Saturday, June 7, 2014

MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ? PIERRE DARCOURT – DƯƠNG HIẾU NGHĨA DỊCH - Phần 3

CHƯƠNG 7: LINH MỤC THANH: ĐỘI QUÂN THANH LỌC
Ngày Thứ Tư, 9 tháng Tư- "Thiệu phải ra đi. Nếu ông từ chối không chịu ra đi thì ông sẽ bị quân đội đảo chánh, hay sẽ bị một sĩ quan giết chết để trả thù cho tất cả những người đã chết vì ông ta. Một người phi công trẻ đã thử giết ông ta rồi, nhưng anh ta thất bại. Nhưng mà còn có những người khác nữa. Thiệu là một tướng lãnh không có khả năng và là môt chánh trị gia tham nhũng. Ông không lãnh đạo một Chánh Phủ mà cầm đầu một "băng đảng" Tất cả mọi người đều ghét và khinh bỉ ông ta."
Người nói lên những lời buộc tội ngắn nầy không phải là môt quan tòa, cũng không phải là một dân biểu hay là một ông đại tá. mà là một linh mục: Cha Trần hữu Thanh, thuộc dòng Chúa Cứu Thế, chủ tịch "Phong Trào Tranh Đấu Chống Tham Nhũng Để Cứu Nước Và Vãn Hồi Hòa Bình".
Năm nay ông 50 tuổi, dáng người gọn ghẽ, tóc đã bạc hoa râm, mặt vuông, có đôi mắt sáng ngời lanh lợi sau cặp kính tròn gọng sắt , cha Thanh mặc một áo dòng đen cũ, tiếp tôi trong một văn phòng nhỏ bên cạnh nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. ông ta mạnh dạn nói tiếp:
-" Thiệu là một người bất nhân. Ông ta đã làm hư quân đội, hành chánh và tòa án. Các tướng lãnh thì phải bỏ tiền ra mua chức vụ chỉ huy của họ, các tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, các quan tòa cũng phải mua chức tước của họ rất đắt. Dĩ nhiên sau đó họ phải tìm cách thu hồi lại và như vậy là họ phải ăn hối lộ. BàThiệu là một người công giáo tốt, về lễ bái cũng như về từ thiện. Nhưng bà không thể nào cưỡng lại được lòng ham muốn "quà cáp", những vòng cẩm thạch, những hột xoàn mà người ta dâng cho bà để mưu cầu có môt sự che chở của bà. Bà mua đất mua nhà cửa và gian lận thuế. Và chồng bà cứ để cho bà muốn làm gì thì làm. Chính vì muốn tranh đấu chống lại các sự thối tha đó của chế độ nầy mà tôi phải đứng ra chống ông Thiệu.
Tôi có được sự ủng hộ của hàng trăm người công giáo và nhiều nghị sĩ và dân biểu. Đức Cha Bình của Tòa Giám Mục Sài Gòn đã ủng hộ hành động của tôi. Các sĩ quan, các bác sĩ, luật sư đã viết thư cho tôi hay đã đến đây gặp tôi để ủng hộ tôi và khyến khích tôi tranh đấu . . . .
- Hà Nội và M TGPMN khẳng định là Cha hành động theo sự xúi giục của người Mỹ. Những người thân ông Thiệu cũng có cùng một luận điệu đó và nói thêm rằng các linh mục ủng hộ
Cha như các cha Nghi và cha Thanh Lan đều là những người có khuynh hướng tiến bộ.
Cha Thanh nhảy lên:
Tôi không có dính dáng một tý nào với người Mỹ, họ không bao giờ có một hành động nào để thử ép ông Thiệu phải ra đi, hay ngay như phải loại bỏ 3 tên đại bất lương luôn bao vây quanh ông ta. Tôi sẽ nói cho ông nghe chính xác hơn. Lưu manh nhất Việt Nam là tướng Quang, cố vấn của Tổng Thống về tất cả mọi vấn đề liên quan đến an ninh. Ông nầy đã thiết lập các hệ thống buôn bán ma túy,, buôn lậu, và nhờ đó mới có được một gia tài kếch xù. Ông Thiệu lúc nào cũng từ chối không muốn sa thải ông Quang nầy, hoặc như ông thường làm một vài lần khi ông muốn dẹp một chướng ngại cho mình ông gởi người đó đi sang ngoại quốc làm đại sứ. Rất là giản dị, bởI vì ông Quang biết rõ những bộ xương được cất trong tủ nào, và khi nào vói không tới thì ông ta bắt đầu nói vớ nói vẩn. . . Còn 2 thành viên của đảng mafia mà ông cũng không bãi miễn được . Trước hết đó là Trung tướng Nguyễn văn Toàn cựu Tư Lệnh Quân
Đoàn II , mà ai cũng biết là buôn lậu. Ông làm giàu bằng những cúp cây rừng và những sòng bạc, và còn bị cáo buộc tội hãm hiếp nữa. Việc nầy mặc dù có một chiến dịch báo chí dữ dội, mà vẫn không đi đến đâu hết. Ông Thiệu chỉ cho ông ta rời khỏi chức vụ một vài tháng thôi, rồi lại đưa ông ta về lãnh trách nhiệm Vùng III Chiến Thuật. Chính ông ta hiện đang lo việc phòng thủ Sài Gòn . Sau cùng là tướng Trang sĩ Tấn, Chỉ huy trưởng cảnh sát Đô Thành. Đây là một người ham tiền và tàn ác. Ông ta kiểm soát đĩ điếm và các sòng bạc lậu.. Ngoài ra ông còn thành lập một đường dây xuất ngoại đưa con cái những người Tầu và những người giàu có sang Thái Lan để trốn quân dịch. Một trong những người đại diện của ông ta ở Ba Lê (Pháp) lo tiếp nhận những người phạm tội nầy sang tỵ nạn ở thủ đô nước Pháp và cung cấp đầy đủ giấy tờ hợp pháp kề cả một giấy phép cư trú, như vậy là ông ta ăn được 2 lần tiền, bởi vì khách hàng của ông ta phải trả tiền lúc đi và lúc đến. NgườI đại diện nầy là chủ một nhà hàng Việt Nam ở khu La Tinh (ba Lê), cũng có một hệ thống "gái gọi" dành cho các vị Tổng bộ trưởng khi đi công vụ ghé lại Ba Lê. Do đó xa tầm nhìn của những kẻ tò mò, tránh không làm hại đến thanh danh của họ đồng thời không có ai động đến họ được Và mặc cho tất cả những điều ô nhục đó, tướng Trang sĩ Tấn vẫn tiếp tục được sự che chở của Tổng Thống và bà Thiệu, đến độ họ đã đề nghị gả con gái cho Tấn nữa."
Tôi nhìn Cha Thanh. Chẳng những Cha đã tỏ ta thành thật mà còn tin chắc rằng ông được trao cho một "sứ mạng". Ông Thiệu đã trở thành một biểu tượng của người xấu mà ông phải hạ bệ bằng mọi giá để cứu đất nước và để ông ta phải chịu đền tội. Một khi sứ mạng cứu nước đã xong, thì ông sẽ nghĩ thế nào về giải pháp tương lai đây? Tôi đặt thẳng câu hỏi với Cha:
" Giả dụ là ông Thiệu chịu ra đi hay bị đuổi đi, thì ai sẽ là người thay thế ông ta đây?
-Bất cứ ai cũng được! Tất cả những gì chúng tôi mong muốn, đó là một người liêm khiết và ngay thẳng,có quyết tâm phục vụ đất nước .
- Tại sao không phải là Cha ?
Cha Thanh sững sờ, nhìn chòng chọc vào mặt tôi sau khi tôi vừa phát biểu một điều coi như bất lịch sự ghê gớm, và ông phát lên cười nắc nẻ.
Dĩ nhiên là không phải tôi rồi. Tôi không phải là một chánh trị gia. Tôi dấn thân tranh đấu vì tôi yêu đất nước tôi, và để hợp với thiên chức của tôi, tôi chỉ tố cáo những việc làm không phải và những tật xấu của một chế độ mất giá trị. Nhưng tôi không có ý định cũng như tham vọng nào để giữ vai trò của một nguyên thủ quốc gia.
- Vậy thì ai đây ?
- Chúa sẽ giúp chúng ta tìm người cần phải có.
- Nhưng nếu cộng sản không thừa nhận người đó thì sao ?
- Cộng sản có thể chiếm đất nước nầy bằng vũ khí, họ đang chứng minh điều đó. Nhưng họ không thể áp đặt một chế độ không hợp với 20 triệu dân Miền Nam Việt Nam .
- Nhưng nếu họ cứ thử làm thì sao ?
- Họ sẽ không thử đâu. Họ cũng thừa thông minh và thực tiễn để phải hiểu rằng chỉ có một cách duy nhất để tái lập hòa bình thật sự là phải thành lập một Chánh Phủ Đoàn Kết Quốc Gia , ở đó có đủ mọi xu hướng và phải có sự ủng hộ của toàn dân. Dù sao thì họ cũng đã từng và không bao giờ ngưng hứa như thế mà.
Cha Thanh giữ yên lặng một lúc, sau đó hình như bất chợt ông công nhận được một chuyện khó có thể xảy ra, nên ông nói thêm một cách thật cương quyết:
- Ông biết không , ít nhất tôi cũng là một người chống cộng sản như tôi đã chống ông Thiệu.
Nếu những người của Hà Nội quyết định cộng sản hóa Miền Nam , dựa trên quân đội của họ và các chánh trị viên của họ, thì họ sẽ thất bại. Dân chúng sẽ chống lại và sẽ có một cuộc nội chiến không có hồi kết thúc.
Cũng trong ngày thứ tư 9 tháng 4 nầy, vào lúc 15 giờ, tôi đến thăm một người bạn của tôi Đó là ông Trần trung Dung. Lúc nào ông cũng ăn mặc sang trọng, áo sơ mi lụa, quần thẳng nếp và mang giầy Ý đại lợi, đầu chải láng, người lúc nào cũng bình tỉnh chững chạc ăn nói từ tốn và rất lễ độ với mọI người , Ông là con của môt người chơi đồ cỗ ở Hué, là bạn học cũ của tướng Võ ngyên Giáp vào thập niên 30 ở trường trung học Albert Sarraut và sau đó ở đại học Luật tại Hà Nội . Ông đã từng là một tỉnh trưởng trẻ ở tỉnh Phú Thọ, đảng viên đảng Đại Việt, một đảng đối lập vớI cộng sản Việt Minh trong cuộc chiến dành độc lập, sống lưu vong bên Tầu, trở lại đời sống chánh trị sau khi cưới cháu của Tổng Thống Ngô dình Diệm và trở thành Tổng trưởng Quốc Phòng. Hiện ông là Phó Chủ Tịch Thượng Viện. Thuộc một gia đình có tiếng tăm lâu đời, lại hấp thụ cả hai nền văn hóa Tây Phương và Đông Phương, đã từng trải qua nhiều biến cố lịch sữ, thường có nhiều giao dịch cả ở Việt Nam và ở ngoại quốc, những chuyến đi du lịch ở ngoài với những chức vụ mà ông đã và đang tiếp tục đảm nhiệm.... tất cả cho thấy ông là một người đối thoại lý tưởng. Không như các chánh trị gia của đất nước ông, sự hiểu biết của ông về những sự việc và những con người , gia tài mà ông đang có giúp ông sống độc lập đối với bổng lộc của chánh quyền .. tất cả đều bảo đảm một tính khách quan và không thiên vị trong phán đoán của ông.
Tôi thuật cho ông nghe hết về buỗi viếng thăm của tôi với Cha Thanh và những toan tính đáng sợ của Cha đã nói với tôi. Ông cười và bình luận:
-" Cha Thanh là một "anh hùng rơm" (nguyên tác: Don Quichotte). Ông quá thật thà khi nghĩ rằng hễ nhảy ra nắm được cây chổi trong tay là có thể quét được hết. Những cây chổi hả, khi cuỡi lên được nó rồi thì chúng sẽ đưa những người phù thủy tập sự đi rất xa . Chúng ta đang sống ở Việt Nam, nơi mà chế độ được thành lập trên sở hữu tư nhân; có nghĩa là có một khái niệm về lợi tức và hình thành một phương tiện cho sự tăng tiến xã hội.
Mọi người đều ra sức để chứng minh rằng chúng ta hư hỏng vì tham nhũng, và đĩ điếm tràn ngập. Đối lập thì xác nhận rằng không có tự do phát biểu và các thể chế đi sai hết rồi. Tôi đã có đi nhiều ra ngoàì. Tham nhũng thì đâu cũng có hết, ở Âu Châu, Nhật Bản và cả ở Hoa Kỳ nữa. Nó còn dữ hơn ở Việt Nam ta nữa kia, vì các nước đó giàu hơn Việt Nam gấp bội, và giản dị hơn nó được khéo che đậy hơn. Ở bên Pháp, bên Mỹ hay bên Nhật, báo chí thường chỉ trích những vụ tai tiếng, những vụ buôn vàng lậu hay ngoại tệ liên quan đến các ông cảnh sát, các viên chức cao cấp , các nhà đầu tư bất động sản hay cả những tổng bộ trưởng. Bên Hoa Kỳ các anh chàng găng tơ (gangster) thường chen vào chánh trị và các cuộc bầu cử. Đã xảy ra rồi một ông thị trưởng của thành phố New York chạy ra ngoại quốc mang theo cả ngân quỷ của thành phố.. Con số ma túy bắt được lên đến hàng mấy tỷ mỹ kim. Đĩ điếm ít nhất cũng nhiều như bên Việt Nam chúng ta, những người giả trang đòi quyền cưới hỏi nhau, thậm chí còn có nhiều linh mục đồng ý thừa nhận hôn nhân của họ nữa. Bên Pháp trong một số rạp chiếu bóng trên đại lộ số 5 hay Champs-Élysées , muợn cớ là giải phóng tình dục, người ta cho chiếu những phim khiêu dâm mà trước kia chỉ được kín đáo chiếu trong nhà cho một số ít thân chủ tìm hứng cảm mà thôi. Tôi thường tự hỏi dựa trên nguyên tắc nào mà họ chỉ trích chúng ta một cách có hệ thống như vậy ?
