Saturday, June 7, 2014

MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ? PIERRE DARCOURT – DƯƠNG HIẾU NGHĨA DỊCH - Phần 5

CHƯƠNG 17: ĐẾN LƯỢT ĐẠI SỨ M. MÉRILLON LÊN SÂN KHẤU
Thứ Ba, ngày 22 tháng Tư
Với sự thờ ơ nhẫn nại trên đường phố Sài Gòn, với sự bối rối ở Hoa Thạnh Đốn , với sự kín đáo ở Mạc Tư Khoa , với niềm hy vọng ở Ba Lê, với sự từ chức của Tổng Thống Thiệu được loan báo chiều hôm qua. . . cho tới giờ nầy chỉ thấy có phản ứng vừa phải ở khắp mọi nơi thôi. Trên cả thế giới, chánh phủ nào bây giờ cũng chỉ chú ý đến những gì gọi là "biến cố sẽ xảy ra" mà thôi.
Đài phát thanh Sài Gòn chỉ đưa ra hai đoạn trích dẫn từ những bài bình luận đầu tiên của báo chí ngoại quốc:
° Của tờ "Thời Báo Nữu Ước" (New York Times) ở Hoa Kỳ :
-"Sự từ nhiệm của Nguyễn văn Thiệu trong chức vụ Tổng Thống V NCH đã làm giảm đi khả năng sẽ có một cuộc chiến đẫm máu dẫn đến sự "kết thúc" (nguyên văn của tác giả: "finish" bằng tiếng Mỹ, trong dấu ngoặc).. Các bên hiện diện của Việt Nam cuối cùng sẽ có một cơ hội thiết thực để tìm đến một giải pháp phù hợp với các điều khoản của Hiệp Định Ba Lê năm 1973"
° Của tờ "Thời Báo" (Times) ở Luân Đôn :
-"Ai đã phản bội ? người nào ? Đây là một câu hỏi rắc rối. Từ đây không còn nghi ngờ gì nữa là Chánh Phủ Hoa Kỳ rõ ràng đã có trao hẳn hòi cho Tổng Thống Thiệu những sự bảo đảm trong trường hợp tối cần thiết.. Tổng Thống Thiệu đã có hành động đúng khi ông tuyên bố rút lui vì quyền lợi của đất nước của ông ta, để mở đường cho những cuộc đàm phán....."
Câu hỏi mà mọi người đều đặt ra chỉ vỏn vẹn là : "Tổng Thống Trần văn Hương, người được chỉ định thay thế ông Thiệu, theo đúng Hiến Pháp Việt Nam, sẽ giữ được chánh quyền được bao nhiêu thời gian nữa?"
Ông Trần văn Hương, người thay thế ông Thiệu, là một ông già 72 tuổi, người đau yếu được may mắn qua khỏi bệnh bướu tim, có một dáng đi nặng nề và có tính hay do dự, luôn đeo kính râm dày để che dấu và bảo vệ cặp mắt hơn là sợ ánh sáng. Vốn sanh trưởng ở tỉnh Vĩnh Long, cha là một ông giáo và mẹ là người bán hàng, ông cũng trở thành một giáo viên, và sau đó là một thanh tra tiểu học, ông bước vào con đường chánh trị ngay sau khi Thế chiến Hai chấm dứt, và được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Tỉnh Tây Ninh trước khi được chỉ định vào chức vụ Thị Trưởng Sài Gòn . Liêm khiết và không ngại ngùng, với chiếc xe đạp hay bằng một chiếc xe 4 ngựa cũ kỹ loại vá víu, ông đi khắp mọi nơi, đến với mọi người, với mọi yêu cầu có tính cách nhân đạo, ông cũng tiếp những người nghèo hơn người giàu sang nên từ đó rất nhanh chóng được nổi tiếng là một người bình dân.
Ông chỉ giữ chức vụ nầy có 2 năm, và mặc dầu đứng ngoài chế độ của ông Diệm, ông vẫn bị bắt năm 1961 vì đã ký tên vào một bản tuyên ngôn chống Chánh Phủ .
Năm 1964, ông Hương trở lại chính trường sau khi ông Diệm bị các tướng lãnh lật đổ. Ông được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định làm Thủ Tướng Chánh Phủ , nhưng ba tháng sau đó ông bắt buộc phải từ chức vì áp lực của Phật Tử và của tướng Nguyễn cao Kỳ.
Sau thời gian 4 năm về hưu mới nầy, năm 1967 ông lại có mặt trên chính trường, với tư cách là ứng cử viên Tổng Thống, đối lập với Tướng Thiệu, nhưng không hề chỉ trích cá nhân Tướng Thiệu trong thời gian tranh cử.. Nhờ vậy vài tháng sau đó ông lại được Tổng Thống Thiệu trọng dụng, mời ông thành lập Chánh Phủ. Sau nhiều lần cải tổ, ông mới thành lập xong Chánh Phủ và ông là Thủ Tướng. Nhưng đến tháng 8 năm 1969, Thủ Tướng Trần thiện Khiêm lại thay thế ông. Đến năm 1971 ông được Tổng Thống Thiệu chọn đứng chung liên danh ứng cử Tổng Thống và từ đó ông mới là Phó Tổng Thống.
Có nhiều dư luận đồn đại ở Sài Gòn theo đó thì trong tương lai lại đến lượt ông Hương phải từ chức Tổng Thống , giao lại cho ông Trần văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện., cựu Tổng Trưởng Ngoại Giao trong thời kỳ hòa đàm Ba Lê, và với chức vụ nầy ông Lắm là một trong những người đã ký Hiệp Định Paris 1973..
Nhưng các tin đồn ở Sài Gòn nầy thực hư cần phải được kiểm chứng lại.Vị nguyên thủ Quốc Gia mới nầy, người mà tôi đã có dịp tiếp xúc nhiều lần trong những năm gần đây, mặc dầu trong tình thế cấp bách, không phải là người chịu lấy quyết định một cách vội vã, Trái lại, ông còn phải có thì giờ để tham khảo, dò hỏi, tiếp các nhân sĩ, các nghị sĩ, các dân biểu, các tướng lãnh, các nhà ngoại giao để biết được ý kiến từng người , biết được lập luận của họ, vừa cân nhắc từng khả năng trước khi ông từ chức, vừa phải giữ đúng mọi hình thức thủ tục, để chọn người nào mà ông nhận định là có đủ khả năng nhất, có thế đứng mạnh nhất để có thể đứng ra đàm phán với kẻ thù.
Nhìn vào tuổi tác của ông, tình trạng sức khỏe của ông, với sự nghiên cứu tiểu sử của ông, người ta có thể suy đoán được ngay thái độ và cách xử sự của ông. Là một người có óc địa phương cứng rắn, được thấm nhuần luân lý Khổng Mạnh, lại được đào tạo trên trường đời, hấp thụ một nền công dân giáo dục và toàn loại văn chương tuyển lựa (thư viện của ông đầy sách của tác giả cổ điển Pháp), ông già cộng hòa cứng đầu, gắt gỏng và tỉ mỉ nầy biểu lộ một sự gắn bó với truyền thống và luật lệ. Nếu có nhiều lần cải vã ra trò cho thấy ông có chống đối Tổng Thống Thiệu, hay nếu ông thường tố cáo trên báo về tham nhũng và những hành động thái quá trong chiến tranh, nhưng ông không bao giờ tán thành chuyện thương lượng với cộng sản mà lúc nào ông cũng khăng khăng gọi "bọn xâm lược Miền Bắc" (nguyên tác:Tonkinois). Là người giữ Hiến Pháp , nếu được chỉ định phải xúc tiến việc thương lượng với kẻ thù, ông nghĩ là ông phải thi hành trong khuôn khổ của thể chế mà ông có bổn phận phải gìn giữ.. "Phía bên kia" hình như không sẵn sàng để cho ông thi hành điều đó một cách dễ dàng đâu.
Chỉ vài giờ sau khi ông Hương nhận chức, Hà Nội đã xẵng giọng nói rõ quan điểm của họ :"Sự từ chức của Nguyễn văn Thiệu chỉ là một mưu mẹo, một toan tính chánh trị nhằm duy trì chế độ Thiệu mà không có Thiệu. Thật sự không có gì thay đổi hết, và đương nhiên cuộc chiến vẫn phải được tiếp tục".
Vả lại nhất thời cộng sản không có một lý do nào để đi đến một thỏa hiệp. Họ luôn luôn nhấn mạnh là họ chiến đấu trên ba mặt trận : quân sự , chánh trị và ngoại giao.
Trên phương diện quân sự , họ đang ở thế mạnh. Nhưng Sài Gòn cũng vẫn còn vài đơn vị có khả năng bám chặt trận địa, và Miền Đồng Bằng sông Cửu Long vẫn chưa hề hấn gì cả. Như vậy , vì không muốn chiếm một thủ đô Miền Nam đổ nát , họ muốn thúc hối tiến trình của một sự sụp đổ của Chánh Phủ hiện hữu trên phương diện chánh trị , để đi đến một sự thay đổi thành phần của một Chánh Phủ mới có thể ra lệnh cho quân đội ngừng băn , giúp mở toang cửa thủ đô Sài Gòn và Đồng Bằng sông Cửu Long cho họ thong thả tiến vào mà không cần phải chiến đấu.
Cuộc đấu tranh chánh trị được cộng sản đưa lên hàng đầu: có nghĩa là cộng sản muốn đạt được Hiến Pháp của một Chánh Phủ hoàn toàn không có một người nào mà họ gọi là "bè lũ Mỹ Thiệu". Nhiệm vụ chính của "nội các hòa bình" đó tạo điều kiện dễ dàng cho sự ra đời của một "Hội Đồng Quốc Gia Hòa Hợp và Hòa Giải" mà theo Hiệp Định Paris Hội Đồng nầy sẽ sửa soạn cho cuộc bầu cử.. Theo Hiệp Định Paris thì Hội Đồng nầy sẽ gồm có ba thành phần (CPLTCHMN, Sài Gòn , và lực lượng trung lập), cộng sản sẽ không gặp một điều bất trắc nào mà chỉ hoàn toàn có lợi cho họ khi họ bám chặt vào phương thức hợp pháp nầy . Làm chủ được tiềm lực của Sài Gòn nhờ vào số phận hẩm hiu của vũ khí và sự bỏ rơi của người Mỹ, cộng sản đang ở vị thế chọn lựa và áp đặt điều kiện với Sài Gòn (họ muốn chọn ai thì chọn, muốn loại bỏ người nào không thích hợp với họ thì loại bỏ). Họ cũng tự cho mình có quyền kiểu đó để lựa chọn những nhân vật trung lập "tin cậy được" để đưa vào đại diện cho lực lượng thứ ba trong Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia tương lai.
Như vậy, trên phương diện "hình thức", Hiệp Định Paris sẽ coi như được họ tôn trọng, không ai có thể chê trách là cộng sản đã không thi hành đúng từng chữ trong Hiệp Định Paris trên phương diện chánh trị . Và như vậy họ cũng bảo đảm được những phê phán thuận lợi cho họ đối với dư luận quốc tế, bảo đảm được sự cộng tác của các nhà ngoại giao ngoại quốc đang lo ngại không tránh được một trận chiến đẫm máu trong thủ đô Sài Gòn.
Trong hiện tại, với những mặc cả khó khăn, những nhà chánh trị của Miền Nam đang bàn cãi nhắm tìm một người đối thoại khả dĩ có thể được phía cộng sản chấp nhận.
Tổng Thống Hương vừa bắt đầu tỏ thiện chí của mình bằng cách chấp nhận sự từ nhiệm của "Chánh Phủ chiến tranh" vừa mới được vị Tổng Thống tiền nhiệm chỉ định cách đây 12 ngày. Bây giờ Ông đang cố gắng liên lạc với những lãnh tụ khác của Miền Nam và với những nhà ngoại giao Mỹ và Pháp ở Sài Gòn , để tiến hành một sự thay đổi đường lối chánh trị mà phía cộng sản đòi hỏi. Nhưng ông Tổng Thống già nầy vẫn cứng rắn không chịu từ chức:
- "Tôi không có quyền buông bỏ tính cách hợp pháp của Quốc Gia nầy ( một điều mà ông thường nhắc đi nhắc lại) để trao cho một nhân vật không được dân chúng bầu lên. Thay vì chuyển giao quyền hành và trách nhiệm một cách bất hợp pháp, tôi muốn thành lập một tân Chánh Phủ hẳn hòi, không có một dấu ấn nào về đường lối trước kia, để họ có đầy đủ quyền hành mà đàm phán với bên kia. "
Trong sổ tay của Tổng Thống Hương, thấy có tên của ba người có thể là Thủ Tướng, cả ba đều là người Miền Nam , ông Trần văn Lắm, ông Nguyễn văn Huyền, và tướng Trần văn Đôn. Ông đã tiếp cả ba người , tuần tự từng người một.
- Ông Trần văn Lắm, là người sanh trưởng ở Chợ Lớn, 62 tuổi, đầu tròn trịa tóc chải nằm xuống thật kỹ lưỡng, gương mặt rất thản nhiên. Ông là một nhân sĩ ung dung, tự tin, với một tư thế hay giúp người . Ông đã học Dược ở Hà Nội và có một số vốn liếng khá lớn nhờ sản xuất và bán thuốc tây. Ông đã từng là Thống Đốc Nam Kỳ, Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến, Đại sứ V NCH ở Úc Châu, và sau đó là Tổng trưởng Ngoại Giao, và với tư cách nầy ông là người đã ký vào Hiệp Định Paris 1973, nhưng sau đó ông bị Tổng ThốngThiệu bãi nhiệm chỉ vì Tổng Thống Thiệu không thích cử chỉ của ông khi ông ôm bà Nguyễn thị Bình vào lúc ký Hiệp Định và gọi bà Bộ Trưởng Ngoại Giao của CPLTCHMN bằng " bà chị thân yêu". Được bầu làm Chủ Tịch Thượng Viện vào cuối năm 1973, được người Mỹ tích cực ủng hộ, kể từ lúc đó ông đã cố gắng tỏ thái độ độc lập đối với ông Thiệu, và giữ một khoảng cách nào đó với những vấn đề liên quan đến chánh trị, một thái độ cũng không khó gì lắm, so với công tác quản trị công việc làm ăn riêng của mình, công tác nầy coi như đã chiếm gần hết thì giờ của ông - nhất là ngân hàng tư của ông, một ngân hàng rất thịnh vượng-
- Ông Nguyễn văn Huyền: 61 tuổi, tiến sĩ luật học, một luật sư có tài. Sanh trưởng ở Mỹ Tho, ông là một người rất liêm khiết và được mọi người kính nể. Ông là lãnh đạo những người công giáo Miền Nam (ôn hòa hơn những người công giáo từ Miền Bắc vào), là bạn thân với Đức Cha Nguyễn văn Bình, Tổng Giám Mục giáo phận Sài Gòn . Ông có một đời sống rất khắc khổ, rất xứng đáng, tận tụy hết sức mình với Đạo giáo, và công việc của Quốc Gia . Là Chủ Tịch Thượng Viện từ 1967 đến 1973, ông từ chức để phản đối việc sửa đổi Hiến Pháp theo ý của Tổng Thống Thiệu để giúp ông ta được ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ thứ ba. Ông tuyên bố ngay lúc đó :
- " Sự chấp thuận bản văn đó, nhờ vào những áp lực không thể chấp nhận được, kèm theo những "bao thơ" được phân phát... đã tước hết hy vọng của những người trong chúng tôi lúc nào củng muốn đóng góp vào công tác xây dựng một nền dân chủ thật sự cho đất nước " .
Sau đó ông tham gia phong trào "chống tham nhũng" của linh mục Thanh và từ đó lúc nào ông cũng kêu gọi sự từ chức của Tổng ThốngThiệu.
- Trung tướng Trần văn Đôn: 58 tuổi, sanh trưởng và được đào tạo bên Pháp. Ông thuộc một gia đình cổ xưa và có uy tín ở Miền Nam. Cha ông là một người tình nguyện trong Thế Chiến thứ Nhất , đã học Y Khoa ở Bordeaux, và vô dân Pháp. Khi trở về Việt Nam , ông nổi danh trong việc hành nghề ở Sài Gòn , trở thành một nhân sĩ có tên tuổi của thành phố, và được các vị Toàn Quyền người Pháp ở Miền Nam che chở và thường xuyên tiếp kiến. Là bạn thân của lãnh tụ Nam Việt Trần văn Hữu, Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, ông được đặc ân của Thủ Tướng Hữu bổ nhiệm ông làm Thị Trưởng Sài Gòn Chợ Lớn, và sau đó làm Đại Sứ ở Luân Đôn. Nhưng vì ông quá thân thiết với Đại sứ Pháp ở Anh Quốc (ông Massigli) đến độ ông thường tiết lộ những chuyện mật kín của Việt Nam , cho nên Thủ Tướng Hữu thấy cần phải thận trọng hơn và đổi ông sang làm Đại sứ ở La Mã (Ý đại Lợi).. Vào năm 1956, rất nhiều người dân lớn tuổi ở Miền Nam đã nghiêm khắc phê phán ông, khi ông ta vì muốn được sự trọng dụng của Tổng Thống Diệm , kẻ thù của người bảo trợ cũ của ông mà từ bỏ quốc tịch Pháp. Thái độ có tánh cách cơ hội nầy đã làm cho người ta hiểu rõ hơn về những hành động liên tiếp và mâu thuẫn của đứa con trai của ông, Trần văn Đôn, lúc nào củng bị ám ảnh về một "sự thành công" nào đó.
Con người mảnh khảnh nhưng có thân hình đẹp trai, với những nét thanh bai, tao nhã và quyến rũ, ông Trần văn Đôn là một tướng lãnh chánh trị hơn là một chỉ huy quân sự . Thành thạo trong những tằng tịu vụng trộm và trong những cuộc vận động ở cấp Bộ, nghề nghiệp và sự thăng quan tiến chức của ông phần lớn nhờ vào sự bảo trợ mà ông biết giành được qua những hành động nổi bật của mình. Cựu sinh viên sĩ quan trường đào tạo sĩ quan Saint Maixent (Pháp), sau đó trường quân sự Tông (Bắc Việt ), trung úy André Trần văn Đôn bắt đầu đi lên từ các văn phòng Phủ Thủ Tướng (Xuân, Hữu và Diệm). Vào năm 1956, thình lình ông mất hết sự kính trọng của tất cả những người bạn cũ người Pháp và của nhiều người bạn trong quân đội, khi vì muốn làm vui lòng ông Diệm , ông đã chủ tọa buổi lễ "thiêu hủy những tàng tích quân sự trong thời thuộc địa dưới sự thống trị của người Pháp". Ngày hôm đó, tướng Trần văn Đôn đã cho đốt hết những cấp bậc và huy chương của quân đội Pháp bằng cách đích thân châm lửa vào củi. Bà chị ruột của ông phẩn nộ vì hành động và cử chỉ của ông, đã phải tát cho ông hai tát nên thân.
Về sau nầy, vì ông đã quay lưng lại với bạn bè và nguồn gốc Pháp của mình, tướng Đôn lại đi tham gia vào cuộc hạ sát Tổng Thống Diệm, người đã cho ông quá nhiều danh vọng và đã bổ nhiệm ông làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Tướng Đôn đã tham gia sau đó vào tất cả các biến chuyển chánh trị ở Miền Nam Việt Nam . Là bạn của tướng Dương văn Minh, ông Đôn lại xa lánh ông nầy để nhảy sang với tướng Cao Kỳ, nhờ tướng Kỳ nâng đỡ để được bầu vào Thượng Viện, rồi lại bỏ tướng Kỳ để làm thân lại với Tổng Thống Thiệu.... bằng cách trình và bênh vực trước lưỡng viện Quốc Hội dự án sửa đổi Hiến Pháp nhằm tăng nhiệm kỳ của Tổng Thống lên 5 năm thay vì 4 năm và cho phép Tổng Thống được quyền ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba.
Để đền bù lại việc nầy, coi như một trao đổi, Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm ông Đôn làm Phó Thủ Tướng. Nhưng rồi, quá lo nghĩ cho tương lai của mình, tướng Đôn lại khôn ngoan tránh né không muốn dính chặt với Tổng Thống Phủ bằng cách đi tìm cách ngao du khắp nơi ở ngoại quốc, qua Âu Châu, Phi Châu thuộc Pháp, đi Nhật và Hoa Kỳ . Nhất là ở Paris, ông nối lại liên lạc với một số thượng cấp cũ của ông, biểu lộ những sự hối tiếc của mình đã có hành động "không tế nhị" khi chủ tọa "buổi lễ dại dột để đốt cấp bậc và huy chương Pháp".
Ông ta được các ông Giscard d'Estain và Poniatowsky tiếp kiến, cảm động vì cử chỉ tốt của ông, vì tiếng Pháp quá gọt dũa của ông, và vì những cam kết gắn bó vời "nền văn hóa và sự rạng rỡ" của nước Pháp .
Ông ta nhờ một người bạn lâu đời của Việt Nam là tướng Loisillon để can thiệp xin cho ông được quyền lãnh trợ cấp của quân đội Pháp, vì ông đã phục vụ trong quân đội nầy 16 năm... và lãnh hồi tố được một số tiền là 130.000 quan Pháp (3 quan Pháp = 1 mỹ kim lúc đó). Đồng thời, nhờ sự giúp đỡ của ông Sainteny (cựu Toàn Quyền Cộng Hòa Pháp ở Bắc Việt ), ông giữ được liên lạc đều đặn với những thành phần trung lập bị trục xuất sang Pháp, những người còn quan hệ chặt chẽ với Hà Nội và CPLTCHMN. Tại Sài Gòn ông giữ mối giao hảo mật thiết với đại sứ Pháp, ông Mérillon, người coi ông như một trong những lãnh tụ có khả năng lãnh đạo một Chánh Phủ liên hiệp. Là một con người kín đáo, nhiều màu sắc, và lịch lãm không chê được, cho tới giờ nầy ông Trần văn Đôn đã thành công trong việc luồn lách qua những giọt nước của các cơn mưa sa bão táp mà vẫn không ướt bàn chân.
Là một người quyến rũ may mắn, ông Đôn còn đi đến hành động ve vãn và thân thiện với mấy ông chồng khờ dại mà ông ta lường gạt để cưỡm mấy bà vợ nhẹ dạ- nhưng ông khôn khéo vẫn giữ được gia đình của mình nguyên vẹn và êm ấm. Mấy đứa con của ông cũng được giáo dục tốt như ông, học hành cũng rất tốt và vẫn rất mực kính trọng ông.
