Hơn ba mươi năm chiến tranh đã in dấu sâu đậm lên cuộc sống của cả dân tộc Việt Nam ta, của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi khởi đầu không ai nghĩ chiến sự sẽ kéo dài, kéo dài mãi đến như vậy. Về sau người ta chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại chịu đựng với ý nghĩ rằng độc lập và tự do là điều quý nhất, có độc lập, tự do rồi sẽ có tất cả, mọi hy sinh đều là cần thiết cho mục tiêu cao cả ấy.
Nhìn lại những cuộc đấu tranh lâu dài trên đất nước mình, nhìn lại cuộc đời cầm súng của mình trong 37 năm có lẻ, tôi thấy những gì sâu sắc nhất?
Cuối tháng 10. 1990 tôi dự cuộc Hội thảo do tổ chức của tướng Leclerc mời với đề tài: Tướng Leclerc và Đông dương. Có hơn một chục vị tướng Pháp, các nhà sử học nổi tiếng như Devillers, Brocheux... , các nhân vật liên quan hồi đó như ông Messmer (từng là thủ tướng), ông Misoffe (bộ trưởng) và cả ngọai trưởng Polang Dumas tham dự. Tôi từng nghiên cứu vến đề này và đến dự cùng hai cán bộ của sứ quán Việt Nam (một tham tán chính trị và một bí thư thứ hai). Bản tham luận của tôi đựơc chú ý. Qua việc đánh giá tướng Leclerc, tổng chỉ huy quân sự Ở Đông dương, những quan điễm của ông về chính trị và quân sự, thái độ thực tế và thức thời của ông, chính kiến của ông khác với chính kiến của đô đốc D'Argenlieu Cao ủy Pháp và là Tổng tư lệnh quân lực Pháp ở Đông dương ra sao, các diễn giả đều đề cập đến sự kiện khởi chiến ở Việt Nam ngày 19. 12. 1946. Ai cố tình gây chiến trước? Khi chiến tranh bùng nổ rồi thì ngừng bắn sẽ rất khó khăn. Vậy thì tại sao chiến tranh bùng nổ? Lỗi tại ai, từ phía nào? Đây là một sự kiện bị nhiễu lọan nhất, có nhiều điểm ản dấu nhất ở cả hai bên. Có phải phía Pháp đã cố tình khởi chiến, từ việc gây ra những cuộc nổ súng ở Hải Phòng, rồi ở Hà Nội và 2, 3 ngày trước đó đã cho xe tăng đi nhiều thêm một cách bất thường trên đường phố Hà Nội, đột nhiên tăng viện binh từ Pháp sang rồi đánh chiếm Sở Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngọai giao), đưa tôi hậu thư yêu cầu do phía Việt Nam không ổn định được an ninh, nên phía Pháp sẽ đảm nhận việc này, rồi sau đó ra lệnh cấm trại tất cả binh lính Pháp... Phải chăng phía Pháp đã có một kế hoạch tỉ mỉ leo thang dần để đi đến khởi sự cuộc chiến tranh rộng khắp? Hay phía Việt Nam đã có kế hoạch trước, dự định từ mấy tuần trước đó là đêm 19 tháng 12 năm 1946 sẽ nổ súng. Hiệu lệnh khởi sự là phá Nhà đèn Yên Phụ, tắt điện trong tòan thành.
Cũng có nhà sử học Pháp đưa ra nhận định rằng về phía Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã đưa ra lệnh tiến công mà không cho ông Hồ Chí Minh biết. Đây là một phỏng đoán chủ quan, thiếu cơ sở vì một việc trọng đại như thế này ông Giáp không thể tự ý chủ trương được. Phỏng đoán như thế là không hiểu cơ chế và tinh thần làm việc của phía Việt Nam.
Sau khi nghiên cưứ nhiều tài liệu, tôi thấy lúc ấy hai bên đều có những nhận định rất giống nhau và cả hai bên đã hiểu nhầm nhau! Những nhận định rất giống nhau là: Con đường hòa đàm đã tan vỡ không phương cưứ chữa được nữa. Chiến tranh tất yếu sắp nổ ra. Bên nào cũng có kế hoạch ứng phó với tình hình xấu nhất đang tới rất gần. Bên nào cũng có ý định là nếu bên kia gây sự lớn thì phải kịp thời giáng trả lập tức để khỏi mất quyền chủ động... Cả hai bên trong thâm tâm đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh toàn bộ ngay vì thủ tướng thuộc đảng xã hội Leon Blum vừa lên cầm quyền và ông Marius Moutel Bộ trưởng thuộc Dịa sắp lên đường sang Đông dương. Thế nhưng khi quân của hai bên đã o thế cài răng lược, ở hai phái đều có những phần tử trẻ hăng máu, cực đoan thì bất cứ một sự xô sát nhỏ nào, một cuộc bắn nhau nhỏ nào cũng có thể tạo thành một đám cháy lớn! Hai bên đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh lớn nhưng đều chuẩn bị rất khẩn trương, luôn sẵn sàng cho khả năng xấu nhất để tránh bị động. Những cuộc chạm súng liên tục và ngẫu nhiên đã là tia lửa tạo nên đám cháy lớn...
Đất nước bị cuốn hút vào chiến tranh bi thẩm như vậy đó.
Theo tôi cái lỗi chính là ở quan điểm thực dân lỗi thời vẫn còn tồn tại trong chính giới Pháp, kể cả trong đảng Xã Hội và đảng Cộng Sản. Yêu nước Pháp đối với người Pháp là phải khôi phục các thuộc địa, giữ nguyên sự hùng mạnh của Đế chế Pháp. Tướng Leclerc đã kể rằng, Phó thủ tướng và là Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez gặp ông ta trước khi ông lên đường nhận nhiệm vụ Ở Đông dương, đã vỗ vai ông và nói rằng: "Cognez! Cognez- fort!" (Hãy đánh đi, đánh mạnh vào!). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận công thức "nước Việt Nam tự do trong khối Liên hiệp Pháp", mà chính quyền Pháp vẫn không chịu đồng ý! Cứ theo kể lại thì tình hình không ổn định của các chính phủ Pháp kế tiếp nhau, việc giao thông liên lạc cách xa nhau 12. 000 km làm cho việc nắm tình hình và chỉ đạo gặp rất nhiều trắc trở và quá chậm chạp, tinh thần cố chấp cực đoan của đô đốc D'Argenlieu... đều là những nguyên nhân làm cho chiến tranh bùng nổ tai hại cho cả hai bên...
Nếu như chính phủ Pháp biết sử xự với các thuộc địa của mình như chính giới Anh đối với Ấn Độ thì đâu đến nỗi bi đát như vậy! Nước Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có thể yên ổn và phát triển, tránh bao nhiêu hy sinh và tàn phá, và có thể tránh cả cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ về sau!
Một câu hỏi tôi thường được các nhà báo Mỹ và phương Tây, các học giả ở Đông Nam và gần đây là một số nhà quân sự Pháp hỏi: Vì sao Mỹ lại thua trận ở Việt Nam? Kèm theo nhiều câu hỏi khác về Tết Mậu Thân 1968, về vũ khí hiện đại của Mỹ, về đường Hồ Chí Minh, về B- 52 đánh phá trên miền Bắc, về chiến tranh ở Căm pu chia. Đó là những vấn đề rất rộng lớn. Tôi chỉ có thể trình bày ở dưới đây rất gọn một số suy nghĩ riêng của mình.
Tôi đã viết kịch bản cho một bộ phim tư liệu: "Một trăm câu trả lời cho một câu hỏi, " về chuyện Việt Nam vì sao dành được toàn thắng. Trước khi sang Pháp tôi đã sửa lại kịch bản này để chuẩn bị cho một bợ phim hợp tác với các nhà điện ảnh _c (Australia), dự kiến có tên là: "Cuộc đối thoại giữa hai Tổng hành dinh do xưởng phim của Hội Nhà văn thực hiện. Theo tôi có biết bao nhiêu yếu tố tạo nên chiến thắng: Con người, lịch sử, phong tục, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Rồi thời tiết, địa lý, môi trường, khí hậu... cũng có tác dụng. Rồi các mối quan hệ chằng chịt trên thế giới, các mối liên minh thay đổi, các mối liên kết khu vực. Rồi đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao. Rồi quan hệ giữa Sài Gòn và Washington- Quan hệ giữa Washington với đồng minh- Quan hệ Việt nam với Liên xô, Trung quốc... về quân đội: Người lính, người sĩ quan của cả hai bên... Chiến thuật và chiến dịch... Chiến dịch và chiến lược... Tiền tuyến và hậu phương của hai bên. Vai trò cũa báo chí, truyền thanh và truyền hình. Chế độ dân chủ và chế độ chính trị thời chiến... Vấn đề thời cơ, tạo thời cơ và tận dụng thời cơ...
Trong tất cả các vấn đề phong phú và lý thú ấy, trong cuốn sách này, tôi chỉ nêu qua một vài vấn đề đơn giản nhất.
Trước hết Đông nam á và Đông Dương không được xác định là một khu vực trọng điểm trong chiến lựơc của Mỹ, không phải là nơi gắn bó với quyền lợi sống còn của Mỹ. Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh này từng bước một, theo đà, theo một quán tính. Khởi đầu là ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh của Pháp định giành lại ba nước Đông dương, rồi tiếp theo một bước, chi tiền khá lớn cho Pháp trong cuộc chiến tranh ấy.
Đến sau Hiệp định Giơ ne vơ, Mỹ lao sâu thêm giúp cho chế độ Sài Gòn, cố giành thắng lợi trước hết ở cuộc chiến tranh một phía với các chiến dịch tố cộng, diệt cộng... Cuộc chiến tranh này không đạt, lại lao thêm vào cuộc chiến tranh đặc biệt với cố vấn Mỹ, vũ khí Mỹ, chuyên gia kỹ thuật Mỹ ngày càng nhiều. Rồi chiến tranh đặc biệt không thành, lại bị động sang chiến tranh cực bộ. Ngay trong chiến tranh cực bộ Mỹ cũng muốn dành chiến thắng với thời gian ngắn nhất và với số quân Mỹ thấp nhất. Khởi đầu là 8 tháng, rồi 18 tháng, với 16 vạn quân, rồi 28 vạn quân. Sau cùng lên đến 50 vạn quân, nếu kể cả quân Thái Lan, quân ở hạm đội 7 và trên hậu cứ Okinawa thì tới 70 vạn quân! Chiến tranh cục bộ lại kết hợp với chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc, và cuộc chiến tranh này cũng tiến hành theo từng nấc thang một. Khởi đầu là đánh phá vùng giới tuyến, vùng ven biển, vùng trong vĩ tuyến 19, rồi trên vĩ tuyến 20, rồi đánh vào các khu công nghiệp và sau cùng là vào thủ đô Hà Nội, với các loại máy bay chiến thuật, sau đó là máy bay chiến lược B 52...
Trong chỉ đạo chiến tranh, Tổng Hành dinh Mỹ luôn luôn mong chờ và hy vọng rặng, mỗi nấc thang là nấc thang cuối cùng, và họ luôn luôn bị hẫng. Leo thêm một nấc thang lại hy vọng đây là nấc thang chót, đối phương sẽ chịu thua và chấp nhận điều kiện của Mỹ! Thế nhưng đối phương luôn có ý chí vững chắc, có tinh thần dân tộc kiên định và lại được rèn luyện theo từng nấc thang chiến tranh, nên thích ứng nhanh chóng với mỗi bước leo thang mới của Mỹ và còn sẵn sàng chuẩn bị cho nấc thang kế tiếp.
Đến khi Mỹ leo thang trên bộ đến mức cao nhất rồi mà không thắng, hậu phương của Mỹ lại không đủ nghị lực và không tạo nên khối thống nhất quốc gia để lao tiếp thí Mỹ ắt phải nghĩ đến rút chân ra Chiến lược "Việt Nam hóa" ra đời, Quân Mỹ lần lượt rút dần về nước. Đã quen có nữa triệu quân Mỹ ở sát cạnh lại quen ỷ lại vào quân đội Mỹ với hỏa lực cua pháo binh và không quân, khi quân Mỹ rút, quân đội Sài Gòn càng thiếu tự tin, luôn cảm thấy hở sườn và đơn độc...
Có một điều quan trọng là trong cuộc chiến tranh Việt Nam do tính chất và đặc điểm của nó, thế lực hai bên không đều, quan điểm thắng và thua cũng không giống nhau: Mỹ không thắng được, hơn nữa không thắng nhanh được, là thua. Đối phương kéo dài được cuộc chiến, không chịu thua, là thắng.
Hơn nữa có một yếu tố quan trọng là đối phương của Mỹ đã trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài chống Pháp trong 9 năm (1945- 1954). Đây là một nét rất hệ trọng. Hồi 30. 4. 1975, sau Toàn thắng, khi các vị tư lệnh họp nhau lại ở Dinh Độc lập để mừng chiến công lịch sử, tất cả tư lệnh của năm cánh quân (4 quân đoàn và một binh đoàn tăng cường), cũng như tư lệnh không quân, tư lệnh hải quân và chỉ huy các binh chủng: Thiết giáp, pháo binh, cao xạ, thông tin, hóa học, đặc công... đều là các sĩ quan chiến dịch Điện Biên Phủ trước đó 21 năm. Có người hồi đó là tư lệnh sư đoàn, nay là tư lệnh quân đoàn, hồi đó là trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, nay là tư lệnh sư đoàn, tư lệnh lữ đoàn... Rõ ràng cuộc chiến tranh chống Pháp là một cuộc thử thách lớn, một trường học lớn, một cuộc diễn tập lớn để chuẩn bị tất cả các mặt: Tổ chức và huấn luyện bộ đội, đào tạo cán bộ, hình thành một nghệ thuật quân sự và khoa học quân sự mới. Không có cuộc kháng chiến chống Pháp, thì không thể hình dung ra cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ ra sao.
Về quân đội Mỹ, tôi có mấy nhận xét cụ thể về những mặt yếu sau đây: Việc đề ra kỳ hạn sang Việt Nam một năm hoạc hai năm là cần thiết, nhưng đó cũng là một nhược điểm lớn. Vì họ sang một chiến trường xa lạ, vừa thích ứng được ít lâu thì đã nghĩ đến chuyện giữ an toàn để trở về với gia đình. Họ chỉ được thực sự yên tâm và thành thạo chiến đấu trong nữa năm (đối với người sang một năm) và chừng 15 tháng (cho những người sang hai năm). Về không quân, quy định mức phi vụ là 100 cũng vậy. Những phi vụ đầu còn bỡ ngỡ- khi quen rồi và trở nên thành thạo thì tâm lý đã sớm nghĩ đến giữ an toàn để còn trở về. Tôi đã gặp khá nhiều người lái Mỹ bị bắt, hỏi chuyện tới gần hai trăm người. Có người bị hạ Ở chuyến bay đầu tiên (một nữa phi vụ), rất nhiều người ở chuyến bay thứ 30 đến 60, cũng có người chuyến bay thứ 97, nghĩa là ba phi vụ nữa là thóat nạn!
Tổ chức và trang bị cho quân đội viễn chinh Mỹ quá hình thức và nặng nề, hoàn toàn không thích hợp với chiến trường, địa hình, thời tiết và nhất là tính chất của cuộc chiến tranh chống nổi dậy, chống lại một phong trào rộng lớn bắt rễ trong nhân dân. Các đơn vị Mỹ vẫn giữ biên chế, trang bị và họat động như đã được học và rèn luyện trong một cuộc chiến tranh chính quy, thành hàng ngũ!
Về quân đội Sài Gòn cũng vậy. Do ảnh hưởng của Mỹ nên tử tộ chức đến quân phục, trang bị đều nặng nề, cứng nhắc, thiếu độ linh họat và cơ động. Nhiều viên tướng và sĩ quan cao cấp Sài Gòn tôi gặp năm 1975 đã trao đổi và cho rằng cái nặng nề, cồng kềnh, hình thức của quân đội Pháp và quân đội Mỹ bị áp đặt cho quân đội Sài Gòn (từ điều lệnh huyến luyện cho đến đôi giầy, quân phục, cho đến chiếc ba lô... ) đều gây khó khăn cho sự cơ động rất cần cho một cuộc chiến tranh rừng núi và đồng bằng trong khí hậu nhiệt đới.
Về mặt tâm lý, tôi tiếp xúc với hàng trăm người lái máy bay Mỹ cũng như vài chục sĩ quan và quân nhân Mỹ thuộc lính cổ da (thủy quân lục chiến) và bộ binh Mỹ. Họ là những quân nhân được đào tạo rất chính quy, có hệ thống, vững vàng về hiểu biết kỹ thuật. Trình độ văn hóa khá cao. Có nhiều người lại có bằng cử nhân, tiến sĩ không những về kỹ thuật, mà còn về triết học, sử học, về kinh doanh, về quan hệ quốc tế và luật pháp. Thế nhưng quân đội Mỹ đã chuẩn bị cho họ quá sơ sài những hiểu biết về Việt Nam, về Đông dương. Tôi thấy rõ việc chuẩn bị tâm lý cho quân nhân Mỹ là không tốt, có nhiều lỗ hổng về nhận thức, quá xa thực tế, thậm chí trái ngược với thực tế. Một sự sai lầm nổi bật nữa là qua các tài liệu và lời khai, quân nhân Mỹ ỷ lại rất nặng vào vũ khí, hỏa lực, coi nhẹ yếu tố con người.
Về chính quyền Sài Gòn, việc chính quyền Kennedy thay ngựa giữa dòng, triệt hạ anh em ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, có thể gọi là một sai lầm rõ rệt. Phải chăng đây là một hành động cần thiết để chuyên từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ, nhằm thực hiện việc đưa ồ ạt quân Mỹ vào miền Nam, vì anh em Diệm, Nhu tỏ ý chống lại việc đưa quân Mỹ vao tham chiến? Vấn đề khó khăn nhất của Mỹ là tìm ra một chính đảng chính trị và một lãnh đạo tiêu biểu ở miền Nam Việt Nam, có khả năng và uy tín. Tuy được tổng thống Mỹ Einsenhower tâng bốc là "Churchill của châu á, " ông Diệm vẫn có nhiều hạn chế: Trí thức miền Nam vẫn coi ông thuộc tầng lớp quan lại phong kiến đã lỗi thời. Ông lại là người công giáo trong khi người công giáo chỉ chiếm 10 phần trăm số dân phần lớn theo đạo Phật. Kiểu gia đình trị của ông quá lộ liễu hai vợ chồng ông Nhu lại lộng hành quá đáng... Cái gay go của Mỹ là những người lện thay Diệm, Nhu lại tỏ ra yếu kém hơn, chia rẽ hơn, bất lực hơn. Mỹ tưởng vất bỏ được cái xấu để thay cái tốt, cái khá hơn, thì chỉ nhận được cái tồi tệ hơn! Sự rối loạn chính trị với Nguyễn Khánh, rồi với Nguyễn Văn Thiệu- Nguyễn Cao Kỳ gắn liền với sự rối loạn về kinh tế, với tham nhũng lan tràn, đạo đức băng hoại, đàn áp Phật giáo, miệt thị trí thức, thanh niên, sinh viên. Nạn mãi dâm, xì ke, ma túy quanh các căn cứ Mỹ, những vụ đầu cơ ở các P. X. (trung tâm thương mại cho các quạn nhân Mỹ) tạo nên khủng hoảng xã hội trầm trọng. Quân đội Sài Gòn trong bối cảnh ấy tất nhiên sa sút nhanh về mọi mặt. Đó là cái giá cực nặng phải trả khi có thường xuyên nữa triệu lính Mỹ- lính nhà giầu, lính hưởng thụ, lính đời sống cao, lính ra trận mà không hiểu rõ động cơ chiến đấu- trên một giải đất hẹp, trong một xã hội tiêu thụ. Những nhà "du lịch cầm súng" vui vẻ phóng khóang! Họ đâu có biết chính họ đã phá vỡ những giá trị truyền thống cổ truyền, làm chấn động hậu phương của cuộc chiến tranh vốn đã mong manh.
Một điều bất ngờ là: Quân Mỹ vào để cưứ vãn tình hình, thế nhưng chính sự có mặt của 50 vạn quân Mỹ (hơn 2 triệu lượt quân nhân Mỹ thay phiên nhau) ở miền Nam Việt Nam đã làm rối loạn và sa sút thêm cái hậu phương trực tiếp của cuộc chiến tranh. Khi quân Mỹ phải rút dần cho đến hết theo quy định của Hiệp định Paris, họ đã phải tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh với một hậu phương đã bị tàn phá đến tận gốc chính do sự có mặt của quân đội Mỹ.
Còn hậu phương nước Mỹ bị chấn động tai hại bởi chính những giá trị cố hữư của nó về dân chủ, công bằng và lòng nhân đạo. Cuộc chiến tranh được truyến đi trên hệ thống truyền hình nhiều nhất, tức thời nhất đã mang lại những cảnh tượng khủng khiếp ở Mỹ lai, cảnh đài tá Loan bắn một người yêu nước trên đường phố một cách lạnh lùng và khiếp nhược, những F. F. Z. (Free Fire Zone- vùng bắn phá tự do), cảnh lính Mỹ kinh hòang ở Khê Sanh... đều vào tận phòng ngủ của người dân Mỹ, tác động mạnh đến suy nghĩ, tình cảm của họ.
Còn hậu phương miền Bắc Việt Nam? Phải công nhận rằng, tuy bị đánh phá liên tiếp, bị tàn phá hết sức nặng nề, với hơn 5 triệu tấn bom đạn, nhưng đã đứng vững một cách kỳ lạ đương đầu với pháo đài bay và Thần sám, Con Ma Mỹ. Nhà máy sụp đổ, cầu gãy, đường bị băm nát, trường học, bệnh viện bị san bằng chỉ làm bốc cao thêm căm thù và khinh bỉ những kẻ tội phạm bất nhân, truyền cho chiến sĩ những nghị lực mới. Đó là lòng yêu nước truyền thống được khơi gợi mạnh mẽ, những phẩm chất vốn có của dân tộc được phát huy rất cao. (Bộ máy lãnh đạo và nắm chính quyền lúc ấy hầu hết là trong sáng về đạo đức, tận tụy với nhân dân, lòng dân do đó rất yên. Đất nước hầu như không có trộm cắp và hối lộ). Tình thương yêu đùm bọc nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa người đi sơ tán và nơi tiếp nhận thật xúc động. Dương Thu Hương đã nói đúng: Đảng đã khơi được nguồn tài sản vô giá, như những khối vàng ròng, đó là lòng yêu nước cố hưữ của một dân tộc vốn chuộng đạo lý làm người và có truyền thống chống ngọai xâm từ xa xưa. Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa Mác Lê Nin, tuy được nói rất nhiều, nhưng không can dự gì trực tiếp đến quảng đại quần chúng nhân dân, không thể vơ vào một cách sống sượng, kiểu nói lấy được. Tôi đã nghiệm ra rằng, khi nào lên gân theo chủ trương đấu tranh giai cấp, theo nguyên tắc dân chủ tập trung để thực hiện những chủ trương tả khuynh như đấu tố và xử tử tran lan trong cải cách ruộng đất và đàn áp, bóp nghẹt trào lưu dân chủ trong các vụ chống "Nhân văn giai phẩm, " chống "xét lại... " thì lại là vác đá ghè vào chân mình, gây nên xáo trộn của hậu phương trong chiến tranh, gây bất ổn trong lòng dân, làm giảm sức chiến đấu.
Cũng cần nói rõ thêm: Cuộc chiến tranh phá họai của Mỹ nhằm gây tổn thất thật lớn để buộc đối phương phải quỳ gối. Nhưng đối phương lại quá nghèo, cơ sở vật chất mới xây dựng chưa có gì nhiều. Một anh nhà nghèo khi lâm trận sẽ chỉ nghĩ đến giữ được cuộc sống của mình, vài hành lý sơ sài có mất đi cũng không sao, còn người là còn của, còn làm ra của, cho nên dể sống mái với kẻ thù hơn mà không mảy may tính tóan thua thiệt về vật chất. Điều cơ bản hơn chính là truyền thống chống ngọai xâm kiêu hùng từ xa xưa được truyền lại, là truyền thống bất khuất của dân tộc được phát huy mạnh mẽ trong thời đại mới vì độc lập tự do của đất nước.
Về tình hình quân sự Ở Việt Nam, tôi rất băn khoăn về số lượng của quân đội, của đủ thứ lực lượng vũ trang tại ngũ. Sau Toàn thắng 1975 đã có ý định giải ngũ một số lớn quân đội- Nhiều đơn vị quân đội được phái đi làm nhiệm vụ kinh tế ở những vùng cần phát triển, nhất là Tây nguyên. Nhưng khi mâu thuẫn với người thuộc dân tộc Hoa (bà con Hoa kiều) phát sinh, sau đó việc đưa quân vào Căm pu chia làm xu hướng tăng số quân đội và an ninh được thực hiện rất mạnh. Theo con số của Viện nghiên cứu quốc tế về chiến lược ở IISS thì đến năm 1985 quân đội Việt Nam lên đến 1 triệu 600. 000 và lực lượng an ninh lên đến 300. 000!
Năm 1985, tôi theo Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam sang thăm Ấn Độ và Indonexia. Trong cuộc hội đàm, bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ cho biết, Ấn Độ có 700 triệu dân, có hai cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới với Pakistan và Trung Quốc nhưng số quân chỉ chừng 900. 000 người, không bao giờ lên đến 1 triệu cả. Có nghĩa là tỷ lệ tổng số quân trên tổng số dân là 1/700 (0, 13%). Ông nói rằng nếu đưa số quân lên đến trên 1 triệu thì nền kinh tế và ngân sách sẽ không chịu nỗi. Tôi ngồi nghe mà giật mình! Vì lúc ấy số lượng quân đội nhân dân Việt Nam quả thật còn hơn một chút con số của Viện IISS trên đây, tỷ lệ quân đội và dân số lên đến 1, 6/60 tức là 2, 7%, gấp 20 lần tỷ lệ của Ấn Độ. Mấy tháng sau chúng tôi đến Indonexia, ông Muađani (Murdani) tổng tư lệnh giới thiệu rằng Indonexia có 180 triệu dân (gấp 3 lần Việt Nam) nhưng quân đội chỉ trên 700. 000 (kém hơn 2 lần Việt Nam), tỷ lệ nói trên chỉ là 0, 4%, mặc dầu địa thế đất nước này rất phức tạp, có 3000 hòn đảo và vấn đề an ninh khá là nghiêm trọng. Kinh tế họ phát triển mà tỷ lệ Ở nước họ thấp hơn ở Việt Nam đến 12 lần- Trung Quốc có hơn 1 tỷ dân, số quân tại ngũ chính quy chỉ dưới 3 triệu, nghĩa là tỷ lệ chỉ 0, 3%, thấp hơn Việt Nam tới gần 10 lần!
Theo thống kê của Viện chiến lược IISS, tỷ lệ chung của thế giới là dưới 1% cho quân đội và dưới 0, 1% cho an ninh. Theo tỷ lệ ấy đối với Việt Nam, con số 650. 000 cho quân đội và 65. 000 cho an ninh là vừa phải. Nếu muốn phát triển kinh tế với tốc độ kha khá phải hạ thấp hơn nữa. Số quân linh quả tài một cách kinh hồn là biểu hiện của bệnh quan liêu, duy ý chí, bất chấp quy luật, quyết định các vấn đề hệ trọng theo cảm tính, thiếu thận trọng và thiếu khoa học. Vấn đề hệ trọng này chỉ do Bộ Chính trị tự quyết định, chính phủ và quốc hội, cũng như Hội đồng nhà nước đều không được bàn đến!