Ông Trần trung Dung đặt hai bàn tay thật sát lên bàn viết của ông và nói tiếp, với một giọng đều đều ;
- " Nước Việt Nam không có gì xấu hơn hay tốt hơn các nước mà họ tin là họ có thể đánh giá ta được. Đối với ông Thiệu cũng vậy. Tôi biết ông ta rất nhiều , tôi đã nhiều lần đến với ông ta, và đã nói chuyện nhiều với ông ta. Chúng tôi đã có đụng chạm nhau và cuối cùng ngày 3 tháng 4 vừa qua, tôi đã bỏ phiếu thuận cho một nghị quyết của Thượng Viện đòi hỏi sự ra đi của ông ta.
- Ông ta là một người thông minh, có khả năng và dám hành động. Lòng can đảm và ý chí quyết tâm kháng cự mà ông ta đã chứng minh trong thời kỳ cộng sản tấn công dữ dội vào năm 1972, chúng ta không thể nào quên được . Chỉ trong vòng một năm gần đây thôi, không lâu lắm, ông Thiệu có thay đổi.. Trước kia, khi tôi đưa ra những câu hỏi về những vấn đề của đất nước, thì ông ta đã trả lời dài dài cho tôi, đầy dủ từng chi tiết một. Ông rất chú tâm đến những việc ông làm, cái nhìn sáng quắt của ông đã chứng tỏ niềm tin và lòng thành thật của ông.. Nhưng rồi đùng một cái, cái nhìn của ông lu mờ hẳn đi, ông ta nghe tôi nói mà không buồn nói gì cho tôi hết, tránh không trả lời vào các câu hỏi của tôi, và cuối cùng là tránh không muốn gặp tôi nữa. Tôi đã cảm thấy được sự thay đổi đó từ đầu năm 1974. Tôi đã hiểu là ông Thiệu đã mất hết lòng tin . Hiển nhiên ông đã biết rõ là Hoa Kỳ đã buông bỏ chúng ta rồi. Ông đã biết rõ là ông chỉ còn đánh một hiệp cuối cùng với bọn cộng sản, mà trong hiệp chót nầy ông bầu của ông đã để cho ông tự lo liệu lấy một mình trong lúc cộng sản đến đánh trên đầu ông bằng một đôi găng có dấu chiếc bàn ủi sắt bên trong... Và như vậy là ông đã bắt đầu chuẩn bị sự hồi hưu của mình, sửa soạn cho mình một chiếc nệm êm ấm rồi đó!
Ông Trần trung Dung ngả người tới trước và nói với tôi:
- " Anh Pierre nầy, tôi còn một vài nhận xét nữa phải nói. Bắc Việt luôn luôn khoe với chúng tôi là một chế độ dân chủ trong sạch và cứng rắn, nơi đó sự lương thiện được nâng cao thành đức tánh. Tôi đã đọc báo của họ kỹ lắm và tôi thường ghi nhặt được rằng các giám đốc hợp tác xã hay bị bắt vì tội biển thủ gia súc; rằng các hãng xưởng bình dân của họ thường gian lận sổ sách, bán buôn bất hợp pháp vật liệu mới toanh được họ biến cải thành vật liệu "dư thừa phế thải" gồm có đầu máy xe lửa và hàng chục tấn dây điện; rằng các sinh viên thường buôn bán chợ đen vải sồ và thẻ tiếp tế lương thực; rằng hàng trăm tấn gạo bị lươn lẹo; rằng có nhiều tổ chức buôn lậu xe đạp, máy may, và đá lửa; rằng các anh lính mới thường hay đào ngũ; rằng các phụ nữ thường buông thả trong các hoạt động tội lỗi của nghề mãi dâm.... Nhưng có ai ở ngoại quốc biết đọc được tiếng Việt, hay bỏ thì giờ để phân tích tỉ mỉ báo chí nhạt nhẽo của Hà Nội bao giờ?
-" Anh Pierre biết ở Sai Gòn có bao nhiêu tờ báo không ? - 29 tờ : 19 tờ Việt ngữ, 7 tờ Hoa ngữ, 2 tờ Anh ngữ và 1 tờ Pháp ngữ. Họ thường viết bài chỉ trích Chánh Phủ . Có một số bị tịch thâu, bị kiểm duyệt, nhưng họ vẫn tiếp tục ra báo. Còn ở Hà Nội chỉ có 3 tờ báo: tờ nhật báo Nhân Dân, tờ Hà Nội Mới và tờ Quân Đội Nhân Dân. Cả 3 tờ báo nầy đều được viết, in ra cho Đảng phân phát và Chánh Phủ không bao giờ sợ bị một chỉ trích nào cả. Điều nầy ở Ba Lê ai cũng biết hết. Ông Jacques Decornoy đã xác nhận rõ trong báo Le Monde. Ông ta giải thích với một lương tâm nghề nghiệp đáng khen rằng: Dĩ nhiên là mọi dư luận có xu hướng trái ngược đều không thể được trình bày ở Hà Nội . Và ở Miền Bắc không thấy có một người nào dám nêu lên quan niệm về Tự Do của Phương Tây".
Mục tiêu mà Cha Thanh tự nhắm vào là TT Thiệu. Cha có nói với anh là Đức Cha Bình đã đồng ý và khuyến khích Cha tiếp tục tranh đấu phải không?. Tất cả hai người đều có thể nghiêng về trường hợp Cha Quản Lý của Giáo xứ mà phía sau lưng ông nầy có một số bù nhìn tay sai đang kiểm soát nửa tá ngân hàng tư, buôn hối đoái và cho vay cắt cổ , (28 % lời), giết chết đồng bạc trong thời gian không quá 4 năm . Ông ta cũng đầu cơ về đất đai và tài trợ cho các dịch vụ địa ốc. Tòa Tổng Giám Mục còn là sở hữu chủ của nhiều khách sạn đặc biệt là khách sạn Caravelle, nơi đó các phòng thường tiếp bọn gái nhẹ dạ còn nhiều hơn là những người đi hành hương ở Fatima. Cuối cùng nếu anh cho phép thì tôi sẽ kết luận như thế này : Nếu ông Thiệu quyết định ra đi, thì cái sơ đồ trong những tuần lễ hay những ngày sắp tới, đối với tôi hình như đã có vẽ sẵn trước rồi!
Giả thuyết thứ nhất : bọn cộng sản sẽ khai thác thắng lợi và cố gắng chiếm Sài Gòn .Họ có thể làm được chuyện đó, nhưng các chánh trị gia và các nhà ngoại giao không tin như vậy, vì họ cứ tưởng rằng cộng sản trước nhất đang đi tìm một chiến thắng chánh trị. Và sự loại trừ được Tổng Thống Thiệu, một kẻ thù không thể giải hòa được, là đã giúp họ đạt một chiến thắng vẻ vang rồi.
Từ đó ta mới có giả thuyết thứ hai , có khà năng đúng hơn và yên tâm hơn : giai đoạn thứ nhất là thành lập tại Sai Gòn một toán gồm một số đại diện của lực lượng thứ ba. Sau đó sẽ thành lập Hội Đồng Hòa Giải Dân Tộc mà Hà Nội và Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam (M TGPMN) đã kêu gọi thành lập mãi từ 2 năm nay mà vẫn không được . Những người thuộc lực lượng thứ ba cũng có thể tin cậy được . Có nhiều người khao khát trước hết là đem lại hòa bình. Một số khác thì thấy M TGPMN là một phong trào tranh đấu của người quốc gia hơn là cộng sản. Một nhóm thứ ba khác thì chán nản vì sự tham nhũng của chế độ, nên bị C PLTCHMN lôi cuốn. Tất cả đều tin tưởng là có khả năng giải quyết bình đẳng với cộng sản , nếu không thể thao túng họ được . Tất cả những người nầy đều là nh ững thằng điên và vô ý thức. Họ phải đầu hàng cộng sản hay là đi tù mà thôi. Còn đối với Cha Thanh thì ông sẽ có dịp may nếu ông còn có quyền giữ được tràng hạt của ông ta để tụng trong khám tối....."
CHƯƠNG 8: ĐỪNG BAO GIỜ TIN TƯỞNG HOA KỲ
NHƯ MỘT ĐỒNG MINH

Ngày Thứ Năm, 10 tháng Tư
Chung quanh vòng đai của Thủ đô, nhiều xe ủi đất và máy xúc đất đang không ngừng đào lấu từ tấn nầy đến tấn khác đất và đá sỏi để hàng ngàn nhân công mặc quần cụt và sơ mi ngắn tay đen, dùng xe đẩy nhỏ , đưa đến dùng vá cho vào các thùng phuy sắt được kết nối lại từng 4 thùng một với nhau bằng dây sắt và được đặt trên các lề đường để dùng làm bờ tường chống chiến xa.
Tất cả những xe đò từ các tỉnh đến Sai Gòn đều được quân cảnh lục soát và kiểm tra kỹ. Các ngã tư đường quan trọng đều có các cuộn kẽm gai bao quanh. Hai bên các đầu cầu đều có binh sĩ canh gác với các loại vũ khí nặng đặt trong các lô cốt bằng ximăng hay trong các hầm trú ẩn có bao cát ở trên.
Những công cuộc chuẩn bị chiến tranh không hề làm bận tâm người dân ở thủ đô. Ở khu vực ngân hàng, sau nhiều chuyện xô đẩy chen lấn ồn ào, sự yên tĩnh đã trở lại bình thường. Đồng mỹ kim tuần rồi đã vụt lên đến 1600 đồng thì nay đã xuống trở lại đến 1000 đồng. Thành phố Chợ Lớn, trung tâm thương mại và tài chánh của Việt Nam tiếp tục sinh hoạt bình thường. Không khí buôn bán không có gì thay đổi. Người ta vẫn còn tìm nhìn lên các bảng hiệu tiệm với hàng chữ màu đen hay màu vàng luôn được treo trước cửa hàng . Ở đây buôn bán vẫn là ưu tiên hàng đầu . Trước hết là các cửa hàng bách hóa, thôi thì hàng được bày la liệt đủ mọi thứ : nào là nón phớt Ý đại lợi, nào là dầu thơm của Pháp, nào là máy ảnh của Nhật... tất cả treo dài dài trên tường, có cả ly cốc và nồi niêu.... Hàng tá đèn lồng được bày bốn năm hàng dài trên các kệ, đèn chùm đủ kiểu được treo lòng thòng từ trên trần nhà. Đèn điện sáng choang vì người Tầu không ưa bóng tối. Kế đến là các hàng tạp hóa, với nhiều loại rượu: loại khai vị của Pháp. rượu vang Úc Châu, sâm banh thượng hảo hạng nhưng thường thì chỉ có nhãn hiệu là thật. Tất cả các loại bánh bít quy của Anh... nhưng làm ở Hong Kong là phần chắc. Các tiệm buôn thường chia ra làm 2 hay 3 ngăn, mỗi ngăn mỗi chủ khác nhau. Người ta thuê, rồi lại cho thuê lại: khúc trước thì bán cà phê, mà khúc sau thì là một tiệm hớt tóc. Các tiệm bán trà thì có hàng trăm bình trà bằng đất nung, nhưng phía sau đó lại có các hũ rượu nếp. Trong các tiệm ăn thì mấy anh bồi bàn mặc áo thung lá lăng xăng chung quanh các thương gia béo phì và vui vẻ, lâu lâu lại vén áo thung ba lá lên rất tự nhiên gọi là để cho mát cái bụng phệ. Đứng trước các lò nấu có năm sáu anh đầu bếp, lưng trần, đang lo nấu cơm hay đang làm món ra gu đậu. Trước hiệu ăn nào cũng có treo đầy "lạp xưởng", và các miếng thịt "xá xiếu" dài ,những con vịt khô dẹp , và các chùm ớt đỏ chói....
Chung quanh các tiệm bán tạp hóa, bán chạp phô hay các kho hàng lúc nào cũng có dủ mặt các tay tiểu công nghệ : nào là thợ vá giày, thợ sửa khóa, thợ ráp khuôn hình . . . các cô bán bông thì chào hàng trước các tiệm trồng răng, các tiệm kính nơi có trưng bày đủ loại gọng, loại kính đủ màu đủ kiểu..
Ngoài kia là con kênh, đầy ghe thuyền, sà lan, ghe chài lớn...và tiếng vịt kêu, đang đến từ các nhà máy xây lúa ở Bình Tây, cao to vòi vọi bên cạnh các căn lều lụp xụp của các công nhân và phu khuân vác. Không khí thì đầy những hạt bụi lấm tấm màu đen : người ta thường dùng trấu để đốt lò xây lúa nên có cả một đám mưa bụi tro. Các bao lúa được chất lên chung quanh nhà máy xây gạo cao như núi, để chờ chuyển thành triệu nầy đến triệu khác.
Những hình ảnh phong phú nầy đặc biệt trái ngược với các mẩu tin từ chiến trường gởi về.