Trong khi Tổng Thống Hương tiếp tục thăm dò và thử thành lập một Chánh Phủ với sự góp ý của các ông Trần văn Lắm, Nguyễn văn Huyền và Trần văn Đôn, thì người ta chú ý nhiều hơn về những cố gắng ngoại giao hướng về một nền "hòa bình qua thương lượng" hơn là về tình hình quân sự thật tình đang rất nguy kịch.
Góp mặt như những nhà trung gian hòa giải đắc lực nhất, là người Pháp, họ giữ những sự tiếp xúc với tất cả các Bên trong cuộc chiến, không riêng gì ở Sài Gòn, mà cả ở Paris và Hà Nội.
Thái độ và hành vi sau cùng của Chánh Phủ Pháp đã có một tiếng vang nào đó trong thủ đô Miền Nam , ở đó nhiều nhà trí thức tưởng rằng Paris đã lấp khoảng trống do Hoa Kỳ bỏ lại. Đối với một dân tộc đang lo sợ sẽ bị bỏ rơi thật sự, sự kiện mà điện Élysée kêu gọi (nguyên tác :inviter :mời) người Pháp hãy ở lại Việt Nam , hình như là một bằng chứng cho thấy là mọi việc rồi sẽ không kết thúc bằng một cuộc tàn sát, hay tắm máu đâu.
Tất cả dân chúng ở Sài Gòn đều nhắm vào ông Đại sứ Pháp Mérillon, Người nhỏ thó, gầy, nhưng nóng tính, tóc đen , ông Mérillon có cặp mắt tròn sáng ngời dưới cặp kính râm. Ông là cựu sinh viên trường E.N.A., năm 1970 đã nổi bật và được dư luận chú ý trong lúc chiến cuộc "tháng chín đen" ở Jordan đang hồi khốc liệt . Lúc bấy giờ ông đang là Đại sứ Pháp ở thủ đô Amman, ông đã bỏ tiền ra bất chấp tốn hao để lo chuyển thực phẩm và thuốc men đến cho dân chúng, cho những người ngoại quốc đang bị phong tỏa kẹt trong vòng chiến, và cho những con tin đang bị du kích Palestine cầm giữ.. Táo tợn hơn dưới cơn mưa đạn và rốc kết, ông đích thân đứng ra hướng dẫn các phi công của các phi cơ cứu viện đáp xuống phi trường. .Là một nhà ngoại giao bất chấp hết thủ tục, thường mặc sơ mi nhẹ và quần kaki dài hơn là đứng đắn có thắt cà vạt, ông hăng say làm việc nhưng không được kiên nhẫn lắm, nên đôi lúc có những cơn nóng giận bất thường.
Các cộng sự viên của ông thường nói về ông :
-" Ông rất tự tin, có thói quen tổng kết tình hình và phán đoán con người qua vài câu bén nhọn và nhanh gọn, ông tự biết mình là một người thông minh và không bỏ qua một cơ hội nào để chứng minh điều đó ".
Những người Pháp lớn tuổi ở đây nhận thấy ông đã "tăng cường" nhân viên của Tòa Đại Sứ, để làm tăng giá trị cho vị thế của ông hơn là muốn có một sự hữu hiệu thật sự cho công việc, và họ nhún vai phê bình thêm:
- " Ông ta khuấy động nhiều quá, làm ồn quá, coi chừng ông ta sẽ có nguy cơ trèo cao té nặng đó !"
Thật ra, từ mấy ngày nay, ông Jean- Marie Mérillon đã tỏ ra rất năng động. Tin chắc là cái giá phải trả cho một cuộc "chiến đấu trong danh dự" của Sài Gòn sẽ thật sự rất đắt, nên điều lo lắng đầu tiên của ông là phải cố tránh không để cho thủ đô bị đánh chiếm. Muốn được như vậy, ông hình dung ra một sơ đồ căn cứ trên một ý nghĩ thật giản dị : phải đạt cho được sự từ chức của Tổng Thống Hương và thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải với những nhân vật thuộc "thành phần thứ ba". Hội đồng nầy chỉ cần tồn tại trong vòng hai hay ba tuần lễ mà thôi. Một thời gian trì hoãn. Muốn được như vậy, là ông phải lắc mạnh cái mà ông gọi là "sự bất động cố hữu" của ông già Hương; phải cố thuyết phục cho đến cùng rằng sự chống trả bằng võ lực bây giờ là điều hoàn toàn vô ích; và cố gắng hòa giải các nhóm "đối lập hợp pháp" vì lúc nào họ cũng chia rẻ với nhau.
Vậy bây giờ là ông bắt đầu tiến hành những cuộc mặc cả hết sức khó khăn rồi trở thành mạnh bạo hơn khi mà mỗi giờ trôi qua là mỗi giờ áp lực của lực lượng cộng sản càng nặng thêm lên.
Hà Nội vừa mới xác định một lần nữa lập trường của họ :
- "Trong bộ máy chánh quyền mới sẽ được thành lập ở Sài Gòn , không được có mặt bất cứ người nào đã ở trong bè cánh của Thiệu, có nghĩa là những người đã hợp tác chặt chẽ với Thiệu để chống phá quyền lợi Quốc Gia, kéo dài cuộc chiến và phá hoại Hiệp Định Ba Lê. "
Với những lời tuyên bố nầy, đương nhiên bị loại ra ngoài ông Trần văn Lắm, đương kim Chủ Tịch Thượng Viện và tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Qyốc Phòng của Chánh Phủ "chiến đấu", tuy đã từ nhiệm nhưng vẫn còn là "xử lý thường vụ".
Về phía ông Nguyễn văn Huyền, ông đã từ chối không nhận đề nghị lập Chánh Phủ bằng một lời tuyên bố rất giản dị "Trong lúc tình hình cần có một sự đoàn kết Quốc Gia rộng rãi, với tư cách một người lãnh đạo công giáo, tôi sẽ nhanh chóng bị phê phán là muốn lập một "Chánh Phủ tôn giáo "
Do vậy lại bắt đầu trở lại những sự mặc cả mới.., mà ông Mérillon hơi chua chát gọi đó là "những trò chơi viển vông" . Tin tức từ mặt trận đưa về thật đáng lo ngại.. Một số đơn vị của Chánh Phủ đang thiếu đạn . Về hướng Tây Bắc của thủ đô, trung đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 25 đang phòng thủ một giao lộ rất quan trọng là Gò Dầu Hạ, chỉ còn có vài tràng mỗi ngày dự trữ cho các khẩu pháo 105 và 155 ly. Trên mặt trận hướng Đông, số phận của chiến trận chỉ tùy thuộc vào sự yểm trợ của Không quân chiến thuật..
Tin chắc rằng những cuộc bàn cải dài dòng của các chánh trị gia và các nhà ngoại giao còn phải kéo dài trong vài ngày nữa, nên tôi muốn đi trở lên mặt trận hơn.
CHƯƠNG 18: NGỌN ĐỒI CUỐI CÙNG
THỨ TƯ, NGÀY 23 tháng 4
Cứ cách nhau 3 phút là các phóng pháo khu trục cơ cất cánh và đáp xuống phi trường.Trên bãi đáp trực thăng số 42, đang có 4 chiếc gồm 2 chiếc vận tải loại lớn "Chinooks" và 2 trực thăng võ trang U.H. 1 B. đang sắp sửa cất cánh. Nhiệm vụ: tiếp tế đạn cho 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 48 bộ binh đang đụng địch ở chân núi Thị, một ngọn núi chế ngự hết cả vùng của đồn điền cao su An Lộc rộng lớn (S.I.P.H.), và đang chuẩn bị chống trả những trận tấn công dữ dội hơn của cộng sản .
Thiếu tá Luân, 36 tuổi (với 4000 giờ bay vá 12 huy chương), một trong những phi công ưu tú nhất thuộc Không Quân chiến thuật, đã chấp nhận cho tôi cùng bay với ông ta. Chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại mỏm núi và sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ bay lượn trên khắp vùng trận địa - 60 cây số dàn quân - của chiến trường Xuân Lộc trên quốc lộ 1 và tỉnh lộ 24 .
Có một số thợ máy mặc quần áo chống cháy đang gắn những tấm lưới thép dưới lườn thực thăng Chinooks và chất đầy ắp các thùng đạn vào đó. Mặc vào một cái áo giáp chống đạn và đội một nón sắt có kính che mắt, tôi nịt giây nịt an toàn vào rất kỹ lưỡng. Trên phòng lái, là thiếu tá Luân và sĩ quan hoa tiêu. Bên trái của tôi là một sĩ quan pháo binh có cả ống nghe trên mủ và ống nói dưới cằm. Phía sau tôi ở hai bên trong hai ụ súng là hai anh xạ thủ với hai khẩu đại liên 50 chỉa ra ngoài, và dưới lườn trực thăng có hai ống phóng mỗi ống chứa 7 quả rốc kết. Chúng tôi cất cánh lúc 18 giờ 15 phút.
Trực thăng lấy cao độ nhanh, và trực chỉ hướng Đông. Xuyên qua các đám mây chúng tôi thấy một đường thẳng dài của quốc lộ 1 , lấm chấm có vài dấu nổ của đạn pháo.: đó là tác xạ ngăn chặn của pháo binh sư đoàn 5 bộ binh đang phòng thủ các ngõ vào Trãng Bom.
Trực thăng sau đó chui qua các đám mây xuống thấp , bay rà rà trên các ngọn cây cao su của hàng S.I.P.H. Trên một con đường mòn thẳng vắt ngang đồn điền cao su, trên 12 xe vận tải Molotova chở đầy bộ đội đang chạy rất gần. Thiếu tá Bẻ cần quẹo gấp Luân đưa trực thăng nằm đúng ngay trên trục của đường mòn. Thình lình, hai, rồi bốn sự rung chuyển ngắn làm chấn động chiếc trực thăng. Bốn quả rốc kết đã được Luân phóng đi từ hai ống phóng và nổ đúng vào đoàn xe vận tải của Bắc Việt . Nhiều tiếng nổ dữ dội cho thấy là các quả rốc kết đều trúng mục tiêu. Lửa , khói và miểng đạn bắn ra tung tóe gần như bao trùm chiếc trực thăng, vì nó bay rất thấp. Tôi nghĩ là chúng tôi cũng có thể gập nguy cơ lắm. Chiếc trực thăng rung lên từng chập. Các đại liên thôi thì thi nhau nhả đạn. Xuyên qua cửa ngang hông được mở toang ra, trong chớp nhoáng tôi thấy một chiếc xe đang cháy và những tên bộ đội bé nhỏ mặc quân phục xanh bị cháy đang nhảy tứ tung như những tia lửa bắn lên tứ hướng từ một cục than hồng. Thế rồi không còn nghe thấy gì nữa cả. Chiếc Chinooks lại bay rà lên trên tấm thảm xanh của rừng cao su trở lại, chỉ còn nghe tiếng phành phạch của hai cánh trực thăng. Cuộc tấn công vừa rồi chỉ kéo dài có 20 giây. Sáu phút sau, chúng tôi đã thấy Núi Thi., Một mỏm đá với một chòm cây và một gian nhà lớn chỉ còn nửa nóc . Đó là biệt thự của viên thanh tra đồn điền cao su. Thiếu tá Luân đáp xuống một bãi đất rộng được đánh dấu bằng mấy trái khói mầu vàng, nằm cao hơn mỏm đá. Một anh thiếu úy đưa chúng tôi đến Bộ chỉ huy của Trung tá Phát, một phòng lớn ở tầng trệt của biệt thự, có bao cát chung quanh, và một số bàn đầy máy móc truyền tin và điện thoại.
Trung tá Phát hớt tóc ngắn, cầm to, tôi có cảm tưởng như người ông toát ra sức mạnh và nghị lực. Chung quanh ông thấy có một nhóm sĩ quan ăn mặc sạch sẽ và chỉnh tề, đang chờ nhận lệnh. Trung tá Phát bắt tay tôi, tay kia đấm Luân một phát, rồi đãi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê nóng có chế vào một ly rượu mạnh, xong vùa cười vừa nói :
- " Các anh đừng lo, căn nhà nầy chắc lắm, toàn là xi măng cốt sắt và trước khi có giặc nghen ! Năm 1947 biệt thự nầy đã bị cháy và người Pháp đã bỏ đi. Hai chục năm sau người Mỹ lại sửa lại, tăng cường tới nóc nhà bằng các tấm thép. Họ đặt mấy chiếc tủ lạnh và sơn phết lại hết, màu xanh lá cây."
Rồi sau đó ông ta nghiêm sắc mặt lại, nói với thiếu tá Luân :
- "Tôi đã mang lên được trên ngọn đồi nầy 4 khẩu pháo binh 105 ly và 3 khẩu 155 ly. Nhưng tôi thiếu đạn, tôi chỉ có 30 quả cho mỗi khẩu. Tôi cần gấp ba lần như thế, và một số đạn bách kích pháo. Anh cố tìm mọi cách mang lên đây cho tôi. Đi làm 6 hay 8 chuyến. Và làm sao để tôi có một trực thăng võ trang C.119 trước 12 giờ đêm và cho nó trực thôi, sẳn sàng chờ lệnh, vì bọn Bắc Việt chắc chắn sẽ chơi tôi vào lúc 2, 3 giờ sáng gì đó thôi.
- Hai chiếc Chinooks đang mang đến cho Anh 3 tấn đạn , thiếu tá Luân đáp ngay. Họ sẽ đến đặt trước nhà cho anh trong một vài phút nữa thôi. Về phần còn lại tôi sẽ làm cho anh tối đa".
Thiếu tá Luân tiến tới một máy truyền tin và gọi Biên Hòa , Trung tá Phát đốt một điếu thuốc , lật bản đồ ra và giải thích cho tôi nghe về tình hình :
- " Sư đoàn 18 và Liên đoàn biệt động quân của đại tá Phước đã đánh nhau với bọn nó như những con sư tử trong suốt 14 ngày ở thành phố Xuân Lộc đổ nát nầy. Họ đã bình tĩnh lãnh đủ hơn 20.000 quả pháo và rốc kết. Họ đã bắn sụm 37 chiến xa T.54 và cho đo ván hơn 5000 tên cộng sản . Thứ hai vừa rồi, Bắc Việt đã bọc vòng phía sau thành phố chiếm lại giao lộ Suzannah và sơi luôn một đoàn xe tiếp tế của mình. Sau đó họ bố trí cẩn thận hai bên ngã tư, điều chỉnh sẳn tác xạ và để 2 sư đoàn gần đó trong tư thế chờ đợi, hy vọng đánh tan xác chúng ta khi ta rút quân. Nhưng tướng Đảo đã "chộp" được chúng nó. Trưa thứ hai Tướng Đảo đã phản công và giải tỏa phần đất chung quanh phi trường trên hơn 2 cây số..đồng thời xin tiếp tế đạn thật nhiều cả bằng trực thăng và thả dù. Sau đó ngày thứ ba, nghĩa là mới hôm qua đây, thay vì lui về ông đã cho cả sư đoàn đi thẳng về phía trước theo trục các đồn điền Courtenay- Xa Bang- Bình Ba- Bà Rịa. Ông đã bất thần phá vỡ vòng vây Bắc Việt , mang theo tất cả thương binh, tất cả xe cộ (50 xe vận tải và trên 30 chiến xa. Không quân đã yểm trợ ông bằng cách dội bom CBU để dọn đường cho sư đoàn , loại bom mà cộng sản Bắc Việt rất khiếp sợ. Để giúp cho tướng Đảo thành công trong sự điều quân của ông ta, chúng tôi đã cho 2 tiểu đoàn đánh ngược hướng tiến quân của sư đoàn (1 tiểu đoàn dù và tiểu đoàn của tôi), để cho cộng sản Bắc Việt tưởng rằng chúng ta sẽ rút lui về hướng Sài Gòn theo quốc lộ 1. Tiểu đoàn Dù tình nguyện đâm thẳng vào Gia Kiệm để cầm chân một trung đoàn địch. Tiểu đoàn của tôi đã băng ngang đồn điền S.I.P.H. đánh ngay sau lưng địch, hạ sát trên 300 tên bộ đội, cắt hết đướng dây điện thoại của chúng, và bất ngờ đã bắn hạ 2 chiến xa T.54... Và chúng ta đã lên thẳng trên ngọn đồi nầy vốn chỉ được có một đại đội địa phương quân phòng thủ, và chúng tôi đã mất hết hai ngày hai đêm dùng cuốc , vá để tổ chức vị trí phòng ngự. Muốn đuổi chúng tôi ra khỏi đây hả?, chúng cũng phải trả một giá hết sức đắt."
Đại úy Nhân đưa tôi đi xem vị trí phòng ngự. Thiếu tá Luân đã cất cánh với chiếc trực thăng của ông ta.
Ngọn đồi nầy chiếm một vị trí rất đặc biệt, nó là một khối đá cao trên 100 thước , mặt phía Tây thẳng đứng và rất nguy hiểm, mặt phía Bắc và phía Đông toàn là rừng, duy mặt Nam thì có một lô cao su khá lớn bao quanh.. Là một cao điểm duy nhất giữa một khu đất bằng phẳng rộng lớn, vị trí nầy chế ngự cả vùng, địch khó có đường tiến sát đến đây được mà không bị lộ, và không thể leo lên hay tràn ngập vị trí phòng thủ được bằng một cuộc tấn công trực diện. Dưới chân đồi và ở cách xa khoảng 1500 thước là trung tâm đồn điền An Lộc, với một hệ thống dường sá như bàn cờ ở dưới làn sóng xanh um của dồn điền cao su An Lộc. Một bên là sân bay và bệnh xá, bên kia là một dãy nhà kho, câu lạc bộ, biệt thự của giám đốc đồn điền, nhà của các nhân viên phụ tá, hồ tắm, sân tơ nít, và trung tâm truyền tin. Chỉ là một thành phố rất nhỏ nhưng hiện đại như thế thôi, do một nhúm người Pháp điều hành mà nó nuôi sống được hằng ngàn công nhân và kỹ thuật gia Việt Nam cư ngụ trong các làng khéo tổ chức với những căn nhà tuy nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi (điện nước v.v..)
Các nhà trồng tỉa Pháp ở Việt Nam thật là đáng phục. Siêng năng, thẳng tánh nhưng kín miệng, họ sống với nhau rất là đoàn kết.. Đã quen với những sự nguy hiểm, thường đối đầu với những bài toán rất tế nhị, hay bị bọn Việt Cộng ở địa phương quấy nhiễu, thường hay bị bắt để đòi tiền chuộc, đôi khi còn bị không quân của ta bắn nữa, còn di chuyển thì bắt buộc phải đi trên những con đường hay bị phục kích, những người Pháp nầy làm việc trong những điều kiện hết sức khó khăn. Họ phải đi khắp các lô cao su, kiểm soát công việc cạo mủ hằng ngày, lo tu bổ dụng cụ, kiểm soát số lượng mủ., theo dỏi cây ương và còn phải chú ý đến sức khỏe của nhân công mà họ vừa là chủ vừa là những người đỡ đầu. Họ phải giải quyết tất cả các bài toán về nhân sinh , như dàn xếp các cuộc gây gỗ trong gia đình , giữ luôn cả sổ sách về hộ tịch và còn phải giúp đở về dịch vụ săn sóc y tế cấp thời miễn phí nữa. Họ không bao giờ phàn nàn điều gì cả và chỉ có một lo âu : làm sao cho công việc mà họ có trách nhiệm được chạy đều. Lúc nảy, cũng gần như mỗi buỗi chiều, họ có nghe tiếng đại bác. Nhưng đêm nay, có thể họ có nguy cơ bị kẹt giữa hai lằn đạn của chiến trận.. Có phải vì thế mà mặc dầu đêm đã xuống rồi mà sở An Lộc vẫn chưa lên đèn ?
Tôi chia xẻ nhận xét đó với đại úy Nhân.
-" Không phải đâu, người sĩ quan trẻ nầy đáp lời, những người Pháp của đồn điền nầy không có ở đây nữa. Họ đã gặp rất nhiều khó khăn. trước hết là đối với những người dân chạy giặc từ Miền Trung vào, rồi sau đó là dân Xuân Lộc nữa . Hằng ngàn người bất thần bị bom đạn, nên đã ùa vào đồn điền cao su lánh nạn. Chủ đồn điền là ông Parnès, không lo xuể. Ông ta đã thiếu gạo, nên đã phải băng ngang qua vùng lửa đạn để tìm xe lấy gạo. Ông đã săn sóc cho đàn bà và trẻ con , đích thân chích thuốc cho họ, nhưng không có cách nào để điều trị cho những người bị thương và những bệnh nhân nặng. Vã lại có quá nhiều người . Ông ta đã cố xuống Xuân Lộc để tìm một trong năm bác sĩ của bệnh viện dân chính, nhưng không còn ông nào, họ đã chạy hết cả rồi. Ông ta lại phải trở về đồn điền, và tiếp tục đi tìm họ trong những người dân tỵ nạn đang ở trong các lô cao su.. Cuối cùng ông ta cũng gặp được một người đang giả dạng thường dân, mặc bộ đồ bà ba đen, choàng khăn và đội nón lá sùm sụp để che mặt lại. Ông ta đã nắm lấy bác sĩ nầy và lôi về xe Jeep của ông. Bác sĩ nầy khẩn khoản xin cho ông một thời gian :" Tôi đang tìm bà vợ của tôi, bà ta sắp sửa tới ngày giờ sinh cháu rồi mà lạc mất 3 ngày nay. Khi nào tôi gặp được bà ta thì tôi theo ông ngay" Ông Parnès đã giúp bác sĩ nầy đi tìm bà vợ, và cuối cùng họ đã gặp người đàn bà bất hạnh nầy nằm trên một vũng bùn gần một con rạch nhỏ. Bà đã sanh con trên miếng đất trống, giống như một con thú vậy !
- Và ông bác sĩ đã làm gì ?
- "Vợ ông bụng căng lên đầy mủ. Bà ta qua đời vài giờ sau đó, nhưng ông bác sĩ đã giữ lời hứa, mang đứa con của ông về bệnh viện của đồn điền và sau đó đã làm việc thật bận bịu với những người dân chạy loạn.
