TỪ QUẢ BOM Ở MOSCOW
Nay hồi nhớ lại cả một thời kỳ "sôi nổi" trong trì trệ và u mê ấy, có thể thấy rõ hơn sự ràng buộc của những sự kiện. Việc phát hiện ra sai lầm cải cách ruộng đất quá chậm trễ, sang đến đợt 5, chỉ còn lại vài vùng rừng núi thưa dân. Người viết lại lịch sử sau này cần nhớ lại một điều: năm 1956 (tháng 2), Đại hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên xô có tác dụng chấn động lớn như một quả bom. Stalin chết năm 1953. Vậy mà chỉ 3 năm sau, "nhà lãnh đạo thiên tài của Đảng cộng sản Liên xô và của toàn phe xã hội chủ nghĩa cũng như cả loài người tiến bộ" ấy bị chỉ mặt vạch tên là kẻ giết người hàng loạt, kẻ tội phạm hai tay đầm máu người lương thiện, nhà độc tài đỏ...
Những gì Đại hội 20 được biết đã vượt rất xa những sự lên án lâu nay của phương Tây, vẫn được coi là trò vu cáo rẻ tiền của chủ nghĩa đế quốc. Hình ảnh Đại Nguyên Soái Stalin vĩ đại, uy nghi lẫm liệt trong biết bao gia đình Việt nam, như co rúm lại! (Nhưng xin nhớ là hình Stalin lồng trong khung kính ở phòng họp lớn Ban Chạp hành Trung ương đảng, ở Mặt Trận Tổ Quốc, ở các cơ quan công cộng vẫn còn nguyên cho đến 1964, 1965... vì "đảng ta" vẫn giữ lập trường vững vàng: công lao Stalin là chính, thiếu sót chỉ là thứ yếu?) Chính cơn động đất về tư thế phẩm chất của lãnh tụ thế giới Stalin đã làm rung rinh bức tượng lớn còn sống Mao Trạch Đông. Mao tuy có đố kỵ với Stalin nhưng cũng lại là người ca tụng Stalin hết cỡ, coi là "người thầy của cách mạng phương Đông, của các dân tộc bị áp bức".
Bệnh sùng bái cá nhân lãnh tụ được đưa ra mổ xẻ trong tất cả các đảng cộng sản. Bài học của Liên xô nhắn nhủ với các nước đàn em khác, hãy coi chừng, tệ sùng bái cá nhân là tai hại, tội lỗi đến nhường nào! Mà Mao lại là người đang được sùng bái nhất ở phương Đông. Tượng Mao ở khắp Trung Quốc. Tác phẩm Mao tràn ngập, ảnh Mao được in với số lượng lớn nhất thế giới, cổ kim, đông tây...
Chính thời tiết chính trị ấy đã đóng vai trò khá là quyết định đến việc Đảng cộng sản Việt nam "dũng cảm" công nhận sai lầm. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam luôn trì trệ, bảo thủ, đi sau người khác, thường lạc hậu vài năm đến vài chục năm so với thế giới. Điều này luôn được "tô vẽ , thành ra đức tính "vững vàng" và "khiêm tốn"? Lạc hậu một cách khiêm tốn! Quả bom của Đại hội 20 đã rung động tới Châu á và buộc Đảng cộng sản Việt nam phải công nhận sai lầm của mình và phải sửa sai. Nếu không có quả bom về Stalin thì rất có thể sai lầm cải cách ruộng đất đã bị ỉm đi, hoặc giải quyết theo một cách khác, theo kiểu Stalin, tìm ra "những tên tội phạm mới, kẻ thù của nhân dân" để trừng trị, trút lên đầu họ tất cả tội lỗi và sự cảm thù của nhân dân. "Kẻ thù luôn ở quanh ta. Càng đấu tranh thì kẻ thù xuất hiện càng nhiều." Staline vĩ đại từng dạy thế.
Một điều khá lý thú khác là nghiên cứu thái độ của những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt nam đối với cải cách ruộng đất. Công bằng mà nói, ông Hồ Chí Minh chẳng mặn mà gì đối với cải cách ruộng đất. Ông có cách nghĩ riêng. Vốn có nhiều kinh nghiệm hơn, hiểu biết rộng hơn các người khác trong cơ quan lãnh đạo nên ông thường chủ trương "lạt mềm buộc chặt". Ông là con người của những sách lược mềm dẻo, mềm đến độ không ngờ. Để cho quân Pháp vào Miền Bắc Việt nam qua Hiệp định Sơ bộ mồng 6 tháng 3 nam 1946; mời ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam tham gia chính quyền; xã giao lịch thiệp với các tướng Tàu Lư Hán, Long Vân... Cho đến cả ý đồ ngay sau Cách mạng tháng 8 giữ ông Bảo Đại lại làm Quốc Trưởng, ông Hồ Chí Minh làm Thủ Tướng (ý đồ này bị hỏng vì ông Trần Huy Liệu cùng ông Nguyễn Lượng Bằng trót nhảy vội vào Huế tước ấn kiếm của Bảo Đại mà không xin ý kiến ông Hồ đang còn trên Việt Bắc những ngày cuối tháng 8 ấy)... đều là những chủ trương cực mềm nhằm buộc chặt. Ông nhìn xa hơn, sâu hơn, rộng hơn những người quanh ông. Ông thâm hơn.
Vê cải cách ruộng đất ông cho rộng chưa, cần phải tập trung cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã. Cùng lắm là làm giảm tô, giảm tức thôi. Làm êm ả, nhẹ nhàng mà vẫn đạt mục đích là tranh thủ được nông dân nghèo khổ. Ông cũng nghĩ rằng tình hình xã hội Việt Nam khác Liên xô Trung Quốc. Ông từng biết cung cách của Cải cách thổ địa ở vùng Thiểm Cam Ninh, Diên An bên Trung Quốc hồi trước. ở Việt nam, ít địa chủ lớn, nhiều địa chủ kháng chiến. Đã có lần ông thổ lộ với một số nhân sĩ: tôi nghĩ rằng khi kháng chiến thắng lợi, trong không khí vui mừng của cả nước thì địa chủ Việt nam sẽ vui lòng hiến ruộng. Chính phủ sẽ chia và cấp lại ruộng. Khôn khéo nhẹ nhàng mà đạt mục đích, lạt mềm mà buộc chặt! Khôn thế?
Thế nhưng ông Hồ không có toàn quyền quyết định. Có một thế lực cao hơn ông! Ông Mao, sau khi Cách Mạng Trung Hoa thành công, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập ngày 1- 1- 1949, trở thành lãnh tụ chính thức của nhà nước to lớn nhất thế giới và Châu á, thì nghiễm nhiên là lãnh tụ của phong trào cộng sản á Châu. Đầu năm 1950, chính phủ Trung Quốc công nhận nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đại sứ La Quý Ba trình quốc thư ở một địa điểm trên Việt Bắc. Cố vấn, chuyên gia Trung quốc ồ ạt nhập Việt, ông Mao nắm được tình hình. Ông liền khuyên dụ ông Hồ phải tiến hành Cải cách ruộng đất. Bởi vì trong thế giới cộng sản, quan hệ anh em là quan hệ chỉ huy, lãnh đạo. Lời khuyên, gợi ý bao giờ cũng dược hiểu ngầm là lệnh, mệnh lệnh. Ông Hồ cố trì hoãn, lần lữa việc này, và chỉ thị cho bộ máy tuyên truyền hồi ấy nêu bật thành tích của giảm tô cho cụ Mao yên lòng. Ông nghĩ vậy.
CUỘC XUẤT HÀNH BÍ MẬT
Đầu năm 1950, trước khi biên giới phía Bắc mở rộng, các binh đoàn Le Page và Charton bị tiêu diệt trên đường số 4 từ Cao Bằng về Lạng Sơn, ông Hồ lên đường đi Moscou. Một chuyến đi bí mật, đi nhanh, về nhanh, ở lại Moscou có vài ngày. Va ông gặp Stalin. Khi đi qua Bắc Kinh, ông Ngũ Tu Quyền và cả ông Mao cũng lên xe lửa đi cùng một chuyến sang Moscou. Do đó hồi ký công khai của Ngũ Tu Quyền cũng như của Khrushchev đều có nói đến cuộc du hành của ông Hồ sang Liên xô và nói đến cuộc gặp gỡ giữa Staline và ông Hồ.
Stalin không lạ gì ông Hồ, Nguyễn ái Quốc hồi ở các cơ quan của Đệ Tam Quốc Tế. Mối quan hệ giữa hai người chẳng êm đẹp gì. Cả một thời gian dài, Stalin coi Nguyễn ái Quốc là một cán bộ không có lập trường vô sản vững vàng, có vẻ coi nặng vấn đề dân tộc hơn là vấn đề giai cấp. Từ năm 1931 đến 1940, hồi ký của ông Hồ lờ tịt về thời kỳ này. Ông ở đâu và làm gì trong 10 năm ấy? Có những biểu hiện cho thấy Stalin và cơ quan lãnh đạo đệ tam quốc tế hồi đó tin cậy Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập hơn là Nguyễn ái Quốc. Cái khẩu hiệu đả trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ của Hà Huy Tập, xem ra hợp khẩu vị Stalin... Có tin nói rằng Nguyễn ái Quốc còn "được" cữ đi học tập (lớp học cải tạo?) ở Trường Đào Tạo Cán Bộ của Đông Phương Bộ, với danh hiệu học sinh trung cấp! Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn hồi ấy là "giáo sư đỏ" ở Moscou có lúc kể rằng: "Bác rất khiêm tốn, xuống học lớp dưới, chan hòa với các sinh viên các nước thuộc địa khác ở Châu á để tìm hiểu tình hình..." chính là nói khéo đến thời kỳ Nguyễn ái Quốc bị thất sủng này.
Có lần Trần Phú gửi thư báo cáo cho Ban Lãnh Đạo Đệ Tam, ghi rõ: xin đưa thẳng cho Quốc Tế Ba, không qua bất cứ một người trug gian nào, chính là để chẳng qua tay Nguyễn ái Quốc, người không cùng chính kiến về chiến lược cách mạng Việt nam với Trần Phú. Cũng có lúc Trần Phú và Hà Huy Tập có chân trong Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế, mà Nguyễn ái Quốc thì không. Một cán bộ công tác ở Bảo Tàng Cách Mạng Việt nam nằm bên Nhà Hát Lớn Hà nội, trông ra bờ sông Hồng, kể rằng hồi cuối 1959 khi chuẩn bị khai mạc Bảo Tàng, ông Hồ có đến xem để duyệt nội dung thuyết minh; khi thấy ảnh Hà Huy Tập treo cạnh ảnh Trần Phú, ông mỉm cười thốt ra với số cán bộ đi cùng: "Chú này đây hồi trước chú ấy phê bình bác dữ lắm đó! Rồi như sực nhớ ra đó là chuyện cũ cần giữ kín, ông vội đi sang phòng khác... Một tài liệu của Quốc Tế cộng sản gần đây được khui ra ở Moscou cho biết: Nguyễn Quốc còn bị đưa ra trước hội đồng kỷ luật của Quốc Tế và một ủy viên của hội đồng là Khang Sinh, một Béri của Đảng cộng sản Trung quốc, phụ trách an ninh!
Phải chăng sự hoài nghi dai dẳng của Stalin đối với Nguyễn ái Quốc là lý do để Stalin chần chừ, chậm công nhận nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa thành lập từ 2- 9- 1945, để đến tận năm 1950, gần 5 năm sau, chính phủ Liên xô mới chính thức công nhận, sau Trung Quốc vài tuần lễ.
Theo kể, Stalin trong cuộc gặp riêng ông Hồ Chí Minh trong điện Kremlin đã nhặn ngay ra ở ông già phương Đông gần 60 tuổi này anh thanh niên Nguyễn ái Quốc hơn 20 năm trước. Ông đi thẳng vào vấn đề, chất vấn ông Hồ hai điểm: vì sao giải tán Đảng cộng sản Đông Dương? vì sao chưa tiến hành Cải cách ruộng đất? ông Hồ đã trình bày với Stalin là việc giải tán Đảng cộng sản cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là đảng lùi vào bí mật, với một bộ mặt giả, công khai là Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác. Hai là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rất gay gắt nên cải cách ruộng đất phải chậm lại và đã làm cuộc vận động giảm tô, giảm tức. Stalin nghe, và, với bản chất thô bạo vốn có, chắc chắn đã cao giọng ra chỉ thị, phải sớm đưa đảng cộng sản ra công khai mà hoạt động, lúc này không còn là lúc người cộng sản phải giấu mình trong bóng tối; chính kháng chiến gay gắt lại cần làm cải cách ruộng đất để huy động tinh thần và lực lượng vật chất của nông dân vào cuộc chiến đấu, cần nhớ đấu tranh giai cấp và liên minh công nông, là hai nguyên lý cơ bản của cách mạng vô sản... Ông Hồ trở về.
Thế là Đảng cộng sản Việt nam mở Đại hội đảng cần thứ hai vào tháng 12- 1951 ở Việt Bắc, đảng ra công khai với tên Đảng Lao Động Việt nam, cùng lúc với việc lập nên Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào và Đảng Nhân Dân Cách Mạng Cam Bốt. .
Theo cuốn hồi ký của Nikita Khrouchtchev bản tiếng Pháp: Mémoires inédits đo Pierre Girard dịch từ tiếng Anh, xuất bản năm 1991, thì trong chuyến ông Hồ sang Moscow, Staline đã tỏ ra rất trịch thượng. Khrouchtchev viết: "Tôi nhớ lại khi Hồ Chí Minh đến Moscow xin viện trợ về vật chất vũ khí cho những người Việt nam đang chiến đấu chống sự chiếm đóng của Pháp, Staline đã không cho người Việt nam một cơ hội nào cả. Staline đối xử với Hồ Chí Minh như một sự phỉ báng. Trong một cuộc gặp, ông Hồ rút từ trong cặp ra cuốn họa báo LURSS en construction (Liên xô trong công cuộc xây dựng) và xin chữ ký. Staline xử sự theo cách luôn hoài nghi và kiểu bệnh hoạn của ông ta, nhìn thấy đâu cũng là những kẻ phản bội và do thám. Ông ta liền ký lên tờ báo nhưng ra lệnh cho công an mật thu hồi lại một cách bí mật? Sau đó Staline còn khôi hài với tôi: ông ta chắc vẫn còn ra sức tìm kiếm tờ báo ấy, nhưng chỉ phí công!
"Trong các cuộc gặp ông Hồ, việc Liên xô công nhận nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa đã được quyết định. Thế nhưng sau đó Staline cứ tiếc mãi: "Chúng ta đã quá vội vàng trong việc ấy!
Vẫn chưa hết chuyện, Khrouchtchev còn kể tiếp: "Ông Hồ rất muốn cuộc đi thăm được công bố chính thức và ông ta được đón tiếp với tư cách là Chủ Tịch nước Việt nam. Staline đã bác bỏ yêu cầu ấy:
- - Chúng ta đã bỏ mất thời cơ ấy rồi; đồng chí đã đến một cách lặng lẽ (incognito) nên không thể công khai được nữa.
Ông Hồ vẫn đề nghị Staline cho một chiếc máy bay và chuẩn bị một bài diễn văn đón tiếp. Staline cười khi kể lại:
- Đó, ông ta muốn cả những chuyện ấy, nhưng tôi đã đáp lại là Không!...
Đó, tinh thần quốc tế vô sản của Staline là như thế!... Còn cải cách ruộng đất? Cần thấy rõ ông Hồ vẫn cố trì hoãn cải cách ruộng đất sau khi ở Moscou về. Cuộc kháng chiến rất khẩn trương, quyết liệt. Stalin ở xa... Tất cả cho chiến thắng. Chiến thắng sẽ làm rõ tất cả, sẽ biện minh cho chính kiến ông. Tôi có gặp một số bạn ở nước ngoài đặt vấn đề rằng: chính ông Hồ đã chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất, cố tình phạm sai lầm trong cải cách (những sai lầm có tính toán), phá nát hết đình chùa miếu mạo, diệt hết các phong tục tập quán ở nông thôn, đảo lộn hết mọi quan hệ xã hội trong xóm làng, gia đình... nhằm xây dựng một hệ thống quan hệ hoàn toàn mới: chỉ có chi bộ đảng, các đoàn thể của đảng, mọi người dân buộc phải dựa vào đảng và tuân theo chỉ thị của đảng trong nhận thức, lao động cũng như tình cảm... Họ cho rằng sửa sai cũng chỉ là bùa phép xoa dịu khi ý đồ đã đạt được rồi! Tôi đã cố nhớ lại và suy nghĩ, và tôi cho rằng không phải vậy Không nên phỏng đoán, suy luận và gán ghép. Cần thật tỉnh táo và công bằng. Theo tôi, ông Hồ không mặn mà lắm với cải cách ruộng đất. Trong việc này, ông bị sức ép của Mao, của Stalin. Ông có những tính toán riêng của mình. Thật ra trách nhiệm trực tiếp về cải cách ruộng đất là ở những người khác, tuy rằng ông là Chủ tịch nước và Chủ tịch đảng lúc ấy, ông phải chịu phần trách nhiệm rất lớn. Hồi ấy ông vẫn muốn để chậm lại công cuộc cải cách ruộng lất kháng chiến thắng lợi rồi sẽ hay...
