Tuesday, May 7, 2013

HỒ CHÍ MINH, CUỘC ĐỜI CỦA MỘT CON NGỰA HOANG By WILLIAM DUIKER - KỲ 2




Năm 1923, Nước Nga đang phục hồi từ 7 năm chiến tranh, cách mạng và nội chiến. Ngoài Moscow, Petrograd và một số thành phố lớn thuộc phần lãnh thổ châu Âu, cuộc cách mạng tháng 10 vẫn chỉ là cuộc "Cách mạng trên điện báo" (theo lời của Leo Trotsky). Trên những cánh đồng Nga mênh mông, gần 50 000 đảng viên Bolsheviks đang tìm cách thuyết phục hàng chục triệu nông dân Nga, vốn chẳng biết gì về những ý tưởng của Karl Max, lại càng không quan tâm đến số mệnh của cách mạng vô sản thế giới. Để điều chỉnh lại chính sách cưỡng đoạt mà nhà nước Bolshevik đã sử dụng để thiết lập quyền lực của mình trong cuộc nội chiến, Lenin đã buộc phải thừa nhận rằng nước Nga xô viết phải đi qua giai đoạn quá độ của chủ nghĩa tư bản. Năm 1921, Lenin tung ra chính sách kinh tế mới NEP, công nhận quyền tư hữu ruộng đất, áp dụng chế độ thuế thay cho trưng thu, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành công nghiệp quan trọng. Những cảm tưởng đầu tiên của NAQ tại thiên đường của CNXH, cái mà anh đã từng tô màu rực rỡ trong những bài báo hồi còn ở Pháp, không được dễ chịu cho lắm. Q bị giữ lại mấy tuần trong không khí căng thẳng, cho đến khi có một đại diện của FCP đến nhận diện. Sau đó Q được phân làm việc tại văn phòng Viễn Đông của QTCS (gọi tắt là Dalburo)  

Dalburo được thành lập tháng 6/1920 theo sáng kiến của Maring (Người Hà lan tên thật là Hendrik Sneevliet, sau này trở thành cố vấn thường trực cho Đảng CS Trung quốc), do nhà Đông phương học người Nga, Safarov lãnh đạo. Mục tiêu là tuyên truyền cho tư tưởng cách mạng tại vùng Trung đông và Viễn đông. Maring còn đề nghị thành lập các trường học để huấn luyện cho những hạt nhân cách mạng từ châu Á và châu Phi. Vô cùng nhanh nhạy trong việc gây ấn tượng, mới chân ướt, chân ráo đến nơi Q đã viết thư cho ban chấp hành trung ương FCP, đả kích cơ quan này đã không thực hiện đúng nghị quyết của đại hội 4 QTCS về việc mở rộng các hoạt động liên quan đến các vấn đề thuộc địa. Anh nhấn mạnh "nhân dân thuộc địa được hứa hẹn mà không thấy có hành động, tự nhiên sẽ đặt câu hỏi, liệu các đồng chí cộng sản là nghiêm túc hay lừa bịp". Cuối thư Q nhắc lại, điều kiện tiên quyết để gia nhập QTCS là cam kết tiến hành một cách có hệ thống các hoạt động tuyên truyền để hỗ trợ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Q cũng viết thư cho chủ tịch đoàn chủ tịch QTCS, trình bày các ý tưởng của mình để ủng hộ cuộc đấu tranh ở Đông Dương. NAQ miêu tả Việt nam như một thuộc địa chỉ có 2% vô sản mà lại vô tổ chức, tầng lớp trung lưu bé tí tập trung ở vài thành phố lớn, giai cấp tiểu tư sản ủng hộ độc lập nhưng không có chủ kiến chính trị rõ ràng, nông dân thì đông, bị áp bức và nếu được tổ chức tốt sẽ có tiềm năng lớn. Q cũng nhấn mạnh, động lực cách mạng chủ yếu bây giờ nằm trong tay các trí thức và nhà nho yêu nước. Bởi thế Q cho rằng mục tiêu đầu tiên là phải có hành động chung giữa các lực lượng cách mạng dân tộc và Đảng cộng sản. 

Tư tưởng của NAQ chính là tư tưởng của Lenin trong "Luận cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa". Mặc dù những tư tưởng đó không còn là rất mốt như thời sau đại hội 2 của QTCS, nhưng các nhà lãnh đạo xô viết buộc phải chú ý đến chàng thanh niên châu Á đầy tham vọng này và tính đến anh trong các nước cờ lâu dài ở châu Á. 

Năm 1923, quan điểm của Lenin về một nhà nước công nông trong các xã hội chưa qua cuộc cách mạng công nghiệp lại được khuấy lên. Năm 1922, một số kẻ theo chủ nghĩa dân túy đã lập nên "Quốc tế xanh" ở Prague, khuyến khích thành lập các đảng nông dân với đường lối chính trị mới. Các phần tử cấp tiến Đông Âu, do Dombal (đảng viên cộng sản người Balan) khởi xướng, cũng muốn QTCS phải có một tổ chức tương tự để lôi kéo sự ủng hộ của nông dân. Tuy không hào hứng lắm nhưng ban chấp hành QTCS cũng quyết định lợi dụng Triển lãm nông nghiệp quốc tế tại Moscow để tổ chức hội nghị Nông dân quốc tế vào ngày 10/10/1923. Những nhà tổ chức cũng gom được khoảng 150 đại biểu từ các nước tham dự triển lãm. NAQ được bầu đại diện cho Đông dương. Trong bài phát biểu của mình vào ngày 13, NAQ, qua các ví dụ và sự kiện đơn giản, đã chỉ ra rằng nông dân là nạn nhân bần cùng nhất của chủ nghĩa đế quốc. Bởi thế, Q kết luận QTCS chỉ có thể là QTCS chân chính nếu có được sự tham gia tích cực của nông dân châu Á. Hội nghị đã quyết định thành lập Quốc tế Nông dân do A. Smirnov làm tổng thư ký. NAQ được bầu làm 1 trong 11 thành viên chủ tịch đoàn của Hội đồng Nông dân quốc tế. 


Tháng 12/1923. NAQ nhập học tại Đại học Cộng sản cho những người bị áp bức phương Đông. Trường này do Lênin lập ra từ năm 1921, nhưng lại đặt dưới quyền của Stalin nên còn được gọi là trường Stalin, chuyên dạy cho các học viên từ các nước châu Á và các học viên không phải dân Bạch Nga từ miền đông nước Nga. Một trường khác, gọi là trường Lênin, chuyên đào tạo cán bộ cho châu Âu. 1 

Trường có khoảng 1000 học viên từ 62 dân tộc khác nhau, trong đó 900 là đảng viên cộng sản, 150 là phụ nữ, khoảng một nửa xuất thân từ nông dân, số còn lại là công nhân và "trí thức vô sản". Có vẻ NAQ là học viên đầu tiên từ Đông Dương. 

Khoảng 150 giáo viên dạy đủ các môn từ Toán học cho tới Lịch sử phong trào cách mạng và công nhân cũng như chủ nghĩa Max, trong ngôi nhà số 10 trên phố Tverskaya. Học viên còn được học các hoạt động cách mạng như tổ chức biểu tình, rải truyền đơn. Học viên đều dùng bí danh trong sinh hoạt. Các môn học được dạy bằng tiếng Pháp hoặc tiếng mẹ đẻ. Tiếng Nga được khuyến khích sử dụng trong giao tiếp. Năm học kéo dài từ tháng 9 tới tháng 7 với 3 tuần nghỉ Noel, 1 tuần nghỉ Xuân và nghỉ Hè. Trường có hai trại hè ở Crưm. Vào các kỳ nghỉ, học viên được huy động tham gia tăng gia sản xuất. Điều kiện học tập ở đây khá lý tưởng, trường có 2 thư viện với gần 47000 đầu sách. Mỗi dân tộc lớn đều có phòng riêng với các sách báo bằng tiếng mẹ đẻ. 

Ngay sau lễ kỷ niệm 3 năm ngày thành lập trường, Q đã viết thư cho Petrov, bí thư Dalburo, phàn nàn là hầu như chẳng có người Việt nam nào học ở đây cả. Q đề xuất trường Stalin đặc biệt quan tâm đến đào tạo đội ngũ cán bộ thế hệ mới cho châu Á tiến tới thành lập Liên bang Cộng sản Phương Đông. 

Trường Phương Đông có hai mức: căn bản 3 năm và tại chức 7 tháng. Nhiều khả năng là Q học lớp 7 tháng vì anh còn phải làm việc tại QTCS. Lãnh đạo QTCS coi Q là một thành phần quan trọng, thêm đại diện cho các nước châu Á và thuộc địa trong vô khối những tổ chức quốc tế được thành lập thời bấy giờ. Anh được mời đến quảng trường Đỏ dự miting và phát biểu trong ngày quốc tế lao động với tư cách là thành viên của Quốc tế lao động Đỏ. Q còn dự đại hội của Quốc tế phụ nữ và nói chuyện với vợ goá của Lenin: Krupskaya. 

Bằng vô số cách khác nhau, Q dần dần trở thành một nhân vật nhẵn mặt trong giới lãnh đạo QTCS và quen thân với các cây đa cây đề như Bukharin, Dmitrov, Thalemann, Kuusinen. Q còn chơi với một số bạn bè Trung quốc học cùng trường như Chu Ân Lai. Q cũng gặp Tưởng Giới Thạch khi ông này thăm Nga 3 tháng cuối hè năm 1923. Có vẻ như mọi người đều thích Q. Ruth Fischer, một nhà cộng sản gạo cội người Đức nhận xét: "NAQ không gây ấn tượng từ lần gặp đầu tiên, anh ta chinh phục bằng lòng hào hiệp và sự giản dị". Là một người thực tế, không tham gia các cuộc tranh luận vô bổ về học thuật, Q đã tránh được sự bất đồng đang hình thành lúc đó trong giới lãnh đạo xô viết, dẫn đến sự méo mó của Đảng Bolsevic và QTCS trong thập kỷ tiếp theo. 


Nhà báo Ossip Mandelstamd, người đã phỏng vấn Q tháng 12 năm 1923 cho báo "Ngọn lửa nhỏ" viết về Q: 

Một người trẻ tuổi mảnh dẻ, thấm đẫm những triết lý của đạo Khổng, với cặp mắt to và xuyên thấu. Khi anh ta nói về đất nước mình, cả người anh như co giật, mắt anh chói lên những tia sáng. Anh ta phát âm từ "văn minh" với một sự ghê tởm lộ rõ, và đặc biệt phẫn uất với việc nhà thờ Thiên chúa chiếm mất 1/5 đất trồng trọt của đồng bào anh. 



Boris Souvarin, người sau này đã rời bỏ FCP, tuyên bố: "Q đã trở thành một người Stalinist hoàn hảo" 


Chỉ có một người không mấy ấn tượng với Q. Đó là M. Roy, một đảng viên cộng sản Ấn. Ông này cho rằng Q là một người yếu đuối cả về thể xác và tư tưởng. Trớ trêu thay, chính Q là một trong số ít người ủng hộ luận điểm của Roy cho rằng các nước châu Á cũng có thể làm cách mạng. Roy sau này trở thành đặc phái viên của QTCS tại Trung quốc và theo nhiều nhà quan sát, chính sự yếu kém của ông này đã làm Đảng cộng sản Trung quốc thất bại trong cuộc tranh giành quyền lực năm 1927. 


Quốc còn dành nhiều thời giờ để viết cho các báo cánh tả ở Pháp cũng như Inprecor (cơ quan ngôn luận của QTCS). Chủ đề của ông rất rộng: từ chủ nghĩa đế quốc ở Trung quốc, 3K ở Mỹ, thiên đường Liên xô đến sự cùng khổ của nhân dân Đông dương. Cùng với các bạn Trung quốc tại trường Stalin, Q viết một cuốn sách nhỏ: "Trung quốc và thanh niên Trung quốc" xuất bản bằng cả tiếng Nga, Trung và Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Q trong thời kỳ ở Nga, và có lẽ trong cả cuộc đời là cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp", được xuất bản ở Paris năm 1926 (SGK "pháp lệnh" của chúng ta nói là 1925). Tác phẩm chủ yếu đả kích chế độ thực dân Pháp tại Đông dương, tuy cũng có vài dẫn chứng khác tới các thuộc địa châu Phi. Tuy nhiên cách hành văn dông dài cũng như trình bày cẩu thả làm có nhà nghiên cứu cho rằng, có lẽ ai đó đã mượn tên Q để xuất bản. Tuy nhiên nếu xét kỹ giọng điệu và văn phong, có vẻ như vẫn là Q. Chắc chắn là cuốn sách đã được ra đời một cách vội vàng 2. Một điều dễ nhận thấy trong các bài viết của Q là niềm tin "ngây thơ" với Liên xô và đặc biệt là tình cảm với Lênin. Có lẽ thất vọng lớn nhất trong đời Q là không được gặp Lenin. Năm 1923, khi được hỏi mục đích đến Liên xô, Q đã trả lời: để gặp Lenin. Rất tiếc tháng Giêng năm 1924, Lenin qua đời. Giovani Germanetto, một người quen Italia của Q kể lại: "Matxcova, tháng giêng 1924, lạnh buốt, nhiệt độ xuống dưới -40. Lenin mất mấy ngày trước đó. Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng chúng tôi ở khách sạn Lux. Một người thanh niên châu Á mảnh dẻ bước vào tự giới thiệu là NAQ. Anh nói muốn đi tiễn đưa Lenin. Tôi khuyên anh nên ở nhà đợi thêm một chút vì thấy anh ta ăn mặc rất mỏng manh. Chúng tôi uống chè rồi Q về phòng mình. 


Quãng 10h đêm lại thấy có tiếng gõ cửa. Vẫn đồng chí Q. Mặt, tay, mũi, tai tím ngắt vì lạnh. Anh lập cập nói đã đến thăm Lenin. Anh không thể đợi được đến ngày mai để viếng người bạn tốt nhất của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.... Cuối cùng anh xin chúng tôi một chén trà nóng" 

Theo Yevgeny Kobelev, sau khi dự đám tang Lenin, Q đã giam mình vào trong phòng và viết: "Người là cha, anh, thầy, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Người là ngôi sao dẫn đường cho các dân tộc bị áp bức. Người sẽ sống mãi trong hành động của chúng ta" 3 Tuy nhiên nếu để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt, dễ nhận thấy là không phải cái gì tại nước Nga xôviết cũng làm Q dễ chịu. Tháng 12/2003, người ta phân cho Q vào 1 buồng của khách sạn Lux với 4-5 anh bạn nữa. Và có vẻ mấy anh này không phải là những người đồng phòng dễ chịu. Tháng 3, Q viết thư kêu cứu: "ban ngày tôi không ngủ được vì ồn, ban đêm tôi không ngủ được vì rận/rệp" Cuối cùng Q được chuyển sang một phòng khác. 

Về chiến lược đường lối cách mạng, cũng chẳng phải mọi thứ đều suôn sẻ. Từ khi đặt chân đến Nga, Q liên tục thả bom xuống những người bạn có thế lực của mình về các vấn đề thuộc địa. Trong một bức thư viết tháng 2/1924 cho người bạn tại Trung ương QTCS (chắc là Manuilsky), Q cảm ơn bạn đã nêu vấn đề thuộc địa tại hội nghị của FCP ở Lyon. Cũng ngày đó, Q viết thư cho Tổng thư ký QTCS Grygori Zinoviev đòi được gặp mặt thảo luận về vấn đề thuộc địa. Không được trả lời, Q viết lá thư thứ hai kêu ca là tại sao không trả lời lá thư thứ nhất. Zinoviev quyết định lờ đi. 

Chẳng biết Q định thảo luận gì với Zinoviev, nhưng tháng Tư, Q công bố bài báo: "Đông dương và Thái bình dương" trong tạp chí Inprecor. Ông tuyên bố giai cấp vô sản châu Âu thực là ngây thơ khi cho rằng các vấn đề châu Á chẳng liên quan gì đến họ. Sự bóc lột các thuộc địa không những đang làm giàu cho các nhà tư bản và các chính trị gia vô liêm sỉ mà còn dẫn đến hiểm hoạ chiến tranh đế quốc. Khi đó thì công nhân châu Á và Đông dương chết, giai cấp vô sản châu Âu cũng bị hiểm hoạ. Tầm quan trọng của "vấn đề phương Đông" đã được Roy nêu lên từ Đại hội 2 năm 1920 nhưng bị các đồng chí châu Âu gạt đi. Họ cho rằng, trước hết các Đảng châu Âu phải dành được chính quyền trước. Các đồng chí châu Á cứ đợi đã! Thoạt đầu quan điểm châu Á được sự ủng hộ từ các cấp cao nhất: Lenin và cả Stalin. Tuy nhiên sau khi Lenin chết đi, Stalin chuyển trọng tâm sang đấu đá để dành quyền lực tại Moscow. Zinoviev tìm cách lảng tránh. Maring bỏ QTCS chạy lấy người, thậm chí Manuilsky, vì thiếu các thông tin thực tế, đành tập trung vào các điều kiện tại Balkans. 

Vai trò của nông dân còn thấp kém nữa. Thậm chí Bukharin còn chế nhạo Thomas Dombal là: "Một người nông dân hão huyền". NAQ không chịu đầu hàng, phát biểu tại hội nghị Quốc tế nông dân tháng 6/1924. Tuy nhiên ông cũng phải thừa nhận với một người bạn đó chỉ là: "tiếng kêu cứu giữa hoang mạc". 