Đại úy Nhân đưa tôi một điếu thuốc , dẫn tôi tới xem một ụ phòng thủ và nói tiếp :
- " Các ông chủ sở cao su nầy có những mối ưu phiền khác. Các đơn vị Bắc Việt đã đi ngang qua đồn điền. Một trung đoàn "bộ đội" (nguyên tác :Bo- Dois") quá khát nước đã tràn vào nhà máy và đã nốc sạch cả bồn nước của nhà máy, làm nhà máy phải ngưng hoạt động vì bồn nước nầy dùng để làm nguội máy móc của nhà máy. Rồi lại đến lượt một trung đoàn khác sau đó không lâu. Toán tiền sát của họ đã đến trung tâm đồn điền. Toàn là người Bắc và toàn là nông dân là những người chưa từng thấy cái gì hết. Họ đã lục lọi đủ mọi thứ, và đã dùng báng súng đập vỡ hết các thứ kể cả các máy thu thanh. (nguyên tác :postes de radio). Sau đó họ đã bắt đi 3 vị phụ tá, trói họ lại và dẫn vào rừng, còn đe dọa giết họ nữa bởi vì họ là "gián điệp của Mỹ" . Các anh công nhân chạy đi tìm gặp bọn Việt Cộng ở địa phương, một chánh trị viên người Nam đã đến gặp bộ đội Miền Bắc và cuối cùng đã lãnh họ về được với một "giấy đi đường". Các anh phụ tá nầy đã trở về làm việc ở sở. Rồi một đơn vị Bắc Việt khác lại đi qua, lại bắt họ trói dẫn đi vào rừng. Nhưng lần nầy thì không còn một ai biết được số phận của họ ra sao nữa .
- Còn thợ thầy công nhân thì sao ?
Họ vẫn làm việc nhưng họ sợ bị trả thù. Cách đây 2 ngày, một tiểu đoàn chánh quy Miền Bắc đã bị thiệt mạng trên 100 người trong một bãi mìn. Họ đã tràn vào làng công nhân ở khu D và đã dùng loa kêu tất cả phải ra ngoài. Có một số ra ngoài, nhưng phần đông đều ở trong nhà không ra. Các binh sĩ Bắc Việt đã nổ súng và liệng lựu đạn vào các căn nhà một cách rất ung dung và đã tàn sát trên 100 người phần đông là đàn bà và trẻ con...."
Đêm đã xuống hoàn toàn. Binh sĩ đã nằm ở vị trí chiến đấu , Và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những hòn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đã sẵn sàng. Dài theo bìa phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên , súng phóng lựu và súng không dật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng.
Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần... Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nhìn thấy, đánh dấu bãi đáp để nhận hàng tiếp liệu. Những chiếc trực thăng đảo tròn trên Bộ Chỉ Huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép lòng thòng dưới lườn. Chỉ trong vòng vài phút, họ đã đặt các kiện hàng tiếp liệu xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn bão mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được . Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi.....
Nhưng đến 3 giờ sáng thì mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ rực của pháo binh Bắc Việt bay vào ngọn đồi. Có môt số cây bị trốc cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá, phía dưới chân đồi.. Đó là lệnh xung phong của cán binh cộng sản . Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường . Binh sĩ Miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho "bộ đội" đến gần hơn dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt.. Mấy ống bách kích pháo nhắm vào hai bên đường, nã đạn, nòng súng gần như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái thì các khẩu trung liên của biệt động quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngã lăn oằn oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai trực thăng võ trang C119 lại xuất hiện, đang xé gió bay tới,,, sau tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt còn sống sót đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng.
Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây . Pháo binh 155 ly của Miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét.. Đến 5 giờ sáng thì mọi tiếng súng đều ngưng.. Lúc trời sáng tỏ thì binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi phòng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều thây của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây. Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói :
- " Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa là thiếu Tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ đi về với ông ta."
Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng Bắc. .. Nhìn từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ còn mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng. Trực thăng đổi hướng về hướng Đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng Gòn, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt , các chiến xa , các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang.Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Hòa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ. Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A.37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù.. Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C.130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù , và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Hai ngọn khói hình nấm tròn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi thường đến đỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 500 thước bị ảnh hưởng, phải bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một khoảng không như một hòn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được cự thăng bằng. Khi khói tan biến hết, thì mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe cộ bị lật ngã, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố và thây người chết nằm rãi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị trốc gốc ngã lộn nhào đưa cả rễ lên trời . Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt . Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường . Không có một tiếng súng bắn trả: Thì ra thiếu tá Luân đã bắn vào một đoàn người chết.....
Sau khi đáp xuống sân bay Biên Hòa , Thiếu tá Luân vừa cởi nón sắt ra vừa nói với tôi;
- " Anh có thấy rõ mức độ thiệt hại không ? Hai thùng tròn đen được thả xuống ban nảy là hai trái bom C.B.U. 55. Một đầu đạn được gắn vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt đất. Như vậy là không có góc độ "tử giác" .Trong vòng 150 thước đường bán kính, không còn một chút không khí nào hết, dĩ nhiên là không còn dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn sóng cực mạnh của sức nổ. Cho nên đây là một loại vũ khí kinh hoàng, chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo thì mới có hiệu quả cao.
- Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào ?
- Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Công thức nấy còn là "Tối Mật" và chỉ có người Mỹ là có thể biết thôi. Tôi nghĩ đây là một sự pha trộn giữa chất nổ T.N.T và một chất hóa học nào đó. Loại bom nầy đã có từ lâu rồi, nhưng vì sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ , nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng . Khi rời khỏi Việt Nam , họ để lại cho chúng tôi trên 20 trái bom nầy và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng., Gần như đây là loại vũ khí của "cơ may cuối cùng".... chúng tôi đã xử dụng 7 trái trong vòng 3 ngày nay.
CHƯƠNG 19: TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH XUẤT HIỆN
Thứ Năm, ngày 24 tháng Tư, 1975
Cứ mỗi lần từ vùng chiến trận trở về Sài Gòn , là mỗi lần tôi gần như bị chấn động vì không khí rất khác biệt giữa thành phố và tiền tuyến. Một bên là sự khốc liệt quá mức của chiến tranh, những người chết, những người bị thương, xóm làng nhà cửa bị tàn phá dưới sức rung chuyển của bom đạn như những cơn động đất, những cỗ pháo, những phóng pháo oanh tạc cơ, những binh sĩ đang bám đất, những người nông dân đang chạy loạn..... Một bên thì sự yên tĩnh của thành phố với những bãi cỏ được săn sóc hằng ngày thật công phu cẩn thận, với những ngân hàng, và tấp nập những nhà buôn , với những nhà ngoại giao v.v.. Chỉ cách nhau không quá 50 cây số mà tôi có cảm tưởng như là cách xa nhau vạn dậm, hay không cùng ở một hành tinh !
Sài Gòn đang tranh cãi với nhau, đang lợi dụng lẫn nhau, và đang dàn cảnh một sân khấu chánh trị để cho các nhân sĩ có nơi cho họ xuất hiện nhanh để rồi biến đi to nhỏ với nhau ngoài hành lang. Một hoạt cảnh vừa mới bắt đầu đã nhanh chóng trở thành vô ích hay đã lỗi thời ngay sau đó !.
Ngày hôm kia, thứ ba 22/4, một đám đông dân chúng, theo lời kêu gọi của 4 Tôn Giáo lớn ở Miền Nam - Ki tô giáo, Phật giáo, Cao đài và Phật Giáo Hòa hảo - đã tập hợp lại trong nhà thờ Chánh Tòa ở Sài Gòn . Đứng dưới một tấm biểu ngữ thật lớn có vẽ hai chữ "Hòa Bình" thật to bằng sơn đỏ, là một hàng rào các sư sãi đầu cạo nhẳn bóng láng mặc cà sa vàng hực hỡ, đức Tổng Giám Mục với lễ phục trắng, các thân hào nhân sĩ mặc áo dài đen, và đang quì phía sau họ là cả một khối giáo dân .
Người ta chỉ thấy đại diện duy nhất của ngoại giao đoàn là Đại Sứ Pháp, Jean-Marie Mérillon, một người được mời dự buổi lễ đặc biệt nầy và là người được người ta chú ý đến nhiều nhất. Các quan sát viên cho rằng đây là nhân vật đương nhiên tự thừa nhận là mình đang tiến hành một cuộc vận động chánh trị để đi đến hòa bình.
Nhưng chương trình của buổi lễ hôm nay đã được dự tính từ nhiều ngày trước rồi, được dự trù là sau khi hành lễ xong tất cả đều sẽ kéo nhau đến dinh Độc Lập cách đây không xa, để kêu gọi "Tổng Thống Thiệu hãy từ chức" .
Sự ra đi bất ngờ của vị nguyên thủ Quốc Gia vừa qua đã làm bể hết kế hoạch và mất hết ý nghĩa của những sự vận động của các nhóm người chỉ có sát cánh nhau vì cùng chung một động cơ hành động. Tất cả đều mong muốn có "hòa bình", nhưng con đường mà họ định đi đến đích thì không người nào giống người nào !
Bây giờ thì mọi người đều nghĩ đến một cái tên , tên của tướng Dương văn Minh, thường được gọi là "Minh Lớn" ( nguyên tác: "Grand Minh"), người được xem như là phương sách cuối cùng.
Ông Đại sứ Mérillon nghĩ rằng CPLTCHMN sẽ chấp nhận ông Dương văn Minh, nên hối thúc ông Trần văn Hương nên mời ông Minh lập một Chánh Phủ gọi là "Chánh Phủ để Thương Thuyết".
Ông Đại sứ Pháp thấy rằng tình hình đã quá nghiêm trọng rồi nên cần phải có những quyết định cấp bách. Nhưng từ 48 giờ qua, ông vẫn giẫm chân tại chỗ trong sự nhẫn nại. Ông đã hai lần ngồi xe D.S của ông có gắn cờ Pháp để đi vào Dinh Độc Lập hối thúc ông Tổng Thống già nua nên sớm "có hành động" kịp thời.
Hôm nay lúc 5 giờ chiều, đã có một phát súng bị tịt ngòi trên sân khấu chánh trị. Tướng Minh đã mời các nhà báo và đã nói với họ rằng:
- " Tổng Thống Trần văn Hương đã mời tôi nhận chức vụ Thủ Tướng , Tôi đã từ chối. Ở cương
vị Thủ tướng tôi không thể mở đường đi đến một cuộc thương thảo được với "phía bên kia". Tôi đã trả lời cho Tổng Thống Hương là: điều kiện tiên quyết mà những người "cách mạng" đặt ra
là Tổng Thống phải từ nhiệm. Đó không phải là một điều mong muốn, mà là một sự bắt buộc "
Sự từ chối chức vụ Thủ tướng của tướng Minh đã nói lên ý muốn "đốt giai đoạn" của ông ta. Đại sứ Pháp, người đã hướng dẫn cho ông ta, đã chơi một ván bài nguy hiểm. Sơ đồ hành động của ông, nhằm đẩy cụ già Hương ra khỏi ghế Tổng Thống và thay thế ông bằng một người chưa từng bao giờ "bị phía bên kia chỉ trích", chủ yếu được dựa trên niềm tin rằng cộng sản sẽ sẵn sàng thương thảo trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973. Và theo ông thì không có gì là không vững chắc. Mười hai ngàn người có quốc tịch Pháp ở Miền Nam Việt Nam, được Tổng Thống Giscard d'Estaing và Đại sứ của họ kêu gọi hãy ở lại tại chỗ, có thể có nguy cơ phải trả giá rất đắt với tài sản và sanh mạng của mình, nếu giải pháp chánh trị nầy bất thành.
Cân nhắc kỹ lưỡng rồi, ông Mérillon ước tính là cơ nguy đó phải được qua và ông dùng cách để thuyết phục cộng đồng người Pháp ở đây là không có gì đáng phải lo sợ hết..
Trước tiên là ông quyết định vẫn giữ nguyên ngày giờ thi Tú Tài toàn phần là ngày thứ hai 28 tháng 4, mặc dầu có những sự vận động khẩn thiết của các phụ huynh học sinh .
Kế tiếp là trong lúc hầu hết các tòa đại sứ Tây Phương ở đây đều đóng cửa, ông Jean- Marie Mérillon đã công khai cho sơn lại mặt tiền của tòa đại sứ và cho trồng thêm bông hoa trong khu vườn của tư dinh ông .
Có 12 người hiến binh được gởi tới bằng đường hàng không để tăng cường canh gác, Ông đã cho họ thay phiên nhau đứng gác ngoài cổng rào của tòa đại sứ.. Ông cho một số thợ hồ xây thêm tường rào tòa đại sứ cho cao hơn lên, vừa để tránh những sự dòm ngó của kẻ tò mò nhằm bảo vệ cho các nhân sĩ Việt Nam ra vào tiếp xúc với Ông, vừa có thể dùng tòa đại sứ như một nơi tỵ nạn đúng theo quyền tỵ nạn chánh trị , nếu có xảy ra chiến trận ở đây.
Và cuối cùng, để dự trù trường hợp xấu nhất, có một số tiêu lệnh đã được ban ra cho một số người "đầu đàn" trong cộng đồng người Pháp. Ba điểm tập trung đã được dự trù: đó là bệnh viện Grall, trường trung học Saint Exupéry (Chasseloup Laubat cũ) và cư xá Lareynières, nơi cư trú của các giáo chức Pháp. Tất cả những cơ sở công cộng, tất cả những tiệm buôn và nhà cửa, tài sản hay nơi cư trú của người Pháp đều phải được treo cờ tam tài Pháp.
Những người nào còn nghi ngờ về tương lai và thiện chí của cộng sản , tự thấy mình "bi quan thái quá" và muốn nghe câu trả lời thì đây :
"Hãy làm một bản thống kê chính xác tất cả tài sản của mình. Thiết lập hồ sơ thật đầy đủ, nhưng vẫn phải ở lại tại chỗ. Vì khi rời khỏi nước Việt Nam , trước tiên là mình sẽ mất hết tất cả các quyền cứu xét để được bồi thường vì lý do chiến tranh, nếu có."
°
°
Mặc dầu ông Đại Sứ Pháp đã cho thấy tất cả sự lạc quan của mình, cuộc khủng hoảng chánh trị xem ra khó có thể tháo gỡ được . Phía ngoài hàng rào có vẻ yên tĩnh và mặc cho bối cảnh vận động chánh trị bận rộn của tòa đại sứ , thành phố Sài Gòn vẫn đầy rẫy những mánh khóe và những sự âm mưu toan tính . Những sự liên minh vừa mới được kết hợp ngày hôm qua thì ngày mai lại tan rã ...
Từ đêm ngày thứ năm cho tới thứ sáu, ở khách sạn Palace đã có một buổi họp của đại diện các phe nhóm ở Miền Nam, một số các tướng lãnh trẻ, các đại diện của người công giáo di cư và những lãnh tụ đối lập. Nhưng sau nhiều giờ bàn cải, họ không muốn chọn tướng Minh Dương . Họ có ý trách ông nầy rất thụ động về phương diện chánh trị trong mười năm qua, và thiếu năng lực phán đoán. Tin chắc rằng mục tiêu duy nhất mà cộng sản đang theo đuổi là chiếm Miền Nam Việt Nam bằng giải pháp quân sự , họ nghĩ rằng ông Minh "không đủ sức" nên các cuộc thương lượng với cộng sản nếu có đi chăng nữa thì củng chỉ sẽ dẫn đến một sự đầu hàng mà thôi không hơn không kém.
Đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo đề nghị đem lên Sài Gòn hai chục ngàn người tình nguyện (20.000) để "thanh toán hết các phần tử chủ bại và thành lập một Chánh Phủ cứu quốc". Đặc biệt hơn ông nầy tấn công ngay tướng Trần văn Đôn vì ông Đôn không chịu phát vũ khí cho các lực lượng tôn giáo và hằn học kết luận là :"Phải bắt ông ta, đưa lên đoạn đầu đài và xử bắn ông ta!"
Linh mục Hoàng Quỳnh , người được những người công giáo di cư tuyệt đối tin tưởng, xác nhận là ông "sẵn sàng đưa hai trăm ngàn người công giáo (200.000) xuống đường" (biểu tình).
Luật sư Trần văn Tuyên thì tố cáo Đại sứ Pháp đã có hành động không thể tha thứ được là xen vào công việc nội bộ của Việt Nam . Ông Tuyên nói :
- "Ông Mérillon đã dám xấc xược nói với tôi rằng Tổng Thống Hương đã già yếu bệnh hoạn. Phải đưa ông ta vào bệnh viện để người ta giải phẩu cho ông, và nếu ông nằm ở bệnh viện thì bài toán sẽ được giải quyết "
Ông Trần văn Tuyên, 62 tuổi, một luật sư có tài, là trưởng nhóm xã hội trong Quốc Hội và là một đối thủ của ông Thiệu. Ông là một trong những người hoạt động tích cực cho "Phong tràio Tự Do Báo Chí" . Ông Tuyên nói tiếp :
- " Tổng ThốngTrần văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh khỉnh và không thân thiện của ông Mérillon. Nản lòng vì những lời mỉa mai cay độc nhắm vào ông, và những áp lực đối với ông, vị Tổng Thống lớn tuổi của chúng ta đã đe dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc thạch tín mà ông luôn luôn đeo ở bên mình "
Tham vọng và sự nóng giận đã thúc đẩy những người có trách nhiệm nầy ý thức được mối nguy cơ cộng sản và sẵn sàng làm tất cả những gì để tránh nguy cơ nầy. Người nào củng tin rằng mình có thể cung ứng hàng ngàn chiến sĩ. Có người người còn dự trù thành lập một khu kháng chiến ở Đồng Bằng sông Cửu Long ở Miền Tây. Họ đề nghị chuyển hết các kho vũ khí và đạn dược về vùng nầy. Còn các tướng lãnh trẻ thì thề nhứt quyết họ không bao giờ đầu hàng cộng sản .. Nhưng liệu cuộc kháng chiến như thế có cơ may kéo dài được bao lâu nếu không có một sự yểm trợ từ bên ngoài ? Dù gì đi nữa thì Hoa Kỳ sẽ không can dự vào nữa rồi. Lên tiếng ở tiểu bang New Orléans , Tổng Thống Ford vừa mới thản nhiên xác nhận điều đó làm cho tim mọi người muốn ngừng đập .Ông ta đã yêu cầu người Mỹ "hãy lật sang trang khác" để hướng về tương lai. Ông ta đã tuyên bố thêm là ông đã gạt ra ngoài mọi khả năng tái can thiệp của Hoa Kỳ bằng hai câu ngắn :
- " Bây giờ thì chúng ta có thể tìm thấy lại được sự hãnh diện mà Hoa Kỳ đã có từ trước sự kiện Việt Nam ..,Một sự hãnh diện mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tìm lại được, nếu còn tham gia vào một cuộc chiến coi như đã hoàn toàn chấm dứt đối với chúng ta."!
CHƯƠNG 20: NHỮNG TRÒ CHƠI VÔ VỊ CUỐI CÙNG
Thứ Sáu, ngày 25 tháng Tư
Hôm nay Tổng Thống Hương lại tiếp ông M. Mérillon trong vòng 80 phút và sau đó lại họp với ông M. Martin, Đại sứ Hoa Kỳ . Cả hai nhà ngoại giao nầy người nào cũng cố thuyết phục Tổng Thống Hương là nên cấp tốc đưa ra một phương thức khả dĩ có thể mở đường cho một cuộc thương thảo với những người "cách mạng" (nguyên văn: révolutionnaires") Cả hai đều nói "phương thức nầy nên gạt ra ngoài Hiến Pháp năm 1967,.... cần có sự từ chức của Ngài, và giao lại cho một toán nào đó mà "phía bên kia" có thể chấp nhận được "
Vị Tổng Thống già đồng ý chấp thuận mục đích của các đề nghị, nhưng khăng khăng muốn tìm một giải pháp theo đúng với Hiến Pháp .. Ông Mérillon càu nhàu:
- "Ông ta cứng đầu lắm! như một con lừa vậy ! Lúc nào cũng "Tôn trọng hình thức hợp Hiến"., ông ta chỉ nói hoài có bấy nhiêu đó . Như một người nghèo sắp sửa bị cháy nhà mà cứ từ chối không chịu kêu lính chữa lửa, vì nghĩ rằng mình đang có trong túi một hợp đồng bảo hiểm đúng cách."
Trong cuộc tiếp xúc nầy, Ông Hương đọc lại một bài thơ trào phúng của văn hào Pháp Sully Prud'homme tuyên dương hành động anh hùng của một người chỉ huy Ba Lan, khi ông nầy muốn chận đứng đoàn quân Nga trước một con rạch cạn , bằng cách làm cho họ tin tưởng rằng con rạch nầy khó có thể lội qua được . Để chứng minh điều nầy người Ba Lan lội xuống nước và gập hai chân lại đi bằng đầu gối, rồi sau đó nằm sấp xuống, trước khi giả bộ chìm hẳn và bị chết đuối. Jean M. Mérillon trợn tròn đôi mắt lên nhìn thẳng Tổng Thống Hương và vừa nhún vai vừa sốt ruột nói:
- "Chúng ta không còn ở thế kỷ 19 nữa, thưa Ngài Tổng Thống , và những tên cộng sản bây giờ đã có những chiến xa lội nước và đã có cầu nổi được kéo theo để qua sông dễ dàng "
Những ngày vừa qua, đã có nhiều nhân sĩ Việt Nam đến gặp Đại Sứ Pháp. Đó là : Đức Tổng Giám Mục Bình , Thượng Tọa Thích Trí Quang, thuộc chùa Ấn Quang, và Chủ Tịch Luật sư đoàn. Tất cả đều có một đề nghị: " Ông hãy có một hành động nào đó để tránh những trận đánh nhau trên dường phố trước khi đã quá muộn. "
Nhưng Tổng Thống Hương cứ ôm cứng Hiến Pháp không lay chuyển nổi !.
Cuối cùng, sau khi làm việc rất lâu với những người thân cận của mình, ông mới quyết định triệu tập phiên họp đặc biệt của Lưỡng Viện Quốc Hội vào sáng ngày mai thứ bảy 26/4.
°
°
Một tiểu đoàn chánh quy cộng sản Bắc Việt từ Đồng Tháp Mười định tiến đánh bất ngờ tỉnh lỵ Tân An , một thành phố nằm cách Sài Gòn khoảng 30 cây số về hướng Tây Nam . Cuộc tiến công nầy được diễn ra trên một cánh đồng lúa quá trống trải nên đã bị Không quân đập tan. Tiểu đoàn cộng sản đã bị diệt gọn. Nhưng cuộc tấn công nầy được xem như một cuộc hành quân của một đơn vị tiền phương, đã cho thấy là các đại đơn vị Bắc Việt từ Cam Bốt đang chuẩn bị tràn sang Việt Nam để siết chặt vòng vây Thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam .
Từ hôm thứ hai vừa rồi, thiên hạ đua nhau xin hộ chiếu. Đi ra khỏi Việt Nam từ đầu tháng đã là một chuyện rất khó rồi, còn bây giờ thì gần như không còn thế nào được nữa. Trừ một vài trường hợp được ân huệ riêng là thân nhân hay bạn rất thân của giới lãnh đạo Miền Nam Việt Nam Từ hai tuần nay, có người đã phải trả thật đắt (đến 15 triệu đồng bạc) cho một chiếu khán. Bây giờ thì chiếu khán đó không còn dùng vào đâu được nữa rồi. Có một số người Việt Nam đến phi trường Tân sơn Nhứt với một hộ chiếu (giấy thông hành) và một chiếu khán "đã mua", mới được biết là có một cú điện thoại từ Bộ Nội Vụ (Bô Trưởng đã được thay rồi) báo cho họ biết là những giấy tờ đó đã không còn giá trị nữa. Đồng đô la trong ba ngày đã vọt từ 1200 lên đến 2500 đồng. Và cái giá phải trả cho những "biện pháp ân huệ" cũng tăng theo nhịp độ đó. Do vậy số người được xuất ngoại "hợp pháp" càng ngày càng ít đi.
Hầu hết những người Việt Nam có cơ may rời khỏi nước đều nhờ vào cầu không vận cùa Hoa Kỳ . Cầu không vận nầy hoạt động suốt ngày đêm và khả năng bốc người đi được tăng lên gấp 3 lần. Mục đích đầu tiên của Hoa Kỳ là nhằm đưa về nước khoản 800 công dân Mỹ còn đang kẹt lại ở Việt Nam ..Công tác nầy chỉ đến cuối tuần nầy là hoàn tất. Cùng đi với người Mỹ mỗi ngày, có từ ba đến bốn ngàn người Việt Nam được tháp tùng, những ai được ghi danh trong "danh sách ưu tiên", gồm có những người làm việc cho các công ty Mỹ , những công chức hay công nhân làm việc cho văn phòng thuộc sứ quán hay các sở Mỹ, các nhân viên tình báo, các cấp thuộc chương trình bình định và gia đình của họ.
Sự việc được phép mang cả gia đình theo đã mở toang cửa cho tất cả mọi sự móc nối làm tiền. Có những người khi đã được ghi tên vào danh sách được đi rồi thì cho ghi thêm thân nhân của chính mình càng ngày càng nhiều ra và đã cho họ cùng đi với mình với một số tiền thù lao rất là hậu hĩ.
Nhịp độ ra đi càng ngày càng nhanh hơn. Những người di cư được các xe buýt to có lưới thép bọc bên ngoài cửa kiến chở đến Tân sơn Nhứt. Ngay ở cổng phi trường đã có nhiều thảm cảnh rất đau lòng giữa kẻ đi người ở. Sau đó họ được đưa vào các gian nhà lớn ở trong khuôn viên của Phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, nằm trong khu vực sân bay Tân sơn Nhứt. Ở đây không thiếu chỗ và có đầy đủ tiện nghi: có gần 1000 chiếc giường bố xếp cho họ nghỉ ngơi chờ đợi chuyến bay, có phần ăn nóng sốt 3 bữa mỗi ngày. Khi được kiểm điểm lý lịch xong, họ lại được xe buýt đưa thẳng ra phi đạo lên các phi cơ vận tải quân sự để đi đến Phi luật Tân, Đài Loan hay tới đảo Guam, và Honolulu (Hạ uy Di). Thỉnh thoảng cũng có một vài cô chiêu đải viên hàng không mảnh khảnh và duyên dáng trong chiếc áo dài xanh lơ đã tìm cách được kín đáo đưa lên các chuyến bay nầy.
Những người không có một mối liên hệ nào với người Mỹ hay với những người được Mỹ "bảo trợ" đã cố gắng tìm hết mọi cách và mọi phương tiện để được đi ra khỏi Miền Nam Việt Nam :
- Những nhà buôn khá giả bỏ tiền ra mua hay mướn các chiếc tàu, thuyền máy đánh cá của dân chài ngoài biển hay những chiếc thuyền đi biển để đưa họ đến Malaysia hay Thái Lan, nếu dọc đường họ không bị cướp hay giết chết để đoạt sạch tài sản vòng vàng tiền bạc mà họ dấu đút mang theo trong người .
- Có những người lanh lợi hơn liên lạc thẳng với các phi công của "câu lạc bô hàng không" và đề nghị mười ngàn đô la (10.000) cho mỗi hành khách nếu họ chịu chở những người nầy ra ngoại quốc.
- Có nhiều người bạn Pháp của tôi được mấy người Việt Nam lớn tuổi , đạo mạo khả kính, đến gạ với họ ngay ngoài đường phố, với đề nghị cưới giùm các cô con gái của họ với một số tiền hồi môn kếch sù lên đến hai chục triệu đồng cho mỗi người (khoản 80.000 quan Pháp), để mang các cô nầy về Pháp, với cam kết là khi đến nơi rồi họ sẽ làm thủ tục "ly dị ngay"
- Có một người Mỹ vừa mới bị bắt và bị trục xuất, vì anh ta đòi bảy ngàn đô la (7000) mỗi người để nhận họ là "thân nhân trong gia đình". Anh Mỹ nầy đã thành công trong việc đưa đi 18 người Việt Nam đến đảo Guam qua trung gian của người vợ Việt Nam của anh ta.
- Ở quán rượu Impérial của ông già Bonelli, một bà giám đốc cơ sở bào chế thuốc Tây (Bà Anh) đang tìm cách bán nhà của bà. Bà nói với tôi :
- "Đây là một biệt thự tuyệt đẹp, ở một địa điểm rất tốt, nằm trên đầu đường Paul Blanchy. Tám phòng, với hai nhà xe và 800 thước vuông vườn. Ba tháng trước tôi đã không bán với giá 30 triệu đồng. Bây gìờ thì tôi sẵn sàng nhượng lại với giá 3 triệu thôi (chưa đến 12.000 quan Pháp với hối đoái chánh thức). , và tôi sẽ để lại tất cả đồ đạc trong nhà gồm có bàn tủ ghế, quần áo, chén bát, máy lạnh và hai tủ lạnh...."
Ba ta móc bóp lấy một xấp giấy tờ ra và nói thêm :
- " Đây là giấy bán nhà, tôi đã ký sẵn rồi, chỉ còn ghi tên người mua vào là xong hết."
Ông già Bonelli trầm ngâm suy nghĩ và mỉm cười, ngẫng đầu lên mệt mỏi nhún vai và nói:
- "Ít nhất bà là người thứ hai đã đến đây gặp tôi từ hai hôm nay. Làm gì còn có người muốn mua nhà trong lúc nầy ?
Bà Anh lại quay sang tôi :
- " Tôi cũng có một chiếc xe Mercédès chạy dầu gần như mới toanh, 5000 cây số thôi, có đủ cả ra diô và cát sét. Tôi muốn bán nó với giá rẽ 500 đô la
- Chừng nào bà sẽ đi ?
- Trưa nay
- Bà làm sao có được chiếu khán xuất cảnh hay vậy ?
- Ông nghĩ xem. bà vừa trả lời cho tôi vừa cười rộ lên , các chiếu khán bây giờ vô giá. Tôi tự xoay sở với người Mỹ. Tôi đã giao dịch với họ từ 15 năm nay rồi và con gái tôi là một nhà sinh vật học ở Cựu Kim Sơn. Nếu ông muốn dùng chiếc xe tôi, ông hãy điện thoại cho tôi trước 15 giờ, Đây là số điện thoại của tôi .
Tôi không có ý định mua xe Mercédès của bà Anh, nhưng vì tò mò tôi đã điện thoại đến nhà bà vài phút sau 15 giờ. Một người làm cho bà đã trả lời cho tôi là bà ta đã đi ngoại quốc rồi và bà ta cũng không thèm ghé lại nhà để lấy chiếc va ly của bà nữa !
°
°
Vào chiều tối, hành khách của chiếc phi cơ "ca ra ven" thuộc hãng Hàng Không Việt Nam đi Băng Cốc (Thái Lan) đã được chứng kiến một cảnh rất não lòng. Trong chiếc phi cơ, ông tướng Trần văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng của nội các vừa từ nhiệm, nhưng vẫn còn là Xử Lý Thường Vụ, đang mơn trớn vuốt ve một người đàn bà đẹp rất duyên dáng trong bộ đồ mỏng mùa hè, có đeo một nhẫn hột xoàn lớn bên tay trái. Vừa mới ngày hôm qua đây, tướng Đôn đã cổ võ quân đội Quốc Gia phải bảo vệ đất nước đến hơi thở cuối cùng, thì hôm nay ở đây ông ta đang vừa rót vào tai của người bạn gái của ông ta những lời êm ái vừa vuốt ve hai bàn tay của cô ta. Sau đó ông trao cho cô ta một tấm ngân phiếu mà ông ta ký ngay tại ghế ngồi, và từ giã cô nàng với vẻ mặt vồn vã và đau khổ của những cặp tình nhân ở lứa tuổi sinh viên. Ngay trong lúc đó hẳn nhiên là vị tướng lãnh nầy chỉ dán cặp mắt và tâm tư của mình vào người đẹp sắp đi đến một nơi yên ổn. Các quân nhân đang chết trong các hầm chiến đấu của họ, chỉ cách nơi nầy có vài cây số, chắc hẳn không bao giờ ngờ được rằng họ đang hy sinh để giữ an ninh cho những sự trao đổi tình cảm yêu đương vụn vặt của một vị tham mưu lớn tuổi như vầy, một vị mà tên tuổi của ông ta đã từng được nêu lên như là một Thủ Tướng tương lai của một Chánh Phủ Liên Hiệp !
Thứ Bảy, ngày 26 tháng Tư
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã bay đi Đài Loan tối nay rồi. Có những lời đồn đãi từ "đài phát thanh Catinat" quả quyết là ông ta đã "mang theo 16 tấn hàng gồm có cả một bộ sưu tầm đá quý và đồ cổ đánh cắp ở Viện Bảo Tàng Quốc Gia và 4 tỷ vàng nén."
Một đại úy Dù đã tức giận nói với tôi :
- "Ông Thiệu ra đi không có một lời nói. Ông ta đã tuyên bố trên truyền hình là ông ta sẽ ở lại
với chúng tôi và sẽ chiến đấu bên cạnh chúng tôi cho đến cùng. Tất cả dân chúng trong nước
đều có thấy và có nghe. Và giờ đây ông ta trốn đi như một tên hèn, lợi dụng ban đêm để mọi người không trông thấy ông ta Bọn Tàu ở Đài Loan đã trải thảm đỏ để đón ông ta. Chỉ có một cách để chào đón ông ta, đó là để vào đầu ông ta một viên đạn !"
Tờ báo Pháp Le Courrier d'Extrême - Orient và báo chí Việt Nam đã cho hành động của TổngThống Giscard d'Estaing có một "tầm quan trọng rất lớn", khi ông đã nói chuyện rất lâu qua điện thoại với ông Đại sứ Pháp tại Sài Gòn . Làm như là Ba Lê đã thay thế Hoa Thạnh Đốn trong vấn đề tìm kiếm một giải pháp bằng thương thuyết cho Miền Nam Việt Nam rồi vậy .
Ông nghị sĩ Paul d'Ornano, đại diện cho người Pháp ở Việt Nam , đã đến Sài Gòn tối hôm qua bằng phi cơ. Ông đã có tuyên bố như sau :
- "Tôi rất sung sướng được trở lại với những người Pháp ở Sài Gòn , những người mà tôi thấy
là đã rất trầm tĩnh và rất là xứng đáng như lúc tôi còn ở đây 3 tuần lễ trước . Tôi cũng rất lấy làm sung sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống của nước Cộng Hòa Pháp đã có tiếp tôi ngay trước khi tôi rời khỏi Ba Lê, để bày tỏ tất cả sự ân cần của Ngài đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn mà Ngài đã biết và đánh giá cao lòng can đảm và phẩm chất...."
Nghị Sĩ Paul d'Ornano là một kỹ sư hầm mỏ, thuộc một gia đình quý phái lâu đời ở đảo Corse, đã từng phục vụ ở Đông Dương 22 năm. Là một cựu giám đốc đồn điền, ông là một người rất cứng cỏi và nhã nhặn, môt người biết rất rõ đất nước nầy.. Sự có mặt của ông ta làm yên lòng cộng đồng người Pháp ở đây, mà nếu có chuyện gì xảy ra thì họ sẽ trông cậy vào ông ta hơn là vị Đại Sứ, một người quá bận rộn với những sự theo dõi và suy nghĩ tới các giai đoạn biến chuyển chánh trị của Việt Nam
Và cũng ngay trong lúc đó, phần đông các nhà báo ngoại quốc đang dự buổi họp báo hàng tuần của sĩ quan Việt Cộng và của Bắc Việt, thành viên của Ủy Ban Kiểm Soát và Thi Hành Lệnh Ngừng Bắn đã được Hiệp Định Ba Lê ấn định. Lại thêm một chuyện rời rạc nữa, và không phải chuyện nhỏ đâu, vì cái chuyện "chấm dứt chiến tranh" nầy đã trở thành rất khó hiểu, và trên bình diện chánh trị nó là một vở kịch quá nực cười.
Kể từ tháng 3 năm 1973, 200 Việt Cộng và 500 cộng sản Bắc Việt đã đóng quân ở ngay giữa sân bay Tân sơn Nhứt, chiếm mấy dãy nhà có rào kẽm gai chung quanh, bên trong thì cộng sản tự canh gác với súng A.K.47 còn bên ngoài thì được quân cảnh Miền Nam bảo vệ. Cách doanh trại nầy chừng vài trăm thước, các phóng pháo oanh tạc cơ của Miền Nam cất cánh ầm ĩ mang bom đến đánh các đơn vị Bắc Việt trên đường tiến về thủ đô Sài Gòn
Đại tá Võ đông Giang, phát ngôn viên của Việt Cộng ngồi dưới bức ảnh cụ Hồ với chòm râu dưới cằm. Cũng giống như các cuộc họp báo trước, anh ta tố cáo những "hành động tội ác" của Tổng Thống Hoa Kỳ và của "Ngụy quyền" Sài Gòn - lời của ông ta thường xuyên bị ngắt quãng do tiếng gầm thét của các phản lực - nhưng lần nầy thì anh ta nhấn mạnh rằng chiến tranh giải phóng ngày càng tốt hơn cho "lực lượng cách mạng" .
Để kết thúc ông ta nhắc lại dai dẳng những điều kiện do "lực lượng cách mạng" đặt ra cho Chánh Phủ Sài Gòn để bắt đầu những cuộc thương lượng nghiêm chỉnh :
" - chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ
- Thành lập một tân Chánh Phủ, với tuyên ngôn "cho hòa bình, độc lập, dân chủ và hòa giải quốc gia"
- Thi hành Hiệp Định Ba Lê
- Loại bỏ tất cả những người đã từng nằm trong guồng máy của Thiệu
- Từ bỏ đường lối hiếu chiến, phát xít, áp bức và đàn áp đối với nhân dân
- Hủy bỏ tất cả các luật lệ phản dân chủ. Bảo đảm tôn trọng tự do dân chủ. Trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vì đã tranh đấu cho hòa bình và độc lập quốc gia."
Một phần lớn các điều kiện đó đang trên con đường được thực hiện.
Nhưng đại tá Võ đông Giang muốn nói gì khi ông ta đặt điều kiện "phải thi hành Hiệp Định Ba Lê" ? trong lúc 23 sư đoàn Bắc Việt tràn vào chiếm hai phần ba lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam ?
Và trong lúc ông vừa nói vừa đang đập bàn rầm rầm ở đây thì hàng trăm người Mỹ đang xếp hàng chạy lên chiếc phi cơ vận tải khổng lồ "Galaxie" đang chuẩn bị cất cánh.. Chuyến ra đi hấp tấp của người Mỳ nầy đang diễn ra không xa vị trí đồn trú của cộng sản bao nhiêu, nơi mà người Mỹ gọi là "Trại Davis" để kỷ niệm cho một người binh sĩ Hoa Kỳ tên Davis bị tử trận đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam
°
°
Về phía Sài Gòn , tiến trình giải thể Chánh Phủ đang được xúc tiến. Chỉ còn một vài hình thức bề ngoài cần phải xem xét lại mà thôi.
Hồi 10 giờ sáng nay, chiếc xe Mercédès dài của Phủ Tổng Thống đến đậu trước cửa Thượng Viện. Tổng Thống Hương, một ông lão đáng kính, bước xuống xe, chống gậy, chậm rãi đi duyệt qua hàng binh mặc lễ phục trắng đang dàn chào Ông. Các dân biểu và nghị sĩ thuộc lưỡng viện Quốc Hội tập họp đầy đủ đang đứng chờ ông trong sảnh đường lớn của tòa nhà. Họ đến như vậy là khá đông đấy: 183 trên 219 người dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội . Vì còn phải tính đến mọi sự khó khăn trong vấn đề di chuyển, nào là đường sá bị cắt đứt, nào là các tỉnh và thành phố đang bị cô lập hay đã bị cộng sản chiếm. Như vậy cho thấy là Quốc Hội rất quan tâm đến phiên họp đặc biệt quan trọng nầy. Tổng Thống Hương mở đầu phiên họp với một bản tường trình về những biến cố đã xảy ra từ khi ông lên nắm quyền.. Sau khi nói về những "khó khăn gặp phải trong các cuộc tiếp xúc" và những "áp lực liên tục mà ông phải chịu với những nhà ngoại giao ngoại quốc và với một số chánh trị gia của Miền Nam ", ông tuyên bố:
- " Tôi không muốn dấu quý vị lâu hơn nữa rằng cần phải và bắt buộc phải thương thuyết với phía bên kia. Nhưng vẫn còn có dân tộc và đất nước.Tôi không mong muốn Sài Gòn trở thành một Nam Vang thứ hai. Tôi không muốn thủ đô của chúng ta bị xóa tên trên bản đồ và cũng không muốn dân chúng của chúng ta bị bom đạn tàn sát.. Nhưng tôi muốn chứng tỏ sự kính trọng của tôi đối với đất nước cho đến cùng. Những trọng trách mà tôi đang gánh vác đây được gắn liền vơi tính cách hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, của Lưỡng Viện Quốc Hội và của quý vị dân cử. Tôi thấy tôi không có quyền đơn phương từ bỏ trọng trách đó. Tôi phải trông chờ vào quyền lực của Quốc Hội vì chỉ có Quốc Hội mới có đủ tư cách để quyết định phải xúc tiến việc thương thuyết và chỉ có Quốc Hội mới có quyền chỉ định cá nhân nào mà Quốc Hội xét thấy có đủ khả năng nhất để thi hành nhiệm vụ thương thuyết nầy.. "
Và sau đó ông Hương không có nêu thẳng ra tên tuổi của ai cả, nhưng ông giải thích chi tiết rõ ràng về những sự điều đình của ông với tướng Dương văn Minh:
- "Trước hết tôi đã đề nghị trên giấy trắng mực đen với "người đó" về chức vụ Thủ Tướng Chánh Phủ với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại Dinh Độc Lập. Ông ta cũng lại từ chối. Với một thiện ý muốn giải quyết vấn đề, tôi bất chấp hết mọi thủ tục và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi đã phải chấp nhận di đến nhà một người bạn để gặp "người đó". Tôi đã đề nghị với "ông ta" chiếc ghế Phó Tổng Thống nhưng một lần nữa "người đó" chẳng những đã khước từ đề nghị của tôi mà còn nói với tôi rằng: "Phải có tất cả hay không có gì hết ", có nghĩa là "phải là Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hòa". Tôi có lưu ý như vậy là ông ta đòi hỏi tôi phải vi phạm Hiến Pháp, và ông ta đã trả lời rằng "Đó không phải là việc của ông ta ". Sau đó tôi đã đặt cho ông ta một câu hỏi: " Có gì bảo đảm rằng phía bên kia sẽ chấp nhận thương thuyết với ông ?". Người đó đã trả lời rất gọn : " Tôi đã nhận được từ phía bên kia đầy đủ những bảo đảm để tôi làm tròn vai trò của tôi ". Mặc dầu tôi đã có nhấn mạnh nhưng tôi không thể có thêm một giải thích nào khác về những lời nói úp mở của ông ta và tôi thú thật là tôi không tin vào những lời nói đó.Tôi sẽ không bao giờ gánh lấy trách nhiệm về việc trao quyền hành một cách bất hợp hiến , vì lẽ đó nên ngày hôm nay tôi xin quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người đó bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc Hội . Đó là phương thức duy nhât vừa để cứu Sài Gòn khỏi một thảm họa vừa không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ."
Nói xong những lời đó, ông Hương rời phòng họp và trở về Dinh. có 2 xe hộ tống mở dường qua các phố đang đông nghẹt dân chúng.
Ông Trần văn Lắm, Chủ tịch Thượng Viện đề nghị ngay sau đó là các trưởng nhóm thảo luận ở các tiểu ban trước khi trở lại hội nghị khoáng đai . Sự bàn thảo của các trưởng nhóm đã được nhanh chóng tổ chức.
Trưởng nhóm "Dân Tộc Xã Hội" thuận cho tướng Minh nên muốn "Tổng Thống Hương phải từ chức một cách đơn giản".
Trưởng nhóm Cộng Hòa lớn tiếng : " Chúng tôi không có một tín nhiệm nào đối với tướng Minh. Ông ta đã thường thay đổi màu áo của ông ta, và không có gì để chứng minh rằng ông ta đã có xúc tiến bàn thảo với phía bên kia. Ông ta có thể đưa ra được một chứng từ nào không ? Ai là người đã liên lạc với ông ta và người đó ở vào đẳng cấp nào ?
Trưởng nhóm "Độc Lập" vỗ bàn : "Chúng ta không thể đặt tương lai của đất nước trên những giả thuyêt suông !"
Chủ tịch Thương Viện nhắc lại một liên lạc điện thoại của ông M.Graham Martin, đại sứ Hoa Kỳ. Ông nói : "Người Mỹ đã mạnh dạn khuyên chúng ta đừng nghĩ đến Hiến Pháp. Thời giờ đã quá cấp bách rồi . Không còn phải lúc để cho chúng ta tự trói buộc vào những lý sự cùn nữa "
Tướng Trần văn Đôn đang làm việc ngoài hành lang, tâm tình nhỏ to với các nghị sĩ : "Người Pháp là những người duy nhất có thể nói chuyện với Bắc Kinh , Mạc tư Khoa, Hoa thạnh Đốn, Hà Nội và CPLTCHMN, họ ủng hộ triệt để tướng Minh. Họ đoan chắc là cộng sản chỉ muốn bàn thảo với ông ta mà thôi."