Thế nhưng...
BÀI TOÁN CỦA "ANH NHÂN"
Hồi ấy, ở Việt Bắc, các thế chính trị của "anh Nhân", tức ông Trường Chinh, còn khá là khiêm tốn. Vai trò của Đảng còn chưa sâu, chưa rộng. Trên báo Nhân Dân, trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt nam, rất hiếm hoi khi người ta nghe đến Trường Chinh, Chủ tịch Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, tên công khai của đảng khi đảng đã vào hoạt động bí mật từ cuối năm 1946. Vai trò của chính phủ kháng chiến là sâu và rộng. Tổ chức của chính phủ rất gọn, nhẹ. Các Bộ trưởng, Thứ trưởng phần lớn là các chuyên gia, trí thức, trong đó số còn ở ngoài đảng, có thực quyền không phải là ít. Đó là các ông Phan Anh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm, Tạ Quang Bửu, Trịnh Văn Bính, Lê Đình Thám, Hoàng Minh Giám, Trần Duy Hưng, Phan Kế Toại, Lê Văn Hiến, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Trần Công Tường, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di...
(Ông Bùi Tín cũng sai nốt: Trần Công Tường là đảng viên cộng sản. trong phái đoàn đảng Nam Bộ ra Miền Bắc (trong số đó có cả Bảy Trấn), còn ông Phan Anh là đảng viên chính hiệu được đảng phân công chim mồi không đảng phái)
Sự phân biệt giữa đảng viên với người ngoài đảng còn rất nhẹ nhàng. Trên đây chỉ có ông Lê Văn Hiến, Trần Đại Nghĩa được dư luận biết là đảng viên, nhưng được chọn dùng như là trí thức, chuyên gia.
Lúc ấy ở miền Nam cũng theo tinh thần giống như ở miền Bắc. Chính quyền mới ở Nam Bộ được tuyển chọn trong những trí thức yêu nước khá xuất sắc. Đó là ông Phạm Văn Bạch, Chủ tịch ủy ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ, từng đậu tiến sĩ luật học và cử nhân văn khoa ở Pháp về; bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tốt nghiệp y khoa Paris; giáo sư toán học Phạm Thiều; giáo sư văn học Ca Văn Thỉnh; giáo sư vật lý Đặng Minh Trứ được đào tạo ở Pháp; kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát; nhà luật học Trần Công Tường; kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhật và kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích tốt nghiệp trường bách khoa Paris; kỹ sư công nghiệp Kha Vạng Cân; nhà luật học Phạm Ngọc Thuần (anh ruột của đại tá Phạm Ngọc Thảo); luật sư Thái Văn Lung... Ông Phan Văn Chương, đốc phủ sứ Sài Gòn nổi tiếng về am hiểu luật pháp và thanh liêm cũng tham gia chánh quyền mới. Trần Văn Giàu, một trí thức từng học và hoạt động ở Pháp, cũng từng là bạn học của Maurice Thorez (Pháp) và Broj Ti- to (Nam Tư) ở trường đào tạo cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế ở Moscou, bị coi là "Việt Minh mới" và bị cánh "Việt Minh cũ của đảng cộng sản Đông Dương dèm pha và hạ thấp do tư tưởng bè phái và thành kiến. Họ chê trách Trần Văn Giàu đủ thứ: từ thành phần xuất thân địa chủ, không quan tâm đến số cán bộ cộng sản bị tù ở Côn Đảo để đưa về đất liền sớm, quá thân thiết với tướng Nguyễn Bình (nguyên là đảng viên Quốc Dân Đảng chuyển sang Đảng cộng sản Đông Dương). Ông Giàu còn bị lên án là có xu hướng thân Nhật khi chủ trương lập Thanh yên Tấn Phong (do ông Phạm Ngọc Thạch làm thủ lãnh chung và luật sư Thái Văn Lung là thủ lãnh ở Sài gòn- Gia Định). Ông không bị tù, từ nước ngoài về nên lẽ tất nhiên là bị những người cộng sản chuyên nghiệp ở trong nước dè chừng và không tín nhiệm...
Khi Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc Nam tiến với thế chẻ tre, hai nước cộng sản sắp lập được thế liên hoàn một giải, ai nấy đều phấn khởi. Người phấn chấn hơn cả, chắc hẳn là "anh Nhân". Ai đã tiếp thu tư tưởng Mao sớm nhất, sâu nhất, rõ ràng nhất? Ai cũng biết ông Trường Chinh, mang bí danh "anh Nhân" hoặc anh "Thận" là người đọc kỹ Trì Cửu Chiến, Tân Dân Chủ Luận, hai tác phẩm vào loại kinh điển chủ nghĩa Mao, và viết ra cuốn Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi và Bàn về Dân Chủ Mới... Việt hóa cả nội dung và hình thức tư tưởng của Mao. Việc cóp- pi này quá là lộ liễu. Cứ theo y như Tàu, chia cuộc kháng chiến ra làm 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Về sau, không thể định rõ nổi là, ở Việt Nam, giai đoạn cầm cự bắt đầu từ bao giờ và từ thời gian nào thì sang giai đoạn tổng phản công? Cũng cần chỉ rõ cái tên Trường Chinh tất đã làm cho ông Mao và cận thần của ông ta gật gù khoái chí, vì cuộc vạn lý Trường Chinh là đặc sản Trung Hoa, là kỳ công của Đảng cộng sản Trung Quốc rút lui từ vùng Trung Nguyên lên phía Tây Bắc để bảo toàn lực lượng. Tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương mang tên rất là "cộng sản Trung Quốc", còn gì hơn nữa!
Cùng phấn chấn đặc biệt với ông Trường Chinh để đón chào "đảng cộng sản Trung Quốc vĩ đại" là các ông Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... những cán bộ đảng chuyên nghiệp kỳ cựu, trưởng thành từ các nhà tù đế quốc, không được học tập văn hóa có hệ thống, không có một nghề chuyên môn nào ngoài cái nghề làm cách mạng. Cùng loại với số người trên là ông Lê Thanh Nghị ở Liên khu Ba, ông Hoàng Văn Hoan ở Liên khu Bốn, ông Nguyễn Duy Trinh ở Liên khu Nam, ông Lê Đức Thọ ở Nam bộ, ông Trần Quốc Hoàn ở vùng quanh thủ đô Hà nội, ông Đỗ Mười ở vùng đường số 5, ông Phạm Hùng ở Nam Bộ. Họ là những đại diện cho Trung ương ở các địa phương, làm công tác đảng chuyên nghiệp, không có nghề chuyên môn, cũng chỉ có nghề duy nhất là làm chính trị. Họ nhìn những người trí thức thật bằng những con mắt định kiến cố hữu của những người cách mạng vô sản chuyên nghiệp, nghĩa là theo con mắt của Mao. Trí thức đồng nghĩa với lập trường tiểu tư sản hoặc tư sản, đồng nghĩa với không vững vàng, hay giao động, họ luôn phải cải tạo, rèn luyện theo gương sáng của người cộng sản, nếu không, hiểu biết của họ không có giá trị bằng - xin lỗi các bạn, đây chính là chữ của Mao - cục phân? Vì phân còn có thể có ích bón ruộng, chứ trí thức dở hơi của các người thì chỉ có hại.
Do định kiến với giới trí thức, họ định kiến luôn đối với cả tri thức của nhân loại, khinh thị tri thức khoa học tự nhiên, tri thức kỹ thuật. Cái gốc của căn bệnh chủ quan, duy ý chí, coi chính trị là thống soái, chính trị quyết định tất cả, cứ đảng muốn làm mọi chuyện đều thành... bắt nguồn từ thái độ cơ bản ấy của những người hoạt động cách mạng vô sản chuyên nghiệp vốn không có học vấn có hệ thống.
Ông Nguyễn Khắc Viện có lần than vãn và nhận định: nền chuyên chính vô sản không đáng sợ bằng nền chuyên chính.. vô học, của những người vô học, khinh thường trí thức. Cũng cần nói thêm chính do không có học vấn thật sự nên họ áp dụng chuyên chính vô sản một cách máy móc và tác hại, đến độ Mác và Engels có sống lại cũng chỉ còn biết kêu trời một cách kinh hoàng? Có thể nói nhóm người sùng bái Mao Trạch Đông, làm cách mạng vô sản chuyên nghiệp đã tận lực vươn dậy "giành chính quyền" theo kiểu cách của họ, thông qua cuộc cải cách ruộng đất "long trời lở đất" và nhất là thông qua cuộc chỉnh đốn tổ chức tiếp theo đó. Họ có thế mạnh của cách mạng Trung Quốc đang toàn thắng, của đội ngũ cốvấn trung Quốc ào ạt xông sang, được họ sùng bái như những phái viên đặc biệt của Mao chủ tịch. Họ sớm nhận ra thời cơ thuận lợi. Sự chần chừ, không mặn mà của ông Hồ Chí Minh đối với cải cách ruộng đất không cản bước được họ. Họ thắng thế khi ở Đại Hội Đảng lần thứ 2, họ đưa được tư tưởng Mao vào điều lệ của Đảng, chính thức hóa, hợp pháp hóa lập trường của họ. Họ thực hiện một kiểu mi- ni "tạo phản" theo lời dạy của Mao, người mà họ bắt đầu coi cao hơn ông Hồ, có thế lực mạnh hơn ông Hồ, vì chính ông Hồ cũng ngợi ca hết lời Mao. ở Đại hội đảng lần thứ 2, họ còn giành được thắng lợi lớn về tổ chức: Trung ương đảng và Bộ chính trị được bầu ở đại hội gồm phần lớn những nhà hoạt động cách mạng vô sản chuyên nghiệp, những đồ đệ trung thành tự nguyện của ông Mao.
Một bước ngoặt diễn ra mà ít ai nhận thấy rõ. Mao từng nói giành chính quyền là điều cơ bản nhất. Giai cấp nào, đảng nào, cho đến phe phái nào giành được chính quyền thì giai cấp ấy, đảng phái ấy, phe phái ấy sẽ có tất cả: quyền lực, quyền uy, chi phối tương lai, nắm hưởng đặc quyền, đặc lợi. ý đồ sâu xa của "anh Nhân" và những nhà cách mạng vô sản chuyên nghiệp được thực hiện: Các nhà trí thức kỹ thuật tham gia chính quyền, trong chính phủ kháng chiến và trong bộ máy từ trên xuống dưới bị thải loại dần, bị vô hiệu hóa, bị hạ xuống vai trò tượng trưng và trang trí. Những thực quyền họ từng sử đụng tuột dần khỏi họ. Các cuộc chỉnh huấn trong Cải cách ruộng đất đã bôi nhọ mặt mũi họ, xỉ vả, miệt thị họ, làm chính họ cũng mất hết tự tin, bị mặc cảm nặng nề về tội lỗi là đã do nền giáo dục đế quốc nhồi sọ... nhường chỗ cho những cán bộ xuất thân từ công nông, với đường lối tổ chức lấy công nông làm cốt cán. Bị thải loại khỏi quyền lực, họ rời chính quyền để nhận việc ở Đảng Dân Chủ, ở Đảng Xã Hội, hai đảng được "nói" là bình đẳng với Đảng Lao Động Việt nam trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt nam, nhưng trên thực tế chỉ là một tổ chức quần chúng loại hai của đảng. Nếu họ còn ở một vị trí chính quyền nào đó, dù là Bộ trưởng thì thực quyền cũng tuột khỏi tay họ, họ phải "hỏi"- thực tế là "xin" ý kiến của một vị Thứ trưởng là ủy viên trung ương đảng, là Bí thư đảng đoàn hoặc Bí thư đảng ủy, từ những chủ trương lớn cho đến những việc nhỏ nhất? Tình hình sau Cải cách ruộng đất là thế. Điều tệ hại này chưa bao giờ được công nhận là sai lầm để sửa chữa.
Bi kịch, nỗi đau của các ông Hoàng Minh Giám Bộ trưởng Văn hóa, Nghiêm Xuân Yêm Bộ trưởng Nông nghiệp, Nguyễn Vãn Huyên Bộ trưởng Giáo đục, Đặng Phúc Thông Bộ trưởng Giao Thông, Vũ Đình Tụng Bộ trưởng Y tế, Trần Đăng Khoa Bộ trưởng Thủy lợi, Phan Anh Bộ trưởng Ngoại thương, Tạ Quang Bửu Bộ trưởng Đại học, Phan Kế Toại Bộ trưởng Nội vụ không phải là bi kịch cá nhân. Không! Nó lớn hơn nhiều. Đó là bi kịch của cả một chế độ, một đất nước mất hết cái hồn dân tộc của chính mình; một đất nước buộc phải đặt cược tương lai ở những con người Tây, Tàu nào đó, các cụ râu ria nào đó, từ Mác, Engels đến Stalin, Mao Trạch Đông, trong tay những nhà cách mạng chuyên nghiệp miệt thị trí thức, thành quả trí tuệ của loài người. Không có ánh sáng quý báu nhất ấy, đất nước vẫn hành quân hoài trong tăm tối... và nhân dân thân yêu của chúng ta phải trả giá, phải hứng chịu tất cả.
Có thể nói đất nước một thời gian dài vừa qua nổi lên là anh hùng trong cuộc chiến tranh giành độc lập, mặt khác lại bị nghiền nát bởi một nền chuyên chính vô sản theo kiểu Stalin và Mao Trạch Đông, một nền chuyên chính nếu không phải là "vô học" như ông Nguyễn Khắc Viện đặt ra một cách hóm hỉnh thì cũng là một nền chuyên chính rất thiếu học thức và văn hóa, một chính quyền mà những nhà trí thức chân chính- tài giỏi chẳng kém gì đồng nghiệp ở các nước láng giềng- chỉ ở vị trí chầu rìa, những kẻ sỹ lỡ làng, ôm hận cho mình, cho giới mình và cho đất nước bất hạnh của mình.
NHỮNG TAY PHÁ PHÁCH
Trong Hoa Xuyên Tuyết, tôi đã cho rằng công cuộc sửa sai trong Cải cách ruộng đất còn hời hợt, không rút kinh nghiệm đến nơi đến chốn. Bởi vì nếu sớm phát hiện sai lầm và rút kinh nghiệm một cách thật sâu sắc thì chủ nghĩa Mao đã được phê phán quyết liệt, bản chất nông dân thiếu học đã được phơi trần. Thực tế đã không làm được như thế. Không ai dám đụng đến chủ nghĩa Mao, đến học thuyết đấu tranh giai cấp cực đoan, đến những biện pháp kỳ quặc: tố khổ, phản tỉnh, kiểm thảo... Ngược lại, khi những người cách mạng vô sản chuyên nghiệp "tạo phản" giành thêm được nhiều vị trí then chốt trong chính quyền, loại bỏ cả một lớp trí thức dân tộc yêu nước và có chuyên môn khá giỏi, thì ảnh hưởng của Mao lại tăng thêm. Cuộc dẹp bỏ thô bạo vụ Nhân Vàn Giai Phẩm diễn ra, và cuộc cải tạo Công thương nghiệp, loại bỏ giai cấp tư sản dân tộc được thực hiện. Đây vẫn là theo kinh nghiệm của công cuộc cải tạo ở Thượng Hải, Thiên Tân, Bắc Kinh... vẫn là theo sự "giúp đỡ" của các "đồng chí phái viên đặc biệt của Mao chủ tịch" về cải tạo công thương nghiệp, của các đồng chí cố vấn, những "đồng chí Vương", "đồng chí Lưu... có nhiều kinh nghiệm nóng hổi về tận diệt nền sản xuất tư doanh. Điều may mắn nếu có chăng, là sau sai lầm cải cách ruộng đất, những hiện tượng diễn ra ở các thành phố đông đúc ở Trung Quốc như: trói tay các nhà tư sản giàu có nhất giải đi giữa đường phố đầu đội mũ lừa, bắt các nhà tư sản đi lao động khổ sai, bắn bỏ một vài nhà tư sản mang bảng hiệu cấu kết với bọn đế quốc... đã không tái diễn ở Việt nam. Số nhà tư sản "tự nguyện" hiến kho hàng, cửa hiệu, xí nghiệp, "tự nguyện" mang của chìm, của nổi "vui vẻ hiến dâng chính phủ và nhân dân chiếm số đông. Trên báo chí và trong các buổi nói chuyện, những quan niệm về lao động và bóc lột, về thợ và chủ, về công bằng và bất công xã hội được làm rõ, với khẩu hiệu trung tâm của Marx- Engel: những kẻ lược đoạt phải bị tước đoạt. Các cuộc phân định thành phần giại cấp diễn ra khá căng thẳng: ai là tư sản mại bản, tư sản phản động, tư sản kiêm địa chủ? Ai là tư sản thường? Ai là tư sản tiến bộ, tư sản dân tộc, tư sản yêu nước? Các cuộc tố khổ, tính sổ bóc lột của tư sản, kể lể những thủ đoạn bóc lột, hà hiếp lao động, buôn gian bán lận, cân đo gian dối, buôn lậu, đầu óc tích trứ, tham tiền bất nhân, cá lớn nuốt cá bé, ăn chơi phè phỡn, sống sa đọa hưởng lạc... được phơi bày, thống kê, tính sổ. Trong đấu tranh đầy khí thế ở các thành thị, nhiều chuyện vô lý mà có thật diễn ra... Những hóa đơn, giấy tờ kinh doanh, quan hệ với các hãng, công ty ở Pháp, Hồng Ông... bị coi là tài liệu liên hệ với giai cáp tư sản đế quốc, cấu kết với bọn phản động quốc tế! Những bức ảnh riêng của gia đinh được ra triển lãm: vợ chồng hoặc người yêu khoác vai nhau trên bờ biển Đồ Sơn trong các bộ áo tẩm, cảnh cưới xin, đón đâu, ăn tiệc mừng thì bị chỉ trích là nếp sống bê tha, sa đọa, dửng mỡ của bọn tư sản, nếp sống đồi trụy của những gia đình bóc lột; những tác phẩm của Lamartine, Beaudelaire, và cả của Victor Hu go, tự điển Pháp... ở nhà riêng bị chụp cho là sùng bái văn hóa xấu xa của đế quốc; một số ông bà chủ sống giản dị, không hút thuốc, uống rượu, gần lao động thì bị kết luận ngay là giả dối, đóng kịch để lấy lòng thợ nhằm bóc lột nhiều hơn... Lập trường giai cấp là phải nhìn thấy tận đáy tâm can của bọn bóc lột, chúng không có một điều gì là tốt hết, sự thâm hiểm của chúng là không có giới hạn, không thể mơ hồ được? Sự nhận xét và phân loại về thái độ chính thị của từng người tư sản do các đoàn cán bộ cải tạo thực hiện theo các mức: thông suốt với chính sách của chính phủ và của đảng (loại A); chấp hành chính sách (loại B); không thông suốt chính sách, có phản ứng giai cấp (loại C). ở mỗi loại lại xác định mức độ hơn kém, so sánh với nhau.