Đại hội lần thứ 5 của QTCS tại Matxcova vào ngày 17 tháng 6 năm 1924 là cơ hội tuyệt vời để Q chiếm lĩnh diễn đàn về vấn đề thuộc địa. Đó cũng là mục tiêu của chuyến đi Nga của ông theo lời mời của Manuilsky. Vì lúc đó chưa có đảng cộng sản tại Đông dương, Q nằm trong thành phần của FCP. Hơn 500 đại biểu từ khoảng 50 nước tham dự. Mặc dù chương trình nghị sự có hẳn một phiên họp về vấn đề thuộc địa và các dân tộc ngoài Nga, các thủ lĩnh của CPSU đang bù đầu với cuộc đấu đá giữa Stalin và Trotsky, bởi thế các đồng chí châu Á cũng chẳng được quan tâm lắm. 

Ngay tại phiên họp đầu tiên, Q đã làm cho mọi người chú ý. Khi đại biểu Koralov đang đọc dự thảo nghị quyết để công bố, Q đã đứng lên hỏi: liệu văn kiện này có nhắm tới nhân dân các nước thuộc địa không. Koralov bực tức trả lời, đã có phiên họp riêng về vấn địa thuộc địa, cần gì phải bàn ở đây. Q không chịu và yêu cầu đại hội phải đề gửi nhân dân các nước thuộc địa trong tất cả các văn kiện của mình. Ngày 23/6, đến phiên Q phát biểu. Người thanh niên Việt nam mảnh dẻ dõng dạc tuyên bố: 

Tôi ở đây để nhắc nhở QTCS về sự tồn tại của các thuộc địa. Có vẻ như các đồng chí không chịu hiểu rằng, số phận của giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt giai cấp vô sản ở các nước thực dân gắn chặt với số phận của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Thuộc địa chứa đựng hiểm hoạ cũng như tương lai của cuộc cách mạng thế giới. 

Tôi nghe bài phát biểu hùng hồn của nhiều đồng chí ở mẫu quốc, nhưng xin lỗi, các đồng chí định giết con rắn bằng cách dẫm lên đuôi nó. Chúng ta đều biết là sức mạnh và nọc độc của con rắn đế quốc nằm nhiều ở thuộc địa hơn ở mẫu quốc. Thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, binh lính cho chiến tranh. Trong tương lai thuộc địa sẽ là thành trì của phản cách mạng. Nếu muốn phá vở một vật gì đó, các đồng chí đủ thông minh để chọn công cụ thích hợp. Đập trứng thì cần thìa, đập đá cần rìu. Vậy sao các đồng chí lại không muốn sức mạnh, sự tuyên truyền của cách mạng tương xứng với kẻ thù. Trong khi các đồng chí lờ đi các thuộc địa, chủ nghĩa tư bản dùng thuộc địa để hỗ trợ, bảo vệ và đánh lại các đồng chí. 

Ngày 1/7, Q phát biểu lần nữa, tiếp sau sự chỉ trích của Manuilsky đối với một số đảng cộng sản châu Âu về vấn đề thuộc địa. Q trực tiếp chỉ ra sự yếu kém của FCP và đảng cộng sản Anh, Hà lan và đưa ra một loạt các biện pháp cải thiện tình hình. Mặc dù chưa dám khẳng định nông dân sẽ đóng vai trò chủ đạo trong cuộc cách mạnh sắp tới, NAQ cũng nhấn mạnh vai trò của họ: 

Nạn đói đang hoành hành trên tất cả các thuộc địa Pháp. Nông dân căm thù và sẵn sàng nổi dậy. Nhưng họ không có tổ chức và lãnh đạo. QTCS cần phải giúp họ đứng lên tự giải phóng mình. 

Với những bài phát biểu sắc bén của mình, NAQ đã trở thành một nhân vật gây chú ý với giới lãnh đạo QTCS. Chân dung của Q do hoạ sĩ Nga Kropchenko N.I. vẽ xuất hiện trên Báo Công nhân Nga số cuối tháng Bảy. Báo Pravda chạy một tiêu đề giật gân: "Từ lời nói đến hành động - Diễn văn của đại biểu Đông dương NAQ". Tuy nhiên, chẳng ai ngờ được, chẳng bao lâu sau quan điểm coi trọng nông dân trong cách mạng châu á sẽ bị coi la dị giáo và sẽ bị Matxcova trừng phạt. 4 

Không hiểu có phải vì những lời phê phán của Q mà lãnh đạo QTCS đã chú ý đến việc tuyển mộ nhiều nhà cách mạng trẻ từ châu Á đưa sang Nga để đào tạo. Trong những năm sau đó, chỉ riêng từ Việt nam đã có hơn 100 học viên. Nhóm học viên Việt nam đầu tiên đến qua đường Pháp vào khoảng giữa năm 1925. FCP cũng lẳng lặng sửa sai bằng cách thành lập Uỷ ban thuộc địa do Jacques Doriot lãnh đạo. FCP còn tổ chức một trường đào tạo ở ngoại ô Paris dành cho các học viên từ các nước thuộc địa trước khi chuyển tiếp sang trường Stalin ở Nga. Một trong 8 học viên đầu tiên của trường này là người Việt nam. 

Với sự xuất hiện tại Đại hội V của QTCS, Q đã chấm dứt giai đoạn "tập sự", chính thức trở thành nhà lãnh đạo cách mạng châu Á, người phát ngôn cho các vấn đề phương Đông và nông dân. Q cảm thấy đã hoàn tất công việc của mình tại Moscow, sẵn sàng trở về châu Á để bắt tay xây dựng phong trào. Đó cũng là mục đích chính của Q khi rời nước Pháp. Trong lá thư của mình gửi Uỷ ban TƯ của QTCS năm 1924, Q viết: Khi tôi đến Matxcova tôi nghĩ sẽ chỉ ơ đây 3 tháng trước khi sang TQ để liên lạc với đất nước tôi. Bây giờ đã là tháng thứ 9 và tôi vẫn chờ đợi trong vô vọng. Tôi không hề có ý định đưa ra các luận điểm về sự tồn tại hay không tồn tại của các tổ chức công nhân, của các phong trào dân tộc chủ nghĩa hay của những hội nhóm bí mật nào đó. Chúng ta cần nghiên cứu tình hình một cách nghiêm túc và nếu ở đó chưa có gì thì phải THÀNH LẬP MỘT CÁI GÌ ĐÓ. 

Chuyến đi của tôi sẽ phải có các nhiệm vụ sau: 

- Tạo mối liên lạc giữa Đông dương và QTCS 
- Nghiên cứu tình hình kính tế chính trị xã hội tại thuộc địa 
- Liên lạc với các tổ chức đã có sẵn 
- Tạo cơ sở thông tin và tuyên truyền 
Làm thế nào để có thể hoàn thành những nhiệm vụ đó? Trước hết là phải đi Trung quốc. Sau đó thì phải làm bất cứ việc gì mà tình hình yêu cầu. Cần bao nhiêu tiền? Tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung quốc, chắc là khoảng US100/tháng (chưa tính thuế), không kể chi phí chuyến đi sang TQ. Tôi nghĩ là chúng ta đã có đủ thông tin căn bản để thảo luận. Nỗi khát khao được trở về của Q được sự ủng hộ của Dalin, đặc vụ của QTCS nằm trong phái đoàn của Borodin trợ giúp Tôn Trung sơn tổ chức lại QDĐ theo đường lối Lenin. Khi về Matxcova Dalin cũng ở khách sạn Lux và có nhiều dịp nói chuyện với Q. Tháng Tư năm 1924, sau khi tháp tùng đoàn đại biểu TQ từ Yakutsk về Matxcova, Q được mời lên phòng làm việc của Manuilsky. "Thế nào, anh bạn trẻ? Anh có sẵn sàng chiến đấu không?" 

Manuilsky đồng ý cử Q về Quảng đông với điều kiện Q phải hỗ trợ các dân tộc khác trong vùng. Chẳng bao lâu sau, Q được cử làm thành viên Ban bí thư Viễn đông (Dalburo) của QTCS. Tuy nhiên bộ máy quan liêu đã làm cản trở chuyến đi của anh vì không tìm được công việc thích hợp. Bực mình Q đề nghị chỉ cần chi trả tiền vé, anh sẽ tự lao động để kiếm sống. Cuối cùng, ngày 25/9, Dalburo quyết định: "Đồng chí NAQ sẽ đi Quảng châu" 

Q đã thuyết phục được QTCS cử về quê hương với cái giá khá đắt Vì không có vị trí chính thức, anh phải sống một cách bất hợp pháp trong thành phố đầy rẫy những mật vụ Anh, Pháp. Q còn phải tự kiếm sống trong một đất nước mà anh chưa bao giờ đến. (Trước khi đi anh đã tranh thủ nhận nhiệm vụ với hãng tin ROSTA thỉnh thoảng gửi bài từ TQ về kiếm thêm tí chút) 5

Q rời Matxcova một ngày tháng 10 trên chuyến tàu xuyên Xiberi khởi hành từ ga Yaroslavskii, sau khi đã nhờ Dombal thông báo với mọi người là bị ốm. Q còn viết một lá thư gửi cho một người bạn Pháp thông báo anh không được phép đi Đông dương, bởi thế sẽ quay về Pháp. 

Q ở lại Vladivostock vài ngày rồi lên một con tàu Xoviet. Tàu cập bến Quảng châu ngày 11/11/1924 6.
--------------------------------
1
Một số nhà nghiên cứu Việt nam cho rằng NAQ nhập trường muộn hơn, hè năm 1924. Sokolov còn cho rằng chẳng có bằng chứng nào về việc Q đã từng học ở đây. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn một tờ báo Italia, tháng 3/1924 Q đã xác nhận mình là học viên.
2
Bản án chế độ Thực dân Pháp.
3
Đám tang Lenin.
4
ủng hộ nông dân.
5
Về tung hoả mù trước chuyến đi TQ.
6
Đến Quảng châu.

CON RỒNG CHÁU TIÊN


Châu Á năm 1924 đã khác xa so với thời Q ra đi năm 1911. Mặc dù Thế chiến thứ Nhất không phá vỡ hệ thống thuộc địa tại Nam và Đông Nam á, Trung quốc đã thay đổi sâu sắc. Mùa thu năm 1911, một cuộc cách mạng đã phá vỡ triều đình Bắc Kinh. Những người nông dân của Tôn Dật Tiên đã nổi dậy lật đổ nhà Thanh nhưng đã không qua mặt được Viên Thế Khải. Tháng 2/1912 TDT đã buộc phải nhường chức tổng thống của nước cộng hoà mới thành lập cho VTK với trụ sở tại Bắc kinh. 

Viên thực chất muốn trở thành hoàng đế. Tuy nhiên đảng viên của Tôn, chiếm gần nửa trong nghị viện đã không cho Viên thực hiện điều này. Tháng Giêng năm 1914, Viên giải tán quốc hội và điều hành bằng sắc lệnh. Đảng của Tôn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tôn phải chạy ra nước ngoài. Năm 1916, Viên đột ngột qua đời. Trung Hoa rơi vào vòng loạn đả của các thủ lĩnh địa phương. Mặc dù chính quyền vẫn còn tồn tại một cách mong manh tại Bắc kinh, nhưng men xã hội đã tích luỹ khắp nơi. Tháng 1/1919, sinh viên nổi dậy tại BK và các thành phố lớn. Cũng năm đó, Tôn đổi tên đáng thành Quốc dân Đảng, hùng cứ tại Quảng Châu (dưới sự bảo trợ của một thủ lĩnh địa phương). Tháng 4/1921, Tôn tuyên bố thành lập nước cộng hoà mới và tự phong làm tổng thống. Tại Nga, sau khi tạm yên tình hình trong nước, năm 1920, đảng bộ Viễn đông được thành lập tại Iakurst để lãnh đạo phong trào cộng sản vùng Viễn đông-Thái Bình dương. Grigorin Voitinsky được cử sang TQ. Sau khi ở BK một thời gian ngắn, ông sang Thượng hải và bắt đầu tụ tập các lực lượng cách mạng trong vùng. Mùa hè năm 1922, Đảng cộng sản TQ được thành lập tại Thượng hải. Maring (đảng viên cộng sản người Hà lan), người được cử thay Vointinsky phụ trách Quốc tế cộng sản tại TQ đã rất kiên quyết yêu cầu ĐCS TQ kết hợp với QDĐ. Tháng giêng 1923, hai đảng ký thoả thuận Nội Liên (bloc within) để thành lập mặt trận thống nhất TQ dưới sự hỗ trợ của Nga. Các đảng viên CCP được mời tham dự QDĐ 

Tại Đông Dương, tình hình cũng thay đổi nhanh chóng, mặc dù có thể không nhanh như bên Trung Hoa. Dân số ở cả 3 miền tăng từ 7 triệu năm 1880 đến 16 triệu năm 1926 (Tokin: 6, Annam: 5 và khoảng hơn 4 triệu tại Cochin China). Mặc dù vẫn là đất nước nông nghiệp nặng nề, đến giữa những năm 20 đã có khoảng 1 triệu dân sống ở các đô thị, chủ yếu là Hà nội và Sài gòn. 

Phong trào đấu tranh giành độc lập cho Việt nam đã hầu như suy sụp. Những nhà cải lương phải im tiếng sau khi PCT bị bắt và đày sang Pháp. Phan Bội Châu khởi đầu khá ấn tượng, lôi kéo được sự hỗ trợ của nhiều nhà yêu nước xuất chúng, cũng dần dần héo hắt sau mấy cuộc khởi nghĩa vội vàng thất bại, đặc biệt sau khi Phan Bội Châu bị bắt ở Nam Trung quốc. 

Năm 1911, nghe tin cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, PBC đã từ bỏ ý định phục hồi chế độ quân chủ, lập ra đảng mới: Việt nam Quang phục Hội. Mục tiêu của Châu là xây dựng mô hình nước cộng hoà kiểu Tôn. Năm 1912, Châu gặp Tôn và được hứa Việt nam sẽ là nước đầu tiên được giúp đỡ một khi cách mạng thành công tại Trung hoa. Đáng tiếc sau đó, Châu bị mấy thủ lĩnh địa phương tống giam vì các hoạt động lật đổ. Năm 1917, khi Châu ra tù, Quốc dân đảng đã bị mất quyền, Tôn thì đã chạy sang Nhật bản. Một lần nữa hy vọng vào sự trợ giúp của nước ngoài bị tan vỡ. Có vẻ như Châu đã hoàn toàn mất hết kiên nhẫn, ông thậm chí còn đề nghị hợp tác với Pháp, hy vọng vào sự cải cách của chế độ thực dân. Đầu những năm 20, bộ máy cách mạng của Châu tại Việt nam thực tế đã tan vỡ. Châu ra sống lưu vong tại Nam Trung hoa với một số những môn đệ gần gũi nhất. Thời kỹ Phan Bội Châu rõ ràng đã đến hồi kết thúc. 