Cuộc thảo luận công khai đã diễn ra lúc 14 giờ.Và nó kéo dài cho đến 22 giờ. Các diễn giả thay phiên nhau lên diễn đàn. Các cuộc thảo luận vô vị cứ kéo dài. Họ cãi vã, xô đẩy nhau, trao đổi nhau những lời đe dọa, nhưng cuối cùng rồi họ cũng đi đến thỏa thuận cho một bản văn quyết nghị vô thưởng vô phạt không giải quyết được gì cả :
- " Quốc Hội nhìn nhận Tổng Thống Hương có đầy đủ tư cách và thẩm quyền để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy thác để tiến hành các cuộc thương thuyết."
Tên của tướng Minh Dương không thấy nêu lên trong bản văn của quyết nghị.
Chủ Nhật, ngày 27 tháng Tư
Vào lúc 4 giờ sáng có nhiều tràng rốc kết được nã vào Sài Gòn . Những tiếng nổ làm rung chuyễn các cửa sổ. Sau đó chừng vài phút tôi nghe thấy tiếng còi hụ của các xe cứu hỏa và xe cứu thương. Từ trên sân thượng của mình tôi nhìn thấy ánh lửa và những cột khói đen quyện vào lửa đỏ trên nền trời.Có cháy ở về hướng nhà ga Sài Gòn , một khu vực có nhiều nhà gạch và nhà cây nhỏ. Nhưng phải đợi đến hết giờ giới nghiêm mới biết được chính xác là các quả rốc kết rơi ở khu vực nào, và gây thiệt hại ra sao cho dân chúng.
Đến 7 giờ sáng tôi mới đi săn tin được. Một quả đánh trúng khách sạn Majestic, nằm ở cạnh bờ sông Sài Gòn . Quả thứ hai nổ trên lề đường gần chợ Sài Gòn. Sáu quả khác đã nổ trong khu đông dân cư nằm bên kia đường đối diện với Bộ Tư Lệnh Cành Sát. Hàng trăm lều trại, xưởng nhỏ đang bốc cháy với những tiếng nổ như pháo. Mặt đất có cả một lớp tro đen phủ lên trên nhầy nhụa vì nước của các anh cứu hỏa. Những tấm tôn cong vẹo nằm vắt vưởng lên các bức tường đổ nát, và các bàn tủ ghế chỉ còn là những que củi cháy dở dang. . Các bà đang ngồi xổm , im lặng bới đám tro tàn. Các trẻ em bất động đứng nhìn chần chầm vào mấy bà mẹ.Các anh khiêng cáng đang chuyển lên xe cứu thương ba thây người co rúm, chỉ còn khoảng nửa thân mình, ba con người mà giống như những hình nộm bị cháy đen.
Tổng kết của cuộc pháo kích và của đám cháy : chín chết và 36 bị thương, Hai ngàn người không nơi cư trú. . . .
Trong những khu khác trong thành phố, cuộc sống vẫn tiêp tục rất bình thường. Bạn hàng trong chợ vẫn bày hàng trên sạp của mình. Các tiệm buôn vẫn kéo màn mở cửa . Lưu thông vẫn tấp nập nhưng đôi khi bị nghẽn vì có đoàn xe tang năm sáu chiếc của quân đội có trang hoàng vòng hoa đang chở các binh sĩ bị tử thương từ mặt trận về.
Trong một vài quán rượu còn sót lại hay những phòng "đấm bóp" trên đường Catinat, các cô gái xinh đẹp chuyên buôn hương bán phấn đã thay đổi hoàn toàn . Họ đã búi tóc lên và không còn sơn móng tay đỏ nữa và không còn mặc cũn lẳng lơ hay quần bó sát thân mình nữa mà đã mặc lại chiếc áo dài truyền thống của Việt Nam . Có tin nói là các cô đang tìm cách trữ thuốc ngừa thai dự kiến là cộng sản vào họ sẽ tịch thu hết.
Giá dồng đô la lên xuống giữa 3500 đến 4000 đồng. Các tay buôn bán ngoại tệ người Ấn đang trúng mối to với sự đầu cơ giấy 100 đô la (người cầm đầu là Ali Ismael nhìn nhận rằng đã kiếm lời trong mười năm qua được trên hai triệu đô la) 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam , bỏ lại trên 8000 chiếc xe bừa bãi khắp nơi, tạm thời được coi như vô chủ.
°
°
Cũng vào ngay chúa nhật đó, lúc 12 giờ trưa, ông Chủ Tịch Thượng Viện nhận được một văn thư của Tổng Thống VNCH do mô tô mang đến trao tận tay. Đại ý:
" Theo các điều khoản của Hiến Pháp thì Quốc Hội phải ra quyết định thay thế tôi và phải chỉ định người kế vị tôi với tên họ đầy đủ. Do đó tôi đòi hỏi Quốc Hội phải nhanh chóng bày tỏ ý kiến của mình."
Vào lúc 14 giờ đài phát thanh đã kêu gọi tất cả các nghị sĩ và dân biểu phải có mặt ở Quốc Hội đúng 17 giờ để dự một "phiên họp khoáng đại vì quyền lợi quốc gia"
Vào giờ ấn định, các nghị sĩ và dân biểu đến Thượng Viện cũng đông đủ như ngày hôm qua. Chủ tịch Thượng Viện thông báo với họ là trước khi mở khoáng đại hôi nghị, tướng Trần văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng, sẽ thuyết trình về tình hình quân sự .
Tướng Đôn mặc thường phục có 3 vị tướng lãnh và một đề đốc tháp tùng: Tổng Tham mưu Trưởng, Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô,Tư Lệnh Không Quân và Tư Lệnh Hải Quân. Ông yêu cầu sự có mặt của các vị nầy để chứng thật tin tức trong bài thuyết trình của ông ta. Tướng Đôn đưa ra một hình ảnh quá đen tối:
" Mười bốn sư đoàn Bắc Việt được trang bị pháo binh thật hùng hậu đang bao vây thủ đô Sài Gòn . Biệt kích và đặc công cộng sản đang xâm nhập vòng đai. Trận chiến ờ Xuân Lộc vẫn còn đang tiếp diễn chung quanh thị xã, ờ đó các đơn vị của Chánh Phủ đang hăng say chiến đấu, nhưng họ bị phân tán và pháo binh của họ bị pháo binh cộng sản vượt trội về tầm xa. Họ pháo ta từ xa nên không bị thiệt hại gì. Không quân của ta được xử dụng liên tục ngày đêm không ngơi nghỉ trong nhiều tuần lễ nay, nên cả anh em phi công và phi cơ đều đã quá sức chịu đựng. Ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng do phòng không địch và hỏa tiễn địa không của họ. Căn cứ Không quân Biên Hòa dưới hỏa lực của địch đã gần như bị tê liệt. Trong vài ngày nữa, mà cũng có thể là trong vài giờ nữa không chừng, có thể sẽ đến lượt Sài Gòn phải bị tàn phá vì đạn pháo 130 ly tầm xa của Bắc Việt . Nhất định cần phải thương thuyết với họ để ngừng bắn càng sớm càng tốt..."
Một số dân biểu trẻ hung hăn chen vào la lối om sòm một cách giận dữ và mỉa mai :
"Bị bán đứng rồi ! Đồ hèn nhát, chủ bại, tướng phòng ngũ !"
Tiến sĩ Vũ quốc Thúc trưởng nhóm "Độc Lập" vừa tiến tới tướng Đôn vừa hét to lên nhiều lần :
" phản bội, đồ phản bội, anh chỉ là một tên phản bội, đáng được đem ra xử bắn ". Khi nghe chửi như thế, Tướng Đôn mặt tái mét im thin thít không nói được một tiếng nào . Các tướng lãnh đi theo ông sửng sốt về những phản ứng dữ dội của cử tọa nên cũng cúi đầu im thin thít.Chủ tịch Trần văn Lắm cố gắng trấn tĩnh mọi người nên khuyên can :
" Các anh em nên đặt câu hỏi là phải hơn, các vị tướng lãnh sẽ trả lời cho mình." Các câu hỏi được đưa lên loạn xà ngầu :
" Ông chỉ nói về hành động và sáng kiến của địch mà về phần ông ông đã có biện pháp nào chưa? Ông đã có đi lên mặt trận mấy lần rồi?"
Nghị sĩ Vũ văn Mẫu đứng lên và chẩm rải nói gằn từng tiếng :
"Ông là Tổng Trưởng Quốc Phòng phải không ? Vậy tôi lập lại câu hỏi của tôi : Ông đã có những sáng kiến và những biện pháp nào để lo phòng thủ Sài Gòn chưa ? Và để chận đứng sức tiến của địch ?
Tướng Đôn lắc đầu và trả lời lạc giọng :
"Các sự chuyển quân và các biện pháp chiến thuật đều thuộc về bí mật quân sự"
Cuộc điều trần coi như được chấm dứt. Tổng trưởng Quốc Phòng và những quân nhân tháp tùng đi ra khỏi phòng họp dưới những tiếng la ó. Cuộc tranh luận của Quốc Hội kéo dài 4 tiếng đồng hồ. Còn sôi động và dữ dội hơn ngày hôm qua nữa, bị ngắt khoảng bởi các sự chửi mắng và những cuộc ấu đả ngắn . Tay chân đôi khi thay cho lời nói. Nhưng rồi lần lần sự mệt mỏi đã có tác dụng. Cuối cùng rồi những đề kháng quyết liệt nào cũng phải bị chìm xuống vì cảm giác bất lực và uể oải, vì ai cũng thấy rõ là những lời nói dù có nóng bỏng đến đâu cũng không có một chút cân lượng nào đối với những biến cố quân sự .
Lúc bấy giờ Chủ tịch Trần văn Lắm mới can thiệp vào :
"Chúng ta phải kết thúc thôi ! và phải nhìn thẳng vào sự việc. Than van cũng vô ích thôi. Chúng ta đã thua rồi. Mình phải chấp nhận sự nhục nhã nầy bằng một lời an ủi là dầu sao họ cũng cùng một dân tộc với chúng ta, vẫn còn đỡ hơn là đối với những người ngoại quốc."
Rồi sau dó ông lại nói thêm, hình như để tìm cách xóa tan những ý nghĩ ngại ngùng của chính ông vừa nói ra:
Tôi chỉ mong sao những kẻ chiến thắng hiểu rằng người Miền Nam Việt Nam cũng là những người anh em của họ... Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác là giao hết quyền hành cho tướng Minh Dương. Đây là văn bản mà tôi đề nghị với quý vị :
" Quốc Hội với đầy đủ quyền tự do của chế độ, thấy rằng phải mở ngay các cuộc thương thuyết không thể tránh được . Tướng Dương văn Minh được chỉ định thay thế Tổng Thống Trần văn Hương để lãnh đạo Quốc gia, là người có nhiệm vụ phải tiến hành công tác thương thuyết nầy."
Lưỡng viện Quốc Hội đã đưa tay bỏ phiếu, chấp thuận bản quyết nghị với đa số 120 phiếu thuận, 32 phiếu chống và 20 phiếu trắng. Lúc đó là 9 giờ đêm.
Vào lúc chủ tịch Thượng Viện rời phòng họp, ông Nguyễn hữu Thống, một dân biểu trẻ thuộc nhóm Cộng Hòa đã buông ra một câu đầy khinh bỉ :
" Ông Trần văn Lắm có thể rất là bằng lòng. Ông ta đáng được người Mỹ vàViệt Cộng khen thưởng!".
Cách ông ta vài bước nghị sĩ Trần trung Dung bàn cãi với cựu Tổng Trưởng Trần chánh Thành :
"Thật là khó hiểu được thái độ của người Mỹ. Họ đã áp lực ông Thiệu để ông nầy phải ra đi, viện cớ đó là biện pháp duy nhất để Quốc Hội Hoa Kỳ bỏ phiếu chấp thuận ngân khoản viện trợ. Cuối cùng ông Thiệu phải từ chức. Tổng Thống Hương, người kế vị cho ông Thiệu lại được nghe một câu nói của đại sứ Martin ngay sau đó: "Đã quá trể rồi, Quốc Hội Hoa Kỳ không còn bỏ phiếu cho ngân khoản viện trợ nữa.Ông phải nhường ghế Tổng Thống lại cho
một người khác đi, người đó phải "được phía bên kia chấp nhận". Ông già Hương đã bảo vệ Hiến Pháp đến cùng, Hiến Pháp mà chính những người làm luật của Hoa Kỳ đã tham gia tạo dựng nên.. Nhưng tới giai đoạn nầy người Mỹ thông thường là những người rất tôn trọng luật pháp, lại thấy rằng như vậy sẽ làm mất quá nhiều thì giờ. Cuối cùng, trước khi chúng ta bỏ phiếu chấp thuận trao toàn quyền cho tướng Minh , đại sứ Martin đã mời ông Hương chuẩn bị để cùng ra đi với những người Mỹ cuối cùng. Ông Hương đã thẳng thắng trả lời :
- " Tôi không đi đâu hết, Chỗ của tôi phải là ở trong nước của tôi . " Người Mỹ thật sự đã tưởng chúng mình là những người không biết đến hai chữ danh dự là gì chắc !!!!. "
Trần chánh Thành nhúng vai và nói :
"Anh sẽ thấy là họ sẽ đòi hỏi tướng Minh phải ra lệnh cho họ rời khỏi nước Việt Nam ... và họ sẽ ra đi không kèn không trống cho mà xem !. "
Một vị trưởng tòa đưa tay tắt ngọn đèn xanh đang chiếu sáng chiếc bàn hình móng ngựa ở Dinh Độc Lập. Nơi đây sẽ tổ chức buỗi lễ bàn giao quyền hành ngày mai. Tướng Minh sau đó sẽ nói chuyện với quốc dân đồng bào qua hệ thống truyền thanh và truyền hình.
CHƯƠNG 21: ÔNG DƯƠNG VĂN MINH LÀ AI?
Hình ảnh của tướng Dương văn Minh do các ủng hộ viên của ông đưa lên ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc đã được rút ngắn gọn lại chỉ còn một vài nét ca tụng cá nhân, nhưng thường không đúng và có quá nhiều sự việc, chi tiết quan trọng thì đã bị bỏ lửng trong bóng tối. Hình ảnh đó được tóm gọn trong một vài phẩm cách căn bản cần thiết và có lợi cho những người lãnh đạo như : đó là một người chủ trương "hòa bình", liêm chính, trung trực, bình dân và được kính nể,v.v...
Cộng sản Bắc Việt xem ông ta như một "người đối thoại có giá trị".
Tờ Kinh Tế Viễn Đông còn trịnh trọng xác nhận ông ta đã tốt nghiệp trường Des Charles của Pháp nữa.
Nhân vật nầy có thể không cần phải có những nhận xét quá đơn thuần như thế đâu, nếu người ta nghĩ tới động cơ nào đã thúc đẩy ông đi tới hành động và nếu chịu khó nghiên cứu kỹ về tiểu sử của ông người ta sẽ thấy là các phẩm tính đã gán cho ông không được chính xác lắm đâu. Những biến cố mà ông đã dính vào, sự bất nhất và những mâu thuẫn của những người chung quanh ông đã cho thấy rằng ông thường là công cụ của những khuynh hướng chánh trị khác nhau hoặc của những nhân vật có tham vọng cá nhân nhưng sau đó họ đã bỏ rơi ông ta trong sự bối rối không biết phải làm gì .
Ông sanh ngày 19 tháng 2 năm 1916 tại Mỹ Tho, ngay thị xã của một tỉnh cũ của người Khờ me, một giang cảng quan trọng thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Ông đã lớn lên ở Miền Tây Nam Bộ trong vùng đồng ruộng mênh mông có nhiều sông rạch rộng và sâu. Thân phụ ông là một người cao lớn hiền lành , thông phán của Chánh Phủ, giỏi về văn chương thơ phú Việt Nam và triết học Lão Giáo, chỉ sống cho bạn bè. Thân mẫu ông cũng to con, đen đúa có giòng máu Cam pu chia. Từ hệ gia tộc như vậy, ông Minh là một mẫu người đặc biệt, thích có bạn bè, không sợ cái chết, thường có sự kính trọng các quan chức, và cũng có một màu da ngâm đen. Ông học hết bậc trung học ở trường Pháp Chasseloup-Laubat và có tú tài đôi, khoa học. Ông ta gần như là một lực sĩ , bơi lội giỏi và là một tay chơi quần vợt rất có hạng. Năm 1939 ông bị động viên vào bộ binh của người Pháp. (nguyên tác: infanteriecoloniale). Vào thời đó, các binh sĩ bộ binh nầy thường có biệt danh là những con "cá heo", là những tay đấm đá, dân xâm mình, hay nhậu nhẹt và lúc nào cũng sẵn sàng đánh nhau. Không như các bạn Việt Nam yếu đuối khác thường tránh gây sự, ông Minh to mồm và hiếu chiến, không bỏ qua chuyện gì hết, cứ húc thẳng mỗi khi bị khiêu khích và húc mạnh. Năm 1940, ông ra trường với cấp bậc chuẩn úy ở Thủ dầu Một, đứng hạng 3. Năm 1945 được thăng trung úy và là sĩ quan thể thao của đồn quân Vũng Tàu. Cũng vào năm đó, ngày 9 tháng 3 khi quân Nhật tấn công các đơn vị Pháp, ông chiến đấu mãnh liệt suốt đêm, nhưng khi cuộc chiến chấm dứt, ông đã ngả theo Nhật, đó là một điểm quá yếu. Khi Nhật đầu hàng, để tránh ra hội đồng quân pháp, ông lui về quê nhà ở Mỹ Tho sống với môt quan chức, ông Nguyễn ngọc Thơ, bạn của thân phụ ông. Trong vòng mấy tuần lễ với sự sảng khoái của nền độc lập vừa mới tìm lại được, ông lại ngồi vào "ủy ban hành chánh Việt Minh" của tỉnh Mỹ Tho. Đến tháng 10 năm 1945, khi đoàn quân thiết giáp của đại tá Massu vào Mỹ Tho, ông tự để cho họ bắt mà không kháng cự. Được hộ tống về Sài Gòn , nơi ông bị truy tầm như một quân nhân đào ngũ, chánh quyền đưa ông sang Cảnh Sát đặc biệt ở đường Catinat đễ điều tra. Ở đó ông bị qua một cơn hành xác quá khủng khiếp. Các nhân viên điều tra đã đánh ông bằng gót giầy làm gãy hết hàm răng trên chỉ còn lại một chiếc. Từ lúc đó ông mới có biệt danh là "Minh sún" (nguyên tác :"L'Édenté").
Mãi đến năm 1947 ông mới được trở vào quân đội Pháp lại với cấp bậc cũ .Là một sĩ quan tốt, rất chịu khó chiến đấu không mệt mỏi, ông được binh sĩ trực thuộc thương mến. Năm 1951, ông được thăng cấp đại úy và đảm nhiệm chức vụ sĩ quan tùy viên cho ông Trần văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam . Năm 1952 ông được thăng Thiếu tá và được gời đi thụ huấn lớp Chỉ Huy Tham Mưu ở Pháp. Đến 1953, ông ra trường và trở về Miền Trung Việt Nam với cấp bằng Chỉ Huy Tham Mưu cao cấp. Ở đây ông chỉ huy nhiều cuộc hành quân trong vùng rừng thiêng nước độc của "dãy phố buồn hiu".
Sau Hiệp ước Genève 1954, ông được gọi về Sài Gòn. Thủ đô Sài Gòn lúc bấy giờ như một thùng thuốc súng sấp nổ, không người nào tin vào khả năng đứng vững của tân Chánh Phủ của ông Diệm. Ở Miền Nam Việt Nam các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên rất hùng mạnh. Lực lượng quân sự của họ nếu tính chung lại được lên quá con số 50.000 người và những vùng ảnh hưởng của họ trải rộng khoản 1/3 đất nước. Bảy Viễn, lãnh tụ Bình Xuyên từ một cựu thảo khấu đã trở thành một tướng lãnh, là một người hung bạo và gan dạ như một con trâu rừng, làm chủ cả thủ đô mà không còn ai nghi ngờ gì nữa. Ông ta nắm cảnh sát, nắm sòng bạc Đại Thế Giới, kiểm soát bọn con buôn người Tàu, các lò sát sinh, và mọi sự lưu thông đường bộ cũng như đường thủy . Do đó ông ta rất giàu mạnh, dân chúng ai cũng sợ. Nhưng ông Diệm có quyết tâm cần phải phá bỏ tập đoàn phong kiến và chứng tỏ uy quyền của Chánh Phủ mình. Do đó ông cho thăng cấp ông Minh lên đại tá, trao cho ông quyền chỉ huy tiểu khu Sài Gòn Chợ Lớn với toàn quyền hành động. Lúc bấy giờ ông Minh mới kêu gọi đến sự hợp tác của các sĩ quan thâm niên thuộc các tiểu đoàn Dù.
Ngày 28 tháng 4 năm 1955 hồi 4 giờ sáng có tiếng bách kích pháo nặng nổ trong thành phố. Một cột khói đen khổng lồ bốc cao trên nền trời. Cuộc chiến chống các giáo phái bắt đầu. Cuộc chiến nầy kéo dài 2 năm. Một cuộc nội chiến đẫm máu , không khoan nhượng, nếu không muốn nói đến hai chữ "tàn nhẫn", từ chiến đấu trong đường phố đến các trận tập kích của đặc công trong vùng sình lầy, các trận xung kích của thiết giáp suốt cả Miền Tây Nam Bộ. Ông Minh có mặt khắp nơi khi có chạm súng nặng. Người của ông ta đã phạm vào một vài hành động "thất nhân tâm", cướp một xe hàng hóa gọi là chiến lợi phẩm trị giá 8 triệu đồng, chia cả kho bạc của Bảy Viễn trên 100 triệu đồng (tương đương với 1 tỷ quan Pháp cũ lúc bấy giờ). Thanh toán Bình Xuyên xong là đến lượt Hòa Hảo, một cuộc đuổi bắt với đủ loại cạm bẩy, xuyên qua các đồng ruộng mênh mông ngập nước, xuyên qua các giồng cát, các kênh rạch hay các rừng đước rừng tràm. Hàng loạt cuộc săn lùng người khắp nơi, không nhân chứng, được diễn ra trên hàng trăm cây số từ Đồng Tháp Mưồi đến núi Thất Sơn qua tận biên giới Việt Miên. Cho đến khi với hành động phản trắc bắt được tướng Ba Cụt, một nhân vật nổi tiếng, một vị chỉ huy trưởng gầy gò để tóc dài của kháng chiến quân Hòa Hảo mà cả người Pháp lẫn cộng sản không hạ được và cũng không khuất phục được .Ba Cụt bị xử tử bằng máy chém và cả Hoà Hảo không bao giờ tha thứ cho ông Minh về chuyện nầy. Lúc bấy giờ ông Minh là một quân nhân và sự thù hận nầy không làm cho ông quan tâm lắm. Sự chống đối triền miên của giáo phái Hòa Hảo được ăn sâu trong cả 11 tỉnh đông dân cư của đồng bằng sông Cửu Long đã làm suy giảm một cách đáng kể đến tầm vóc của người lãnh đạo Miền Nam khi ông Minh thật sự bước vào con đường chánh trị . Nhưng đây là một việc khác...