Một bà tư sản bán vải ở phố Hàng Đào ít lâu sau kể chuyện với bè bạn để cười đến chảy nước mắt. Chính sách của đảng dẫn đến chỗ các nhà tư sản phải đóng kịch. Có ông suốt đêm không ngủ, không phải vì tiếc của, mà chỉ sợ dọn cái bị liên lụy Vậy mà tỉnh dậy, soi gương là phải tập "cười"- vì các cán bộ cải tạo cũng lại rất ít học nên hay xem tướng! Anh buồn thiu sẽ bị quy kết là ngấm ngầm "có ý thức phản ứng giai cấp", và con cái sẽ không được đi học tiếp, không được vào đại học, cho nên ông cười luôn miệng và cũng vâng dạ luôn miệng... Và cái cười của ông biến mất sau khi cải tạo hoàn thành, nhưng cái kiểu vâng dạ còn tồn tại mãi về sau? Và nhà thơ Quang Dũng bị "nện" đúng vào thời điểm này.
Có thể nói chỉ vì một câu thơ! Anh bộ đội trẻ, khỏe, yêu đời, tinh nghịch nữa, tôi quen từ hồi ở Liên khu 3 cuối năm 1949 ấy có đôi ria mép thật đáng yêu. Những bài thơ Tây Tiến, Chiều Sơn Tây của anh bọn tiểu tư sản tạch tạch xè chúng tôi luôn thuộc lòng, ngâm nga khi ngủ đêm trong rừng. Trong không khí đấu tranh giai cấp căng thẳng cải tạo tư sản ấy, trong một cuộc họp, nhà thơ Tố Hữu trùm tư tưởng văn hóa nhận xét: thơ Quang Dũng mang bản chất tiểu tư sản? Còn thêm chất tư sản nữa "Đêm mơ Hà nội dáng Kiều thơm" là cái gì? Mơ về bọn tiểu thư con cái tư sản! Không lành mạnh! Có thể ông Tố Hữu không có ác ý với Quang Dũng nhưng lời lãnh dạo là thuôn vàng thước ngọc. Cán bộ Tuyên huấn vội vã phổ biến rộng rãi, thêm thắt chút mắm muối và thế là Quang Dũng bỗng được "đề bạt" vào hàng ngũ Nhân Văn Giai Phẩm, nguy hiểm, bạn bè thưa thớt... để rồi về sau chết trong đói nghèo và ôm cả mối hận xuống suối vàng. Sau đó nhà vãn Nguyễn Tuân cũng bị các ông trùm văn hóa chụp cho cái mũ tư sản to tướng chỉ vì một bài khá hay về Phở! Đấu tranh giai cấp hửng hực khí thế lại không viết, đi viết về phở! Đó là tinh thần hưởng thụ, nhấp nháp rung đùi của bọn án bám, bóc lột, bọn tư sản. Đó là chủ nghĩa cảm giác (lắm chủ nghĩa thế!) trong văn học! Cả một thời gian dài, Nguyễn Tuân nằm nhà vì bè bạn khi gặp thường xa lánh, không vồn vã bắt tay. Nỗi sợ "liên quan" với một nhà văn "có vấn đề chính trị"?
Một nhân vật xuất hiện trong cải tạo giai cấp tư sản khá nổi ngay từ cuối năm 1956 là ông Đỗ Mười. Ông vốn là cán bộ chỉ huy mặt trận đường số 5 Hà nội- Hải Phòng, sau đó về làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Ông được chuyển về Hà nội tham gia lãnh đạo "chiến dịch đánh tư sản", tên gọi bên trong của "cuộc vận động phát động quần chúng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh". Đây là thời cơ của ông, vì ông có một cái "mác" trong lý lịch: thành phần giai cấp là thợ thủ công, thợ chữa khóa và sơn cửa rong từ 14, 15 tuổi ở vùng Vãn Điển, Thanh Trì, Phú Xuyên... Không có thợ từ các cơ sở công nghiệp lớn trong nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà Các Mác từng nghiên cứu, thì thợ thủ công cũng tạm được. Giá hỏi ông, ông bị bóc lột ra sao, bị ông chủ nào bóc lột đến tận xương tủy, thì ông cũng khó trả lời. Ông được được xếp là thành phần công nhân (!). Mà công nhân là giai cấp lãnh đạo, không chia sẻ cho ai! Ông "lập công" lớn ở Hải Phòng, đặc biệt là Hà nội, rồi Nam Định... Ông hay nói, nói nhiều ở các cuộc họp, và bao giờ cũng nói rất mạnh, tay chặt xuống liên tục như đang băm vằm kẻ địch, nói đến khản cổ vẫn còn muốn nói hoài. Ông bận đấu tranh, không có thì giờ học bất cứ thứ ngoại ngữ nào, dù là tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tàu hay tiếng Nga. Nhưng ông biết đủ chuyện để có thể thao thao nói về mọi đề tài, về mọi khu vực và quốc gia,về khoa học xã hội, và kỹ thuật...
Khi đảng quyết định xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước sau tháng 4 năm 1975 thì Bộ Chính Trị liền xuất tướng vào Nam để chỉ huy công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Ông Đỗ Mười được chỉ định làm "tư lệnh": Trưởng ban Chỉ đạo cải tạo công thương nghiệp toàn miền Nam, với 6 vị phó ban. Riêng ở Sài Gòn, địa bàn quan trọng và phức tạp nhất, ông thành lập cơ quan chỉ đạo và 11 đoàn công tác. Đoàn viên lấy cán bộ quân đội và công an làm nòng cốt, cán bộ các cơ quan khác bổ xung thêm thắt vào các đoàn ấy Quân đội có 6 đoàn do ông Nam Trần, tên thật là Trần Văn Danh, Phó tư lệnh Quân khu 7 chỉ huy. Lực lượng công an có 5 đoàn do ông Cao Đăng Chiếm, bí danh là Sáu Hoàng chỉ huy. Tôi quen ông Năm Trần từ hồi 1973, ở trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất, khi ông làm phó đoàn của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam trong Ban Liên Hợp quân sự 4 bên. Ông vốn là cán bộ quân báo. Về sau này ông là Thứ trưởng Bộ xây dựng, phụ trách chỉ huy việc xây dựng nhà máy thủy điện Trị An. Hồi cải tạo tư sản, ông thường báo tin riêng cho tôi tới tham dự các cuộc giao ban hàng ngày ở ngay tại Hội Trường Thống Nhất, dinh Độc Lập. Tôi bắt đầu quen ông Sáu Hoàng ngày 30 tháng 4 năm 1975 ở Dinh Độc Lập. Công bằng mà nói, ông mới là người chính thức được ông Huỳnh Tấn Phát, Thủ tướng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam, giao nhiệm vụ vào Sài Gòn để tiếp nhận chính quyền Sài Gòn. Ông vào có phần chậm, vào khoảng 3 giờ chiều. Ông gặp đủ mặt những người trong chính phủ Dương Văn Minh ở lại trong dinh Độc Lập lúc ấy. Tôi còn nhớ rõ sau đó ông Dương Văn Minh hỏi tôi: ông Sáu Hoàng có phải là ông Cao Đăng Chiếm hồi 1945 là chỉ huy Tự vệ cuộc của Sài Gòn không? Tôi trả lời là chính ông ta đó! Trong thời gian cải tạo tư sản, ông Sáu Hoàng đặt bản doanh ở trụ sở Bộ tư lệnh Công An thành phố (Cảnh sát Đô thành cũ) trên đường Trần Hưng Đạo. Chính ông đã kể cho tôi về các ông "vua lúa gạo, "vua" sắt phế thải, "vua" hóa chất, "vua" nông cơ... đề tài sản, quá trình làm giàu và thái độ của họ trong cải tạo.
Tôi thường nghĩ rằng những người lãnh đạo cộng sản có vẻ thiện nghệ về các cuộc vận động "phá", mang tính chất phá hoại hơn là trong sự nghiệp xây, những công việc mang tính chất xây dựng. Chiến tranh là phá. Cao nhất là "phá hoại" sinh lực đối phương. Tôi đã dự những chiến dịch phá thành phố Vinh hồi 1946; chỉ vài tuần, những nhà cửa dinh thự xây dựng hàng trăm năm đổ sập. Không còn lấy một bức tường nhỏ. Dụng cụ phá rất đơn giản, gậy sắt lớn, thoáng, đục. Và hiệu quả lớn nhất là bộ húc tường làm bằng 3 thanh sắt đường xe lửa buộc chụm chéo vào nhau, từ đó treo một thanh sắt để thọc vào tường, trông giống như chiếc gàu dai tát nước. Cứ thế mà thọc, tường thủng dần và sụp rất nhanh... Cái dụng cụ phá đơn giản vậy, việc làm đơn giản vậy, nhưng xây dựng thì phức tạp gấp hàng triệu dân. Tiêu thổ kháng chiến chỉ vài buổi, còn xây dựng một thành phố, phải vài chục tới hàng trăm năm! Ai cũng biết trồng cho rừng cây mọc phải mất 10 năm, 20 năm, hoặc hàng tràm năm. Nhưng chặt cây xuống thì chỉ một tháng!
Trồng người cũng thế. Luyện thành người tốt, người tài, người có tâm hồn đẹp, có hiểu biết rộng, thật công phu. Nhưng khi xã hội suy đồi, con người xuống cấp, sa sút, bàng hoại về phẩm chất rất nhanh. Đó là tình trạng hiện nay. Nghĩ đến khi phải dựng dậy mà kinh, xây dựng con người trở lại tốt đẹp phải hàng thế hệ, và biết bao công sức, điều kiện! Những người cổ súy đấu tranh giai cấp một cách cực đoan, sùng bái bạo lực, khẩu súng, mang tư tưởng phá phách, diệt trừ... rõ ràng không có khả năng để xây dựng nên một xã hội gồm những con người tốt và đẹp, dù cho họ nói miệng hàng triệu dân về con người mới. Họ thích dùng, quen dùng "chiếc máy nghiền" hơn là chiếc com- pa, máy tính, cần trục, sách vở và tâm tình.
Giữa năm 1992, ở Paris, tôi gặp một anh nghiên cứu sinh trẻ ở một viện thuộc khoa học xã hội từ Hà nội sang. Tôi đi với một anh bạn Việt Kiều từng ở Pháp gần 30 năm quen anh nghiên cứu sinh này từ trước. Anh không biết tôi, chắc nghĩ rằng tôi cũng đã ở bên này rất lâu. Chúng tôi nói về dân chủ, về cuộc bầu cử ở bên nhà, về những nhân vật lãnh đạo. Anh bạn Việt Kiều hỏi anh nghiên cứu sinh trẻ về Tổng bí thư Đỗ Mười. Thế là anh bạn trẻ hốc lên: "Ông Mười à? Các anh chẳng biết gì cả! Hừ. Ông ấy là người phá phách! Bọn tôi ở Hà nội đều nghĩ thế. Diệt tư hữu, diệt tư sản dân tộc miền Bắc là ông ấy. Diệt tư sản miền Nam cũng là ông ấy. Trưởng ban cải tạo kia mà! Để bây giờ lại kêu gọi người ta bỏ vốn ra làm ăn, sản xuất! Các ông chẳng biết gì cả! Ai ỉa (xin lỗi bạn đọc, tôi xin phép ghi nguyên lời anh bạn trí thức trẻ) một đống ở Xuân Mai, mua xi măng, sắt thép làm bao nhiêu là nền nhà, định dựng thành phố thủ phủ Hà Sơn Bình, rồi bỏ đó? Tốn bao nhiêu các ông biết không? Hàng chục tỷ. Rồi ai ỉa một đống nữa ở Xuân Hòa (ở gần thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phú) định đưa trung tâm thủ đô lên đó, tốn bao nhiêu xi măng, sắt thép, rồi lại quẳng đó?
"Còn các ông nói về bầu cử ở đại hội đảng và bầu quốc hội à? Các ông chẳng biết gì cả? Bầu bán cái gì. Các ông ấy chia ghế với nhau, phân vai cả rồi, tiền chế mà lỵ? Sau đó buộc dân phải bỏ phiếu, thế thôi! Tự chọn, tự chọn cả. Các ông cứ hỏi quý vị ấy, sẽ rõ. Cứ hỏi thế này này: Xin các ngài vắt tay lên trán, nghĩ kỹ xem có phải quý ngài được nhân dân lựa chọn và tín nhiệm hay không? Các ngài sẽ đỏ mặt, ngậm hột thị cho mà xem!"
Anh bạn Việt Kiều và tôi hỏi anh ta, về Hà nội, anh có dám nói vậy không? Đang đà hăng, anh ta cười to, lắc đầu: chưa, chưa dám. Nhưng bạn bè hiểu nhau gặp nhau thì sợ gì, nói hết, nói còn hơn thế ấy chứ. Trí thức trong nước chúng tôi ức lắm chứ, cay lắm chứ, họ dở trò gì chúng tôi biết ngay, hiểu ngay chứ, chúng tôi có phải trẻ con đâu mà xỏ mũi được. Rồi sẽ đến lúc chứ...
Tôi và anh bạn Việt kiều gợi lại khẩu khí hùng hồn của anh khi hỏi về vị tướng Lê Đức Anh được 100 phần trăm phiếu bầu ở Quốc Hội. Anh lại hăng máu: "Đó, các ông thấy không. Họ làm toàn chuyện ngược đời. Thái Lan chế độ quân phiệt hàng mấy chục năm bị đổ. Dân đòi phải lập chính quyền dân sự. Thì phải lập. Lập rồi. ở Nam Hàn, chính phủ quân phiệt cũng hết rồi! Ta lại làm ngược, đưa ông tướng lên. Mà ông này trí thức chúng tôi chẳng ai biết ông ta là ai cả. Chỉ biết rằng ông ta chỉ biết làm chiến tranh ở Cam Bốt để bị cả thế giới trừng phạt. Mà lúc này là xây dựng, là phát triển. Tư duy của ông ta là tư duy tàn phá, tư duy chiến tranh, tư duy đối đầu. Trong khi cần tư duy kinh tế, tư duy xây dựng. Họ toàn làm ngược! Họ phá nát hết..." Đúng là khẩu khí mới của trí thức trẻ, biết tức giận, biết nổi giận, trước hiện tình đất nước.
THA THIẾT XIN ĐƯỢC... CHẾT!