Chơn Thành vừa mới được di tản, đây là một thị trấn nhỏ nằm ngay ngã tư giao lộ cách Sai Gòn khoản 80 cây số ngàn về hướng Đông Bắc. Thị trấn bé nhỏ nầy với vài xã nghèo nàn nằm chung quanh một ngôi nhà thờ vách ván, là nơi đã từng xảy ra nhiều trận giao tranh đẫm máu. Các khu rừng tre quanh đây đã bị bom của pháo đài bay B. 52 cày nát và đốt cháy. Việt Cộng đã đào đường hầm hẹp và ngoằn nghoèo dài hàng cây số trong vùng bình nguyên quanh thị trấn. Nhưng Biệt động quân đã đuổi họ đi hết và đã chiếm lại khu săn bắn nầy.
Từ Chợ Lớn về, tôi gặp bạn Lupi của tôi, một người dân đảo Corse ốm yếu và có tánh hay bồn chồn, tóc đã bạc phơ nhưng cặp mắt còn đen nhánh tinh anh. Sau 30 năm phục vụ liên tục ở Đông Dương, anh ta gần như đã sạt nghiệp. Đồn điền của anh ta (gần đèo Blao trên đường đi Dalat) đã bị cháy hết. Ngày hôm kia anh dã ở Xuân Lộc.
Với một giọng không thay đổi của người dân đảo Corse, anh ta tiết lộ cho tôi biết:
- " Anh biết không, trong rừng thuộc tiểu khu nầy, bộ đội chánh quy cộng sản đông như kiến vậy. Thành phố Xuân Lộc đã biến thành một căn cứ quân sự khổng lồ, với những pháo đài và những ổ mối. Sư đoàn của Chánh Phủ với nhiệm vụ phòng thủ thành phố đã sống dưới hầm và trong các lô cốt bằng bê tông, trong các đường hầm hay núp kín sau các ụ đất. Mỗi một nhà kho, mỗi một sân nhà đều biến thành một hầm trú ẩn dùng để chống chiến xa, hay cho một ổ đại bác liên thanh... Mỗi đêm Xuân Lộc đều ăn hỏa tiễn của cộng sản Bắc Việt.
- Thế dân chúng làm gì ?
- Con số thường dân tăng lên gấp đôi. Hàng chục ngàn dân tỵ nạn từ khắp nơi kéo đến,và ở cùng khắp thành phố, trong các sân trường, trong các hầm hố, che lều ở hay mắc võng vào thân cây nằm. Và không một ai muốn rút lui hết. Sớm muộn gì cộng sản Bắc Việt cũng sẽ tấn công đến nơi rồi. Các sĩ quan của Miền Nam Việt Nam mà tôi đã gặp đều khẳng định là họ không lùi nữa.
°
°
Trước tòa đại sứ Hoa Kỳ , có mấy trăm người Việt Nam đang xếp hàng trên lề đường chờ xin phép nhập cảnh để được đi Mỹ.
Đại sứ Graham Martin không tiếp báo chí và đã không bao giờ rời khỏi sứ quán của ông, vừa là một dinh thự vừa là một pháo đài sơn màu trắng ngà, có một bức tường bê tông bao quanh có gằn máy chụp ảnh tự động. Hai anh binh sĩ Thủy quân lục chiến với lễ phục lớn (kết trắng, găng trắng, quần chạy nếp đỏ) đứng gác lúc nào cũng trong tư thế Nghiêm trước hai cánh cửa bọc sắt có ổ khóa chỉ được mở bằng mật mã bằng máy vi tính từ xa. Nóc bằng của sứ quán đã được cải biến thành bãi đáp cho trực thăng.
Với 62 tuổi, người cao lớn và rắn rỏi, trán đã có nhiều vết răn sâu, mặt cũng đã có nếp nhăn và quầng thâm, ông vẫn luôn luôn mặc quần áo màu xám, cả giầy cũng vậy, giờ đây ông đã có một dáng đi hơi nặng nề và mệt mỏi của một võ sĩ quyền Anh đánh quá một trận, mà từ khước không chịu cho đôi tay ngơi nghỉ ! Phải nói rằng nhà ngoại giao Hoa Kỳ nầy có một lối xử sự không được bình thường. Trái hẳn các đồng nghiệp của mình luôn có thái độ "lạnh nhạt", dù tình hình quá nghiêm trọng họ vẫn đánh giá bằng một thái độ dửng dưng khác thường, ông Martin là một người biết trọng danh dự, biết thế nào là giá trị của một lời hứa đã được đưa ra, là môt người biết đau khổ và biết xúc động. Ông đã mất một người con trai trong chiến cuộc ở Việt Nam và không chấp nhận là đứa con của mình đã hy sinh một cách vô ích. Ông ta đã tỏ thái độ giận dữ với các nhà báo và các nghị sĩ theo chủ nghĩa "hòa bình" , những người quên hay chối bỏ sự hy sinh của 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ ở Việt Nam . Thay thế đại sứ Ellsworth Bunker (người được coi như là cha đở đầu của Tổng Thống Thiệu) sau khi Hiệp Định Paris vừa được ký kết, ông Graham Martin, một nhân vật thẳng tính và không mưu mẹo quanh co, ngay từ lúc đầu đã cố gắng giúp đở và che chở cho vị Tổng Thống Miền Nam Việt Nam . Ông đã tranh đấu với Quốc Hội năm vừa qua để đòi hỏi Hoa Kỳ phải tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế như đã hứa cho Miền Nam Việt Nam , nhưng ông đã thất bại. Từ sau ngày Cao Nguyên bị thất thủ, ông đã công khai biện hộ và vận động riêng để sự cứu trợ cấp thời phải được gởi sang Việt Nam ; và bằng mọi phương tiện mà ông có sẳn, ông đã nâng đở tinh thần của người dân Miền Nam . Ông đã đi xa hơn nữa bằng hành động phối hợp cuộc hành quân "bốc trẻ mồ côi", một việc làm chạm tinh thần quốc gia dân tộc và lòng kiêu hãnh của người dân Việt Nam. Trong một bức thư riêng gởi cho Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam , ông đã giải thích rằng những phản ứng xúc động do hoàn cảnh vô cùng khốn đốn của các trẻ mồ côi có thể sẽ làm nghiêng cán cân dư luận của dân chúng Hoa Kỳ có lợi cho Miền Nam Việt Nam . Nhưng nội dung lá thư riêng của ông lại được tung ra cho báo chí gây ra môt làn sóng phản đối dữ dội.
Tuy vậy ông Martin không ngã lòng. Và như ông đã khiếp sợ sự "trốn chạy", nên ông cẩn thận hơn một chút đối với các anh nhà báo vá các nghị sĩ quá tò mò, buộc các cộng sự viên của ông phải đề cao cảnh giác và nêu gương phẩm cách của mình, và khuyên họ không nên buông thả theo "tính chủ bại", và ông cũng cố gắng thuyết phục họ là "cuối cùng rồi có lẽ Hoa Kỳ cũng sẽ tỉnh dậy thôi"
Trong lúc cuộc tháo chạy đã gần như hoàn toàn, trong khi hàng trăm ngàn dân tỵ nạn làm nghẽn hết đường sá, và hết thành phố nầy đến thành phố khác cứ tiếp tục thất thủ, ông vẫn phô bày một sự lạc quan không lay chuyển, mỗi ngày cẩn thận tính sổ các xã ấp mà Sai Gòn còn đang kiểm soát được và gởi về Hoa Thạnh Đốn nhiều điện văn "tối khẩn" đòi hỏi những chương trình phát triển kinh tế dài hạn cho phần đất còn lại của Miền Nam Việt Nam .
Cho đến khi Hoa Thạnh Đốn đòi hỏi ông Martin phải sẳn sàng để di tản 5000 người Mỹ hiện còn đang ở Miền Nam Việt Nam thì ông đã trả lời bằng một công hàm hết sức gay gắt, khuyên Bộ Ngoại Giao hãy khóa "vòi nước hoảng loạn" lại. Ông Martin không dấu giếm với những người bên cạnh ông rằng ông coi chuyện "di tản" nầy như một cuộc "tháo chạy nhục nhã", một "hành động hèn nhát", một hành động "phản bội có cân nhắc" đối với một người bạn đồng minh đang có nguy cơ đứng trước cái chết ....
Khi tôi đi trở xuống đường Catinat (Tự Do), tôi không thể không nghĩ tới sự thay đổi lạ lùng về đường lối chánh trị của Hoa Kỳ và sự rời rạc của khối dân cử của họ.
Đã có một lần, một vị Tổng Thống Hoa Kỳ mang tên là Richard Nixon . Có nhiều người đồng hương của ông đã không thích ông và tố cáo cách điều hành Chánh Phủ của ông.(điều nầy có nhiều trung tâm có uy tín đã ghi nhận đúng như thế). Họ cũng công nhận có một vài việc ông "biết làm" trong vấn đề chánh trị đối ngoại, nhưng họ nghĩ rằng trong lãnh vực nầy Henry Kissinger (người ta nói là chất xám của Nixon) mới chính thật là người thợ khéo đã gầy dựng nên những thành công cho ông Chủ Nhà Trắng.
Sau một màn tranh đấu đầy khả nghi, được đánh dấu bằng những cú đấm quá hạ tiện, cuối cùng ông Nixon phải từ chức.Tám tháng đã trôi qua từ đó. và hình như bị một nền công lý nội tại trả thù cho danh dự của một người đã từng bị dân chúng chà đạp một cách bạc bẽo, quốc gia Hoa Kỳ lúc bị ngất ngư vì suy thoái kinh tế, một sự suy thoái mà không một nước Tây Phương nào tranh khỏi , mới bắt đầu biết được hương vị chua chát của môt sự tỉnh mộng !
Bây giờ chúng ta chứng kiến được gì đây ? Một sự hoảng loạn của một Tổng trưởng Ngoại Giao mà từ Quốc Hội đến báo chí người ta không ngần ngại bắt ông phải từ chức.
Con người siêu nhân hoạt bát đeo kính to, từng là một tiến sĩ có phép mầu khi xưa, nay gần giống như một nhà ảo thuật mệt mỏi đang làm cho khán giả chán ngấy, vì không diễn được trò nào cho ra hồn. Trên sân khấu buồn tẻ của một ông Gerald Ford đầy thiện ý nhưng không một ai muốn nghe lời cảnh cáo của mình, vì thiếu quyền lực và không có uy tín, ông đã tỏ ra hoàn toàn không có khả năng để áp đặt quan điểm của mình cho các đồng viện trong Lập Pháp.
Mặt khác, người ta sẽ nghĩ gì về Quốc Hội Hoa Kỳ nơi đó những phần tử (tự do) đã cất cao giọng từ sau các cuộc bầu cử hồi tháng 11 (hậu quả khác của vụ tai tiếng Watergate) khi Quốc Hội đó đã tự cho phép mình đi nghỉ hè mà không cần nói một chữ nào về sự viện trợ bổ túc mà Hành Pháp đã xin cho hai quốc gia đồng minh đang trong cơn hấp hối là Miền Nam Việt Nam và Cam pu Chia ?
Còn ở điện Capitol, người ta lại tỏ ra hết súc hấp tấp để tìm chuyện gây gổ xấu xa giữa cơ quan tình báo trung ương CIA và cơ quan điều tra liên bang FBI về những tài liệu có khi cũ xưa từ 15 năm trước, còn hơn là bận tâm đến những nổi khổ đau bất hạnh của các nước ở Đông Dương đang kêu cứu một cách vô vọng !
Vả lại tại sao họ phải lo lắng ? Miền Nam Việt Nam có mất đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì đe dọa tới nền an ninh của Hoa Kỳ . Sai Gòn và Hoa Thạnh Đốn cách nhau đến 17.000 cây số !
Chỉ có người Miền Nam Việt Nam và chỉ có họ thôi , mới có thể khôi phục được tình hình. Bởi vì không còn có vấn đề tái can thiệp của lực lượng quân sự Hoa Kỳ vào Việt Nam nữa . Nhưng có một điều quan trọng mà Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối không chấp nhận, đó là nhiên liệu và đạn dược cần thiết phải được cung cấp cho quân đội Miền Nam trước khi đã quá trễ.
Như vậy, nếu chiến trận tiến tới và bắt đầu có giao tranh trước khi hàng tiếp liệu được bảo đảm đến nơi, thì không những quân đội Sai Gòn sẽ thất trận, nhưng họ đã thất trận vì Hoa Kỳ đã phản bội họ. Và bài học duy nhất được rút ra từ chiến tranh Việt Nam sẽ là: "Đừng bao giờ tin tưởng vào Hoa Kỳ như là một đồng minh của mình!"
CHƯƠNG 9: CHIẾN TRẬN ĐẪM MÁU
Ở XUÂN LỘC

Ngày Thứ Sáu, 11 tháng Tư
Lần nầy thì sắt thép đụng nhau rồi ! Đụng rất nặng ở Xuân Lộc.
Câu chuyện bắt đầu từ đêm thứ tư đến ngày thứ năm 10/4 bằng một cuộc pháo kích dọn đường rất dữ dội : 2000 quả đạn pháo và hỏa tiễn đã được rót xuống thành phố. Vào lúc hừng sáng, 2000 đặc công cộng sản có chuến xa T.54 yểm trợ đã mở cuộc xung phong vào Xuân Lộc . Đến 8 giờ, coi như họ đã chiếm được ba phần tư thị trấn, trong khi có 2 trung đoàn đang đánh bọc vào 2 bên sườn.