Năm 1958, tướng Minh về Sai Gon trong chiến thắng. Lễ lạc, tràng hoa, vinh thăng trung tướng.... diễn hành, duyện binh, kèn trống .... Nhưng bà Ngô đình Nhu cố vấn chánh trị và em dâu của ông Diệm lại không tin tưởng những tướng lãnh quá bình dân. Bà nói với ông Diệm :
-" Không nên để cho lớn mạnh dưới trướng của mình một quân nhân có quá nhiều ảnh hưởng trong quân đội . Với khuynh hướng thông thường thích các cuộc đảo chánh kiểu Nam Mỹ của người Anh, đã là một người chiến đấu giỏi, nhưng dễ bị mua chuộc, không thông minh lắm và nhất là không biết gì lắm về chánh trị , tướng Minh không khéo rồi sẽ trở thành một tướng lãnh để cho người ta nhắm vào. Chỉ cần có một đường giây nhỏ nào đó của tòa đại sứ hay Bộ Ngoại Giao Mỹ và một cố vấn có hạng của bọn Trung ương tình báo Hoa kỲ ( CIA ) là đủ rồi. Cho nên tốt hơn hết là chúng ta nên giữ một khoảng cách nào đó đối với ông ta."
Mặc dầu các phe phái đã bị đập tan, các cán bộ cộng sản không có được bao nhiêu, nhưng chế độ của ông Diệm cũng chưa được tự tại cho lắm. Là một người ngoan đạo lại thấm nhuần tập quán của Khổng Mạnh, vị Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam là một người quốc gia cực đoan và đến giờ nầy vẫn còn độc thân, sống khắc khổ, nên có một đường lối chánh trị đặt trên nền tảng "tập trung quyền hành", với một tinh thần đạo đức khắc nghiệt, tôn trọng và bảo vệ triệt để tôn ti trật tự trong gia đình, cùng với một sự hướng dẫn chánh trị cho dân chúng và một sự nâng đỡ vô điều kiện đối với khối giáo dân di cư từ Miền Bắc. Các vũ trường và tiệm hút đều bị đóng cửa, cờ bạc bị cấm, vợ chồng phải có cưới hỏi hợp pháp, tội ngoại tình phải bị xử tù và học tập chánh trị bắt buộc. Hầu hết các vị trí then chốt trong chánh quyền đều do trí thức Miền Trung nắm giữ. Tướng Minh vốn là người Nam , gốc Miền Nam Việt Nam , rất sợ những sự gò bó, nghi lễ và những mánh khóe chia rẽ bạn bè. Ông mạnh mẽ chỉ trích các trí thức Miền Bắc và Trung hèn hạ, thượng đội hạ đạp, tự cho mình là "những con mọt sách". Ông không cần biết đến "dịch rửa tội" nó đang tàn phá hàng ngũ các cấp tá đang chạy lo cho vấn đề thăng thưởng của họ. Khi có dịp đi thăm miền quê với Tổng trưởng quốc phòng , ông tự tách rời khỏi đoàn quan khách, đi lẫn lộn trong đám nông dân, có khi lội xuống ruộng sình lầy mà không cần phải xăn quần hay cởi giầy., còn có đổ mồ hôi thì tự kéo tay áo lên chùi trán. Với hàng binh sĩ thì ông nói công khai :"Nên để thì giờ chạy theo tán gái còn hay hơn là chạy theo mấy ông cố đạo" Trong các cuộc tiếp tân thì ông từ chối tán tỉnh để kiếm điểm với bà Nhu, chỉ trích công khai các công chức và các sĩ quan xin vào đảng "Cần Lao" (chú thích của tác giảdưới chiêu bài của "đảng Cần Lao", đây là một sự tuyển chọn một đội ngũ cán bộ và những người được gọi là ưu tú để phục vụ chánh quyền hiện tại)
Vị thế của ông lần lần bị lu mờ. Vào cuối năm 1959, ông được cử làm thanh tra các Quân Đoàn I và Quân Đoàn II (Vùng Hué và Cao Nguyên Trung Phần). Nhưng thật sự ông không rời khỏi Sai Gon và cứ ngồi ỳ trong văn phòng của mình. Vì các đặc quyền của ông đã được ông Ngô đình Cẩn làm hết rồi, ông nầy là người em "út" của ông Diệm, một vị lãnh chúa xảo quyệt và bí mật, một ủy viên chánh trị và thủ quỹ của Miền Trung Việt, một người nắm hết cả vùng với một mạng lưới cán bộ đảng viên đảng Cần Lao, từ cảnh sát đến binh sĩ và điềm chỉ viên, một người tự cho mình là thấy hết, biết hết, mua chuộc và bảo đảm sự trung thành của mọi người bằng tiền bạc hay bằng một sự giúp đỡ nào đó... một người không chịu bỏ qua bất cứ một chuyện lớn nhỏ nào cả.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, hai vị đại tá thuộc binh chủng Nhảy Dù đã làm một cuộc đảo chánh ở Sai Gon với 3 tiểu đoàn Dù, họ đã chiếm hết các điểm trọng yếu trong thủ đô, đánh vào Liên đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gần vườn Bách Thảo và bao vây Dinh Độc Lập. Các sĩ quan nầy đã mời ông Minh lãnh đạo cuộc binh biến nầy nhưng ông từ chối, không tham gia. Cuộc đảo chánh thất bại. Các sĩ quan chạy qua Cam Bốt. Tướng Minh cũng không được ân huệ gì hơn.
Đến năm 1961, ông nhận một chức vụ mới :"Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân" của quân đội. Nhưng cũng chỉ là một chức vụ tượng trưng "ngồi chơi sơi nước" mà thôi. Bởi vì trong những cuộc hành quân chống du kích đầu tiên và thành lập các "Khu trù mật", ít khi mà quân đội can dự vào. Bất bình vì coi như đương nhiên bị gạt ra ngoài vòng, ông ta càu nhàu, gậm nhấm mối hận nầy, nhưng vẫn giữ một thái độ hết sức thận trọng.
Năm 1963 ông lại được chỉ định làm "Cố vấn quân sự cho Phủ Tổng Thống", một chức vụ hoàn toàn có tánh cách danh dự và thụ động. Dù sao thì ông vẫn là người rất bình dân trong quân đội nên có một nhóm tướng lãnh và đại tá đã tiếp xúc với ông để chuẩn bị cho một cuộc đảo chánh, Ông Ngô đình Nhu nhờ cảnh sát mật vụ của ông cho biết nên đã cảnh giác đề phòng. Nhưng ông không tin là ông Minh có đủ tài cán, nên bỏ qua việc nầy với một câu nói có vẻ khinh bỉ :
- " Anh ta có sức như một con voi nhưng có bộ óc của một con chim muỗi. Không có quản tượng thì voi không thể làm gì được đâu. ".
Ông Nhu nói cũng đúng lắm nhưng ông đã lầm. Tướng Minh và "nhóm đảo chánh" của ông không thiếu quản tượng đâu :
- Tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng Thống Kennedy là người đầu tiên đã tiếp xúc và khuyến khích những người tạo phản.
- Đại sứ lỗi lạc của Hoa Kỳ ông Henry Cabot-Lodge, nhà quý tộc của thành phố Boston, một người biết tính toán và rất lạnh lùng... đã làm gạch nối với sự trợ giúp của một kỹ thuật gia thuộc Cục Trung Ương Tình Báo : đại tá Lou Conein (18 năm ở Việt Nam ), một bợm rượu có hạng, một kẻ phiêu lưu rất nên thơ nhưng rất dữ dằn, cha là người Nga mẹ là người Pháp, vợ là người lai Âu Á, anh là cựu chiến binh của OSS (tiền thân của CIA ) ở bưng biền Bắc Việt , cựu huấn luyện viên của những toán đặc công Việt Minh đầu tiên vào năm 1945... ( chú thích thêm của tác giả :Có một chuyên viên CIA khác làm việc chung với Lou Conein. Đó là đại tá Spera, người sau nầy được nổi tiếng là đã thanh toán Che Guevera ở Bolivie).
Tướng Minh và Lou Conein đã biết nhau từ chiến dịch đánh Bình xuyên, một chiến dịch đã gây ra những sự đụng chạm nặng giữa sĩ quan Phòng Nhì của Pháp và cố vấn quân sự của CIA . Người Pháp thì ủng hộ Bình Xuyên, những người đồng minh cũ trung thành với Pháp. Người Mỹ thì ủng hộ ông Diệm và tướng Minh trong việc nắm lại thị trấn Sài Gòn - Chợ Lớn. Cộng tác chung quanh tướng Minh và Conein trong việc chuẩn bị lật đổ ông Diệm, còn có cả một nhóm chuyên viên: tướng Lê văn Kim, một sĩ quan tham mưu quan trọng (trước thế chiến 2 ở Paris là người đạo diễn đã làm việc với Marcel Pagnol), tướng Trần thiện Khiêm (sau nầy là Thủ Tướng và là cánh tay mặt của Tổng Thống Thiệu), tướng Mai hữu Xuân, (cựu tư lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt, một người có tánh dứt khoát, hung dữ và thù hận, biết rất nhiều chuyện bí mật và có dưới trướng nhiều toán sát thủ trung thành và phục vụ vô điều kiện.), Đại tá Đỗ Mậu, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, cựu trung sĩ vệ binh Việt Nam thời Pháp, một con người mưu sĩ đầy mánh khóe nhưng không biết ngại ngùng là gì. Con bài chủ của nhóm người nầy là tướng Trần văn Đôn, Tham mưu trưởng QLVNCH, người được bà Nhu vừa đẹp vừa say mê bảo vệ đặc biệt. Tướng Đôn là người được Tổng Thống Diệm và ông Nhu tín nhiệm hoàn toàn, sẽ là người phối hợp không bị nghi ngờ cho toàn nhóm.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, chế độ bị lật đổ, Cả hai ông Diệm và Nhu đều bị đại úy Nhung thanh toán bằng mấy phát súng lục 12 ly và bị đâm thêm nhiều nhát dao găm. Đại úy Nhung, sĩ quan cận vệ của tướng Minh, là người thi hành tất cả lệnh của tướng Minh một cách mù quáng.
Sau khi thành công, nhóm đảo chánh thành lập "Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng" và tướng Minh được giao cho chức Chủ tịch nắm lấy chánh quyền.
Nhưng không phải chỉ hạ bệ một ông Tổng Thống bằng đại bác là đã chứng minh được là mình có khả năng trị quốc.
Tướng Minh lúc nào cũng trung thành với bạn bè nên đã chỉ định người bạn cũ trong kháng chiến và cũng là bạn trong tù là vị quan lại Nguyễn ngọc Thơ vào chức vụ Thủ tướng Chánh Phủ , và giao Bộ Thể Thao cho một người bạn khác của ông, một kiến trúc sư ốm yếu bệnh hoạn , một người suốt cả đời chưa bao giờ biết làm một động tác thể dục nào. Hội đồng Quân Nhân quá bận tâm với hồ sơ về "sự độc tài của chế độ Diệm" nên không có đưa ra được một chương trình hành động về chánh trị hay kinh tế nào . Tướng Minh đã có những lời tuyên bố làm cho các nhà báo sửng sốt :
"Chúng tôi cũng đã nghĩ tới học thuyết. Nhưng trong hiện tại, có rất nhiều việc quan trọng hơn: nắm vững lại công việc để đi tới chiến thắng."
Ngoài ra, vì các đơn vị ưu tú của quân đội cứ tập trung và đóng mãi ở thủ đô, cũng như có nhiều tướng lãnh mải lo tìm chức vụ và bổng lộc, nên đã có một khoảng trống trầm trọng trong lãnh thổ. Các "ấp chiến lược" từng được xem là xương sống của hệ thống phòng thủ của dân chúng chống lại Việt Cộng lại bị phá tan. Có nhiều vị tổng bộ trưởng và công chức cao cấp bị bắt giam hay lưu đày, và có nhiều vị tỉnh trưởng bị cách chức. Cộng sản lợi dụng tình trạng hỗn loạn trong quân đội , lợi dụng khoảng không chánh trị và sự thiếu vắng của nền hành chánh trong lúc nầy để tiến hành những hành động qui mô hơn trong tất cả vùng quê thuộc đồng bằng sông Cửu Long .
Còn nói về việc "nắm chặt tình hình" của các tướng lãnh thì đó thường được diễn dịch ra là những cuộc ''làm tiền". Trước tiên, các "ông đảo chánh" bắt đầu là "đánh vào" các kỹ nghệ gia, họ cho đó là những người đã làm giàu dưới trào chế độ cũ. Cố vấn tài chánh của ông Nhu, một nhà tư sản có hạng ở Hué. đã bị bắt buộc phải nộp 60 triệu đồng. Theo lệnh của tướng Minh, vị linh mục từng làm lễ rửa tội cho ông Diệm bị bắt . Bị hăm dọa xử tử hình, linh mục nầy phải giao lại cho vị nguyên thủ quốc gia 35 triệu đồng, số tiền đã được Tổng Thống Diệm giao cho nhà thờ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng.. Sau đó, các "ông đảo chánh" tự chia nhau khoản 500 triệu tiền công quỹ còn lại sau cái chết của ông Diệm. Ở Dinh Độc Lập, chán nản và phiền phức vì cứ phải cứu xét các hồ sơ, tướng Minh tiếp hết mọi người . . làm cho các cơ quan an ninh muốn điên lên. Có một ngày nào đó, trên 20 người mặc quần ngắn không cà vạt đi giầy bố, đến trính diện ở cổng. Tất cả đều là bạn quần vợt của ông Minh, những ông thông ông phán, những thầy thơ ký, những người gác cửa, lục sự và có cả những người lượm banh nữa. Tất cả đều vào công viên và chơi ở sân quần vợt của Phủ Tổng Thống luôn trong suốt hai giờ đồng hồ với tướng Minh. Ngay ở nhà ông Minh ở đường Chasseloup Laubat, các cửa vào ra cũng không có người canh gác. Còn Bà tướng Minh thì cũng đẹp, lớn con, lúc nào cũng tươi cười, không kiểu cách, mời tất cả bạn bè. Nhà luôn luôn có bạn bè khách khứa, nhạc sĩ, các chiêm tinh gia, và mấy tay tứ sắc...
Nhưng dân chúng thì không ai chú ý nữa. Cách đây mấy tuần, dân chúng Sài Gòn rất mừng rỡ hoan nghênh tận tình sự sụp đổ của một chế độ mà họ chán ghét. Các tướng lãnh thấy được hoan hô nhiệt liệt, ngây thơ tưởng rằng dân chúng hoan hô mình. Thật không còn cái lầm nào hơn !. Đám đông dân chúng chỉ vui mừng vì tìm lại được sự tự do và nhất là lời hứa là Miền Nam Việt Nam có triển vọng chấm dứt được trận giặc đã kéo dài quá lâu rồi. Dân chúng thật thà tưởng rằng sự sụp đổ của chế độ Diệm là có thể dàn xếp được tất cả. Nhưng giờ đây họ thấy là cuộc chiến chẳng những vẫn tiếp tục mà còn bành truớng mạnh thêm lên, họ thấy là khó mà có được thanh bình và cánh cửa Tự Do vừa thấy mở ra được một lúc thì lại được đóng lại ngay rồi. Một luật sư Việt Nam được ra khỏi nhà tù, không bị tình nghi là có cảm tình với chế độ cũ, đã tâm sự với một đặc phái viên của một tờ báo lớn ở Paris :
"Ông biết bây giờ có một sự khác biệt nào với "lúc trước" không ? Các cô gái điếm có thể níu kéo khách rất là tự do trên đường Tự Do. Còn ở các quán rượu thì người hầu bàn không còn bị bắt buộc phải mặc chiếc áo bờ lu trắng theo lệnh của bà Nhu nữa, mà họ được phép ăn mặc theo sở thích và theo khuynh hướng riêng của họ. Tôi quên nói là kể từ nay được nhảy tuýt một cách hợp pháp nữa.. Thật là quá yếu !"
Thật ra thì không còn có vấn đề hứa hẹn gì về Tự Do đâu. Các cuộc phổ thông đầu phiếu coi như được dời lại sau khi chiến tranh kết thúc.Một "Hội Đồng Nhân Sĩ" được thành lập với nhiệm vụ rất khiêm nhường là soi sáng Chánh Phủ trong mọi quyết định. Nhưng rồi Hội Đồng nầy cũng không đi đến đâu cả.
Người ta ghi nhận có một số người mới tự thiêu. Thật khó mà tin được . Theo luận điệu chánh thức của chánh quyền thì "họ chỉ tỏ thái độ vui mừng vì cuộc đàn áp Phật Giáo đã chấm dứt".
Các đảng phái chánh trị tái hoạt động một cách khó khăn.
Báo chí thì tràn ngập (trên 50 tờ báo được xuất bản sau ngày đảo chánh, và chỉ cần có một lá thơ giới thiệu của một tướng lãnh nào đó là giấy phép ra một tờ nhật báo có thể được phê chuẩn ngay). Báo chí được phép tố cáo chế độ cũ. Nhưng nếu tờ báo nào tự do chỉ trích hành động của các tướng lãnh thì sẽ bị tịch thu ngay và vĩnh viễn bị đóng cửa. (việc này đã xảy ra ba lần trong vòng không đến một tuần). Chế độ của ông Diệm dĩ nhiên phải có những lỗi lầm (lỗi lầm chính yếu nhất là đã làm phật lòng người Hoa Kỳ), nhưng chế độ nầy đã góp công vào sự ra đời và tồn tại của chánh quyền Miền Nam Việt Nam. Chế độ đó cũng đã thiết lập được một hàng rào ngăn chặn bọn Việt Cộng, có thể là chưa hữu hiệu lắm, nhưng cũng là một rào cản. Bây giờ thì không còn gì cả. Miền Nam Việt Nam là một đất nước đang trong thời nội chiến mà lại không thấy có chánh quyền nào hết!
Dưới thời ông Diệm, đã có một ý kiến, một cán bộ xã hội và kinh tế, một đường lối chánh trị và một niềm tin. Đã có được một người : Nhu, người biết làm cho người ta nghe lời, và mọi người đều run sợ trước người đó. Những mệnh lệnh của ông ta nói ra đều được thi hành. Nhưng bây giờ thì là một nền Cộng Hòa của những người bạn nhỏ . Người nào cũng là chỉ huy hết mà không có ai là người tuân hành. Thật là cả một sự hỗn độn. Tất cả quyền hành quân sự lẫn hành chánh đều nằm trong tay "Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng".. Nhưng rất rõ ràng là những người lãnh đạo của nhóm đảo chánh hình như không biết phải làm gì với quyền bính đó. Dân chúng đã tin tưởng rằng các tướng lãnh khi nắm được chánh quyền rồi thì phải có quyết định đi đến hành động, sau khi đã suy tính về kế hoạch của họ, dù là có quá lâu. Không có gì không đúng ! Cuộc đảo chánh không phải là một cuộc hành quân "vì" một chuyện chơi nào đó! mà là để "chống" một chế độ hiện hành: chế độ gia đình trị của nhà họ Ngô. Và hành động bằng vũ lực nầy kéo theo 2 án mạng đã tõ ra thật sự vô nghĩa. Rất mau chóng những người không được chuẩn bị cho việc nầy thấy là mình bị đứng trước một nhiệm vụ là phải soạn thảo một chương trình hành động mới , một nhiệm vụ quá cao đối với họ. Nhưng thay vì phải hoạch định một học thuyết, họ chỉ cần cho bộ máy hành chánh cũng như kinh tế chạy lại, và cho dân chúng tham gia.... Các tướng lãnh cứ tự giam mình trong văn phòng của bộ tham mưu với những cuộc thương nghị dài dòng vô ích mà cuối cùng chỉ thấy có một quyết định cụ thể duy nhất được thông báo cho dân chúng. Đó là "lệnh tịch thu" tài sản của tất cả thành viên thuộc gia đình họ Ngô, còn sống hay đã chết cũng vậy, và của tất cả những người cộng sự thân cận của họ.
Bây giờ chỉ còn trông chờ ở người Mỹ mà thôi.
Nhưng đại sứ Cabot Lodge, nản lòng vì những sự cãi vã và bất lực rõ ràng của các tướng lãnh, đã giữ khoảng cách xa trở lại. Không còn những buổi chơi quần vợt, không còn những cuộc tiếp tân thân mật ở tòa đại sứ Mỹ nữa, tất cả những gì để cho dân chúng thấy được , nhất là gia đình họ, những người quân nhân đó bị thất vọng phần nào vì không quen lễ nghi danh dự cho những nhân vật quan trọng.
Không đầy 3 tháng sau sự thành công nổi bật của cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, vì tuyên bố "trung lập" và "thân Pháp", tướng Minh đã bị tướng Khánh bắt giữ và đuổi ra khỏi chánh quyền , Tướng Khánh là một nhân vật béo tròn, hung tợn và để râu cầm, là người được Cabot Lodge đưa vào quỹ đạo để dễ điều khiển. Nhưng tướng Minh bị giữ không bao lâu và chính tướng Khánh đã nài nỉ để ông Minh trở lại với chức vụ nguyên thủ quốc gia . Sau vài ngày lưỡng lự, tướng Minh cuối cùng đã chấp nhận. Ông ở chức vụ đó cho đến ngày 15 tháng 9 1964, nhưng thực tế cũng không có quyền hành gì .