Tôi cố nhớ lại cái thời cải tạo ở miền Bắc hồi 1957, 1958 và cải tạo ở men Nam 1977, 1978... Những con người duy ý chí như ông Tố Hữu phụ trách việc cải tạo nông nghiệp và ông Đỗ Mười phụ trách cải tạo công thương nghiệp nghĩ và còn buộc mọi người phải nghĩ theo là cứ cải tạo là có chủ nghĩa xã hội. Họ làm ngược với lý luận của Mác về quan hệ giữa sức sản xuất với quan hệ sản xuất. Mác nhắc đi nhắc lại rằng phải để cho sức sản xuất phát triển sung mãn như quả trứng phải chờ cho hình thành con gà con, như người mẹ phải chờ 9 tháng 10 ngày sau khi bắt đầu mang bầu mới có thể chuyển sang thời kỳ mới. Cũng mấy theo ý muốn chủ quan cũng chiu, sẽ bị thất bại, bị trừng phạt.
ở Việt nam, sức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới manh nha. Những người cộng sản Việt nam sốt ruột, nôn nóng, chuyên làm các chuyện trái khoáy, ngược quy luật, cưỡng bức. ở nông thôn cũng thế, vừa mới chia ruộng, người nông dân chưa kịp hưởng quyền sở hữu về mảnh ruộng của mình thì đã buộc họ vào hợp tác xã, đi tập thể ra đồng theo tiếng kẻng! Phương thức sản xuất tư bản vừa khởi đầu với một số nhà kinh doanh non trẻ thì họ đã giật mình nghe đến: bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Họ theo gương Stalin, sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Nga còn rất yếu so với Tây Âu, vậy mà cũng cứ liều đi lên chủ nghĩa xã hội. Lại còn khoe đã hoàn thành bước đầu chủ nghĩa xã hội từ năm 1932, cả xã hội đã không còn và sẽ không bao giờ có thất nghiệp và khủng hoảng! Sau đó còn huênh hoang từ hồi những năm 70 là hoàn thành về cơ bản việc xây dựng chủ nghĩa xã hội! Từ nay là bước vào thời kỳ lịch sử mới: xây dưng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản! Họ cũng theo gương ông Mao để nhảy vọt, nhảy vọt hoài, nhảy vọt mãi, mà cứ toàn nhảy vọt... lùi lại phía sau! Báo Đức vừa nhận định, Trung Quốc ngày nay dưới sự lãnh đạo của ông Đặng Tiểu Bình đang quá độ từ chủ nghĩa xã hội sang... chủ nghĩa tư bản!
Bao nhiêu điều rõ như ban ngày như vậy, nhưng những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt nam vẫn cứ khẳng định liều là đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, rằng đến 1995 sẽ cơ bản giải quyết xong cuộc khủng hoảng và đến năm 2.000 thu nhập hằng năm theo đầu người sẽ đạt 400 đô la/năm, dù cho số dân được dự kiến sẽ đạt trên 80 triệu! Họ đâu có thiếu đầu óc "lãng mạn" và "trí tưởng tượng"! Và họ cũng không thiếu thông minh! Thông minh" theo nghĩa những mưu mẹo vặt. Họ thiếu cách nhìn thoáng đạt, nhưng mưu mẹo thì không thiếu ở những bước cuối cùng của công cuộc cải tạo công thương nghiệp! Mỗi người tư sản được quyền", được "phép biếu tài sản nổi và chìm của mình. Điều này lâ "tự giác" thôi. Không ai bị bắt buộc cả? Họ phải làm đơn, và sau khi nộp đơn, còn phải hồi hộp chờ xem chính phủ và đảng có vui lòng tiếp nhận hay không! Họ cũng phải nộp đơn xin vào công ty hợp doanh, và thấp thỏm chờ xem có được nhận vào hợp doanh hay không! Không có công thức sẵn cho những lá đơn áy. Đã có cán bộ gợi ý và hướng dẫn cung cách viết đơn, sao cho thật tha thiết, chân thành. Nào là được cải tạo là một vinh dự to lớn, là hạnh phúc cho bản thân và cả gia đình, nào là được phấn đấu để trở thành người lao động vốn là mong ước thầm kín ấp ủ từ lâu nào là nay xin hiến cơ sở sản xuất kinh đoành một cách hoàn toàn tự giác và tự nguyện, rất mong được các cấp cứu xét và tiếp nhận cho. Rồi lại còn nguyện chấp hành thật tốt mọi chính sách của đảng và nhà nước... ấy là vì chỉ sau khi được chấp nhận việc hiến các cơ sở hoặc được vào công tư hợp doanh rồi thì người tư sản mới được cất cái mũ tư sản xấu xa tủi hổ, để được vinh dự nhận vào Mặt Trận Tổ Quốc, vào Hội công thương gia yêu nước, có khi còn được là Phó giám đốc xí nghiệp hoặc cửa hàng... Và con cái họ mới được đi học bình thường, với lời phê trong lý lịch và học bạ: gia đình chấp hành tốt chính sách của Đảng và nhà nước. Đó là vinh dự của cụ Ngô Tử Hạ, cụ Nguyễn Sơn Hà, ông Bùi Hưng Gia, ông bà Trịnh Vãn Bô... tuy gần như trắng tay nhưng lại có thể tự hào đã trở nên nhân vật xã hội được trọng nể, không còn bị khinh thị như khi bắt đầu cuộc cải tạo.
ở miền Nam, việc xin hiến dâng tài sản đại thể cũng là như thế. Cái khác là so với miền Bắc tài sản của bà con tư sản lớn hơn nhiều. Cả từng dãy nhà lầu cho thuê của tư sản nhà đất, những đoàn xe tải, từng đoàn thuyền máy của tư sản vận tải, những nhà máy cỡ bự với hàng tràm máy dệt, máy sợi, những cơ sở nông cơ, lắp máy truyền thanh, máy vô tuyến truyền hình, rồi các xí nghiệp làm xà phòng, thuốc lá, bóng đèn, phích nước, làm sữa hộp, nước mắm... đều được các ông bà chủ "tự nguyện", vui vẻ "xin được hiến dâng cho đảng và chính phủ, và cảm thấy "hạnh phúc" được đổi đời để trở thành người lao động vẻ vang.
Một nhà kinh doanh nổi tiếng một thời ở Sài Gòn am hiểu sâu sắc các chính sách của chế độ cộng sản, nhận xét rằng: tôi sống qua hai chế độ, hiểu họ khá rô. Ví như anh có vườn cây ao cá với nhà ở. Dưới chế độ ông Thiệu thì bọn lính đi qua, chúng hái trụi trái cây, bắt gà vịt, đánh cá ăn nhậu, phá nát cả vườn... Nhưng vẫn còn ao, còn vườn, còn đất của mình. Còn chế độ cộng sản, họ không đụng đến một cây cải, một quả trứng gà, có vẻ tốt vậy đó. Thế rồi, rụp một cái họ lấy của mình luôn cả nhà, cả vườn, cả ao, cứ êm như không, mà lại còn ra vẻ làm phúc cho mình nữa. Họ là những người bậc thầy về tước đoạt! Người có của cứ phải cười mà tha thiết xin họ cho mình được... chết!
Ông cười cay đắng: "Chủ nghĩa Mác- Lênin thâm thật!"
BA NHÂN VẬT VẮNG BÓNG
Do chính sách cải tạo vội vã "nhảy vọt" lên chủ nghĩa xã hội nên cả một tầng lớp nhà kinh doanh non trẻ đã bị "tận diệt". Họ bị diệt không phải về xác thịt, mà về hoạt động kinh doanh. Họ là những người am hiểu sản xuất, dựng xưởng, chọn công nhân, theo dõi quy trình sản xuất, bén nhạy với thị trường giá cả trong và ngoài nước. Họ là nhân vật quyết định cho sức sản xuất phái triển. Họ có vốn, cả vốn tài chính và vốn hiểu biết, kinh nghiệm. Trong cuốn Tư Bản Luận, Marx đã đánh giá rất cao lớp nhân vật này, từ khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu xuất hiện cho đến khi nó trưởng thành vững chắc. Họ là nhàn vật trung tâm của chế độ. Họ giương cao lá cờ tự do, dân chủ. Lao động coi họ là án nhân, là người tạo công an việc làm ngày càng nhiều, trả cho người lao động then lương hợp lý, cùng nhau đòi quyền tự do và dân chủ. Mâu thuẫn giữa chủ và thợ chưa thành xung đột dữ dội... Chính họ là tầng lớp quan trọng nhất đã tạo nên những con rồng ở Singapore, ở Hồng công, ở Nam Hàn và Đài Loan. Ông Lý Quang Diệu mà một hồi những người lãnh đạo cao nhất ở Hà nội suy tôn là bậc thầy, là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp ấy, tầng lớp mà chính họ đã ra tay tận diệt một cách mù quáng và dại dột, với những thủ đoạn khôn khéo kể trên, làm hại cho toàn xã hội, làm điêu đứng cả người lao động.
Bây giờ đất nước lại cần đến những nhân vật ấy, những Nhân vật kinh doanh. Báo Asahi, Nhật Bản đã tổng kết từ đầu những năm 70 rằng, xã hội phát triển cần đến 3 loại nhân vật: nhân vật kinh doanh, nhân vật khoa học kỹ thuật và nhân vật chính trị. Con người là vốn gốc. Nếu có đủ ba loại nhân vật nói trên, và với chất lượng cao, thì sẽ có phát triển. Nhân vật kinh doanh được kể đầu tiên vì họ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, nền tảng của xã hội. Vãn học nước Mỹ và văn học Nhật Bản ca ngợi đặc biệt những con người từ nghèo kém, tay không, vốn liếng ít trở thành triệu phú một cách chính đáng. Họ có nghị lực, có óc tố chức, sáng tạo, biết tạo thời cơ và tận dụng thời cơ, dẫn đến thành đạt. Họ được cả xã hội, cả dân tộc quý trọng, vị nể. Tôi được gặp một số người thành đạt như thế trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ bị những chiến dịch cải tạo ở Sài Gòn xua đuổi ra nước ngoài, mất hết vốn liếng, họ làm lại từ đầu và thành đại có người thành đạt lớn?
Hiện nay ở trong nước vẫn chưa có đủ điều kiện môi trường cạnh tranh lành mạnh và pháp luật đầy đủ để có thể xuất hiện một lớp nhân vật kinh doanh mới, một tầng lớp đã từng bị chính quyền lên án, miệt thị và thủ tiêu. Loại nhân vật cụ thể thứ hai đang vắng bóng là những nhà luật sư tự do. Đất nước vẫn chưa có Trường Đại Học Luật hẳn hoi, vần thiếu luật về dân sự và luật thương mại (đang nhờ nước Pháp giúp!) và nhiều bộ luật khác; luật sư hiện nay đều là luật sư của nhà nước, bênh vực nhà nước. ở một xã hội pháp quyền, vị trí người luật sư tự do rất hệ trọng; họ bảo vệ quyền lợi, danh dự, tài sản, quyền tự do của công dân, không để ai xâm phạm dù đó là các quan chức cấp cao nhất, dù đó là cơ quan nhà nước. Không ai có thể làm càn được. Tại đó nghề luật sư được coi trọng; việc làm luật, bổ xung luật, sửa chữa luật diễn ra hang ngày; luật lệ tôn nghiêm, xử án công minh. Người công dán sống đàng hoàng, nếu không phạm luật thì không phải sợ ai hết, ung dung tự tại. Đến bao giờ nước ta mới có luật sư tự do, có đủ luật, luật phát được mọi người tôn trọng? Đảng sẽ không có quyền can thiệp đến luật pháp, bóp méo luật pháp, xử án tùy tiện, bênh kẻ gian, lrị người ngay. Những người lãnh đạo cao nhất của đảng cũng sẽ phải bị truy tố khi phạm pháp, còn ngồi trên luật pháp? Không có luật pháp nghiêm chỉnh thì sẽ là một kiểu luật rừng! Hiện nay những người lãnh đạo có nói đến luật, đến thảo ra luật mới, đến tôn trọng pháp luật, nhưng họ không thật lòng, họ miễn cưỡng phải nói đến mà không thật tâm thực hiện!
Loại nhân vật cụ thể thứ ba rất cần cho xã hội hiện đại mà hiện nay vắng bóng đó là những nhà làm báo tự do. Họ là những người viết báo, bao gồm cả người làm báo nói, báo điện tử, phóng viên truyền thanh và vô tuyến truyền hình. Họ thành một đội ngũ đông đảo, tạo nên công luận xã hội. Họ có quyền phê phán, nhận xét, khen chê chính phủ, Tổng Thống, Bộ trưởng... Không có ai có thể cản trở, ngăn cấm. Đồng thời họ chịu trách nhiệm trước luật pháp và công luận. Họ sẽ bị tù tội nếu vu cáo. Họ thay mặt công luận trong xã hội chất vấn về mọi vấn đề, mọi nhân vật và bắt buộc những người ấy phải trả lời. Họ tạo nên quyền lực thứ tư, ngoài quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; không có báo chí tự do thì dân chủ chỉ là dân chủ giả, dân chủ què quặt.
ở nước ta Hiến pháp công nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhưng luật báo chí lại cấm báo tư nhân. Luật ấy là vi hiến, là ngược với hiến pháp. Việc cấm báo tư nhân chứng tỏ đảng và chính phủ hiện nay rất sợ công luận, chỉ muốn nghe lời mình nói, rất sợ dân chủ, sợ quyền tự do của công dân. Cần hiểu trọng trong xã hội dân chủ một tờ báo tư nhân không đàng hoàng, viết láo, vu khống sẽ bị phá sản sớm vì bị phạt vạ và xã hội tẩy chay.
Sự thiếu vắng trong xã hội Việt nam ba loại nhân vật cụ thể trên đây, bắt nguồn sâu xa từ Mác, Lênin và chủ thuyết của các ông này. Chủ nghĩa Mác Lênin bỏ qua không bàn đến việc thiết lập một xã hội công dân dưới chủ nghĩa xã hội.
Họ cường điệu bản chất giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhấn mạnh đến chuyên chính của giai cấp vô sản, đặt đảng ở trên pháp luật. Họ không hề nghĩ đến xây dựng một xã hội dân sự mang lại cho người công dân những quyền lực đầy đủ nhất và tạo ra mọi điều kiện cho việc thực hiện những quyền ấy trong đời sống hàng ngày. Cái lỗ hổng lớn này là một nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến sự sụp đổ hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực trong thời gian gần đây. Câu nói của Lênin về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cao gấp nhiều dân nền dân chủ tư sản chỉ là sự nói dối, thành một điều mỉa mai khổng lồ! Công cuộc đổi mới ở Việt nam hiện nay, về mặt nhân sự không chú trọng tạo nên một lớp người kinh doanh có tài năng, một loạt luật sư tự do có công tâm và tay nghề giỏi, một đội ngũ phóng viên và nhà báo tự do (cả báo viết và báo nói) với các đài phát thanh và trạm vô tuyến truyền hình tư nhãn thì đổi mới vẫn chỉ là có đổi mà không mới, có thay mà không đổi. Sẽ vẫn là một xã hội chậm tiến, không sao hòa nhập với thế giới hiện đại!
BỨC THƯ CỦA ÔNG PHAN CHU TRINH
Ông Hồ Chí Minh được coi là người truyền bá mạnh mẽ chủ nghĩa Mác Lé Nin, rồi cả chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao ở Việt nam. Ông làm công việc tuyên truyền, giới thiệu các chủ nghĩa này với tất cả lòng hãng hái, tận tâm, cơi đó là cẩm nang, là vũ khí, lý luận và tư tưởng, là chân lý dẫn đến độc lập, giải phóng, hạnh phúc ở Việt nam, ở Đông Dương và khắp mọi nơi. ông đúng hay sai? Việc ông làm là công hay là tội? Hay là ông đúng bao nhiêu phần, sai bao nhiêu phần? Công nhiêu hơn tội hay là tội nhiều hơn công? Đây là vấn đề rất rộng lớn, khá phức tạp, không thể có câu trả lời đơn giản, gọn ghẽ được. Đầy cũng là vấn đề lịch sử có liên quan đến vần mệnh của đất nước, đến đánh giá quá khứ hiện tại và nhìn tới tương lai của nước Việt nam ta.
Đây cũng là vấn đề đang có nhiều chính kiến khác nhau nhất, thậm chí trái ngược nhau nhất.
ở trong nước, việc đánh giá lại ông Hồ Chí Minh là điều cấm kỵ một cách tuyệt đối. Vì ông là chỗ dựa cuối cùng để những người lãnh đạo duy trì con đường "xã hội chủ nghĩa", "giữ vững ổn định chính trị" có nghĩa là họ không bị mất quyền lãnh đạo.