Suốt cả ngày hôm qua, chiến trận đã hoành hành khốc liệt. Nhưng chúng tôi chỉ được biết vào hồi 7 giờ sáng sau giờ chấm dứt thiết quân luật. Vừa biết được hai bên đã đụng nhau ác liệt, tôi đi ngay lên Biên Hòa, đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Quân Đoàn lo cả phòng thủ cho Sai Gòn. Tại đây tôi đã gặp Trung tướng Toàn, một người lớn con vạm vỡ từng theo học ở trường Thiết Giáp Kỵ Binh Saumur ở Pháp. Ông có tính nóng nảy nhưng là một người thích ra trận, nhất là tấn công. Vào năm 1972, chính ông đã bẻ gãy tất cả các trận tấn công của cộng sản Bắc Việt vào Cao Nguyên. Ông vừa mới từ mặt trận trở về bằng trực thăng. Các sĩ quan tham mưu vây quanh ông để nhận lệnh. Ông nói với họ vài ba câu xong ra hiệu cho tôi và nói :
-" Rất vui mừng được gặp lại anh ở đây, anh Pierre . Nhưng chắc tôi không có thì giờ để lo cho anh đâu. Nếu anh muốn đi xem thì anh hãy lên Ngã ba Biên Hòa rồi từ đó nhảy lên một chiếc cam nhông nào đó để lên thẳng Trảng Bom. Nhưng hảy cẩn thận nghe. Nặng lắm rồi đó."
Tôi biết rất rõ vùng Xuân Lộc. Từ năm 1947 đến 1948 tôi đã đi hành quân trong tiểu khu nầy ròng rã cả năm với toán đặc công của tôi. Vào thời kỳ đó, Xuân Lộc chỉ là một thị trấn nhỏ với khoảng vài dãy phố chừng 50 căn nhà gạch liền vách nhau hai bên chợ có nóc, và trên trăm nhà lá. Ga xe lửa là trạm dừng chân của đoàn "tàu thiết giáp", một đơn vị "an ninh thiết lộ" của lê dương xâm mình, được trang bị loại đại bác Bofor và liên thanh nồi, nối liền Sai Gòn với miền Nam Trung Phần.. Dinh ông quận trưởng hành chánh người Pháp được tô điểm bằng một dàn hoa leo, nằm đối diện với trại "lính kỷ luật" , một đơn vị tập trung các binh sĩ nhiều lần bị kỷ luật, mà chỉ có một cơ may trở về đội ngũ của mình bằng một huy chương tưởng thưởng trong tác chiến. Xa xa về phía trước là một bộ phận của Hiến Binh lưu động, và đơn vị thân binh người Thượng, tất cả đều trú đóng trong một thành có tường đá bao quanh. Lúc bấy giờ tiểu khu nầy cũng không yên lắm đâu. Đã có nhiều trận phục kích, tấn công đoàn tàu hỏa hay đoàn xe trên quốc lộ vì hai bên đường đều có rừng hay đồn điền cao su của hảng SIPH (đã trồng 20.000 mẫu và đang khai thác 12.000 mẫu), và cao nguyên Bình Lộc với cỏ voi lá bén như dao cạo, với tre to và rừng cây già.
Từ đó thị trấn nầy đã lớn lần ra. Hằng ngàn dân tỵ nạn rách như bươm, người thiên chúa giáo từ Miền Bắc đến định cư ở đây vào năm 1954. Chủ đồn điền ở đây đã cho các cha xứ 120 mẫu đất không lấy tiền để cất một ngôi thánh đường, một ngôi trường đạo và một nhà ở cho Linh mục do Sai Gòn bổ nhiệm. Quận cũ được cải biến thành quận lỵ của tỉnh, với một bệnh viện tối tân, và một dinh thự cho vị tỉnh trưởng, một nhà bưu điện, một trung tâm học vụ và một sân vận động. Dân tỵ nạn từ Miền Bắc vào đã xây nhiều ngôi nhà xinh xắn bằng gạch, nhiều căn nhà có dàn cho hoa leo, họ cũng đã mở ra hàng trăm tiệm buôn bán và xưởng mỹ nghệ. Một sư đoàn lính Mỹ đã đóng quân ở đây ba năm, đã xây cất một phi trường và nhiều doanh trại với đầy đủ tiện nghi. Xã đã biến thành thị trấn, và một thành phố trù phú đang sinh hoạt với 60.000 dân, nơi đây hằng ngày đều có hàng loạt "xe be" chở cây lóng và các xe rau cải đi về Sài Gòn.
Bây giờ thì chiến tranh làm vỡ tan hết tất cả dưới một cơn bảo thép. Tôi đã đến đây không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi đã thuộc hết hình ảnh của Xuân Lộc nầy, và những tiếng ồn ào ở đây, tiếng gầm của các khẩu pháo binh đang tác xạ làm rung chuyển mặt đất, tiếng rít khô khan và sắc bén của những viên đạn bắn đi với những chùm lửa, chùm sắt thép làm nát hết thân người và ném các mảnh xương thịt đó đây vung vãi....trên mặt đất.
Bây giờ là 9 giờ sáng rồi, trời cũng đã quá nóng, mặc dù có dồn điền cao su thường giữ được độ mát nhờ có bóng râm. Trước khi vào Trảng Bom, cảnh sát dã chiến có dựng lên một hàng rào chữ chi để kiểm soát mọi sự lưu thông, tiếng súng bắn chỉ thiên thay cho tiếng tu hít., tôi xuống xe, kiểm soát xong tôi tiếp tục tản bộ đi về phía trước khoảng 100 thước.
Thị trấn rất yên tĩnh và cần cù siêng năng nầy được thu hẹp chung quanh những cơ sở lớn sơn màu vàng được lợp ngói đỏ, thuộc công ty đồn điền SIPH, (nhà máy, văn phòng, trung tâm truyền thanh, nhà của giám đốc v.v..). Các anh thợ rèn và thợ mộc, cởi trần trùng trục đang tiếp tục làm việc trong mấy căn chái dựa hai bên đường. Tôi cố gắng tìm một đồn cũ của người Pháp hồi trước, nằm về bên phải của ngôi chợ. Vào năm 1948, đồn nầy được một đại đội binh sĩ dưới quyền của trung úy Suako, một lực sĩ người đảo Antilles, với bộ mặt cứng rắn đến hung dữ, một tay thiện chiến, đã từng làm chủ mảnh đất nầy trong vòng 30 cây số chung quanh, thiện chiến đến độ Việt Cộng phải sợ và đặt cho anh ta cái tên là "beo đen". Dĩ nhiên cái đồn nầy không còn nữa. trung úy Suako đã chết và trong 25 năm nay, cuộc chiến đã thay đổi hẳn bộ mặt của nó, nhưng nó vẫn còn ở đây. Dữ dội hơn và gây chết chóc nhiều hơn! Một pháo đội 105 ly đặt sau hàng cây đã bắn đi một tràng. Một chiếc xe Jeep vừa hụ còi vừa đi qua. Một sĩ quan đứng bên cạnh tài xế khoát tay. Đoàn xe tiếp tục lăn bánh, tôi lại lên xe và tiếp tục đi.
Quốc lộ đi qua nhiều làng mạc, có rào đóng kín và bên trong có nhà thờ. Hầu hết dân làng đều là dân "di cư", tỵ nạn từ Miền Bắc . Các cụ già thản nhiên im lặng ngồi nhìn binh sĩ đi ngang qua trước nhà. Các trẻ em thì cứ nô đùa, các bà thì đang đập lúa. Cả một dảy nhà gỗ là của người "Nùng", những người rạm nắng di cư vào đây từ miền Thượng Du Bắc Việt, giáp giới với Trung Quốc. Họ là những người nhai thuốc lá và cũng thích "sơi" thịt cầy, có truyền thống làm giặc hay cướp biển, không sợ Trời, không sợ quỷ thần, không sợ Việt Cộng, và cũng không sợ sen đầm nốt!
Tuyến phòng ngự thứ nhất nằm ở phía trước Trảng Bom chừng 10 cây số. Từ đó trở đi, thình lình không khí thay đổi hẳn. Hai bên đường vốn được khai quang sạch sẽ khoảng 100 thước bề sâu cốt để tránh bị phục kích, có nhiều chiến xa hạng nặng và thiết vận xa đang tuần tiễu dọc theo các bờ chuối trong bìa rừng. Chung quanh một công sự đổ nát, trên một chục khẩu pháo binh 105 ly đang tác xạ, làm tung bụi lên mù mịt. Giữa một khoảng trống có đánh dấu bằng khói màu, các trực thăng khổng lồ "chinook" đang thả xuống nhiều toán binh sĩ mặc quân phục Biệt động quân, đội mũ nâu, mang đầy mình đạn dược và lựu đạn.. Một đoàn chiến xa M41 với cờ đuôi nheo cột trên ăng ten, đang di chhuyển về hướng mặt trận.
Rồi lại đến lượt các binh sĩ thuộc binh chủng Nhảy Dù với quân phục xanh lá cây, mủ đỏ, súng tự động M.16 cầm tay. Chúng tôi gặp hai xe cam nhông chở thương binh, chỉ được băng bó sơ khởi, như những bóng ma, máu me bê bết, nằm la liệt chồng chất lẫn lộn lên nhau.
Chúng tôi đi được thêm 5 cây số nữa thì phải ngừng lại.Tiếng súng nghe như gần bên rồi. Những tiếng nổ ròn của đại liên nghe rất rõ cùng với tiếng tác xạ ầm ầm của pháo binh. Chiến xa dẫn đầu, sau đó là các xe Jeep và xe 4/4 chở Biệt động quân. Tôi nhảy xuống xe vá quyết định đi tới trước với toán binh sĩ nầy. Biệt động quân là các đơn vị tiếp viện, hành quân từng tiểu đoàn 600 người gồm phần đông là binh sĩ lớn tuổi, già kinh nghiệm chiến trận và không biết hốt hoảng. Tôi lên một xe 4/4, ngồi cạnh đại úy Niệm . Trong khi di chuyển ông kể cho tôi nghe một vài câu chuyện. Đại đội của ông từ Chơn Thành về, ở đó ông và đại đội đã chiến đấu suốt 16 ngày liền và chỉ về nghỉ xả hơi được có 48 tiếng đồng hồ là phải ra trận nữa đây.
Lực lượng cộng sản được tung vào mặt trận Xuân Lộc rất là quan trọng : 3 sư đoàn Bắc Việt được tăng cường 1 trung đoàn chiến xa T. 54 và được khoảng 30 khẩu pháo 130 ly và 152 ly viện trợ từ Liên Xô.
Đối diện với lực lượng tấn công của cộng sản, phía Chánh Phủ chỉ có sư đoàn 18 bộ binh của tướng Lê minh Đảo, 1 lữ đoàn Dù, 5 Liên đội Biệt động quân và lữ đoàn 3 Thiết giáp của tướng Trần quang Khôi.
- "Chúng tôi được lệnh phải đến Xuân Lộc bằng mọi giá", đại úy Niệm kết luận với tôi như thế. Và chắc không dễ dàng lắm đâu. Trước mặt chúng ta là sư đoàn 6 Bắc Việt . Chính sư đoàn
nầy, cách đây 3 ngày, đã tấn công vào ngã ba Suzannah, các xã chung quanh đó, nhà máy và trung tâm đồn điền nầy,. Hai tiểu đoàn Dù đã phản công đêm nay và đã chiếm lại ngã ba nầy. Cộng sản Bắc Việt đã có chiến xa yểm trợ và tổn thất nghe đâu cũng nặng lắm. Nhưng lực lượng Dù vẫn bám đất. Chúng tôi chắc phải xuống xe và phải đi bộ chừng 10 cây số, vòng qua ngã ba Suzannah mới tới Xuân Lộc được ."
Đoàn xe chúng tôi đến gần Suzannah. Và chúng tôi lọt vô luôn giữa chiến trận. Những tràng đạn pháo binh, bách kích, hỏa tiễn chém nát mấy ngọn cây và mảnh đạn ghim xuống đường. Anh em Biệt động quân bỏ hết xe và tiến lên theo hướng thị trấn. Họ chia ra làm 3 toán, họ tiến lên từng đoạn ngắn, súng cầm tay. Bên trái và bên phải chúng tôi những hàng cây cao su đều đặn và thẳng tấp tạo nên những hành lang tranh tối tranh sáng. Suzannah là một đồn điền xưa nhất trong vùng, có khoảng 3.500 mẫu và 300.000 cây cao su. Đồn điền được chia ra thành từng lô 100 mẫu có đánh số...... Dửng dưng với chiến sự và mặc cho sự ồn ào của đạn súng, lén lén và yên lặng các phu đồn điền vẫn tiếp tục công việc cạo mủ của họ, dao đục mang ở lưng và thùng đựng mủ xách tay, họ không buồn nhìn lên khi chúng tôi đi ngang qua họ.
Chúng tôi tiến lên trong một khung trời mờ ảo, đi dưới một vòm lá xanh um rợp bóng nửa tối nửa sáng có nơi biến màu đất đỏ dưới chân thành màu xám tro. Chúng tôi đi sâu thêm một đoạn nữa dưới những tàng cây. Không khí thấy đã ẩm ướt làm tôi khó chịu. Tôi tự hỏi không biết lúc nào bọn Việt Cộng nằm đâu đó trong vườn cao su rộng mênh mông nầy sẽ khai hỏa đây ? Nhưng vẫn chưa có gì xảy ra. Và chúng tôi tiếp tục tiến tới, hơn nửa giờ nữa. Và thình lình tiếng đại bác nghe như gần bên tai, đại liên thi nhau nhả đạn. Biệt động quân bắt đầu chạy tới, trăm thước, rồi hai trăm thước, một con đường mòn, một khoảng đất trống và đến con đường.
Chiến xa, xe vận tải .. cả một đoàn binh sĩ đang ở tư thế tác chiến. Họ thuộc sư đoàn 18 bộ binh của Miền Nam Việt Nam . Anh em Biệt động quân giải thích cho họ biết là chúng tôi từ đâu tới. Đoàn quân đi lại con đường đó nhưng lần nầy họ đi ngược lại, vì con đường đã trống trơn. Họ đang tìm cách bọc sau lưng bọn cộng sản Bắc Việt để liên lạc với đơn vị Dù.
