một cách rất ấn tượng. Vì
chúng ta đều biết Ðức Phật dạy về sự cấm rượu, giới thứ năm mà tất cả
người Phật tử tán thành nói rằng: "Tôi nguyện giữ giới không uống rượu hay
dùng ma túy, vì nó là nguyên nhân làm mất sự lưu tâm". Cho nên người giữ
giới khó có thể thỏa hiệp với sự sản xuất và phân phối rượu hàng loạt, được
coi như một cách sống sai lầm trong Ðạo Phật, với hình ảnh của Ðức
Phật,được trình bày một cách trang trọng trong phòng.
Sulak Sivaraksa, một nhà hoạt động và phê
bình xã hội Thái, viết trong cuốn sách của ông, "Những hạt giống
của Hòa Bình": "Sự thật đáng buồn là Thái Lan có khoảng
250,000 nhà sư nhưng gái mãi dâm nhiều gấp đôi. Ðiều này phát ngôn
cho một hệ thống không hữu hiệu và phải thẩm xét lại từ cội nguồn. Nếu chúng ta
có thể quay về nguồn gốc tốt đẹp của truyền thống Á Châu, chúng ta có thể
tạo ra một kiểu sống lành mạnh và hữu hiệu". Kể ra hai thí dụ sau cùng,
chúng tôi không có ý chỉ trích Thái Lan, mà chỉ là nhấn mạnh vào cái dị thường.
Thật ra, dị thường hiện hữu ở khắp nơi. Giống như ở Thai Lan, những việc đó
cũng thấy ở Phật Giáo Miến Ðiện, Phật Giáo Sri Lankha, xứ sở của chúng tôi
và ở bất kỳ một xứ nào khác. Không ai có độc quyền.
Vâng, chúng ta có thể tiếp tục dài dài với bản
liệt kê những mâu thuẫn trên thế giới mà chúng ta sống, chúng ta tin chỉ điều
này cũng đủ để thấy vấn đề. Vâng, phải chăng hồ như chúng ta không phải là
một xã hội có một trạng thái tâm lý bị chia rẽ hay loạn tinh thần? giống như
một Bác Sĩ Jekyll và ông Hyde. Chúng ta biết cái gì là bất thiện, tuy nhiên
chúng ta tha thứ và thậm chí còn khuyến khích sự tăng trưởng của nó. Rõ ràng,
dù muốn dù không chúng ta bị vương mắc vào đấy, và chúng ta lao vào theo
ngọn thủy triều. Ðược lập trình và bị tác động bởi những người có thế lực
trong phương diện truyền thông quảng cáo đại chúng, chúng ta đáp ứng điều khiển
và thông điệp của họ. Mua cái này, mua cái kia. Ăn cái này, ăn
cái nọ. Mặc cái này, mặc cái kia. Làm cái này, đừng làm cái đó. Cái
này thô kệch và cái đó có tính chất đàn bà. Cái này đúng mốt và cái
kia không. Ðây là lối sống tuyệt vời; đó là xã hội giàu sang đi đây
đi đó bằng máy bay phản lực, một thế giới vui nhộn và tiêu khiển tuyệt vời.
Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi có vẻ giống một
người chỉ trích, một trò thể thao xấu, một nhà sư giận dữđứng trên bục diễn giả
ngoài trời cao giọng tuyên bố rằng ngày tận thế gần kề và đe dọa một xã
hội suy đồi bằng lửa địa ngục. Nhưng bạn có thể đồng ý với tôi rằng có lẽ
đó không phải là một ý kiến xấu, nếu thỉnh thoảng, chúng ta lùi lại một phút và
nhìn vào tình hình thế giới, trạng thái tâm chúng ta và tình trạng cuộc đời
chúng ta. Một số trí tuệ có thể nẩy sinh từ sự suy ngẫm đó. Chúng ta có thể
đánh giá lại lập trường của chúng ta và hướng đi mà chúng ta muốn theo.