Khi vấn đề người Hoa bỏ đi về Trung Quốc hoăc ra nước ngòai, cơ quan an ninh tổng kết lại và giật mình thấy không nam được dân, cho rằng lực lượng an ninh mỏng manh quá, liền quyết định tăng số an ninh ở cơ sở lên. Cơ quan an ninh phường vốn chỉ có 6 đến 7 người được tăng lên 30 đến 40 người, hoặc hơn nữa, và hiện nay mỗi phường có một đại úy hoặc một thiếu tá an ninh phụ trách! Vì số quân đội và số an ninh quá đông, ngân sách quá lớn, đời sống khó khăn, nên tư tưởng anh em diễn biến rất phức tạp, kỷ luật sa sút rất nhanh làm cho quốc phòng và an ninh không như trước. Tôi đến thăm sư đoàn bộ binh 304, sư đoàn cũ của tôi, chỉ huy tiểu đoàn cho chiến sĩ về thăm nhà dài dài, với điều kiện khi lên nộp mấy yến gạo, vài con gà, một số tiền, cho chỉ huy và cho đơn vị cải thiện! Còn chiến sĩ an ninh trên đường phố thì đói nghèo quá đành làm liều, có khi huýt còi bắt xe gắn máy dừng lại hỏi giấy tờ chỉ để kiếm mấy điếu thuốc thơm hút hoặc vài ngàn đồng lót tay! Không thể trách anh em được, họ không thể sống một cách bình thường là do cơ chế quan liêu, bảo thù, vộ trách nhiệm, tình trạng bất công xã hội lan tràn khắp nơi.
Việc tăng quá lớn quân đội sau năm 1975 là một việc làm duy ý chí, thiếu cân nhắc, rơi đúng vào âm mưu thù địch cố tình làm cho Việt Nam mất sức, kiệt quệ do phải chịu một gánh nặng quân sự, một gánh nặng về ngân sách quốc phòng quá tải kéo dài- Nó càng thêm mỉa mai khi những khái niệm "quốc phòng toàn dân, an ninh toàn dân" được lắp đi lắp lại đến nhàm chán mà lại không được áp dụng trong thực tế của cuộc sống.
Về mặt tình báo chiến lược và tình báo quân sự, có một điều có vẻ trái ngược là Mỹ rất dồi dào về phương tiện, nhân viên và ngân sách, thế mà sự hiểu biết về ý đồ chiến lược, kế hoạch quân sự của đối phương lại rất sơ lược. Phía Mỹ đã không phán đoán được ý đồ chiến lược của đối phương mùa xuân 1975. Trong khi đó ở Hà Nội, đại bản doanh quân sự lại biết khá rõ, khá kịp thời và đầy đủ mọi ý đồ quân sự của Mỹ. Tôi quen hai nhân vật của tình báo quân sự Việt Nam: Một là Vũ Ngọc Nhạ, còn gọi là Hai Nhạ, là "ngài cố vấn" của Ngô Đình Diệm và cả Nguyễn Văn Thiệu. Hoạt động của ông bắt đầu từ năm 1954 cho đến cuối năm 1968 mới đổ bể. Ông nằm ngay giữa cơ quan quyền lực cao nhất ở Sài Gòn là Dinh Độc lập để quan sát, thu thập tin tức, tài liệu trong suốt gần một chục năm để báo cáo ra Hà Nội những tin tức chuẩn xác, quý báu và kịp thời nhất. Cho đến khi ra tòa, bị dồn ép tra hỏi, ông vẫn làm cho mọi người nghi vấn và tin rằng ông không phải là cán bộ cộng sản, chỉ là một người công giáo ngoan đạo theo đường lối mới của Vatican, có cảm tình với lực lượng thứ ba ở Việt Nam hồi ấy. Cho đến khi ông "giả" thú nhận thật sự là cộng sản thì mọi người lại không tin, cho ông là "xạo!" Và ở trong nhà tù người cộng sản ấy đã nhận tấm huân chương cao nhất của Tòa Thánh Vatican "Trái tim đỏ thắm (the purple heart). Ông Nhạ từng kể cho tôi nghe những câu chuyện lý thú chưa mấy ai biết ở trong dinh Độc Lập hồi ấy. Có lần ông Ngô Đình Diệm được phía Mỹ gợi ý ký một văn bản nhượng lại Cam Ranh - một cân cứ hải quân lý tưởng ở vùng Đông Nam và Tây Thái Bình Dương - trong một thời hạn là 99 năm để đổi lấy một khoản viện trợ rất lớn- Ông Diệm bàn chuyện này với cố vấn Nhạ - Ông Nhạ Ôn tồn nói: "Thưa cụ, tôi xin thưa, hồi Pháp mới qua, vị đại thần nhà Nguyễn Phan Thanh Giản trót ký nhượng ba tỉnh phía Tây Nam Bộ cho Pháp, về sau bị nhân dân than oán quá chừng, lương tâm dầy vò quá xá, phải uống thuốc độc tự vẫn - Thưa cụ, cụ là người ngoan đạo, mà đạo của Chúa lại ngăn cấm hủy hoại sinh mệnh bản thân, nên việc này tôi thấy không hợp quyền lợi quốc gia mà cũng không hợp việc đạo... " Về sau khi tổng thống Kennedy nài ép ông Diệm phải để Mỹ đưa quân vào miền Nam, một buổi tối năm 1963, ông Diệm trao đổi ý kiến với ông cố vấn và thổ lộ: "Ông cố vấn, chuyện này hệ trọng lắm. Ta mà cho lính họ vô đây, mà họ là người nước ngoài, vô thời họ bắn, họ ném bom, họ hành quân trên đất nước mình, họ còn ở lại nữa, thì sau này nếu có bàn chuyện thống nhất thời ta nói chuyện với Cụ Hồ sao được nữa!" Người thứ hai là ông Phạm Xuân Ẩn, bí danh là Hai Trung, một nhà báo được đào tạo nghề báo chí tại một trường Đại học Mỹ, làm phóng viên cho các báo Time, Life suốt mấy chục năm, "cặp bồ" với Trần Văn Đôn, Trần Kim Tuyến, trùm CIA Mỹ, các phóng viên Mỹ, Anh, Pháp, Nhật bản... Ở Sài Gòn, đi ra trận trên máy bay lên thẳng Mỹ, chuyên nói chuyện đàn bà và tiếu lâm với các ông nghị Ở Radio - Catinat (phòng trá trước nhà Quốc hội Sài Gòn trên đường Catinat) để lấy tin tức... Tất cả tài liệu quý, nguyên bản hay chụp lại, đều được đưa ra Củ chi để chuyển ra Hà Nội. Tổ tình báo của ông chỉ có hai người (ông và bà Ba làm giao liên để chuyển tài liệu ra căn cứ) và cả hai đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong suốt hai mươi năm mà không một lần đổ bể, đều được phong Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân vào cuối năm 1976.
Hai ông Nhạ và Ẩn đều là bạn thân của tôi - Hoạt động của ông Nhạ được nhà văn Hữu Mai viết thành ba tập tiểu thuyết mang tên "Ông cố vấn, " được tuần báo Nhân Dân chủ nhật trích đăng nhiều kỳ. Tôi có viết thêm một số nét về ông Nhạ trên tuần báo ấy. Tôi cũng viết về hoạt động của ông Ẩn trong bài báo "Nhà báo - Tình báo anh hùng" cũng đăng trên Nhân dân chủ nhật tháng 6. 1990. Năm 1976, tại đại hội đảng toàn quân, tôi dẫn ông Phạm Xuân Ẩn đến gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi ông ra Hà Nội theo học trường đảng Nguyễn ái Quốc, ông thường ghé lại nhà tôi chơi. Nét đặc biệt của hai nhà tình báo chiến lược này là tận tụy, tài trí, có hiệu quả rất cao, nhưng lại không lên gân lập trường một cách cứng nhắc. Cả hai đều hiện có tinh thần hòa hợp sâu sắc - Ông Nhạ kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện và giữ một thái độ khách quan đối với ông Ngô Đình Diệm, xác nhận ý thức chống Mỹ đưa quân vào Việt Nam của ông ta, cuộc sống bình dị của ông ta nữa và không dấu niềm cảm tình, sự đồng cảm với nhiều nhân vật công giáo ở Việt Nam cũng như của Vatican. Ông Ẩn còn giữ thiện cảm với nhiều nhà báo Mỹ có công tâm. Ông quý trọng nền văn hóa Mỹ - Ông hiện ở tại thành phố Hồ Chí Minh, nuôi chó béc- giê để giải trí và cùng để kiếm sống (khi họat động ông mua con chó béc giê giá tới 7 ngàn đô- la để tạo bình phong) và còn muốn gửi con trai sang Mỹ học để thành tại.
Sau Hiệp định Paris, đoàn đại biểu quân sự chính phủ miền Bắc và đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có mặt tại Sài Gòn, trong căn cứ quân sự Tân Sơn Nhất. Hồi ấy tôi vừa là ủy viên chính thức của đoàn miền Bắc, kiêm người phát ngôn của đoàn. Trong 60 ngày trong trại Da vít tôi dự tất cả các phiên họp chính thức bàn việc thực hiện Hiệp định, còn đi Biên Hòa, Lộc Ninh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Nha Trang, Đà Nẵng... Đi bằng máy bay lên thẳng và máy bay chỉ huy do người Việt và người Mỹ lái. Tôi cũng đi xuống phố xá Sài Gòn 12 lần để gặp gỡ các đoàn ấn Độ, Canada, Ba Lan, Hưng ga ri trong ủy ban quốc tế và tổ chức 5 cuộc họp báo trong trụ sở. Đây là những thời cơ lý tưởng để tìm hiểu tình hình mọi mặt của đối phương một cách đầy đủ, bằng trực giác, nghĩa là nhìn thấy, nghe thấy bằng chính tai mắt mình... Tôi gặp và hỏi chuyện đủ loại: Tướng, đại tá, sĩ quan và hạ sĩ quan các cấp, thuộc các binh chủng bộ binh, không quân, ở Bộ tổng tham mưu, ở cục chiến tranh chính trị, hỏi chuyện cả bà con nông dân, viên chức gặp được... Chỗ yếu và chỗ mạnh, khả năng chiến đấu, những khó khăn trong quan hệ Mỹ- Sài Gòn, những tính toán của phía Mỹ, những nỗi lo của quân đội Sài Gòn... đều được thu lượm, nghiên cứu, nhận định, bổ sung cho những hiểu biết trước kia vốn chỉ là gián tiếp về đối phương.
Sau 60 ngày làm việc, žy ban quân sự Liên hợp 4 bên giải thể, nhường chỗ cho ủy ban liên hợp quân sự hai bên (Chính phủ lâm thời và chính quyền Sài Gòn) vẫn ở trong trại Davít (Tân Sơn Nhất). Đoàn đại biểu của chính phủ lâm thời đóng ở đó cho đến tận ngày 30. 4. 1975. Đó là một vị trí quan sat tình hình rất lợi hại ngay trong thành phố để hiểu rõ thái độ chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và văn hóa ở thủ đô miền Nam Việt Nam. Tối 30. 4. 1975 tôi đã từ Dinh Độc lập vào tới đây và nhờ bộ phận thông tin quân sự vốn đã quen từ hồi 1973 đánh bằng tín hiệu morse ra Hà Nội bài báo của tôi về sự kiện lịch sử ngày 30. 4 ấy. Đó là bài báo duy nhất lọt ra khỏi Sài Gòn vì hệ thống truyền tin của Bưu điện đã bị ngừng. Có một chuyện buồn cười. Trong bài báo của tôi có nói về cái thực đơn của tổng thống Việt Nam cộng hòa chiều 30. 4 ấy. Tôi thấy nó trong ngăn kéo của bàn giấy tổng thống. Thực đơn có nhiều món, trong đó đặc sắc nhất là: Gân bò hầm sâm (thực tế là món "ngẩu pìn" trứ danh của người Trung quốc dành cho thượng khách), thế nhưng do đánh bằng tín hiệu nên chữ "gân" bị nhận lầm là chữ "gan", một món khác là món cá thu kho mía kiểu miền Nam thì bị đánh nhằm là cá thu kho giá, nhiều người hỏi tôi gan bò và giá thì có gì là đặc sắc!
Về cuộc chiến tranh ở Căm pu chia, tôi có nhiều suy nghĩ trong suốt hơn 10 năm nay. Tôi đã đến dọc các vùng biên giới với Căm pu chia ở các tỉnh Kiên Giang (Hà Tiên), An Giang (Châu Đốc), Long An và Tây Ninh. Khi Khơ me đỏ tấn công và gây ra những vụ thảm sát kinh người! Những nạn nhân dọc kinh Vĩnh Tế tôi được thấy tận mắt tháng 9. 1977 đều bị mổ bụng, đạp vỡ sọ, móc mắt và cắt dương vật, hay thọc gậy vào cửa mình! Suốt một tuần lễ cảnh tượng ấy làm tôi kinh hoàng, cảnh máu me và thịt người bấy nát làm tôi kinh sợ không dám nhìn, không dám ăn một miếng thịt bò! Tôi cũng dự cuộc họp của cán bộ cấp cao ở trong căn cứ Tân Sơn Nhất do Bộ Quốc phòng triệu tập để thảo luận về cách đánh trả Khơ me đỏ hồi tháng hai năm 1978. Lúc ấy cuộc chiến đấu rất khó khăn vì không được phép đánh vào nội địa Căm pu chia, về sau chỉ được đánh vào sâu tối đa là 10 km khi truy kích và phải quay trở về ngay. Lính Khơ me đỏ lại chịu đựng giỏi thời tiết mưa nắng, quen lội qua đầm lầy, thức ăn chỉ một gói cơm cứng gói trong lá thốt nốt, đi chân không lội bùn, đánh theo kiểu du kích lúc ẩn lúc hiện. Tổn thất của các đơn vị Việt Nam khá cao, bình quân số chết và bị thương hàng tháng cao hơn cả thời chiến đấu chống Mỹ và Sài Gòn! Cuối cùng tháng 12. 1978 đã có quyết định tổng tấn công giải phóng Căm pu chia bằng một số quân đoàn từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Quyết định này được thực hiện rất bí mật để gây yếu tố bất ngờ. Tôi đi cùng với anh em phóng viên của báo và đài phát thanh quân đội. Trước đó tôi đã tìm hiểu tình hình ở Căm pu chia qua hỏi chuyện hàng trăm người ở các trại tỵ nạn dọc biên giới, nhất là ở trại Bến sắn, Tây Ninh. Khơ me đỏ đã kháng cự khá mạnh ở nhiều nơi như Xvai- riêng, Campốt, Crotié và Preyveng... nhưng khi quân Việt Nam đã vào sâu được chừng 20 km thì hầu như không còn kháng cự gì nữa. Khơ me đỏ bỏ chạy tán lọan về phía Tây.
Nhân dân Căm pu chia kiệt quệ, gầy mòn, ốm yếu và đón bộ đội Việt Nam trong mừng rỡ khôn xiết- Tất cả các gia đình đều ly tán, nhân dân bị cưỡng bách đến nơi xa lạ (dân phía Đông chuyển sang phía Tây, dân phía Nam đầy lên phía Bắc... ). Các thành phố Svai- riêng, Tà Keo chúng tôi đi qua cũng như thủ đô Pnom- Penh hoàn toàn hoang vắng, cỏ mọc lút đầu. Nhà không số, đường không tên, không tiền nong, không chợ búa, không hàng hóa cho đến con người cũng không giấy tờ, chứng minh thư nào cả- Không thể tưởng nổi, một đất nước không có trường học, không có bệnh viện! Sức dân kiệt đến nỗi họ không nói, không cười nổi nữa! Chúng tôi gặp bác sĩ ch- Kim- Seng hiện la bộ trưởng Y tế từng học ở Pháp về, vừa từ Tà Keo đi bộ lên, chân đất, da nhăn nheo, ông mới gần 60 tuổi mà trông như cụ già 80! Ông bị Khơ me đỏ giao cho chăn dắt một đàn bò, thỉnh thoảng làm thịt cho bộ đội chúng ăn.
Tôi được phân công giúp họ trong việc tổ chức hãng thông tấn SPK, việc tổ chức báo Quân đội Căm pu chia và về sau là giúp cho báo Căm pu chia hàng tuần. Tôi đã giúp cho anh Prach- xun, một nhà báo cũ, nay ở Ban đối ngọai của đảng Nhân dân cách mạng Căm pu chia, tổ chức việc đón tiếp hai đoàn nhà báo nước ngoài lên thăm Căm pu chia vào tháng 1 và tháng 2. 1979, hướng dẫn họ đi thăm Pnom- Penh từ sân bay Po- chen- tong vào thành phố trên một chiếc xe bus lớn có gắn loa do anh em bộ đội Việt Nam sửa chữa để sử dụng. Tôi ở lại Căm pu chia gần ba năm, thỉnh thoảng đi về thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tôi thu được khá nhiều tài liệu của bọn Khơ me đỏ, tìm hiểu về những chủ trương diệt chủng của chúng. Thật là tận cùng của sự tàn bạo, bất nhân, còn quá cả bọn phát xít nazi, nhưng lại đội lốt bằng những Mỹ từ: Một chủ nghĩa cộng sản trong sạch, trong sạch, cực kỳ trong sạch, một chế độ tuyệt vời, tuyệt vời, rất tuyệt vời, lãnh đạo bởi một đảng cộng sản sáng suốt, sáng suốt và rất sáng suốt, là mẫu mực cho tất cả các đảng cộng sản khác trên toàn thế giới (họ có cái kiểu chuyên môn lắp lại ba lần một tính từ để gây ấn tượng). Đây là cách mạng văn hóa vô sản kiểu Trung Quốc, được thực hiện triệt để hơn, rộng khắp hơn, không khoan nhượng và tự tin tuyệt đối, được thực hiện "trong nhà với nhau", khi đất nước đóng chặt cửa, nội bất xuất, ngọai bất nhập. Pnom- Penh lúc ấy chỉ có 6 sứ quán của Trung quốc, Bắc Triều tiên, Nam tư, Rumani, Việt Nam và Lào. Sứ quán Việt Nam đã rút về từ trước. Các sứ quán khác đều rút qua Thái Lan chiều 5. 1. 1979, trừ sứ quan Lào được chỉ thị từ Viên chăn là phải ở lại. Sáng 8. 1. 1979 tôi gặp ông đại sứ Lào đã cao tuổi Vi- na- chít, nói được tiếng Việt, cùng 4 viện chức trong sứ quán. Tất cả vừa trải qua cơn ác mộng, vì bất cứ lúc nào bọn Khơ me đỏ cũng có thể xông vào bắn chết khi chúng rút chạy trong hỏang loạn.
Tôi tan thành cuộc tiến công gỉa?i phóng Căm pu chia. Đó là quyền tự vệ của một đất nước bị Khơ me đỏ ngang ngượi, chúng đồng thời là một hành động SOS, cấp cứu cả một dân tộc bị đòa đầy và bị giết hại dần mòn. Trước đó ông nghị MacGovern đã kêu gợi có hành động quân sự để cứu dân tộc này đang bị thảm sát. Nhưng chẳng có ai động đậy cả. Khi bộ đội Việt Nam vào, giữ nghiêm kỷ luật, mang theo cả gạo, muối thịt rau, chịu cực đóng quân ngoài rừng, chia xẻ lương thực, áo quần, thuốc men cho nhân dân nước bạn, được tất cả nhân dân nước bạn biết ơn và quý trọng. Rõ ràng đó là một nghĩa cử cao đẹp.
Nghĩa cử ấy sẽ còn cao đẹp bền lâu nữa nếu không phạm hai sai lầm rất lớn sau đó- Một là để bộ đội Việt Nam quá lâu ở Căm pu chia- Đây là việc không được dự kiến. Sau khi giải phóng nhanh chóng Căm pu chia, bệnh kiêu ngạo chủ quan lại ngự trị, họ mừng tưởng bọn tàn quân Khơ me đỏ sẽ bị diệt hết trong thời gian ngắn. Người ta cho rằng ông hoàng Xihanuc không còn vị trí gì nữa! Thư ông ta gửi tới Hà Nội không ai thấy cần phải trả lời! Rồi Thái Lan và Trung quốc tận lực tiếp sức cho Khơ me đỏ. Thế là bộ đội Việt Nam bị sa lầy, bị kẹt. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bại ngoại, gây lại thù hằn cũ làm cho người Việt Nam gặp nhiều khó khăn thêm. Ngay từ năm 1982, nói chuyện với đại sư Việt- Nam Ngô Điền ở Pnom penh, tôi đã nhận xét tình thề này rất không ổn. Cần sớm rút chân ra khỏi bãi lầy một cách nhanh chóng, không nên do dự và luyến tiếc. Yêu cầu Liên hợp quốc và Cộng đồng quốc tế đảm nhận việc giải quyết Căm pu chia cùng với những phe phái trong nước Việt Nam sẽ cùng tham dự với các nước khác- Việt Nam không có đủ sức và đủ lý để giữ mãi quân đội trên một nước láng giềng, trong khi việc tiêu diệt hết Khơ me đỏ nằm xa ngoài tầm tay rồi. Suốt 10 năm liền, tại các cuộc bỏ phiếu hàng năm tại Liên hợp quốc, Việt Nam chỉ được sự ủng hộ của 20 đến 30 nước, bị thiểu số nặng nề, mà vẫn cứ thản nhiên như không!
Sai lầm thứ hai rất tai hai. là ý định xây dựng một khối liên minh Việt- Miên- Lào riêng rẽ, với những khẩu hiệu và nội dung: Mối liên minh đặc biệt giữa ba nước Đông dương, tình hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân, chính phủ và ba đảng anh em, mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em... Sao lại đặc biệt? Trong ba nước ấy, Việt Nam có 60 triệu dân, Căm pu chia chỉ có chưa đầy 6 triệu và Lào chỉ có chưa đầy 3 triệu (hồi năm 1985) thì làm sao mà bình đẳng được! Rõ ràng Việt Nam nghiễm nhiên là người anh cả, Lào là chú em út và Căm pu chia là chú em nhỏ xíu! Dù cho có ý muốn bình đẳng thì trên thực tế vẫn rất khó. Việt Nam bị hoài nghi, bị các nước ASEAN phê phán, bị thế giới chê cười. Trong đội ngoại Việt Nam có thói quen coi mình là một trung tâm, coi khu vực Đông dương là vùng ảnh hưởng của riêng mình, không cần cân nhắc đếm xỉa đến các nước khác, đến dư luận thế giới và tự chuốc lấy sự cô lập và khó khăn!
Có những biểu hiện chủ quan, kiêu ngạo trong quan hệ quốc tế rất kỳ quặc. Hồi mười năm trước, thường có những cuộc gặp gỡ hàng năm giữa Bộ quốc phòng ba nước Việt Nam, Căm pu chia và Lào. Vào năm 1982, cuộc họp ấy diễn ra ở Pnom- penh, trong điện Chằm Ka Mon (dịch là vườn dâu, bên bờ sông Mê Công). Đại diện Bộ quốc phòng Việt Nam là đại tướng chủ nhiệm tổng cục chính trị Chu Huy Mân, ủy viên Bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam. Vị đại tướng xuất thân cố nông này phát biểu sau cùng, không giấy tờ, không chuẩn bị gì hết, sau khi hai vị tướng Lào, và Căm pu chia đã đọc diễn văn tử tế- Ông Mân nói đại thể: Đến lượt tôi, chúng ta là anh em với tình nghĩa đặc biệt, trong nhà với nhau, tôi nói miệng thôi nhé. Đồng ý không nào! Rồi ông đằng hắng lên giọng:
Kính thưa... đồng chí... đại tướng... Bu Thoong... Bô... trưởng Bộ quốc phòng... nước cộng hòa... nhân dân... Mông cổ... (thấy các sĩ quan Việt Nam có mặt giật mình)... à quên, nước cộng hòa nhân dân Căm pu chia! Chuyện cứ như đùa, mà hoàn toàn có thật! Số là tuần trước, ở Hà Nội, tướng Mân đón và đọc diễn văn chào mừng đoàn đại biểu Bộ Quốc phòng Mông cổ - Sợ lầm lẫn trong khi ứng khẩu mà lại lầm lẫn thật sự! Ông lại ngà ngà say sau khi uống một chén rượu thốt nốt! Vẫn là từ thái độ anh cả!
Về chuyên gia Việt Nam ở Căm pu chia có những anh em am hiểu, tận tâm, và vô tư giúp đỡ bạn, tôn trọng bạn, được bạn rất quý mến. Nhưng đang tiếc số ấy còn ít, quá ít. Còn "chuyên gia, chuyên giả, chuyên già" thì lại quá đông... "Chuyên giả" vì nhiều người được cử đi là do chính sách chiếu cố. Sang Pnom penh, có thể mua bán được ít đồ Thái Lan không phải thuế, đem về Việt Nam có thể kiếm được ít lời, cho nên số cán bộ có thành tích lâu năm(!), nhiều tuổi, sắp về hưu, đều được chiếu cố cho đi chuyên gia Căm pu chia một vài năm. Bất kể sang có làm đúng cái nhiệm vụ rất khó khăn của một chuyên gia được hay không! Phần lớn sang là để "tìm hiểu thị trường", "nghiên cứu hàng hóa", tích lũy đôi chút để chuẩn bị về hưu cho cuộc sống được tạm ổn. Nhiều anh em trí thức Căm pu chia ngay thật cho tôi biết nhiều chuyên gia về kinh tế, về kế hoạch nhà nước, về ngân hàng, về tài chính... chẳng có trình độ, không thể coi là chuyên gia. Đã thế họ lại phát biểu ý kiến quá "mạnh dạn" đến mức ẩu tả, cứ y như là ở Việt Nam hay Liên xô, mà không am hiểu tình hình riêng của Căm pu chia. Một số chuyên gia về quốc phòng và an ninh xử lý công việc rất chủ quan, hách dịch, vượt qua đầu, không tính đến chủ quyền quốc gia, xử lý một cách độc đoán và gây nên những oan trái rất lớn, để lại những hậu quả khôn lường. Những điều ấy tôi chưa tiện nói ra ở đây, vì không muốn đụng đến những vết thương đang kín miệng.