Thành phố Xuân Lộc đầy khói và đầy những tiếng nổ. Tháp chuông nhà thờ bị nhiều quả đạn bắn bay hết một góc, nhà ga đang cháy. Các cột điện sập ngã đầy đường, giây điện bị đứt. Gần bên hông trường Nhà Dòng, hai khẩu pháo 105 ly đang bắn về hướng quốc lộ đi Phan Thiết. Khỏi chợ chừng 200 thước, súng liên thanh nổ từng tràng ngắn, xen lẫn vào lại có những tiếng nổ chát chúa của lựu đạn cầm tay. Thật khó mà có môt ý niệm về tình hình. Hai chiến xa M.48 có ống kính hồng ngoại tuyến bên hông pháo tháp đang tiến về phía chợ. Các binh sĩ Biệt động quân thì đang bố trí các ổ súng máy phía sau những đống gạch vụn của gần chục ngôi nhà đã sụp đổ bên phải của bưu điện . Họ cũng có một số súng phóng lựu M.79, một loại vũ khí tấn công nòng ngắn rất hữu hiệu trong thế cận chiến. Tôi ngồi phía sau một vách tường đã sụp đổ, và tôi sẽ ở đây suốt buổi trưa và tối nay.
Vào lúc 6 giờ chiều, một loạt hỏa tiễn rơi vào chợ. Năm, mười hay mười hai quả gì đó, nổ điếc cả tai.... và sau đó có tiếng la hét. Nhiều chị đàn bà và trẻ con rách rưới mình đầy máu vừa la vừa băng qua đường, chạy ùa về phía nhà dòng.
Ở về hướng Đông Bắc, chung quanh sân bay không còn nghi ngờ gì nữa, nghe có tiếng súng liên thanh nặng bắn liên hồi. Và đùng một cái pháo binh Bắc Việt nã ngay vào thành phố. Chúng tôi bị kẹp cứng trong vòng lửa đạn. Không thể đếm được là bao nhiêu quả. Cá nhân tôi chưa từng bị pháo kích nặng như vậy bao giờ. Các quả đạn pháo binh cày rất có hệ thống từng căn nhà một, căn nầy sập đến căn khác. Thành phố bị một cái bừa thép cày lên sới lại.. liên tục trong vòng 2 giờ đồng hồ. Không có môt bóng người nhúc nhích. Đêm đã bắt đầu xuống, trời nóng bức. Tôi không có gì để ăn, không có gì để uống, lại không có mũ sắt nữa ! Thật là không ổn tý nào!
Vào lúc 10 giờ , hai trái bom sáng nổ trên không trung và vô số ngôi sao sáng rơi xuống màn đêm như một cơn mưa ánh sáng... Tiếp theo đó là đạn pháo binh lại tiếp tục rơi xống thành phố. Lần nầy là pháo 130 ly. Tôi nghe tiếng đạn đi trên đầu chúng tôi ầm ầm như tiếng tầu hỏa đang mở hết tốc độ, và ngay sau đó là những tiếng bùng nổ tiếng nầy tiếp tiếng kia liên tục.. Đất cát, rồi đá sỏi, rồi lửa rồi miểng đạn bắn đi tung tóe khắp nơi..Và nổi lo sợ làm bụng quặn đau....
Đến khoảng nửa đêm thì ngưng pháo kích. Người tôi ướt đẩm mồ hôi. Có một sự yên lặng hoàn toàn trong vài giây... và thình lình tiếng dế nổi lên gáy đều đều môt cách kỳ lạ và bất lịch sự, vì chúng là những con dế mèn nhỏ bé đâu cần biết đến chiến tranh hay giặc giã là gì, cứ gáy cứ hát lên một cách bền bỉ và ngạo nghể để mà sống... Con người tìm cách giết lẫn nhau, dế mèn có gì đâu mà phải lo sợ !
Vào khoảng 3 giờ sáng, bóng đêm lại bất thần sáng rực lên. Bách kích pháo, súng liên thanh, súng tự động thi nhau nỗ. Từng đợt một, bộ đội Bắc Việt mỡ những cuộc xung phong . Tiếng hô "Tiến lên" nghe vang dội. Bấy giờ binh sĩ Biệt động quân mới xử dụng vũ khí của họ. Súng liên thanh thi nhau quét những làn sóng xung phong của địch, hàng ngàn tia lửa như điện chớp xé nát màn đêm... các khẩu đại bác pháo binh bắn trực xạ, bẻ gãy các đợt xung kích, làm im tiếng xung phong của địch. Chung quanh ngôi chợ, các chiến xa T.54 đang dùng đại bác bắn sập từng ngôi nhà. Chiến xa M.48 của Miền Nam chạm súng với họ trong một cự ly thật ngắn . Cảnh tượng trông thật là khủng khiếp. Với thân hình nặng nề màu xám và các đại bác nòng dài cứ lóe sáng lên mỗi lần tác xạ, gợi lên một trận chiến quái dị giữa những con voi khổng lồ.. Thật hoàn toàn là một trận đụng độ với nhau. Một trận mưa trái sáng soi tất cả chu vi phòng ngự bằng một ánh sáng mờ nhạt. Hai phi cơ võ trang C.119, được trang bị liên thanh điện tử (6000 viên phút). nhảy vào vòng chiến, tác xạ nhanh đến độ tai mình không còn phân biệt được từng tiếng đạn đi, người ta cứ tưởng đó là tiếng của một miếng tôn thiếc bị xé toẹt ra...
Vào tảng sáng, các phóng pháo cơ A 37 lại đến dội bom và bắn hỏa tiễn vào phía sau ngôi chợ và cả về hướng phi trường. Binh sĩ Biệt động quân ra khỏi hầm trú ẩn của họ, vừa tiến lên từng đoạn ngắn vừa ném lựu đạn. Tôi thấy có 3 người ngã xuống, và người thứ tư thì bị một loạt đạn vào đầu.
Đến 10 giờ sáng, tôi vẫn ở đằng sau bức tường của tôi. Tôi thấy hàng trăm binh sĩ Miền Nam đầu đội mũ sắt đang tiến tới . Một trung úy lúc đi ngang qua bức tường của tôi đã cho lệnh : " Có hơn trăm tên bộ đội chết bầm đang trốn trong bệnh viện, Mình phải đuổi bọn chúng ra ngoài."
Vẫn còn đạn pháo và vẫn có một số binh sĩ bị tung lên trời. Một chiến xa T.54 bị một phát đạn 105 bắn trực xạ giữa xích, đang cháy khói lên nghi ngút.
Có nhiều chiến xa M.48 đang yểm trợ cho bộ binh trước bệnh viện. Thời gian trôi qua..có nhiều tiếng hò reo và nổ ì ầm nhưng cũng có đôi lúc có sự yên lặng tuy ngắn ngủi. Và viện binh đã đến, Binh sĩ Miền Nam bắt đầu lục soát những căn nhà đổ nát bằng lựu đạn...
Đến 3 giờ chiều, lúc đã im hết tiếng súng trong thành phố thì tôi rời chổ núp của tôi. Thành phố coi như vẫn còn trong vòng kiểm soát của Miền Nam Việt Nam. Người ta bắt đầu kiểm điểm xác chết của quân Bắc Việt. Họ mặc quân phục xanh ô liu và đi giày "tơ nít" hiệu Bata bằng cao su. Tôi đếm được rải rác chừng 30 bị chôn nừa thân mình dưới những đống gạch vụn. Một toán nhỏ Biệt động quân đang đẩy trước mặt họ 3 tù binh, đội nón cối bằng mớp được bọc vải màu xanh, trên nón có gắn môt ngôi sao bằng đồng. Nom họ còn rất trẻ, cao lắm là 16 hay 17 tuổi. Một trong ba người đó bị thương ở vai. Xa hơn môt chút, có một T.54 bị hạ, nằm phơi xác dưới một góc mái hiên đổ sụp. Cách đó vài thước, trước một hiệu thuốc tây vỡ kính, có một chiến xa của Miền Nam pháo tháp mở rộng, đầu chiến xa bị một viên đạn bộc phá B.40, đứt hết xích, giống như một con quái vật nằm bất động. Tất cả những tiệm buôn chung quanh chợ đều bị đạn pháo binh quạt sập đổ xuống hết. Kim Long, một quán ăn lâu đời nhất của thành phố (nơi mà cách đây 30 năm binh sĩ của trung đoàn 22 bộ binh của người Pháp (22ème R.I.C.) thường đến đây để ăn hủ tiếu) đã sập chỉ còn là một đống gạch vụn bị cháy đen.
Bệnh viện chỉ còn là một cái vỏ nám đen vì khói. Rải rác trong sân là giường chiếu, dụng cụ y khoa, bô, bốc lẫn lộn khắp nơi với một số tử thi của bộ đội Bắc Việt mất tay mất chân mảnh vụn vung vãi ra cùng khắp.
Cạnh bên chợ về phía rừng, một xe ủi đất đang đào một đường dài độ một thước. Và anh em Biệt động quân đang xếp tất cả những tử thi và những gì còn rơi vãi trên chiến trường vừa qua. Một tuyên úy đi dài theo đó lẫm nhẫm đọc kinh cầu nguyện lần cuối cùng cho họ, sau đó xe ủi đất đẩy họ xuống hố và lấp đất lại.Tôi quay trở lại. Gần nhà thờ, dưới hai cây to mà cành lá đã gảy nát, có khoảng 30 binh sĩ bị thương nặng được cho nằm trên băng ca. Những chai huyết thanh được treo trên báng súng cắm thẳng đứng xuống đất bằng lưỡi lê, và từ đó các ống cao su truyền máu thẳng đến kim tiêm vào cho thương binh. Các y tá đang săn sóc cho họ và vừa đuổi ruồi cho họ vừa trò chuyện nho nhỏ với họ.
Tôi gặp tướng Đảo trước cửa Nhà Dòng. người ông nom ốm gầy , có vẻ mệt nhọc.
- "Chúng tôi đã đẩy lui được họ, ông nói. Đây là một thành quả tốt nhằm nâng cao tinh thần cho anh em binh sĩ và cho cả hậu phương.. Họ bỏ lại 400 xác trên trận địa và chúng tôi đã hạ được 9 chiến xa T.54, bắt được 20 tù binh trong đó có 1 sĩ quan . Nặng nhất là chiến trận ở gần phi trường, và phía sau nhà ga.. Bây giờ thì trận tuyến đã phát triển ở hướng Bắc và hướng Tây, trên cao nguyên Bình Lộc và chung quanh Gia Kiệm. Anh em phi công báo cho biết là lực lượng cộng sản Bắc Việt đang tập trung mạnh lắm ở Giá Rai. Anh em Dù đã giải tỏa được ngả ba Suzannah rồi. Tất cả người Pháp ở đồn điền S.I.P.H. đều an toàn. Các đồn điền cũng không bị thiệt hại gì sau các cuộc đụng độ ở đó."
Gia Kiệm với 40.000 dân. là một thị trấn rất phồn thịnh được mọc lên hai bên đường đi Dalat, cách Xuân Lộc khoảng 15 cây số. Ở đây nhà cửa tiệm tùng sung túc nằm san sát bên nhau, có rào dậu, có lũy tre. Dân chúng toàn là người công giáo di cư từ Miền Bắc, một lòng với nhau. Không một người lạ mặt nào lẻn vào được ở đây. Nếu cộng sản Bắc Việt tấn công vào đây thì nhất định sẽ bị thiệt hại lớn.
Vùng Giá Rai, nơi các đơn vị Bắc Việt tập trung nhiều nhất, nhờ dựa lưng vào vùng rừng bụi của núi Chứa Chang, một ngọn núi đất cao khoảng 900 thước, trên đó có gần 3000 giống thảo mộc nhiệt đới mà Viện Khoa Học Sai Gòn đã ra công gìn giữ. Ngọn núi nầy là một đài quan sát rất lý tưởng, và dựa vào khu rừng của ngọn núi nầy, cộng sản có thể sẽ tung ra một cuộc tấn công mới từ phía Đông vào Xuân Lộc.
Vào lúc 5 giờ chiều có một chiếc xe vận tải nhẹ đi liên lạc với Trảng Bom. Tôi nhảy lên xe đó. Ngã ba Suzannah được đơn vị Dù trấn giữ, nằm kín trong hố cá nhân, và một số chiến xa thuộc lữ đoàn 3 Thiết Giáp. Có nhiều xe đã đi phía trước chúng tôi . Đi được khoảng 3 cây số, cách chúng tôi độ hơn 100 thước, một chiếc xe chở dân chúng bị trúng một quả đạn pháo. Tiếp theo tiếng nỗ chói tai là bụi, lửa bắn lên tung tóe. Cả chiếc xe và những người hành khách trên xe đều không còn gì cả ! Chỉ còn trên đường một chấm đen lớn, và vung vãi thịt xương tóc tai của người chết và mấy mảnh kim khí của hộp số.. Và như vậy là chỉ trong có một giây đồng hồ, mà trên 20 người dân vô tội đã bị xóa hẳn tên trong danh sách người Việt.
Ở Việt Nam chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần hằng ngày. Làm sao mà dân tộc nầy, một dân tộc đã bị quá nhiều đau khổ, chết chóc, đã từng bị xua đuổi khỏi thành phố của họ với đất đai làng mạc mồ mả bị tàn phá, mà người ta vẫn còn chém giết nhau mãi như vậy dai dẳng năm nầy qua năm khác một cách bền bỉ và dã man như vậy được ?