Họ vin cớ là Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội rồi thì không thể có được con đường nào khác nữa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được đóng đinh vào cương lĩnh Đảng, điều lệ Đảng và Hiến pháp 1992 rồi. Nhà báo Kim Hạnh chỉ giới thiệu về cuốn sách của giáo sư sử học Daniel Hemery, nói rằng hồi trẻ ông Hồ có thể có vợ ở Trung Quốc, đã lập tức bị mất chức tổng biên tập báo Tuổi Trẻ. Ông Bùi Đình Kế, cục trưởng cục lưu trữ quốc gia viết một bài tương tự trên báo Nhân Dân Chủ Nhật cũng bị khiển trách rồi "cho về hưu. Lập luận của Ban Văn hóa và Tư Tưởng là: tất cả những chuyện kể trên đều là bịa đặt bậy bạ với ý đồ xấu xa phá hoại đất nước. Ông Hồ được cả thế giới trước sau ngưỡng mộ, nếu không thì sao năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, UNESCO (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc) lại tổ chức kỷ niệm long trọng ở khắp các lục địa, coi ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại? Họ giấu rất kỹ cuộc tranh luận gay go hồi ấy ở phương Tây về vần đề này, do đó cuối cùng việc tổ chức kỷ niệm ở UNESCO đã diễn ra chiếu lệ, và chỉ có những cuộc kỷ niệm ở Hà nội, ở La Havana (Cua), sau đó ở New Delhi (ấn Độ).
Bộ máy tuyên truyền ở trong nước vẫn giữ nguyên sự đánh giá chính thống về ông Hồ: nhân vật anh hùng, sáng suốt, khai quốc công thần, vĩ đại nhất trong lịch sử Việt nam, mẫu mực về đạo đức, nhà cách mạng tuyệt vời, người Mác xít Lêninít kiên định và sáng tạo, người chiến sĩ quốc tế vô sản kiểu mẫu, nhà lý luận, nhà triết học, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo dục... kiệt xuất của dân tộc, vượt qua tất cả các anh hùng trước đây của dân tộc ta. Theo họ đây là vấn đề không cần, không thể đưa ra bàn cãi...
ở phía những người quốc gia có ý kiến cực đoan nhất thì sự đánh giá về ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực. Đó là một con người đầy thủ đoạn, giả dối, độc ác, tàn bạo, là người đã chủ trương thủ tiêu mọi đối thủ chính trị ở các đảng phái chính trị khác, như Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân... là một nhân viên trung thành phục vụ cho đệ tam quốc tế, là người chiu trách nhiệm chính trong vụ đàn áp văn học Nhân văn Giai Phẩm, trong những sai lầm của cải cách ruộng đất Có người còn cho rằng ông đã lấy thơ của người khác nhận là của mình để in tập Thơ Trong Tù (Ngục Trung Nhật Ký). Có người còn tố cáo rằng chính ông Hồ Chí Minh đã mật báo cho mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu ở Hương Cảng... Cũng có người còn phỏng đoán một cách tự tin rằng chính ông Hồ Chí Minh đã tự vẽ kiểu lăng Hồ Chí Minh cho bản thân mình để tồn tại mãi với hậu thế như một ông vua!
Tôi nghĩ rằng đánh giá một con người trước hết cần khách quan và công bằng, không nên dự đoán và suy diễn. Cũng cần tước bỏ những huyền thoại được thêu dệt thêm do tệ sùng bái cá nhân. Ông Hồ là một con người, không phải là một vị thánh, nên có ưu điểm, có khuyết điểm, có thể có sai lầm nửa, là điều tự nhiên và tát yếu. . .
Trong Hoa Xuyên Tuyết tôi đã nói lên một vài ý kiến của tôi về ông Hồ. Lập tức ở Hà nội, bộ máy tuyên truyền được lệnh lên án tôi là "đã dấn thêm một bước trên con đường phản bội vì đã xuyên tạc về bác Hồ". Hồi ấy, tôi mới chỉ nhận xét rằng hồi 1945, mới 55 tuổi, ông tự nhận là cha già dân tộc và xưng bác với đồng bào, trong đó có cả cụ già 70, 80 tuổi là không ổn. Rằng ông viết về bản thân mình, ký tên là Trần Dân Tiên và T. Lan, tự khen mình là vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, tự nói về mình rằng: "Bác Hồ rất khiêm tốn, người không bao giờ muốn nói đến bản thân mình... thì thật là mỉa mai đến buồn cười!
Trên báo chí ở hải ngoại, có người lên án tôi là còn ca ngợi ông Hồ Chí Minh là người yêu nước thì không thể chấp nhận được, dù cho rằng yêu nước theo kiểu của ông ấy. Họ cũng bác bỏ ý kiến của tôi cho rằng ông Hồ đã hy sinh trong cuộc đấu tranh và sống giản dị, rằng tuy dựa vào Liên xô và Trung Quốc, ông vẫn giữ thái độ tự chủ trong lãnh đạo chiến tranh. Không nghe theo lời Mao và Lâm Bưu khuyên là ở miền nam chỉ nên duy trì chiến tranh du kích, chỉ nên đánh ở cỡ đại đội nếu đánh cỡ tiểu đoàn, trung đoàn trở lên sẽ bị hỏa lực của không quần và pháo binh Mỹ diệt hết! Ông cũng không nghe theo lời Liên xô khuyên là nên hạ súng, tìm giải pháp hòa bình vì Việt nam không thể chống nổi Mỹ về mặt quân sự, như lời nguyên soái Kulikov tư lệnh khối Varsovie nhận xét rằng: Việt nam mà cứ một mực đánh Mỹ thì đất nước tan tành hết, rồi đến cái quần đùi cũng không có mà mặc! Họ một mực cho rằng ông Hồ bất cứ lúc nào cũng chỉ là tay sai ngoan ngoãn, trung thành và mù quáng của đệ tam quốc tế, của Liên xô và Trung Quốc, không thế khác được.
Một bài báo trong nước lên án tôi sao lại gọi ông Hồ bằng ông, không gọi bằng Bác như mọi người trong nước thường gọi. Còn báo ở nước ngoài thì lại phê phán tôi là sao còn gọi ông Hồ bằng Chủ tịch Hồ Chí Minh! Tôi nghĩ gọi ông Lợi, ông Quang Trung thì có gì là phạm thượng? Thì có gì là sai? Ông Hồ chẳng làm chủ tịch nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà từ 1945 đến tận 1969 đó sao? Đối với đồng bào, tuổi trẻ ở trong nước đã đến lúc cần tìm hiểu về ông Hồ mới cách tỉnh táo, khách quan, không a đua, không định kiến, bằng cái đầu có suy nghĩ và đánh giá của chính mỗi người. Cần khắc phục lệ sùng bái cá nhân rất nặng nề của bộ mây tuyên truyền chính thống có khuynh hướng đề cao một cách tuyệt đối ông như thần thánh, nhưng thực tế lại là hạ thấp ông, làm hại uy tín của ông. Mặt khác cũng không thể thóa mạ ông một cách cường điệu, tàn nhẫn và bất công.
Nếu quả thật ông có người yêu, có vợ khi còn trẻ thl có gì là xấu? Nếu có cô Biere (Pháp), cô Tuyết Cần (Trung Hoa), cô Véra Vasiliera (Nga)... là bạn, người yêu, là vợ thì cũng là tự nhiên, bình thường, có thể là nét đẹp nữa, vì ông cũng có trái tim như mọi người chứ. Chỉ có kẻ đạo đức giả mới muốn coi ông là thánh.
Đầu năm 1993, nhà báo Mỹ Sophie Quinn Judge từ Moscou qua Paris để về Hoa Kỳ tìm gặp tôi, kể rằng bà đã được xem một số tài liệu lưu trữ của Quốc Tế cộng sản nói về ông Hồ. Bà cho biết Nguyễn Thị Minh Khai từng khai lý lịch của mình ráng chồng tên là "Lin", tên của Nguyễn ái Quốc hồi ấy. Hơn nữa, bà được xem một bức thư của Hà Huy Tập năm 1935 nói rằng Minh Khai là vợ của Nguyễn ái Quốc. Những tư liệu lịch sử này cần xác minh thêm... Đến ngày sinh nhật của ông 19- 5- 1890 cũng chắc chắn là không đúng. Vậy thì cũng nên xác định lại ngày nào, hoặc năm nào là đúng hoặc gần đúng nhất. Chúng ta được biết khi ông viết đơn xin vào trường thuộc địa hồi 1911 thì ông đã ghi năm sinh là 1892, khi khai ở Sở cảnh Sát Paris ngày 20 tháng 9 năm 1920 thì ông ghi sinh ngày 15 tháng Giêng năm 1894. Đến khi ông khai tại Đại Sứ Quán Liên xô ở Berlin tháng 6 năm 1923 thì ông lại ghi ngày sinh 15 tháng Hai nam 1895; bà Thanh chị cả ông lại khai tại Sở Mật Thám Trung Bồ năm sinh của ông là 1893, còn ông Khiêm anh của ông thì khai đó là năm 1891, trong khi các hương chức xã Kim Liên quê hương ông thì khai rằng ông sinh vào tháng 3 năm Thành Thái thứ Sáu (theo âm Lịch), nghĩa là tháng Tư năm 1894. 1890 hay 1891? Hay 1892, 1893 hoặc 1894? Hay là 1895? Thật rối mù! 6 năm! Mà năm nào cũng có chứng cớ. Ngày mất của ông bị các nhà lãnh đạo hồi ấy "điều chỉnh" chậm lại một ngày do nhu cầu tuyên truyền, đã được trả lại cho sự thật là ngày 2- 9- 1969. Họ cứ muốn cưỡng lại sự thật, theo cố tật của họ, để không cho phép ông được mất vào ngày Quốc Khánh! Tôi rất mừng đã góp phần đưa toàn bộ di chúc của ông ra ánh sáng và nhân đó ngày mất của ông được xác định lại.
Nhà sử học Trần Quốc Vượng rất thích khám phá những điều mới mẻ trong các chuyến đi "thâm nhập thực tế mà ông gọi là các chuyến "điền dã" (thăm đồng quê). Ông đã sưu tầm được ở vùng làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An quê ông Hồ, nhiều chuyện đáng chú ý. Các bậc cao tuổi trong vùng kể lại rằng ông Nguyễn Sinh Huy (sau lấy tên là Nguyễn Sinh Sắc), thân sinh của ông Hồ, không phải thuộc gióng máu mủ của họ Nguyễn Sinh, mà là con một ông đồ nho, đỗ cử nhân, quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, cùng tỉnh Nghệ An, tên là Hỗ Sĩ Tạo. Ông Cử Tạo đến nhà họ Hà, ở làng Sài cùng trong xã chung cư với làng Sen (Kim Liên) để dạy học. Nhà này có cô con gái tên Hà Thị Hy, đàn hay, múa đẹp, lại ế chồng. Ông Cử Tạo đã có vợ con, song trai tài gái sắc ở chung một nhà nên cô Hy có chửa. Ông chủ nhà liền nảy ra "giải pháp" đánh tiếng để gán con gái cho một ông nông dân làng bên góa vợ. Thế là cô Hy trở thành vợ kế của ông nông dân Nguyễn Sinh Nhầm và sanh ra anh Nguyễn Sinh Sắc, về..sau là thân sinh của ông Hồ. Họ Nguyễn Sinh phát từ đó, vốn chỉ biết cày ruộng, thất học, cậu bé . Nguyễn Sinh Sắc học khá, lại được bố thật là ông Cử Tạo kèm cặp gửi gấm nên sau đỗ phó bảng, làm quan. Nhờ gien" của đôi trai tà gái sắc áy mà cậu bé Nguyễn Tất Thành cũng học hành khá sau này. Việc ông Nguyễn Tất Thành rồi Nguyễn ái Quốc họ Hồ để trở thành Hồ Chí Minh có thể là do ông nhớ đến nguồn gốc thật của ông chăng? Tất nhiên với thái độ giáo điều, sùng bái cá nhân những người lãnh đạo bảo thủ hiện nay ở trong nước không thể chấp nhận sự phát hiện mới mẻ của nhà sử học. Ông Trần Quốc Vượng lại có tính bộc trực có gan nói và viết những điêụ mình nghĩ dù những điều ấy không hợp với khẩu vị các nhà lãnh đạo, nên hiện ông bị kèm chặt sau chuyến đi làm việc ở trường Đại Học Cornell Hoa Kỳ, vào năm 1991. Họ vẫn mắc bệnh dị ứng với sự thật. Cần trả lại cho mỗi con người các giá trị đích thật của họ. Tô vẽ người này, bôi nhọ người khác theo yêu cầu chính trị là việc làm không lương thiện.
Về ông Hồ, có khá nhiều vấn đề cần xác minh cho thật rõ, thật đúng. Hiện nay tư liệu ở Pháp cũng như những kho lưu trữ ở Moscow đang được mở ra cho các nhà nghiên cứu, cho công chúng... Gần đây nhà sử học Pháp Daniel Hemery đăng trên tạp chí Tiếp Cận Chất á (Approches- asie) số tháng 1- 1- 1992 một bài báo dài: Hồ Chí Minh đến năm 1991 với một phụ lục gồm 21 bản tư liệu (thư của Nguyễn Huy Sinh gửi Khâm sứ Trung Kỳ, thư của Nguyễn Tất Thành gửi Khâm sứ Trung Kỳ, công văn của sở mật thám Trung kỳ, lời khai của trưởng làng Kim Liên, lời khai các hương chức Kim Liên, lời khai của ông Nguyễn Tất Đạt (anh của ông Hồ), khẩu cung của bà Nguyễn Thị Thanh (chị ông Hồ), ghi chép của Sở Mật Thám Nam Bộ, điện của toàn quyền Đông Dương... Tháng 1- 1993, ông Hemer đưa tôi xem bài báo nói trên và nói: tôi là giáo sư lịch sử, nhà nghiên cứu lịch sử, với thái độ khoa học là tìm ra sự thân viết lên sự thật. Ông vừa được tổng thống Mitterand mời tham gia đoàn nhà nước viếng tham chính thức Việt nam, do sự am hiểu sâu sắc lịch sử Việt nam của ông. Trở về, ông kể với tôi rằng đã "xông" đến tận nhà thăm nhà văn Dương Thu Huơng ở Hà nội những tư liệu xác thực cho thấy: năm 1911, khi anh thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu xuất dương, anh chưa nghĩ rằng đó là cuộc đi tìm đường cứu nước, như các nhà viết sử Việt nam bị ép nói vậy. Bằng cấp anh có trong tay chỉ là bằng Certificat (tiểu học) sau đó anh mới học năm thứ hai bậc trung học, tương đương lớp 9 phổ thông hiện nay. Anh vào trường Dục Thanh, Phan Thiết, làm trợ giáo là do sinh kế trước hết. Bi kịch gia đình đang tác động mạnh mẽ đến anh. Ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượu rất nặng khi còn ở Huế, bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông bố đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn. Tháng 5- 1909, ông được bổ đi Tri huyện Bình Khê ở tỉnh Bình Định; khi 47 tuổi, nửa năm sau đó, tháng Giêng năm 1910, ông bị thi hành kỷ luật rất nặng do đã đánh anh nông dân Tạ Đức Quang bằng roi và gậy, đến mức làm cho anh này chết! Sở mật thám mở cuộc điều tra: vụ ngộ sát xảy ra khi ông Sắc say rượu! Hội đồng Nhiếp chánh ở Huế lúc ấy quyết định tước mọi chức quyền Tri huyện của ông và hạ xuống 4 bậc trong ngành quan lại. Bi kịch này hết sức nặng nề, làm đổ vỡ giấc mộng danh vọng của ông Tri huyện bị thu hồi ấn tín. Ông đi dạy học vài tháng rồi vào Lộc Ninh (Nam Bộ) đi làm "surveillant", giám thị ở đồn điền cao su, sống ngoài lề của bộ máy cai trị, trong niềm lo âu tủi nhục và thiếu thốn. Ông đã đệ đơn gửi Khâm sứ Trung Kỳ để xin việc, nói rõ ông đang sống trong cảnh túng bần. Anh Nguyễn Tất Thành, vào tháng 12- 1912 còn gửi cho Khâm sứ Trung Kỳ bức thư yêu cầu thương hại đến hoàn cảnh túng bần của cha anh và "xin ngài Khâm sứ" tìm cho một công việc gì đó ở Huế cho cha anh, dù là thừa biện ở các Bộ hoặc làm giáo thụ cũng được, với lời lẽ như sau:
"Tôi cầu mong Ngài vui lòng cho cha tôi được nhận một công việc như Thừa biện ở các Bộ, hoặc là Huấn đạo hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài. "Với hy vọng rằng lòng tốt của Ngài sẽ không từ chối lời yêu cầu của một người con chỉ còn biết dựa vào Ngài để làm nghĩa vụ của mình, xin Ngài Khâm Sứ nhận những lời chào kính cẩn của người dân- con và kẻ tùy thuộc chịu ơn của Ngài.
"Ký tên: Paul Tất Thành
"New York, ngày 15 tháng 12 năm 1912."
Nguyên văn tiếng Pháp:
" jose mê me đésirer vous prier de bien voulolr lui accorder ùn emploi com me Thừa biện des Bộ cu Huấn đạo, Giáo thụ, afin qưil puisse se gagner sa vie sous votre hau te bien veillance.