Hai Phan thất bại đã cho thấy một sự thay đổi lớn lao trong xã hội Việt nam. Tầng lớp quý tộc-học giả truyền thống, những người đã chi phối nền chính trị Việt nam hàng thế kỷ qua, đã mất dần ảnh hưởng. Mặc dù nhiều học giả đã nhận thức được sự thay đổi của thời cuộc và vai trò ngày càng tăng của quần chúng, như một giai cấp, họ không cảm thấy tự tin. Phan Bội Châu nhắc nhiều đến hình ảnh: "hàng chục nghìn anh hùng vô danh, đánh đuổi thực dân Pháp", nhưng đảng viên của ông chỉ gồm toàn những học giả với đời sống khá giả. Mặc dù cương lĩnh của đảng là cổ vũ thương mại và công nghiệp, thành phần lãnh đạo đảng lại chủ yếu là các địa chủ. Những nhà quý tộc giàu có khăn áo thướt tha mở cửa hàng để quyên vốn cho đảng, thực chất coi khách hàng bằng nửa con mắt. Khoảng cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, chế độ thi cử kiểu Khổng tử bị bãi bỏ trên khắp Việt nam. Chữ quốc ngữ được phổ biến ở khắp 3 miền. Mặc dù đa số thanh niên vẫn phải học ở các thầy đồ làng truyền thống, con cháu của các quý tộc đã được gửi đi học tại các trường kiểu Pháp như Quốc học. Họ được dạy bằng tiếng Pháp và được tiếp tục đưa sang Pháp đào tạo. Cùng lúc đó, một tầng lớp trung lưu mới được hình thành. Họ là những nhà buôn, chủ hãng hoặc công chức trong các công sở của người châu Âu. Họ ngưỡng mộ lòng yêu nước của Phan và các bạn, nhưng trong lòng họ giễu cợt các quan điểm bảo thủ. Họ mặc đồ Tây, uống vang Bordeaux và nói tiếng Pháp. Nhà văn Pháp Paul Monet miêu tả họ như: "nguyên mẫu của nền văn minh Pháp, bị tách khỏi những tín ngưỡng truyền thống, hoàn toàn coi thường Khổng tử vì họ không hiểu". Các quan chức thuộc địa Pháp vui mừng vì có những thành quả đầu tiên của quá trình văn minh hoá. Họ không hề ngờ rằng, chính thế hệ này mới là những người thách thức sự thống trị của họ. Những hành động bất nhất của nhà cai trị Pháp vô tình lại tăng thêm nỗi thất vọng của dân Việt. Năm 1919, toàn quyền Albert Sarraut hứa hẹn: "sẽ coi những con dân của mình như người anh em và dần dần phục hồi toàn bộ nhân quyền". Ngay cả NAQ khi đó đang ở Paris, cũng không khỏi khấp khởi một chút hy vọng mong manh về đất nước đã sản sinh ra khẩu hiệu: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Tuy nhiên sau khi AS được thăng chức đưa về cố quốc, chẳng ai hơi đâu nhớ đến những lời hứa đó nữa. Hệ thống trường học thiếu tiền, cả nước chỉ có khoảng 5000 học sinh trung học. Nếu trước đây trong chế độ phong kiến, có đến 25% dân số có khả năng giải mã được trên những ký tự ngoằn ngoèo của chữ Hán, thì sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ biết chữ (kể cả quốc ngữ hay chữ Hán) chỉ vào khoảng 5%. Những thống kê này đặt một dấu chấm hỏi to đùng lên "Sứ mệnh mang lại nền văn minh" của thực dân Pháp. Mặc dù không ít người Việt nam đã cống hiến cho mẫu quốc trong thế chiến thứ Nhất, họ vẫn không được bộ máy thực dân công nhận ngay tại nước mình. 10000 viên chức Pháp được trả lương cao gấp nhiều lần đồng nghiệp Việt nam. Đại đa số trong hơn 40000 người châu Âu, nhiều người đến Việt nam "trên răng, dưới dép", nay khá giả nhìn dân bản địa không khác gì một con chó. Chính quyền độc quyền sản xuất muối, thuốc phiện và rượu bán cho dân với giá cắt cổ. Hơn 500 ngàn nông dân không ruộng đất, phải cày thuê cuốc mướn, nộp tô đôi khi tới 50% mùa màng cho khoảng 5 vạn địa chủ. Georges Garros, trong cuốn sách xuất bản giữa thập kỷ Forceries humaines lạnh lùng nhận xét: người Pháp mà rơi vào hoàn cảnh ấy, chắc chắn sẽ làm cách mạng. Về phần mình, trong cuộc trả lời phỏng vấn Ossip Mandelstam năm 1923 tại Moscow, NAQ miêu tả Việt nam như một dân tộc: "bị đẩy vào địa ngục". Một lớp các nhà hoạt động chính trị mới ra đời khoảng giữa những năm 20 là con đẻ của tâm trạng vỡ mộng của xã hội. Họ được đào tạo theo hệ thống trường Tây, ngưỡng mộ văn hóa Tây, đọc sách báo Tây nhưng phẫn nộ vì sự bất công mà nhà cầm quyền Pháp áp đặt cho đồng bào của mình. Họ đòi hỏi: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" cho dân tộc mình. Những hạt giống phản kháng đầu tiên nảy mầm ở Sài gòn nơi khoảng cách giàu nghèo, bản xứ và ngoại quốc rõ rệt nhất. Sài gòn cũng là nơi tập trung nhiều ngoại kiều và công nhân nhất do sự phát triển kinh tế nhanh chóng. Người đầu tiên là nhà địa chủ Bùi Quang Chiêu, người mà NAQ đã từng gặp trong chuyến xuất ngoại đầu tiên của mình. Ông ra tờ báo La Tribune Indigene và thành lập Đảng Hiến pháp, đảng chính trị đầu tiên ở Đông dương. Mặc dù Chiêu và các đồng sự gây sức ép đòi Pháp cho người Việt nam nhiều quyền hơn nữa trong đời sống chính trị, mục tiêu của các ông là giảm sự thống trị của Hoa kiều trong lĩnh vực kinh tế. 

Người mà người Pháp sợ hơn là Nguyễn An Ninh. Ông này là con của một nhà nho Nam bộ, có liên quan đến Trường Tự do Hà nội, sau đó tham gia vào phong trào kháng chiến của Phan Bội Châu. Ninh tốt nghiệp luật ở Paris, đã từng gặp NAQ và tỏ ra rất ham thích chính trị. Về nước đầu những năm 20, Ninh ra báo: La Cloche Felee (Tiếng chuông rè) để kêu gọi tinh thần yêu nước của dân chúng và đòi cải cách chính trị. Cũng như Phan Chu Trinh, Ninh ngưỡng mộ văn hoá phương Tây và coi đó là sự bù đắp cho nền Nho giáo kìm hãm sự sáng tạo của con người. Theo ông đó là nguyên nhân mà ta mất nước. Ông kêu gọi khởi xướng một nền văn hoá mới, không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng du nhập của Khổng tử và Lão tử. Cũng như Mahamat Ghandi, Ninh cho rằng giải pháp nằm trong vấn đề tinh thần và chỉ có thể tìm thấy trong nhân dân. Ẳnh hưởng của Ninh mạnh đến nỗi đại sứ Maurice Cognacq phải mời lên thẩm vấn. Ngài đại sứ thông báo là các hoạt động của Ninh đã bị theo dõi chặt chẽ và Ninh phải thôi ngay, nếu không ngài sẽ buộc phải có những hành động không hay. Ngài còn châm biếm, dân Việt còn ngu lắm, làm sao hiểu được những điều ông phát biểu, tốt hết là ông hãy đến Moscow. Ninh bỏ ngoài tai và vẫn tiếp tục hoạt động 1

Khi NAQ đến Quảng đông tháng 11/1924, thành phố đang náo động vì hàng ngàn người đổ ra bờ sông để bày tỏ sự ủng hộ đối với chính quyền Tôn Trung Sơn và tiễn tổng thống đi Bắc kinh. Từ tháng giêng năm 1923, theo sự thoả thuận với Maring mật vụ của QTCS, Tôn thi hành chính sách: Nội liên, đưa một số Đảng viên CCP vào những vị trí quan trọng của quốc dân đảng. Sau khi đại diện của QTCS - Mikhail Borodin đến Quảng đông, Quốc dân đảng được tái cơ cấu theo đường lối của Lê nin. Học viện quân sự Hoàng phố được mở ra để đào tạo các sĩ quan trẻ cho cách mạng. Tưởng Giới Thạch, cánh tay phải của Tôn được bổ nhiệm làm Giám đốc, Chu Ân Lai làm chính uỷ học viện. Quyết định của Tôn nghiêng về nước Nga xô viết và hợp tác với CCP làm cho giới ngoại giao và thương mại phương tây ở Quảng đông sôi máu. Mùa hè năm 1924, chính quyền Anh ra lệnh đàn áp các cuộc biểu tình của công nhân trên Đảo Sa điện. Đáp lại, công nhân công bố tổng bãi công. Chính phủ Tôn cử quân đội đến ủng hộ các công nhân bãi công. Hội Công thương Quảng đông (chủ yếu gồm các thương gia phương Tây) thành lập các đội du kích vũ trang để bảo vệ cộng đồng phương tây. Đã xảy ra các cuộc đụng độ giữa họ và quân đội chính phủ. 

Tình hình bắc Trung quốc cũng thay đổi nhanh chóng. "Tướng Thiên chúa" Phương Du Tường lật đổ Vu Bắc Phú ở Bắc kinh. Phương có cái nhìn thiện cảm với chế độ của Tôn và mời Tôn lên Bắc kinh đàm đạo. Tôn đồng ý. 

Mặc dù không được giao nhiệm vụ rõ ràng, vừa đến Quảng châu, NAQ đã ngay lập tức bắt liên lạc với Borodin và được ông này mời đến ở cùng với mình tại Bao công Quán, một biệt thự ngay cạnh cơ quan trung ương của QDĐ. Tầng 1 là văn phòng của 20 nhân viên phái bộ QTCS. Tầng 2, Quốc và Borodin ở. Cả hai đã từng gặp nhau ở Moscow, cùng nói được tiếng Anh (Borodin đã ở Chicago) và cùng chia sẻ mục tiêu thúc đẩy cách mạng ở châu á. Vì thế nên họ nói chuyện rất tâm đầu ý hợp. Để che mắt mật thám Pháp, NAQ lấy tên là Lý Thuỵ. Chỉ có Borodin và vợ biết được danh tính của NAQ. Quốc được phân vào phân xã của cơ quan thông tấn Xô viết ROSTA. Trong các bài viết về Moscow, Q thường ký tên Nilovskii. Thỉnh thoảng Q còn làm việc phiên dịch hoặc đại diện cho Quốc tế nông dân. Tuy nhiên, mục đích chính của chuyến trở về của NAQ là xây dựng hạt nhân cho một đảng mới theo kiểu Lenin, từ đó tìm cách đưa phong trào cách mạng Việt nam vào tổ chức, theo ý chỉ của mình. 

Sự hiểu biết của các nhà cách mạng Việt nam lúc đó về chủ nghĩa Max và cuộc cách mạng Nga lúc đó hết sức đơn giản. Một nhà dân tuý nói: "Chúng tôi không theo chủ nghĩa cộng sản, chúng tôi theo những người cộng sản, bởi vì họ hứa sẽ mang lại quyền tự quyết cho các dân tộc. Chúng tôi chờ đợi họ như những vị cứu tinh." Có người còn ngây thơ: "Nếu phương Tây căm thù người Nga và những người cộng sản, họ phải là những người tốt." 2 

NAQ không hề có một ảo tưởng nào. Từ năm 1922, trong một bài báo viết tại Paris, ông nhận xét, đa số nhân dân tại thuộc địa hiểu Bolsevism là: "Đạp đổ tất cả hoặc tẩy chay nước ngoài. Cả hai cách hiểu đều nguy hiểm". Quần chúng "đã sẵn sàng nổi dậy, nhưng họ không biết bắt đầu như thế nào". Việc xây dựng một đảng đại diện cho các tư tưởng Max và Lenin nhưng lại đáp ứng được khát vọng: độc lập dân tộc của đông đảo quần chúng, là một việc cấp bách nhưng vô cùng khó khăn. 

Người Việt nam nổi tiếng nhất ở TQ khi đó là Phan Bội Châu. Sau khi ra tù vào năm 1917, Châu đã có một thời ve vãn ý tưởng dàn xếp với Pháp nhưng nhanh chóng vỡ mộng. Ông xoay sang dưỡng lão tại Hàng Châu ở nhà của đệ tử có tên là Hồ Học Lâm. Tuy đã 55 tuổi, lại chẳng có cơ sở nào ở trong nước, nhưng hình ảnh một nhà cách mạng lão thành quắc thước với bộ râu quai nón và cặp kính trắng lạnh lùng vẫn có sức hấp dẫn lớp trẻ. Khoảng đầu những năm 20, một nhóm các thanh niên trí thức Việt nam do Lê Hồng Phong, Lê Văn Phan (sau này gọi là Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn Lệnh dẫn đầu đã vượt biên sang nhận Châu làm sư phụ. Một điều thú vị là nhóm này hầu như đều đến từ Nghệ an và sau đều trở thành nòng cốt của tổ chức cách mạng do Quốc thành lập 3

Nhóm thanh niên kích động này nhanh chóng cảm thấy tù túng với tổ chức của Châu. 8 tháng trước khi Quốc tới Quảng châu, tháng 3/1924, họ tách ra thành lập tổ chức mới lấy tên là Tâm Tâm Xã. Nóng nảy và dễ kích động, họ cho rằng mọi thứ lý thuyết đều vớ vẩn, họ theo đuổi đường lối của Auguste Blanqui ở châu Âu thế kỷ 19, người đã kích động khởi nghĩa tại Pháp, Italia và Tây ban nha. Mục tiêu của tổ chức là tuyên truyền và khủng bố để châm ngòi cho việc lật đổ chế độ cai trị của Pháp. 

Người đỡ đầu cho tổ chức là Lâm Đức Thụ. Ông này tuy đã 36 tuổi và giàu có nhờ lấy một bà vợ giàu, nhưng sinh ra trong một gia đình chống Pháp, lại có tiền và quan hệ rộng rãi nên rất có uy tín. Trụ sở của TTX đóng ngay tại hiệu thuốc của vợ chồng Thụ tại Da Trường, một phố nhỏ gần trụ sở QTCS. Một trong những phi vụ đầu tiên của nhóm là đánh bom toàn quyền Đông dương Martial Merlin khi tay này đến thăm Quảng đông tháng 6/1924. Đáng ra chàng thanh niên ngăm đen đẹp trai Lê Hồng Sơn sẽ xử lý vụ này, tuy nhiên anh này với biệt danh "Hit man" quá quen mặt với cảnh sát. Phạm Hồng Thái, một chàng trai mới lò dò từ Đông dương sang được giao nhiệm vụ thay thế. Anh này là con một viên quan đã từng tham gia phong trào Cần vương ở Nghệ An, được tiêm nhiễm tư tưởng cách mạng trong thời gian học tại trường Pháp ở Hà nội. Sau một thời gian làm thợ cơ khí ở ga ra, rồi thợ mỏ, Thái cùng các bạn là Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu chuồn sang Trung quốc. 

Tối 19/6, khách sạn Victoria trên đảo Sa điện ồn ào những lời chúc tụng nhân đại tiệc chúc mừng toàn quyền Pháp. Đúng 8:30, khi món súp đang được dọn ra thì một tiếng nổ đinh tai nhức óc đã biến bàn tiệc thành một địa ngục. Năm thực khách chết ngay tại chỗ, hàng chục người khác bị thương nằm la liệt. Trên đường trốn chạy, Thái nhảy xuống sông và chết đuối trên sông Châu Giang. Thoát chết trong gang tấc, Merlin rời Quảng châu ngay hôm sau trong khi đám tang người liệt sĩ trẻ được tổ chức trọng thể. Đây là vụ ám sát một quan chức cao cấp châu Âu đầu tiên ở châu Á. Tiếng bom Sa điện đã gây một cú sốc lớn trong cộng đồng người Pháp và tôn Phạm Hồng Thái lên vị trí "tử vì đạo". Chính quyền Tôn Trung Sơn quyết định dựng bia tưởng niệm. Phan Bội Châu thì tranh thủ vụ việc để "đánh bóng" lại hình ảnh của mình. Ông này viết một bài tiểu sử về Thái như một cộng sự trong tổ chức của ông 4. Tháng 7/1924, trong chuyến đi dự lễ khai trương bia tưởng niệm Thái, Châu đã trao đổi với một số đệ tử về việc thay Quang Phục Hội bằng Việt nam Quốc dân đảng, theo mô hình đảng của Tôn. Châu trở về Hàng châu tháng 9/1924. 

Mặc dù Merlin thoát hiểm nhờ có một thực khách có hình dạng giống ngài toàn quyền một cách kỳ lạ (vị này chết ngay tại chỗ), nhưng vẫn có những nghi ngờ về kẻ phản bội ở trong hàng ngũ. Một thành viên của Tâm Tâm Xã, Lê Quang Đạt, đã công khai đặt vấn đề về vai trò của Lâm Đức Thụ vì những mối quan hệ của ông này với Pháp. Tuy nhiên Lê Hồng Sơn đã gạt đi, và Thụ vẫn tiếp tục cộng tác với tổ chức 5

Năm tháng sau vụ đánh bom, NAQ đến Quảng châu. Nhưng chỉ ngày hôm sau, ông đã tiếp cận các thành viên TTX trong vai một nhà báo Trung quốc họ Vương. Những hành vi cấp tiến của họ làm Q rất khoái. Việc đầu óc họ còn trong trắng về lý thuyết càng thuận tiện cho việc tuyên truyền những tư tưởng Max-Lenin. Q thích Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu nhưng đặc biệt ưu ái chàng trai chắc nịch Lê Hồng Phong, người được đích thân Châu tuyển mộ. 

Với bản lĩnh của mình, có vẻ như Q chẳng gặp khó khăn gì khi dụ khị mấy chàng trai trẻ. Tháng 12/1924, Q báo về Matxcova là đang bắt liên lạc và hợp tác với "một nhóm nhà cách mạng Việt nam". Tháng 2/1925, Q thành lập nhóm 9 người và đặt tên là Quốc dân đảng Đông dương, 5 trong số đó được ông coi là nòng cốt của Đảng cộng sản tương lai. Q khuyến khích các thành viên về nước chiêu mộ thêm đệ tử, hoặc tham gia quân đội QDĐ Trung hoa, hay gia nhập CCP. Q cần gấp sự hỗ trợ về tài chính và tài liệu tuyên truyền từ Maxcova 6. Mặc dù không nhất trí với các phương pháp đấu tranh của Châu, Q vẫn sử dụng ông này vào việc xây dựng tổ chức của mình. Thông qua các thành viên TTX, Q lần ra mối quan hệ với Châu. Châu có vẻ cũng như đã nhận ra được danh tính của Lý Thuỵ. Vào khoảng giữa tháng 2 và tháng 3, Châu viết cho Q một bức thư có nhắc đến cuộc gặp đầu tiên của hai người ở Kim liên. Châu hoàn toàn ủng hộ đường lối của Q trong việc cải tổ lại đảng của mình. Tuy nhiên Q nhanh chóng nhận thấy rằng Châu và nhiều cộng sự lớn tuổi của ông không thể là hạt nhân cho một tổ chức mới mà Q đang gây dựng. Q thành lập Cộng sản đoàn với 5 hạt nhân ưu tú, trong đó có Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu. 

Sự xuất hiện của một nhân vật hoạt động tích cực như vậy ở trụ sở QTCS, tất nhiên là gây chú ý cho các mật vụ Pháp. Một đặc vụ với bí danh "Noel" được cử sang từ Paris với mục đích xác định được danh tính của Lý Thuỵ. Kẻ giúp đỡ đắc lực nhất cho Noel chính là Lâm Đức Thụ với bí danh là "Pinot". Tay này làm điệp viên hai mang cho cả Pháp và các lực lượng cách mạng. Tháng 3, Thụ chụp được 1 tấm ảnh Q cùng với các dồng chí trước cửa trụ sở Quốc dân đảng. Phòng Nhì nhanh chóng xác nhận: Lý Thuỵ chính là Nguyễn ái Quốc. 