Về quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, tôi không thể nói gì đến những vấn đề thuộc linh vực bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Vì đó là nguyên tắc. Tôi không thể làm gì có hại cho đất nước dù cho những người lãnh đạo đã khai trừ tôi ra khỏi đảng, và cất mọi chức vụ của tôi. Họ đã nhân danh nhân dân một cách giả dối để phụ tôi, nhưng tôi không bao giờ phụ đồng bào và quân đội. Tôi còn tấm lòng, lương tâm và trách nhiệm với nhân dân- Quân đội hiện nay sống rất cực khổ- Việc giảm nữa triệu quân đã được thực hiện hai năm nay, nhưng theo tôi số quân vẫn còn quá đông, ngân sách quân sự còn quá lớn, rất có hại cho nhân dân, nhà nước và chính quân đội. Có người ngụy biện rằng, giảm quân sẽ làm tăng số thất nghiệp vốn đã quá nhiều! Quốc hội cần không chế con số: Một phần trăm cho quân đội và một phần nghìn cho an ninh tính trên tổng dân số theo ý lệ trung bình của thế giới. Hãy xem thống kê của Thái Lan: 54 triệu dân, số quân chỉ có 270. 000 tại ngũ, Malaixia 16 triệu dân, số quân chỉ có 120. 000 (thống kê IISS). Tinh thần của bộ đội ta không khác gì nhân dân: Lo âu về hiện tình đất nước, không tin ở tương lai gần và xa, mất tin ở sự lãnh đạo của đảng và nhà nước, càng không tin ở "đổi mới" vì thiếu mạnh dạn và nhất quán. Đáng chú ý số cán bộ ve hưu ngày càng đông. Trong số đó chỉ độ một phần tư sống ổn định, vì thu vén được chút ít khi còn tài chức. Còn thì sống ở mức thấp và một phần tư nữa là sống cực kỳ gay gắt. Gia đình nào không có con em đi học, đi lao động ở nước ngoài, không có bà con ở nước thì rất gay. Cảnh "đầu đường thiếu tá bơm xe, cuối đường trung tá bán chè đậu đen, giữa đường đại tá rao kem" là chuyện không hiếm. Có đại úy văn công về hưu đi thổi kèn đám ma. Tôi quen thân với một số vị tướng thiếu tướng ở Bộ Quốc phòng. Ai đã từng là đơn vị trưởng, chỉ huy sư đoàn, quân đoàn, có chức, có quyền, nhất là ở các ngành vật chất như quân nhu, quân trang, hậu can, quân y... thì nói chung là khá giả... Còn các viên tướng cạo giấy ở các văn phòng, cơ quan Bộ hay ở các trường huấn luyện thì rất "rách. " Gia tài là một chiếc xe đạp, đến chiếc xe máy cũng không có. Có người phải ra máy nước công cộng hứng nước hay xách nước từ tầng dưới cùng lên tầng tư tầng năm. Rất nhiều sĩ quân cấp cao ngay thẳng, tận tụy có tâm huyết với cách mạng và nhân dân, liêm khiết và trong sạch rất băn khoăn suy nghĩ sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về sự lãnh đạo của Đảng. Chính họ đã tạo nên một sự kiện "lạ lùng" và bất ngờ. Hồi tháng 9. 1986, đại hội Đảng toàn quân họp để thảo luận văn kiện và cử đại biểu đi dự đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6. Cuộc thảo luận được diễn ra trong tinh thần đổi mới đang sôi nổi, hào hứng: Nói thẳng, nói thật, nói hết... Nhiều đại biểu phê phán thẳng cánh một số thượng tướng, đại tướng đứng đầu quân đội:
Thiếu gương mẫu, nhà dột từ nóc, tham nhũng chiến lợi phẩm, dung túng cho vợ con làm sai chính sách, tạo nên những kẻ xu nịnh ở chung quanh, vô trách nhiệm với đời sống gay go của bộ đội, sa sút ý chí chiến đấu... Khi bầu đoàn đại biểu, mặc dầu có danh sách hướng dẫn của đoàn chủ tịch hội nghị, ba vị lớn nhất của quân đội: Đại tướng bộ trưởng bộ quốc phòng, đại tướng chủ nhiệm tổng cục Chính trị (hai vị này đều là ủy viên bộ Chính trị trung ương đảng) và thượng tướng phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị đều bi... ra rìa, không trúng trong đoàn đại biểu chính thức 72 người! Cả Hà Nội xôn xao suốt một tháng trời về cái tin giật gân này! Những người có công tâm vui mừng vì cuộc sống dân chủ đã tạo nên quyền quyết định và giám sát của cấp dưới đối với cấp trên. Đây là dân chủ thật, đẩy lùi dân chủ hình thức: "Dân chủ có lãnh đạo", "dân chủ gắn với tập trung", có nghĩa là "dân chủ vừa phải!" Các vị cầm cân nẩy mực trong đảng và quân đội đã mở cả một cuộc điều tra về cái hiện tượng "dân chủ quá trớn" này, để cố truy tìm xem ai là kẻ đầu têu, là kẻ giật dây, là kẻ có âm mưu tiếm quyền? Bộ máy tổ chức của đảng lập tức rút kinh nghiệm là đã mất cảnh giác nghiêm trọng về cuộc đại hội toàn quân này, có kế hoạch ngăn chặn ngay để ngọn triều dân chủ ấy không được dâng lên trong đại hội đảng toàn quốc lần thứ 6 mấy tháng sau đó.
Và quả nhiên đại hội đảng lần thứ 6 được đặt tên là "Đại hội của ông Sáu", nghĩa là đại hội của ông Sáu, Lê Đức Thọ, từng là žy viên bộ Chính trị kiêm Trưởng ban tổ chức trung ương đảng trong hơn 30 năm liền. Đây là bộ máy quyết định từ cấp vụ trưởng, tổng cục trưởng, thứ trưởng lên đến những chức vụ cao nhất. Hồi ấy theo đề xuất của đại hội đảng toàn quân, bộ ba thích hợp nhất nên là: Ông Trường Chinh ở cương vị Tổng bí thư vì là người đầu tiên phác họa ra kế hoạch, quan niệm, phương án đổi mới ở Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội đồng nhà nước, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Những ngày đầu của đại hội 6, nhiều đại biểu của các tỉnh miền Nam cũng như của Hà Nội... rất đồng tình về bộ ba: Chinh- Đồng- Giáp ấy. Đột nhiên khi đại hội bước vào họp nhân sự, Ban tổ chức trung ương Đảng đưa ra một phương án khác: Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư, Võ Chí Công làm chủ tịch Hội đồng nhà nước, Phạm Hùng làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng... Để cho phương án này trót lọt "anh Sáu" đã có sáng kiến viết một lá thư ngắn "kính gửi các đồng chí Trường Chinh và Phạm Văn Đồng" đại y rằng: Nhiều đoàn đại biểu có ý kiến (?) là hai đồng chí với tôi tuổi đã cao, sức đã yếu không nên tham gia Ban chấp hành trung ương đảng nữa, mà sẽ nhận làm nhiệm vụ cố vấn cho Ban chấp hành trung ương. Tôi thấy đây là một đề nghi hợp lý. Nếu các đồng chí và tôi còn nhận nhiệm vụ thì sẽ có thể bị hiểu nhầm là tham quyền cố vị. Rất mong câc đồng chí đồng ý với đề nghị này... " Theo những người ở văn phòng trung ương đảng kể lại, chính ông Nguyễn Khánh, žy viên trung ương đảng, vốn từng là Chánh văn phòng trung ương, sau là Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng là người cầm lá thư này đến tận nhà các ông Trường Chinh và Phạm Văn Đồng.
Hồi 1986, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn còn được tín nhiệm rất lớn trong đảng. Rất nhiều đại biểu cho rằng hiểu biết rộng và uy tín lớn trong và ngoài nước của đại tướng là vốn quý của dân tộc cần tận dụng. Thế là bộ máy tổ chức và an ninh, bảo vệ đảng được huy động để ngăn chặn xu thế này. Thế là Trung ương và các đại biểu dự đại hội được thông báo về "một số vấn đề lịch sử của đồng chí Võ Nguyên Giáp. " Thủ đoạn là: Dịch một lá đơn xin học bổng để được đi học bên Pháp gửi phủ Toàn quyền Đông dương hồi đầu những năm 1930. Trong đó có những câu viết theo công thức đơn tự thịnh hành một cách đương nhiên hồi ấy: "Xin gửi ngài lời chào kính trọng và những tình cảm chân thành... người phục vụ tận tụy của ngài. " Những người có bệnh "lập trường vững vàng" kiểu lên gân không bới móc gì được ở tư cách sống, tính liêm khiết sự hiểu biết rộng hiện nay của ông Giáp đã tìm ra một cái cớ được coi là xác đáng. Một người cộng sản lại gọi tên trùm thực dân đế quốc là Ngài, lại còn "trung thành", "tận tụy", là "người phục vụ" (người đầy tớđịch theo tự điển) thì không thể tha thứ được! Thủ đoạn này gây nên trò cười những người ít nhiều có văn hóa và hiểu biết, nhưng lại tạo nên được sự hoài nghi của một số đại biểu các tỉnh vốn không biết gì về những công thức ứng xử thời xưa...
Vị đại tướng bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng đã bị đại hội đảng toàn quân khước từ thì lại có một "dịp may" hiếm có:
Đúng 10 ngày trước khi đại hội 6 khai mạc, đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, ủy viên trung ương đảng đang rất khỏe mạnh bổng nhiên đột tử ở nhà, một cái chết cho đến nay vợ và con ông vẫn còn phân vân về nguyên nhân thật sự. Sáng 5 tháng 12 Bộ Chính trị đã quyết định ông sẽ đảm nhiệm chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng thay ông Văn Tiến Dũng. Trưa 5 tháng 12 ông đột tử. Do ông Tấn mất mà ông Dũng, người đứng đầu danh sách dự bị của đoàn đại biểu quân đội- được nâng lên là đại biểu chính thức dự đại hội 6. Tai họa và có thẻ nói là tai vạ của đại tướng Tấn đã trở thành điều may hiếm có cho đại tướng Dũng.
Và một điều khá kỳ lạ nữa ông vẫn được bầu vào Ban chấp hành trung ương khóa VI (làm cho không ít sĩ quan quân đội sửng sốt) và liền đó còn được tham gia ban dự thảo Tổng kết chiến tranh của quân đội và cả ban Dự thảo chiến lực đến năm 2000 nữa!
Những điều bất ngờ chấn động Đại hội toàn quân năm 1986 đến nay vẫn còn gây lo sợ cho cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản. Họ đã ra những thông tri liên tiếp để công việc chuẩn bị cho đại hội 7 sẽ thuận buồm xuôi gió, theo đúng ý của lãnh đạo... Tuyệt đối không cho ai có quan điểm dân chủ đa nguyên được lọt vào bất cứ đại hội nào trên cấp cơ sở- Hơn 1000 sĩ quan cao cấp từ trung tướng đến đại tá được về hưu trong tháng 11 và 12 năm 1990 sẽ không tham gia đại hội đảng của các đơn vị quân đội. Trong số sĩ quan này ắt hẳn có nhiều "kẻ bất trị" vì am hiểu nội bộ quân đội muốn nói thẳng, nói thật, nói hết, muốn có một quân đội hiện đại cả về tổ chức, vũ khí và tư tưởng và Họ sẽ đòi hỏi phải chấm dứt tệ tham nhũng vô trách nhiệm, những bất công lớn, tệ quan liêu và quân phiệt... với biển pháp cơ bản là quyền dân chủ rộng rãi và sự bình đẳng về nhân cách- Cho họ về hưu, về vườn, nghỉ cho khỏe... là tháo một ngòi nổ nguy hiểm trong thực hiện "dân chủ và đổi mới. " Điều trót hứa hẹn long trọng từ hơn 4 năm trước đang được uốn nắn lại, nhấn mạnh đến tập trung và kỷ luật.
Đầu năm 1987, ngay sau khi kết thúc đại hội 6, nghị quyết mới được phổ biến để chấp hành, đảng ủy quân sự trung ương vừa họp phiên đầu tiên sau đại hội thì một viên tướng nữa chết đột ngột. Đó là trung tướng Phan Bình, cục trưởng cục quân báo của Bộ Tổng tham mưu, với thông báo là đã tự sát, tự bắn súng ngắn vào đầu mình- Tôi rất quen với tướng Bình, người Quảng Nam, khổ người nhỏ nhắn, đảm nhận chức vụ này từ năm 1962, thay đại tá Nguyễn Minh Nghĩa bị buộc tội là "xét lại. " ở Bộ Tổng tham mưu, nhiều người cho biết ông Bình rất gần gũi gia đình bộ trưởng quốc phòng Văn Tiến Dũng, biết khá nhiều chuyện riêng tư, về tham nhũng, chia chác chiến lợi phẩm trong hàng ngũ các viên tướng trong cơ quan bộ quốc phòng và bộ tổng tham mưu. Ông lại là ủy viên trong cấp ủy đảng tại đó. Ông chết trong một ngôi nhà tại thành phố Hồ Chí Minh. Các phòng ở của ông tại nhà riêng bị lục soát. Đúng một tuần sau, con trai cả của ông, một trung tá quân đội, người đang giữ tất cả những tài liệu thư từ riêng của ông, bị một tai nạn và chết ngay trong một cuộc đụng xe gắn máy trên đường thành phố Hồ Chí Minh. Lại một câu hỏi nữa, đến nay vẫn chưa được giải đáp có sức thuyết phục...
Trước đó, tháng 6. 1986, đại tướng thứ trưởng quốc phòng Hoàng Văn Thái cũng bị chết đột ngột tại nhà, sau một tuần liền họp hành rất căng thẳng ở Bộ Quốc phòng, vào dịp chuẩn bị cho đại hội đảng toàn quân và đại hội đảng toàn quốc lần thứ 6. Ông tham gia đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập tháng 12. 1944, là Tổng tham mưu trưởng trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945- 1954). Ông từng vào miền Nam, ở căn cứ R hơn ba năm, là phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng ngay khi cuộc chiến tranh đặc biệt chuyển thành cuộc chiến tranh cục bộ- Ông là sĩ quan gần gũi nhất của đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng ở trong sở chỉ huy Mường Phăng ở Điện Biên Phủ- Tôi còn nhớ, đúng ngày 7. 5. 1984 (kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biển Phủ), Bộ Quốc phòng tổ chức ôn lại chiến dịch ấy tại sa bàn lớn trong Viện bảo tàng Quân đội trên đương Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến dự và nhắc đến những kỷ niệm 30 năm trước, nhắc đến chỉ huy từng sư đoàn - Khi kết thúc, đi ra phía Cột cờ, đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫy đại tướng Hoàng Văn Thái lại và nói với tôi như phân trần: "Nhà báo lại đây! Đây, anh Thái đây - Có phải hồi ấy khi tôi quyết định thay đổi phương châm công kích, anh không thông, còn chống tôi nữa phải không?" Đại tướng Hoàng Văn Thái cười xòa: "Vâng, thưa anh đúng như thế. Vì lỡ chuẩn bị tất cả rồi, bộ đội được động viên rất hăng, chỉ chờ lệnh nổ súng. Hoãn lại thật là gay! Nhưng nếu không hoãn thì còn gay hơn. Có khi không thắng mà còn bị tổn thất nặng nề, kháng chiến không còn biết ra sao! Vì vốn liếng xây dựng của ta hơn 5 sư đoàn đều đưa vào đó cả!" Tôi còn giữ tấm ảnh chụp vào đúng thời điểm ấy, trưa ngày 7. 5. 1984.
Ông Thái rất quý mến ông Giáp. Hai ông còn thân thiết vì tình cảm thông gia. Võ Điện Biên, con trai đầu của ông Giáp sinh đúng vào năm của chiến thắng Điện Biên Phủ, lấy Hoàng Thị Kim Phượng con gái cưng của ông Thái. Cả hai đều là sĩ quan quân đội, Điện Biên là trung tá binh chủng Phòng không quân, Kim Phượng là sĩ quan quân y, ở ngành dược, hiện công tác ở cực quân y quân đội. Mẹ của Kim Phượng là bà Loan, cấp bậc đại tá hiện nay đã nghĩ hưu. Trước kia bà làm công tác chính sách hậu phương ở bộ tổng tham mưu là một trong bốn nữ chiến sĩ giải phóng quân đầu tiên hồi trước cách mạng tháng Tám. Đầu tháng 9. 1945, bà đã từ căn cứ Việt Bắc về Hà Nội trong chi đoàn Quang Trung nổi tiếng hồi đó.
Nhìn lại cuộc đời người lính suốt trong 37 năm 3 tháng, tôi đã nếm đủ mùi gian khổ và vinh quang của người cầm súng- Tôi đã là lính, đứng canh gác, rồi tiểu đội trưởng ở lớp huấn luyện, là trung đội trưởng ở đường số 9, đi truy lùng tận quân Pháp ở vùng Trung Lào, là đại đội trưởng đại đội chủ công trong chiến dịch giữ thành Quảng Trị khi quân Pháp đổ bộ lên đầu năm 1947, rồi tiểu đoàn trưởng ở địch hậu Triệu Phong, Hải Lang (Quảng Trị), làm giám đốc trưởng sĩ quan Lê Lợi của quân khu ba, rồi giám đốc trường quân chính của sư đoàn 304, rồi lên bổ sung cho chiến dịch Điện Biên Phủ, khi chiến dịch bước vào thời kỳ thay đổi phương châm tác chiến. Tôi đã ba lần đi qua đường mòn Hồ Chí Minh, vào Bình Trị Thiên, quân khu Năm và chiến trường Tây Nguyên, xuống tận đồng bằng Trung Bộ, vào ấp chiến lược ở Quảng Ngãi tham gia nghiên cứu các mặt tình hình. Tôi đã nhiều lần ốm nặng tưởng không qua khỏi: Kiết lỵ, bị sốt rét ác tính, bị sâu quảng khắp người, các nốt lở to bằng đồng hào ván sâu hoắm, ba lần bị thương vì đạn cối, pháo, viêm ruột thừa cấp tính, bị nhiễm trùng toàn bộ Ở ổ bụng. Những lần đói khát thì không sao kể xiết. Phải ăn gạo mủn chua và đắng vì chôn dưới cá ẩm hàng tháng trời mới moi lên... khi hành quân thiếu rau, gặp được một hay hai lá rau mà cũng cố dừng lại để hái, gom lại để đến khi nghỉ có được vài chục ngọn rau để nhấm ăn... Có khi giữa rừng gặp một cay cam ở một ngôi nhà bỏ hoang, hái chia mỗi người một quả, thế mà nhấm từng múi để dành trong suốt hai ngày đêm... Đói và khát, có khi khát đến cháy cổ, kiệt sức mắt nổ đom đóm thì vừa lết đến một ngọn suối. Một ngụm nước tan nhanh vào toàn cơ thể như nở ra từng tế bào, từng thớ thịt. Có khi ở căn cứ thiếu muối phải lục tìm lá chuối gói thịt, cá gài ở mái lều đem ra mút lấy chút vị mặn. Cũng có khi phải lấy một viên thuốc quinacrine pha loãng ra thành năm liều thuốc tiêm.
Còn vinh quang ư? Tôi không bao giờ thích thú về những vinh quang hão huyền, hình thức. Tôi đã được 16 huân chương lớn nhỏ:
Từ huân chương chiến công, huân chương Chiến thắng, đến huân chương Quân công. Các huân chương của nhà nước và quân đội Lào và Căm pu chia... Tôi là nhà báo quân đội duy nhất được thưởng Huân chương danh dự mang tên Julius Fucik do tổ chức nhà báo quốc tế OIJ đặt ra, được chủ tịch OIJ, giao sư Nodenstreng người Phần Lan sang Việt Nam trao tại hội trường Ba Đình tháng 12 năm 1981, "do những đóng góp về báo chí trong thời kỳ chiến tranh, về các bài phóng sự xuất sắc được viết tại chiến trường... "
Về hoạt đồng xã hội, tôi là ủy viên ban chấp hành Hội hữu nghị Việt Nam - Căm pu chia (từ tháng 4. 1986), là žy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết nhân dân á- Phi của Việt Nam từ năm 1982 đến nay. Tôi đã dự một số hội nghị quốc tế trên danh nghĩa ấy.
Có nhà báo nước ngoài nhận xét: "Bùi Tín thường ở những nơi quan trọng nhất, ở những thời điểm quan trọng nhất. " Có lẽ đó là do ý thức nghề nghiệp, với ý nghĩ: Người khác đi được sao mình không đi được? Đó là niềm say mê và trách nhiệm chứ không phải do ý muốn chơi trội, tìm kiếm danh lợi, để nổi tiếng!
Tôi có mặt ở Dinh Độc Lập ngày 30. 4. 1975. Việc nhận đầu hàng của ông Dương Văn Minh là ngẫu nhiên, do trung tá trưởng ban bảo vệ sư đoàn 304 của quân đoàn 2 Nguyễn Văn Hân và trung tá Bùi Văn Tùng chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 yêu cầu. Để cho không khí bớt căng thẳng, tôi bảo hai chiến sĩ đang cầm lăm lăm AK 47 chỉa vào phòng ra đứng ở ngoài. Lúc ấy tôi chưa biết ông Minh đã loan báo việc ngừng tiếng súng trên đài. Tôi yêu cầu ông Dương Văn Minh đầu hàng sớm chấm dứt chiến sự, khỏi hy sinh thêm vô ích cho cả hai bên. Lúc ấy, tôi đã hiểu câu thực hiện chính sách hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau. Tôi thấy những vẻ mặt lo lắng, căng thẳng, liền nói với các ông: "Chiến tranh đã chấm dứt- Tất cả người Việt- Nam chúng ta đều thắng. Nếu các ông có ý thức dân tộc thì các ông cũng có thể coi ngày hôm nay là ngày vui của mình, ngày vui chung của đất nước chúng ta. " Ông Vũ Văn Mẫu cười tươi không lo như trước đó.
Sau một lát, tôi rất cảm động gặp riêng ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách về kinh tế, và nghe ông Hảo nói:
"Mấy tuần nay, người Mỹ ngày nào cũng tới rước tui qua Hoa Kỳ. Tôi nhứt định không đi. Tôi còn biểu tụi trẻ sinh viên của tui ở lại. Đất nước mình xây dựng, rất cần bọn tui... " Ông Hảo ở lại nhưng rồi không được xử dụng, vấp đủ khó khăn. Ông ta chán nản và gần đây đã xin xuất cảnh, hiện ở đảo Ta- hi- ti, giúp cho chánh phủ ở đó về kinh tế. Những người có lòng tốt như vậy đối với đất nước cuối cùng đã phải ngậm ngùi ra đi!
Chính ông đã báo cho tôi biết vào buổi chiều 30. 4. 1975 là ông cúng viên chức ở ngân khố đã giữ lại 16 tấn vàng không cho cánh ông Thiệu mang đi. Tôi liền báo tin ra Hà Nôi - Sau 2 ngày ở Hà Nội cho người vào nhận đủ. Nhưng rồi số vàng ấy đã không được xử dụng hợp lý để sinh sôi ra vì định kiếu với ngân hàng ngọai quốc. Số vàng ấy được giữ rất kỹ kiểu nông dân, xà xẻo dần để chi tiêu, cuối cùng đã hết sạch! Sau đó tôi lo viết bài để gửi ra Hà Nội cho kịp. Chỗ tôi ngồi viết chính là bàn giấy của ông Minh ở trên tầng hai Dinh Độc lập. Sau đó tôi cùng trung tá Nguyễn Trần Thiết, phóng viên ban Biên tập quân sự báo Quân đội nhân dân, người cùng đi với tôi trong suốt cả ngày hôm ấy, vào trại Đa vít để tìm cách chuyển hai bài báo của chúng tôi ra Hà Nội.
Trước đó hai năm, ngày 29. 3. 1973 ở sân bay Tân Sơn Nhất, tôi là sĩ quan Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm soát và chứng nhận việc Mỹ rút tốp quân cuối cùng ra khỏi miền Nam Việt Nam. Người lính Mỹ cuối cùng là thượng sĩ Max Bielke, người ở bang Oregon! Tôi bắt tay anh ta và tặng một tấm mành trúc có in hình hồ Hoàn Kiếm, chúc anh về hạnh phúc, vui vẻ với gia đình và có dịp hãy sang thăm Việt Nam với tư cách là khách du lịch. Anh ta có vẻ cảm động, cám ơn và cười rất thú vị trước đông đảo nhà báo và quay phim nước ngoài.
VII. MỞ TẦM MẮT
Với mọi quan hệ giao tiếp và thông tin ngày càng mở rộng, trái đất như bé nhỏ lại- Các nước như gần lại với nhau hơn- Nhu cầu hiểu biết lẫn nhau giữa người nước này với người nước khác không phải chỉ để thỏa mãn tính tò mò mà là một yêu cầu thật sự của cuộc sống, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa và tình cảm, mang lại những lợi ích thiết thực và lâu dài.
Trong hoàn cảnh Việt nam đang sống một cuộc sống riêng biệt, cách ly với cuộc sống thế giới, tôi là người may mắn được đi đến một số nước để dự hội nghị, đi tham quan và làm công tác báo chí...Tôi cho đó là những dịp may hiếm có để mở rộng tầm mắt, bổ sung sự hiểu biết của mình...
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tôi đã được tớí thăm gần hết- Từ Trung quốc, Liên xô đến Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp khắc, Hung ga ri, Bun ga rị..rồi Triều tiên tôi đều đã đi qua. Lào và Căm pu chia thì còn ở lại những thời kỳ khá lâu- Sau năm 1975, tôi có nhiều dịp đi ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, Malaixia, Xanhgapo, Philipine. ở châu Phi tôi đã dự họp ở An giê, ghé qua Xê nê gan, Ai cập (thăm Kim tự tháp kỳ vĩ), và làm việc ở Etiopi và Zimbabue- ở châu Mỹ tôi đã từng làm việc ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York gần ba tuần, họp bàn tròn với những đại biểu các nước nói tiếng Pháp.
Phần lớn các chuyến đi là để làm công tác báo chí. Một số chuyến đi Indonexia, và Malaixia, cũng như Australia là theo danh nghĩa học giả, nhà nghiên cứu chiến lược, theo lời mời của Viện nghiên cứu chiến lược Gia các ta, Viện nghiên cứu chiến lược Kuala Lampue và trường đại học Griffith ở thành phố Brisbane, Australia- Các chuyến đi Angiê ri, Ethiopia, Bình Nhưỡng (Bắc Triều tiên) của tôi là trên danh nghĩa ủy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết á Phi của Việt nam đi dự những cuộc họp về đề tài chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, và tình hình chính trị, quân sự trên bán đảo Triều Tiên...
Tôi đã dự những cuộc tiếp đón long trọng, những cuộc đại yến chiêu đãi thượng khách ở những thủ đô lớn. Đó là buổi Tổng bí thư Brezhnev cùng nguyên soái Ustinov tiếp đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn đại biểu quân sự Việt nam ở điện Kremlin. Đó là buổi đại yến ở Đại lễ đường nhân dân do nguyên soái Điệp Kiếm Anh và tướng Trần Tích Liên khoản đãi đại tướng Giáp. Và sau đó là cuộc gặp gỡ với chủ tịch Hoa Quốc Phong. Đó là cuộc chiêu đãi trọng thể của bà Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandi mời Tổng bí thư Lê Duẩn trong nhà khách danh dự của chính phủ Ấn Độ. Nhân danh nhà báo tôi đã hỏi chuyện tổng thống Souharto, tướng Tổng tư lệnh Muadani của Indonexia, chủ tịch Nengistu Haisle Mariam của Ethiopia (vừa bỏ chạy sang Zimbabue tháng 5. 1991), thủ tướng Mugabe của Zimbabue, ngoại trưởng Manglaput của Philipin và thủ tướng Ragib Gandhi của ấn Độ...Năm 1986 tôi cũng từng qua Nam Mỹ, đến Buenos Aires của thủ đô Argentinia dự cuộc hội báo của tuần báo "Quepasa" của đảng cộng sản Argentinia và thăm một số tỉnh của phía Nam nước này.
Mỗi chuyến đi làm tôi thêm mở mắt một chút. Tôi thường tách khỏi các đoàn chính thức, thâm nhập cuộc sống của người dân bình thường, của tầng lớp trí thức, của các đồng nghiệp làm báo để có thông tin trực quan, từ nhiều đối tượng, nhiều tiếng chuông, do đó đáng tin cậy nhất.