"En espérant que votre bonté ne refuserait la demande dun enfant qui, pour remplir son devoir, na lappui que vous ét en attendant votre réponse, veuillez agréer, Monsieur le Résident Supériềur, les respectueuses salutations de votre flial peuple el reconnaissant servileur.
"Paul Tất Thành
"New York le 15 Décembre 1912."
Cho nên khi xuống tàu xuất dương, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đang ở tâm trạng phẫn chí và bế tắc, việc học dở dang, ông thân sinh bị "đứt gánh" đột nhiên trên con đường hoạn lộ, anh ra đi để cứu mình trước hết, tìm việc, tìm nghề và phần nào để giúp gia đình (anh viết thư từ New York đề ngày 31- 11- 1912 ký tên Paul Tất Thành yêu cầu Khâm sứ Trung Kỳ chuyển một số tiền mọn 15 đồng bạc Đông Dương đến cha anh, và Tòa khâm sứ đã làm theo nguyện vọng của anh). Vừa đến Pháp, anh Thành đã nộp đơn xin vào Trường Thuộc Địa (15- 9- 1911, từ Marseille) và bị từ chối, Bộ Thuộc Địa cho rằng: số được nhận vào quá ít, phải dành cho con những quan lại cao cấp bản xứ? Và phải có học vấn khá. Sau đó anh đi làm bồi tàu, có lúc mơ sẽ làm mai tre dhôtel (chủ khách sạn hay chủ cửa hàng ăn). Trong đơn từ, anh dùng những công thức như: "Xin ngài nhận ở đầy sự biểu hiện lòng trung thành của một kẻ tôi thuộc...", có lúc còn tự nhận là người hàm ơn "công khai hóa của mẫu quốc"... Phải đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất 1914- 1918, tư tưởng chính trị của Nguyễn Tắt Thành mới hình thành rõ nét, sau khi tiếp xúc với những người thuộc Đảng Xã Hội, sau đó là Đảng cộng sản.
Phái viết sử ở Hà nội theo sự chỉ đạo của đảng, đã tô vẽ ông Nguyễn Sinh Sắc thành một nhân vật cách mạng kiên cường chống thực dân Pháp nên bị mất chức, là cố tình bịa đặt sai sự thật. Việc nêu lên chuyện anh Nguyễn Tất Thành vì thấy cách mạng bị bế tắc do chủ trương Đông Du và cải lương thất bại nên ra đi để tìm đường cứu nước là cố nói lấy được nhằm tô vẽ lãnh tụ đã giác ngộ cách mạng từ lúc còn rất trẻ, cũng là việc sai sự thật lịch sử. Việc nói ông ra đi ở bến Nhà Rồng rồi lập nhà kỷ niệm tại đó, cũng là việc làm khiên cưỡng vì hồi ấy nhà thương chính chưa được xây dựng và tàu thường cặp bến ở dưới xa nơi đó. Đã đến lúc phải trả về cho lịch sử những nét chân thật của nó, không thêm bớt, vẽ vời, trái với khoa học và rất có hại, người ta sẽ nghi ngờ cả những điều có thật.
Một vấn đề rất lớn về ông Hồ Chí Minh: ông là người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc hay là một người cộng sản? Theo tôi, ông vốn là một người yêu nước. Ngay cả khi ông chọn Quốc tế Ba cũng là do lòng yêu nước, ông từng nói: Quốc tế Hai, quốc tế Hai Rưỡi hay Quốc Tế Ba? Tôi theo quốc tế Ba vì chỉ có quốc tế Ba mới có lập trường rõ ràng là ủng hộ việc giải phóng các nước thuộc địa. Về sau dần dà ông trở nên cán bộ của quốc tế cộng sản Ba ông bị ảnh hưởng lớn của Stalin và Mao Trạch Đông, đích của ông là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập cho đất nước và đích cao hơn nữa là cách mạng vô sản ở Đông Dương, ở Châu á và toàn thế giở ông lao của ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là rõ ràng. Khó ai có thể bác bỏ hay phủ nhận được. Ông từng bị tù, bị truy nã, ông từng hy sinh tận tụy cho sự nghiệp ấy. Ông có nếp sống giản dị dù là Chủ tịch nước, ông không hề giành cho ông những đặc lợi. Ông đã góp phần quan trọng, có thể nói là công đầu để nước Việt nam độc lặp được sự tôn trọng của thế giới. (Có người sẽ cãi lại là độc lập gì? Chỉ là tay sai cho Nga xô và Trung Cộng? Đó là một ý kiến cần chú ý, nhưng theo tôi không thể vì thế mà phủ nhận nền độc lặp của nước ta được). Bi kịch của cả dân tộc, cũng là của ông Hồ là chính ông đã đi đầu trong việc đưa chủ nghĩa Mác Lênin, nhất là chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao vào Việt nam, trong đó chủ nghĩa Stalin là đậm nhất! Vì chủ nghĩa Mác Lênin được đưa vào rất ít khi bằng những tác phẩm của Mác và Lênin mà đã ít nhiều Stalin- hóa rồi, thông qua cách giải thích, tóm tắt, giới thiệu của Stalin (Lịch sử đảng cộng sản Bôn Xê Vích Liên xô; những vần đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác với vần đề dân tộc, chủ nghĩa Mác với vấn đề ngôn ngữ...) và một loạt sách giáo khoa được biên soạn trong thời kỳ Stalin.
Tai họa của chủ nghĩa xã hội hiện thực, dù cho ở Liên xô hay Đông Âu, ở Trung Quốc hay Việt nam, Cu Ba, Triều Tiên... đều từ đó mà ra. Cho rằng cứ thay đổi quan hệ sản xuất là sẽ có chủ nghĩa xã hội, hợp tác hóa vội vàng, đưa vào quốc doanh mọi cơ sở, ngành nghề, thủ tiêu quyền tư hữu, quyền tự do kinh đoành và cạnh tranh, công nghiệp hóa gấp gáp lấy công nghiệp nặng làm trung tâm, chỉ đạo thô bạo đời sống văn học cơi hiện thực xã hội chủ nghĩa là bút phát duy nhất... đều là học theo Staline cả.
Cho đến đảng độc quyền lãnh đạo, không cho phe phái xuất hiện trong đảng, giữ một khối thống nhất nguyên khối (monolithique) đều mang nhãn hiệu Stalin (thời Lênin còn cho phép tồn tại các nhóm, các phe phái đa số, thiểu số trong Đảng, có tỷ lệ khác nhau trong đảng). Và cái tệ Đảng là nhà nước, đồng nhất với nhà nước, đảng là luật pháp, coi thường luật pháp, đất nước không có trường luật, không có Bộ tư pháp... đều là từ Stalin và Mao mà ra. Rồi cái tệ sùng bái cá nhân dẫn đến đảng và chính quyền là của một nhóm lãnh đạo là của một lãnh tụ duy nhất, sự chuyên quyền độc đoán ngự trị, việc trấn áp, bắt bớ lan tràn cũng là theo Stalin và Mao mà ra. Rồi học theo Trung Quốc trong nhảy vọt lu bù, trong cải cách ruộng đất, trong đàn áp văn nghệ sĩ và trí thức qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm đều là do mù quáng tuân theo tư tưởng Mao Trạch Đông. Cùng với ban lãnh đạo đảng cộng sản, ông Hồ chịu trách nhiệm chính về những thất bại nặng nề trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. Dù cho ông có thiện chí, có mong muốn tốt đi nữa, nhưng thực tế đã dẫn đến những nổi khổ ải của nhân dân, sự đổ vỡ của nền kinh tế, sự lạc hậu triền miên của xã hội, tình trạng nghèo đói và bất công của số đông...
Đó là những vấn đề manh nha từ khi ông còn sống, và ngày càng nặng nề, trầm trọng thêm từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến nay. Hiện nay, những người lãnh đạo đang lập nên cơ quan nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh để quảng cáo cho tư tưởng này, làm cơ sở cho sự "đổi mới"! Vẫn là kiểu làm khiên cưỡng, gán ép, tô vẽ rất có hại. Chính họ trước đây cho rằng tư tưởng Trạch Đông đã đủ. Chỉ có tác phong Hồ Chí Minh thôi. Họ chỉ định ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyễn Giáp... tham gia làm cái việc tán tụng lạc lõng này! Vì thật ra ông Hồ Chí Minh ít có chính kiến riêng về đường lối chính trị. Đến tinh thần dân tộc trong tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin như ông Ti- tô ở Nam Tư, ông Hồ cũng không có. Ông tuyệt đối tin ở đường lối và kinh nghiệm của Liên xô, không một chút phê phán, với thái độ giáo điều. Ông chỉ có ưu điểm là trong chỉ đạo chiến tranh cùng với một số người lãnh đạo khác trong đảng không mù quáng theo lời khuyên của Mao là chỉ nên tiến hành chiến tranh du kích ở miền Nam và cũng không theo sức ép của Liên xô là phải ngửng chiến tranh để tìm một giải pháp thương lượng nhằm chung sống hòa bình bằng mọi giá. Còn trong xây dựng, ông hoàn toàn buông lỏng, không chút tự chủ. Kết luận trên đây rất quan trọng, nó nhắc nhở cho những ai sẽ cầm quyền ở nước ta là chớ có đi theo mù quáng chủ thuyết này hay chủ thuyết khác, nước này hay nước khác, coi chế độ ở đây hay ở nơi kia là mẫu mực để noi theo! Ta phải tìm hiểu kỹ mọi kinh nghiệm đế tạo nên một chế độ thích hợp nhất với ta, với biện pháp, chính sách, đường đi nước bước của ta, có tính đến sự hòa nhập với thế giới. Đó là kinh nghiệm đau xót nhất, từ thực tế mấy chục nam qua, phải làm mở to mắt bất cứ ai sẽ cầm quyền ở nước ta.
Cách mạng Việt nam từ mấy chục năm trước đây có thể đi theo một con đường khác với con đường đã trải qua hay không? Đây là một giả thuyết của một số người. Con đường mà Thái Lan, Indonêxia, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Singapore đã đi rất khác ta. Vậy mà họ đạt đến độc lập, phát triển thịnh vượng, tuy rằng đối với họ đang có vấn đề dân chủ được đặt ra. Chuyện đã qua rồi, rất khó đặt vấn đề trở lại với chữ "nếu.
Để mở rộng đường suy nghĩ, xin trích vài đoạn dưới đây từ bức thư của cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh gửi cho anh thanh niên Nguyễn ái Quốc ngày 18 tháng 2 năm 1922. Lúc này cụ vừa 50 tuổi, hoạt động ở Marseillc. Cụ từng bị tù ở Côn Đảo từ 1908 đến 1911, ra khỏi tù cụ sang Pháp, viết cuốn sách Đông Dương Chính Trị Luận nêu rõ đường lối đấu tranh không bạo động, tố cáo chế độ thực dân hà khắc và hệ thống quan lại tham nhũng trước dư luận Pháp. Cụ chủ trương đường lối đấu tranh lấy văn hóa, giáo dục, dân trí làm nền tảng lâu dài, theo phương châm: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, có nghĩa là mở mang sự hiểu biết của đông đảo nhân dân, làm cho khí thế khí phách của nhân dân phấn chấn lên và làm cho cuộc sống được cải thiện (hậu đây có nghĩa là làm cho dày, cho hậu, cho hùng hậu, chứ không phải là: cuối cùng là dân sinh, như một số sách dịch nhầm). Chủ trương này bị Nguyễn ái Quốc cho là thủ cựu.
Bức thư có đoạn viết: "Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (là Phan Văn Trường, luật sư nổi tiếng về trình độ hiểu biết và lòng yêu nước hồi ấy) đàm đạo nhiều việc; mãi tới bây giờ anh cũng không ưa gì cái phương pháp Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi lại không thích cái phương pháp Ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội (ngồi ở nước ngoài kéo người tài từ trong nước ra, đợi thời cơ để trở về gấp) của anh, và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hòa mà anh đã nói với Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tý nào cả, bởi vì suy ra thì tôi đã thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế, tôi nói thế chẳng hề dám ví anh là kẻ tử mã lục thạch (4 chữ này, nhà học giả Hoàng Xuân Hãn có ý kiến dịch là ngựa non háu đá, theo cách nói ví von hóm hỉnh thường thấy ở Cụ Phan Tây Hồ)".
Bức thư còn viết thêm: "Từ xưa đến nay, từ á sang Âu, chưa có một người nào làm cái việc như anh. Anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giàng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp Ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội; cứ như cái phương pháp ấy thời anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi!... Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác gì công dã tràng
Cần nhớ rằng Cụ Phan Chu Trinh cùng một lứa thi cử với Nguyễn Sinh Huy, thân sinh của Nguyễn ái Quốc. Cụ Phan cũng đỗ phó bảng. Cụ hơn Nguyễn ái Quốc 22, 23 tuổi. Trong lá thư trên, rõ ràng Cụ phê phán Nguyễn ái Quốc về phương pháp cách mạng. Tuy cụ không chấp gì việc Nguyễn ái Quốc nhận xét cụ là bảo thủ, là thủ cựu, là hủ nho và cải lương, cụ vẫn một mực can ngăn Nguyễn ái Quốc chớ chủ quan cho phương pháp của mình là đúng. Cụ còn phê phán Nguyễn là xưa nay, từ Âu sang á, chưa ai làm cái việc như Nguyễn làm. Cái cách làm ấy chỉ phí công? Cụ còn ví von nói, ngựa non háu đá! Cụ một mực khẳng định con đường của cụ: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh là con đường đúng đắn cần theo. Con đường cụ Phan chủ trương gần giống như con đường của các ông Gandhi và Nehru ở ấn Độ. Đó là con đường bất bạo động, con đường nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, mở mang học vấn, cổ động tinh thần đấu tranh, đồng thời tranh thủ các thế lực dân chủ và tiến bộ ở chính quốc. Cụ rất ưa dùng hình ảnh đông tay vỗ nên bộp, nghĩa là giác ngộ đồng bào, hướng dẫn đông đảo đồng bào đồng tâm đấu tranh, nhiều người cùng vỗ tay sẽ tạo nên cảnh hưởng ứng rộng lớn, có uy lực buộc kẻ thù nhượng bộ. Nhiều nhà trí thức có lý khi đặt vấn đề rằng: nếu như hồi ấy đường lối đấu tranh đại loại như của cụ Phan đề xướng được chạp nhận và thành hiện thực thì đất nước ta rất có thể đã khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất, có dân chủ và phát triển, có thể tránh được chiến tranh, và tránh bị cỗ máy nghiền mà chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao đã đứa đến thông qua đảng cộng sản với biết bao hậu quả nặng nề mà chưa biết đến bao giờ mới khắc phục được...
CỖ MÁY NGHIỀN: NHỮNG CÂU HỎI CÒN NÓNG HỔI
Mác và Engels có biết đâu ở tận chân trời xa xăm bên Châu á, có một dân tộc được biết về hai ông, được học về hai ông nhiều đến vậy! Tên hai ông được nhắc đi nhắc lại hằng ngày trên báo, trên đài, trong các nhà trường. ảnh hai ông la liệt đầy nhà, đầy phố. Và nay tâm lý xã hội cả nước đầu những năm 90 này là cay đắng khi nghe đến ông. Nếu tỉnh dậy hai ông có thể bàng hoàng, giận dữ nữa, bảo rằng "chủ thuyết chúng tôi đâu có đơn giản, thô kệch, phi lý đến như vậy?, rằng "tư duy chúng tôi đâu có ấu trĩ, cứng đờ như người ta gán ghép một cách tai hại", rằng "chúng tôi chỉ muốn cung cấp cho người đương thời một phương pháp luận rất uyển chuyển thì các người lại coi đó là những nguyên lý cứng nhắc không có sức sống". Chúng tôi không nhận ra những gì mang tên chúng tôi, vẽ nên mặt mũi của chính chúng tôi. Không? Chúng tôi khác hẳn?
Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt nam thì phải nói đến Stalin và Mao Trạch Đông. Hai lãnh tụ kiệt xuất hay hai kẻ gian hùng? Hai vị lãnh tụ kiểu mới từ dân, do dân, vì dân hay là hai kẻ độc tài? Hai vị cứu tinh hay hai kẻ tàn phá cuộc sống của nhân dân? Tất cả đã rõ. Hai nhân vật này đã mang đến Việt nam những cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng con người ở Việt nam? Tất nhiên là thông qua "thiện chí mù quáng" của đảng cộng sản Việt nam. Tất cả bi kịch là ở đó.