Sự hình thành của một đảng cách mạng mới đã chín muồi. Tháng 6, tại nhà Lâm Đức Thụ, Q cùng với các nòng cốt trong Cộng sản đoàn lập nên Hội thanh niên cách mạng Việt nam. Cùng vói các hoạt động của Hội, tờ báo Thanh niên mà đa phần các bài là do Quốc viết đã đặt dần dần nền móng của một tầm nhìn mới vượt qua cả chủ đề độc lập dân tộc. 

Nhờ mối liên hệ của chính quyền Tôn Trung Sơn với QTCS, Quảng châu lúc đó được coi như là "Matxcơva của phương Đông" thu hút các nhà cách mạng từ Triều Tiên, Ấn Độ, Đông Dương và Tây Ấn thuộc Hà lan.(Tây Ấn là nơi nào vậy ta... có phải là Indonexia không nhỉ... ?) Từ kinh nghiệm hoạt động ở Paris, Q cùng với đặc vụ của QTCS người Ấn độ Roy và lãnh tụ cực tả của QDĐ Lão Trung Kha, thành lập "Hội các dân tộc bị áp bức châu Á". Phiên họp đầu tiên của Hội được tiến hành vào giữa tháng Bảy. 

Cương lĩnh hoạt động của Hội thanh niên cách mạng được xây dựng dựa trên hai trụ cột chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xã hội theo mô hình của Lenin được đại hội QTCS lần II phê chuẩn năm 1920. Tuy nhiên nếu Lenin coi cách mạng dân tộc chỉ là một bước chiến thuật nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc, cương lĩnh của Hội lại tỏ ra chú trọng đến độc lập dân tộc hơn nhiều là số phận của cách mạng thế giới. Chính điều đó đã gây nhiều nghi ngờ cho nhiều nhà quan sát về sự trung thành của Q với các tư tưởng Maxism và cuộc đấu tranh để xây dựng ảo tưởng cộng sản. Trên thực tế cuối những năm 20, đã xuất hiện những bài viết chỉ trích Q ở Matxcơva và từ những người cộng sự của Q. 

Có nhiều lý do để khẳng định, Q trước tiên là một nhà yêu nước. Trong bài báo "Con đường đưa tôi đến với Lenin" viết năm 1960, Q khẳng định, chính khao khát độc lập cho Việt nam đã đưa ông đến với chủ nghĩa Max. Khác với Lenin, đối với Q độc lập dân tộc gần như đã là mục tiêu cuối cùng. Q thường xuyên phát biểu: "cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam sẽ được tiến hành vào một thời điểm thích hợp". 

Tuy nhiên cũng khó có thể nói, Q chỉ coi chủ nghĩa Max chỉ là công cụ cho cuộc đấu tranh giành độc lập của mình. Những bài viét và phát biểu của cậu ở Paris và Matx về một thế giới tương lai sôi sục nhiệt huyết. Trước khi chết, khi trả lời một phóng viên Xoviet, Q đã ân hận mãi về việc đã đả kích một nữ đồng chí của mình ở Nga vì đã mặc lụa tơ tằm và đi giày cao gót. "Chẳng nhẽ những người trẻ tuổi ăn mặc đẹp lại là điều xấu xa?" 7 Câu hỏi ngơ ngác của cô gái đã hằn sâu vào trí nhớ Q. 

Nếu Q vừa là nhà dân tộc chủ nghĩa vừa là một người theo chủ nghĩa Max, câu hỏi làm thế nào kết hợp giữa bản chất yêu nước của Q và đòi hỏi tinh thần quốc tế vô sản của chủ nghĩa Max đã được Lenin phần nào đề cập đến trong "Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa". Lenin đề xuất khái niệm "Liên hiệp" các quốc gia độc lập như một hình thái chuyển tiếp trước khi thành lập "Quốc gia vô sản toàn cầu". Sự liên kết giữa nước Nga cách mạng, Hungary và Phần lan cũng như giữa Armeni và Azerbaijan không thể không ảnh hưởng đến Q. Trong một bức thư gửi QTCS, Q đã đề nghị tuyển mộ thêm nhiều học viên vào trường Stalin cho "Liên hiệp cộng sản Đông phương". Một tài liệu mới được tìm thấy ở Nga viết năm 1924, ký tên là Nguyễn. Có đến 99% đó chính là Q. Khi bàn về tương lai của Đảng cộng sản Việt nam, tài liệu khẳng định: "Cần phải tính đến thực tế Việt nam và giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc dưới danh nghĩa của QTCS" . Cương lĩnh của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng nhắc đến cách mạng toàn cầu như "mục đích cuối cùng" của Hội. 

Tại sao Q lại không chọn con đường phi bạo lực đòi lại độc lập dân tộc mà lại tin vào cách mạng trên phạm vi toàn thế giới? Mùa xuân năm 1925, Nguyễn Thượng Huyền, (cháu của Nguyễn Thượng Hiền, người đã có thời là hiệu trưởng Đông kinh nghĩa thục), có viết một bài báo và nhờ Q nhận xét. Trong bài báo, Huyền cho rằng nguồn gốc cách mạng là từ Kinh dịch và Khổng tử cho rằng thay đổi triều đại chính là cách mạng. Huyền kết luận, thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp là tất yếu vì sự hung bạo của chúng và độc lập chỉ có thể đạt được bằng các cuộc chống đối phi bạo lực trong xã hội như Mahatma Gandhi. Trong bức thư trả lời, Q đã tỏ ý nghi ngờ nguồn gốc cách mạng và cho rằng nó xuất phát từ văn hoá Tây phương. Cách mạng thay đổi các thể chế điều hành đất nước, còn cải cách chỉ cải tiến chúng. Thay đổi triều đại không phải là cách mạng. Về thất bại của cách mạng ở Việt nam, Q viết: 

Không lẽ ông chờ đợi người Pháp khoanh tay nhìn ông đuổi họ ra? Tốt nhất là hãy tự nhìn lại mình: tại sao người Pháp lại cai trị được dân ta? Sao ta lại ngu thế? Bây giờ ta phải làm gì? Ông so sanh với người Ấn, Ai cập. Họ có đảng phái chính trị, các hội nông dân, các tổ chức. Ta không có đảng, không có tuyên truyền, không có tổ chức. Họ như chiếc ô-tô có cả tài xế, còn ta mới chỉ có cái khung xe. Vậy mà ông muốn ta chạy như họ! 

Để kết luận, Q dẫn câu chuyện của La Fontaine về các con chuột đùn đẩy nhau đeo chuông lên cổ mèo. "Giờ đây, các con rồng cháu tiên Việt nam chẳng khác gì những con chuột. Thật là nhục nhã" 

Tại Hàng châu, PBC rất quan tâm đến những gì đang diễn ra. Ông hứa sẽ đến Quảng châu thăm Q mùa hè năm 1925. Trong bức thư viết cho Q trước đó, Châu hết lời khen ngợi sự sáng suốt và kinh nghiệm của Q, Châu còn tỏ vẻ vui mừng vì đã có người nối nghiệp vì ông đã quá "đát". Tuy nhiên rõ ràng là Châu vẫn muốn đóng một vai trò trong tổ chức. Trong một bức thư khác gửi cho Hồ Tùng Mậu, ông đã cạnh khoé phê bình Q và các đồng sự quá nóng vội. Trước đó, Châu cũng đã từng than vãn là Q bỏ rơi ông. Khoảng giữa tháng 5, Châu rời Hàng châu đi Thượng hải. Tại đó, nhờ có mật báo, các mật thám Pháp trong vai tài xế taxi đã đợi sẵn, tóm gọn và chở thẳng ông về Hà nội để xét xử về tội phản quốc. 

Vụ bắt giữ này đã gây ra một cuộc tranh cãi lâu dài và lôi thôi nhất trong lịch sử rắm rối của chủ nghĩa dân tộc Việt nam. Nhiều thành viên của Thanh niên hội cho rằng chính thư ký của Châu, Nguyễn Thượng Huyền đã phản bội ông. Châu cũng nghĩ thế. Tuy nhiên một số người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản lại nghi ngờ Lâm Đức Thụ và thậm chí NAQ đã dựng lên vụ này để kiếm tiền thưởng và dùng Châu như một anh hùng - "vật tế thần" cho phong trào. Quan điểm này cũng được nhiều nhà nghiên cứu phương Tây nhắc lại nhưng không có những chứng cớ cụ thể. Các tài liệu của phòng nhì Pháp không rõ, nhưng xu hướng không cho rằng Q có dính líu. Họ cũng cho là Huyền có thông tin tốt hơn về sự di chuyển của Châu. Lâm Đức Thụ về sau tự nhận trách nhiệm nhưng không đáng tin cậy vì ông này ưa khoác lác và thổi phồng. 

Mặc dù không phủ nhận là Q có thể phản bội Châu nếu tin rằng điều đó phục vụ lợi ích cách mạng, nhưng trong vụ này rõ ràng là Q không tin là có thể khai thác được gì cho phong trào từ việc bắt Châu. Thanh niên Hội vẫn tập trung sử dụng hình ảnh Phạm Hồng Thái để tuyên truyền và lôi kéo các thành viên của mình. Vả lại một lãnh tụ có tính chất biểu tượng dễ điều khiển ngoài tự do rõ ràng có lợi hơn cho phong trào so với ngồi tù ở Việt nam. Cũng cần nhận thấy rằng đến cuối đời Châu vẫn dành sự kính trọng cao nhất cho Q. 

Toà đã xử Châu khổ sai chung thân ngày 23/11/1925 dẫn đến một phong trào phản kháng mạnh mẽ trong khắp nước. Toàn quyền mới, đảng viên Xã hội Varrene chẳng muốn khởi đầu sự nghiệp của mình bằng sự thù hận, đã đề nghị Paris giảm xuống án quản thúc tại gia ở Huế. Trước khi giảm án, Varrene đã đề nghị Châu hợp tác. Lúc đầu ông này từ chối nhưng sau đã tỏ ra khôn ngoan hơn. Tuy vẫn giữ quan hệ với các thành viên chủ chốt của phong trào dân tộc, thỉnh thoảng Châu lại đưa ra những phát ngôn có thể coi là có lợi cho Pháp ví như khen ngợi hệ thống giáo dục của Pháp ở Đông dương. Theo mật thám Pháp, một số phần tử quá khích thậm chí đã có kế hoạch ám sát Châu. Châu chết tại Huế năm 1940. 

Trong thời gian vụ án Châu, một lãnh tụ cải lương khác là Phan Chu Trinh đã trở về Việt nam sau nhiều thập kỷ trong sự chào đón của dân chúng. Ông này chết năm 1926 vào tuổi 53 và đám tang ông đã trở thành một sự kiện dân tộc. Nhờ sự cố gắng không mệt mỏi của Q, những tư tưởng Marxism dần dần được phổ biến trong các tầng lớp cách mạng ở Việt nam. Những nhà yêu nước trẻ được đưa từ trong nước sang và được đào tạo tại một cơ sở có cái tên rất kêu: Trường chính trị đặc biệt cho Cách mạng Việt nam. Trường này ban đầu được đặt tại phố Dân Sinh, sau đó chuyển sang một toà nhà 3 tầng thuộc sở hữu của một người thân Cộng sản ở phố Văn Minh (đối diện với Đại học Quảng đông, bây giờ là bảo tàng Lỗ Tấn 8). Tầng 1 là cửa hàng, lớp học và văn phòng của Q ở tầng 2 còn ký túc xá ở tầng 3. Đằng sau có cửa hậu để chạy trốn khi cảnh sát vây bắt. Giáo viên chủ yếu là các thành viên Thanh niên Hội như Mậu, Quốc, nhưng thỉnh thoảng cũng có thầy từ phái đoàn Xôviet như Vasily Blucher (Galen), P.A. Pavlov, M.V. Kuibyshev, V.M. Primakov, hoặc từ CCP như Lý Đạo Cơ, Chu Ân Lai, Lý Phu Quân và nhà tổ chức nông dân Bằng Bái. Một phần ba kinh phí của trường do CCP đài thọ, phần còn lại là đóng góp từ các tổ chức khác nhau, trong đó có các học viên Việt nam tại học viện Hoàng Phố. 

Thầy Vương (bí danh của Q) là thầy giáo nổi tiếng nhất trường. Học viên đều yêu ông thầy mảnh khảnh, mắt sáng, giọng ấm, hài hước, dễ gần và đặc biệt kiên nhẫn trong việc giải thích các khái niệm khó. Thầy Vương trở thành cuốn bách khoa sống khi cần đến các số liệu. Một học viên đến giờ còn nhớ: "Thầy kể vanh vách, thực dân Pháp đã trộm bao nhiêu tấn thóc, Ngân hàng Đông dương kiếm được bao nhiêu lợi nhuận, ông Varrene đã chở về nước bao nhiêu cổ vật của dân ta". 

Cũng như ở Paris, Q vừa là thầy giáo, vừa là cố vấn tinh thần, một người nghiêm khắc và một người bày trò có hạng. Q dạy học viên cách ăn nói, phát biểu, cách thông cảm với nhân dân. Q lo lắng nơi ăn, chốn ở và động viên các học viên bằng một sự lạc quan vô bờ bến vào sự thắng lợi của cách mạng. Như một nghi lễ, khi kết thúc khoá học, Q dẫn các học viên thăm mộ của 72 liệt sĩ Trung hoa trên đồi Hoàng Hoa và tuyên thệ trước lăng Phạm Hồng Thái. 

Một số học viên tài ba hơn (ví dụ như Lê Hồng Phong) được phái đi tu nghiệp tiếp ở Moscow. Một số người sung quân đội hoặc tham gia học viện Hoàng Phố. Nguyễn Lương Bằng, một con nhà lao động, được chỉ thị kiếm việc trên tàu viễn dương để móc nối giữa Hải phòng và Hongkong. Hơn 70 học viên đã tốt nghiệp cho đến hết năm 1927. Đa số học viên quay về Việt nam và tiếp tục tìm kiếm thêm lính mới. Lớp này đa số cũng từ tầng lớp môn sinh. Cảnh sát Pháp xác nhận khoảng 90% thành viên Thanh niên hội là tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Năm 1928, hội có khoảng 300 thành viên ở Đông dương, trong đó khoảng 150 ở Cochin China (Sài gòn, Cần thơ, Mỹ tho), 80 ở Annam và 70 ở Tonkin. Một năm sau, con số đã lên đến hơn 1700 9. NAQ đã đi những bước quan trọng đầu tiên, tuy rất nhỏ và thận trọng, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việtnam. Ông đã viết trước đó vài năm: "Thật là sai lầm khi cho rằng Đông dương đã sẵn sàng cho cách mạng, nhưng càng sai lầm hơn khi nghĩ rằng họ cam chịu và không muốn làm cách mạng" 

NAQ quá kinh nghiệm để hiểu rằng, muốn duy trì được tổ chức hãy còn trong trứng nước của mình, tuyên truyền là quyết định. Tạp chí Thanh niên ra đời. Được in tại Quảng châu, xuất bản hàng tuần và gửi sang Việt nam qua đường thuỷ. Từ 21/6/1925 đến 5/1930, tổng cộng đã có 208 số được phát hành. Cũng như với tờ Người cùng khổ, NAQ sử dụng lối hành văn đơn giản, với nhiều biếm họa đả kích chế độ thực dân Pháp cũng như bọn vua chúa bù nhìn. Hầu hết các bài xã luận đều do ông viết nhưng không ký tên. Thanh niên Hội còn phát hành tờ Lính Kách Mệnh 2 tuần 1 lần và tạp chí Việt nam Tiền phong hàng tháng. 

Đối với các hội viên nằm trong chương trình đào tạo, Q viết hẳn một cuốn sách nhỏ lấy tên là Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt giải thích những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Max-Lenin và khả năng áp dụng ở Việt nam. Tuy không có mục đích trước nhưng chắc chắn 1 số bản của cuốn sách này được tuồn về Việt nam. Cuốn sách được viết bằng một văn phong cực kỳ đơn giản. Q biết chắc rằng đa số độc giả thậm chí còn chưa biết thế nào là Kách mệnh (thuật ngữ này mới được đưa vào tiếng Việt đầu thế kỷ 20, tiếng Hán có nghĩa là Thay đổi số mệnh), bởi thế, ngay từ đầu ông đã định nghĩa KM là "phá hủy cái cũ, xây dựng cái mới, phá hủy cái xấu, xây dựng cái tốt". Tiếp đó, Q tiến hành phân thành 3 loại KM: 

1. Tư sản (như ở Pháp, Nhật, US) 

2. Dân tộc (như ở Italy thế kỷ 19, cách mạng 1911 ở Trung quốc) 

3. Giai cấp (như cách mạng tháng 10 Nga) 

Q khẳng định tất cả các cuộc KM đều được tiến hành theo hai giai đoạn: giai đoạn dân tộc và giai đoạn toàn cầu. Tất nhiên quan điểm này được mượn của Lenin, nhưng Q cũng đã khéo léo lồng ý của mình vào đó. Ông không khẳng định rõ bao giờ thì giai đoạn 2 mới bắt đầu. Thậm chí ông cho rằng, KM Việt nam chỉ có thể chuyển sang giai đoạn 2 nếu hầu như tất cả các nước đã làm việc đó. Q nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của liên minh công nông, đặc biệt là vai trò của nông thôn trong KM Việt nam với hơn 90% dân làm nông nghiệp. Giống như giai cấp công nhân trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, người nông dân trong Đường Kách Mệnh "không có gì để mất ngoài xiềng xích". Cái mà họ cần, như Q đã từng viết ở Pháp trước đó là Tổ chức và Sự lãnh đạo. Cách mạnh Việt nam cần có một Đảng vững mạnh với những tư tưởng dễ hiểu và theo đuổi. 