Hàng chục lần ở Trung Quốc, từ Nam Ninh, Liễu Châu, Vũ Hán đến Bắc Kinh, Thượng Hảị..cho tôi nhận thức rất nhiều vẻ về đất nước này. Thời kỳ trước 1965, những panô lớn Bắc Kinh và các thành phố lớn là hình Mao, là hình hai anh em Trung- Xô tay nắm tay tiêu biểu cho tình hữu nghị vĩ đại. "Lão tà cơ (Người Anh Cả)". Người anh cả Liên Xô hồi ấy là thần tượng của người dân Trung Quốc. Phong trào học tiếng Nga lan rất rộng. Rồi đến cảnh đấu tố trong cách mạng văn hóa vô sản. Rất Tầu, nghĩa là ầm ĩ, xô bồ, ồn ào, bát nháo, số đông theo nhau, học đòi nhau, lôi kéo nhaụ..Một đám đông theo định hướng cưồng nhiệt, cuồng tín, cuồng động, không cho phép nói ngược, đặt câu hỏi. Số đông là chân lý, số đông là sức mạnh. Một tỷ người, một tỷ cái đầu tuân theo một hiệu lệnh. Mọi ho hoe chống đối lập tức bị coi là phản bội, đáng nhổ vào mặt, đáng đội mũ lừa dong trên đường để mọi người mắng mỏ, xỉ vả, nguyền rủa.
Tôi đã thu được biết bao tài liệu Trung quốc ở Căm pu chia, từ Hiệp định quân sự ký giữa hai nước hồi tháng 17. 71976, về công binh Trung quốc sang xây dựng sân bay Kong pong Chnang, dài rộng nhất Đông Nam á, về lời khen của Mao Trạch Đông khi xiết chặt và lắc đi lắc lại bàn tay đẫm máu của Pôn Pốt: "Xin chúc mừng! Hảo, hảo à- Các đồng chí đã lập nên kỳ công của lịch sử, diệt hết bọn tư bản, bọn địa chủ bóc lột bọn tay sai phản động chỉ trong thời gian ngắn! hảo a, hảo a!" Một cuộc cách mạng bằng gậy, bằng vồ, bằng cuốc đập vào đầu hàng triệu con người! Nhân danh chủ nghĩa xã hội, chũ nghĩa cộng sản thuần chất, trong sạch nhất, nhân danh chủ nghĩa Mác Lê Nin, những định tạo nên mẫu mực cho cách mạng vô sản thế giới!
Tôi đã ngắm nhìn rất lâu chiếc ảnh bìa của báo Newsweek tháng 6. 1989: Một đòan xe tăng, xe bọc thép Trung Quốc gắn súng lớn trên quảng trường Thiên An Môn dừng tất cả lại trước một thanh niên tay cầm sách vở, chiếc áo vắt vai, tự nhiên, điềm tĩnh lạ thường- sắt thép chùn bước trước con người. Để sau đó sắt thép khạc lửa, khạc bão lửa vào đám đông, đem lại cái chết cho hàng ngàn con người, dìm trong máu khát vọng dân chủ. Và đó là chủ nghĩa xã hội ư? Là nhân đạo cộng sản ư?
Tôi nhớ lại những quyển Mao tuyển hồi cách mạng văn hóa vô sản. Tôi thấy những mầu đỏ rực ấy hồi 1965 trên hè phố Bắc Kinh. Cờ đỏ, sách báo đỏ, huy hiệu đỏ, khẩu hiệu đỏ. Cái gì cũng nhiều, cũng lóe mắt- Vào hiệu sách, người bán, người mua cùng ngừng lại để tụng vài đoạn Mao tuyển...Trên hè phố, trong vườn hoa, trẻ em tay cầm Mao tuyển, miệng hát đồng ca Mao chủ tịch! ở bệnh viện người ta tụng Mao tuyển để chữa bệnh với niềm tin vu vơ! Và cách mạng đựơc hiểu là lật nhào mọi giá trị cũ. Học sinh đại học kéo cổ thầy giáo xuống bắt qùy, cho đội mũ lừa đi dong phố xá. Tôi gặp những sinh viên Bắc Kinh buộc phải trốn sang đây, ở Paris, làm người Trung hoa lưu vong vì cái tội mê say dân chủ đúng hai năm trước. Các anh chị còn rất trẻ ấy vẫn một niềm tin: "khát vọng dân chủ bị dập bởi bạo quyền, nhưng nó âm ỉ, nó không tắt, nó chờ thời cơ. Tất cả đau nhục là thuốc nổ, sẽ bùng lên khi các cụ gìa cộng sản- phong kiến nhắm mắt.
ở Liên Xô hồi 1965, tôi đã vào viếng lăng Lê Nin- Stalin, cả hai chữ ấy in trên đá vân phủ trên mộ lớn, đi vào trong là hai quan tài kính Lê Nin ở bên phải (hướng nhìn ra) và Stalin ở bên trái. Stalin với bộ quân phục và huân chương đầy ngực làm cho Lê Nin nằm bên như bé hẳn lạị..ít lâu sau, Stalin biến mất khỏi lăng. Bao điều bí ẩn phơi bầy ra ánh sáng. Con người được sùng bái, ca ngợi, yêu mến như thần tượng bị hạ bệ xuống tận bùn đen về sự xảo trã, sự độc ác khát máu, tính vô nhân. Từ 1985, cơ quan an ninh quốc gia KGB thú nhận đã can thiệp thô bạo quyền công dân, dựng nên vô số vụ án oan, vụ án giả. Tháng 9. 1990 tôi đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô trên đại lộ Karl Marx. Ngôi nhà đồ sộ nay vắng tanh vắng ngắt, trong khi ngay cạnh đó, người ta xếp hàng thành đuoi dài để mua bánh mì và...diêm! Mấy anh cán bộ Đài phát thanh Moscow kháo nhau lo lắng: Còn một tuần nữa phải khai cho xong hộ khẩu từng gia đình để chuẩn bị nhận thẻ phân phối thực phẩm và các hàng hiếm khác! "Trở lại y như thời chiến và mấy năm sau chiến tranh!" "Lùi lại gần nửa thế kỷ!" Giá cả đang lên dữ dội! Tôi đã từng đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô hồi 20 năm trước, đâu có vắng như chùa bà đanh hôm nay! Hồi ấy người ta ra vào tấp nập, các đoàn xe đen bóng loáng đỗ tại bãi xe cực lớn phía bên, người ta ăn mặc chỉnh tề, sách cặp lên xuống, vẻ trang nghiêm mà hối hả. Giá cả đứng nguyên một chỗ trong hàng 30 năm ròng. Họ khắc vào chân chiếc quạt máy 18 rúp 2, vào chiếc bàn là 6 rúp 6 là cứ như vậy suốt hàng chục năm...
Trước kia phần lớn người Việt nam đều cho rằng người Liên Xô ai cũng tốt cả. Liên Xô hôm nay là Việt Nam ngày mai. Đó là mẫu mực của con người mới, con người lao động hăng say, có năng xuắt cao và có tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa cao quý- Mọi người đều quý mến và tin cậy chuyên gia Liên Xộ..
Tháng 4. 1986, tôi ghé qua Liên Xô trên đường từ Berlin về nước. ở Moscow, tôi gặp đoàn cán bộ dầu khí Việt Nam. Có anh em vốn là đại tá quân đội chuyên ngành, quen biết tôi từ lâu- Thế là tôi được biết rõ thêm về sự cộng tác Việt Xô trong tổ chức Việt - Xô Pétro, tổ chức hợp tác để tìm kiếm và khai thác dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Chuyên gia Liên xô trước kia nhiều người tốt. Nhưng không ít người nặng về quyền lợi riêng của đất nước mình. Cơ quan nhà nước Liên Xô là cả một hệ thống nặng nề, cồng kềnh, làm việc quan liêu, thông tin thiếu chặt chẽ, quan hệ dọc còn chậm và quan hệ ngang rất lỏng lẽo. Việc hợp tác về dầu khí những tưởng thuận buồm xuôi gió, rằng Liên Xô giúp Việt Nam rất vô tư và hào phóng vì Liên Xô ứng ra hàng chục tỷ rúp mua biết bao thiết bị đắt tiền và hiện đạị..Thế nhưng sau gần 10 năm làm việc, phía ta khôn dần lên, thì té ra không phải hoàn toàn như vậy! Liên Xô đã đưa sang quá nhiều chuyên gia, cả những chuyên gia mà ta có khả năng tự đảm nhận, tạo thành cả làng chuyện gia ở Vũng Tàu (cũng như làng Liên Xô ở công trình thủy điện Hòa Bình). Những chi phí lớn ấy ngoặm khá nhiều vào số tiền họ ứng ra và cho ta vay nợ. Gía cả ta tính cho bạn cũng rất hớ, từ tiền nhà, cung cấp nhu yếu phẩm, đưa đón họ, phục vụ họ di chuyển...đều với giá hữu nghị...Đã vậy những thiết bị họ cung cấp cho ta, có thứ mua từ Ấn Độ, từ Hồng Kông, từ Singapore đưa tới, ta đều tính theo hóa đơn họ đưa, cao hơn rất nhiều giá bạn mua thật sự! Có anh cay cú bảo tôi: Đó, bạn thân thiết, ông anh cả, tinh thần quốc tế vô sản cao cả là như vậy đó. Càng là anh em càng lèn cho đau! Đây là bài học rất sâu sắc. Ta dại dột, ngây thơ qúa. Dại từ ông lãnh đạo trên cao xuống cán bộ các Bộ, các tổng cục...Cuối cùng, nhân dân ta phải gánh chịu tuốt.
Tôi đã ghé Cộng hòa dân chủ Đức 4 lần. Tháng 10. 1965 tôi đã đến cổng Brandenburg nhìn sang trụ sở quốc hội Đức cũ ở Tây Berlin. Bức tường Berlin dựng lên vừa được ba năm. Tôi được viên trung tá Muller chỉ huy đơn vị biên phỏng dẫn vào phòng chỉ huy, nghe giới thiệu trên bản đồ và qua một cuốn phim việc xây dựng bức tường kiến cố này, cũng như hệ thống phòng thủ bằng điện tử, mìn, giây điện, hệ thống canh gác cẩn mật ngăn cách đông với tây Berlin, chia cắt Cộng hòa dân chủ Đức với Cộng hòa liên bang Đức. Không ai có thể nghĩ rằng bức tường kiến cố ấy đã bị phá không phải bằng tiến công quân sự, mà bằng ý muốn của nhân dân. Anh Horn, hồi ấy là cán bộ phòng Việt nam trong vụ châu á bộ ngoài giao CHDC Đức, đã hướng dẫn chúng tôi đi thăm Dresden, nơi có bản doanh của bộ đội khối Vacsovie, thăm Leipzig, Potsdam, thăm Weimar, nơi có di tích phòng làm việc của văn hào Goethe, thăm lò thiêu người của phát xít Hitler ở Buchenwald, thăm hải cảng ở phía bắc Rostov. ở Berlin, anh cùng cả gia đình đưa tôi lên tháp truyền hình cao gần 300m gọi là Télé- Café, nơi có cửa hàng giải khát quay 360 độ mỗi giờ, để ngồi ngắm quang cảnh đông và tây Berlin buổi chiều và ban đêm...ít lâu sau tôi gặp anh ở Hà Nội, anh đã là bí thư thứ nhất đại sứ quán CHDC Đức ở Việt nam. Sau đó tôi ghé Viêntian thì anh là đại sứ CHDC Đức tại Lào. Sau năm 1979, anh là đại sứ đầu tiên của CHDC Đức ở Pnom- penh rồi trở về công tác tại Bộ ngoại giao với chức Vụ trưởng- Một nhà báo ở Berlin sang Hà Nội đầu năm 1989 cho biết anh có thể sắp là thứ trưởng ngoại giao. Hôm nay nhớ đến Berlin, tôi lại nhớ đến anh. Bức tường ngăn cách đã biến mất, nước Đức đã thống nhất trong vui buồn lẫn lộn...Không biết anh và gia đình nay ở đâu, làm gì? Anh còn ở ngành ngoại giao? Có còn là cán bộ của đảng viên của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức? Những quan niệm về chủ nghĩa Mác, Lê Nin, về chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa quốc tế vô sản của anh hồi ấy nay đang được anh nhìn nhận ra sao, sau biết bao biến thiên đột ngột và sâu sắc hơn một năm quạ..
Tháng 4. 1986 tôi dự đại hội đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức ở cung Cộng hòa Berlin. CHDC Đức đã có những bước tiến rõ rệt trong xây dựng, dẫn đầu các nước xã hội chủ nghĩa về sản xuất các hệ thống CAĐCAM (Computer aided designed - Computer aided manufactured), về máy tính điện tử tốc độ cao. Tuy vậy nước này vẫn một mực đứng ngoài việc "đổi mới và ngay thật" (perestroika và glasnost), tự cho rằng đã thực hiện điều đó từ khá lâu rồi, đã đứng ở trong số 10 nước công nghiệp hóa cao nhất thế giới. Tôi không ngờ đó là đại hội cuối cùng của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức trên cương vị cầm quyền. Một đảng nổi tiếng trong các nước xã hội chủ nghĩa là rất nghiêm, bản chất công nhân rất đậm, kỷ luật rất chặt, tính thống nhất cao và đất nước có nền an ninh rất vững! CHDC Đức và Liên Xô là hai nước giúp đỡ tận tình nhất cho đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam về mặt an ninh, như đào tạo cán bộ về các mặt chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm về phát hiện điều tra, xét hỏi, về xử lý các phương tiện thông tin, kỹ thuật chuyên môn trong công tác an ninh và phản gián...Những năm gần đây cơ quan mặt vụ Liên Xô KGB đã được chấn chỉnh khá sâu sắc, đã thải loại hàng chục nghìn nhân viên có sai lầm nghiêm trọng gây oan ức biết bao công dân lương thiện. KGB đã công khai tạ tội trước nhân dân về những hành vi lạm dụng quyền hành, vu cáo, chụp mũ một cách độc đoán, vi phạm nặng nề hiến pháp và pháp luật Liên Xô, đã minh oan cho nhiều công dân, trong đó có nhiều nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báọ..Hàng chục nghìn người đã chết trong cảnh tù đầy và oan ức. Tháng 6. 1991 vừa qua, nhiều tờ báo ở Moscow đưa tin, nhà văn kiêm nhà báo Alexandre Cheltalinski thành viên của "ủy ban bảo về di sản văn học của những nhà văn bị đàn áp, " được sự giúp đỡ tận tình của ủy viên Bộ Chính trị đảng cộng sản Liên Xô Alexandre Yacovlev và được phép của viện kiểm sát tối cao Liên Xô đã khui được một đống tài liệu tuyệt mặt cực kỳ quý giá trong kho tư liệu lưu trữ của cơ quan KGB. Nhà báo này được đọc nhiều biên bản hỏi cung, nhiều bản thảo có giá trị đã bị tịch thu dưới thời Stalin, trong đó những tác phẩm độc đáo của Platsnov, của Bulgacov, của Isaccs Babel, của linh mục Pavel Flarenski, của Guopuy Davidox. Nhiều tập nhật ký viết ngay trong nhà tù của KGB ở cạnh trụ sở này, tác giả đã bị xử bắn, hoặc đã chết trong tù do bị tra tấn và ngược đại. Một số cán bộ của KGB cố tình dấu diếm những hồ sơ và tác phẩm trên đây đã bị phát hiện, thải loại và chờ ngày xét xử trước pháp luật.
ở CHDC Đức, chính vào ngày bức tường chia cắt đông- tây bị sụp đổ, viên tướng cầm đầu cơ quan an ninh STASI (An ninh quốc gia của nhà nước và của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức) đã tự kết liễu mình bằng một phát đạn súng ngắn. Con người có uy quyền gần như tuyệt đối, từng hét ra lửa, đã hoảng sợ trước sự vùng dậy của quần chúng hay đã hối hận về những việc làm quá đáng của mình. Hắn đã cho bắt bớ, xử lý thô bạo, không theo pháp luật nhiều công dân chân chính, chụp mũ bừa cho những ai đấu tranh cho dân chủ là tay sai phát xít, tay sai của CHLB Đức, tay sai CIA, đầy đọa họ, gia đình và bạn bè họ...Hồi ấy, STASI là bàn tay sắt, có trụ sở to lớn, trang bị hiện đại ở khắp các vùng, còn to lớn và hiện đại hơn cơ quan GESTAPO hồi xưa, tiêu biểu cho một chế độ luôn lên gân và chỉ lo trấn áp những công dân bất đồng ý kiến...Cơ quan an ninh của ta từng tiếp thu nhiều kinh nghiệm của Liên Xô và CHDC Đức nên tìm đọc kỹ những bài báo, tài liệu được công bố về cơ quan KGB và STASI trong năm qua để chấn chỉnh kịp thời công tác của mình. Qua trả lời báo Nation (Băng Kok) của bộ trưởng Mai Chí Thọ, trong những cuộc họp báo của đại diện cơ quan phản gián Bộ Nội Vụ ở Hà Nội, cung cách nhận định và chụp mũ đối với nhà văn Dương Thu Hương và bản thân tôi là rất cũ, coi chúng tôi là những kẻ phản bội(!), phạm pháp(!), là bị đế quốc và phản động lôi kéo, mua chuộc, nguy hiểm cho an ninh quốc gia! Điều mà cơ quan KGB và cơ quan STASI đã phải từ bỏ và sám hối thì những người chỉ đạo cơ quan an ninh ở Hà Nội được họ huấn luyện vẫn còn bám giữ, vi phạm luật pháp và đi ngược lại quyền tự do, dân chủ của công dân...ở Hà Nội, ta cứ đi qua các đường Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Nguyễn Thượng Hiền mà xem. Các cơ quan an ninh rộng lớn, bề thế, cao đẹp đến lộng lẫy ra sao, thiết bị hảo hạng cho nơi làm việc, phòng họp, nhà khách ra saọ..thì ở sát đó trường Đại học Mỹ thuật vốn có truyền thống từ đầu thế kỷ, hiện trong tình trạng đổ nát, bệ rạc, thầy giáo và sinh viên sống chật chội và nhếch nhác như thế nào. Điều mà cơ quan STASI bị dư luận ở Đức lên án đáng làm cho những người lãnh đạo Việt Nam, đậc biệt ở Bộ Nội Vụ suy nghĩ nghiêm chỉnh và rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước. Khi chính những người cầm đầu KGB và STASI thú nhận đã phạm tội nặng nề, khi đặt "một nhà nước ở trong một nhà nước, " có trách nhiệm thi hành luật pháp lại ngang nhiên chà đạp lên luật pháp, khi những người cầm đầu KGB đã công khai nói lên niềm hối hận, nỗi hổ thẹn của mình thì những người lãnh đạo cơ quan an ninh và bảo vệ chính trị (trong và ngoài quân đội) ở nước ta lẽ nào lại không biết hối hận và hổ thẹn gì về những việc làm sai trái của mình?
Theo tôi Budapest là thành phố đẹp nhất trên sông Danube với 8 chiếc cầu nối liền hai bờ: Buda ở phía dưới và Pest ở phía trên. Trụ sở quốc hội rất đặc sắc, soi bóng xuống dòng sông xanh. Người Hungari dễ thương, chân thành, cởi mỡ, giống người Việt Nam ở sự tinh tế và ấm cúng trong tình bạn. Hai lần ở thăm Hungari tôi nhận ra rất rõ sự gắn bó của dân tộc này với Tự do. Một nét "rất lạ": Hongarie là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất xưa nay vẫn cho phép công dân của mình được đi thăm viếng và du lịch bất kỳ nước nào- xã hội chủ nghĩa cũng như tư bản chủ nghĩa, như sang áo, Nam Tư, ý, Pháp, Thụy Sĩ, và cả Mỹ, Canada, Anh...Trong khi bức tường ngăn cách hai nước Đức, trong khi công dân Liên Xô, Tiệp, Bulgarie hầu như không được ra các nước tư bản chủ nghĩa để tham quan du lịch. Tôi hỏi các bạn Hungari và được biết chính nhờ được tự do đi về mà rất ít người Hungari ở lại các nước đó. Người Hungari định cư ở nước ngoài không nhiều, họ gắn bó rất sâu đậm với quê cha đất tổ...Chính nét đặc sắc về tự do dân chủ đã làm cho Hungari là nước đi sớm nhất, từ hồi năm 1956, để tìm tòi một mô hình chính trị và kinh tế thích hợp với bản sắc dân tộc mình ở giữa môi trường châu Âu đầy những lực kéo theo đủ phương khác nhau. Chính do đó, sự chuyển đổi hiện nay của Hungari tuy đầy những phức tạp, khó khăn nhưng không hàm chứa nhiều bi kịch lớn như ở Đông Đức, Rumani, Anbani, Nam Tư, Ba Lan và cả Liên Xô nữạ..
Đầu năm 1989, tôi có dịp ở Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) ba tuần lễ, dự một cuộc hội nghị của tổ chức đoàn kết á Phi bàn về tình hình quân sự và chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Chúng tôi tham quan khu vực Bàn Môn Điếm, trong khu phi quân sự ở vĩ tuyến 38, thăm thành phố Khai Thành cổ kính, với những khu vườn và ruộng trồng nhân sâm- một đặc sản của Bắc Triều Tiên, thăm những đập và hồ lớn ở miền Tây. Bình Nhưỡng là thủ đô được xây dựng lớn, rất nhiều nhà cao tầng được thiết kế và thi công sau chiến tranh. Tôi ở khách sạn Kô- ri- ô cao 44 tầng, cách đó không xa một khách sạn cao 105 tầng đang được hoàn tất. Phải công nhận cuộc sống ở đây còn kém khá xa Nam Triều Tiên, nhưng so với quá khứ thì một trời một vực. Bắc Triều Tiên chỉ có 19 triệu dân mà tài nguyên lại rất phong phú: Than, thủy điện, đá làm xi măng, quặng sắt thép, nhôm, vàng. Thủy sản nhiều, công nghiệp hóa chất sớm phát triển, vải lụa nhân tạo dồi dào, tính ra mỗi đầu người có đến hơn 40m/một năm. Người dân Bắc Triều Tiên vẫn còn sống trong môi trường cách biệt. Không được nghe đài nước ngoài. Không được xem sách báo nước ngoài, không được xem ti vi nước ngoài- Bất cứ ai phạm phải những điều cấm kỵ ấy đều có thể vào tù. Tôi gặp mấy chục cán bộ Triều Tiên, từ Tổng biên tập báo Rô- đông Shimun, đến ông Chủ tịch tổng công đoàn, Vụ trưởng vụ báo chí Bộ Ngoại giao, giám đốc khách sạn Kuriu, cho đến ông phó chủ tịch thành phố Khai Thành, đại tà Rô và đại tá Kim ở Bàn Môn Điễm...tất cả đều "tụng" những câu giống nhau, gần như thuộc lòng "chúng tôi độc lập, tự do và hạnh phúc ngày nay là nhờ lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành, nhờ tư tưởng chủ thể của Người, lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành và lãnh tụ kính mến Kim Chung I (Kim Trung Nhất, con trai của ông Kim Nhật Thành) đã dìu dắt gần 20 triệu nhân dân Triều Tiên từ cuộc sống nô lệ đói nghèo đến cuộc sống hạnh phúc hôm naỵ.." Ai cũng mang huy hiệu ông Kim ở ngực, từ cán bộ cao cấp nhất đến người phát thư, người bảo vệ ở khách sạn, người quét rác trên hè phố. ở đây không còn một cửa hàng tư nhân nào, kể cả hiệu giải khát nhỏ, cửa hiệu cắt tóc cũng không. Người dân không biết perestroika ở Liên Xô, cũng chẳng biết cải cách ở Trung quốc ra sao hết. Các tờ báo của nhà nước chỉ đang hoạt động của lãnh tụ, ảnh của lãnh tụ đi thăm nơi này nơi khác. Nhà xuất bản trong nướcvà ngoài văn cũng chỉ có in và bầy bán các bài viết, bài nói của ông Kim Nhật Thành và người con sắp kế nghiệp bố. Những cuốn sách in rất đẹp, tít sách được in bằng kim nhũ, cùng những sách in về bố mẹ của ông Kim, được coi là "Quốc phụ" và "Quốc mẫu" của đất nước này, một số cuốn sách kể về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh...Một nền văn học đáng kính, để mà vái chào từ xa! Chúng tôi được dẫn đến xem Tháp Chủ Thể cao hơn 120 mét, trên cùng là một ngọn lửa lớn, riêng nó cao hơn 8 mét, kết bằng ánh sáng điện đỏ chói, ngày đêm lấp lánh. chân tháp là những viên gạch lớn bằng đá vân ghi tên và địa chỉ những câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu học thuyết Chủ Thể ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ Ai cập, Syri, Tunisie, ở Bắc Phi đến Columbia, Urugoay ở Nam Mỹ, từ Canada, San Francisco ở Bắc Mỹ đến Mo zambic, Madagaska ở Nam Phi, từ Bruxells (bỉ), Tây Ban Nha, Pháp, Anh ở châu Âu cho đến ấn Độ, Ceylan, Philipine ở châu á. Tháp được xây dựng bằng hơn 21. 000 khối đá hoa cương quý, vừa đúng bằng số ngày mà lãnh tụ tối cao họ Kim đã sống từ khi lọt lòng mẹ đến khi 60 tuổi tròn. Ngọn tháp lớn đỏ rực lửa này dựng lên để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 60 của lãnh tụ kiệt xuất. Chúng tôi cũng đã được ngắm vô vàn bức tượng bằng đá, bằng đồng, bằng xi- măng, bằng thạch cao của ông Kim rải ra trên khắp đất nước. Có điều gì rất không bình thường là từ tự do, no ấm đến hạnh phúc của mỗi con người ở đây đều được coi là đặc ân ban cho từ một con người kiệt xuất, có tài thánh. Con trai của vị thánh sống này sẽ được kế tục trị vì đất nước theo kiểu cha truyền con nối thời phong kiến. Trên dải đất thiên liêng, cứ mỗi mét vuông là có 120 mảnh sắt thép lớn nhỏ bom đạn, cuối cùng con người được tự do, với kiểu tự do như vậy!
Hồi 1987, ở thủ đô Adis Abebas của Ethiopie, tôi đi dạo một buổi chiều chủ nhật ở quảng trường Cách mạng, có bức tượng đá Lê- Nin cao hơn 6 thước, do một nhà điêu khắc Liên Xô làm cho nước này. Bức tượng được báo chí Liên Xô nhân xét là tiêu biểu cho sức mạnh của chủ nghĩa Lê Nin đã lan tới Châu Phi. Tôi nói với mấy anh bạn Việt Nam đi cùng hôm ấy: "Thật là quá sớm!" Khi người dân Ethiopie còn bị nạn đói từ Đông sang Tây, khi người dân da mầu ở đây còn đói chữ, giáo dục còn lâu mới được phổ cập, đã có ai hiểu gì mấy về Lê- Nin và chủ nghĩa Lê- Nin? Khi đảng cầm quyền ở đây tuy tự nhận là Mác xit lê- nin- nit nhưng tất cả các biểu hiện của nó lại còn mao ít hơn cả Mao! Cán bộ cơ quan nhà nước và cơ quan đảng bị bắt buộc nhất thiết phải mặc đồng phục mầu xanh kiểu đại cán Trung Hoa, mặc dù trời nắng như thiêu! Những lời của lãnh tụ, nguyên là đại úy Mengistu Mariam được in và ghi thành khẩu hiệu ở khắp nơi, như một kiểu Mao tuyển màu đỏ chót. Vừa rồi, ông Mengistu Mariam đã bỏ chạy sang Zimbabue và bức tượng Lê- Nin nói trên đã bị một số người dân trẻ nước này buộc dây thép vào cổ và dùng xe tải kéo cho đổ nhào. Họ nghĩ một cách giản đơn rằng đó là nguyên nhân của sự nghèo khổ và nội chiến liên miên ở đất nước bất hạnh này. Bức tượng Lê- Nin đã trở thành cái bung xung để hứng chịu mọi căm phẫn của nhân dân.