Vậy thì xin được kiến nghị với các vị lãnh đạo của đảng cộng sản, hơn 100 vị trong viện Mác Lênin, hơn 800 cán bộ lý luận của hệ thống trường đảng Nguyễn ái Quốc... thông báo cho toàn xã hội biết chủ nghĩa Mác Lênin còn có những giá trị đích thực gì cho đất nước Việt nam ngày hôm nay để nó vẫn được ghi bằng nét đậm trên Hiến pháp 1992? Rằng họ đánh giá Stalin ra sao, hay vẫn là công 7 tội 3? Mong rằng ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam họ chỉ ra mọi người được biết chủ nghĩa xã hội hiện còn tồn tại ra sao? ở đâu? Như thế nào? Và cái chủ nghĩa xã hội mà họ ghi trên giấy trắng mực đen trong cương lĩnh và đang được quá độ xây dựng hình thù nó ra sao? Và vì sao các vị lại mời ông Lý Quang Diệu làm cố vấn, mời chuyên gia pháp luật của chính phủ Pháp giúp để thảo các bộ luật mới? Họ là những người nắm chắc chủ nghĩa Mác Lênin chăng? Họ là những nhân vật kiệt xuất soi sáng con đường Việt nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội chăng? Không dứt khoát đoạn tuyệt với sai lầm trong quá khứ thì không thể tìm ra con lường đúng đi đến tương lai.
Không phải là ai khác, chính ông Viện trưởng Viện Mác Lênin ở Hà nội là Đặng Xuân Kỳ, con ông Trường Chinh từng tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội ở Việt nam sẽ ra sao, chúng tôi chưa hình dung được, chúng tôi còn phải nghiên cứu! Nhiều cán bộ ở Viện Mác nin cũng nói: mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt nam chưa có, hiện cứ vừa làm vừa tìm tòi thế là cứ nhắm mắt mà đi! Đi vào chốn tù mù đáng sợ! Và họ vô tình giam cả đất nước vào một khối tù mù! ở Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình đang lãnh đạo nước Trung Hoa quá độ đi về chủ nghĩa tư bản, một kiểu chủ nghĩa tư bản do đảng cộng sản lãnh đạo, theo kinh tế thị trường. Thà ràng cứ nói thẳng như vậy.
ở Việt nam, đảng cộng sản Việt nam đang lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường, với 5 thành phần kinh tế, mà khu vực quốc doanh là chủ đạo, là then chốt. Một mô hình đầu Ngô mình Sở, sẽ không có chủ nghĩa xã hội, cũng sẽ chẳng có chủ nghĩa tư bản; một sự pha trộn giữa nước và lửa; một sự ghép lại của những điều trái ngược, phủ định nhau. Sẽ chỉ đẻ ra một quái thai: xã hội hỗn loạn, không pháp luật, một số kẻ đặc quyền thao túng, nạn tham nhũng buôn lậu thành dịch, giàu nghèo phân hóa theo hai cực, đất nước thành mồi béo cho các nhà tư bản nước ngoài ranh ma và lão luyện thao túng, tài sản quốc gia bị thất thoát vào mọi túi tham trong và ngoài nước. Tất cả trong không khí tù mù về lý luận và đường lối!
Trách nhiệm thuộc về ai? Về đảng. Đảng là ai? là cơ quan lãnh đạo hay cả gần hai triệu đảng viên cộng sản? Trách nhiệm tập thể. Nghĩa là không có ai chịu trách nhiệm cá nhân cả. Cá nhân nấp kín sau tập thể khi đổ vỡ. Tất cả đều phủi tay! Chỉ riêng vụ sai lầm cải cách ruộng đất là có kỷ luật cá nhân. Thế nhưng kỷ luật cũng như không! Ông Trường Chinh mất chức Tổng bí thư thì sau đó lại được làm chủ tịch Quốc hội, rồi trở lại quyền Tổng bí thư. Ông Hoàng Quốc Việt sau đó làm chủ tịch Tổng công đoàn, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc; ông Lê Văn Lương sau khi b! kỷ luật, vào lại Ban bí thư và kiêm Bí thư Thành ủy của Hà nội. Ai lập công đầu tận diệt nền công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc hồi 1956, 1957, diệt trừ sức sản xuất mới của tầng lớp tư sản dân tộc, làm điêu đứng cả người lao động? Ai phải chịu trách nhiệm chính làm cho bộ đội ta sa lầy, chuốc lấy hậu quả kinh khủng: 50 ngàn chiến sĩ chết oan, 200 ngàn bị thương (phần lớn là cụt chân do mìn Trung Quốc), ngân sách quân sự táng quá đáng, bị cả thế giới tẩy chay, trừng phạt, chỉ vì giấc mơ hão liên minh ba nước Đông Dương!
Nếu trách nhiệm cá nhân rõ ràng thì rất khó mà ông Lê Đức Anh có thể thu được 100% phiếu ngon ơ! Có thể thấp hơn nhiều, và cũng có thể dưới 50% và dưới nữa, dưới nữa nếu có một nền dân chủ đích thật, có tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Tai họa của đất nước đến từ đâu? Ai là người chịu trách nhiệm? Câu hỏi này xoáy sau trong óc của tất cả những nạn nhân trong toàn xã hội. Cỗ máy nghiền mang nhãn hiệu ngoại lai và những người cầm lái cho chạy cỗ máy ấy trên đất nước ta là nguyên nhân và người chịu trách nhiệm về thảm họa dân tộc hiện nay.
Nếu nguyên nhân và trách nhiệm về cuộc khủng hoảng hiện nay của đất nước được làm rõ thêm chút nào qua phần viết này của cuốn sách, người viết cảm thấy sung sướng vì đã góp phần đề cập đến một vấn đề hệ trọng trong lịch sử của đất nước, nhằm tìm ra một lối thoát cho quê hương.
PHẦN II
NHỮNG HỒ SƠ CHƯA KHÉP
Bất cứ một nhà nước nào cũng phải tự bảo vệ mình. Quân đội và cảnh sát được lập nên để bảo vệ chủ quyền, lãnh thố của đất nước, an ninh của xã hội. Nước Việt nam cũng không thể ở. ngoài quy luật tất yếu ấy.
Thế nhưng nếu cường điệu đấu tranh giai cấp, cường điệu chuyên chính vô sản sẽ dẫn đến một chế độ độc đoán, đàn áp những công dân bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền, trên thực tế là tước đoạt và chà đạp lên quyền tự do của công dân. Nhất là khi xã hội không có luật sư tự do để giúp công dân nắm chắc pháp luật cũng như quyền hạn nghĩa vụ của mình, thì người công dân dễ dàng bị mất tự do mà không biết cách nào giành lại tự do. ở một chế độ cực quyền, đảng đồng nhất với nhà nước, thì tai họa đối với người công dân, người dân đen, người phó thường dân như ta thường nói, không sao lường hết lược. Những người ngay thật, dũng cảm hay nhẹ dạ thường bị thiệt thòi và vùi dập. Đó là tình hình ở Liên xô, ở Đông Âu, ở Trung Quốc, ở Cu Ba và ở cả Việt nam ta, trong các nước xã hội chủ nghĩa hiện thực, cùng đúc trong một khuôn mẫu
Đã đến lúc toàn xã hội ta nhìn lại nửa thế kỷ qua, nhận rõ những sai lầm đã phạm phải để rút kinh nghiệm và thực hiện công bằng đối với những người bị oan ức, để xây dựng một xã hội có pháp luật trong đó người công dân sống ung dung, yên ổn trong danh dự và nhân cách, không bị nơm nớp lo sợ; để ai cũng ngẩng cao đầu không khúm núm, sợ sệt. Có nhìn quá khứ một cách rõ ràng, sòng phẳng, có trách nhiệm mới xây dựng được một nền dân chủ công minh và hiện đại, một xã hội đáng sống.
Xí xóa ư?
Hay gì cứ bới móc những chậu cũ! Sẽ có người kêu lên vậy Họ cho rằng cần nhìn thẳng tới phía trước, những gì đã qua thì cho qua! Những người trong cuộc, bị oan ức kẻng kêu, những kẻ đứng ngoài lại kêu to để hòng gây rối! Lập luận này không đứng vững. Mọi việc oan ức trong quá khứ cần nhìn lại cho rõ ràng, kết luận lại nếu cần, minh oan cho những người bị xử trí oan. Không phải để trả thù, cũng không phải để truy cứu tội lỗi của ai (tuy việc này có trường hợp cần làm) mà chủ yếu là để rút kinh nghiệm chung cho xã hội.
Đúng là dân tộc ta rất cao thượng, nhân dân ta số đông có lòng nhân ái và độ lượng. Họ sẵn sàng đại xá cho những người lầm lỗi từng gây oan ức cho người công dân. Thế nhưng không thể lợi dụng lòng tốt ấy để xí xóa tất cả, để cho chìm vào bóng tối tất cả những việc làm xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, thân thể, tài sản của công dân. Và người bị oan chỉ có thể độ lượng khi những kẻ gây ra tội lỗi nhận thật rõ sai tâm và có lời xin lỗi chính thức và công khai. Đó là lẽ thường tình trong đời sống xã hội.
Hơn nữa, lịch sử đất nước ta cần nhìn lại và viết lại. Mỗi người công dán có công tâm, mỗi nhà sử học biết tự trọng và có trách nhiệm cần giúp một ta góp phần viết lại lịch sử của đất nước mình một cách khách quan, trung thực, không bị bóp méo và xuyên tạc theo yêu cầu hất thời của giới cầm quyền.
Lịch sử dân tộc có liên quan đến việc đánh giá những con người tham gia việc hình thành lịch sử, đến việc nhìn lại cho đúng những nhân vật bị thanh trừng, bị thất sủng, bị xử trì, từ đó lập lại công bằng cho những nhóm người và những người có liên quan bị xử trí sai, bị vu cáo, bị án oan. Tôi được biết cho đến nay có đến hàng nghìn người bị xử trí oan mà chưa được kết luận lại. Có người đã gửi hàng trăm lá đơn đến các cơ quan có thẩm quyền, từ tòa án tối cao, viện kiểm sát tối cao, thanh tra chính phủ, ban kiểm tra của trung ương đảng, các cơ quan an ninh, cảnh sát, các cơ quan ngôn luận... vậy mà vẫn cứ là biệt vô âm tín.
Tôi đã tận mắt thấy ở văn phòng báo Nhân dân, các cô văn thư nhận những lá đơn ngoài bì đề rõ: đơn thứ 24, đơn thứ 76, có lá đơn ghi đến dân thứ 120? Thật là kêu trời không thấu. Cơ quan này đá sang cơ quan kia, dưới đệ lên trên, trên chuyển xuống dưới, dồn cho nhau, thế là yên, còn sự việc vẫn để đó, không ai thèm xem xét đến. Nỗi oan khiên cứ việc tồn tại, cứ việc lưu cữu, cứ việc hành hạ những gia đình và những con người... cho đến tận khi chết vẫn còn ôm hận sang thế giới bên kia!
Xã hội không có pháp luật lõ ràng, lại không có cả một đội ngũ luật sư tự do giỏi nghiệp vụ đê bênh vực cuộc sống của người công dân, lại không có tự do báo chí, tự do ngôn luận, để nêu lên những trường hợp ngang trái tiêu biểu nhất, gây sức ép của dư luận đòi hỏi phải giải quyết đến nơi đến chốn. Những người có trách nhiệm ở Viện kiểm sát, ở các ban thanh tra thú nhận rằng đơn từ xếp đống từ nền lên đến trần nhà (ở Viện Kiểm sát nhân dân thủ đô Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh), nhưng chỉ giải quyết theo kiểu nhỏ giọt. Hãy cho một số nhà báo có công tâm khui ra một vài vụ tiêu biểu. Chả lẽ tình cảm của xã hội nay đã trở nên trơ như đá, không mảy may động lòng thương cảm, xót xa cho những người bị oan đầy rẫy thông xã hội, hậu quả của một thời kỳ dài sống dưới chế độ chuyên quyền, độc đoán, coi thường quyền công dân, cá nhân nấp sau tập thể để trốn trách nhiệm và làm bậy.
ở nông thôn nước ta, tôi được biết tình hình còn thê thảm hơn nữa. Không ít nơi chính quyền nằm trong tay những cường hào mới, họ xây dựng quyền lực theo dòng họ, phe nhóm, án cánh với nhau, bênh che nhau, hà hiếp những người dân đen thấp cổ bé họng, dèm pha dọa dẫm người này, vu cáo kẻ khác, thêu dệt đủ chuyện để bôi nhọ những người lương thiện, trả thù những người ngay thẳng có công tâm, gây nên vô vàn cảnh oan ức, đày đọa cuộc sống của biết bao công dân.
Nhiều người nông dân không còn biết kêu oan cho ai, ở đâu "quan" thì xa, "lại" thì gần; "quan" thì quan liêu, "lại" thì nhũng nhiễu, không biết luật sư là gì, không biết ai cầm cân công lý, nên chỉ còn biết nhẫn nhục chịu đựng. Họ không biết, cũng không được hướng dẫn về quyền công dân trong xã hội, không am hiểu luật pháp, kể cả những điều sơ đẳng nhất? Họ là những công dân loại hai trên thực tế, vô hình bị tước quyền công dân, bị hà hiếp mà không biết phản ứng ra sao để tự vệ. Họ cần mẫn lao động ngoài đồng ruộng, lo cho gia đình riêng, vậy mà vẫn không được yên ổn, con cái bị phân biệt đối xử, có khi chỉ vì thuộc một họ tộc khác, vây cánh không có, thần thế càng không. Có người hồi còn tạm chiếm, bị bắt buộc đi lính bảo an, dân vệ, vài tháng bị buộc làm hội tề, thế là bị lý lịch "xấu, "liên quan với địch", không sao gỡ ra được nữa, thua thiệt suốt đời. Ngược lại có kẻ trước kia thực sự tham gia chính quyền cũ còn áp bức nhân dân, cậy thần thế áp chế nông dân, thế mà do khôn khéo nịnh bộ cán bộ, lại tạo nên thế chính trị mới trong đảng, trong chính quyền để cưỡi đầu cưỡi cổ dân. Nhìn ra nước ngoài, lại hầu hết các nước, người công dân đã hiểu và đã hưởng cuộc sống trong pháp luật là thế nào, họ biết luật pháp cấm họ, răn đe họ không được xâm phạm tự do của người khác ra sao và cũng biết cách không cho phép ai xâm phạm đến thân thể, tài sản, danh dự của mình. Họ hiểu rằng trong xã hội, họ bình đẳng với mọi người, kể cả những người quyền cao chức trọng nhất. Họ sống ung dung, thư thái, đàng hoàng, không bị ai quấy rầy. Thủ tướng khi có lỗi, có tội, cũng phải ra hầu tòa, như ông Laurent Fabius, trước là thủ tướng Pháp, đầu năm 1993 cũng bị tòa án triệu tập đến để điều tra về trách nhiệm của ông trong vụ truyền máu cách đây 6,7 năm, làm cho mấy chục người bị nhiễm SIDA...
VỤ ÁN 48 NĂM TRƯỚC
Tháng ba 1993 vừa qua, trên đài RFI (Pháp), ông Hoàng Khoa Khôi thuộc tổ chức đệ tứ quốc tế (Troskýt) đã nói đến vụ ám sát nhưng người lãnh đạo troskyt ở Việt nam hồi 1945. Ông nhắc đến cái chết của các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch... và mong rằng các vụ án này sẽ được đưa ra ánh sáng. Đã có hơn 100 nhân vật chính trị và khoa học, văn hóa ký tên đòi phục hồi danh dự cho Tạ Thu Thâu, vì khi ông bị Việt Minh giết hại trong một nhà tù tại vùng ven biển Mỹ Khê (Quảng Ngãi) vào tháng 9- 1945, ông bị kết tội là Việt gian, tay sai của phát xít Nhật! Hai ông Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch cũng đều bị Việt Minh bắt và giết tại Dĩ An (Thủ Đức- Sàigòn) cùng một thời gian ấy.
Tạ Thu Thâu sinh năm 1906 ở Long Xuyên, Nam Bộ, học tại trường Chasselup- Laubat Sài Gòn, đậu tú tài Pháp năm 1925. Ông sang Pháp năm 1927 để học chương trình cử nhân toán học. Ông tham gia thành lập Việt nam Độc Lập Đảng, ra báo La Résurrection (Nổi Dậy), tổ chức phong trào sinh viên Việt nam ở Pháp. Năm 1929 ông tham gia phong trào Trốt kýt Pháp, phê phán chính sách hẹp hòi của Đảng cộng sản Pháp trong vấn đề thuộc địa. Ông bị trục xuất về Sài gòn sau khi tổ chức cuộc biểu tình trước điện Elysées, Paris, ngày 2 tháng 5 năm 1930, lên án việc chính phủ Pháp hành quyết những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Về nước ông lập phong trào Tả đối lập, rồi lập ra tờ báo La Lutte (Tranh đấu). Tháng 5- 1935 ông được bầu vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn, trở thành nhân vật lãnh đạo nổi bật nhất các cuộc đình công và biểu tình lớn trong hai năm 1936 và 1937. Cùng với hai ông Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch, ông được bầu vào Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ tháng 4 năm 1939. Trong cuộc đàn áp lớn khi chiến tranh thế giới nổ ra, ông bị bắt tháng 4 năm 1940 và bị đày ra Côn Đảo tháng 10 năm 1940. Ông ra tù cuối năm 1944. Giữa năm 1945 ông lên đường ra Bắc, giữa đường thì Cách mạng tháng 8 nổ ra, ông quay về Sài Gòn thì bị Việt Minh bắt.