Một vấn đề thú vị được đề cập đến trong cuốn sách là tính cách của "nhà cách mạng". Có thể so sánh với cuốn "Tự bạch về nhà cách mạng" nổi tiếng của Nechayev, một tay khủng bố Nga thế kỷ 19. Ông này cho rằng, nhà cách mạng là công cụ mù quáng để thực hiện những lý tưởng cách mạng. Họ phải tàn nhẫn, dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục tiêu, phải tuân thủ kỷ luật đảng, sẵn sàng từ bỏ những quan hệ bè bạn, gia đình, thậm chí lừa dối vì lợi ích của CM. Tuy quan điểm cực đoan của Nechayev bị phê phán nhiều, nhưng Lenin vẫn rất khoái và nhiều điểm trong cuốn "Tự bạch" trở thành tiêu chuẩn của người Bolsheviks. Có nhiều điểm tương đồng trong định nghĩa của Q về nhà cách mạng, như tuân thủ kỷ luật đảng, đặt quyền lợi cách mạng lên trên quyền lợi cá nhân. Nhưng điểm khác biệt chủ chốt ở cái hồn tinh thần nằm đằng sau hai bản tiêu chuẩn này. Trong khi Lenin cho rằng những quan điểm đạo đức không liên quan lắm đến tính cách của người CM thì Q hầu như áp dụng tất cả những chuẩn mực đạo đức của người quân tử trong đạo Khổng: tiết kiệm, cởi mở nhưng công bằng, cương quyết sửa chữa lỗi lầm, thận trọng, ham học và quan sát, không kiêu ngạo và khoan hồng. 

Nếu tính đến tài năng xuất chúng của Q trong việc thay đổi hình thức tuyên truyền cho những đối tượng khác nhau, có thể cho rằng Q cố tình giữ những "bình cũ" để đưa "rượu mới" vì biết rằng đa số hội viên của ông xuất phát từ những gia đình nho học và chắc chắn vẫn giữ những giá trị căn bản của đạo Khổng. Tuy nhiên, thực tế cuộc đời HCM đã chứng tỏ rằng đạo đức cá nhân ông: hình ảnh một con người giản dị và hào hiệp với niềm lạc quan vô bờ bến và tinh thần nghiêm túc và hiến dâng cho những lý tưởng cách mạng, đã trở thành sự đảm bảo tiêu chuẩn của ảnh hưởng của ông trong đảng. Đối với rất nhiều người khác, HCM trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản Việt nam. Cuốn sách của Q còn thỏa mãn những logic thầm kín của Việt nam. Trong khi bảo đảm rằng cách mạng VN sẽ được giúp đỡ từ cách mạng thế giới, người đọc cũng sẽ lấy làm sung sướng được biết rằng phương Tây cũng chưa ra gì và sẽ còn phải trải qua những thời loạn lạc. Việc phân tích nguyên nhân thất bại của các nhóm dân tộc chủ nghĩa cũng rất có ý nghĩa cho lớp trẻ. Q đã chỉ ra rằng các nhóm này thiếu hẳn một tư tưởng, một ý niệm rõ ràng về tương lai của Việt nam độc lập. Phật giáo với triết lý chịu đựng không thể là tác nhân thay đổi. Khổng giáo bị mất giá trị trầm trọng do sự đầu hàng của triều đình. Bởi thế các nhóm dân tộc chủ nghĩa chủ yếu được xác định bởi vùng, miền, chiến thuật hay cá nhân thủ lĩnh. Những hành động của họ chỉ biểu hiện sự phẫn uất của một nhóm người trước một kẻ thù muôn lần mạnh hơn. 

Có thể coi Đường Kách mệnh là cuốn sách tư tưởng nhưng quá hoang sơ, thậm chí nhiều chỗ gây bối rối cho người đọc về chủ nghĩa Max-Lenin. Tuy nhiên với quan điểm tuyên truyền rất rõ ràng của Q: càng đơn giản càng tốt, cuốn sách đã trở thành công cụ giới thiệu tư tưởng tốt cho những nhà cách mạng sơ khởi. Ngoài ra, Q đã tiến một bước dài trong phong trào cách mạng Việt nam và thế giới bằng việc lần đầu tiên nhấn mạnh vai trò của nông thôn ở Việt nam và tương lai cách mạng châu Á. Một số nhà quan sát còn cho rằng Đường Kách Mệnh là tác phẩm đầu tiên của "chủ nghĩa cộng sản nông thôn", một biến thể của chủ nghĩa Max-Lenin, vốn thường được gắn cho Mao Trạch Đông. 

Tính đến mùa xuân năm 1927, chỉ với 2 năm ở Quảng châu, Q đã trở thành một thành viên được kính trọng và không thể thiếu của phong trào cách mạng ở đây. Q chơi thân với Chu Ân Lai, nhà tổ chức thanh niên Trương Đại Lợi (cần xem lại Zhang Tailei), lãnh tụ cánh tả của Quốc dân Đảng Lão Trung Khải (Liao Zhong Kai). Cuộc sống xem ra đã có vẻ ổn định, Q dự kiến kiếm 1 cô vợ Tàu vừa để học tiếng và lo việc gia đình và nhờ "thổ công" Lâm Đức Thụ lo hộ vụ này. Q chỉ đặt một điều kiện: "không trả một xu" (trái với tục lệ người Hoa) 

Nhưng chẳng có vấn đề gì, Thụ tìm ngay được 1 cô tên là Tăng Tuyết Minh, con gái vợ ba của một nhà buôn. Sau khi bố chết, cô này bị đuổi ra khỏi nhà, sống vạ vật cho đến khi làm quen được với vợ của Thụ. Nhiều đồng chí của Q đã phản đối cuộc hôn nhân này vì cho rằng Minh không được học hành đầy đủ, tuy nhiên Q vẫn quyết định cưới và hai vợ chồng cùng sống trong căn phòng của Q tại biệt thự của Borodin. Tuyết Minh khá xinh (theo lời kể thì mặt tròn, môi nhỏ, da mịn, tóc thề ngang vai), nhưng chẳng quan tâm gì đến các vấn đề dân tộc và cách mạng. Sau mấy lần thử tìm cách dụ dỗ thất bại, Q từ bỏ ý định thay đổi quan điểm chính trị của vợ. Có nguồn tin cho rằng, vợ chồng Q có một đứa con gái 10

Tuy nhiên mây đen đang che phủ dần sự nghiệp của Q ở Quảng châu. Trong khi ông đang tìm cách dẹp yên những đốm lửa bất hoà ở trong nước thì tình hình Trung quốc thay đổi nhanh chóng. Cuộc hôn phối khó khăn Quốc - Cộng trong những năm qua được duy trì chủ yếu nhờ uy tín cá nhân của Tôn cũng như quan hệ thân thiết giữa Tôn và Borodin. Tuy nhiên cái chết của Tôn năm 1925 trong khi đang thương thảo với tướng Phương Yuxiang, đã thay đổi tất cả. Sau một cuộc chiến quyền lực ngắn, Tưởng Giới Thạch lên nắm quyền. Tưởng tạm thời duy trì liên minh mặc dù có sự phản đối quyết liệt của phái hữu trong QDĐ. Bản thân Tưởng cũng chẳng có thiện cảm gì với cộng sản. Sau chuyến viếng thăm Matxcova năm 1923, Tưởng hiểu rằng mục đích cuối cùng của Matxcova là loại bỏ đảng của ông ta. Ngày 12/4/1927, trong chiến dịch chung tiễu trừ cát cứ tại phía Bắc và Trung nguyên, Tưởng đã ra tay, điều quân tàn sát hàng ngàn đảng viên cộng sản và những người ủng hộ tại Thượng Hải. 

Quảng châu phản ứng tức thì, quân đội của Lu Jishen bao vây hơn 2000 đảng viên cộng sản. Hàng trăm học viên thân cộng tại Hoàng Phố (trong đó có một số Việt Nam) bị bao vây và bắn chết. Bạn Q, Trương Lợi cũng nằm trong số này. Khi quân của Lý tiến hành bao vây lãnh sự quán Liên xô, Borodin và một số cộng sự phải trốn sang Vũ hán. Ban đầu, phòng nhì Pháp cũng nghĩ là Q sẽ chạy theo Borodin. Thực tế thì Q đã ở lại vì tin tưởng vào những mối quan hệ của mình với Quốc Dân Đảng. Tuy nhiên ông cũng ẩn vào một chỗ hẻo lánh hơn và đi bán báo để kiếm tiền sinh sống. Chẳng được bao lâu, Trương Văn Lệnh, một tay chân trước đây của Tâm Tâm Xã, đang là quan chức của chính quyền thành phố, đã mật báo là đã có lệnh bắt Q và ông phải trốn càng nhanh càng tốt. Người đã chỉ điểm Q chính là Nguyễn Hải Thần. Thần vốn là bạn thân của Lâm Đức Thụ và đã từng ở nhà ông này. Q muốn hợp tác với Thần và những thành viên còn sót lại của Phan Bội Châu Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng Thần kịch liệt phê phán xu hướng thân cộng của Thanh niên hội. Năm 1926 Trương Bội Công mò đến từ Bắc kinh càng thôi thúc Thần phải thành lập đảng mới để chống lại ảnh hưởng của hội. 

Ngày 5/5/1927, Q lên tàu đi Hồng kông bỏ Tuyết Minh lại Quảng châu. Cùng ngày, nhà ông bị khám xét. Một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại lên đường.

--------------------------------
1
Về Nguyễn An Ninh sau khi Cognacq thẩm vấn.
2
Quan điểm về chủ nghĩa Max và cách mạng Nga tại Việt nam lúc đó.
3
Về Lê Hồng Phong...
4
Về bài viết của Châu về Thái.
5
Vai trò của Thụ trong vụ ám sát.
6
Hỗ trợ từ Moscow.
7
Ăn mặc đẹp.
8
NamNT đã đến chỗ này và thấy đây là bảo tàng Tôn Trung Sơn chứ không phải Lỗ Tấn.
9
Về việc tăng quân số Thanh niên hội.
Những thông tin này chủ yếu là từ báo cáo của Lâm Đức Thụ. Ngoại hình của Tuyết Minh được Lê Quang Đạt khai với cảnh sát Pháp. Thông tin về con gái của hai người, xem Nguyễn Khắc Huyền, Vision Accompiíshed, p. 8 (New York, Collier, 1971).

THANH KIẾM BÁU


Quốc nghĩ gì khi nhìn qua cửa sổ ngắm những cánh đồng lúa xuân đang vào vụ gặt trên con tàu đi vào vô định ngày ấy. Chắc chắn là ông hài lòng vì những gì đã làm ở Quảng châu. Đích thân ông đã đào tạo hàng trăm chiến sĩ phân phối về cả 3 miền đất nước, thành lập một tổ chức vững mạnh làm tiền thân cho đảng cộng sản Đông dương sau này. Cuộc đảo chính của Tưởng đã làm đảo lộn tất cả. Thanh niên Hội không thể đặt trụ sở ở Quảng châu được nữa. Liên lạc giữa Q với các đồng chí trong nước đã bị cắt đứt, có thể phải đến hàng năm. Bản thân Q cũng chưa biết mình sẽ đi về đâu! 

Ban đầu, có thể Q (vẫn đang dùng tên là Lý Thuỵ) đã hy vọng là sẽ dùng HK làm nơi cư trú và bàn đạp cho tổ chức của hội. Nhưng chính quyền sở tại nghĩ khác và ngay ngày hôm sau Q phải lên đường đến Thượng Hải, thành phố vẫn đang còn bàng hoàng về vụ "khủng bố trắng". Để che mắt, Q phải đóng giả một nhà buôn và thuê phòng khách sạn sang trọng. Chẳng mấy chốc hết tiền, Q may mắn vớ được một chuyến tàu về Vladivostok. 

Vladivostock khi đó là cơ quan đầu não của các hoạt động cách mạng tại Viễn đông. Tại đây, Q đã gặp lại Jacques Doriot, một trong những ngôi sao đang lên của Đảng cộng sản Pháp. Ông cũng gặp lại đại diện QTCS Grigori Vointinsky. Mỗi ông một ý, Doriot khuyên Q dựa vào FCP để thâm nhập Đông dương từ Thái lan, Voitinsky thì lại đề nghị Q về Thượng hải và xây dựng phong trào trong đám lính Việt đang đóng ở đó. Q lịch sự lắng nghe, nhưng trong thâm tâm, ông đã biết mình phải làm gì. 

Q về đến Matxcova tháng 6 năm đó và ngay lập tức viết đơn xin phép được cấp kinh phi để có thể hoạt động ở Thái lan trong khoảng 2 năm. Trong khi chờ phê duyệt, Q viết một loạt các bài báo cho Inprecor miêu tả tình hình tại Đông dương. Sau chuyến đi nghỉ chữa bệnh ở nhà nghỉ Eppatoria Crum (chưa rõ bệnh gì), Q nhận được tin vui: Trường Stalin đã quyết định thành lập phân ban Việt Nam cho những sinh viên đã được Q gửi đi từ Quảng châu. Trong số đó, Trần Phú là người gây được nhiều chú ý nhất. Con một viên quan triều đình ở Quảng ngãi, Phú đã tham gia một đảng dân tộc nhỏ, khi sang Quảng châu để bàn việc hợp tác với Thanh niên hội, Phú đã bị Quốc thu phục và gửi sang Matxcova đào tạo 1

Tháng 11/1927, thay vì chi tiền cho Q đến Thái lan, QTCS điều ông sang Pháp để vạch một chiến lược toàn diện hơn xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng. Không thấy đả động gì đến chuyện kinh phí cả. Trên đường sang Paris, Q ghé qua Berlin, tại đây ông tham gia xây dựng chi nhánh của Liên hiệp Phản đế (vỏ bọc của đại diện Liên xô ở nước ngoài). Đến Pháp, mặc dù được báo cáo trực tiếp cho trung ương FCP, Q tỏ ra hết sức thất vọng vì vấn đề thuộc địa không được ai quan tâm. Cũng không ai đề nghị tìm việc làm hoặc cấp kinh phí gì cho Q cả. Quãng cuối tháng 12, Q tham gia hội nghị Trung ương Liên hiệp Phản đế tại Brussel. Tại đây ông đã làm quen với Sukarno, Nehru, gặp lại ông bạn Nhật Katayama Sen và đặc biệt với vợ góa của Tôn Trung Sơn Tống Khánh Linh, người sẽ giúp đỡ Q trong thời điểm quyết định sau này. 

Sau hội nghị, Q chỉ trở về Paris một thời gian ngắn và sang Berlin. Ông viết thư cho Dombai xin tiền của Quốc tế Nông dân để về Đông dương hoạt đông. Ông này khuyên Q nên xây dựng phong trào nông dân ở các tỉnh biên giới với Trung quốc nhưng cũng không thấy đả động gì đến chuyện tiền nong. Chẳng có việc gì làm, Q dự định hoàn thành một cuốn sách khoảng 120 trang về những kinh nghiệm bản thân trong phong trào nông dân Trung quốc. Đến khoảng tháng 4 thì Q cạn tiền, ông viết một bức thư thống thiết về Dalburo miêu tả mình như một người : 

Không được làm việc ở Pháp, vô dụng ở Đức nhưng rất cần ở Đông dương. Tôi đã khẩn thiết đề nghị tổ chức cung cấp tài chính để tôi có thể trở về Đông dương hoạt động. Tôi đã nói với đồng chí Doriot khi đi ngang qua đây là nếu không có tiền sống thì hãy cho tôi tiền đi lại để tôi có thể lên đường chứ không phải lang thang ở châu Âu này nữa. Rốt cuộc chẳng có hồi âm gì. Tình hình của tôi hiện tại như sau: 1/chờ đợi chỉ đạo trong vô vọng 2/không có gì để sống... 

Hai tuần sau Q nhận được giấy phép trở về Đông dương, FCP cấp tiền đi đường và 3 tháng ăn ở. Đầu tháng 6, Q rời Berlin, qua Thụy sĩ, sang Italia. Tại biên giới, theo lời kể của Q, may mắn sao tên Q lại không có trong Từ điển chống QTCS của bọn cảnh sát phát xít. Tuy nhiên Q vẫn bị bắt tại Rome và bị đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng ông cũng được thả và lên một con tàu Nhật ở Naple để về Thái lan. Đó là cuối tháng 6/1928. Q đến Thái Lan tháng 7/1928. Vương quốc Thái Lan khi đó là quốc gia duy nhất ở ĐNA không phải là thuộc địa. Bởi thế ngay cả nhà cách mạng nổi tiếng như Q cũng được đi lại thoải mái, chẳng ai quan tâm. Trước đó, theo lệnh của Q, thanh niên Hội đã xây dựng mạng lưới trong giới Việt kiều, vốn tập trung rất đông tại khu vực cao nguyên Khorat, Đông bắc Thái lan. Từ vùng núi Trường sơn đến cao nguyên này khoảng 2 tuần đi bộ, chính quyền Thái lan lại ưu ái các nhà yêu nước Việt Nam, bởi thế khu vực này có thể được coi là thánh địa chống thực dân. Nhiều người trong số 20.000 Việt kiều ở khu vực này là tín đồ cũ của phong trào Cần Vương và Phan Bội Châu. Từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã cử Hồ Tùng Mậu sang lập 4 chi nhánh tại Phichit, Nakhon Panom, Udon Thani và Sakon Nakhon dưới dạng các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. 