Chúng ta theo đám đông hay chúng ta bỏ hàng ngũ? Và giả dụ tôi xin mượn
một vần thơ của Robert Frost: Hai con đường rẽ ra hai ngả trong
rừng rậm và tôi – tôi đi con đường ít người qua lại. Và việc đó
đã làm cho sự thể thay đổi hoàn toàn. Vâng, khi hai con đường rẽ hai
ngả trong đường đời, bạn đi con đường nào? Con đường ít người đi – con
đường của chánh niệm và trí tuệ, con đường của tình thương và từ bi? Xin
hãy nghĩ về việc này, vì nó có thể làm sự thể hoàn toàn thay đổi.
---*---
Nơi đất và nước
Lửa và gió không tìm được duyên hợp,
Dòng thủy triều đang tắt dần
Vòng luân hồi không còn xoáy tít nữa
Tâm và vật sẽ ngừng không còn gì lại nữa
Lửa và gió không tìm được duyên hợp,
Dòng thủy triều đang tắt dần
Vòng luân hồi không còn xoáy tít nữa
Tâm và vật sẽ ngừng không còn gì lại nữa
Ðức Phật
---*---
MỘT NỤ CƯỜI NGỌT NGÀO NHẤT
Khi chúng ta đã đi đến phần cuối
cùng trong việc bàn luận về Thương Yêu và Cái Chết, tôi phải nói rõ ràng tôi
không chút nào tự nhận là chuyên gia về sự sống, tình thương yêu hay cái chết.
Nhưng tôi cố gắng chia sẻ một số suy nghĩ về vấn đề này với quý vị, những
suy nghĩ về cách sống và chết bằng tình thương yêu và hiểu biết trên đường
đời. Chính là đề tài tôi đã đưa ra, và tôi còn tiếp tục đưa
ra, nhiều suy nghĩ về nó. Chính đề tài mà tôi tin rằng sẽ đem lợi ích cho
tất cả chúng ta – vấn đề sự sống, tình thương yêu và cái chết. Ðương nhiên tôi
không tự nhận là khôn ngoan và tôi biết tôi cũng có nhiều nhược điểm. Ðúng
là giống như người có ý định tốt đấy nhưng vẫn còn vụng về trên đường
đời. Tôi cũng vụng về và vấp ngã trên đường đời. Nhưng mỗi lần tôi tự đứng
lên, phủi bụi đi, cố gắng không than van hay khóc lóc, một lần nữa hướng
mắt về đỉnh núi cao tít trên bầu trời, và tiếp tục với cuộc hành trình của sự
sống.
Tôi hy vọng rằng một số suy nghĩ tôi chia sẻ
nơi đây có thể giúp ích một phần nào cho quý vị, chúng có thể soi sáng
chút ít cho con đường của quý vị. Nếu chúng có thể cho quý vị một chút gợi
ý và quyết tâm sống và chết bằng tình thương yêu và hiểu biết nhiều hơn, thì
tôi sẽ rất sung sướng. Nếu chẳng may, những phần trong bài có thể làm mếch lòng
quý vị trên bất cứ mặt nào, tôi cũng xin quý vị lượng thứ cho. Là con người,
chúng ta có thể chỉ cố gắng – để phục vụ và chia sẻ. Chúng ta có ýđịnh
tốt, và cái nhỏ nhoi mà chúng ta có thể, bất chấp những hạn chế, tìm cách đóng
góp cho một xã hội tốt đẹp hơn, đó là một điều hạnh phúc. Bất cứ lúc
nào tôi nhìn lại, nó cũng cho tôi một niềm vui và an ủi khi biết rằng ít nhất
tôi đã cố gắng làm nhiều mặc dầu nó chỉ có thể là một chút thôi.
Và khi tôi chết, có lẽ tôi có thể nói với Thần
Chết: Này Thần Chết, bây giờ ngươi cứ thử làm đi, vì tađã sống và thương
yêu, và ta đã làm được chút gì cho đồng loại của ta". Và
trước khi tôi lẳng lặng lẻn vào đêm tối, bạn có thể nhìn thấy vết tích mờ
nhạt của một nụ cười trên môi tôi.
Tôi sẽ mỉm cười.
Một nụ cười ngọt ngào nhất lúc này
Bạn sẽ thấy
Tôi ra đi rất an bình
vào đêm tối.
Bạn có thể mỉm cười
Với tôi không?