Tôi đã sang Argentina ở Nam Mỹ. Đây là cả một lục địa, mà kích thước về mọi mặt thật lớn, rừng rậm bạt ngàn, nợ nước ngòai cũng cực lớn (gần 300 tỷ đô la), có một bề dài đến 3000 km, có thành phố hơn 10 triệu dân và có những con sông rộng ơi là rộng, không phải chỉ rộng ở cửa biển, mà ngay quãng giữa đã rộng từ 3 đến 7 km! Đó là dòng sông Parana, phải đi trên máy bay, bay thật chậm nhìn xuống mới thấy hết cái kỳ vĩ của sông nước lục địa này!
Đó là bãi đất bằng phẳng rộng tít tắp gọi là Pampa, đường ôtô rộng chạy xuyên qua các vùng trồng cam, quýt, lê, táo mênh mông, chẳng có bóng người, những đàn ngựa, cừu, dê hàng ngàn vạn con, chẳng ai chăn dắt trên những bãi cỏ xanh vô tận...Con người ở đây sôi nổi, đi nhanh, nói lớn, ôm chặt, khiêu vũ sôi động, quay cuồng, thích màu sắc nóng...Họ ưa xem đua ngựa, vật bò tót, thích bóng chầy hơn bóng đá vì bóng đá thư thái, uyển chuyển qúa, chẳng mạnh mẽ, dữ dằn như bóng chàỵ..Chính trong cai nhiệt tình Mỹ La tinh ấy, tôi đã làm bạn vỡi những người cộng sản Uruguay, Bolivie và Argentinạ..Chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Và hơn một năm nay, họ băn khoăn, chán nản, vỡ mộng, nhưng vẫn tìm một con đường cho lục địa này. Một anh nhà báo Argentina gặp ở Hà Nội tháng 7. 1990 bảo tôi: "Có thời tao là mao ít, mao ít cuồng nhiệt. Cả thế giới không ai bằng Mao! Sau cách mạng Trung Quốc, tao vỡ mộng. Thế rồi tao yêu Fidel, yêu hơn cả người yêu. Nhà tao đầy ảnh Fidel, "ông có râu rậm", mấy thằng em tao bảo vậy. Thế rồi có một dạo xuống đường hô: Hồ! Hồ Chí Minh! Che, Che, Che, Che- Ghêvra! Nay thì chẳng biết hô gì, chẳng còn say mê ảnh ai nữa! Tao theo dõi chặt tình hình thế giới, tình hình Việt Nam, nay đến để nhìn cho rõ. Sao đất nước của Hồ Chí Minh thống nhất 15 năm rồi mà nghèo, mà đói, mà nạn cờ bạc, nạn gái điếm, nạn tham nhũng, nạn hối lộ trở thành nổi tiếng đến vậy? Người ta dặn tao là đến Việt Nam phải đề phòng ngay kẻo mất cắp!!!" Tôi nói đến tình trạng Việt Nam bị bao vây, cô lập, anh ta lắc đầu: "Không, không phải như vậy. Đó không phải là lý do. Cái đầu này này! Cái đầu lãnh đạo của Việt Nam ấy! Phải xem lại! Phải xem lại!"
Tôi đã nhiều lần ở thăm các nước láng giềng Đông Nam á:
Thái Lan, Malasie, Indonesie, Philipinẹ..Bangkok ồn ào, ôtô chạy ầm ĩ, các kênh rạch giữa phố xá đen ngòm, hôi thối bên những cao ốc, siêu thị hiện đại, đầy ắp hàng hóa, để lại cho khách du lịch cảm giác căng thẳng, xô bồ. Kualămpua thoáng rộng, có hồ, nước, vườn cây xanh chứa muông thú giữa thủ đô để lại mọt ấn tượng êm mát thanh bình. Manila, bên cạnh những cao ốc 20, 30 tầng trên những đại lộ thênh thang là những dẫy phố nghèo, nhà cữa lụp xụp, đường ghồ ghề. Djacarta là thành phố rộng nhất khu vực Đông Nam á với hơn 200 khách sạn, 30 ngân hàng lớn với khu vực giải trí dựng theo huyễn thoại cho trẻ em, hấp dẫn cho cả người lớn. Nhưng vẫn lồ lộ khó khăn do nạn nhân mãn đè nặng lên đất nước: Gần 200 triệu dân chen chân trên những hòn đảo lộng gió...
Mỗi lần ghé qua nước bạn, đi một vòng thăm thú, lòng tôi canh cánh một nỗi đau cứ ngấm mãi- Hà Nội ta, thành phố Hồ Chí Minh ta, nước Việt Nam ta trên tất cả các mặt cứ tụt hậu, tụt hậu mãi thế này! Sân bay Băng cốc hồi 1973, 1974 còn kém khá xa sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn. Thế mà nay rộng lớn hiện đại hơn cả sân bay quốc tế Vnecouvô hay Chérémétivô ở Moscow! Hàng không Thái Lan vừa hợp nhất hai hãng hàng không nội địa và quốc tế, có hơn 200 máy bay, tỏa rộng đến 42 nước, được tiếng là phục vụ lịch sự nhất, sang trọng nhất Đông Nam á. Còn ở ta? Hàng không của ta? ở Djacarta, riêng xe ôtô con đã gần 1 triệu, còn xe buýt là 26. 000, 8000 xe tắc xi luôn tỏa trên các nẻo đường phục vụ sự đi lại của nhân dân thủ đô- Còn ta? Tôi ghé thăm những trường đại học ở Băng Cốc và Kualalampua thư viện, phòng họp, trường học...đều thiết kế rộng rãi, trang bị đầy đủ máy tính, máy ghi dữ liệu, máy hỏi và trả lời các bộ môn, học toán, lý, hóa, văn, sử, địạ..đều bằng máy chiếu phim...Các trường đều có các phòng chơi thể thao đủ môn loại, nhà ăn, nhà giải khát, nơi đọc các loại sách báo. Câu lạc bộ được trang bị đầy đủ về âm nhạc, chiếu phim, ca hát, nhảy, múạ..
Họ là những nước gần ta, điều kiện tự nhiên không có gì hơn ta, vậy mà họ đã cất cánh, tạo nên tốc độ trên con đường phát triển, đang là những con rồng dự bị của Châu . Theo thống kê của ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc, năm 1990 vừa qua thu nhập tính theo đầu người của Indônésie đã đạt 545 đô la Mỹ, Philipine đạt 727 đô la Mỹ, Thái Lan gần ta đạt 1. 418 đô la và Malaisie đã đạt tới 2. 300 đô la. Ta thì chưa tới 200 đô la! Cũng theo thống kê này năm 1990, Singapore và Hồng Kông đều đạt trên 12. 000 đô la Mỹ (gấp 60 lần ta)- Những nước phát triển cao như Australia (úc) và Anh đã đạt trên 16. 000 đô la, Pháp, Đức vượt 20. 000 đô la. Mỹ vượt 21. 000 đô la và Nhật bản đạt tới 23. 500 đô la- Nhân nói đến Nhật bản mà sức mạnh kinh tế và tài chính đã vươn tới đỉnh cao nhất của thế giới ngày nay, tôi nhớ đến cuộc nói chuyện với giáo sư Tari Yokohama ở khách sạn quốc tế Narita cuối năm 1988. Ông gần 70 tuổi chuyên nghiên cứu và dạy về kinh tế. Ông am hiểu chủ nghĩa Mác. Ông kể lại bí quyết làm giầu của người Nhật bản sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đó là nỗi tủi nhục của kẻ thua trận, nỗi lo sợ khôn nguôi của kẻ mắc nợ lớn do phải bồi thường chiến tranh cho Đồng minh, sự bó buộc phải trông cậy vào sức lao động của chính dân tộc mình trên đất nước quá nhỏ hẹp của mình mà thôi. Trong thất bại và tủi nhục của kẻ bị chiếm đóng, cả một dân tộc nín lặng, nhẫn nhục, bặm môi lại làm việc, cố kết với nhau. Ông ta cười giữa hai hớp rượu Sa- kê: "Hồi ấy chúng tôi dạy cho học sinh từ lớp thấp: Các em bất hạnh đã sinh ra trên đất Nhật này, một đất nước bị bom nguyên tử và bom đạn tàn phá, bị nhục vì thua trận, bị trừng phạt, bị mắc nợ lớn. Có thoát khỏi hoạn nạn này là do các em. Do nghi lực và tri tuệ của các em. Các em phải học cho giỏi, chiếm các lĩnh vực hiểu biết và các quy trình công nghệ tiên tiến nhất...Chúng tôi cho học sinh trẻ xuất sắc đi làm công và đi học: Nghề ôtô ở Mỹ, nghề làm máy thu thanh ở HàLan, nghề đồng hồ ở Thụy sĩ, nghề chế tạo máy ảnh ở Đức, nghề luyện kim, chế tạo cơ khí ở Pháp. Học, bắt chước họ để làm được như họ, rồi cải tiến, mỗi nghề một chút. " Sau đó ông kể rằng, người Nhật đã tận dụng một lợi thế lâu dài, đó là không có quân đội lớn, chỉ có một đơn vị dân phòng, lại không được sản xuất vũ khí, càng tốt! Ngân sách quân sự chỉ có 0, 6 %, mãi sau này mới nâng lên 1%, rồi hơn 1% ngân sách chung. Đêm ấy tôi nghĩ về đất nước Việt Nam của tôi. Trong khi mình huênh hoang là chiến thắng lịch sử huy hoàng vượt tất cả thời kỳ lịch sử hiển hách thời xưa, là đã toàn thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, rằng sẽ không còn ai dám động đến lông chân mình, rằng Việt Nam cứ ra ngõ là gặp anh hùng, rằng từ nay xây dựng thì dễ ợt, chẳng mấy chốc thì giầu to vì đánh giặc mới là khó nhất trên trần gian này, mà ta thì làm được một cách xuất sắc...Thế rồi càng bốc đồng: Nước ta rừng vàng, biển bạc, sông ngòi, bờ biển tha hồ nhiều tôm cá, làm chơi ăn thật, nay làm thật thì để đâu cho hết củạ..Sao lúc ấy không ai chỉ ra rằng ta đã mất bao nhiêu thời gian, sinh mạng trong chiến tranh, đã thua kém người ta trong xây dựng, phải tính rất cẩn thận bài toán phát triển đất nước, tận dụng từng chiến lợi phẩm, từng đồng vốn, tiết kiệm từng tấn nguyên liệu, đào tạo lại công nhân cán bộ kinh tế quản lý, kinh doanh...và nhất là phải đề phòng cái kiêu ngạo, tư phụ, coi trời bằng vung sau chiến thắng lớn này! Lẽ ra đại hội 7 phải nhìn lại một cách dũng cảm và ăn năn, hối hận trước nhân dân, xin lỗi nhân dân và cùng nhân dân đi vào con đường đổi mới một cách mạnh mẽ, dứt khoát, gỡ bỏ những bệnh tật đang hoành hành, bắt tay vào cuộc phấn đấu mớị..Thế nhưng những người cầm quyền đã không làm được điều ấy! Cái khả năng "xin lỗi" và khả năng "nhận khuyết điểm" thật quá là mỏng manh, họ không tự vượt lên được chính mình!
Tôi ở Pháp đến nay đã được gần một năm. Tôi tận dụng thời gian ở đây để tận mắt tìm hiểu đất nước này, một nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tôi đã đến khá nhiều nơi ở Paris, ra vùng ngọai ô ở tất cả các hướng Tây, Bắc, Đông, Nam...tôi gặp gỡ hỏi chuyện các nhà kinh tế, chính trị, quân sự, sử học về nước Pháp, nước Pháp xưa kia, trong chiến tranh, sau chiến tranh và hiện naỵ..
Tôi từng đi các địa phương Lyon, Lille, Toulouse, Aix- en- Provence. Tôi đọc sách báo Pháp hàng ngày, có những buổi gặp gỡ thú vị với các nhà báo, nhà làm phim, nhà họat động chính trị thuộc nhiều mầu sắc- từ cực tả sang hữu. Nước Pháp đã để lại những ấn tượng mới mẻ đối với tôi, phong phú hơn nhiều so với nền văn hóa và văn học Pháp tôi tiếp thu khi còn ít tuổi- Nói về nước Pháp phải viết một cuốn sách dầy mới đủ. Tôi chỉ xin kể lại đây những điều sâu sắc.
Tự do cá nhân, tự do của công dân, là một quyền lợi, một thành tựu, một động lực rõ rệt của đất nước này. Tự do gắn với bình đẳng, với phát triển- Nước Pháp đúng là quê hương của cách mạng 1789, của: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Có người ở Việt Nam sẽ phê phán tôi đi ca ngợi chủ nghĩa tư bản! Rằng chính Pháp đã gây ra chiến tranh xâm lược, gây tai họa cho chúng ta. Tôi có lý do để căm thù đất nước này. Mẹ tôi, bà mẹ thương yêu vô vàn của tôi, bà mẹ nhân ái từng nuôi hàng chục con nuôi Vệ quốc quân, đã tắt thở vì những viên đạn ga- răng bắn vào giữa ngực ngay sau những ngày Tết Trung thu 1948. Một tốp lính lêđương Pháp nhẩy dù xuống Vân Đình và tràn qua làng Liên Bạt quê tôi. Một tên chỉ điểm ở xã đã chỉ cho lính Pháp biết mẹ tôi là "vợ một Việt Minh cao cấp, " khi cha tôi đang là Trưởng Ban thường vụ quốc hội trên Việt Bắc. Cũng lại lính Pháp giết chết người bạn thân thiết nhất của tôi - người bạn con chấy cắn đôi - bạn Nguyễn Dung, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 14 trong một trận đánh ở Quảng trị năm 1947. Tôi đã vuốt mắt cho Dung và về sau còn vuốt mắt cho hàng trăm đồng đội thân thiết của tôi, với mối căm thù không nguôi quân xâm lược. Tuy vậy tôi vẫn giữ một cách nhìn khách quan đối với nước Pháp.
Đất nước của tự do từ những nét nhỏ. Vào hiệu ăn hay ở nhà, người Pháp chọn riêng cho mình rất kỹ từng món ăn- Người ta tôn trọng sở thích của nhau và mỗi người biểu hiện cái quyền sở thích của riêng mình- Lúc đầu tôi hơi lạ, chưa quen, có cá nhân quá không nhỉ? Thế là vào ăn hai người, ba người, bốn người, mỗi người tìm cho mình một thực đơn riêng. Anh ăn cá, tôi ăn gà, bạn này ăn thịt bò. Tôi uống rượu vang đỏ, anh uống rượu vang trắng, bạn kia uống bia Nhật, chị kia uống bia Tầu - Thuốc lá người hút, người không, nhưng anh này hút Camel, anh kia Philip Morris đậm, bạn kia nữa thì xì gà hay Gaulois. Đến nước chè cũng vậy - Anh chè có vị bạc hà, tôi chè Sri Lanka, chị kia chè Tizanẹ..Thật lắm vẻ. Rượu thì khỏi nói, vài chục loại, tùy thích, mọi người một thứ, tự chọn, cho đến ở nhà, bữa cơm gia đình cũng vậy. Đã thành nếp, thành tập quán rồi. Người vợ muốn ăn cá hấp, anh chồng muốn ăn thịt bò, con trai thích thịt gà hầm, con gái thích xúp thịt cừu, khoai tây. ít khi ăn chung một món, trừ khi có đặc sản, có thức gì thật đặc biệt có bàn bạc. Cho đến khi ăn pho- mát, có cả một hộp lớn, có 6, 7 thứ pho- mát: Vị cừu, vị bò, có thứ hơi chua, có thứ rất mặn, thứ rắn, thứ mềm, thứ vàng, thứ trắng...mỗi người một sở thích...Trong gia đình ai ăn thứ gì, làm món ăn gì cứ tự tiện làm lấy- Khi bận thì cùng nhau làm, trao đổi ý kiến với nhau. Giờ ăn cũng vậy. Cứ việc tùy ý, tiện lúc nào thì ăn. Không ai làm phiền ai, cản trở ai, quấy rầy ai, làm khó chịu cho ai cả. Tôi quan sát cháu Alise bốn tuổi trong nhà tôi ở. Từ bé cháu đã vậy. Tự do lựa chọn, lễ phép, lịch sự mà lựa chọn, thoải mái mà lựa chọn.
Cháu có bà ngoại là chị Ngọc, ông ngoại là anh Jacques.
Thế mà từ khi biết nói đã gọi: Ngọc! Jacques! Gọi mẹ cháu cũng bằng tên: Luce! Gọi bố cũng bằng tên: Michel! Đó là thói quen, là phong tục, không cần thưa bẩm, không cần gọi rõ ông, bà, cha, mẹ. Chỉ cần một cái tên trần trụi là đủ. Gọi tổng thống, gọi thủ tướng, đảng viên gọi tổng bí thư cũng chỉ gọi bằng cái tên trần trụi. Chẳng có gì là bất kính, là hỗn hào, là láo xược cả- ở ta mà gọi thủ tướng, tổng bí thư bàng cái tên là không quen, không thể được, là bất kính, là qúa trớn, và trong hội họp gọi như vậy là nguy tai, nói chuyện riêng với nhau mà gọi như vậy là có thể bị báo cáo, bị chất vấn, bị xét hỏi về chính trị, bị phiền phức, rầy rà đến suốt cả đời.
Tôi đến thăm một gia đình Việt kiều- Anh tham gia phong trào ủng hộ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở bên nhà từ rất sớm. Chị người Pháp, vào đảng cộng sản, rồi từ năm 1982 chuyển sang đảng xã hội. Con gái đầu của anh chị làm nghề vẽ quảng cáo. Cháu theo chủ nghĩa Mao từ những năm đầu học đại học Mỹ thuật, nay lại chuyển sang đảng xã hội. Đó tính chất đa nguyên ở trong gia đình. Họ thảo luận, đôi khi tranh luận náo nhiệt, nhưng tôn trọng nhau, tôn trọng sư suy xét, lựa chọn của mỗi người, và họ rất phục thiện. Trước hết là phục thiện với chính minh. Mình thấy con đường nào đúng, tổ chức nào đúng thì theo. Không bắt chước, không ađua, không mù quáng, luôn tỉnh táo, và xử dụng trọn vẹn quyền lựa chọn của chính mình. Dân chủ là thế. Mỗi người chọn chỗ đứng của mình, dùng là phiếu của mình để chọn mặt gửi vàng. Đó là thước đo công bằng. Đảng xã hội Pháp hiện nay có được chừng 30 % tín nhiệm trong cử tri. Ba đảng phái hữu được hơn 40 % : Đảng cộng sản thuộc phái tả, xưa kia có lúc lên đến 32 % (đảng dẫn đầu nước Pháp, đảng của những người bị xử bắn), rồi 26 %, nay chỉ còn 8 %- Đang cực hữu của Le Pen, mang tính chất kỳ thị chủng tộc được 10 % vào giữa năm 1991. Có dân chủ, có cạnh tranh về chính trị, mỗi đảng phải tự lo xây dựng mối quan hệ với cử tri, phải có đường lối được cử tri tán thành, có biện pháp thực hiện, nội bộ giữ gìn ngay thật, trong sạch, không bị tai tiếng, không có xỉ căng đan trước dư luận.
Tôi quan sát nhiều cuộc biểu tình rộng lớn của học sinh trung học toàn nước Pháp hồi đầu tháng 11. 1990. Nội dung đấu tranh là đòi nâng cao chất lượng giảng dạy, sửa sang và trang bị lại các lớp học, giảm số học sinh mỗi lớp, trên dưới 40 xuống 35, xây dựng thêm trường lớp nơi đông dân cư. Các thầy cô giáo, cha mẹ học sinh tham gia rất đông đảo. Cuộc đấu tranh lớn ở Paris, Lyon, Bordeau, Marseillẹ..lan nhanh ra cả nước. Các đòan học sinh đáp xe lửa, xe buýt từ các tỉnh đổ về Paris. 300. 000 học sinh biểu tình từ quảng trường La Bastille, qua Austerlitz, vòng về Champs Elysees trước trự sở của chính phủ Pháp. Biểu ngữ, cờ, khấu hiệu căng khắp nơi, truyền đơn phân phát rộng rãi, và tiếng hô của họ vang động cả Paris. Tôi đứng hàng giờ quan sát, rồi đi cùng các đoàn. Những đòan học sinh trẻ, từ 12 đến 18 tuổi hừng hực khí thế, vừa hát vừa đi, vừa hô khẩu hiệu, vừa đi, nghiêm chỉnh, tươi vui, suốt từ 9 giờ sáng cho đến tối mịt, trên một quảng đường dài gần 10 km. Thế là quyền thủ tướng, bộ trưởng bộ Giáo Dục Jospin phải tiếp các đại biếu, nhận các kiến nghị và trao đổi ý kiến với họ- Tổng thống Mitterand phải tiếp các đại biểu học sinh trẻ. Tôi thích thú, cảm thấy như trẻ lại khi đứng ở chỗ các nhà báo trước trụ sở quốc hội và trước phủ tổng thống, nhìn các đại biểu học sinh vai đeo cặp sách, đàng hoàng bước lên các bậc thềm lớn để vào nơi trang nghiêm nhất của chính quyền trung ương, ngồi đối diện với các bộ trưởng và nghị sĩ không chút mặc cảm, tự ty, họ trình bày rõ những yêu sách của mình, tranh cãi đàng hoàng. Và tối đó, qua các kênh truyền hình, hàng triệu người xem ti- vi của nước Pháp và thế giới được thấy cảnh ở trong điện Elysees, tổng thống Pháp Mitterand và các nhà chức trách cao cấp nhất của nước Pháp tiếp kiến, lắng nghe, thảo luận với hơn 20 học sinh trung học đại diện của các cuộc biểu tình tuần hành và chấp nhận những yêu sách ấy. Hai hôm sau, phủ tổng thống thông báo, chính phủ Pháp đã quyết định trích ngay từ ngân sách dự trữ 5 tỷ Francs (gần bằng 1 tỷ đô la) để chi cho việc mở rộng trường lớp của các trường trung học, đáp ứng một phần yêu sách của cuộc đấu tranh...Đại diện hoc sinh trung học quyết định: tất cả trở về học tập bình thường, ghi nhận sự đáp ứng bước đầu của tổng thống và chính phủ, kiên quyết đấu tranh tiếp tục vì chất lượng giáo dục trung học là nền tảng của chất xám, của văn minh và văn hóa quốc giạ..Có những khẩu hiệu rất được dư luận chủ ý như: Không một Franc cho chiến tranh vùng Vịnh! Bớt ngân sách quân sự cho giáo dục quốc dân! Giáo dục trung học là nền tảng của tương lai! Chúng tôi muốn học giỏi, hãy bảo dảm điều kiện cho chúng tôi!...
Tôi nhìn lớp lớp học sinh phấn chấn trở về trong đêm với khí thế của những chiến sĩ vừa thắng trận, ca hát vang ở các bến tầu điện, các ga xe lửa mà nhớ, mà tủi cho các em học sinh trung học và đại hoc ở nước ta! Bao giờ các em cũng sẽ tổ chức được đội ngũ của mình, đề ra yêu sách thiết thực và giành được nhung quyền lợi thiết thân như thế...ở ta người ta hay nói về quyền làm chủ, nhưng lại không có phương tiện và biện pháp để thực hiện cái quyền tối thiểu ấy trong xã hội!
Tôi rất chú ý đến hành động của cảnh sát Paris với cuộc biểu tình này. Cuộc đấu tranh được các ban đại diện học sinh hoạch định rất kỹ, với một kỹ năng tổ chức và huy động rất cao, thành kế hoạch cụ thể. Những ai dự, từ đâu đến, giờ giấc ra sao, ai phụ trách, những điểm tập trung, lộ trinh tuần hành đều được quy định thống nhất. Cảnh sát được Ban lãnh đạo biểu tình thông baó trước hai ngày, và chính cảnh sát trưởng Paris phải huy động hơn 3000 cảnh binh với 30 xe buýt tỏa đi dọc các tuyến đường để bảo vệ an toàn cho các người tham gia đấu tranh. Thật là lý thú.
Cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ học sinh đi đấu tranh, ngăn ngừa bọn càn quấy, bọn phá dám, bọn lưu manh trà trộn vào, chúng gỉả danh học sinh để gây chuyện, phá phách các cửa hiệu nhằm cướp bóc.
Báo chí và truyền hình đưa rất đầy đủ tin tức của cuộc đấu tranh. Có đến hơn 20 tờ báo hàng ngày ở thủ đô và 6 kênh truyền hình - Các báo và đài đều có một cuộc cạnh trạnh, khi thì công khai, khi thì ngấm ngầm để đưa tin được sớm nhất (đua nhau đến từng phút như đưa tin chiến sự vùng Vịnh), đủ nhất và chính xác nhất. Trình độ nghiệp vụ, lương tâm nghề nghiệp cao, các thiết bị in và truyền tin hiện đại. Dư luận là người trọng tài công tâm nhất, người cho điểm, người phán xét thật sự. Mối quan hệ giữa báo, đai, người xem, người nghe thật bén nhậy. Việc thăm dò, bình xét thái độ và ý kiến của công chúng là tức thời. Đang có cuộc tranh luận chính trị giữa hai người A và B. Ngay trong thời gian tranh luận, ai khen, hay chê A hay B, chỉ việc quay 4 số ở máy điện thoại rồi phát biểu ý kiến là đài có máy tính điện tử tổng hợp tức thời và đưa ngay kết qủa lên truyền hình. Ví như ông A được 42% ý kiến tán thành, ông B được 35% ý kiến tán thành, 23% chưa có ý kiến rõ trên tổng số 1000 người có ý kiến.
Trong làng báo Pháp có một tờ báo ở nước ngoài ít ai biết, nhưng người đọc ở Pháp thích thú vô cùng - Đó là tờ tuần báo "Con vịt bị trói" ra vào sáng thư nâm. Đây là tờ báo để cười, một tờ báo giải trí, được ăn khách nhất và cũng được lãi lớn nhất trong tất cả các tuần báo Pháp, bán chạy ở Paris, ở các thành phố và các vùng nông thôn. Mọi đảng phái, mọi tuối tác, nghề nghiệp đều ưa thích. Văn phong báo cực kỳ hóm hỉnh. Không có kiểu cù vào cột nhạt nhẽo, hay cù kiểu hạ đẳng, vô văn hóa. Báo này không thuộc đảng phái nào. Do đó, tôi nghĩ nó là tờ báo chính trị bổ ích lớn nhất cho cuộc sống dân chủ. Tờ báo chỉ trích, lên án, công kích một cách mỉa mai, chua cay mà hóm, tất cả những thói hư, tật xấu trong xã hội, dám vuốt râù những ông lớn nhất nếu như họ có dấu hiệu bê bối, không chút e dè, nể sợ. Báo "Con vịt bị trói" từ năm 1975 cho đến nay, vạch tội cả nhân viên phụ trách ngành hải quan, các quan tòa, rồi cả hệ thống thuế...Nó không buông tha bất cứ ai, từ tổng thống, thủ tướng, đến ông cẩm các quận, những tay buôn lậu, trốn thuế, những mafia tội ác và những kẻ phân biệt chủng tộc, nếu họ có thật những vấn đề, những xì căng đan. Đây là một công cụ lợi hại bảo vệ nền dân chủ và quyền công dân, cố giữ môi trường trong sạch cho xã hội. Tờ báo đươc dư luận quý trọng, tất cả những vấn đề nó nêu lên đều được ngành hữu quan ghi nhận làm cho sáng tỏ và phần không ít được trả lời, kết thúc, khép kín hồ sơ trên mặt báo. Các nhà báo sành nghề ở Paris bái phục "Con vịt bị trói" vì nó đụng chạm rất nhiều đến các vị tai to mặt lớn, có máu mặt và lắm quyền, đến nhiều tổ chức chính trị, kinh tế, tài chinh lắm thế lực- nếu hớ hênh là dễ bị chết kẹt, bị đưa ra tòa để bồi thường danh dự do tố điêu, tố láọ..vậy mà "Con vịt bị trói" vẫn binh chân như vại, vẫn lớn tiếng kêu "cạc, cạc..." cho cả làng nghe, đế cả làng giải trí và phẫn nộ, để công bằng được thực hiện. Nó có tai mắt ở nhiều nơi, có hệ thống cộng tác viên ở lắm chỗ để làm công tác thẩm định, phán đoán có cơ sở, lượng định kỹ mọi chuyện trước khi gây cười cho độc giả.