Từ tháng 8 năm 1928, trong cộng đồng người Việt tại Bandong (một huyện của Phichit) xuất hiện một người Việt nam lạ mặt tự xưng là Thầu Chin. Ông ở đây 2 tuần và tháng 9/1928 vượt 10 ngày đường rừng để đến Udon Thani. Có ngày ông đi được đến 70 km. Cộng đồng người Việt ở đây vốn xuất phát là dân tiểu thương nên lười lao động và không muốn hoà nhập với xã hội Thái. Thầu Chin đến thay đổi tất cả. Đích thân ông đứng ra xin phép và khênh gạch để xây trường học cho bà con học tiếng Thái. Mỗi ngày ông đặt quyết tâm học 10 từ Thái. Tối tối ông đến các gia đình, kể cho họ nghe tình hình thế giới và Đông dương, giải thích cho họ chính quyền và người dân Thái ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt nam. Ông đổi tên tờ báo tiếng Việt Đồng Thanh thành Thân Ái (gắn với một tổ chức do Thanh niên Hội lập ra), bằng cách hành văn dễ hiểu, qua các bài thơ và vở kịch kích động tinh thần yêu nước. Đầu năm 1929, Thầu Chin đến Sakhon Nakhon. Dân ta ở đây không được giác ngộ cho lắm, thờ chúa, phật và cả Trần Hưng Đạo đủ cả. Mỗi khi mắc bệnh lại cúng vái tứ phương. Thầu Chin đích thân chẩn bệnh và mời bác sĩ đến chữa bệnh cho nhân dân. Ông cũng không ngần ngại sử dụng Đức Thánh Trần cho việc tuyên truyền yêu nước 

Trên Điện Diên Hồng, ngàn người như một 

Kẻ nào muốn cướp Việt nam hãy bước qua xác chúng ta 

Còn một người Việt còn sống là sông núi Việt nam vẫn là của ta 

Mật thám Pháp đã mất khá nhiều công sức để tìm Q sau khi ông rời Quảng châu năm 1927. Phòng nhì Pháp đã dò được Quốc ở Paris nhưng lại mất vết khi Q bỏ Brussel. Năm 1928, 1929 chúng nghe nhiều tin đồn về một người Việt kỳ lạ lang thang trong các làng Việt kiều ở Đông bắc Thái và tìm cách xác định danh tính người này. Tháng 10/1929, toà án triều đình tại Vinh đã xử tử Q vắng mặt về tội nổi loạn. Trong hồi ký của mình, Q đã nhắc đến việc có lần phải cắt tóc trốn vào chùa đi tu để tránh cảnh sát. 

Trong lúc Q lặn lội sang Xiêm thì các đồng chí của ông tìm mọi cách để giữ vững hoạt động của Thanh niên Hội. Sau khi hầu như những thành viên chủ chốt được thả, Hội được đặt dưới sự lãnh đạo của Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu với trụ sở tại căn phố hẹp Dân Sinh gần Cửa Dong Da địa điểm cũ của Trường đào tạo. Tháng 12/1927 các đảng viên CCP liều lĩnh mở cuộc khởi nghĩa và bị đàn áp dã man. Nhiều chiến sĩ của Hội cũng tham gia và bị giết. Lê Hồng Sơn và một số người khác bị bắt và đưa ra toà, nhưng không bị buộc tội mà bị trục xuất. Hồ Tùng Mậu chuyển trụ sở sang Hồng kông và mất liên lạc với CCP và QTCS. 

Dù những thất bại tạm thời Thanh niên Hội vẫn có vị trí vững chắc trong phong trào cách mạng Việt nam. Hội tiếp tục mở rộng trong nước và đàm phán với các đảng phái chính trị khác để thành lập mặt trận thống nhất chống Pháp. Có điều các cuộc đàm phán này thường diễn ra trong không khí nghi kỵ vì Hội kiên quyết giữ vai trò lãnh đạo. Quãng tháng 12/1927, một số nhà giáo và nhà báo ở Bắc bộ và Bắc Annam thành lập ra VNQDĐ. Tuy cùng tên với đảng của Phan Bội Châu nhưng chẳng có liên quan gì. Đảng này theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn và cũng có mong muốn hợp tác với Thanh niên Hội. Hai bên đã từng hẹn đàm phán tại Xiêm nhưng thất bại vì Hội không cử đại diện đến. Vả lại QDĐ không chấp nhận sự lãnh đạo của Hội ở trong nước, tất yếu dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa hai tổ chức. 

Ngoài ra những mâu thuẫn trong Hội cũng bắt đầu xuất hiện. Thực ra mâu thuẫn này có nguồn gốc từ chính sách hai mặt của Q: cam kết theo chủ nghĩa quốc tế Max-Lenin nhưng vẫn lấy độc lập dân tộc làm cương lĩnh hoạt động chính. Sau khi Q rời Quảng châu mùa xuân năm 1927, một số học trò của ông như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu nhanh chóng trở thành những người Marxist đầy khao khát, trong khi đó Lâm Đức Thụ và một số cựu binh lại quan điểm khác. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng khi mùa xuân năm 1928, tại một cuộc họp ở nhà riêng của Thụ, ông này đã tìm cách thông qua được bản cương lĩnh mang tính dân tộc mà chẳng đả động gì đến cách mạng xã hội hay đấu tranh giai cấp gì cả 2

Trong ba năm đầu tiên, cả hai phái trong Hội đều kìm chế, tuy nhiên sau hội nghị HK, mâu thuẫn bùng phát dẫn đến tan vỡ tổ chức. Mọi sự khởi đầu từ nhóm lãnh đạo Bắc bộ và bí thư thứ nhất Trần Văn Cung. Ông này người xứ Nghệ, đảng viên đảng Tân Việt, tham gia khởi nghĩa Quảng Châu và đã từng ngồi tù Quốc dân đảng. Cung cũng tham dự vào hội nghị HK và tỏ ra rất thất vọng về đường lối uỷ mị của ban lãnh đạo mới. Cung không tin là có thể thuyết phục nông dân và công nhân ủng hộ chỉ bằng diễn thuyết chung chung về lòng yêu nước và độc lập dân tộc. Cần phải mang lại cho họ những lợi ích kinh tế cụ thể. Không được chào đón nồng nhiệt ở hội nghị, Cung quay ra thuyết phục các đồng chí mình ở Bắc bộ 3

Đầu tiên họ không hài lòng về việc chẳng ai quan tâm chiêu mộ giai cấp vô sản vào Hội. Ngoài Tôn Đức Thắng, thợ máy của Pháp về nước trở thành lãnh tụ công đoàn tại nhà máy đóng tàu Ba son và một vài "công hội đỏ" khác ở những thành phố lớn, không có nhiều công nhân gia nhập Hội. Hoạt động của Hội chủ yếu dựa vào các sinh viên từ TQ trở về. Số này phần lớn xuất thân từ thành phần học giả và chủ yếu mở rộng tổ chức trong tầng lớp bạn bè của mình. Cơ sở Hội ở nông thôn cũng rất yếu. 

Thứ đến, họ không hài lòng về thái độ của lãnh đạo Hội đối với việc thành lập Đảng cộng sản mà theo họ là tuyệt đối cần thiết. Tại hội nghị 5/28 ở HK, khi Cung nêu vấn đề, Thụ đã gạt đi "để xem sau". Sự bất mãn càng lộ rõ trước thềm đại hội VI của QTCS được tổ chức vào hè năm 1928. Thất vọng trước sự tan vỡ của liên minh Quốc - Cộng dẫn đến sự đàn áp đẫm máu những người cộng sản tại TQ, bị buộc phải tỏ ra cứng rắn trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với Troski, Stalin đã yêu cầu các đại biểu từ bỏ chính sách mặt trận liên hiệp rộng rãi được thông qua tại đại hội II 8 năm trước. Các đảng CS tại thuộc địa được chỉ thị không liên minh với các đảng tư sản dân tộc. Nội bộ trong đảng cũng phải thanh lọc các phần tử "tiểu tư sản". Những đảng viên thành phần trung lưu phải được đưa đi "vô sản hoá".... Tất cả phải hành động để chuẩn bị cho làn sóng cách mạng mới trong điều kiện nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu đang có dấu hiệu đình trệ, hứa hẹn một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 

Vì chưa có đảng CS, Việt nam không có đại diện chính thức tại đại hội VI. Tuy nhiên có 3 người Việt nam trong thành phần đảng CS Pháp. Một người tên là Nguyễn Văn Tạo, quê gốc Nghệ an, đã từng bị đuổi khỏi trường tại Sài gòn do các hoạt động chống đối. Ông này đã phát biểu tại đại hội dưới tên An, kêu gọi cần nhanh chóng thành lập ĐCS ở Việt nam để lãnh đạo giai cấp vô sản nhỏ nhoi ở đó. Ông còn cho rằng những tổ chức dân tộc cải lương như đảng Hiến pháp, đảng độc lập Việt nam (do Nguyễn Thế Truyền lập) theo đường lối cải cách hoà bình là "cực nguy hiểm" vì đánh lạc hướng dân chúng. Những nghị quyết của đại hội VI QTCS càng làm căng thẳng thêm những bất đồng và đổ thêm dầu vào yêu sách đòi cải tổ Hội thành đảng cộng sản có ý thức hệ tư tưởng rõ ràng. Dẫn đầu phe chống đối vẫn là Trần Văn Cung. Sau một thời gian làm thợ, Cung tin tưởng rằng chỉ bằng những khẩu hiệu yêu nước, khó có thể lấy được sự ủng hộ của công nhân. Cần phải tăng tiền lương, giảm giờ làm! Và chỉ có đảng CS mới làm được việc đó!!! Tháng 5/1929, Thanh niên Hội tiến hành đại hội đầu tiên. 17 đại biểu đại diện cho hơn 800 thành viên tại Bắc bộ, 200 từ Nam bộ và 200 từ Trung bộ tập trung tại HK. Ngay sau khi đến nơi, Cung gặp Lê Hồng Sơn đề nghị giải tán Hội và thành lập ĐCS. Là thành viên của nhóm cộng sản nòng cốt do NAQ thành lập trong Hội, đương nhiên là Sơn ủng hộ việc cải tổ. Tuy nhiên Sơn nghĩ chưa đến thời điểm vì các thành viên còn chưa đủ giác ngộ. Vả lại thành lập ĐCS ở HK dễ gây chú ý cho chính quyền QDĐ tại Quảng châu. Tuy nhiên Cung không nghe và đưa ra đề nghị ngay tại ngày đại hội đầu tiên. Bị chủ tịch Lâm Đức Thụ từ chối thẳng thừng, Cung cùng với các đồng chí liền bỏ hội nghị về Bắc bộ lập ra Đông dương cộng sản Đảng (CPI), công khai chỉ trích Hội không tuân theo các quyết định của QTCS. Sau khi Cung bỏ đi, hội nghị tiếp tục họp và thông qua nghị quyết về sự cần thiết thành lập một ĐCS ở Việt nam, tuy nhiên thời điểm chưa chín muồi do giai cấp công nhân còn quá yếu và thiếu một lý thuyết cách mạng. Hội nghị cũng chính thức đề nghị QTCS công nhận Hội. 

Các nhà lãnh đạo Hội đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp sự ủng hộ cho một đảng cộng sản từ phong trào cách mạng trong nước. CPI ra sức lùa các thành viên của Hội sang hàng ngũ của mình. Tháng 8, Hồ Tùng Mậu và Lê Quang Đạt ra tù ở Quảng châu và trở về HK. Được sự ủng hộ của Sơn, họ bí mật thành lập tổ chức cộng sản bên trong Hội, gọi là An Nam cộng sản Đảng (ACP), cho Lâm Đức Thụ ra rìa. Những chi bộ đầu tiên của ACP được thành lập ở Nam bộ. Cùng tháng, Mậu gửi thư cho Cung đề nghị sát nhập, nhưng Cung từ chối vì "bận". Bí quá, Mậu viện cả QTCS: "Nếu chúng ta có hai Đảng, 1 ở phía Nam, một ở phía Bắc, thì không hiểu quốc tế thứ Ba sẽ nghĩ thế nào?". Suốt năm 1929, các phe phái tiếp tục đả kích nhau với chiếc mũ "mensevick". Cuối tháng 10, CPI cử Đỗ Ngọc Du tới HK để hoà giải mà không cần sự giúp đỡ của người ngoài. Tuy thế, do đã được dặn trước, Du cứ khăng khăng đòi ACP giải thể và các đảng viên sẽ gia nhập CPI. Lẽ dĩ nhiên là ACP từ chối. 

Trong khi đó, các đảng viên của Tân Việt ở miền Trung cũng gia tăng hoạt động. Họ đổi tên thành Đông dương cộng sản Liên đoàn, nhằm tránh sự đào tẩu của đảng viên sang hai đảng kia. Thế là ở Việt nam có 3 đảng cộng sản một lúc còn Hội thì chỉ còn cái vỏ. Cuối tháng 8, được tin NAQ đang hoạt động ở Xiêm, Sơn cử Lê Duy Diễm liên lạc với Q, hy vọng rằng Q, như người sáng lập Hội có thể sử dụng uy tín và khả năng thuyết phục của mình để hoà giải giữa các phe phái. 

Matxcova cũng phê phán kịch liệt "sự chần chừ và thiếu kiên quyết" của Hội và ra mặt ủng hộ CPI. QTCS nhấn mạnh sự cần thiết phải có ngay một đảng thống nhất để lãnh đạo phong trào tại Đông dương và hứa sẽ gửi đại diện đến làm trung gian. Giọng điệu của Matxxcova càng hưng phấn khi nghe thị trường chứng khoán NewYork sập, tiếp theo những vụ khủng hoảng ngân hàng tại Áo. Các nhà lãnh đạo Xô viết như cảm thấy thời khắc sụp đổ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã điểm. Mùa thu 1928, Dalburo mở chi nhánh ở Thượng hải, gọi là Cục Viễn đông (FEB) . FEB đề xuất thành lập một tổ chức mới với trụ sở ở Sing để điều phối hoạt động các nhóm cộng sản ở ĐNA, với tên gọi: "Liên hiệp các nhóm cộng sản". ACP nắm được tin này qua các đồng chí TQ của mình và tỏ ra không hào hứng lắm. Đảng cộng sản Nam Dương, thành lập ở Sing giữa những năm 20, chủ yếu là dành cho người Hoa, vì thế chịu ảnh hưởng sâu sắc của CPP. ACP sợ rằng, CPP thực tế sẽ định hướng các hành động của họ. Họ cho rằng các đồng chí Trung Quốc thường chỉ quan tâm các vấn đề của mình và coi thường các dân tộc khác. Sơn gửi Lê Quang Đạt đến Thượng Hải để thuyết phục FEB trực tiếp lãnh đạo ACP. Ngày 16/12/1929 Hồ Tùng Mậu gặp phái viên của QTCS tại HK. Phái viên này cho rằng cả 3 phe đều chưa xứng với danh hiệu "cộng sản" và nếu chưa có đảng thống nhất, hãy cứ để cho CPP lãnh đạo 4 Tại Xiêm, Q được các đại biểu đi dự hội nghị 5/29 thông báo về sự chia rẽ trong Hội. Liền đó, tháng 9, Q viết một bức thư gửi cho CPI nói toẹt ra rằng, ông chỉ tin tưởng vào những người cộng sản, và để chứng tỏ lòng trung thành của mình với QTCS, CPI cần cử đại diện sang dự hội nghị dự kiến sẽ diễn ra ở Vladivostok vào đầu năm 1930. Lãnh đạo CPI chần chừ. Q đã hai lần định vượt biên giới về Việt nam nhưg phải hoãn vì bị cảnh sát theo dõi quá sát sao. Khi ông đang chuẩn bị lần thứ ba thì phái viên từ Hôngkong đến (có thể là Lê Duy Diễm) mang theo những tin tức khẩn cấp. Q liền đi Bangkok và từ đó đáp tàu đi Quảng châu. Q đến Quảng châu 20/1/1930. Vì sợ cảnh sát Anh, Q viết thư mời các đồng chí của mình từ HK. Tuy nhiên họ lại cho rằng gặp nhau ở HK an toàn hơn vì cảnh sát Anh tỏ ra bao dung với các hoạt động của các ngoại kiều, miễn là đừng mất ổn định của HK. Điều kiện sống ở HK xem ra cũng tốt hơn ở Quảng châu. Người Hoa ở đây hiền hơn, thỉnh thoảng mới xảy ra bãi công. Hồ Tùng Mậu cử một đệ tử của mình hộ tống Q đến HK và ở một khách sạn tại Cửu Long. Ngay lập tức, Q đến nhà Lê Hồng Sơn và gặp các lãnh đạo của Hội. Ông đả kích họ đã xa rời quần chúng, miêu tả việc tách đảng như "trò trẻ con". Q còn gặp với đại diện của CCP. Sau đó, ông gửi thư mời ba phái cạnh tranh ở Đông Dương đến HK để chuẩn bị thành lập đảng mới. 

Cuối tháng Giêng, các đoàn ACP, CPI từ Đông dương lục đục kéo đến HK. Đại biểu của Liên đoàn bị bắt trên tàu thuỷ vì bị nghi đánh bạc. Ngày 3/2, Đại hội hợp nhất được diễn ra tại một căn nhà nhỏ ở khu phố nghèo của Cửu long, sau đó lại phải chuyển đến một sân vận động. Đại biểu của ACP là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiều, đại biểu CPI là Trịnh Đình Cừ và Nguyễn Đức Cảnh. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đại diện cho Hội cũ. Đại hội diễn ra một cách êm thấm đáng ngạc nhiên. Q nhẹ nhàng chỉ trích tất cả các bên và nhấn mạnh sự cần thiết phải đoàn kết. Hoá ra các mâu thuẫn kịch liệt chỉ là biểu hiện của tự ái cá nhân. Miền bắc thì chê miền nam lười và dễ tính, miền nam lại chê miền bắc khắc khổ và ương ngạnh. Cả hai đều không bằng lòng với việc các đồng chí Nghệ An chiếm hết vị trí lãnh đạo. Để tránh phiền phức, Q sử dụng uy tín QTCS của mình đề xuất giải tán tất cả các tổ chức hiện tại, lập ra đảng mới và được tán thành tức thì. Chỉ còn một vấn đề là đảng mới sẽ lấy tên là gì. Nhưng điều này Q cũng đã lo trước, ông bỏ cả Đông dương, An nam và sử dụng lại chữ Việt nam của triều Nguyễn, đảng mới sẽ có tên là Đảng cộng sản Việt nam (VCP). Phần còn lại của Đại hội diễn ra trong không khí đoàn kết và thân ái tiếp tục thông qua điều lệ và cương lĩnh của Đảng. 