Ai sẽ là người chấm dứt được chuyện nầy vĩnh viễn một ngày nào đó, chấm dứt được cơn ác mộng đẩm máu và đáng ghê tởm nầy cho người dân vô tội?
CHƯƠNG 10: "CHÚNG TÔI KHÔNG HÈN NHÁT
CHÚNG TÔI KHÔNG SỢ CHẾT"

Thứ Hai, ngày 14 tháng Tư, 1975
Vừa là Chủ Tịch "Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam", một tổng liên đoàn rất hùng mạnh vừa là Phó Chủ Tịch Tổng Công Đoàn Công Giáo Quốc Tế, ông Trần quốc Bửu là một người rất có quyền lực và rất được kính nể. Ở vào trạc tuổi 60, người tuy có hơi gầy nhưng rắn chắc với đôi mắt sáng ngời, ông luôn luôn ăn mặc rất giản dị với chiếc quần dài màu xám và một chiếc áo bốn túi nhẹ bỏ ngoài.
Vừa tranh đấu cho lý tưởng quốc gia vừa tranh đấu cho công đoàn, bị lưu đày ra Côn Sơn trong thập niên 40, ở đó ông từng ở chung phòng giam với Lê Duẫn, hiện là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông đã vượt ngục và chỉ huy toán "đặc công 25" nổi danh của ông trong thời gian trên 5 năm kháng chiến chống Pháp.
Bị tướng một mắt Nguyễn Bình và đội an ninh chánh trị cộng sản hăm dọa tử hình, vì ông không chịu gia nhập đảng, ông về Sai Gòn năm 1951 và qua Pháp. Ở đó ông theo học khóa công đoàn từ 1952 đến 1954 ở đường Montholon, Ba Lê với Tổng Liên Đoàn Lao Công Pháp (C.F.T.C.).
Về lại Sai Gòn, ông thành lập Tổng Công Đoàn Lao Công Việt Nam (C.T.V.), nơi tập trung 85% lao công Việt Nam .
Tổ chức của ông rất vững mạnh, uy tín và đức tánh bình dân của ông trong giới cần lao đã giúp ông có nhiều sự nâng đỡ từ các công đoàn Hoa Kỳ. Cả phía cộng sản cũng muốn chiêu dụ ông. Lê Duẫn người đã từng ở chung nhà lao với ông ở Côn Sơn, bây giờ là tổng bí thư đảng CSV N đã gởi cho ông một bức thư riêng để yêu cầu ông đừng đứng chung với "bọn tư bản", phải giữ "thế trung lập" hoặc"về với chánh nghĩa cách mạng". Ông Bửu đã trả lời thẳng thừng: "Kinh nghiệm mà tôi đã có được với phương pháp của ông, và với lòng tôn kính của tôi đối với quốc gia dân tộc của chúng ta không cho phép tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản là giải đáp duy nhất cho nguyện vọng của dân tộc chúng ta". Do đó cộng sản đã nhiều lần mưu sát ông nhưng không thành.
Trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam nằm ở số 14 đại lộ Lê văn Duyệt (đường Verdun cũ) trong môt tòa nhà kiếng lớn, nóc nhọn thềm cao, kiến trúc theo kiểu Pháp, trước kia là trụ sở của Câu lạc Bộ Thể Thao Đông Dương.
Ông Trần quốc Bửu tiếp tôi trong phòng làm việc của ông, một căn phòng rộng lớn sáng sủa, có một bàn lớn và một số ghế dựa. Trên tường có treo một bức tranh lụa với hình một con trâu màu xám tro, mõm to, chân đứng dưới ruộng lúa (biểu tượng của Tổng Liên Đoàn là con trâu trong một bánh xe có răng cưa). Trên một giá đầy sách có treo hình một sĩ quan Việt Nam còn trẻ, có cài một băng đen trên chéo góc. Ông Trần quốc Bửu bắt gặp cái nhìn của tôi, liền giải thích :
-"Đó là hình của con trai tôi. tử trận hồi tháng 10 vừa qua. Thằng nhỏ đẹp trai quá, phải không ? Nó là một đứa rất gan dạ, thông minh và thẳng tánh. Môn nào nó cũng thành công, học hành, thể thao, và đường đời nữa. Nó có vợ rất đẹp và nhu mì, và một đứa con trai năm nay 3 tuổi. Nó chỉ huy một đại đội và đóng đồn trong quận lỵ của một quận thuộc tỉnh Bà rịa. Nó mới vừa được 27 tuổi thì....
Nói tới đây ông Bửu lắc đầu nhè nhẹ, ngưng một vài giây và tiếp tục với một giọng thật rõ ràng, chậm rãi và có mức độ.
"Tôi muốn nói cho anh nghe về thằng con trai nầy, anh Pierre ạ. Con trai tôi đã chọn quân đội, không phải vì nó ham chiến tranh, mà vì chúng ta đang ở trong thời chiến. Nó đánh đấm cũng khá lắm và đã được khá nhiều huy chương. Chúng tôi khắng khít với nhau lắm. Nó thường viết thư cho tôi. Vài tháng trước khi chết, nó đã tỏ ra rất băn khoăn lo lắng, có lúc hoảng sợ nữa. Trong những ngày đầu của tháng 10, nó có gởi cho tôi một lá thư, để tôi đọc cho anh nghe .
Trần quốc Bửu lấy trong ví ra 3 tờ giấy mà ông đã xếp thật cẩn thận và ông bắt đầu đọc:
- " Ba kính yêu,
Trong tiểu khu của con tình hình đã đi xuống. Không phải vì dân chúng đã ngả theo sự tuyên truyền của "phía bên kia", mà tại vì chúng tôi đang thiếu phương tiện để chiến đấu. Mấy anh nông dân trong hàng ngũ "nhân dân tự vệ" không có đủ đạn cho súng của họ, và họ còn phải tìm mua lựu đạn của mấy anh lính chánh quy, thường ít đụng trận hơn họ. Phần các đơn vị chánh quy thì không phải họ tránh chạm súng, mà cứ mỗi lần chạm địch, môt địch quân hơn hẳn họ cả về chiến cụ lẫn đạn dược, nên họ cứ bị tổn thất thật nặng.
Để Ba hiểu rõ hơn tình hình của tụi con, con phải giải thích cho Ba nghe một vài điểm về kỹ thuật. Cộng sản Bắc Việt thì dùng chiến xa T. 54 và đại bác 130 ly của Liên Xô. T.54 là loại chiến xa rất năng động, tuy thô kệch nhưng được bọc sắt rất dày và võ trang hùng mạnh: một đại bác 100 ly lòng dài với 34 quả đạn trong xe, 2 liên thanh 30 ly, và một liên thanh 50 ly, có tầm hoạt động 400 cây số đường bán kính. Trong trường hợp tấn công, tụi con chỉ có ống phóng M.72 (loại ba-zô-ca chống chiến xa). Súng nầy chỉ xử dụng có một lần, bắn xong là phải vứt ống phóng đi, và nó chỉ thật sự hữu hiệu trong vòng 100 thước mà thôi. Do đó mình phải bắn chiến xa địch trên bộ, thật gần, mới trúng đích được . Có nghĩa là mình phải đi bộ đến trong tầm tác xạ chính xác của vũ khí tự động trên chiến xa địch, để cho người ta giết chết mình ... mà không chắc là mình sẽ hạ được nó. Trên thực tế muốn tiến sát đến gần chiến xa thường rất là khó, gần như không thể được, vì lúc nào chiến xa cũng có "bộ binh tùng thiết" đi mở đường cho nó và bảo vệ nó. Còn pháo binh 130 ly dù là một loại vũ khí xưa, cũ, trên 20 năm rồi nhưng là một vũ khí đáng sợ. Nặng khoản 8 tấn, được xe xích kéo, có tầm tác xạ tới 27 cây số và có thể bắn đi 6 quả đạn trong một phút. Chỉ cần có 3 khẩu pháo 130 dấu kín trong rừng, và với 1 giờ tác xạ (1000 quả đạn thôi) cũng đủ đánh sập quận lỵ của bất cứ một quận nào. Đạn pháo 130 ly có thể phá vỡ một miếng thép dày 27 ly, cho nên không có một kiến trúc nào, một công sự nào chịu nổi sức công phá của loại pháo nầy. Dân chúng bỏ chạy hết và quân đội của tụi con không thể nào chống trả mà không bị thiệt hại nặng vì chúng tôi chỉ có pháo binh 105 ly với tầm tác xạ ngắn hơn nhiều , và đạn pháo thì được đếm từng quả, 3 viên cho một khẩu trong một ngày, trong lúc địch thì được tiếp tế quá dồi dào về đạn dược.
Để khóa miệng mấy khẩu pháo binh cộng sản nầy, chúng ta bắt buộc phải có ưu thế tuyệt đối về Không quân. Điều nầy rất đúng trên lý thuyết, nhưng hoàn toàn sai trên thực tế.. Từ khi có cuộc khủng khoảng xăng dầu, trực thăng quan sát và thám thính của chúng ta chỉ được phép bay có 3 giờ mỗi ngày. Ngoài ra cộng sản còn được trang bị hoả tiễn tầm nhiệt S.A.7 rất dễ xử dụng và rất chính xác để vô hiệu hóa các loại phi cơ của chúng ta .
Thưa Ba yêu quý,
Con biết rằng Ba có nhiều mối liên hệ với người Mỹ. Cương vị Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động của Ba sẽ giúp Ba có tiếng nói mạnh hơn. Ba phải giải thích cho họ hiểu rằng tình hình ở đây đã rất là nghiêm trọng lắm rồi. Họ phải cung cấp cho chúng ta vũ khí cần thiết, như hỏa tiễn Tows trên thớt cơ động, và trực thăng võ trang "cobra" trang bị chuyên về chống chiến xa. Họ có hết các thứ nầy mà tại sao họ từ chối ? Họ phải viện trợ cho chúng ta về quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Tôi yêu cầu Ba, Ba ơi, Ba hãy can thiệp với họ. Nếu không thì chúng ta sẽ bị đè bẹp và bại trận ngay. Chúng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Chúng tôi không bao giờ sợ chết. Với điều kiện là còn giữ được một cơ may để chiến thắng, hay là để chống cự với cộng sản có hiệu quả.
Xin Ba tha lỗi cho con vì bắt Ba phải nghe một tờ trình quân sự quá dài dòng. Trong tiểu khu của con, số lần chạm súng và số lần tác xạ của pháo binh tăng lên theo cấp số nhân. Dù sao thì con cũng giữ được đồn của con và con sẽ không rút đi đâu hết..... dĩ nhiên là vẫn còn sống. Binh sĩ của con theo con, và dân chúng vẫn tin tưởng nơi chúng con.
Đứa con lúc nào cũng kính mến và trung thành của Ba"
Ông Bửu từ từ xếp lá thư lại, đằng hắng để lấy giọng và để dằn cơn xúc cảm lại rồi mới tiếp tục:
- " Tất cả mọi thất bại của chúng tôi đều được gói gọn trong những hàng nầy. Tôi nhận được thư nầy của con tôi sau chuyến đi thăm Á Châu và Âu Châu của tôi trở về. Khi tôi đọc được lá thư nầy thì con tôi đã tử trận được3 ngày rồi.
- Ông có nói gì cho người Mỹ họ nghe không ?
- Dĩ nhiên là có. Tôi đã gặp Đại sứ Martin, và các tùy viên quân sự Hoa Kỳ . Tôi cũng có viết thư qua Mỹ. Không có người nào nghi ngờ về những tin tức của tôi. Ông Đại sứ và các tùy viên quân sự đã có ghi chú đầy đủ, và tôi cũng nhận thấy thực tình họ đang quá bận rộn. Nhưng không thấy có ai làm gì hết, tôi muốn nói là họ không có một biện pháp cụ thể nào cả.
- Như vậy cái gì sẽ xảy ra ?
- Chuyện gì cũng được hết ! Các ông dân cử chắc sẽ nhúc nhích.Tổng Thống Ford sẽ có những lời tuyên bố dễ nghe. Quốc Hội sẽ kéo dài các cuộc tranh cãi để khỏi phải chuẩn chi ngân khoản viện trợ. Ông Thiệu sẽ ra đi hay sẽ để bị ám sát. Các sĩ quan và binh sĩ trẻ và tự hào như con trai tôi sẽ bị hy sinh vì danh dự, hay vì để kéo dài thêm thời gian cho một vài chánh trị gia tự phụ kịp leo lên nắm quyền, Đủ thời gian để dàn dựng một kịch bản tưởng như bất thần được ứng biến, mà thật ra đã được viết sẵn từ lâu.. Người Mỹ sẽ đóng cửa các văn phòng cuối cùng của họ. Hạm đội 7 sẽ có mặt tuần rỏn ở biển Đông.
Rồi cộng sản sẽ chiếm Sai Gòn . Và tất cả lỗi đều sẽ được đổ hết cho chúng tôi !!.
°
°
"Đây thật đúng là thời điểm để trở lại nhận xét nghiêm túc về Hiệp Định Paris . Chế độ cảnh sát và quân đội của ông Thiệu phải nhường chỗ cho những người đại diện, có trách nhiệm và xứng đáng hơn, để họ bắt đầu một cuộc nói chuyện thành thực và nghiêm chỉnh với cộng sản trước khi đã quá trễ. "
Người nói với tôi lời tuyên bố nầy là Nghị sĩ Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật xuất thân từ trường Đại Học Luật khoa ở Paris, (đúng như tấm biển treo trước văn phòng luật sư của ông), và Chủ Tịch Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia, một phong trào của Phật giáo quy tụ những người chống đối dai dẳng nhứt của ông Thiệu.