Một điều được ghi thành văn trong hiến pháp các nước phương Tây và các văn bản pháp quy khác là không một ai có thể bị trừng phạt do những quan niệm chính trị và tư tưởng chính trị của mình. Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người cũng ghi rõ điều đó - ở các nước ấy, ai thích chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn tự do - Ai muốn theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin, hay chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Trosky hay cả chủ nghĩa Staline là hoàn toàn tự do. Ai muốn ca ngợi Fidel Castro, Che Ghevara, hay Titọ..là hoàn toàn tự do. Cũng như ai muốn theo Phật giáo, theo Kitô giáo, theo Hồi giáọ..đều tự do cả. Không một ai được áp đặt cho ai một học thuyết nào, một lý luận, một quan điểm chính trị nào. Cả đến chính phủ, tổng thống và đảng được đa số phiếu cũng không được quyền, không được phép bắt buộc công dân tín nhiệm mình, phục tùng những chính kiến riêng của mình, ca ngợi, tâng bốc mình. Người công dân chỉ có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật. Mà pháp luật bảo vệ quyền tự do tư tưởng của công dân. Cho nên những chuyện ở ta như là đảng cộng sản cứ tự nhận là được nhân dân tín nhiệm, là nhân dân chỉ hoàn tòan tin cậy chúng tôi thôi, và yêu nước là bắt buộc phải yêu chủ nghĩa xã hội (mà chủ nghĩa xã hội nào, ra sao?), không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là phản bộị..thì người phương Tây không làm sao hiểu nổi được! Nó trái với Hiến chương Liên hợp quốc, trái với hiến pháp các nước (và cả Hiến pháp của nước ta ghi rõ quyền tự do tư tưởng), nó có mầu sắc của những chế độ tiền tư bản, khi người dân đen không được láo xược với vua quan, vua là tuyệt đối sáng suốt theo mệnh trời, người dân chỉ được cúi đầu vâng dạ...
Rõ ràng chỉ có một nền dân chủ đa nguyên khi cho công dân nhiều lựa chọn, có cạnh tranh và có đối trọng. Người công dân có quyền tự do cao nhất là tự do suy nghĩ, tự do khen và tự do chê, tự do sử dụng lá phiếu bầu của mình, tự do tín nhiệm và tự do không tín nhiệm, bảo đảm một không khí chính trị lành mạnh, ổn định, thường xuyên phát triển và tiến bộ.
Điều nổi bật ở các nước tư bản là sự am hiểu luật pháp và tuân thủ luật pháp được biểu hiện ở khắp nơi. Nguyên tắc của nó là: người công dân có quyền làm mọi thứ, trừ những điều luật pháp cấm đoán. Cho nên phải biết từ khi còn nhỏ tuổi cho đến khi về già những gì luật cấm. Từ đi ra đường, đi làm, đi du lịch, mua bán, tậu tài sản, gữi tiền...đều có những luật lệ quy tắc rất chặt chẽ. Tôi không phạm luật lệ, tôi là người tự do, không ai đươc đụng chạm đến tôi. Tôi không sợ một ai hết, từ ông cẩm, ông cò, ông thị trưởng, ông hải quan, đến ông bộ trưởng, ông thủ tướng, ông tổng thống. Tôi đi đứng đàng hoàng, ung dung, thư thái với tất cả nhân cách bình đẳng với mọi người- Nếu có ai dụng đến tôi một cách phi pháp, nhà nước phải bảo vệ tôi, tôi có quyền thuê luật sư nếu như tôi chưa hiểu biết hết luật, để bảo vệ cho tôi một cách công bằng. Điện Panthéon là nơi chốn cất "những người con vĩ đại của nước Pháp". Không có tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng nằm đây đâu! Toàn là những nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng, nhà khoa học, bằng tài năng sáng tạo của mình, làm rạng danh cho đất nước. Phía trước điện là trường Đại học Luật khoa, trường lâu đời nhất, gần 200 năm. Nhà nước pháp quyền phải như thế- nắm quyền qua luật pháp- và luật pháp yêu cầu mọi người tuân theo, trên tinh thần bình đẳng của công dân. Các nhân viên cảnh sát ở Paris rất lịch sự, lễ độ. Cả những nhân viên cảnh sát giao thông mặc đồng phục xanh, đi phạt những xe đậu không đúng chỗ cũng lịch sự, nhưng cương quyết Không có: "Xin anh, xin chị thông cảm cho em..." như ở ta, mà đã phạt là phạt. Nếu không có tiền sẵn thì xem giấy, địa chỉ, gửi giấy phạt về nhà. Không trả đúng hẹn, thì bị phạt thêm. Cứ phép nước mà làm. Người có quyền không được cậy quyền thế, quát nạt, khinh người. Nhận tiền phạt đều có biên lai chính thức, có cuống đàng hoàng, không thể lèm nhèm. Luật pháp quy định chặt chẽ, bịt chặt mọi sơ hở. Suốt thời gian ở Paris, tôi chưa hề gặp một ai hỏi giấy tờ, vậy mà họ quản lý rất chặt chẽ những ai vừa đến nước Pháp, làm gì, ở đâu. Có anh Việt kiều ở đây hơn 30 năm, chưa một lần nào có ai hỏi giấy tờ cả, nhưng đến cuối năm phải khai đủ thứ: tình hình bản thân, gia đình, thu nhập, tính thuế, kinh doanh lỗ lãi, bảo hiểm, trợ cấp xã hộị..Những dữ liệu trên đều được ghi và lưu tại các máy tính điện tử.
Tôi liên hệ đến tình hình đất nước. Rõ ràng, việc xây dựng một nhà nước phải trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp trị, xây dựng xã hội thành một xã hội công dân đã trở thành một yêu cầu cấp bách, nếu không dân chủ và công bằng vẫn chỉ là khẩu hiệu. Biết bao nhiêu luật pháp nữa cần đươc xây dựng. Trường đại học luật cần khẩn trương mở cưả đào tạo hàng loạt cán bộ pháp lý. Các luật sư cần phải được hành nghề rộng rãi. Và đảng phải tách khỏi nhà nước. Ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tách ra rõ rệt. Cái khó của ta là buông lỏng quá lâu theo tinh thần đảng trị rồi. Hồi xưa đảng còn trong sạch, dân có niềm tin và tinh thần tự giác, tự trọng rất cao. Nhưng khi lòng tham đã lan tràn từ trên xuống dưới, bất chấp pháp luật, nhà dột từ đỉnh nóc dột xuống, đạo lý không còn mà thiếu hẳn pháp lý để kiềm chế dục vọng thì xã hội mặc sức băng hoại. Từ năm 1945, các nhà luật học Phan Anh, Trần Công Tường và sau đó luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã đề ra việc xây dựng pháp luật là vấn đề cực kỳ cấp bách. Nhưng những ý kiến ấy đều bị bỏ qua, chỉ vì coi đảng là tất cả, đảng là "điều kiện cần và đủ" để xây dựng chính quyền rồi. Chính cái quan niệm đảng trị này là một nguồn gốc của sự hỗn loạn và xuống cấp của xã hội hôm nay.
Một điều cần nói rõ, nếu đảng thực sự tách ra khỏi nhà nước, đảng không còn bao biện, dẫm đạp lên chính quyền, đảng chỉ phát huy tác dụng bằng con đường thuyết phục như văn kiện của Đại hội đảng VII ghi rõ, thì đại hội VII lần này không nên làm ầm ĩ dư luận đến thế. Phải để cho việc bầu cử quốc hội mới và việc quốc hội ra các quyết định cần thiết là hệ trọng hơn, vì theo đúng Hiến pháp, "mọi quyền lực của nhân dân thuộc về các cơ quan dân cử. "
Trong những tháng sống trên đất Pháp, điều gây ấn tượng lớn và sâu đối với tôi là người công dân, người lao động được hưởng biết bao nhiêu quyền lợi thiết thực. Phải đấu tranh quyết liệt mấy thế hệ công nhân và công dân mới giành được giờ lao động mỗi ngày là dưới 8 giờ (so với 10, 12 giờ hay hơn nữa thời chủ nghĩa tư bản sơ khai), mỗi tuần làm việc 42 giờ hoặc dưới 42 giờ (so với 60, 65 giờ hay hơn nữa), cũng như mỗi tuần làm việc 5 ngày (so với 6 hoặc 7 ngày hồi trước)- Trên báo Pháp đang bàn về việc tổ chức để người lao động, viên chức có thể nghỉ 3 ngày liền sau 4 ngày làm việc, mở ra một hướng đấu tranh mới mẻ ở một số ngành. Lương tối thiểu của công nhân viên chức được ấn định hàng năm. Hiện nay lương SMIC (tối thiểu cho các ngành nghề) hàng tháng là 5300 Francs (bằng gần 1000 dô la). Người về hưu được bảo đảm về cuộc sống. Tùy theo thâm niên, nghề nghiệp và mức lương mà nhận được lương hưu khá giả hay dư dật ít nhiều. Quỹ trợ cấp xã hội rất lớn, do nhiều nguồn đóng góp: của chính phủ, trích ra từ ngân sách, tiền trích từ lương của lao đông, viên chức, cũng như đóng góp của người chủ mướn lao động, mướn nhân công và viên chức, từ các hãng tư nhân phải trích lãi và nộp nhiều loại thuế...Người lao động, viên chức được bảo hiểm về sức khỏe, được chữa bệnh, nằm bệnh viện không mất tiền, hoặc chỉ phải đóng góp rất ít, nếu không làm việc được, neo đơn, thất nghiệp thì được các cơ quan cưú trợ xã hội xét và được những khoản phụ cấp thích đáng...Chính phủ làm ra những căn nhà HLM (nhà cho thuê giá thấp) cho những người thu nhập trung bình và thấp (những ngôi nhà làm riêng cho cán bộ cấp cao ở Hà Nội còn kém xa những HLM ở Pháp). Trẻ em, người già, người tàn tật, được chăm sóc rất đặc biệt, không phải chỉ cho một số ít, mà cho đại trà, nghĩa là mọi người trong diện ấy một cách bình đẳng.
Việc đi lại của công dân được nhà nước giải quyết từng bước theo nhu cầu. Hiện Paris có hệ thống tầu điện ngầm như mắc cửi, gồm hơn 10 đường trục chéo nhau với gần 600 ga. Có đến hơn 3 triệu lượt người đi Metro mỗi ngày- thêm vào đó có hệ thống 4 đường RER- xe điện tốc độ cao- trong thủ đô nối liền với hệ thống xe lửa trải ra khắp nước. Lại có hệ thống xe lửa nhanh TGV, mỗi giờ chạy được 240 km...Có chính sách bán vé chuyến, vé ngày, vé tháng có loại vé dành chung cho tầu điện ngầm, RER, và xe buýt, có loại vé cho công nhân, cho học sinh và sinh viên. Lại có loại vé cho người về hưu, người tàn tật, được bớt 50 %, hay hoàn toàn không mất tiền- Học sinh đi tập thể, đi du lịch được mua gíá hạ hơn nữạ..
bên sông Loire, tôi ghé thăm một nhà dưỡng lão của hơn 40 cụ từ 76 đến 103 tuổi. Đây là lâu đài của môt quận công cũ ở trong vùng. Các cụ được phục vụ chu đáo, ăn ngủ, chơi bài, đọc sách báo, chơi thể thao, đi bách bộ, làm vườn...Mọi cụ già trong vùng có hoặc không có người thân chăm sóc, đều có thể đến đây sống trong niềm vui và được phục vụ chu đáo. Đã có sự ganh đua giữa các vị dân biểu, các quận trưởng, tỉnh trưởng, giữa đảng cộng sản, đảng xã hội, với các đảng phái hữu. Đại biểu nào cầm quyền một nhiệm kỳ đều cố để lại một dấu ấn về thành tựu của mình ở địa phương: đó là một, hai nhà trẻ, dăm bảy lớp mẫu giáo, là những vườn hoa và thảm cây xanh..., đó cũng có thể là 1, 2 trường trung học, một thư viện có vài nghìn cuốn sách, là sân vận động, là những phòng thể thao mùa đông. Đó có thể là ngôi nhà dưỡng lão, những đại lộ trồng cây, những cửa hàng thực phẩm, hoặc những nhà ở có kiến trúc đặc sắc cho nhân dân thuê với giá rẻ...Nhiệm kỳ của ông, bà, làm tốt, thực sự quan tâm đến nhân dân, thực hiện đầy đủ lời hứa tuyển cử, cử tri chúng tôi lại tín nhiệm ông, bà. Còn ông hoặc bà kia chỉ hứa hão, lại bê bối, chẳng có tích sự gì để đánh đấu nhiệm kỳ thì thôi, xin vái ngài, ô voạ..xin ông bà về nghỉ cho dân khỏẹ..
Các vị đại biểu ra ứng cử đều có chương trình cụ thể, không có hứa hẹn chung chung. Phải am hiểu địa phương về tất cả các mặt (sản xuất, số lao động, số thất nghiệp, hệ thống y tế, giáo dục, các mặt xã hội và đời sống của các lớp dân cự..) từ đó đề ra kế hoạch cho cử tri xem xét.
Thị trường Paris cũng vậy. Ông Chirac ra tranh cử với một kế hoạch rất rõ ràng. Giải quyết những vấn đề lao động, xây dựng và điều hành các công việc của thủ đô, xây dựng những công trỉnh, giải quyết nạn thất nghiệp...Đã hứa hẹn là phải thực hiện đến nơi, đến chốn, hoặc vượt lời hứa. Việc xây dựng khu La Defense, một quần thể kiến trúc rất lớn ở phía Tây Paris- đặc sắc nhất ở châu Âu- đã căn bản hoàn thành. Khu La Villette, "thành phố khoa học và công nghiệp" ở phía đông bắc Paris, trong quận 19 đang được hoàn tất. Đây là nơi phổ biến những kiến thức, những thành tựu khoa học và công nghiệp của nước Pháp và thế giới, có phòng chiếu phim rộng lớn, diện tích màn chiếu hình vòm, rộng 1000 mét vuông. Những kiến thức về vật lý, hóa học, sinh học, tin học, quang học, địa lý, về du hành vũ trụ, về lò phản ứng hạt nhân, từ giản đơn đến phức tạp đều được trình bầy dưới dạng phổ cập và nâng cao, thu hút mỗi lứa tuổi, nhất là tuổi trẻ đến để tìm hiểu về khoa học hiện đại. Gần đây thị trưởng Paris lại phải xắn tay thúc đẩy việc mở rộng hệ thống tầu điện ngầm ra các hướng như ông từng hứa. Trong nhiệm kỳ này của ông, Paris sẽ có thêm gần một chục ga mêtrô nữa- Những ga tầu điện ngầm thật đặc sắc của Paris. Có ga như La Bastille, Montparnasse, Les Halles, Republique, ga Lyon...có 3, 4 đường chéo nhau, gối lên nhau. Nhà ga rộng mênh mông, ước bằng cả mặt hồ Hoàn Kiếm, có 3, 4 tầng dưới mặt đất...
Tổng thống Pháp Pompidou trong nhiệm kỳ của mình cũng để lại một dấu ấn giữa Paris. Một Trung tâm mang tên ông, còn gọi là Trung tâm Beaubourg (tên của phố này). Ngôi nhà cực lớn, 6 tầng cao và 3 tầng hầm được xây dựng về hình thức như một nhà máy với những ống vận chuyển xanh, cùng với những ống đuy ra lắp gương. Đây là một trung tâm văn hóa giáo dục công cộng, mỗi ngày tiếp đón chừng 80 ngàn đến 120 ngàn lượt người. Họ đến đọc báo, xem sách, xem phim, xem triển lãm khoa học, mỹ thuật, nghe nói chuyện, làm bài, học ngoại ngữ. Vào cửa không tốn một xu, chẳng cần giấy tờ gì hết, mà tha hồ lấy báo hàng ngày, báo hàng tuần của Pháp và thế giới ra mà đọc, Có "thư viện nhân dân" cực lớn đủ loại sách, được xếp đặt khoa học, có những thủ thư tận tình, có chỗ ngồi đọc sách thoáng rộng, đủ ánh sáng, có máy sao chụp tài liệu, có hệ thống nghe và nhìn để học hơn 20 thứ tiếng khác nhau, có những trung tâm máy tính điện tử ghi mọi dữ kiện chính trị, văn hóa, khoa học...giải đáp ngay tức khắc những câu hỏi của mọi ngườị..Trên tầng cao nhất có sân đứng ngắm Paris và xung quanh, có nơi điểm tâm, giải khát tự phục vụ và những phòng triển lãm hội họa hiện đại. Tôi gặp những bạn trẻ Việt nam, Trung quốc, Angierị..đến đây để học thêm hàng tuần, hàng tháng liền, nâng cao trình độ tiếng Pháp và trình độ chuyên ngành của mình, chẳng tốn tiền. ở đây chỉ cần có thiện ý, ham học, còn điều kiện rõ ràng là có sẵn, không tốn kém gì cả, Trung tâm mang tên tổng thống Pompidou là dẫn chứng về một cơ sở cung cấp hiểu biết, trí tuệ cho toàn xã hội. Những người phụ trách trung tâm này cho biết: chúng tôi bỏ vốn vào đây không ít, nhưng bù lại là lợi, lợi không nhỏ. Vì sức mạnh của một dân tộc là kiến thức, quảng đại quần chúng thừa hướng một cách rộng rãi, kịp thời.
Còn tổng thống Mitterand? Nhiệm kỳ của đương kim tổng thống sẽ được để lại những dấu ấn lâu bền ở một số công trình đồ sộ- Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngay cách mạng Pháp 1789- 1989 đã hoàn thành Kim tự tháp lớn bằng kính đặt ở sân trong của lâu đài Louvres, đã phục hồi toàn bộ cung điện Louvres sau khi tổng thống quyết định di chuyển Bộ Tài chính làm việc tại đây ra bờ sông Seine, đã xây dựng cung opera mới, nhà hát lớn của thủ đô, ngay trên nền nhà ngục Bastille cũ đã bị san bằng hồi ấy: một opera phủ kính, đặc sắc và độ sộ vào bậc nhất châu âu hiện nay- Đã hoàn thành một loạt công trình lớn bên bờ sông Seine, nổi nhất là trụ sở Bộ Tài chính mới, có sân máy bay lên thẳng, có bến, xuống tầu trên sông Seine, có cung thể thao tầm cỡ quốc tế ở cạnh.
phía đông, trên sông Marne, một công trình kỹ vĩ mang tên EuroĐisneyland đang được khẩn trương xây dựng trên một khu vực rộng hơn một ngàn héc- ta. Đây là một trung tâm giải trí cho thiếu niên, và cả cho thanh niên và người lớn tuổi. Một phác họa kiểu châu Âu của Disneyland ở châu Mỹ, để thế hệ trẻ tha hồ thưởng thức những bay bổng của tưởng tượng, sống trong những thần thoại và truyền thuyết: từ thế giới cuả Bạch tuyết và bảy chàng lùn, đến vô vàn chuyện thú vị về con chuột của Walt Disney, qua những câu chuyện hấp dẫn của dân gian Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Mỹ La Tinh...và tập trung vào văn học dân gian Pháp, một nền văn học mang nhiều tính nhân đạo sâu sắc...
Có nhiều người sẽ mắng mỏ tôi ăn phải bả của chủ nghĩa tư bản và đưa nó lên tận mây xanh! Không, tôi đã nói chuyện với khá nhiều nhà kinh tế và sử học Pháp, với những anh em Việt kiều sống hàng hai mươi, ba mươi năm ở Paris và trực tiếp quan sát bằng tai, bằng mắt mình cuộc sống các mặt. Phải khẳng định rõ rệt rằng cuộc sống của nhân dân, của lao động, viên chức đã có thay đổi lớn trong từng thời gian một- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc sống rất gay gắt- phải mua hàng bằng tem phiếu- Thiếu điện, thiếu than sưởi mùa rét. Thiếu nhà vệ sinh, điện nước, thiếu thang máỵ..Sản xuất được khôi phục và phát triển là đời sống được cải thiện. Hiện nay Pháp là nước số tỷ lệ điện nguyên tử trong lưới điện quốc gia cao nhất châu Âu, điện cho sản xuất và tiêu dùng không thiếu Xưa kia điện thoại vài trăm người mới có một máy, nay cứ 1, 4 người một bộ máy- Hàng hóa rất nhiều vẻ. Bánh mì bán thừa thãi có đến 20 loại, tha hồ chọn: bánh tròn, bánh dẹt, bánh có tỷ lệ cám, bánh có trộn bột ngô, và trộn kê, bánh có đường, có mứt...Sữa bò cũng có hàng chục loại, với các chai đựng khác nhaụ..Đó trước hết là do việc tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu của nhà sản xuất nhằm phục vụ khách hàng tốt nhất. Không phải từ lòng tốt và thiện tâm của các nhà tư bản, mà từ cuộc chạy theo lợi nhuận phải chăng, chạy theo lợi ích của các công ty, các nhà sản xuất, xã hội chấp nhận điều đó một cách sòng phẳng. Thứ hai là những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, những sáng chế và phát minh được ứng dụng sớm nhất vào sản xuất, đưa năng xuất xã hội ngày càng lên cao. Tôi vừa xem một máy tính điện tử bỏ túi nhẹ bằng một bao thuốc lá, có thể dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh và ngược lại chứa 12 nghìn từ, giá chỉ bằng một phần hai mươi lương tối thiểu của một công nhân bậc thấp! Thật là kỳ diệu! Pháp là nơi phát minh ra tấm "thẻ" gọi điện thoại điện tử- từ tính mua một lần dùng hàng chục cho đến một trăm lần mọi máy điện thọai công cộng.
Ba là- điều này rất quan trọng: tất cả những kết quả ấy đều phải trải qua những cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài, có khi khá gay gắt về chính trị, kinh tế của các chính đảng dân chủ và tiến bộ, của các cộng đoàn, của hàng triệu công nhân, qua các cuộc thảo luận, tuần hành, bãi công bộ phận và toàn bộ, với những yếu sách cụ thể từ thấp lên cao. Sức lực, kinh nghiệm đấu tranh ấy đã dựa vào Hiến pháp, luật pháp, quyền công dân mà phát huy hàng ngày, được các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, phát thanh, truyền hình hỗ trợ mạnh mẽ và rất có hiệu quả.
Điều thứ tư là do có Liên Xô, có hệ thống xã hội chủ nghĩa, tại đó nhân dân lao động được chăm sóc nhà ở với giá thuê rất thấp, chữa bệnh cho nhân dân không mất tiền, giáo dục từ thấp lên cao không mất tiền, phụ cấp xã hội và bảo hiểm xã hội ở một số nước khá cao (cho những đối tượng trẻ em, người già, gia đình đông con, người tàn tật, nuôi cao tuổi cô đơn), thời gian lao động công nhân viên chức giảm trong năm, trong tuần lễ và trong ngàỵ..Những thành quả của các nước xã hội chủ nghĩa ấy thúc đẩy nội dung đấu tranh của lao động các nước tư bản. Chính giai cấp tư bản buộc phải chú trọng để không thua kém các nước xã hội chủ nghĩa về mặt này trong cuộc cạnh tranh giữa hai xã hội đối lập. Điều đáng buồn cho chủ nghĩa xã hội hiện thực là không thiếu những thiện ý về cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của những người lao động và đông đảo nhân dân nhưng đã thực hiện qúa tải, nôn nóng và vội vã với những chủ trương bao cấp tràn lan theo kiểu bình quân chủ nghĩa, trong khi chưa tạo nên được năng xuất lao động cao và sản phẩm dồi dào như ở chủ nghiã tư bản. Đi cùng với thiếu dân chủ, sự đổ vỡ là không tránh khỏi.
Có người chất vấn tôi về nạn thất nghiệp, nạn mãi dâm, nạn nghiện ma túy, tệ tham nhũng trong các nước tư bản? Trong vấn đề này cần có thái độ tỉnh táo, khách quan và công bằng- Trong một thời kỳ, nhất là thời kỳ chiến tranh, khi toàn bộ sinh lực xã hội được huy động cho cuộc chiến đấu sống mái với kẻ thù xâm lược, các nước xã hội chủ nghĩa đã từng giữ gìn tương đối trong sạch xã hội mình, từ lực lượng lãnh đạo đến nhân dân. Một thời gian nhất định, đạo đức, niềm tin, tính tự giác trong xã hội nhìn chung đã cao hơn cả pháp luật. Thế nhưng ở các nước ấy, một thời gian dài đã có thái độ không sòng phẳng theo kiểu lập trường cứng nhắc và gian lận: về phía ta thì đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại, về phía "địch" thì tha hồ nói thêm, tô vẽ cho xấu thêm, bẩn thêm. Ví dụ, các giáo sư và giáo trình xã hội chủ nghĩa không công nhận là trong các nước xã hội chủ nghĩa có thất nghiệp (mà chỉ có người chưa có việc làm!), cũng như tại đó không có khủng hoảng (chỉ có giá cuả đồng tiền chưa vững), cũng như không có cạnh tranh (chỉ có thi đua), còn trộm cắp, xì- ke, hối lộ, mãi dâm...chỉ là một số hiện tượng tiêu cực tạm thời. Các nước xã hội chủ nghĩa đều có nền dân chủ một triệu lần cao hơn các nước khác! Những chân lý ấy trước đây, khi chưa có được tin tức, trao đổi, khi chưa đọc báo nước ngòai, khi chưa được xem phim, khi người thân trực tiếp thăm viếng nhau còn hiếm, thì còn có người tin. Nhưng khi hàng rào ngăn cách biến mất, những thông tin về các nước được mở rộng, chuẩn xác, thì những sự thật không sao còn che dấu được nữa.
Trên các mặt: sản xuất ra nhiều của cải, đạt năng xuất lao động cao, ứng dụng nhanh các quy trình công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu phong phú của người tiêu dùng...thì chưa có một nước xã hội chủ nghĩa nào đạt, thậm chí còn kém và kém rất xa. Theo Mác và Lê- nin, đó là những mặt then chốt nhất, đem lại thế mạnh và thế ưu việt của một chế độ xã hội. Liên Xô là nước đầu tiên phóng vệ tinh nhân tạo và cũng lần đầu tiên đưa con người vào vũ trụ, nhưng đến nay lại sút kém về mặt này, khi Mỹ đã đưa người lên cung trăng đang phóng những con tầu vũ trụ cực lớn và thu hồi nó về, đồng thời đang đóng vai trò quyết định trong việc thám hiểm Sao Hỏạ..