Cần phải nhắc lại rằng Q đã được báo cáo về Đại hội 6 của QTCS và những thay đổi về đường lối của phong trào, tuy nhiên ông không nhận được bức thư phê phán của QTCS trực tiếp gửi Hội năm 1929 thông qua FCP. Mặc dù thừa nhận rằng ở Việt nam chỉ có thể diễn ra cách mạng dân chủ tư sản, QTCS vẫn nhấn mạnh giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo và đấu tranh với tất cả các biểu hiện của bọn "dân tộc xét lại". Lý thuyết cách mạng hai giai đoạn của Lê nin được Hội kế tục cũng bị đả kích là "kìm hãm và làm suy yếu quần chúng". Cuối cùng bức thư kết luận: "không cần phải đợi đến khi ACP được tái tổ chức mới có thể phát động quần chúng nổi dậy". 

Chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đường lối của QTCS, Lời kêu gọi của đại hội thống nhất tuy vẫn được gửi cho toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, binh lính, sinh viên học sinh và tất cả anh chị em bị áp bức bóc lột) Việt nam, nhưng đã xoá đi quan điểm của Q về liên minh công-nông chiến lược. Lời kêu gọi công khai nhấn mạnh đây là "Đảng của giai cấp vô sản", có nhiệm vụ lật đổ "chế độ thực dân đế quốc, tàn dư phong kiến và các lực lượng tư sản phản cách mạng", lập nên nhà nước "công nông binh" dần dần chuyển tiếp thành nhà nước XHCN. Dù thế, Q cũng không dễ dàng từ bỏ đường lối thành lập mặt trận rộng rãi của Lenin. Tài liệu chiến lược mới của đảng mới đòi hỏi phải lôi kéo sự ủng hộ của trung nông, trí thức, tiểu tư sản và các nhóm dân tộc như đảng Hy vọng Thanh niên của Nguyễn An Ninh. Chỉ có đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu và Phan Long là bị coi rõ ràng "phản động". Chính sự trung thành với Lê nin này sẽ mang lại cho Q rất nhiều sự rắc rối trong thời gian sắp tới. 


Trong thư gửi Hilary Noulens, đại diện cho FEB (Far East Buro), Q miêu tả: "Từ quả trứng Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, đã nở ra Đảng cộng sản Việt nam. Một tổ chức tuy còn non trẻ nhưng được tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất và sẽ tiến bộ nhanh chóng". Đảng có 204 đảng viên ở Bắc và Trung bộ, 51 tại Nam bộ, 15 ở Trung quốc và 40 ở Xiêm. Trong các tổ chức sinh viên, học sinh, nông dân, Đảng có khoảng 3500 môn đồ. 

Thanh kiếm thần mà Lê Lợi đã dùng để đánh tan quân xâm lược từ thế kỷ 15, giờ đây đang nằm trong tầm tay của Quốc.

--------------------------------
1
(3) Những người bạn của Phú tại trường Stalin là: Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trí, Bùi Công Trừng và Bùi Lâm. Lê Hồng Phong lúc đó đang học tại trường hàng không Leningrad.
2
(18) Theo hồ sơ mật thám Pháp, Lâm Đức Thụ được bầu làm chủ tịch tại hội nghị.
3
Trần Văn Cung viết ý kiến của mình trong cuốn "Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt nam"
4
Một số nhà quan sát cho rằng phái viên chính là NAQ, nhưng nhiều khả năng hơn đó là Hilair Noulens, người Ucraina, làm việc cho FEB từ năm 1928 và biến mất và mùa đông 1929, trở về HK vào tháng 3/30.

NGHỆ TĨNH ĐỎ


Đảng cộng sản Việt nam ra đời, thỏa mãn ước mơ của Q khi rời quê hương cách đây 21 năm, tìm một con đường để giải phóng đất nước. Cùng với cuộc đại khủng hoảng đang diễn ra ở thế giới tư bản, phong trào cách mạng ở Đông dương có vẻ như minh chứng cho dự báo của QTCS về ngày huy hoàng sắp đến của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, với Q, có nhiều câu hỏi cần phải trả lời. Liệu đảng mới sẽ thuộc đảng bộ sắp được thành lập tại Singapore hay sẽ báo cáo trực tiếp cho văn phòng FEB tại Thượng Hải? Liệu Q sẽ tiếp tục đóng vai trò đại diện của QTCS hay sẽ trực tiếp lãnh đạo Đảng? Nếu lãnh đạo thì sẽ đóng ở đâu vì nếu Q về Đông dương, sẽ bị bắt và xử ngay. Ngày 13/2, bất chấp cái lạnh, Q đi Thượng hải để liên lạc với Hilaire Noulens tại trụ sở của FEB trong một biệt thự châu Âu trên phố Nam kinh náo nhiệt. 

Gặp Noulens không phải là việc dễ. Ngày 18, Q viết thư cho Nou, giọng rất bức xúc: Tôi phải gặp đồng chí ngay, bởi vì 1/ báo cáo này đã viết 2 ngày vẫn chưa đến được tay đc; 2/ Mọi việc có thể giải quyết trong 1 giờ mà tôi đã ở đây 5 ngày rồi; 3/ tôi buộc phải ngồi không trong khi công việc chỗ khác đang chờ. 

Trong bức thư, Q cũng kiên quyết phản đối quan điểm của QTCS về việc thành lập các đảng khu vực, bỏ qua yếu tố dân tộc. Q không đồng ý để VCP thuộc đảng bộ Đông Nam A, cho rằng Việt nam cần phải có một đảng độc lập, báo cáo cho FEB qua văn phòng Hồng kông. Có vẻ như cuối cùng Q cũng gặp được Nou và thuyết phục Nou đồng ý với quan điểm của mình, vì sau đó vài ngày Q báo cáo với Dalburo ở Moscow. Nhưng vẫn còn một vài khúc mắc: 

Tôi không rõ vai trò của mình. Tôi là thành viên Đảng CS Pháp hay Việt nam. Khi chưa có lệnh mới, tôi sẽ tiếp tục làm việc với VCP. Nhưng dưới danh nghĩa nào? Tôi không thể về Đông dương vì đã có bản án tử hình vắng mặt. Liệu vai trò của tôi với QTCS đã chấm dứt? Nếu không, tôi có thể liên lạc với văn phòng địa phương được không? Rất mong Ban chấp hành xem xét nhanh. 

Trước khi rời Thượng hải, Q gặp Nguyễn Lương Bằng, một tay chân cũ từ thời ở Quảng đông. Q dặn Bằng tìm cách tuyên truyền, thu phục gần 4000 lính Việt nam hiện đang đóng trong khu nhượng địa Pháp. Q còn nhấn mạnh việc giữ vững quan hệ với Đảng CS TQ. Sau đó Q về Hongkong thành lập văn phòng phía Nam của FEB, đợi lệnh mới. Văn phòng này được đặt trong một ngôi nhà 2 tầng ở đảo HK, dưới danh nghĩa một hãng buôn. Q thuê một căn hộ gần sân bay ở Cửu long, hoạt động với tên gọi nhà báo Vương. Văn phòng có trách nhiệm liên lạc với các đảng ở ĐNA: Thái, Sing và Việt nam Cuối tháng 3, Q đi tour trong khu vực với nhiệm vụ khôi phục tổ chức ở Nam Dương. Tại Thái lan,Q qua Udon Thani, thông báo về việc thành lập VCP. Theo lời của Hoàng Văn Hoan, Q kêu gọi các thành viên của Hội tham gia tích cực vào các hoạt động của đảng CS Thái sắp được thành lập. Để trấn an tâm lý bất ổn vì không được tham gia trực tiếp vào giải phóng VN, Q khuyên nên tổ chức Hội thành văn phòng tỉnh của VCP. Cuối thàng 4, Q quay trở về BK chủ tọa hội nghị thành lập đảng CS Thái, bầu ban chấp hành lâm thời với 1 đại biểu Việt nam từ Udon Thani. Sau đó Q đi Malaya và Sing, dự hội nghị đảng Nam Dương, cải tổ thành đảng CS Malayan. Cả hai đảng mới đều báo cáo cho FEB qua văn phòng HK. Q quay về HK giữa tháng 5 

Trong khi Q bận rộn "đỡ đẻ" cho các đảng mới, tình hình Việt nam nhanh chóng trở nên căng thẳng. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của VNQDD vào đầu tháng 2. Bỏ qua những nguyên tắc của Lenin về việc vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, QDD dựa vào một lớp các nhà cách mạng tinh túy, dự kiến sử dụng khởi nghĩa vũ trang để lật đổ Pháp, với sự hậu thuẫn của các binh sĩ phản chiến. Quân đội viễn chinh Pháp, do Toàn quyền Ly Myre thành lập từ năm 1879, có khoảng 30,000 quân, với khoảng 2/3 là dân địa phương. Đội quân này được chia thành 31 tiểu đoàn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra còn khoảng 15,000 dân quân do hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Đa phần lính Việt nam là do các chức sắc trong làng bắt đi, chẳng có cảm tình gì với Pháp. Đến cuối những năm 20, tâm lý ghét Pháp trong binh sĩ dâng cao, là mảnh đất màu mỡ để gieo tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Từ năm 1929, QDĐ đã bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều địa điểm trên cả nước. Đáng tiếc là Pháp đã phát hiện và tiêu hủy phần lớn. Sau đó vấn đề thêm căng thẳng. Một chủ đồn điền Pháp bị ám sát trên đường phố Hà nội khi vừa bước ra cửa nhà người tình. Chính quyền nghi ngờ QDĐ đứng đằng sau, lập tức vây bắt hàng trăm lãnh đạo đảng và những người ủng hộ. Lo ngại trước nguy cơ bị tiêu diệt, QDĐ quyết định ra tay nhanh. Lúc đó, họ đã có khoảng 1000 cơ sở trong các trại lính ở Bắc bộ. Đầu tháng 2, cuộc binh biến nổ ra ở một số đồn ở trung du Bắc bộ, quan trọng nhất là ở Yên bái. Kế hoạch đầu độc các sĩ quan Pháp bị một tên chỉ điểm tuồn cho Pháp. Viên chỉ huy trại lính đã đề phòng và khi cuộc bạo động nổ ra vào giữa đêm, quân Pháp đã được chuẩn bị. Đến đầu giờ sáng thì Pháp đã kiểm soát được tình hình. Cuộc nổi dậy ở một số địa điểm khác cũng nhanh chóng bị dập tắt. Rất nhiều lãnh đạo bị bắt. Ngày 17/6, 13 kẻ cầm đầu bị xử tử tại Yên bái. 

Cuộc khởi nghĩa đã thất bại ngay từ đầu về nguyên tắc, khi không có những biện pháp kích động dân chúng tham gia, cũng không có phương án "tẩu vi" khi gặp sự cố. Liên lạc cũng bị cắt đứt ở phút cuối, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong hành động. Quan trọng hơn nữa là cuộc khởi nghĩa không được sự ủng hộ của dân chúng trong toàn quốc. Các lãnh đạo thoát chết chạy trốn sang Trung quốc và bị phân rã thành 2 nhánh: một nhánh vẫn trung thành với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhánh kia thì nghiêng về cải cách hòa hoãn. 

Trên thực tế thì tình hình Đông dương đang chứa đựng nhiều dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là trong giới học trò. Mặc dù số lượng học sinh liên tục tăng (đầu năm 1930, cả nước có 7000 trường công với gần 340,000 học sinh), bất mãn vẫn không ngừng gia tăng do thiếu điều kiện học lên. Chỉ có khoảng 5000 học sinh ở cấp trung học và khoảng 500 được vào học tại đại học duy nhất ở Hà nội. Việc làm sau khi học xong càng không có, lương thì thấp hơn hẳn các đồng cấp châu Âu, làm tăng thêm tinh thần chống sự thống trị của ngoại quốc. Khi phong trào học sinh tạm lắng xuống cuối những năm 20, đến lượt công nhân nổi dậy. Công nghiệp phát triển mạnh kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng chỉ có giới chủ được hưởng lợi. Cuối những năm 20, giai cấp công nhân Việt nam có 200,000 người, trong đó đã có 50,000 làm việc trong các khu mỏ ở miền Đông bắc. Tình cảnh của công nhân làm việc tại các đồn điền chè và cao su ở Tây nguyên và dọc biên giới Campuchia, hết sức khốn khổ: 

Tất cả đều phải dậy từ 4h sáng mà nhiều người vẫn chưa kịp ăn sáng. Kẻng tập trung lúc 5h và không ai được muộn. 20 phút tập trung là một cực hình vì bọn chủ tìm mọi cớ để đánh đập, chửi bới. 

Sau đó tất cả phải ra đồn điền, mỗi người phải cạo mủ từ khoảng 280 đến 350 gốc. Ai không đủ tiêu chuẩn sẽ bị đánh, nếu không có tiền nộp chuộc. Chiều về, phải phục dịch chủ, dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống đúng là: "con không biết mặt cha, chó không biết mặt chủ". 

Thực tế châu Âu cho thấy điều kiện trong xã hội tiền công nghiệp không bao giờ dễ chịu. Việt nam cũng không phải là ngoại lệ. Công nhân các "nhà hàng mồ hôi" ở Nam định, Hải phòng, hầm mỏ Quảng ninh hay các đồn điền miền Nam đều cùng khổ như nhau. Việc tuyển dụng cũng không hẳn là tự nguyện. Các băng nhóm tội phạm nhiều khi rình bắt người trên đường rồi tống thẳng đến các nhà máy. Một số nông dân không đủ tiền nộp tô cho địa chủ trốn ra thành phố. Nhưng cũng chẳng hơn gì. Đồng lương thì chết đói. Bạo lực tràn lan. Charles Dickens mà còn sống hẳn sẽ rất hiểu cuộc sống này. Rồi cuộc đại khủng hoảng xảy ra. Tư bản Pháp bỏ chạy. Hơn một nửa số nhân viên phải ra đường. Có người chạy về quê cuống quít tìm đường sống. Nhiều người biểu tình phản đối. Bãi công nổ ra tràn lan. Có trường hợp là do Tân Việt hoặc Thanh niên Hội xúi giục, nhưng đa số là tự phát. Tháng ba/1930, công nhân đồn điền Phú riềng nổi loạn. Vài tuần sau đến lượt nhà máy dệt Nam định, rồi Diêm Bến thủy. Pháp thẳng tay dẹp loạn. Đã có người chết, nhiều người bị thương. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Vinh. Rất nhiều công nhân có nguồn gốc từ những địa phương lân cận, dẫn đến sự bất mãn cao độ ở nông thôn. Hàng ngàn nông dân Thanh chương đã tràn vào đập phá đồn điền và treo cờ đỏ búa liềm. Lính lê dương Pháp đàn áp giết hàng chục người. 

Từ cuối năm 1929, CPI đã cử một đảng viên kỳ cựu của mình là Nguyễn Phong Sắc về nằm vùng ở nhà máy Diêm Bến thủy. Vài tuần ngay sau Hội nghị thành lập tháng 2/1930, Tỉnh ủy Nghệ an rồi các chi bộ địa phương liên tiếp được thành lập và hầu như hoạt động tự do vì Pháp không để ý, còn quan lại địa phương thì sợ. Các cán bộ địa phương tự chủ hoạt động mà không cần bất cứ sự lãnh đạo nào từ TƯ, tiếp tục thổi ngọn lửa cách mạng. Đến đầu tháng 9, tình hình bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát. Nông dân các huyện dọc sông Cả nổi dậy cướp chính quyền, tổ chức theo kiểu Liên xô thành các Xô-viết, chủ yếu là từ thành phần nông dân nghèo. Chính quyền mới lập tức xóa bỏ các loại sưu thuế, lấy lại ruộng đất từ tay địa chủ để chia cho dân nghèo. Công nhân Bến thủy và học sinh Huế đồng loạt biểu tình ủng hộ. 

Lo sợ, Pháp lập tức tăng cường quân lê dương để hỗ trợ quân triều đình. Ngày 12/9 khi hàng ngàn người từ Yên xuyên đổ về Vinh để chiếm trụ sở ngân hàng Đông dương, máy bay Pháp đã ném bom thẳng vào đoàn người. Con đường từ Yên xuyên về Vinh đẫm máu và xác người. 