Nhỏ người, tròn trịa, khoảng sáu mươi, hay lăng xăng quậy phá, với gương mặt xương xẩu và giọng nói thanh tao kỳ lạ, là luật sư cho các công ty xăng dầu (Shell và Socony) , ông Mẫu là một người giàu có và liến thoắng, khôn khéo và cơ hội chủ nghĩa hơn là thành thực và quả cảm. Dân Sai Gòn không hề thích ông, một phần vì ông gốc người Miền Bắc, một phần vì họ thấy ông kiêu căng và xảo trá. Dù sao thì ông cũng thông minh và lanh lợi. Ông đã từng là Tổng trưởng Ngoại giao của Tổng Thống Ngô đình Diệm, đã nhiệt tình và hết lòng phục vụ Tổng Thống Diệm và ủng hộ đường lối cương quyết chống cộng, nhưng sau đó, khi có cuộc khủng khoảng Phật Giáo, ông tự từ chức và cạo đầu để chứng tỏ một lòng với sự tranh đấu của các sư sãi. Ba tháng sau đó thì Tổng Thống Diệm bị sát hại.
Tin chắc là Phật tử đang cần có một người "lãnh đạo thực sự" nên ông Mẫu đi sát với các sư cốt cán của chùa Ấn Quang, những người chống đối tất cả mọi hình thức của chế độ quân nhân, và với sự yểm trợ của họ, ông đắc cử Nghị sĩ.
Trước hết ông đụng ngay ông tướng Kỳ, sau đó mới tới ông Thiệu.
Cuối năm 1973, lúc ông Thiệu định cho sửa đổi Hiến Pháp nhằm ra tranh cử Tổng Thống một nhiệm kỳ thứ ba, Vũ văn Mẫu lại cạo đầu một lần nữa để chống đối, và tuyên bố là chỉ để tóc lại "ngày nào mà chế độ độc tài được cáo chung" . Từ đó ông được thêm một biệt danh là "thợ cạo hàn thử biểu"
- "Ông Thiệu đã dối gạt tất cả mọi người, trừ tôi, Chỉ có một cách để chấm dứt cuộc chiến, là cho ông Thiệu đi và đưa tướng Minh lên thay thế ông ta. Ông Mẫu nói với tôi bằng một giọng lạ lùng của một cậu bé hỗn xược.
- Còn Hiến Pháp thì sao ?
Bằng một cử chỉ kiên quyết, ông gạt phăng luận cứ nầy:
- " Ông Thiệu đã vi phạm Hiến Pháp để tiếp tục chiến tranh. Ai cấm cản chúng tôi vi phạm Hiến Pháp để đem lại hòa bình ? Chúng tôi sẽ tìm được đa số tương tự để làm chuyện đó.
Và người nào sẽ là Thủ Tướng ?
- Tôi !
Luật sư Vũ văn Mẫu phá lên cười nắc nẻ có vẻ bực tức, sau đó làm mghiêm trở lại, và nói tiếp với một giọng tâm tình:
- Ông biết không, tôi tốt với tướng Minh lắm. Ông đã có nói với tôi là ông rất cần môt người giỏi về luật để bàn cãi với cộng sản... và ông đã nhắm vào tôi.
- Ông tin thật là có thể thương thảo trong khuôn khổ Hiệp Định Paris à ?
Không có một căn bản nào khác để mà thương thảo, và đây là nghề của tôi, nghề bàn cãi, biện hộ, thuyết phục và ngay cả dùng mưu nữa. Tôi biết bênh vực cho một hồ sơ, tin tôi đi. Khó mà có thể bắt bí tôi lắm, tôi sẽ dùng một luận cứ mà không một ai dám làm. Một khi tôi lên rồi, tôi sẽ đòi hỏi tất cả người Mỹ phải rời khỏi ngay đất nước nầy trong vòng 24 tiếng đồng hồ, và ông hãy tin tôi đi, họ sẽ đi ngay cho ông xem ! Ông có vẻ hoài nghi hả ? ông sai rồi. Đây nầy, tôi cho ông một cái hẹn trước ba tuần lễ ở Dinh Độc Lập. Tôi sẽ là Thủ Tướng, tôi sẽ tiếp ông, và chừng đó ông sẽ thấy là tôi giữ lời hứa của tôi.
Vô liêm sỉ?... hay là biết chắc một trò chơi mà ông ta đã nắm được những con bài chủ nhưng không muốn trưng ra?
Tôi nghiêng về giả thuyết thứ hai. Vì Luật sư Vũ văn Mẫu là con người không bao giờ chịu liều lĩnh.
CHƯƠNG 11: VỚI ĐOÀN NGƯỜI CHẠY LOẠN
Thứ Ba, ngày 15 tháng Tư năm 1975
Sau một đợt nghỉ ngơi khoảng 30 giờ, trận chiến Xuân Lộc lại tái diễn. Từng đợt cách nhau khoảng 30 phút, hai trung đoàn cộng sản Bắc Việt được một tiểu đoàn chiến xa T.54 dẫn đầu tràn ra tấn công vào các vị trí của Biệt động quân và của sư đoàn 18 bộ binh .Bị đẩy lui với tổn thất nặng nề, hơn 1000 tử thương và 21 chiến xa bị hạ, họ lại tấn kích với một trung đoàn thứ ba, và trận chiến khốc liệt lại tiếp tục.
Sau khi lệnh giới nghiêm vừa chấm dứt tôi lại đi lên Biên Hòa. Ở đó tôi tìm lên được một chiếc xe vận tải chở đầy thùng cây đi Trãng Bom. Một khi lên ngồi giữa hai thùng cây rồi tôi mới khám phá ra đó toàn là những thùng lựu đạn và đạn được chở ra Tràng Bom. Nếu xe nầy mà lãnh một quả đạn pháo của Bắc Việt thì tất cả những bài toán về tài chánh của tôi đều tức khắc được giải quyết.
Trời quá nóng, cái nóng của mùa khô ờ đây, với ánh nắng chói chang trong vắt. Xe cộ đều để lại vết hằn trên đường nhựa đang mềm đi vì sức nóng. Hai bên đường nhìn mút mắt là những rẩy rau cải được trồng ngay ngắn từng ô vuông vắn ... Chúng tôi đi qua Hố Nai, một trấn nhỏ với 60000 dân công giáo di cư từ Miền Bắc vào năm 1954. Hai bên con đường chính dẫn vào trấn Hố Nai. có những tiệm buôn, những quán nhỏ bán đồ mỹ nghệ, và có một ngôi thánh đường hùng vĩ nằm ngay sau một bồn cỏ tròn, nơi đó các trẻ em đang chơi, quanh 3 linh mục mặc áo dòng đen.
Chiếc xe vọt lên con đường dẫn đến một khu đồi. Hai chục cây số nữa là đến Trãng Bom rồi. Có mấy chiếc trực thăng đang lượn quanh, mấy hàng binh sĩ đội nón sắt, và hai pháo đội 155 ly , tất cả đang trong cảnh ì ầm của chiến trận. Có nhiều chiến xa lớn, mang đầy cành lá, đại bác chĩa ra phía trước, đang tung tăng trong một đám bụi như có mùi thuốc súng. Còn vài cây số nữa thì đến thị trấn, xe của tôi phải ngừng lại một lúc ở một ụ đất được đấp lên trước một tượng đài bằng đá, dựng lên để kỷ niệm cho những người thợ rừng đầu tiên người Pháp chết ở Nam Kỳ (nguyên tác: Cochinchine). Ngày xưa ở phía sau tượng đài nầy là một trong những vườn bách thảo phong phú nhất ở vùng Đông Nam Á: có đến 6000 loại cây giống, cây kiểng, và lan quí, đã được chọn trồng trong gần 70 năm. Bây giờ thì không còn gì nữa cả , vì vào năm 1968, người Mỹ đã ủi bỏ và đốt sạch để cho hai bên đường được trống trải, dễ giữ an ninh cho các đoàn xe. Ở chỗ vườn cây giống bây giờ chỉ còn lại một bãi cỏ ngắn èo uột và vài cây chuối khô cằn.
Chiếc xe của tôi tiếp tục đi trong vòng 5 hay 6 cây số nữa giữa những làng xóm tiếp giáp nhau, sau đó rẽ sang trái, đi vào một con đường đất gồ ghề dẫn tới một lô trồng cao su. Giữa những hàng cây cao su cách nhau chừng 10 thườc, tôi thấy các chiến xa đang trấn giữ một khoảng đất trống khá rộng. Chạy đến khoảng trống đó chiếc xe của tôi ngừng lại và những anh lính thiết giáp còn trẻ cởi trần trùng trục chạy ra nhận các thùng đạn và lựu đạn tiếp tế. Tôi nhảy xuống đất. Hai xe cứu thương từ mặt trận đưa những thương binh về đây, các băng ca được khiêng đến một chiếc lều kaki lớn, ờ đó có một toán quân y lưu động đang làm việc. Anh em binh sĩ tản ra, tôi nhận ra được đại úy Niệm trên một băng ca, đại úy Biệt động quân mà tôi đã quá giang với ông hôm thứ sáu vừa qua. Mặt ông nhợt nhạt, đôi môi cắn chặt lại, ông bị mất bàn tay trái. Vết thương chưa được băng bó lại, trông thật là thiểu não, máu tươi thỉnh thoảng từ cánh tay bắn lên, và gân tay chỗ đó hình như nát hết. Tôi đi theo băng ca của ông đến toán quân y Tôi nắm thật chặt bàn tay mặt của ông, ông nhìn tôi, nhíu mày lại. Một đại úy quân y gạt tôi ra và nói: "Ông cứ để anh ta ở đây, tôi sẽ lo cho ông ta ngay." Tôi trở lại một trong những xe cứu thương đang trở ra đường và ngồi đằng sau với anh em khiêng cáng. Sàn xe nơi để các băng ca vương vãi đầy vết máu và đầy "cứt đái", xông lên một mùi nồng nặc, mùi hôi thúi của phần phía dưới bụng bị vỡ tung ra, gần như có mùi của sự chết chóc, của tử thần ...
Xe rẽ về trái và chạy về hướng lửa đạn của mặt trận. Độ chừng 15 phút sau chúng tôi ngừng lại. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn vì được thở không khí trong lành hơn. Chúng tôi đang ở ngay làng Hậu Nghĩa, làng cuối cùng trước khi đến Ngã ba Suzannah.
Nằm dài theo các hố bên dường, cách nhau chừng 5 thước một, hàng trăm binh sĩ đầu đội nón sắt đang hút thuốc nghỉ xả hơi chờ tiến ra trận. Toàn là những người vạm vở, lớn con, rạm nắng, và có đôi tay kệch cộm của người nông dân quen làm đất. Con đường hiện đang bị nghẽn vì một đoàn dân chạy loạn quá dài. Hàng ngàn người chạy giặc đang đi lần xuống Trãng Bom, hết làng nầy đến làng khác. Có những chiếc xe bò, có những xe ba bánh chở đầy đến bánh xe muốn sạt ra vì chở quá nhiều bao lúa quá nặng, có nhiều chiếc xe đạp đã chở cả 3 đứa con trên sườn trước rồi lại còn đèo thêm đứa thứ tư phía sau. Họ đến từ đường đi Dalat, tù Túc Trưng hay từ Gia Kiệm. Họ đi trong yên lặng, trang nghiêm đáng kính và nghèo khổ, vì họ đã bỏ hết tất cả lại sau lưng họ, từ làng mạc trù phú đến nhà cửa ruộng vườn, mùa màng của họ, và cả mồ mã của ông cha nữa.!.
Đoàn quân tiếp tục tiến tới và băng xuyên qua một miếng ruộng cỏ ngắn, có từng bờ đê vuông lác đác có vài đống đất khô nhỏ làm bụi đỏ tung lên theo bước chân của chúng tôi . Tôi tìm một sĩ quan và cuối cùng gặp được một người, đại úy Châu. Ông vừa đi vừa giải thích cho tôi nghe :
- " Cộng sản muốn bao vây Xuân Lộc và cắt đứt hậu tuyến của chúng tôi ở phía sau ngã ba Dầu Giây (tức Suzannah). Trực thăng chúng tôi đã đổ 1000 binh sĩ Dù xuống bìa rừng phía Tây của thị trấn nầy để tăng cường cho lực lượng phòng thủ ở đó. Hai trực thăng đã bị cao xạ phòng không Bắc Việt bắn rớt. Và lực lượng Dù đã chạm súng rất nặng, nhưng họ vẫn còn bám đất.
Hiện giờ chiến trận đang mở rộng trên 10 cây số về hướng Tây Bắc giữa Gia Kiệm và Suzsnnah. Hai bên đang đành nhau trên các đường xe be và trong các lô cao su. Cộng sản Bắc Việt đang cố cho bám chặt các trục di chuyển của chúng tôi bằng những toán đặc công được võ trang rất hùng hậu, và cố giữ chúng tôi để báo cho pháo binh của họ nện chúng tôi . Cách đây không đầy 7 cây số đang có một cuộc chạm súng lớn lắm , vậy ông đừng rời khỏi hàng quân nghen!"
Chúng tôi càng tiến tới thì càng nghe tiếng đại bác rõ hơn. Các phi cơ khu trục phóng pháo bay ngang chúng tôi thật thấp và chỉ vài giây sau tiếng rú là chúng tôi nghe được tiếng bom nổ điếc tai làm rung chuyển trận địa.. Các khu trục nối tiếp nhau từng đợt 3 chiếc một, cách khoảng nhau chừng 20 giây.