Về mặt thực hiện dân chủ thì chế độ độc đảng đã tỏ ra không ổn trên thực tế- Sự độc đóan, chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi, thói gia trưởng, quan liêu, xa rời nhân dân đã ngang nhiên dẫm đạp lên quyền dân chủ- Tất cả các nứơc xã hội chủ nghĩa cũ đều đã sớm muộn chấp nhận đa nguyên: Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức (trước khi thống nhất với CHLB Đức), Tiệp Khắc, Bungari, Hungari, Rumani, cho đến Mông cổ, Anbani, Nam Tư. Chỉ còn Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam còn cố cưỡng lại xu thế ấy, nhưng chắc chắn không thể cưỡng được lâu, vì trái với đạo lý, trái với quy luật tất yếu, trái với đòi hỏi mạnh mẽ của nhân dân mỗi nước- Viện lý do là địch sẽ lập tức lợi dụng là thái độ hoảng hốt, thiếu tự tin và thiếu tin ở nhân dân.
Mặt khác những tình hình thiếu dân chủ, vi phạm quyền làm chủ xã hội của nhân dân đã làm sản xuất rối loạn, bất công xã hội mở rộng, nạn tham nhũng hoành hành như bệnh dịch, xã hội băng hoại về mặt đạo đức và không ổn định- Sự không ổn định hiện nay hoàn toàn không phải do lực lượng nào bên ngoài gây nên mà do tình trạng thiếu dân chủ.
Cái gốc của vấn đề là ở xã hội nào cũng có người tốt và người xấu. Trong con người nào cũng có mặt tốt và mặt xấu- Trước kia, có người hiểu rằng những người lãnh tụ cộng sản là rất tốt, là hảo hạng, thậm chí gần như là tốt đẹp một cách thánh thiện, xứng đáng là mẫu mực cho toàn xã hội. Nhân dân quý trọng đến mức tôn thờ Staline, Mao Trạch Đông chính là vì thế. Sau này được biết Staline độc đóan ra sao, hung bạo thế nào, coi thừơng tính mạng nhân dân ra sao, thì nhân dân Liên Xô và thế giới đều căm giận và khinh bỉ. Mao cũng hết thiêng do độc đóan, tùy tiện trong cách mạng văn hóa vô sản, đàn áp những người dân chủ, nhân dân lương thiện...ở Việt nam, chủ tịch Hồ Chí Mnh được nhìn nhận như một con người tận tụy, có đạo đức, có tâm huyết, hiểu biết rộng, hành động kiên quyết...Về sau nhiều người cho rằng ông là lãnh tụ, có công, nhưng cũng có ưu, có khuyết, có sai lầm nữa, đó là một điều tự nhiên. Còn những người lãnh đạo sau chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ ra yếu kém tất cả các mặt: gìa ốm về thể chất, thiếu đức tính lắng nghe, thiếu am hiểu về thế giới mới, thiếu trách nhiệm, thiếu phục thiện, cố duy trì một chế độ không dân chủ về chính trị.
ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, hay tư bản chủ nghĩa, xem ra vấn đề cốt tử là nhân dân, trước hết là người lao động. Toàn thể công dân trong xã hội có được lựa chọn những người lãnh đạo của mình và kiểm tra công việc của họ hay không? ở các nước tư bản chủ nghĩa, họ đã đấu tranh và giữ được cách làm như thế, nhân dân được hưởng thụ chính đáng những quyền lợi thiết thực. ở các nước tư bản, cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục hàng ngày. ở Pháp gần đây các lực lựơng phái tả (vốn thuộc đảng cộng sản Pháp, đảng xã hội Pháp và một số người không đảng phái) vừa gặp nhau trên khẩu hiệu Refondations ("xây dựng lại" hay "đặt nền móng mới"), nhằm đấu tranh cho một chế độ xã hội có nhiều dân chủ, và công bằng xã hội hơn. Tôi đã dự những cuộc họp có nội dung phong phú ấy ở phòng họp quốc tế La Villette, nhằm tập hợp một lực lượng mới của cánh tả Pháp do thời cuộc đòi hỏi. Không có chế độ nào tuyệt mỹ cả - mọi xã hội đều phải vận động theo hướng hoàn thiện thêm. Dân chủ, công bằng xã hội và hạnh phúc của nhân dân luôn luôn và mãi mãi là mục đích ở phía trước, đây là một sự tiếp cận thường xuyên và không bao giờ kết thúc cả.
Vấn đề bà con Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài tại mọi châu lục là một vấn đề cực lớn. Cần một công trình nghiên cứu chu đáo về lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế, pháp luật, tập quán, tâm lý...để cùng nhau giải quyết theo những lợi ích trước mắt và lâu dài của tổ quốc Việt nam.
Việc này càng cần thiết và cấp bách vì đã bị coi nhẹ, lại bị nhiễu loạn vì những tình cảm nhất thời chi phối ở cả hai bên chiến tuyến trước kia. Những tình cảm âm tính ấy đến nay vẫn còn tồn tại. Rất cần cùng nhau bàn bạc để giải quyết thấu tình đạt lý, trên tinh thần hòa hợp và hiểu biết lẫn nhau.
Cộng sản và quốc gia, ai đúng, ai sai? Ai có công và ai có tội? Ai là chân chính, ai là không chân chính? Câu chuyện này có thể nói hoài không hết, thảo luận hoài không sao ngả ngũ và kết luận được. Bởi vì chỗ đứng khác nhau, cách nhìn nhận khác nhau, đối lập nhau.
Tôi đã gặp và hỏi chuyện khá nhiều bà con người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ, ở úc và ở Thái Lan, ở Bỉ và ở Hà Lan...Có người là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 3. 1945), hoặc bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh sau cách mạng tháng Tám. Họ là những trí thức, giáo sư, sinh viên, công chức. Họ là những nhà hoạ sĩ, điêu khắc, sáng tác âm nhạc, nhà báọ..Họ là những bà nội trợ, nam nữ thanh niên...Họ là những người lính O. N. S (lính thợ) sang đây từ Đại chiến thế giới thứ nhất (số này chỉ còn lại rất ít người, đã trên dưới 80 tuổi), hoặc từ Đại chiến thế giới thư hai, có những người thông ngôn cho anh em lính thợ ONS. Có người đi tu học từ hồi 1950 đến 1954, hoặc từ những năm 1960 rồi ở lại. Có những người đi vào những năm 1973, 1974 và 1975 khi chiến tranh kết thúc. Có nhiều người ra đi hồi 1977, 1978 trong những chiến dịch ra đi của người Hoa.
Có người ra đi bằng con đường đoàn tụ gia đình của Cao ủy người tỵ nạn...Cũng có một số người là thuyền nhân, trôi đạt và chờ đợi mãi ở các trại tỵ nạn ở Hồng Kông hay ở Thái Lan, Malaixia hay Philipine, Singapor hay Indonesie, hoặc ở Australia rồi mới sang được đất Pháp. Có người đã vào quốc tịch Pháp, có người xin tỵ nạn chính trị, có người còn hộ chiếu Viêt Nam, quy chế của họ rất khác nhau. Có người lấy vợ hoặc lấy chồng Pháp, sinh con, đẻ cái. Có gia đình đã trải qua hai hay ba thế hệ người gốc Việt Nam trên đất Pháp. Động cơ rời quê hương của họ - chừng 200. 000 người hay hơn nữa, cũng rất khác nhau. Bị chính quyền hồi còn chính phủ bảo hộ (Bắc kỳ và Trung kỳ) hoặc thuộc địa (Nam Kỳ) tuyển mộ một cách cưỡng bức đi lính thợ. Gia đình khá giả cử đi du học rồi bị kẹt do chiến tranh. Nhiều anh em sang Pháp chỉ nghĩ sẽ học ở đây trong 4, 5 năm là cùng, vậy mà kẹt lại đến 20, 30, 40 năm! Cũng có người đi bằng đường chính thức, đoàn tụ gia đình...Quan điểm chính trị do đó hết sức nhiều vẻ, đi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Có những bác công nhân tự nhận là trung kiên, vững vàng nhất, "trung thành, tận tụy nhất, " luôn giữ bàn thờ tổ quốc, cờ đỏ sao vàng và ảnh lớn chủ tịch Hồ Chí Minh giữa nhà, coi đại sứ quán cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như đại diện của tổ quốc Việt Nam và coi lời của đảng cộng sản, cũng như đại biểu của đảng, những căn dặn của cán bộ sứ quán như là lời dạy của cha mẹ mình, để một lòng tuân theọ..ở cực kia là những người quyết không đội trời chung với cộng sản, coi cộng sản là nguồn gốc của mọi tai họa, khổ đau và nghèo hèn của dân tộc, họ thâm thù và khinh bỉ những người cộng sản, nhất là những người lãnh đạo của đảng và nhà nước. giữa hai cực đoan ấy là cả một gam mầu sắc rất phong phú, trong đó có cả một số người không có chính kiến chính trị rõ ràng, chỉ biết làm ăn, kinh doanh, kiếm lợi cho gia đình và riêng mình ở nơi xa quê hương này, hoặc chỉ lo đến việc xin visa về nước sao cho dễ dàng.
Không gì bằng đối thoại. Đối thoại ngay thẳng và thanh thật, không có định kiến trước. Tôi muốn lắng nghe nhiều hơn là nói. Cố hiểu cho rõ ý kiến và để biết hòan cảnh của mỗi người. Có người để cho tình cảm dẫn dắt, phát biểu rất sôi nổi. Có người nặng về lý trí, điềm tỉnh và tỉnh táo. Có người xa nước quá lâu, tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Có người có những suy tư sâu sắc, những nghiền ngẫm kỹ lưỡng, những đắn đo chân thực. Cũng có nhiều người có biến chuyển trong nhận thức và kể lại những nhận thức đã thay đổi ra sao và vì đâu. Có những người ý kiến trái ngược nhau, chỉ cần mở đầu tranh luận là kéo dài bất tận những cuộc cãi vã. Chiến tranh và hận thù. Một bên thì lập luận: Ai theo Pháp, theo Mỹ để lôi kéo vào đất nước hàng triệu tên xâm lược, bắn phá hàng chục triệu tấn bom đạn trên cả hai miền Nam Bắc? Hàng triệu người chết, tàn phá nhà cửa, ruộng đồng, rừng quý. Mỹ Lai là thế nào? Chiến dịch tố cộng, diệt cộng tàn bạo để trụy lùng, bức haị những người yêu nước ra sao? Chiến dịch Phượng Hoàng, Bình định, Bình định cấp tốc, lùng ráp những người cộng sản, những người yêu nước ra sao? Các người là Việt gian chính cống. Không có các người, Pháp, Mỹ cũng bị bó tay. Các người đã thua trận nhục nhã, nay còn định quay lại à? Nhân dân không bao giờ quên tội ác của các người đâu. Những tiếng nói của phía bên kia vang lên: Những tiếng nói: Cộng sản là có tội, là tội phạm chính. Ai đã từ bỏ quyền lợi dân tộc để phục vụ cho nước ngoài, cho quốc tế Ba, cho Nga Xô, cho Trung cộng? Ai đã giết hại hàng chục ngàn người nông dân và công dân vô tội trong cải cách ruộng đất? Ai tàn phá sức sản xuất xã hội, làm cho xã hội hỗn loạn sa sút, đảo điên vì cải tạo nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp cưỡng bức, đề xướng học thuyết đấu tranh giai cấp và luận thuyết "ai thắng ai" gay gắt? Ai mù quáng theo lệnh của Staline, coi mọi người không cùng chính kiến là kẻ thù nguy hiểm, cần phải thủ tiêu để tàn sát những người quốc gia thuộc các tổ chức quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt quốc, Việt cách), Duy Dân, Phục quốc?...rồi tàn sát cả những người cộng sản, quốc tế chủ nghĩa như các nhóm Trotskit Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâụ..những trí thức vô sản cùng ở nhà tù Côn Đảo với những người cộng sản?...Ai đàn áp hàng trăm trí thức văn nghệ sĩ trong các vụ "chống đảng", "xét lại", "Nhân Văn- Giai phẩm. " Rồi ai đã xua đuổi hàng nửa triệu người Hoa, trong đó có cả những công nhân mỏ than, công nhân các xí nghiệp đánh cá, làm gốm, các thợ giỏi ở Chợ Lớn...Ai đã gây nên chuyện ra đi của hàng triệu người Việt, tổ chức các kế hoạch B để vơ vét cơ man nào là tiền của, vàng, đồ trang sức vào túi cá nhân, gây nên cái chết oan uổng và bị thảm của hàng chục ngàn người do tai nạn tầu thuyền, sóng gió, hải tặc? Và ai? Nếu không phải những người cầm quyền cộng sản phảỉ chịu trách nhiệm về tình hình sản xuất sa sút, đời sống nhân dân cực kỳ bi đát, nạn tham nhũng lan tràn, văn hóa suy đồi, nạn trộm cắp, đi điếm, cờ bạc tùm lum khắp cả nước?
Quả thật hai bên mà ngồi kể tội nhau, tội xưa và tội nay, tội gọi là bán nước, hại dân, tội về dùng bạo lực đối xử với nhaụ..thì không sao có thể giảng hòa thông cảm nổi. Và hình như bên nào cũng có cái lý của mình, có những sự thật của mình. Có người còn cho rằng chính sự lựa chọn của những người Cộng sản, đưa Việt nam vào qũy đạo của Liên Xô và Đế Tam Quốc tế đã làm cho Việt Nam trở thành mục tiêu của chiến lược kìm giữ phong trào Cộng sản của các nước Phương Tây. Đó chính là nguồn gốc sâu xa của những cuộc chiến tranh liên miên trong hơn 40 năm qua. Họ đặt ra những chữ "nếu" - "Nếu" như Đảng Cộng sản không dành được sự lãnh đạo trong Cách mạng Việt Nam..."Nếu" như các Đảng mang tính chất quốc gia dành được quyền lãnh đạo Cách mạng..."Nếu" như Đảng Cộng sản sau khi dành được độc lập cho đất nước rồi mà không mù quáng lao vào xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Staline, theo kiểu kế hoạch gò bó, thủ tiêu mọi quyền tự hữu về tư liệu sản xuất, ..."nếu như?" Ôi là cái chữ "nếu!" Châm ngôn Pháp có câu:
"Với cái chữ "Nếu, " có thể nhét cả Paris vào trong một cái chai!
Cho dù Paris này đã lớn rộng vô cùng rồi.
Ai đúng? Ai sai? Cần thấy rằng nhân dân ta bị đổ máu quá nhiều. Tài sản đất nước bị phung phí. Hiện tình đất nước thật bi đát: đứng thứ 158 trong số 166 quốc gia trên thế giới! Cả một năm, người Việt Nam lao động cật lực mà chỉ nhận được đồng lương vẻn vẹn chưa bằng số tiền người dân các nước đã phát triển làm ra trong bốn ngày!
Tôi đã có lần trình bầy với bạn bè gần xa có những quan điểm đối lập: Tôi xin nghe và ghi nhận ý kiến của các bạn. Xin tạm gác lại cuộc tranh luận có thể còn kéo dài lê thê vì khó ngả ngũ. Xin nhìn thẳng vào hiện tình khủng hoảng nghiêm trọng để cứu dân, cứu nước ta- Bạn có đồng ý không? Cứu dân, cưú nước trong cơn SOS cực kỳ khẩn cấp này đã, phải không bạn? rồi khi chung sức cứu dân, cứu nước khỏi thảm họa thì chúng ta có thể hiểu nhau hơn, gần nhau hơn, độ lượng và khoan dung với nhau hơn, bạn có đồng ý không?
Tôi hiểu rằng, nén những tình cảm sâu sắc, gác lại những nhận thức đã thành định kiến đâu phải dễ! Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như con mình đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong kháng chiến chống Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung Thu năm 1948, trong trận càn của lính Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn lính lê dương xộc vào nhà tôi, bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết ngay trên sân nhà bếp. Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận, trên chiến trường Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của khẩu súng là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc mới bốn tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết chung cùng với các bạn của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua trắng tay, tôi vui mừng vì những mối thù của riêng mình đã được trả sòng phẳng...
Và nay chính tôi lại đề xuất ý kiến với các bạn xa gần là xin nén tình cảm riêng lại đã. Quả là một yêu cầu không đơn giản. Tháng 3. 1991 tôi gặp một thuyền nhân quê ở Rạch Giá sang Pháp từ năm 1981. Vợ anh bị hải tặc Thái Lan hiếp, thành bệnh rồi chết. Anh mất hai con trên biển, một con trai 13 tuổi và một con gái lên hai. Anh sinh bệnh tâm thần sau khi đáp lên một hòn đảo ở Malaixia. Nay khỏi bệnh, anh làm công cho một tiệm ăn người Việt. Anh vẫn sống một mình với niềm oán hận cộng sản không đội trời chung. Với anh, tôi tôn trọng nỗi đau khổ của người cha, người chồng. Tôi thông cảm thảm cảnh của anh, khó có thể yêu cầu anh để sang một bên sự oán thù đã trở thành máu thịt, ít ra là lúc này.
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại thật muôn vẻ. Chớ đơn giản và có định kiến. Tôi từng nghe ở Hà Nội các quan chức nhận định: họ đã bỏ Tổ quốc ra đi là táng tận lương tâm, là vong bản, mất gốc! Đó là những tên chống cộng, chống chế độ thâm căn cố để, quay lưng lại dân tộc, những kẻ ích kỷ, trốn chạy cho bản thân mình, tìm cho sung sướng, đi kiếm bơ sữa, mặc cho đồng bào nghèo khổ ở trong nước- Đối với họ ta không nên tiếc làm gì. Cứ coi như ta không có họ! Đây là cục thịt thừa trên cơ thể dân tộc, cắt bỏ đi thì cơ thể càng khỏe. Đó là cách nhìn độc đoán, mang tính áp đặt, suy diễn đơn giản, gộp chúng thành một gói cả một cộng đồng rất đa dạng. Và cách nhìn ấy vô lý, bất công, và nhất là có hại.
Quả thật ở Hoa Kỳ và úc có những lực lượng cực đoan, chống cộng một cách điên cuồng. . Họ lập binh đoàn, lập mặt trận với đủ thứ tên:
...Họ tuyển mộ những quân nhân cũ và thanh niên mới, đưa vào biên chế, huấn luyện quân sự. Họ làm lễ tuyên thệ, xuất phát. Họ ra thông báo về tình hình chiến sự, về những chiến khu trong quốc nộị..Họ mở những đêm dạ hội, quyên góp, âm nhạc và diễn kịch, nhẩy múa lấy tiền để mua sắm vũ khí và nuôi quân...Tôi đã hỏi chuyện khá lâu Võ Đại Tôn, người chỉ huy lực lượng vũ trang phục quốc đã bị bắt sống trên đất Lào, gần biên giới Việt nam năm 1981. Võ Đại Tôn thú nhận đã bị lừa- Khi ra đi, Võ Đại Tôn và đồng sự những tưởng là ở miền Nam Việt nam đã có sẵn chiến khu, sẵn "vùng giải phóng", sẵn "có sở nhân dân chống cộng". Khi về đến gần thì chẳng thấy có gì hết trọi! Không ai liên lạc, đón rước, thông báo cho tình hình! Cả chuyện trở về sau này của đảng trưởng Hoàng Cơ Minh và tùy tùng cũng chỉ là những nhóm thiêu thân bị đánh chận, bị giết, bị bắt trước khi nhập được vào đất Việt Nam- Vì nhân dân không còn muốn chiến tranh. Lực lượng họ sao địch được nổi quân đội và an ninh tại chỗ? Tôi gặp một sĩ quan quân đội cấp cao Sài Gòn cũ ở Hoa kỳ, cuối năm 1988, ông ta nói:" Họ bày đặt đủ thứ, nhưng thiệt ra không có mấy thực lực. Tôi không bao giờ tin có chiến khu, có mật khu nào ở quốc nội cả. Họ tổ chức dữ dằn vậy chỉ để là quyên tiền, lập quỹ, và từ đó vô túi cá nhân cũng bộn đó, rồi lấy tiền đó kinh doanh, kiếm lãi để chia chác, nuôi nhau nữạ..Làm vậy mấy ông lớn mới có lý do để giữ nguyên những chức tước cũ: ông quận trưởng, ngài bộ trưởng, ông đại tá, ông dân biểu, cho tới ngài thủ tướng, ngài tổng thống. Không còn quyền nhưng còn cái tiếng, cái xưng hô, để tự mình an ủi mình, an ủi lẫn nhau cho đỡ tủi thân mà. Cái thực chất là ở chỗ đó, ông ạ...". Gần đây tổ chức Mật trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt nam lâm vào khủng hoảng lớn, những nhân vật chóp bu còn bị tòa án Mỹ truy tố vì tội lậu thuế, trốn thuế và lấy tiền của Mặt trận chuyển vào trương mục cá nhân...Xu thế cực đoan dùng bạo lực đã xẹp dần, xẹp rất nhanh ở các bang Hoa Kỳ và ở úc, trong khi xu thế hòa hợp lan ra khá mạnh. Qua tiếp xúc với một số chính khách và nhà báo Hoa Kỳ, tôi nhận rõ một điều là các chính quyền Mỹ từ Carter, Ford, đến Rigan và Bush đều thực hiện một chính sách nhất quán: đưa vấn đề Việt Nam lùi nhanh vào quá khứ, xóa sạch hội chủng Việt Nam ở trong xã hội Mỹ, đặt quan hệ Mỹ- Việt trên cơ sở hoàn toàn mới. Các chính quyền ấy mong Viêt nam đổi mới, mau chóng giải quyết vấn đề Campuchia, thực hiện dân chủ và cởi mở cả về kinh tế và chính trị để ổn định tình hình- Gây bạo loạn và lật đổ không phải là chủ trương của Mỹ, của chính quyền Hoa Kỳ, cũng không phải là hành động của CIA hiện nay. Đây là một sự thật rất dễ nhận ra. Nhưng những người phụ trách cơ quan phản gián và an ninh ở Việt Nam vẫn cứ cố tình nhìn đời bằng con mắt lệch lạc về nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và âm mưu bạo loạn. Đến mức cán bộ chính trị, cán bộ tuyên huấn, cán bô ngoại giao am hiểu tình hình cũng không dám nói khác với cơ quan an ninh, luôn hô hào cảnh giác trên báo chí và đài phát thanh: "Việt nam đang là mục tiêu chính để gây bạo loạn và lật đổ của để quốc Mỹ, của Vatican, của tất cả các lực lựơng phản động trên toàn thế giới, chúng đang tập họp nhau lại để gây loạn ở Việt nam!" Những người hô hoán lên như thế cũng không tin đó là sự thật. Họ cần làm việc ấy với hai mục đích đã được tính toán: hạn chế trào lưu đòi đổi mới, đòi quyền tự do dân chủ ở trong nước và bắt buộc nhân dân phải cố hiểu rằng đế quốc và phản động là nguyên nhân chính gây ra mọi khó khăn và bế tắc trong xã hội hiện naỵ..
Tôi quen với một gia đình trước ở thành phố Hồ Chí Minh, đã mạo hiểm đi cả nhà, trên một chiếc thuyền gỗ ọp ẹp năm 1982. vợ chồng đều là giáo viên trung học. Con gái đầu, cháu Thủy vừa 30 tuổi, sau 1975 còn tham gia các cuộc diệt trừ gian thương, cải tạo tư sản ở miền Nam. Cháu đi kiểm kê tài sản còn được bằng khen. Cháu kể lại những công việc "cách mạng" hồi đó một cách tự nhiên, vui vẻ: "Các chú cách mạng, có chú thiệt tốt, chăm lo cho bọn cháu thiệt chu đáo, có chú rất quan cách, quan liêu. Và có cả mấy ông bự chỉ lo uống rựơu say và tham nhũng..." Ba má cháu không bị cách mạng, không bị các ông "30. 4" quấy nhiễu chi hết, vậy vì sao lại bỏ đi? Bố cháu kể: "Bọn tôi không cay đắng chi hết, cũng không căm thù chi hết! Chế độ Sài Gòn cũ coi khinh người trí thức. Bọn tôi hy vong cách mạng sẽ khác. Vậy mà cách mạng coi bộ còn tệ hơn! Bọn tui là giáo viên nên hiểu rất rõ. Học sinh do vậy hết chăm học. t thanh niên cầm cuốn sách trong tay. Thư viện vắng hoe à, vì không có sách báo, còn tiệm nước thì đầy nhóc thanh niên. Tui lo cho hai cháu trai, lo cho tương lai của chúng nó. Tính toán kỹ rồi liều ra đi chỉ vì vậy thôị..Hai cháu hiện đều học ngành điện toán, sắp thành tài cả rồị.."
€ ra vậy, tôi mở mắt. Vậy là có người ra đi không phải vì không chịu cực khổ được, không phải vì chống cộng cực đoan, cũng không phải vì cuộc sống bơ sữa.
ở một vùng ngoại ô phía Đông Paris, tôi gặp một nhà tư sản lớn Việt Nam. Ông quê Hải Hưng, từng có những cơ sở kinh doanh ở Hà Nội. Ông vào Nam hồi 1954 và sang Pháp tháng 4. 1975. Ông đã trên 70 tuổi, còn quắc thước, minh mẫn và rất năng động. Ông giầu, và có thể nói là rất giầu. Ông từng mở nhà máy dệt, cơ khí rồi làm nghề vận tải. Ông có cơ sở cưa gỗ ở Đà Lạt, cơ sở xay lúa gạo ở Cần Thơ, ở quận 5 Sài Gòn... Paris ông cũng có hàng dẫy nhà rộng lớn, đủ tiện nghi. Ông tâm sự: "Tôi có của, mất nhiều mà vẫn còn đủ. Giầu thêm để làm gì nữa? Ăn xài đâu có hết của. Nhưng tôi ham, ham gì ông biết không? Ham kinh doanh, như sở thích, như đam mê, như cái vận của đời mình vậy. Tôi chỉ mong ở bên nhà yên ổn, có trật tự, pháp luật, có không khí cởi mở để trở về bỏ vốn kinh doanh. Năm ngoái tôi trở về thăm nhà, có những công nhân sở tôi cũ còn quý tôi lắm. Họ còn giữ cái biển của nhà máy cũ và tặng lại tôi! Tôi cảm đông vô cùng. Bọn tư bản Pháp hỏi tôi hoài: Bao giờ trở về làm ăn? Tôi về thì tụi nó mới nhào vô. Nhưng ở nhà còn kẹt dữ quá. Nói đổi mà đâu có đổi. Chưa có luật thương mại. Luật đầu tư có rồi mà văn bản dưới luật chưa có. Muốn người ta bỏ vốn vô mà không đổi mới thì có ai muốn vô!..." Ông lắc đầu và nói thêm: "Về chính trị và pháp luật cho tới nay, Việt Nam chưa có luật về quyền công dân, còn chậm tiến quá chừng!"
Thì ra có những người ra đi chỉ vì không được thi thố tài năng. Nay mong muốn trở về để trổ tài kinh doanh.
Tôi có một kỷ niệm khó quên ở nhà anh bạn mở quán "Chiều Sài Gòn" quận 16 của Paris. Chúng tôi đều quê Hà Nội, gắn với những kỷ niệm xa xưa ở trường Thăng Long, trường Bưởi, trường Albert Saraut, với những người thầy dạy tâm huyết và có trình độ...Cùng nhau ôn lại những ngày đấu kháng chiến, những hoạt động của tư vệ sao vuông thành Hoàng Diệu, thế rồi cả gần một chục người trong bưã ăn bỗng hòa giọng hát đồng ca những bài:
"Diệt phát xít", "Nhớ chiến khu", "Tiến quân ca", "Nào ta đi hùng binh"...Lúc ấy những khác biệt chính trị lùu đi đâu thật xa. Người thuộc vài câu này, người nhớ vài câu khác, chấp nối nhau hồi tưởng được hết cả gần chục bài đã in dấu một thời trai trẻ dấn thân cho kháng chiến...