Trong lúc Nghệ Tĩnh đang bạo loạn, Đảng bộ địa phương đang bối rối không biết phải hành động thế nào, tại HK, những lãnh đạo cao cấp ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ nhất. Cuối tháng 9, đoàn Nam bộ đến nơi nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì của đoàn Bắc và Trung bộ. Được sự đồng ý của Q, anh em định bỏ về, thì thật may mắn có mấy đại biểu của Bắc kỳ đến từ Hải phòng ngay trước giờ lên đường. Tất cả quyết định vẫn tiếp tục hội nghị. Q và Trần Phú đi Thượng hải để tư vấn với Noulens. Đầu tháng 10, Phú quay về. Q ở lại thêm vài ngày rồi trở về HK trên một con tàu Mỹ. Ngày 20/10, Hội nghị khai mạc tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Y, đảo HK. Nhờ trời, đến lúc này, đại biểu 3 miền đều có mặt, trừ một đại biểu đã đến được HK nhưng lại bị lạc vì không tìm được địa điểm. Q vừa là chủ tịch vừa là đại diện của QTCS. Trong số đại biểu, có một thiếu nữ da nâu, hấp dẫn. Đó chính là Nguyễn Thị Minh Khai, được cử sang giúp cho Q tại Văn phòng miền Nam từ tháng 4/1930. 

Chủ đề chủ yếu của Hội nghị là thảo luận cương lĩnh chính trị chính thức thay thế đề cương tạm thời do Q soạn thảo tại Hội nghị thống nhất hồi tháng 2. Đề cương của Q thừa hưởng từ cương lĩnh của Thanh niên Hội nên hiển nhiên là có một số điểm không trùng với quan điểm chính thống của Matxcova tại thời điểm này, tỷ như vai trò chính thống của giai cấp công nhân hoặc kế hoạch cách mạng 2 giai đoạn của Lênin. Đa số các đại biểu đã chấp nhận quan điểm của Matxcova, thay thế cho những "khiếm khuyết" của đề cương tạm thời của Q. Ngày 9/12, Ban chấp hành TƯ mới ra thông tư (chắc là do Phú thảo), đả kích quan điểm mặt trận thống nhất bao gồm cả những phần tử tư sản của hội nghị tháng 2. Thông tư cũng phê phán chủ trương hợp nhất bình đẳng, cho rằng lẽ ra phải chọn những thành phần ưu tú nhất của mỗi phái. 

Cương lĩnh chính trị mới đề nghị thành lập mặt trận phản đế, do công nhân lãnh đạo, kết hợp với bần nông và trung nông. Mặt trận không cấm các phần tử tư sản, nhưng cương lĩnh cảnh báo, phải hết sức cẩn thận với bọn này. Đảng có thể hợp tác với các đảng dân tộc khác, nhưng phải chống lại quan điểm "dân tộc hẹp hòi" của các đảng này, và tiêu diệt ảnh hưởng của chúng đến quần chúng. Cương lĩnh cũng đề xuất khai trừ những phần tử chủ trương khủng bố, ám sát, coi thường quần chúng. Chủ trương này chắc chắn được sự ủng hộ của Q, vì ông đã phát biểu tương tự khi nhận xét cuộc khởi nghĩa Yên bái. Một kết quả nữa của hội nghị tháng 10 là việc đổi tên đảng từ đảng cộng sản Việt nam thành đảng cộng sản Đông dương do sức ép của Liên xô. Rõ ràng là Matxcova cho rằng chữ "Việt nam" quá "dân tộc chủ nghĩa" không phù hợp với "cách mạng thế giới". QTCS cũng đang kêu gọi những nước nhỏ thành lập những đảng khu vực. 

Tình hình bạo loạn ở miền Trung cũng đã gây chú ý. Đến lúc đó gần như mọi sự ngã ngũ, cuộc nổi dậy chỉ diễn ra lẻ tẻ ở vài huyện. Nông dân, công nhân, tầng lớp thị dân, thậm chí cả dân nghèo miền Bắc cũng tỏ thái độ thờ ơ, không nổi dậy hưởng ứng. Nghị quyết hội nghị kêu gọi các lãnh đạo địa phương tìm mọi cách để mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong cả nước, và chỉ thị không được manh động, sử dụng bạo lực mù quáng. Một thông điệp gửi riêng cho đảng bộ Nghệ tĩnh nêu rõ: 

Nếu quần chúng đứng lên tự phát, đảng đương nhiên phải lãnh đạo. Trường hợp này, có bằng chứng cho thấy đảng bộ địa phương đã chủ động "giật dây", và đấy là một sai lầm chết người: 1/ Tình hình cách mạng và nhận thức quần chúng chưa chín muồi ở nhiều địa phương. 2/ Tại một số xã, phong trào mạnh thì lại quá thiếu vũ khí. 

Hội nghị đã bầuBan chấp hành TƯ và Ban thường vụ gồm Trần Phú, Nguyễn Trọng Nghĩa và Nguyễn Phong Sắc (mặc dù ông này không dự). Trần Phú còn được bầu làm Tổng bí thư. Q tiếp tục là đại diện cho QTCS. Ban đầu Ban thường vụ định đóng ỏ Hải phòng, nhưng sau chyển vào Sài gòn do lý do an ninh. 

Quốc không thể không biết rằng những quyết định của Hội nghị lần này đã mâu thuẫn rõ ràng và thậm chí trắng trợn với những tư tưởng và phong cách lãnh đạo của mình. Nhiều chỉ trích hoàn toàn không có cơ sở. Từ thời lãnh đạo Thanh niên Hội, Q đã cố gắng nâng cao trình độ nhận thức tư tưởng của các thành viên. Bây giờ khi các thành viên trẻ hơn cáo buộc về tội yếu kém về tư tưởng, chắc Q rất đau. Trên thực tế, quan điểm mới của QTCS không những không phù hợp với Q mà còn là bước lùi so với những tư tưởng của Lenin đầu những năm 20. Q đã chấp nhận tất cả với một thái độ nhã nhặn: "lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác" và viết báo cáo gửi cho Noulens sau khi hội nghị kết thúc. Vào cuối thu và mùa đông năm 1930-1931, Pháp tăng cường đàn áp. Biểu tình bị dập tắt ngay lập tức, quân đội tràn vào chiếm đóng những làng xã ủng hộ biểu tình. Đảng bộ các tỉnh miền Trung báo cáo tinh thần dân chúng xuống thấp. Những phần tử tích cực cuống quýt quay sang các biện pháp như ám sát hoặc khủng bố để trấn áp dân chúng. Pháp càng đàn áp dữ hơn. Ban thường vụ cũng lúng túng, chỉ thị: "chúng ta không có máy bay, không có quân đội để ứng cứu. Nhưng tuyệt đối không được hoảng loạn". Tại HK, Q cũng hết sức cố gắng để lôi kéo sự chú ý của thế giới. Trong báo cáo gửi cho Moscow, Q nói suốt ngày gõ cửa các đồng chí ở văn phòng FEB tại Thượng hải, để kêu gọi các đảng khác ủng hộ phong trào tại Việt nam. Trong một bài báo viết năm 1931, có tên "Nghệ Tĩnh đỏ", Q ca ngợi sự kết hợp của công nhân với nông dân và kết luận, cuộc nổi dậy xứng đáng được tô màu "đỏ". 

Q cũng hết sức băn khoăn về khả năng của mình có thể tham gia tích cực vào việc lãnh đạo phong trào. Mâu thuẫn với Trần Phú ngày càng căng thẳng. Phú thẳng cánh chỉ trích quan điểm "dân tộc" của Q, phản bội lại những tư tưởng của QTCS. Phú cũng không dấu diếm tham vọng kiểm soát đảng trong tương lai. Trong một lá thư gửi Q tháng Giêng năm 1931, Phú kêu ca về sự mất liên lạc với văn phòng FEB tại Thượng hải và cho rằng Q chính là thủ phạm. Phú viết, nếu Q không thể đảm bảo được liên lạc, thì văn phòng ở HK có vai trò gì? Mặc dù rất khó chịu với giọng điệu "bề trên" của Phú, Q vẫn tìm cách bắt liên lạc với Thượng hải và thúc giục Noulens nhanh chóng có những chỉ thị cho phong trào ở Việt nam. 

Đầu tháng 3, Joseph Ducroux, điệp vụ của QTCS dưới tên gọi Serge Lefranc đến HK để gặp Q trong chuyến đi thị sát khu vực. Q và Lefranc quen nhau từ đầu những năm 1920 khi cùng tham gia Liên đoàn cộng sản trẻ tại Paris. Lefranc cho rằng sử dụng Q chỉ với mục đích liên lạc và phiên dịch thì quá phí và đề nghị chuyển Q về văn phòng Thượng hải, trực tiếp chỉ đạo Đông dương. Hai tuần sau, L đến Sài gòn. Ngày 23, Ngô Đức Trí, thành viên Ban thường vụ mới, từng gặp L khi học tại trường Stalin, gặp L tại khách sạn Sài gòn Palace. Ngày hôm sau, L gặp 2 thành viên còn lại tại nhà Phú, chuyển tiền và hứa Noulens sẽ sớm gặp ban lãnh đạo ICP. L cũng thông báo việc chuyển Q về Thượng hải. Sau khi gửi bưu thiếp cho Q, L rời Sài gòn ngày 27. 

Cảnh sát Pháp bắt đầu thành công trong việc truy quét, bắt bớ những phần tử cộng sản đầu sỏ, từ đó tra khảo ra những đầu mối khác. Nội bộ phong trào bắt đầu có hiện tượng rối loạn, nghi kỵ lẫn nhau. Thậm chí khi Nguyễn Đức Cảnh bị bắt năm 1929, đảng bộ miền Trung đã quyết định ám sát ông này trong nhà tù để khỏi khai lung tung. Cuối tháng 3/1931, Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương lần thứ hai tại Sài gòn. Không rõ là hội nghị bàn về vấn đề gì nhưng thấy nghị quyết dũng cảm tuyên bố nhờ tình hình thế giới thuận lợi và những cố gắng của đảng, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ. Hội nghị cũng thừa nhận những vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại. Vai trò lãnh đạo của đảng tại Bắc kỳ rất yếu, do tư tưởng "tiểu tư sản" bị thừa hưởng từ Thanh niên Hội, không thâm nhập được vào giai cấp nông dân và công nhân. Vài ngày sau hội nghị, cảnh sát bất thình lình ập vào ngôi nhà Ban thường vụ đang họp kín với đại diện các địa phương ở Nam bộ. Tất cả đều bị bắt, trừ Trần Phú đúng lúc đó đang ra vườn đi vệ sinh nên đã kịp thoát ra cổng sau. Trong tù, Ngô Đức Trí không chịu được tra tấn đã khai ra tuốt tuột. Đến ngày 17/4, trong ban lãnh đạo đảng, chỉ còn Trần Phú tự do. 

Cùng ngày, Phú viết thư cho văn phòng FEB, buộc tội những đảng viên nòng cốt Bắc kỳ và Trung kỳ, vẫn bị ảnh hưởng của giới lãnh đạo cũ, chống đối lại đường lối mới, dẫn đến thảm họa hiện tại. Tuy nhiên Phú vẫn lạc quan thông báo, hiện tại đảng đã có tới 2400 đảng viên so với 1500 hồi tháng 10; hơn 63000 nông dân đã tham gia cách mạng, so với chỉ có 2800 mùa thu năm trước. Đảng sẽ phát triển và cần tiền, Phú kết luận. Trước đó vài ngày, Noulens đã viết thư phê phán Q ở HK không cung cấp đầy đủ các thông tin về tình hình ở Đông dương, chẳng hạn tại sao lãnh đạo bị bắt và trong hoàn cảnh nào? Để FEB có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học. Noulens cho rằng việc chuyển Q về Thượng hải tại thời điểm này là không hiện thực và cần chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa. Ngày 20/4, Q viết cho Ban thường vụ ở Sài gòn, chuyển tải những yêu cầu của Noulens. Ngày 24/4 Q viết cho Phú, kêu ca về vai trò của mình chẳng khác gì "hộp thư", và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Trong mọi trường hợp Q nhấn mạnh vai trò của việc bảo đảm thông tin đầy đủ. Nhưng Phú không bao giờ nhận được những bức thư này. Ngày 18/4 Phú bị bắt. Mấy tháng sau, Phú chết trong tù. Có nguồn tin nói là do lao phổi, nguồn khác lại cho rằng do tra tấn. Ngô Đức Trí và Nguyễn Trọng Nghĩa đang ngồi tù. Nguyễn Phong Sắc bị hành hình trong tháng 4. Ban lãnh đạo đảng trong Đông dương hoàn toàn bị tan rã. 

Theo báo cáo của Surête, cuối mùa xuân năm 1931, hơn 2000 người đã bị hành hình, 51000 thành viên của phong trào bị bắt. Thêm vào đó là hạn hán trong các tỉnh miền Trung dẫn đến mất mùa. Hơn 90% dân Nam đàn, Nghệ an có nguy cơ chết đói. Ngay cả những người ôn hòa như Bùi Quang Chiêu cũng phải viết trên tờ La Tribune Indochinoise: miền Trung đang yên tĩnh, nhưng đó là sự im lặng của chết chóc. Ngày 12/5/1931, Noulens gửi cho Q bản đánh giá có tính phê phán tình hình Đông dương. Noulens phê phán lãnh đạo đảng đã không tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ dẫn của QTCS. Đặc biệt là chủ nghĩa "anh hùng quá khích", nổi dậy vội vã, bắn cảnh sát hay những hành động khủng bộ khác đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào. Họp hành thì dài dòng và thoải mái, không có những biện pháp bảo mật. Thiếu những biện pháp giáo dục và tổ chức quần chúng. Cuối cùng Noulens hứa sẽ báo cáo tình hình Đông dương cho phong trào cách mạng thế giới và dặn "Tìm mọi cách viết cho chúng tôi về hoạt động, thành tích và thất bại của các bạn" 

Trong lúc chờ đợi phân công công tác mới, Q sống trong một căn hộ nhỏ ở bán đảo Cửu long và sa vào quan hệ tình ái với Nguyễn Thị Minh Khai. Cũng như Q, Duy (tên hoạt động của NTMK) là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Cô sinhnăm 1910 tại một gia đình danh giá ở Hà đông. Ông nội Duy là một quan chức triều đình ở Bắc giang, đã đậu đến Phó bảng. Bố Duy, ông Nguyễn Văn Bình, sau khi thi trượt, chấp nhận làm một nhân viên hỏa xa ở Vinh năm 1907. 14 tuổi, khi vào trường trung học, Duy được Trần Phú truyền bá những tư tưởng cách mạng. Năng nổ và xinh xắn, cô lập tức được Q chú ý ngay khi đến Hong kong. 

Không có nhiều tài liệu viết về mối tình Q-K và cũng không rõ họ có cưới nhau chính thức hay không? Cuộc hôn nhân của Q với Tăng Tuyết Minh coi như tan vỡ sau khi Q bỏ trốn năm 1927, mặc dù có một số chứng cớ cho thấy Minh đã gặp Q tại HK đầu những năm 1930. Lâm Đức Thụ đã khai với mật thám Pháp là Minh chê Q già, và đồng ý lấy Q chỉ vì tiền. Trong một bức thư nhờ Thụ chuyển cho Minh, Q viết: "Mặc dù chúng ta xa nhau va không nói ra nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn. Cho anh gửi lời hỏi thăm tới mẹ em". Mùa xuân năm 1931, Q xin phép văn phòng FEB được cưới NTMK. Noulens trả lời phải báo trước cho ông ta hai tháng trước khi làm đám cưới. Không may, ngay sau đó Khai bị cảnh sát HK bắt vì nghi ngờ hoạt động chống phá. Nhờ tự khai là công dân TQ dưới cái tên Trần Thái Lan, Khai bị di lý về Quảng đông, tống giam vài tháng rồi được thả ra vì thiếu chứng cớ. Khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, Q viết thư cho Noulens thông báo vắn tắt một đồng chí trong đội liên lạc bị bắt. Sau đó lại nhắc lại đề nghị được chuyển công tác. 

Cùng thời điểm, Lefranc vẫn tiếp tục chuyến đi của mình đến Singapore để tiếp xúc và thu nhập thông tin với các thành viên của đảng cộng sản Malayan - MCP. Cả Q lẫn Noulens đều đang rất cần những thông tin này. Do được Q báo trước, một lãnh đạo của MCP là Phú Đại Thanh, chiến hữu của Q khi thành lập đảng ở Xiêm, đã hẹn gặp Lefrance tại Collier's Quay. Cảnh sát Anh đã theo dõi Lefranc từ lâu và mất dấu ông này ở Ấn và Xrilanca. Lần này thì chúng gặp may. Phú đang bị cảnh sát bám sát vì quan hệ với một đảng viên người Indonexia Tan Malaka. Khi được biết là Phú sẽ gặp một điệp viên từ châu Âu sang có tên là Lefranc, cảnh sát nghi ngờ ngay đó chính là Joseph Ducroux, đã được London báo từ trước. Sau khi bắt giữ cả hai, cảnh sát đã lục soát phòng ngủ và thu tất cả các giấy tờ của Lefranc, trong đó có cả bưu thiếp của Q (dưới tên T.V. Wong) và Noulens. Lefranc và đồng phạm bị xét xử và tống giam tại Sing, còn thông tin về Q và Noulens ngay lập tức được báo về Thượng hải và Hong kong. 

2:00 giờ sáng ngày 6/6, cảnh sát HK ập vào một căn hộ trên bán đảo Cửu long, bắt đi trên tầng 2 một người đàn ông có tên là Tống và một phụ nữ trẻ tự xưng là cháu của ông ta và có tên là Lý Sâm. Dựa trên những tài liệu, truyền đơn thu được, cảnh sát đã xâc định đó chính là điệp vụ của QTCS Nguyễn Ái Quốc, còn người phụ nữ là Lý ưng Thuận, vợ của Hồ Tùng Mậu. 

Cuộc sống phút chốc bị đảo lộn. Mọi quan hệ với trong nước bị cắt đứt. Đe dọa nhãn tiền là bị dẫn độ cho Pháp và triều đình Annam. Tương lai vô cùng bất định!

No comments:

Post a Comment