Vào cuối tháng 10 năm đó, tướng Khánh lại bị tướng Không quân lật đổ. Tướng Minh bị đày sang Thái Lan dưới danh nghĩa là "đại sứ lưu động", chức vụ thì giả định, nhưng lương bổng thì đầy đủ. Trong khoảng 4 năm sống lưu vong ở Bangkok, tướng Minh liên tiếp được các Chánh Phủ sau nầy ở Sài Gòn cho hưởng lương đại sứ rất đầy đủ. Biệt thự của ông nằm ở vùng ngoại ô Bangkok, những người dân Thái ở gần ông thường gọi là "ông Việt Nam to con", nhưng ở đây ông buồn, vì ông nhớ nhà. Để giết thì giớ, ông đọc hàng loạt sách loại trinh thám (Proudhon và Mémorial de Sainte-Hélène), nuôi cá và trồng lan. (ông có cả một bộ sưu tập lan rất đẹp). Các bạn bè có dịp ghé lại Bangkok đều có đến thăm ông. Ông muốn trở về Việt Nam nhưng Sài Gòn vẫn làm lơ giả điếc.. . Vào một ngày tốt trời nào đó trong năm 1965, ông chịu hết nổi nên đáp máy bay hàng không Thái về Sài Gòn .Tướng Nguyễn cao Kỳ, lúc bấy giờ là Thủ Tướng, cấm không cho phi cơ đáp xuống và cho một phi tuần phóng pháo cơ hộ tống chiếc phi cơ hàng không đến tận biên giới Thái Lan, Chiếc phi cơ phải trở về Bangkok với tất cả hành khách của nó .
Vào tháng 5 năm 1967, vốn muốn về lại Sài Gòn hơn là muốn hoạt động chánh trị trở lại, Tướng Minh tuyên bố sẽ về ứng cử Tổng Thống vào tháng 9. Nhưng tên ông bị gạt ra ngoài danh sách ứng cử viên Tổng Thống và tướng Nguyễn văn Thiệu đắc cử.
Cuối cùng mãi đến ngày 5 tháng 10 năm 1968 tướng Minh mới được phép về Việt Nam .. Ông đến gặp ngay Tổng Thống Thiệu, người đã cầm quyền từ 3 năm rồi, được Tổng Thống đề nghị giữ chức vụ cố vấn cho Tổng Thống. Ông vừa từ chối.vừa càu nhàu:
- "Tôi đã biết quá về cái món nầy ở Phủ Tổng Thống rồi ! Tôi đã có lần ở chức vụ nầy rồi. Tôi không muốn làm chiếc bình chưng bông bày trên kệ nữa"
Với các nhà báo thì ông chỉ tuyên bố nhẹ nhàng:"Tôi muốn đứng ngoài mọi hoạt động chánh trị , trong vị trí của một quan sát viên."
Một vài tuần lễ trôi qua, sau đó trong những ngày đầu tháng 11, tướng Minh nêu lên một phản đối "chống lại việc Hoa Kỳ ngưng dội bom ngoài Bắc Việt vô điều kiện" một điều mà ông coi như một sự "đầu hàng" và một "hành động khuyến khích kẻ xăm lăng" .
Một năm sau, ngày 1 tháng 11 năm 1969, ông tập họp các cựu tướng lãnh trong cuộc đảo chánh để "kỷ niệm ngày lật đổ chế độ độc tài của ông Diệm". Báo chí đối lập đã ghi nhận một cách hiểm độc rằng :"một người duy nhất có giá trị lại vắng mặt trong buổi họp mặt thân mật nầy là Tổng Thống Thiệu, một người đã có một vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh nầy." . Lo âu sợ thua kém các đồng nghiệp, một bình luận gia thân Chánh Phủ nghiêm khắc nhận xét là
- "Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nơi mà sự kính trọng người chết là một điều thiêng liêng, thì những người có trách nhiệm trong hai án mạng lại dám trân tráo lăng nhục linh hồn của các nạn nhân của họ bằng cách uống rượu ăn mừng hành động tội ác của mình."
Kế tiếp, ngày hôm sau, chúa nhật 2 tháng 11, Tổng Thống Thiệu cho phép cử hành một buổi lễ "Tưởng Niệm" cầu siêu cho linh hồn của ông Diệm và ông Nhu, một buổi lễ đạo rất long trọng tại nhà thờ Chánh Tòa ở Sài Gòn, có sự tham gia của Tổng Trưởng Thông Tin, đại diện của Chánh Phủ. Sau buổi lễ, một đoàn khoản 2000 giáo dân mang hoa đi trong vòng trật tự đến nghĩa trang Mạc đỉnh Chi, nơi hai anh em Diệm Nhu được an táng trong hai ngôi mộ cạnh nhau cùng chung dưới một tấm xi măng đúc.
Được phỏng vấn sau đó, ông Tổng trưởng Thông Tin trả lời cho các phóng viên là "sự có mặt của ông nơi đây là "để tỏ lòng tưởng nhớ đến ông Diệm, một vị anh hùng dân tộc, một gương mặt lịch sử của nước Việt Nam độc lập".
Tức khắc các tờ báo theo Phật Giáo cho đó là một sự "khêu khích".
Tướng Minh phá vỡ thình lình sự im lặng của chính mình bằng hai bản thông cáo đặt vấn đề tính cách đại diện của Tổng Thống Thiệu. Đồng thới ông tuyên bố chủ trương tổ chức trưng cầu dân ý về "một hình thức chánh trị" thật sự cho nền độc lập quốc gia về sự giải ước của quốc gia Việt Nam là "không thể ngả theo bên tả hay bên hữu mà phải ở vị trí trung lập, ở giữa hai thế giới tư bản và cộng sản"
Tổng Thống Thiệu xẵng giọng cãi lại ngay:
"Chánh Phủ VNCH được thành lập từ "tự do phổ thông đầu phiếu" . Tôi thi hành sứ mạng do dân chúng phó thác cho tôi. Chúng ta đã đi gần đến chiến thắng rồi. Trung lập là môt điều phi lý, là một hình thức ngụy trang đi đến đầu hàng cộng sản . Có nhiều chánh trị gia bực tức chỉ vì với mục đích thỏa mãn dục vọng cá nhân, đe dọa sự đoàn kết quốc gia trước kẻ thù".
Thế là cuộc so kiếm đã bắt đầu. Nhưng đó chỉ là một màn chạm trán nhỏ thôi. Cuộc chiến thật sự sẽ được diễn ra trong tương lai. Tướng Minh lại giữ im lặng, mỗi năm chỉ đi ra khỏi nhà đôi ba lần để chua chát chỉ trích chế độ mỗi lần một nhiều hơn.
Biệt thự ở đường Chasseloup Laubat không vì thế mà thiếu vắng người lui tới : bạn bè, khách khứa, thân hữu, sư sãi, thầy bói, sứ giả mang tin tức đến từ Pháp, Nhật hay Hoa Kỳ , các tướng lãnh khác hay Tổng Bộ trưởng bị lưu đày. Người ta trò chuyện, đánh bài, và uống trà. Khi ông không tiếp khách thì ông đến "Câu lạc bộ thể thao Sài Gòn " với cây vợt trên tay. Ông đánh quần vợt với mấy ông nghị sĩ, dân biểu, các tướng lãnh, các giáo sư, với người Mỹ, với nhân viên ngoại giao của các sứ quán ngoại quốc.. Ở vùng Đông Nam Á, chơi quần vợt có một đặc điểm là tạo được sợi dây thân ái giữa các đấu thủ không phân biệt chánh kiến. Và tướng Minh là một đấu thủ chơi không biết mệt. Tất cả những người đến với ông ta đều nhấn mạnh là viên cựu tướng lãnh đáng sợ này đã già dặn hơn trước nhiều, và đã thay đổi rõ nét là một người tranh đấu cho "hòa bình". Ông chỉ nổi giận lên khi người ta nói đến "người Bắc kỳ" (nguyên tác "Tonkinois" ) Tuy nhiên dần dần ông Minh cũng thành lập một nhóm chánh trị, mở rộng thêm ra và cố gắng hướng dẫn các lực lượng đối lập. Những người của ông ta và những người hợp tác với ông được phân ra thành 4 nhóm rõ rệt :
- Những ông đốc phủ, chủ sự hành chánh và cựu tỉnh trưởng, những công chức già nổi bật với nền văn hóa Pháp, những người được kính trọng qua nhiều thể chế.
- Những sư sãi cốt cán của chùa Ấn Quang và của nghị sĩ Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật, chủ tịch Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia (phần đông là Phật Tử), được người Mỹ tài trợ và thao tác từ lâu.
- Một số sĩ quan trẻ, giáo sư, nhà báo đối lập, và những công chức chuyên nghiệp có khuynh hướng tiến bộ được đào tạo ở trường Quốc Gia Hành Chánh có liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , những người cấp tiến chủ trương cải cách xã hội Việt Nam , và chủ trương một Chánh Phủ Liên hiệp với cộng sản .
- Những cựu tướng lãnh của cuộc đảo chánh 1 / 11, đã từ lâu đứng ngoài chánh quyền và không có một trách vụ quân sự nào, vừa chống ông Thiệu vừa chống cộng sản .
Sự khác biệt nhau của các nhóm nầy, tuy cùng đồng ý với nhau về sự ra đi của Tổng Thống Thiệu nhưng có nhiều bất đồng về phương pháp áp dụng, và đường lối chánh trị phải theo để đi đến mục đích, đã giải thích phần nào những cuộc vận động bất thần và những lập trường mâu thuẩn của tướng Minh, thường hay ngả theo kẻ đối thoại nào ăn nói thuyết phục nhất .
Vì thế mà sau nhiều lần tránh né, bàn bạc, rụt rè... tuớng Minh mới bất thần loan báo là sẽ ra ứng cử Tổng Thống vào năm 1971. Cuộc vận động bắt đầu, lúc đó tôi còn ở Sài Gòn. Các quan sát viên ngoại quốc nhận xét là tướng Minh có vài lợi thế trong chuyện tranh cử: ngoài những nhóm đã nói ở trên, ông còn được sự ủng hộ của Đức Giám Mục Bình của địa phận Sài Gòn, và của Phong Trào Trung Lập ở Paris của cựu Thủ Tướng Trần văn Hữu, người đỡ đầu cũ của ông, Ngoài ra ông cũng có một người em út là tướng cộng sản Dương văn Nhật (1) thuộc "quân đội nhân dân Bắc Việt", điều nầy giải thích tại sao đài Hà Nội và đài Mặt Trận không bao giờ tấn công tướng Minh trên hệ thống truyền thanh.
Có 4 người lo vận động tranh cử cho ông . Hai nhân sĩ là ông Tôn thất Thiện và ông Nguyễn ngọc Thơ. Hai dân biễu trẻ là ông Lý quý Chung và Ngô công Đức.
Trong thời gian nầy tôi đã có gặp tất cả 4 người nầy nhiều lần.
- Ông Tôn thất Thiện sống trong một căn nhà rất đẹp với đầy đủ tiện nghi được xây cất trong một miếng vườn được phát họa rất là chu đáo. Ông là người miền Trung, ốm yếu và nóng tánh, có gương mặt quý phái, thuộc một gia đình quý tộc ở Hué. Là một con người kiêu kỳ và kiên quyết, ông nói thành thạo tiếng Anh và tiếng Pháp. Một vài chỉ dấu đặc biệt :ông có một người anh em là tướng trong Không Quân Bắc Việt; ông có liên lạc chặt chẻ với cơ quan tình báo Anh, và không thích người Miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois). Ông bắt đầu đi vào con đường chánh trị trong chức vụ Tùy Viên Báo Chí và thông dịch viên chánh thức của Tổng Thống Diệm. Không đồng ý với những phương pháp và mục tiêu của Tổng Thống , ông từ chức và đi Thụy Sĩ để hoàn tất học vị tiến sĩ về khoa học chánh trị . Sau đó ông là Bộ trưởng của Phó Tổng Thống Hương, nhưng nhận thấy ông nầy quá lạc hậu và thiển cận nên lại từ nhiệm một lần nữa và nhảy sang phía đối lập. Bây giờ thì số phận của ông được gắn liền với số phận của tướng Minh Dương, ông tổ chức các buổi phỏng vấn và thu xếp các buổi tiếp xúc với dân chúng cho tướng Minh, đồng thời ông cũng đi dạy ở trường đại học Phật Giáo ở Sài Gòn và cộng tác với tờ báo Kinh Tế Viễn Đông của Hong Kong. Ông nói với tôi :
-"Tôi chấp nhận yểm trợ cho ông Minh vì ông là một tướng lãnh biết chấp nhận uy quyền hành chánh đối với quân nhân . Ông hiểu rõ về tính cách pháp lý, và biết tôn trọng dân chúng. Ông ta muốn chấm dứt cuộc chiến và nói chuyện với "Mặt Trận". Còn ông Thiệu lại là người của chiến tranh. Ông chỉ tồn tại và sống đượclà nhờ vào chiến tranh và sự yểm trợ của người Mỹ, cố vấn và trả lương cho ông ta và áp đặt cuộc chiến đối với chúng ta. Nước Việt Nam phải chấm dứt không còn là một "trại lính" hay một nhà kho khổng lồ chứa đầy dụng cụ chiến tranh do một bọn côn đồ đần độn mặc quân phục điều hành, một bọn người chỉ có một công tác chính yếu là "đếm xác chết" . Các tướng lãnh của chúng ta thường hay quên rằng những xác chết lạnh cứng mà họ xếp lên bàn như những con thỏ mà họ đã đi săn được, không phải là những con thú vật mà chính là những người Việt Nam như chúng ta ."
Khi tôi lưu ý với ông là "trong cuộc đời binh nghiệp của mình, tướng Minh cũng thường phải làm những bản tổng kết tương tự, và lúc ông có chánh quyền trong tay các tổng bộ trưởng dân sự của ông không thể làm gì được nếu không có ý kiến của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm toàn là tướng lãnh . Hơn nữa bọn Việt Cộng mỗi ngày cũng đều có thông báo nêu lên con số hàng trăm binh sĩ và những viên chức Chánh Phủ bị họ giết..." thì ông Tôn thất Thiện cương quyết ngăn tôi lại ngay và nói :
- " Chỉ có những người ngu xuẩn mới không chịu thay đổi quan điểm hoặc không có khả năng rút tỉa những bài học từ những sự thất bại của họ. Tướng Minh đãtừng bị thất sủng và lưu đày, nên có thì giờ suy gẫm. Bây giờ thì ông đã biết rõ là không phải chỉ tăng thêm các sư đoàn, không phải chỉ khóa mồm báo chí, hay tăng quân số cho cảnh sát là có thể cai trị đất nước được đâu. Dĩ nhiên là ông không hiểu nhiều về kinh tế và chưa có một ý kiến nào chính xác về các bài toán quốc tế. Nhưng đã có chúng tôi ở đây để giúp đỡ và hướng dẫn cho ông. Điều quan trọng là ông ta có thể tái lập lại sự Tự Do cho nền Dân Chủ và khóa các họng súng lại. "
- Một vị cố vấn khác mà tướng Minh thường nghe theo là ông Nguyễn ngọc Thơ, một người khôn khéo và ít đanh thép hơn. Là con của một đại điền chủ ở Miền Nam , ông là một quan chức già, khuôn mẫu, khôn ngoan, lịch lãm, luôn tươi cười . Dưới thời Pháp, ông là một "chức sắc" của giáo phái Cao Đài, và bí thư của vị toàn quyền Đô đốc Decoux, kế đó là cộng sự viên của người Nhật và đã nhiều lần ở chức vụ tỉnh trưởng trước khi đi tập sự một khóa trong bưng biền với Việt Minh. Tổng Thống Diệm rất quý trọng ông nên đã đưa ông đi nhận chức đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Nhật Bản, sau đó lại gọi ông về giao cho chức vụ Tổng trưởng Bộ Kinh Tế, và cuối cùng là Phó Tổng Thống . Sau đó nhờ hợp tác với những người đảo chánh ông Diệm ngày 1/11/63 ông lại kế nghiệp người đã bảo trợ và nâng đỡ ông trong chức vụ lãnh đạo Chánh Phủ không khó khăn gì ! Qua những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời nghiệp vụ của mình, ông Nguyễn ngọc Thơ đã giữ được một số lớn kinh nghiệm cho những chuyện công cộng, một hệ thống tin tức rất tốt, một sự ủng hộ đắc lực của các hội viên hội Tam Điểm và những người tư bản ở Paris, một vài bạn bè còn sót lại trong nhóm lãnh đạo cộng sản, những liên hệ rất tốt với các trung tâm dịch vụ và một vài nhóm chánh trị Nhật Bản, và những tài liệu mật được cập nhật rất cẩn thận.
Tính ông vốn người thận trọng, lại thêm dè dặt vì hoàn toàn bị lãng tai, ông ở xa thành phố trong một ngôi nhà kín đáo nhưng sang trọng, có khá nhiều người phục dịch tuy luôn mặc áo bỏ ngoài nhưng khó che dấu được súng lục đeo ở thắt lưng , ngay cả lúc mời trà . Khác hẳn với ông Tôn thất Thiện thường thích trình bày dài dòng kiểu triết lý - sử học, với những lý luận biện chứng, ông Nguyễn ngọc Thơ hay dùng những câu ngắn gọn nhưng đầy thuyết phục. Với một nụ cười ranh mãnh, ông nói:
- "Từ hai năm nay người Mỹ và người Tầu đã kín đáo gặp nhau . Cách đây 2 tháng họ đã công khai hóa những mối quan hệ giữa họ với nhau. Bây giờ thì họ liên lạc điện thoại với nhau hằng ngày. Rồi đây họ sẽ ăn chung với nhau một bàn . Ông Thiệu là hòn sỏi trong tô canh của họ. Dĩ nhiên là họ cần phải vứt bỏ hòn sỏi đó nếu họ muốn ăn chén súp đó một cách yên lành.Đối với "kế hoạch 7 điểm" của Mặt Trận đưa ra, người ta chỉ nêu lên 2 chủ đề không đồng ý :
- Chuyện rút quân tức khắc của Hoa Kỳ và chuyện ra đi của ông Thiệu.
Điểm thứ nhất sẽ được giải quyết không xa. Người Mỹ ra đi, việc nầy không có gì phải bàn cãi nữa. Chỉ còn lại điểm thứ hai. Chương trình và đề tài tranh cử của chúng tôi được đặt trên sự vãng hồi hòa bình với 2 lý do :
Trước hết bởi vì bắt buộc các cuộc chiến phải được chấm dứt . Ngưới ta không thể vừa nói chuyện ích lợi với nhau mà vừa bắn nhau.
Thứ đến bởi vì chúng tôi chắc chắn rằng ông Thiệu không thể cưỡng lại nền hòa bình bao lâu nữa . Ông ta là một người chống cộng sản nhưng thiển cận còn hơn cộng sản nữa. Và chế độ của ông nói là chống cộng sản nhưng hành sử cũng máy móc giống y như họ vậy. Lực lượng quân sự , hành động tâm lý chiến, và cảnh sát có mặt khắp nơi... Tất cả kết cấu chánh trị của ông Thiệu đều dặt trọng tâm vào chiến tranh. Và chiến tranh giải thích tất cả, và chứng minh cho tất cả. Những sự hy sinh, đòi hỏi ngân khoản, sự lạm phát, các sự trấn áp, khủng bố những người đối lập ... Chấm dứt được chiến tranh là tất cả kết cấu đều sụp đổ theo hết. Không có gì giản dị cho bằng !"
- Ông Lý quý Chung, trưởng nhóm trẻ, là một người có cử chỉ lanh lợi và ăn nói dễ dàng. Xuất thân từ một gia đình khá giả ở Đồng Bằng sông Cửu Long, tuổi vào khoảng trên 30, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, tiên khởi ông là giáo sư sinh ngữ (Anh và Pháp), trước khi nhảy vào làng báo như một tổng biên tập viên cho nhiều tờ báo. Sau đó ông ra một tờ nhật báo cho chính mình: tờ "Tiếng Dân". Chính trong tờ báo nầy ông đặt lại rõ ràng "tấn bi kịch của những người Việt Nam đứng ngoài cuộc chiến" , bị kẹt giữa 2 khối đối kháng, và từ đó ông đưa ra ý kiến thành lập "lực lượng thứ ba". Năm 1966 ông đắc cử dân biểu, và nhanh chóng nổi tiếng qua những cuộc can thiệp gay gắt và liên tục với "chánh quyền quân sự" , đồng thời tập hợp và thành lập một nhóm 18 dân biểu đối lập rất năng nổ. Lúc nào không có mặt trong Quốc Hội thì ông thích ngồi ở phòng trà Givral ở đường Tự Do, nơi hẹn hò thích nhất của các nhà báo Mỹ mà ông tìm cách nhập bọn. Ông thường nói với tôi :
-"Các nhà báo ngoại quốc là phương tiện duy nhất của chúng tôi để mở nắp nồi "sốt de" đầy hơi mà Tổng ThốngThiệu đã đặt trên đầu của chúng tôi cho ra bớt hơi nóng. Những câu chuyện và những tin tức mà chúng tôi trao đổi với họ thường là khởi điểm của các cuộc điều tra giúp đưa ra ánh sáng những vụ tai tiếng và những chuyện buôn lậu mà Chánh Phủ muốn ém nhẹm."
- Cựu dân biểu Ngô công Đức , 39 tuổi, đẹp trai, trác táng, tính hơi ngông và rỡm, là một nhà doanh nghiệp và anh có một chỗ đứng riêng biệt trong sinh hoạt chánh trị ở Miền Nam. Anh là cháu của Đức Cha Bình Giám Mục ở địa phận Sài Gòn, cha anh là một người công giáo bị Việt Cộng hành quyết vào thập niên 50 ở vùng Trà Vinh, một tỉnh cũ của Cam Bốt bên bờ sông Cửu Long. Anh có tài hái ra tiền nhưng cũng xài tiền ra như nước . Anh đã tuần tự là chủ báo, thầu khoán , và cả bốc rỡ hàng có giao kèo cho người Mỹ, đắc cử dân biểu năm 1967. Sau khi thất cử năm 1971. thình lình anh trở thành người của thời cuộc khi anh sang Paris (Pháp) và trình bày kế hoạch "hòa bình" của anh :
-" Việt Nam Hóa" là độc tài cộng (+) với chiến tranh".