Và nói --
Chào Thần Chết
Tạm biệt cuộc đời.
Một nụ cười ngọt ngào nhất lúc này
Bạn sẽ thấy
Tôi ra đi rất an bình
vào đêm tối.
Bạn có thể mỉm cười
Với tôi không?
Và nói --
Chào Thần Chết
Tạm biệt cuộc đời.
---*---
CHÀO THẦN CHẾT,
VĨNH BIỆT CUỘC ÐỜI
VĨNH BIỆT CUỘC ÐỜI
Khi cái chết đến, vì nó phải đến,
bạn làm thế nào để đối đầu với nó? Bạn có thể cười, nụ cười ngọt ngào nhất
lúc đó: "Chào mi - Thần Chết, Tạm biệt cuộc đời"?
Vâng, bạn có thể gặp thần chết không chút sợ
hãi mà còn can đảm và hiểu biết không? Bạn có thể chào nó như bạn gặp lại
một người bạn xa nhau từ lâu, như thể một người nào đó gọi bạn đã lâu rồi
và bây giờ bạn nhìn thấy, từ nơi xa đến? Rốt cuộc, chết không xa lạ gì với
chúng ta; chúng ta đã sống và chết nhiều lần không kể siết, gặp hết tái
sinh này đến tái sinh khác, sống đi sống lại trong luân hồi, cái vòng bất
tận của tử và sinh. Vâng, cái chết, chúng ta có thể nói, chỉ là sự thay đổi
của sự tốn tại, chỉ là tiếp tục chuyển động một lần nữa.
Cuốn sách này nhìn vào sống và chết từ khung
cảnh Phật giáo - làm sao chúng ta có thể sống đẹp và chết đẹp, làm
sao chúng ta có thể làm đẹp đời sống bằng những giá trị đẹp của tình yêu
thương, trí tuệ và từ bi, những thứ đó dẫn ta đến một chung cuộc đẹp, một
cái chết đẹp.
Tác giả, một nhà sư Phật giáo Mã Lai, đưa
ra cách giải quyết và thái độ Phật Giáo với giá trị chung và phổ quát
trước những câu hỏi muôn thuở về đời sống. Ông hy vọng những lời của ông
có thể cho quý vị một số gợi ý về sự sống, tình thương yêu và cái chết.
---*---
"Nơi nào Phật
Pháp đã thăng hoa
dù ở thành thị hay thôn quê,
người ta sẽ có những lợi ích phi thường,
Ðất đai và con người được bao trùm trong hòa bình.
Mặt trời và mặt trăng trong sáng và rực rỡ.
Gió và mưa sẽ đến thuận hòa,
và không có thiên tai
Các quốc gia sẽ phồn thịnh và
không cần dùng đến binh sĩ và khí giới.
Con người sẽ tuân theo đạo đức và hòa hợp với qui luật.
Họ sẽ lịch sự và khiêm nhường,
Và mọi người đều thỏa mãn vì không có bất công.
Không có kẻ trộm cướp hay bạo lực.
Người mạnh không bắt nạt người yếu
và ai ai cũng có được phần của mình"
dù ở thành thị hay thôn quê,
người ta sẽ có những lợi ích phi thường,
Ðất đai và con người được bao trùm trong hòa bình.
Mặt trời và mặt trăng trong sáng và rực rỡ.
Gió và mưa sẽ đến thuận hòa,
và không có thiên tai
Các quốc gia sẽ phồn thịnh và
không cần dùng đến binh sĩ và khí giới.
Con người sẽ tuân theo đạo đức và hòa hợp với qui luật.
Họ sẽ lịch sự và khiêm nhường,
Và mọi người đều thỏa mãn vì không có bất công.
Không có kẻ trộm cướp hay bạo lực.
Người mạnh không bắt nạt người yếu
và ai ai cũng có được phần của mình"
Ðức Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọ về
sự trang nghiêm, thanh tịnh, bình đẳng và sự giác ngộ,
theo tông phái Ðại Thừa.
sự trang nghiêm, thanh tịnh, bình đẳng và sự giác ngộ,
theo tông phái Ðại Thừa.
No comments:
Post a Comment