Tôi đã tìm thấy nhịp đập chung qua những tiếp xúc với bà con người Việt, dù thành phần. Ai cũng khắc khoải một nối niềm nhớ về quê hương. Người lớn tuổi, kẻ trung niên, cho đến lớp thanh niên vừa rời nước vài năm đều thế. Ai cũng ước vọng quê hương mình được thanh bình, vươn lên mở mắt với thế giới. Theo cách nói chính trị, ai cũng có một tình cảm yêu nước trong tâm. Yêu nhớ nước mình, nghĩa là vẫn còn day dứt với xóm làng, mảnh đất nuôi mình khôn lớn, mái trường có thầy cô giáo buổi thiếu thời, những đường phố, mái nhà ôm ấp những kỷ niệm vui buồn trong một quãng đời và những bạn bè, thân quyến còn ở lạị..Tình cảm ấy có nét gì rất chung, mà cũng rất riêng, rất cụ thể. Bài hát "Quê hương" với cây khế, chiếc cầu tre, con diều, mùi hương hoa bưởị..có sức truyền cảm sâu đậm đặc biệt đối với bà con xa xứ.
Có những chị ở bên này đã 20, 30 năm tâm sự với tôi:
"Chúng tôi hầu hết vô dân Tây. Vô để dễ làm ăn, để được những quyền lợi xã hội. Nhưng nói thật với anh chỉ là tây giấy, đầm giấy thôi. Tây, đầm trên giấy tờ mà. Chúng tôi còn nhớ, còn thích ăn mắm tôm, cà cuống, cốm Vòng, ăn phở, còn thèm riêu cuạ..là còn nhớ đất nước mình dữ lắm. Tâm hồn Việt không mất được đâu anh..." Và nhiều anh chị vẫn dạy con nói tiếng Việt. Tôi về thăm gia đình anh Liêm ở gần Tonlouse. Hai cháu nhỏ, Hương 12 tuổi và Vinh 7 tuổi đều nói tiếng Việt. ở trường các cháu toàn nghe và nói tiếng Pháp với bạn bè và thầy cô giaó. ở nhà, anh chị nói chuyện với nhau và với hai con đều bằng tiếng Việt để các cháu không quên tiếng của quê hương...Rõ ràng là các cháu thuộc thế hệ hai và thế hệ ba vẫn còn một gốc gác văn hóa dân tộc khá là sâu. Có phải từ cái cội nguồn ấy mà Luce, một bác sĩ nay đã 27 tuổi, cha Pháp, mẹ Việt, ra đời ở bên này, không biết tiếng Việt, vậy mà khi cùng bố mẹ về thăm Việt Nam, đã trào nước mắt khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất? Niềm xúc động thiêng liêng đối với quê hương thứ hai, chị từng được nghe kể, và nay mới "trở về" thăm...
Khi còn ở trong nước, tôi đã viết những bài báo đánh động về tiềm năng to lớn của cộng đồng người Việt ở nước ngoài và những chính sách cần có để khỏi dậy những tiềm năng có ý nghĩa chiến lược này. Qua tiếp sức với khá nhiều bà con Việt kiều, tôi thấy thiếu sót ở trong nước thật lớn. Còn tồn tại biết bao nhiêu định kiến. Không thiếu những cách nhìn chính xác thấu tình, đạt lý, nhưng chưa biểu hiện thành chính sách, còn bị ngăn trở bởi lối nhìn gò bó hạn hẹp, suy diễn chủ quan.
Đã vậy các cơ quan ngọai giao, các đại sứ quán ta còn có quá nhiều thiếu sót và sai lầm. Theo những công thức rất cũ, họ phân loại Việt kiều: Người này tốt, người kia xấu, ngừơi này yêu nước, người kia phản đông! Do đó họ xếp tất cả hơn 700 người ký bức Tâm thư tháng 1. 1990 là phản động cả! Vì bức tâm thư "dám" nhắc đến những sự kiện ở Rumani, "dám" đề ra yêu cầu tách Đảng khỏi Nhà nước...Tháng 7. 1990 tôi đã gặp thứ trưởng Bộ Nội Vụ Tâm Long để góp ý rằng việc không cho Việt kiều từng ký tâm thư về nước là một chủ trương rất vô lý và dại dột, rằng cơ quan ngoại giao và quản lý kinh tế mời ông giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, tiến sĩ kinh tế ở Canada về giảng ở Hà Nội, đến sân bay Nội Bài rồi mà công an không cho nhập cảnh là hành động thô bạo, vừa vô văn hóa vừa vô chính trị, an ninh quốc gia không mãy may được tăng thêm, mà tác dụng trái ngược lại. Do phản ứng khá quyết liệt của một số cơ quan ở trong nước và của kiều bào, sau đó có nới lỏng hơn trước một chút, nhưng cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi. Kỹ sư Nguyễn Thành Long, người có phát minh tại Pháp về tận dụng vỏ xe hơi để gia cố đường xá và đê đập, được Bộ Giáo dục và Đào tạo mời về nước làm việc cùng với một số kỹ sư Pháp. Anh mang hộ chiếu Việt nam mà cũng không được về! Bà cụ thân sinh ốm ở bên nhà, anh xin về cũng không được! Thì ra chỉ vì anh đã cho mượn địa chỉ của mình để liên lạc, tiếp nhận chữ ký của bức Tâm thư và thanh toán những chi phí bưu điện. Anh lập tức được cơ quan an ninh coi là nguy hiểm, " là một người "đề xướng, " có thể là một kẻ "chủ mưu(!)" nữa? Các bạn Việt kiều và một số người Pháp biết việc này cho rằng đây là một trường hợp kỳ lạ nhất thế giới: Công dân một nước mang hộ chiếu nước mình mà lại không xin được visa về nước mình! Người trí thức có trình độ học vấn cao, luôn tìm tòi phát minh và có lòng yêu nước ấy đã chuyện trò với tôi nhiều lần. Anh mời tôi về thăm nhà anh, dản dị, đơn sơ chỉ có sách vở và sách vở, cuối cùng đã thốt lên: "Tôi nản quá chừng anh ơi, đành phải xin vô quốc tịnh Pháp thôi. Nhưng lòng yêu nước của tôi luôn nguyên vẹn anh ạ!"
Đó là chưa nói đến những chuyện đau lòng khác. Một số cán bộ sứ quán cố làm ra vẻ lập trường, lôi kéo số người này để bày vẽ họ chống lại một số người khác, gây nên những quan hệ nội bộ căng thẳng. Họ còn cố tình tâng bốc một số Việt kiều lính thợ cũ, được coi là công nhân, là bản chất cách mạng thuần túy vững vàng hơn trí thức, để đối lập giả tạo với một số anh chị em trí thức. Họ đạo điễn những cuộc đấu tranh, những cuộc đấu đá kỳ quặc, can thiệp một cách thô bạo đến tình hình nội bộ của hội người Việt Nam tại Pháp. Có một vài bác thợ lớn tuổi rất đáng kính bị họ giật dây lên án bài báo của nhà sử học Lê Thành Khôi là xúc phạm Hồ Chủ Tịch, khi ông Khôi nhận xét việc xây dựng Lăng là làm trái với mong muốn thiêng liêng của Chủ tịch trong Di chúc đã bị cắt xén hồi ấỵ..Cuối cùng các bác công nhân đã phải nhận là mình không có lý, đã bị xui giục một cách thô bạo. Tháng 3. 1991, Ban chấp hành hội người Việt ở Lyon mời tôi xuống gặp anh chị em Việt kiều. Một cán bộ sứ quán liền dở trò phá đám, gọi điện thoại xuống cho vài bác công nhân già, thúc giục ra tuyên bố: Bùi Tín đã xin cư trú chính trị tại Pháp (điều đài Pháp đã đưa tin sai, tôi đã chính thức cải chính), Bùi Tín là kẻ phản bội, Hội không được mời Bùi Tín xuống...Anh chị em ở Hội vẫn mời tôi xuống, tổ chức hai cuộc nói chuyện ở Lyon và trong một cuộc họp rộng rãi, các bạn Việt kiều trung thực đã nói rõ: "Anh Bùi Tín không hề xin tỵ nạn chính trị như mấy ông sứ quán nói. Anh Nguyễn Khắc Viện đã từng phụ trách Hội chúng ta vừa nhận xét rằng anh Bùi Tín là người có tâm huyết, lãnh đạo ở nhà cần nghiêm chỉnh xem xét đến bản kiến nghị của anh Bùi Tín..." Cuối cùng chính các bác công nhân đã bị cán bộ sứ quán kia tác động đứng dậy nói: "Tôi tin lời anh Viện, tôi xin đồng ý với việc hội ta mời anh Bùi Tín xuống đây nói chuyện...
Chính những việc làm thiếu suy nghĩ, thô bạo như thế đã làm mất uy tín của sứ quán, trong khi quả thật uy tín âý chẳng còn gì nhiều lắm. Vì không tranh thủ được tình cảm, niềm tin của bà con Việt kiều nên một số cán bộ sứ quán nghĩ ra một điều kế - thật ra là một "đại kế" - đó là lấy cái quyền cấp "visa" để lôi kéo bà con! Họ đe dọa thẳng thừng: Nếu tỏ ra không biết điều, nếu cứ ngang bướng, nểu không còn coi sứ quán là cha là mẹ, không biết vâng lời, nếu cứ phê phán chính quyền, bác bỏ chủ nghĩa xã hộị..thì việc xin "visa" sẽ còn cứ là chờ dài dàị..Và quả nhiên đây là một ngón võ hiểm. Nhiều người đâm ra e ngại và kẹt. Làm nẩy sinh ra một số người "biết điều" một cách giả tạo, hoặc vâng vâng, dạ dạ cho xong chuyện, một số người cơ hội. Vì về nước thăm cha mẹ, anh em, về nước để tìm hiểu tình hình, để làm ăn, ích nước lợi nhà dù sao cũng là một nhu cầu tình cảm, chính trị và kinh tế chính đáng. Chưa nói đến một số rất ít những ông chủ hãng cần về nước để móc ngoặc với lớp "tư bản đỏ" ở nhà kiếm những món lãi kếch xù thấm đượm máu và nước mắt của nhân dân lao động...Họ phất lên rất nhanh qua các dịch vụ chuyển tiền, chuyển hàng, chuyển thuốc men...tận dụng các kẽ hở do lạm phát và tỷ giá hối đoái thay đổi thất thường, cũng như hối lộ để làm những áp phe bất chính.
Sứ quán Việt nam ớ nước ngòai là hình ảnh thu nhỏ của tình trạng xã hội Việt nam hiện nay. Lương bổng thấp, thiếu thốn thì phải tính. Không thể trách tất cả anh chị em cán bộ và nhân viên các sứ quán. Tôi đã ghé qua hàng loạt sứ quán Việt nam, ở Bangkok và ở New Delhi (Ấn Độ), ở Manila (Philipin) và ở Jakarta (Indonexia), ở Kuala Lampua (Malaxia) và ở Tokyo (Nhật bản), ở Moscow và ở Bắc Kinh, ở Berlin và Praha, rồi cơ quan đại diện Việt nam ở Liên Hợp Quốc tại New York nữa. Anh em phải lo chạy vay, buôn bán, cứu nhà. Có lợi thì ham. Có người phất lên rất lớn. Từng công- tê- nơ chở về- sẵn giấy tờ ngoại giáo mà...Đã cớ lần valise ngoại giáo từ Ba Lan, Tiệp Khắc sang Moscow bị khui ra, có đến 800 quần bò và 2000 đồng hồ điện tử của môt quan chức ngoại giao, trớ trêu lại là một đảng ủy viên nữa! Và còn có bao nhiêu chuyện trót lọt, mỗi chuyện áp phe như thế có hộ chiếu đỏ "che chở" đều được định giá...
ấy là chưa nói đến đường dây buôn bán của cán bộ ngành ngoại giao, của công đoàn ngành ngoại giao xuyên qua các lực địa, móc nối qua các sứ quán ở các nước. Nhà nước trả lương không đủ ăn, thì làm việc vừa vừa thôi, làm cho phải đạo. Còn thì mánh mung, kiếm nguồn hàng, lo chạy giấy tờ, toan tính các chuyến hàng về, hàng đi, hết chuyến này đến chuyến khác...Tôi đã hỏi chuyện, đã ghi lại được vô vàn thủ thuật. Nhưng không thể trách anh chị em ở các sứ quán. Tại đó vẫn còn có những con người có lương tâm, biết suy nghĩ, hiểu biết những đúng sai, đau lòng về đất nước, nhân dân, ưu tư trước thảm họa dân tộc, so sánh với không khí tự do và sự phồn vinh của nước người. Quỹ chi phí của sứ quán quá ít, không đủ để cho một bí thư hay tham tán mời bạn một bữa cơm nhằm mở rộng quan hệ khi cần thiết...thì công tác đối ngoại còn kẹt cứng, chỉ lo thúc thủ, đóng cửa chặt và giữ mình, thế thôi!
Cái nguy hiểm nhất là sự đối xử thiếu nghĩa tình của sứ quán cơ quan đại diện của đất nước- đối với đồng bào. Có những người gắn bó chí cốt với đất nước, với hai cuộc kháng chiến, với các phái đoàn sang hội họp, tận tình phục vụ cho các đoàn đại biểu bên nước sang, còn tổ chức những cuộc biểu tình, mít tinh lớn, may hàng mấy trăm lá cờ, đấu tranh chống lại lực lượng phía bên kia. Vậy mà chỉ do có một vài ý kiến khang khác, cơ bản là có thiện chí, là bị xếp ngay vào loại nguy hiểm, có tư tưởng phản động và chống đối! Trong khi đó chính anh em này bị phía bên kia lên án là cộng sản! Có ngứời phàn nàn "Khi khó khăn thì kêu gọi anh em giúp đỡ, ủng hộ. Đến khi thành công rồi thì quay ngoắt laị chụp mũ một cách dễ dàng, làm cho những người có lương tâm và thiện chí đối với đất nước cũng phải nản lòng và ngao ngán..."
Đánh giá đầy đủ tiềm năng của cộng đồng người Việt là cả một công trình lớn đòi hỏi nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu, thống kê và kết luận. Chỉ biết rằng con số hai triệu là không nhỏ. Số người Việt nói chung lại thành đạt khá và nhanh chóng ở các nước. Thu nhập chung của họ trong một năm có thể lên đến 10 tỷ đô la, vượt xa một nửa thu nhập của hơn 66 triệu đồng bào trong nước (ước gần 20 tỷ đô la). Chỉ cần huy động một phần của cải ấy để đầu tư hay giúp đỡ bà con ở quê nhà cùng tạo nên một lực lượng vật chất không nhỏ. Tất cả vấn đề là có nhìn thấy và có biện pháp thích đáng hay không? Điều lớn nhất là tiềm năng chất xám của bà con. Một số khá đông là trí thức, thành đạt, có trình độ cao, rất đa dạng về lứa tuổi. Chất xám của khối người Việt này nếu phát huy được về mọi mặt khoa học kỹ thuật, sáng chễ, phát minh, quản lý kinh doanh...thì có lợi cho đất nước. Cần tính đến thế hệ trước, thế hệ này và thế hệ sau. Các nhà giáo dục Mỹ đều cho rằng, trẻ em người Việt ở nước ngoài thuộc loại học giỏi (cùng với người Nhật, người Trung Quốc, người Do Thái), tiếp thu nhanh, rất thành công ở các ngành mũi nhọn, nhất là các ngành điện tử, thông tin học...Gần đây báo Mỹ đưa tin Eugene H. Trịnh, 40 tuổi, người gốc Việt nam, sinh ở Sài Gòn, học ở Paris rồi sang Hoa Kỳ học ở trường Đại học Columbia và Yale có luận án về vật lý và động lực học, đã được chọn để bay trên phi thuyền con thoi Columbia vào năm 1992 tới. Mọi người Việt đều cảm thấy tự hào. Cái nút vấn đề là cách nhìn dúng, cởi mở, hòa hợp, coi trọng những tài năng ấy và có chính sách để tranh thủ chất xám Việt nam ở nước ngoài. Làm khôn khéo, thông minh, thì sẽ đạt được một hiệu quả có tính chất chiến lược: biến một niềm đau, một nỗi bất hạnh lớn là hai triệu người tha hương thành một lợi thế cho đất nứơc. Dễ gì một nước có thể cử ra nước ngoài, tỏa ra mọi hướng một số lượng đồng đảo đến như vậy? Khi trở về đánh thức tiềm năng của đất nước mình, với tất cả hiểu biết thu nhặt, sàng lọc được từ bốn phương trời. Biến họa thành phúc lớn là như thế. Biến một cuộc chảy máu lớn về người, về chất xám...thành một cuộc tiếp máu lớn về trí thức, kỹ thuật, về vốn liếng, về kinh nghiệm làm ăn, quản lý, kinh doanh...là thế.
Bài toán này ắt phải giải một cách tốt đẹp. Nhưng phải thay đổi tất cả nhân thức và các biện pháp hiện hành. Pháp đại sứ quán Việt nam chỉ còn quan hệ với chừng 200 người trong tổng số 200. 000 người gốc Việt! Mười sáu năm trước con số đó là 6000! Hoa Kỳ cơ quan đại diện Việt nam chỉ có quan hệ tốt đẹp với vài chục người gốc Việt trên tổng số gần một triệu! Đó là hậu quả của chiến tranh, của đối kháng lâu dài, của những hận thù. Đó cũng là hệ quả của cách nhìn, của quan niệm xơ cứng. Nhà văn Nguyễn Đình Thi và tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy ở Paris hồi cuối tháng 10. 1990. Đó là những cuộc nói chuyện bổ ích giữa những đồng đội cũ ham mê văn nghệ. Chúng tôi nhắc đến chuyện Phạm Duy sáng tác bài hát "Bà mẹ Gio linh", khi chúng tôi ở cùng một chiến trường Trị Thiên năm 1948. 1949...Anh bị cuốn nhập vào một chế độ, một guồng máy khác. Để nay nhìn lại, trông chờ mong mỏi một cuộc đại hội ngộ anh em trên tinh thần hòa hợp. Anh nói về những tập bài hát "Bầy chim bỏ xứ" và đang chuẩn bị cho những tập hát "Bầy chim đoàn tụ"- ở Hà Nội hiện nay một số người trong cơ quan an ninh vẫn coi Phạm Duy là một tên "trùm văn nghệ phản động, chống cộng điên cuồng". Và chống cộng thì tất yếu là quan hệ lăng nhăng, mất tư cách, là nghiện thuốc phiện và bợm rượu. Thật là oan cho nghệ sĩ Phạm Duy. Anh không hề hút một điếu thuốc lá và đến bia anh cũng xin miễn. Anh không hút thuốc và uống rượu, trước kia và hiện nay là như thế. Anh hỏi thăm chúng tôi về các bạn bè cũ, hỏi thăm anh Lưu Trọng Lư, anh Đỗ Nhuận, anh Hoàng Cầm...và các chỉ huy bộ đội cũ, với tất cả kỷ niệm xưa êm đẹp của một thời trẻ trung. Và rất lo rằng, những cuộc tiếp xúc thế này và nguyện vọng hòa hợp để trở về thăm đất nước sẽ bị những kẻ cực đoan ở nước ngoài trừng phạt, cho ăn đạn chưa biết chừng.
Con người là một thực tế sống động và thay đổi theo bản chất, tư chất riêng, điều kiện và môi trường. Tôi sợ những con người cứng đờ, bất động, nằm trên giấy trong nhận định của những quan chức ngành tổ chức và an ninh. Chỉ cần họ tiếp xúc, đối thoại, quan hệ với nhau như những con người có lý trí và tình cảm, thì đỡ biết bao nhiêu thiên kiến hẹp hòi, những sự chụp mũ thô bạo và oan ức...
Gần đây, trong tình hình các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng nặng nề, có nước chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ, đã nảy sinh biết bao kinh nghiệm mới, hàng trăm tập chí kinh tế và chính trị viết về Liên Xô, các nước Đông âu, Cu Ba, Trung Quốc, Triều Tiên...Rất đáng tiếc ở Hà Nội có quá ít sách báo thuộc loại này. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong 8, 9 năm nữa, khi bước vào thế kỷ 21 sẽ ra sao? Cuộc cách mạng tin học, sinh học, năng lượng, vật liệu mới được dự báo như thế nào? Nên quan niệm gía trị của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin ra sao? Như chân lý có tính chất tuyệt đối hay là một trong những học thuyết có giá trị để vận dụng và tham khảo? Chủ nghĩa xã hội là thế nào? Tiền đề của chủ nghĩa xã hội phải chăng là phải có sức sản xuất phát triển đến mực độ cao nhất định, nếu không chỉ là ảo tưởng và nói suông.
Các nhà chính trị và kinh tế Việt nam hãy tìm đọc những tác phẩm của nhà kinh tế Paul Samuelson, để ít ra là hiểu rằng kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển mới đâu có hoàn toàn mù quáng, vô chính phủ. Các Nhà nước và các nhà kinh tế Nhật, Hoa Kỳ, Đức, Anh, Pháp...có những dự báo gần và xa khá sát đúng: ba tháng tới, các chỉ số kinh tế, tài chính ở từng khu vực, từng nước sẽ ra sao? Trong 2 năm, 3 năm, 5 năm, 10 năm, họ dự báo về từng khu vực, từng ngành để làm cơ sở cho chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư rất cụ thể, qua vô vàn dữ kiện nạp vào máy tính điện tử, với phần cứng của cơ khí và phần mềm của trí tuệ, của quy luật, của phương phép tư duy và so sánh không kém phần biện chứng. Chúng ta cần hiểu những cuộc tranh luận nẩy lửa ở Liên Xô trong tình hình khủng hoảng hiện nay, không phải để bắt chước, mà để làm giầu thêm suy tư và tưởng tượng. Quan điểm của nhà kinh tế Agalbegian nổi tiếng về phóng khoáng, chống công thức cứng đờ, ra sao? Quan điểm của nhà kinh tế Leonid Abalkin từng là phó thủ tướng Liên Xô được thủ tướng Rujkov tín nhiệm ra sao nhưng đã bị gạt bỏ thế nào? (Cần chú ý Abalkin đã vài lần sang Việt Nam giới thiệu kinh nghiệm Liên Xô cho cán bộ ta, rất được tin cậy, đến mức như là sùng bái. Tôi thấy nội dung của những văn kiện đại hội VII vừa được thông qua ở Hà Nội mang rất đậm quan điểm của Abalkin: Chuyển sang kinh tế thị trường một cách thận trọng, dưới sự kiểm soát, tác động chặt chẽ của nhà nước.) Cũng cần tìm hiểu kỹ những quan điểm kinh tế và chính trị của nhà kinh tế học Xô viết Oleg Bogomolov, đặc biệt là những chính kiến mới mẻ hơn của Nicolai Petrakov và Stanislav Chataline, hai nhà kinh tế trẻ có tầm nhìn khá rộng, tác giả của "Kế hoạch 500 ngày" tiến mạnh hơn vào nền kinh tế thị trường. Kế hoạch nay bị gạt bỏ bởi những lực lượng bảo thủ còn tồn tại khá dai dẳng trong nhà nước Liên Xô - Chataline, là ủy viên trung ương đảng cộng sản Liên Xô, đã trả lại thẻ đảng viên của mình ngay sau đó. Gần đây các nhà kinh tế học thế giới rất chú ý đến Grigori Yaplinski, nhà kinh tế xuất sắc từng là phó thủ tướng nước Cộng hòa Xô viết Nga. G. Yaplinski đã sang trường Đại học Haward ở Hoa Kỳ để thảo luận cùng nhà kinh tế học nổi tiếng của Hoa Kỳ là Graham Allison. Họ cùng nhau phác họa một kế hoạch tổng hợp, đưa nền kinh tế tài chính Liên Xô ra khỏi khủng hoảng gay gắt và đánh giá nhu cầu về sự giúp dỡ của các nước phương Tây đối với Liên Xô trong bối cảnh đặc biệt hiện nay Kế hoạch này được thảo luận tại cuộc gặp gỡ giữa những người cầm đầu 7 nước phương Tây với tổng thống Gorbachev ở Luân Dôn tháng 7 năm 1991 vừa qua. Công trình nghiên cứu của nhà kinh tế Pháp Maurice Allais- giải thưởng Nobel- về nền kinh tế Hungari hiện nay! Công trình nghiên cứu của giáo sư Hoa Kỳ Jeffrey Sacha và của nhà kinh tế Hongrie Janos Kornai (tác giả của "Chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế của sự thiếu thốn hàng hóa") rất bổ ích cho các nhà chính trị- kinh tế Việt Nam ta.
Những nhà lãnh đạo kinh tế, chính trị, tài chính của đất nước cũng cần đọc, tìm hiểu và tham khảo những công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học Tiệp Khắc, Ba Lan, Đức...để rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích: từ bỏ nếp quan liêu bao cấp, kế hoạch hóa nặng nề nhưng vô hiệu quả ra sao, về kinh tế thị trường có những thuận lợi và những cạm bẫy thế nàọ.., về khắc phục nạn thất nghiệp, thực hiện tư nhân hóa một số cơ sở quốc doanh, thực hiện các chính sách xã hội trong thời buổi giao thời, cải thiện hệ thống giáo dục, dạy nghề và hệ thống y tế...
Qua những gì đã diễn ra ở các đại hội đảng trước đây và đại hội VII vừa qua, qua các cuộc họp của quốc hội, cách làm việc của Nhà nước và của đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn rất quan liêu và đại khái. Thiếu những tài liệu, con số, phụ lục cụ thể, không có "địa chỉ" rõ ràng cho những vấn đề bàn luận, nghị quyết quá là chung chung, thiếu những biện pháp rạch ròi, thiếu những giải pháp thiết thực. Nhìn chung chỉ là những phương hướng những mong muốn chủ quan đại khái, những ước vọng tốt đẹp chỉ có thể tồn tại trên giấy và trên báo chí. Hãy xem tài liệu họp đại hội đảng và quốc hội của các nước, nó chứa dựng những tư liệu, thống kê, so sánh, tỷ lệ, những phương án giải đáp cho từng thời kỳ, những biện pháp chi tiết, giải pháp khoa học với những giá trị cân đong, đo, đếm chuẩn xác...Báo Le Monde bình luận rất đúng là trong thời đại này, một nhà lãnh đạo chính trị, kinh tế, tài chính, cho đến văn hóa, văn nghệ đều phải biết sử dụng máy vi tính hiện đại (không phải để làm toán cộng trừ, nhân, chia) mà là máy ghi lại những dữ kiện và xử lý những dữ kiện ấy theo "chỉ thị" của người sử dụng. ở Việt Nam, máy tính điện tử đã bắt đầu sử dụng khá nhiều, nhưng nó vẫn còn hết sức xa lạ với cán bộ chính trị. Họ vẫn còn ngủ yên với cách suy nghĩ trừu tượng, đại khái rất chung chung, mang mầu sắc quan liêu và duy tâm...
Cả đất nước ta cần mở rộng tầm mắt, nhìn ra thế giới quanh ta để mà hội nhập, và thu về những kiến thức rất cần thiết.
No comments:
Post a Comment