Chúng tôi tiến lên đã được hơn một giờ rồi. Con đường mòn đi sâu vào một rẽo đất có hàng tre già và vườn chuối bao quanh.Thình lình một tràng đạn pháo nổ trên con đường mòn trước mặt chúng tôi chừng vài chục thước. .
Anh em binh sĩ nhảy xuống mấy cái hố, đặt súng máy và bắn vào các hàng tre nhiều loạt đạn. Bộ đội Bắc Việt không còn xa nữa đâu. Tôi bám theo đại úy Châu. đang dùng máy truyền tin cho lệnh bố trí các trung đội của ông. Một số đạn pháo khác đang nổ trong bờ chuối, phạt ngã một số. Xuyên qua kẻ hở của vườn chuối vừa bị phạt ngã, tôi thấy có mấy cái nhà lá đang bốc cháy. những nhóm thường dân từ bốn phía chạy túa ra, đàn bà thì mặc đồ đen, đội nón lá, tay dắt con, tay xách bọc quần áo chạy băng ra đường mòn. Một chị bị một mảnh đạn vào bụng té sấp xuống phia trước như một con thỏ bị đạn trong lúc đang chạy. Một bé trai bị thương ở trán, máu chảy đỏ cả chiếc áo trắng của em, vừa đi, vừa run vừa khóc. Một em bé gái ốm yếu nắm vai em lại và dắt em đi .
Anh em binh sĩ đã tiến đến bờ dậu của mấy căn nhà lá đang cháy với tiếng lên cò súng nghe lắc cắc. Một số thường dân chạy túa ra từ các hầm trú ẩn và chạy xuyên qua cánh đồng. Họ lợi dụng sự tiến quân của binh lính Chánh Phủ để cố chạy ra thẳng quốc lộ trước mặt họ. Các khu trục phóng pháo cơ đang dùng đại bác yểm trợ quân bạn chừng trăm thước trước mặt chúng tôi. Có nhiều cột khói lên thẳng trên không trung. Hàng quân bị đạn bách kích pháo chận đứng lại. Có mộ số bị thương. Đại úy Châu nói nhanh với tôi :
- "Anh hãy đi với đám thường dân lánh nạn nầy đi. Không có gì ở đây đáng cho anh xem nữa đâu.. Rồi anh sẽ bị bắn gục như một con thú vậy. "
Và tôi quay gót trở lại con đường mòn, đi ra quốc lộ.
Trở lại con đường, qua khỏi bờ tre, đến cánh đồng trống, tôi nhập vào với đoàn người chạy di lánh nạn. Đoàn người quá dài đang sắp rời khòi cánh đồng. Có nhiều người bị thương, một ông già lạ thường với chiếc áo trắng và nón cối kiểu thực dân, đang lảo đảo đi vì một vết thương to bằng nấm tay trên vai . Ông đi chừng trăm thước là ngã quỵ xuống. Tôi cố gắng đở ông ta dậy, nhưng ông không còn nhúch nhích gì nữa, ông đã chết rồi ! Một bà mẹ đi ngang qua tôi, vai gánh một đôi gióng. Có một em bé phúng phính má bầu được cho ngồi trên một cái gối đặt ở một đầu gióng đang vô tư đùa nghịch theo nhịp đi của bà mẹ. Phía bên mặt của tôi cũng có một bà khác mặt mày biến dạng lơ láo vì lo sợ và đau khổ, vừa đi vừa lớn tiếng cầu nguyện. Bà ôm cứng đứa con gái khoảng 4 hay 5 tuổi vào lòng, bị trúng đạn ở đầu, tóc tai bê bết máu. Trông thật là thiểu não chịu không nổi !
Tôi đang ở đây, lẫn lộn với một dân tộc mà tôi rất thương. Tôi được sanh ra trong lòng dân tộc nầy, tôi lớn lên trên đất nước của họ phần nào cũng là đất nước của tôi, mà giờ đây tôi chỉ đứng nhìn họ đang đau khổ, đang chết dần mà không làm gì hơn được, chỉ biết cùng đi trên con đường này với họ mà không có một miếng thuốc, không có một cuốn băng, cũng không thể bế giùm một trong những đứa bé nầy, vì chúng hiện là tài sản quý báu nhất mà mẹ của chúng không lúc nào muốn buông ra, và tôi rất hiểu tâm trạng của họ. Nhưng mà tôi muốn kêu lên, muốn hét lên thật to để cho cả thế giới cùng được nghe: "Hãy để cho họ được sống ! hãy chấm dứt sự đau khổ của họ đi..! hãy xúm nhau lại để ra sức cố dập tắt giùm các họng súng đi....."
Nhưng làng mạc cứ thay nhau cháy ... hết làng nầy đến làng khác, như những bó đuốc.. và dân chúng nghèo khổ chạy trốn với con cái của họ, quá ray rức vì nỗi lo sợ. Tôi chỉ là một nhân chứng không có một chút quyền hành . Quá thất vọng, người mẹ ôm chặt đứa con gái bị thương chỉ còn biết kêu Trời, gọi Chúa xin Người hãy ban cho sự cứu giúp.
Cuối cùng thì đoàn người lánh nạn cũng ra đến quốc lộ. Có nhiều xe vận tải đang chờ họ. Một số Dân vệ và sinh viên công giáo tình nguyện từ Hố Nai đến, đã giúp đưa họ lên xe.
Đối với những người nầy, coi như cơn ác mộng tạm chấm dứt. Nhưng còn những người khác, hằng ngàn người khác còn đang lang thang trong rừng nằm giữa hai lằn đạn của đơn vị Dù và bộ đội Bắc Việt, dưới tầm đại bác của các chiến xa đang bắn nhau, dưới các quả đạn của bách kích pháo, của pháo binh, của hỏa tiễn, và cả dưới bom đạn của phi cơ. Họ đang kẹt cứng trong cái bẫy sập của hai bên Miền Nam và Miền Bắc đang ra sức hăng say tiêu diệt lẫn nhau ...
Đến Trãng Bom, lúc tôi rời khỏi đoàn dân lánh nạn mà không có đủ can đảm dám nói với họ được nửa lời, thì một thiếu tá chỉ huy một đơn vị Dù tưởng tôi là một nhà báo Mỹ chụp cổ tôi và cho tôi một câu với một giọng khinh bĩ : " Ê ! Nầy anh Mỹ kia, ở chiến trường về, anh hãy viết rõ trong tờ báo của anh là lính Dù Miền Nam chúng tôi không cần phải có đô la mới có đủ can đảm chết cho Đất nước chúng tôi đâu nghen !"
°
°
Thủ đô Phnom Penh đang trong cơn hấp hối. Quân Khmer Đỏ chỉ còn 5 cây số nữa là đến phi trường Pochentong, một phi trường mà họ đang nện bằng bách kích pháo hạng nặng và các loại Súng Không Zdật (SKZ) Các phi cơ vận tải loại nặng của Hoa Kỳ còn có nhiệm vụ tiếp tế cho Thủ đô nầy, đáp xuống mà vẫn cho máy nổ, bỏ hàng xuống thật nhanh trong vài phút xong cất cánh bay lên ngay, dưới những tràng đạn pháo.
Tất cả nhân viên dân sự người Campuchia làm việc cho phi trường đều nghỉ hết. Việc hướng dẫn cho phi cơ Mỹ đáp xuống được tiến hành bằng các đài kiểm soát không lưu lưu động được thiết lập tạm dưới đất, trên các nạn chống, tháo ráp ra được . Tòa đại sứ Hoa Kỳ, cơ sở ngoại giao duy nhất còn làm việc ở Nam Vang, đã cho di tản hết ba phần tư nhân viên và tất cả hồ sơ lưu trữ. Phần lớn các nhà báo đều đã rời khỏi đây.
Các bệnh viện đầy người bị thương, chất nằm trên băng ca đặt ờ ngoài các hàng hiên. Dân chúng, điềm nhiên và thụ động, lo chôn cất những người chết một cách yên lặng. Những người dân chạy loạn tiếp tục đổ về đây, che lều trại bằng ván thùng, bằng giấy bồi hay bất cứ thứ gì mà họ kiếm được kể cả lá chuối và những mảnh tôn vụn , và nằm tràn lan khắp các lề đường. Đôi khi, sau một tiếng nổ khủng khiếp, một quả đạn hỏa tiễn cuốn phăng đi cả hàng chục căn lều tạm bợ nầy, vứt ra đường những mãnh vụn của thân người nát bét cùng với nồi niêu, ván, gổ.. giữa những vũng máu tươi to lớn.
Dửng dưng với thảm cảnh chung quanh chúng, những con bò sữa đói khát đang tìm gậm vài cọng cỏ hiếm hoi trong các công viên. Tất cả các xe cộ nhất là các mô tô và xcutơ đã không còn chạy được nữa vì không có xăng, được dành cho xe vận tải công cộng và quân xa..
Chánh Phủ đã mang về từ Kompong Cham và Siemreap 8000 quân nhân để tăng cường và hiện có 30 tiểu đoàn đang nằm chung quanh thủ đô.. Nhờ có cầu không vận, họ còn được 20 ngày lương thực và đạn dược, Từ khi chiếm được Neak Luông, một vị trí then chốt trên sông Cửu Long, quân Khmer Đỏ đang sẵn sàng dàn hàng ngang đến 60 tiểu đoàn. Quân trú phòng Neak Luông đã chống cự suốt trong hai tháng nhưng cuối cùng vị trí nầy đã thất thủ ngày 1 tháng 4 trong những điều kiện hơi phi lý.
Ngày đó, vào lúc 12 giờ trưa, thống tướng Lon Nol từ dinh Chamcar-Mon dùng trực thăng bay ra phi trường Pochentong để rời vĩnh viễn khỏi Campuchia trên một phi cơ Hoa Kỳ . Một tiếng đồng hồ trước khi ông rời khỏi sân bay, tất cả các đơn vị Không quân chiến đấu của Campuchia (trên 30 chiếc khu trục T.28) đều nhận được lệnh cấm bay vì lý do an ninh (sợ họ mưu sát thống tướng Lon Nol) nên tất cả đều nằm bất động tại chỗ dưới đất.
Vào lúc 12 giờ 15, tướng Limsi- Seath chỉ huy căn cứ NeakLuong, nơi binh sĩ vừa đẩy lui một cuộc tấn công của Khmer Đỏ dữ dội đến độ có lúc phải đánh xáp lá cà, đã lên tiếng trên máy truyền tin :
"Tôi đòi hỏi một sự yểm trỡ cao độ của tất cả các khu trục còn xử dụng được để đánh mạnh địch quân trước khi họ tái tổ chức được trên tuyến xuất phát và trở lại tấn công chúng tôi. Đó là cơ may duy nhất để giữ vững được Neak Luong, nếu không thì tối đa chỉ trong hai giờ nữa thôi thì chúng tôi sẽ bị tràn ngập."
Bộ Tổng Tham Mưu của Phnom Penh chỉ biết trả lời là "Do lệnh thượng cấp, các khu trục không được cất cánh"
Và như thế là 2 giờ sau đó, Neak Luong thất thủ. Tướng Limsi-Seat bị thương, 80 sĩ quan và 2000 binh sĩ bị bắt làm tù binh với cả pháo đội 6 khẩu 105 ly.
Quân Khmer Đỏ dùng 6 khẩu pháo 105 ly đó để bắn vào thủ đô coi như để dọn đường chuẫn bị cho trận tấn kích cuối cùng của họ vào Phnom Penh. Họ hy vọng chiếm được thủ đô trong dịp đầu năm âm lịch của họ (từ 13 đến 15 tháng 4 dương lịch). Như vậy là quân thủ thành sấp được hưởng một cái Tết hứa hẹn là sẽ khủng khiếp và đầy tang tóc vì họ đang bị vây khổn trong một cái rọ sắt đầy lửa.
Chiếc hàng không mẫu hạm Okinawa (chuyên chở trực thăng) đậu tại cảng Kompong Som (trước kia là Sihanouk-ville) với 120 trực thăng và 900 Thủy quân lục chiến, sẽ can thiệp để bảo đảm sự "di tản" trong vòng trật tự và an toàn của 80 hay 90 người Mỹ còn đang có mặt tại Phnom Penh. Dĩ nhiên họ cũng sẽ lo cho một vài nhân vật Campuchia nào đã dính sâu vào cuộc chiến và những người khá giả giàu có.
Nhưng còn 3 triệu người dân tị nạn đã bỏ tỉnh bỏ làng chạy loạn, bỏ hết tất cả.... để "chọn tự do" và cần có sự bảo vệ của những người thuộc chế độ Cộng Hòa "đồng minh của Hoa Kỳ" thì phải ở lại trong cái bẫy đang từ từ đóng sập xuống trên đầu họ. Đó là những nông dân nghèo khổ, chất phát và dễ tin. Vả lại, họ sẽ làm được gì nếu người ta mang họ ra ngoại quốc ? Họ không biết nói tiếng Anh, Họ lại không có tiền và cũng không có một ai là thân nhân ở đó ? Họ không có con còn nhỏ và trần truồng mà họ chỉ ôm trong tay những bình tro hài cốt mà họ sẽ đem đi chôn ở các chùa. Tro cốt của những người đàn ông rạm nắng vì phải lội sình hằng ngày dưới ruộng sâu, đi theo sau những con trâu đen mập mạp nhưng ngu đần, không có thì giờ để kịp nghe theo lệnh gọi lên tỉnh thành để nhập ngũ đánh đuổi giặc "Việt Nam xăm lược" ! Họ đã giết người Khmer và chết vì bị người Khmer giết, và không một ai biết được, hay vì họ không muốn và cũng không cần biết, biết tại sao họ chết, chết cho ai hay chết bằng cách nào ....

No comments:

Post a Comment