Từ đó giới quân sự đã liệt anh vào loại "bồi bút" của cộng sản, và anh đã trở thành kẻ thù của chế độ ông Thiệu.Tờ "Tin Sáng" của anh nhiều lần bị tịch thu, nhà của anh bị cho nổ bom và xe của anh bị đốt. Anh viết nhiều bài theo nhu cầu của báo chí Mỹ và Pháp. Bị cảnh sát quấy rầy quá mức , anh đành phải chạy sang Pháp tỵ nạn, trong lúc tờ Tin Sáng của anh vẫn tiếp tục đánh phá không ngừng chống sự độc tài của ông Thiệu. Từ Paris nơi anh đã tăng thêm sự liên lạc với các phái đoàn của cộng sản Bắc Việt, của Mặt Trận, và của nhóm trung lập, anh đã gởi về những bản tường trình dài nhằm phân tách tình hình giúp tướng Minh . Những người chống đối anh thường biết về anh rất rõ, nên rất ngạc nhiên khi thấy anh viết trên diễn đàn của tờ Le Monde những bài rất đặc sắc với một cú pháp quá điêu luyện, trong khi bản thân anh thường nói tiếng Pháp gần như không có quy tắc nào hết. Sự thật là khi nói chuyện với anh ta nhiều lần, tôi nhận thấy trình độ học vấn của anh chỉ ở cấp tiểu học mà thôi. Trong vấn đề chánh trị , kinh nghiệm cho thấy là thường chỉ cần có gan, vài ý kiến hay .. và một ít tiền. Sau đó những cây viết hay sẽ tìm đến không khó lắm.. (sau đó anh phát động phong trào "phản chiến" mạnh mẻ ngay bên Mỹ và Pháp tiếp tay cho kế hoạch xâm chiếm Miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc Việt).
Cuộc tranh cử năm 1971 khởi đầu bằng dục vọng và sự náo nhiệt. Hai bên hiện diện đối chọi nhau mãnh liệt..Không khí căng thẳng lại tăng thêm gấp bội khi một ứng cử viên thứ ba nhảy vào cuộc : tướng sáng giá Nguyễn cao Kỳ. Có nhiều phòng trà bị đánh bằng chất nổ, 15 chiếc xe Mỹ bị đốt chỉ trong vòng 10 ngày, Hòa thượng Thích thiện Hoa kêu gọi "một triệu đoàn viên" thuộc phong trào Phật Giáo đấu tranh của Ấn Quang hãy đoàn kết lại, hàng ngàn thương phế binh đội nón lá vẽ đủ mọi khẩu hiệu chống Mỹ tập trung trước tòa đại sứ Hoa Kỳ , thượng nghị sĩ Mc Govern, người chủ trương "hòa bình" tình cờ ghé ngang Sài Gòn bị vây trong một nhà thờ và bị một đám đông giáo dân chống cộng hăm dọa treo cổ; sinh viên và cảnh sát đụng nhau, bom xăng chống lựu đạn cay, Nhà kiếng, trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao động, thân Chánh Phủ bị các cựu chiến binh đốt phá và tấn công bằng cốt mìn.... Chánh trị Việt Nam đang xuống đường !
Một nhóm đại tá trẻ thân Tổng Thống Thiệu đổ hết trách nhiệm cho đối lập và đặc biệt là tướng Dương văn Minh. Một vị trong nhóm nói với tôi :
- " Ông Minh Dương bình dân thật vì ông không có làm gì hết. Ông là một người tốt, không ai nghi ngờ điều đó, nhưng trong quân đội ông không đại diện cho ai cả. Khi ông sang Thái Lan năm 1964, cuộc chiến thật sự chưa bắt đầu. Trong suốt 7 năm liền, ông chỉ chơi quần vợt và trồng hoa lan. Trong lúc đó thì ở đây chúng tôi phải chiến đấu và chiến đấu rất khốc liệt. Một thế hệ chỉ huy khác trẻ hơn và tân tiến hơn đã thành hình nhờ được trui rèn trong lửa đạn, trong chiến đấu. Đối với các sĩ quan đó, lịch sử cũ coi như không còn nữa!
Còn Tôn thất Thiện thì lại khác. Ông ta là một người thông minh thật nhưng có quá nhiều tham vọng và bất mãn vì thấy không ai biết đến tài năng của ông. Thậtlà một người đối lập cố chấp.. Đối với ông ta tướng Minh chỉ là một cái đầu để cho ông quảng cáo thôi không hơn không kém ! Cái mà ông Thiện nhắm vào trên hết chỉ là cái ghế Thủ Tướng. Lúc nào cũng thấy ông nói đến dân chúng, nhưng ông có biết dân chúng là ai không đã ? Ông xuất thân từ một gia đình hoàng tộc, triều thần và chuyên chạy áp phe, Chân ông không bao giờ lấm, tay ông không bao giờ dính bùn. Ông cũng không bao giờ ở trong quân đội . Những người trí thức Việt Nam cỡ ông đó hay học lực còn cao hơn ông gấp bội ăn nói vanh vách còn có cả ngàn người , ở Mỹ cũng như ở Pháp... Hàng chục ông trong số nầy họp nhau lại âm mưu chuyện nầy chuyện nọ, nghĩ rằng chỉ có mình mới có một công thức duy nhất khả dĩ mang lại "hòa bình" . Các ông đó không đồng ý nhau chuyện gì hết, trừ một chuyện, đó là "nhu cầu thay đổi chế độ", dĩ nhiên với điều kiện là họ phải có được ghế Tổng bộ trưởng nào đó trong thành phần mới của Chánh Phủ . Nhưng chúng tôi không muốn như vậy .
" Họ là những người chưa từng biết sống chết như chúng tôi . Họ chưa từng bao giờ chia xẻ nỗi đau khổ của chúng tôi . Họ chưa bao giờ biết trả giá bằng máu như chúng tôi .
Dân chúng không bận tâm đến những lý thuyết đồ sộ của những người huênh hoang nói với họ từ trên cao và từ ngoài xa. Dân chúng chỉ muốn được bảo vệ, muốn được vĩnh viễn thoát khỏi vòng khủng bố và hổn độn như địa ngục. Chúng tôi đã đem lại cho họ sự an ninh, sự tự do lưu thông, và họ được gặt lúa một cách thực tế. Họ sẽ theo chúng tôi.
"Các nhóm chánh trị gia trưởng giả đó của Sài Gòn vẫn biết rằng họ không tác động được đất nước . Nhóm Phật Giáo đấu tranh của chùa Ấn Quang làm gì có "hằng triệu tín đồ" sau lưng họ ? Khoảng 30 ngàn là cùng , và phần đông các sư sãi đang rất bận rộn trong công tác quyên góp tiền bạc hay đang đầu cơ trong việc mua bán đất đai. Khi quả quyết là họ có một lực lượng chánh trị mới, không màng quyền lợi, thì hoặc họ chỉ là những người không tưởng, hoặc họ là những người chuyên nghiệp không có niềm tin.
" Nhưng rồi tất cả đều phải tin chắc điều nầy : Nếy quân nhân chúng tôi buông súng xuống, thì đối mặt với cộng sản họ không đáng một gram nào hết. Hoặc họ sẽ chịu khuất thân làm bù nhìn hay tôi tớ cho cộng sản , hoặc họ sẽ bị cộng sản thanh toán. Và đến ngày đó thì không còn một người phóng viên báo ngoại quốc nào để đăng giùm những lời kêu ca hay chỉ trích cho họ !"
Chuyện tranh cử Tổng Thống giữa hai ông Thiệu và Minh cuối cùng không có nữa. Ngày 23 tháng 10 năm 1973, một tháng rưỡi sau đợt vận động rất ồn ào sôi động, tướng Minh cho là "cuộc bầu bán sắp tới chỉ là một trò hề" nên thình lình rút tên ra khỏi danh sách ứng cử. Ngay sau đó tướng Kỳ cũng rút tên không ứng cử nữa. Ông Thiệu đương nhiên không còn ai là đối thủ nữa và trở thành "độc diễn" Cuộc bầu cử Tổng Thống bị phá hoại ngầm nên đương nhiên trở thành một cuộc biểu quyết thông qua của dân chúng mà thôi.
Sự rút lui của tướng Minh làm cho mọi người đều ngạc nhiên, bè bạn, thân hữu, và kể cả đối thủ. Ai cũng đồng ý là tướng Minh có một quyết định quá hời hợt. Những nhóm sinh viên từng ủng hộ hành động của người lãnh đạo Miền Nam đều giận dữ vì quá thất vọng. Một trong những trưởng nhóm, anh Ngọc, 26 tuổi, sinh viên năm thứ năm ngành Y, chưa hết giận :
-"Chúng tôi đã vận động mấy tháng nay cho cuộc bầu cử này, chúng tôi đã bỏ cả học hành, suốt đêm đi gõ cửa từng nhà, đã in truyền đơn vận động, lo soạn từng tấm biểu ngữ, tổ chức các buổi họp... Chúng tôi đã bị cảnh sát đánh đập. nhiều em đã bị bắt. Tất cả công việc làm của chúng tôi đều nhắm vào ông Minh Dương, Ông ta đã cam kết đi cho đến cùng và thình lình, không báo trước gì cả, ngay trong lúc cuộc vận động đang thực sự bắt đầu thì ông lại buông bỏ chúng tôi ".
Thượng nghị sĩ Đông, một Phật Tử ôn hòa, cử nhân khoa học còn nghiêm khắc hơn, rất chẩm rải nhưng đắn đo, ông nói :
-"Tôi không thích Tổng Thống Thiệu và phương pháp làm việc của ông ta . Nhưng tôi từ chối không ủng hộ tướng Minh. Về phương diện sức khỏe ông to con mạnh khỏe thật đấy nhưng hoàn toàn kém thông minh trên phương diện chánh trị. Nhìn bề ngoài thì thấy ông có vẻ ung dung và bình tĩnh đâu ngờ lại có những phản ứng mạnh không chính chắn như vậy. Ông ta vừa mới chứng minh điều đó hôm nay đây"
Ông Võ văn Hải, cựu chánh văn phòng của ông Diệm, vừa mới chạy theo tướng Minh mấy tháng nay đã xác nhận :
-"Tướng Minh là một người can đảm và trung trực, có đầy đủ lương tri. Chúng tôi là bằng hữu và bạn tranh đấu của ông, chúng tôi là những người đầu tiên lấy làm tiếc về sự rút lui của ông ta. Chung quanh ông toàn là những nhân vật hàng đầu ở Việt Nam nầy, ông lại được tài trợ rất mạnh và hy vọng có thể tập trung tất cả các lực lượng đối lập để thành lập một đảng chánh trị lớn. Tôi đoan chắc là qua sự rút lui nầy ông đã mất hết cơ may. Trong vòng 4 năm nữa chắc chắn sẽ là quá muộn. Nhưng ông rất chán vì những áp lực của Tổng Thống Thiệu đối với người của ông, đối với báo chí, đối với hành chánh cũng như đối với quân đội. Và dù sao chúng tôi cũng không thể nói hết được những lý do thật sự thầm kín của sự rút lui nầy. Ông Thiệu có vô số phương tiện để cho ông được thắng cử. Ông có biết là ở Việt Nam có một câu tục ngữ nầy không?
"Vai mang túi bạc kè kè
Nói bậy nói bạ người nghe thiếu gì "
Những "lý do thầm kín" mà ông Hải vừa nói đó quả nhiên đã có một vai trò không nhỏ trong quyết định bỏ cuộc của tướng Minh. Vừa mở màn chiến dịch tranh cử, người Mỹ lo lắng muốn cho cuộc tranh cử Tổng Thống phải có một vẽ dân chủ nên đã tiếp xúc với tướng Minh. Đại sứ Bunker theo người ta nói đã mong muốn có một cuộc tranh cử tay đôi giữa hai ứng củ viên nên đã tài trợ cho tướng Minh để ông nầy có phương tiện vận động tranh cử. Việc nầy được thực hiện vài ngày sau đó bằng một tín dụng thư 200 triệu đồng gởi vào chương mục được mở ra cho ông ở Đông Kinh Ngân Hàng (qua trung gian của một kỹ nghệ gia Nhật Bản). Ông Minh đã lãnh ra 100 triệu trước để cho các chi phí đầu tiên. Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ước tính là tướng Minh sẽ được một tỷ lệ vào khoản 30 đến 40 phần trăm trong tổng số phiếu bầu. Như vậy là đã quá đẹp và quá tốt cho cuộc bầu cử rồi. Ông Thiệu sẽ được đắc cử không có gì khó khăn lắm và tướng Minh sẽ có một tầm vóc chánh trị khả quan hơn để giúp ông lãnh đạo một đối lập vững chắc. Tuy nhiên trong những ngày đầu của tháng 10 năm đó, một chỉ thị mật của Hà Nội (văn phòng trung ương trong Bộ Tham mưu cộng sản phối hợp đấu tranh chánh trị và quân sự ở Miền Nam Việt Nam ,) do cơ quan kiểm thính của Mỹ giải mã được, ra lệnh cho "tất cả cán bộ đảng viên thuộc mọi cơ cấu của Việt Cộng ở Miền Nam phải dồn phiếu cho tướng Minh." Tỷ lệ số phiếu bầu do Việt Cộng kiểm soát được ước tính khoảng 15 % của tổng số , như vậy kết quả bầu cử sẽ có thể bị hiện tượng "ngựa về ngược", phần thắng có thể ngã về tướng Minh thì Sài Gòn sẽ có nguy cơ có một Chánh Phủ trung lập, Chánh Phủ nầy sẽ đặt lại vấn đề "sự có mặt của quân đội Mỹ ở Việt Nam " . Do đó ông Bunker báo động ngay cho Hoa Thạnh Đốn . Ở đây sau khi tham khảo lại với ông qua điện thoại đã quyết định bớt phương tiện tài trợ cho tướng Minh. Và khi ông Minh đến Ngân Hàng Đông Kinh để rút tiền thêm lần thứ hai, thì ngân hàng từ chối và người ta đã trả lời cho ông là chương mục đã được kết toán.
Ngày thứ năm 19 tháng 10 vào buổi sáng vài giờ trước khi ông tiếp xúc với ông Bunker, lúc ông nầy vừa từ Hoa Thạnh Đốn trở về thì tướng Minh lại bị một đòn đau nữa: Một thông cáo từ chùa Ấn Quang đã báo cho ông biết là sau 3 giờ thảo luận, tất cả 7 vị sư đại diện cho phong trào Phật Giáo Cải Cách (Phật Giáo đấu tranh mà tướng Minh nghĩ rằng sẽ hoàn toàn đứng sau lưng mình), đã quyết định chấm dứt sự ủng hộ ứng cử viên Dương văn Minh (với 6 phiếu thuận 1 phiếu chống của thượng tọa Thích thiện Minh). Trong văn thư thông báo quyết định nầy cho tướng Minh, các Sư đồng thời cũng cho ông biết những lý do đưa đến quyết định chấm dứt sự ủng hộ nầy như sau :
"Phong trào tranh đấu của Ấn Quang đã bỏ ra 4 năm để tái lập lại đội ngũ cán bộ, vì tổ chức và các phương tiện của họ đã bị đập tan trong thời kỳ tranh đấu chống Chánh Phủ năm 1966. Chúng tôi xét thấy tướng Minh không có một cơ may nào được đắc cử và chúng tôi không muốn bị lôi cuốn vào những hành động cực đoan quá khích nữa để chúng tôi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và phải hứng chịu những đòn trả thù nặng nề của chánh quyền lúc đó. Phong trào khước từ không vận dụng bộ máy vận động của mình, để dồn hết phương tiện và ngân khoản vào cuộc bầu cử dân biểu Quốc Hội , ở đó Phong Trào mới mong thành lập được một khối đối lập quan trọng như đã có ở Thượng Viện, khả dĩ có thể cân bằng với hành động của chánh quyền trong khuôn khổ hợp hiến."
Như vậy lực lượng chánh trị trong khối cử tri ở Miền Nam Việt Nam được chia ra như sau: Quân Đội , Công chức hành chánh , những Phật Tử ôn hòa, những Phật Tử đấu tranh của Ấn Quang, những người di cư từ Miền Bắc 1954, những người công giáo, Mặt Trận Giải Phóng và thân hữu của họ , và các Giáo Phái.
Quân đội thì đã là một khối sau lưng Tổng Thống Thiệu, và Hành chánh thì dĩ nhiên phải tuân theo ông rồi.
Các Phật Tử ôn hòa vẫn có mối giao hảo tốt với Chánh Phủ và lúc nào cũng đứng ngoài mọi tranh chấp chánh trị;
Những người Bắc di cư thì ủng hộ tướng Kỳ. Còn phần lớn giáo dân ở Miền Nam từ sau cuộc đảo chánh 1963 và cái chết của Tổng Thống Diệm thì chống hẳn tướng Minh.
Giáo phái "Hòa Hảo" rất đông và rất mạnh ở các tỉnh giàu có của Miền Tây thuộc vùng Đồng Bằng sông Cửu Long thì không bao giờ quên các cuộc hành quân giết người của tướng Minh đối với họ vào những năm 1955 và 1956 trong "chiến dịch diệt giáo phái".
Phong trào Phật Giáo Ấn Quang, rất mạnh ở miền Trung và ở nhiều thành phố lớn trong nước đương nhiên là một lực lượng tôn giáo và chánh trị có tổ chức, một lực lượng duy nhất mà tướng Minh có thể dựa vào.
Sự rút lui bất thình lình và không ai chờ đợi, đã giảm xuống đến con số không tất cả mọi hy vọng của ông ta, làm cho ông không có một con đường nào khác ngoài một kết quả bầu cử tệ hại nhờ vào phiếu bầu của cộng sản . Không còn đủ phương tiện tài chánh (ông không muốn phiêu lưu với tiền riêng của mình vả lại cũng không đủ), lại bị một vố đau của người Mỹ, và bị những đồng minh tốt nhất bỏ rơi, tướng Minh đành phải chọn con đường bỏ cuộc "rút lui " mà thôi.
Ngày 3 tháng 11 năm 1971, Tổng Thống Thiệu không có đối thủ, đắc cử với 94 % số phiếu bầu. Tướng Minh cho ra một thông cáo theo đó ông tuyên bố :"không hợp tác với một chế độ đã mất hết danh dự và tất cả phẩm cách."
Thế là lần đó coi như tướng Minh đã mất tất cả. Dù sao thì ông cũng bắt đầu đi qua sa mạc một lần thứ hai nữa. Hầu hết các người ủng hộ ông - ngoại trừ một vài bạn thật thân thiết- không biết được những lý do thật sự và thầm kín khiến ông phải rút lui... đã tránh xa ông. Ông nói đi nói lại với những người thân :" Chánh trị là cả một cơn ác mộng !"
Ông lại đọc sách trở lại. Nhân vật De Gaulle làm ông bị quyến rũ.. Theo gương ông nầy tướng Minh gần như tự đặt mình ngoài vòng của chế độ Cộng Hòa. Ông sống như vậy suốt trên 3 năm, giới hạn trong các tố cáo hành động của chế độ với những ngôn từ gay gắt, kêu gọi một sự tái lập một nền dân chủ thật sự và sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Ba Lê. Các nhóm khác nhau thuuộc lực lượng thứ ba lại bắt đầu dựa vào ông trở lại. Ông cũng thường tiếp vị cố vấn chánh trị của tòa đại sứ Pháp, ông Brochand, một người dân miền Nam nước Pháp, lanh lợi nhưng ranh mãnh, rất khôn khéo trong việc dựng lên những tổ hợp chánh trị , là người của ông Froment-Meurisse, Giám đốc Á Châu Sự Vụ ở Quai D'Orsay (Phủ Thủ tướng Pháp) Ông Brochand đã tin chắc chiến thắng tất yếu của Miền Bắc từ nhiều năm rồi . Những sự giao thiệp của ông ta với tướng Minh kèm theo với một đại diện của tòa đại sứ Pháp đã làm cho người Việt Nam lầm tưởng rằng tướng Minh được Ba Lê ủng hộ sẽ là một ứng viên được CPLTCHMN chấp nhận .
Chỉ mới cách đây vài tháng thôi., các thành viên của phái đoàn điều tra thuộc Quốc Hội Hoa Kỳ đã có tiếp xúc rất lâu với ông Minh và động viên ông ta nên hoạt động chánh trị trở lại . Ông cũng chỉ nghe vậy thôi.
Người cố vấn lão thành của ông là ông Nguyễn ngọc Thơ đã qua đời rồi vì bệnh ung thư. Còn ông giáo sư chánh trị của ông Minh, là ông Tôn thất Thiện lỗi lạc kia, sau khi bắt được ngọn gió từ tòa đại sứ Anh và xét thấy chiến thắng của Bắc Việt đã gần kề và không sao tránh khỏi .. nên ông ta thu xếp và vọt đi êm trên một chiếc phi cơ của Hội Hồng Thập Tư
Riêng về phía các tướng lãnh bạn của ông Minh thì luôn luôn lúc nào cũng nghi ngờ đối với cộng sản Bắc Việt , nên đã khuyên ông ta nên cẩn thận.
Chỉ riêng có nghị sĩ năng động Vũ văn Mẫu, người hay tiếp xúc với ông rất thường, và nhóm "tranh đấu trẻ" của Lý quý Chung đã thúc hối ông hãy nắm lấy chánh quyền và "đưa ra những điều kiện".
Trên thực tế, tướng Minh không phải là một nhà chánh trị .Lúc nào ông cũng chỉ mong muốn là một người hòa giải và chỉ muốn đóng vai trò hoà giải! Và hiển nhiên từ lúc ông thất bại năm 1971, ông có thể sẽ có một vai trò nào đó khi nào Miền Nam Việt Nam đứng trước một thảm họa. Quả nhiên, bây giờ chính là lúc chuyện đó đang xảy ra.
Đồng ý nhận thấy là tai họa mà Tổng Thống Thiệu phải gánh một phần lớn trách nhiệm, bạn bè của tướng Minh và một phần của các đối thủ của ông muốn ông phải cứu lấy những gì còn có thể cứu được . Sau nhiều ngày mặc cả gay go và đôi khi cứng rắn với ông Tổng Thống Hương già nua, cuối cùng tướng Minh cũng đã nhận được đầy đủ quyền hành. Chánh Phủ của ông đã được thành lập. Trong vài giờ sắp tới đây, ông Minh sẽ vào chiếm lĩnh Dinh Độc Lập. Bạn bè thân hữu của ông vui mừng hớn hở. Sau nhiều năm bị lưu đày, ở thế đối lập và bị hất hủi, cuối cùng tướng Minh cũng lại trở lại là vị nguyên thủ quốc gia ... và những người đã thúc đẩy và đưa ông ta lên như một món hàng rồi đây sẽ có thể được ngồi vào các ghế dựa nhung đỏ.... Nhưng liệu sẽ được bao lâu đây?

No comments:

Post a Comment