Điều rất mỉa mai là Tạ Thu Thâu, nhà trí thức Trôi kýt xuất sắc đã chủ trương bắt tay chặt chẽ với nhưng người cộng sản thuộc đệ tam quốc tế, lập mặt trận chung chống đế quốc. Ông là bạn thân của Nguyễn Văn Tạo (1908- 1972) vốn là ủy viên trung ương đảng ông Sản Pháp, của Dương Bạch Mai (1904- 1965) đảng viên đảng cộng sản Đông Dương. Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai đều trúng cử vào Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn tháng 5- 1935 vả cũng là linh hồn của tờ báo La Lutte (Tranh Đấu) rất có ảnh hưởng hồi ấy.
Chính sự hợp tác chặt chẽ giữa những người Trốtkyt và những người cộng sản theo tinh thần rộng rãi của Mặt trận Bình dân Pháp đã làm cho phong trào cách mạng mở rộng, tổ chức các công đoàn phát triển. Đến cuối năm 1937, Mặt Trận Bình dân suy yếu, Đảng Xã Hội Pháp đi ngược lại cương lĩnh của họ trong ván đê thuộc địa, đảng cộng sản bị Stalin hóa, nhóm La Lutte tan vỡ.
Cuộc đấu tranh trở nên gay gắt về đường lối và biện pháp cách mạng giữa Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh và Hà Huy Tập, Tổng bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương khi Mặt Trận Bình Dân tan rã. Đảng cộng sản Đông Dương chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa Stalin và bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mao, đề xướng việc hình thành Mặt Trận Dân Chủ, trong đó Đảng cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo. Việc hình thành Mặt Trận Việt Minh năm 1941 là theo tinh thần biệt phái như thế.
Đến năm 1939 qua những cuộc vây ráp rộng lớn của mật thám, phong trào cách mạng đi vào thoái trào. Những người cộng sản và những người trôtkýt gặp nhau ở Côn Đảo, tiếp tục tranh luận về đường lối cách mạng Việt nam. Các cuộc tranh luận, cãi vã đôi khi dẫn đến xô xát và thanh toán lẫn nhau? Những vụ án Moscou nổ ra, Stalin kết tội Trốt- kyt là phản bội! Những người theo Trôt- kyt bị Stalin tàn sát với danh hiệu: phản bội đảng, làm gián điệp cho phát xít Đức. Cuối năm 1939, Nguyễn ái Quốc trong báo cáo gửi quốc tế cộng sản chỉ rõ: "Đối với bọn trốtkýt, không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị". Sau đó, từ Trung Quốc ông gửi thư về nước, chỉ rõ: "Bọn trốtkýt là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát xít Nhật và chủ nghĩa phát xít quốc tế.
Xin nhớ trên số báo Pravda ở Moscou, ra ngày 14 tháng 3 năm 1937, Staline đã viết: "Chủ nghĩa Trôt- kýt dùng phương pháp đấu tranh hèn hạ nhất, nhơ bẩn nhất, khốn nạn nhất. Nấp trong bóng tối, đàn chó Trốtkyt tụ tập những kẻ không còn tính người, sẵn sàng gây mọi tội ác... Khủng bố cá nhân là phương pháp hành động của bọn chó săn Trốtkýt".
Nguyễn ái Quốc còn nhắn về nước: "Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc bản xử án bọn Trốt kýt ở Liên xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốtkyt và bọn Trốtkýt" (Hồ chí Minh Toàn Tập, tập 3, trang 97).
Vu khống, chụp mũ những người trốtkýt Việt nam, ám sát, thủ tiêu những người lãnh đạo trốtkýt như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch là những người bạn chiến đấu một thời của những người cộng sản, những người lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương đã thực hiện chủ nghĩa Stalin, đã phạm một tội ác trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Yêu cầu của những người troskyt Việt nam hiện nay được các trí thức quốc tế ủng hộ là khôi phục danh dự cho những người bị sát hại với cái tội là "Việt gian" là một yêu cầu chính đáng, không thể bỏ qua được.
MỘT THỜI KỲ HẤP DẪN ĐỐI VỚI CÁC NHÀ SỬ HỌC
Nhà sử học Pháp Daniel Hemery chuyên nghiên cứu lịch sử Việt nam vừa viết một bài báo dài nhan đề "Sài Gòn Đỏ", kể lại tình hình ở đó trong những năm trước chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã dựa vào một số tư liệu mới lấy từ kho lưu trữ của Bộ Thuộc Địa Pháp và Sở Mật thám Dông Dương hồi ấy. Những điều ông viết rất khác với nội dung mà sách xuất bản ở Hà nội từng nói về phong trào đấu tranh trong những năm ấy. Theo Daniel Hemery, trong những năm 30, Sài gòn trở nên một địa bàn đấu tranh sôi động nhất. Phong trào đòi dân chủ của Việt nam khởi đầu tại đó. Đó là một cuộc nổi dậy vừa chống Khổng giáo, vừa chống chế độ thuộc địa. Chế độ thuộc địa ở Nam kỳ, khác với chế độ bảo hộ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh. Hội đồng Thành phố Sài Gòn và Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ được bầu, tạo nên một đời sống chính trị và công luận vì cùng với công dân Pháp, một số người bản xứ cũng có quyền bầu cử. Báo chí tiếng Pháp và tiếng Việt phát triển rất mạnh, hơn hẳn ở Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đó là La Dépeche dIndochine, LImpartial, La Tnbune Indochmoise, Echoannamite của Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long; Đuốc Nhà Nam của Nguyễn Phan Long. Tờ Le Bulletin Socialiste de la Cochinchine của cánh xã hội cũng được phát hành.
Phong trào cải cách xã hội được Nguyễn An Ninh (1900- 1943) mới đậu cử nhân luật, đề xướng vào cuối năm 1923, vừa phê phán Khổng giáo, vừa phê phán cái gọi là sứ mệnh khai hóa của nước Pháp, đòi quyền tự do của công dân và cải tạo xã hội. Ông chỉ rõ: nền văn minh phương Đông có thể kết hợp với nền văn minh phương Tây. Ông mạnh dạn đề xướng việc cải cách văn hóa và nếp sống, không nên quan niệm chữ hiếu một cách cổ hủ, bố mẹ bắt buộc con cái phải tuyệt đối cúi đầu vâng lời cũng như quan niệm áp bức người phụ nữ. Báo Phụ Nữ Tân Văn ra mắt từ năm 1929 ở Sài Gòn theo tinh thần ấy. Nguyễn An Ninh cũng ra tờ báo La Clochc fêlée (Cái Chuông Rè) từ đầu năm 1924, gây thêm tiếng vang sâu rộng
Sự kiện Nguyễn An Ninh bị bắt vào tháng 3 năm 1926, rồi ngày 4 tháng 4 năm đó lễ tang Phan Chu trinh đã tạo nên những cuộc đấu tranh qui mô lớn. Riêng ở Sài Gòn, hàng chục nghìn lao động, tập họp theo ngành: thợ may, thợ giày, thợ cắt tóc, thợ nề, thợ mộc, kéo xe, công nhân cảng, cùng đội ngũ học sinh biểu tình và tuần hành. Một số học sinh bị bắt, thế là bãi khóa diễn ra rộng khắp. Nguyễn An Ninh liền lập ra Việt nam Cao Vọng Đảng, hoạt động chủ yếu gồm thanh niên, học sinh, công nhân... trong hai năm 1927 và 1928.
Hồi ấy Sài gòn đã trở thành trung tâm công nghiệp lớn nhất Việt nam, với 50 ngàn thợ thuyền như xưởng đóng và sửa tàu (1500 thợ), xí nghiệp thuốc lá, xay xát gạo, đường sắt, cảng..., trong đó đã có một số thợ kỹ thuật có tay nghề khá cao. Phong trào công nhân tác động mạnh đến các vùng nông thôn và đồn điền. Tháng 2- 1930, 3000 phu đồn điền Phú Riềng bãi công và chiếm đoạt một phần cơ sở trong đồn điền rộng lớn này. Theo thống kê của Sở Mật Thám Đông Dương, chỉ trong mùa hè 1930 đã có 125 cuộc đấu tranh ở 13 tỉnh trong tổng số 21 tỉnh Nam Bộ. ở Sài gòn, viên thanh tra cảnh sát Legiand bị giết chết trong cuộc đấu tranh bởi anh thanh niên Nguyễn Huy mới 14 tuổi; Cậu thanh niên dũng cảm này bị án chém. Cuộc đàn áp diễn ra rất tàn bạo, đồng thời ở Nam Kỳ và ở Nghệ An. Tháng 4- 1931 hầu như toàn bộ Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Đông Dương bị bắt, Tổng bí thư Trần Phú chết trong khi bị tra tấn ở Sở mật thám. Chỉ riêng ở Sài Gòn 3500 chiến sĩ cách mạng bị đưa ra tòa án. Riêng phiên tòa đại hình Sài Gòn diễn ra từ ngày 2 đến ngày 7 tháng 5 năm 1933 xử 131 người; 8 người bị kết án tử hình, tòa kêu án tổng cộng 900 năm tù cho 101 người. Thoái trào bắt đầu từ đó.
Cũng chính từ Sài Gòn, phong trào cách mạng được hồi phục nhanh và mạnh khi xuất hiện phong trào Mặt Trận Bình Dân ở Pháp. Vai trò đầu tàu của cuộc hồi phục thuộc về nhóm Trốtkýt Việt nam từ Pháp trở về. Họ vừa bắt tay với những người cộng sản vừa phê phán Đảng cộng sản Đông Dương về tinh thần quốc gia có phần hẹp hòi, ít tinh thần giai cấp công nhân, cũng như về xu hướng theo Stalin của Đảng cộng sản. Nhóm La Lulte hoạt động mạnh, như phần trên đã nói; điều cần nói thêm là thế lực Trốtkýt lên khá mạnh trong trí thức, sinh viên, học sinh, thợ thuyền Sài Gòn, với lá cờ búa liềm đỏ mang số 4 (đệ tứ). Phong trào Đông Dương Đại Hội lên mạnh, có tới 600 ủy ban hành động ở Sài gòn và vùng lân cận, trong đó thế lực của nhóm Trốt kýt vẫn ở hàng đầu. Hồi đó thế và lực của Đảng cộng sản lại là ở Bắc Kỳ, ở Trung Kỳ (chủ yếu là vùng Nghệ An, Hà tĩnh), ở Hoa Nam và một số vùng Thái Lan.
Tất cả những nét đấu tranh trên đây chưa được phản ánh đúng trong các cuốn lịch sử phong trào cách mạng và công nhân do những người cộng sản chỉ đạo việc soạn thảo. Cái khuynh hướng viết sử để tự đề cao tổ chức của mình, hạ thấp các tổ chức khác, thậm chí chụp mũ "Việt gian" bừa bãi cho những người không theo mình, làm cho sự thật bị xuyên tạc, bóp méo, là thái độ không khoa học. không lương thiện. Nhiệm vụ các nhà sử học chân chính việt cho thật đúng lịch sử còn rất nặng nề vậy.
TỪ NHỮNG CÁCH YÊU NƯỚC KHÁC NHAU
Trong các giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay, nhiều sự kiện, nhân vật... cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức Việt nam Quốc Dân Đảng sau đó rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân, cũng như cách Mạng Đồng Minh Hội... đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sau của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, tay sai của thực dân Pháp, hay của đế quốc Mỹ; nói tóm lại, những tổ chức ấy đều là những tổ chức "Việt gian", là kẻ thù của dân tộc. Đó là quan điểm chụp mũ nhưng người không chịu theo Đàng cộng sản, nhưng người bất đồng chính kiến về chính trị với Đảng cộng sản là kẻ thù tuốt. Họ tự nhận, chỉ những người cộng sản mới là đấu tranh cho dân tộc, mới là người yêu nước; còn mọi người khác đều là ở trận tuyến đối lập, đều chống lại tổ quốc và nhân dân...
Trong các cuốn sách lịch sử, trên báo chí, đài phát thanh, những nhân vật như Trần Trọng Kim làm Thủ tướng sau cuộc đảo chính 9- 3- 1945 bị coi là phản động, bù nhìn và tay sai cho đế quốc Nhật; Phạm Quỳnh, nhà văn hóa, nhà báo, chủ nhiệm tờ Nam Phong, sau làm Thượng thư Bộ Giáo Dục rồi Bộ Lại của Nam Triều Bảo Đại cũng bị gán tội là Việt gian, tay sai thực dân Pháp, bị Việt Minh giết đầu tháng 9- 1945 ở Huế, Ngô Đình Diệm, Thủ tướng rồi Tổng thống ở miền Nam Việt nam, bị coi là phản động, Việt gian, do CIA Mỹ huấn luyện và đào tạo. Rồi một loạt nhân vật chính trị, văn hóa khác như: Võ Hồng Khanh, Nguỵ Tường Tam, Khái Hưng, Hoàng Đạo,.. cũng bị nhận định là phản động, bán nước, Việt gian, tay sai thực dân và đế quốc...
Ngay ở trong đảng cộng sản, việc chụp mũ cho một số người là phản bội, la "xét lại", là "chống đảng" trong một loạt vụ án nội hộ cũng rất tùy tiện. Hoàng Văn Hoan, ủy viên bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt nam sau khi bất đồng chính kiến với ban lãnh đạo đảng, trong một chuyến đi ra nước ngoài đã ở lại Pakistan rồi sang Trung Quốc, bị kết tội là phản bội và bị kết án tử hình. Một số nhân vật như: Thượng tướng Chu Văn Tấn Tư lệnh Quân khu Việt Bắc, ủy viên đảng ủy quân sự Trung ương, Phó chủ tịch Quốc Hội; Trung tướng Nguyễn Vịnh, Trưởng ban Thống Nhất của Trung ương đảng; Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần; Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện triết Học; Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ Tân, Bộ ngoại giao; Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng Bộ ngoại giao cũng từng bị nhận định trong nội bộ đảng là phản bội, theo chủ nghĩa xét lại chống đảng và là tay chân của nước ngoài... Việc chụp mũ những người không có cùng chính kiến với Đảng cộng sản là "Việt gian" có thể là một kiểu cách học theo Đảng cộng sản Trung Quốc hồi nội chiến Quốc Cộng: Đảng cộng sản Trung Quốc coi những kẻ hợp tác với phát xít Nhật là Hán gian; coi chính phủ Uổng Tinh Vệ là Hán gian, tay sai Nhật. Về sau chữ Hán gian được dùng rộng rãi, cứ ai không đồng tình và phê phán đường lối của Đảng cộng sản Trung Quốc thì đều là Hán gian cả... Từ hai chứ Hán gian mà sinh ra hai chứ Việt gian. Đã là Việt gian thì đáng tội chết, đáng bị xử tử.
ở phía trận tuyến đối lập, thường gọi là phía quốc gia, trên báo chí hải ngoại, cũng có những người có quan điểm cực đoan, coi những người lãnh đạo cộng sản mới là "phản động", là "tay sai của Nga xô", "tay sai của đệ tam quốc tế, là "bán nước cho Nga cộng và Trung Cộng", là cõng rãn cắn gà nhà, là nguyên nhân của chiến tranh huynh đệ tương tàn, là nguồn gốc mọi đau khổ và tổn thất của đồng bào... Họ không ngần ngại dùng những từ ngữ xấu xa nhất để chụp lên đầu những người lãnh đạo của đảng cộng sản.
Tất cả những điều trên là hậu quả của một thời kỳ lịch sử. Đã đến lúc tỉnh táo nhìn lại và đánh giá một cách điềm tĩnh, khách quan. Có thể nói, ở các bên, chỉ có một số ít người đi làm chính trị để nhằm kiếm chác tiền tài và danh vọng. Phần lớn đi làm chính trị là nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội. Họ chịu đựng những hy sinh, tổn thất trong dấu tranh, có khi bị bắt bớ, tù đày. Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà họ cho là đúng đắn. Họ lại phải tính đến những thế lực quốc tế, đến cuộc đấu tranh giữa những thế lực quốc tế ấy ở trong khu vực và trên thế giới. Và họ tìm chỗ dựa, tìm sự giúp đỡ và ủng hộ của bên này hay của bên kia, trong cuộc đấu tranh của tổ chức chính trị mà họ dựng lên hay tham gia ấy cho nên cần quan niệm một cách khách quan rằng: ở bên này hay ở bên kia, trong tổ chức này hay tổ chức khác, những người hoạt động chính trị trong thời kỳ lịch sử vừa qua đã có những cách yêu nước khác nhau, dẫn đến đường lối và biện pháp khác nhau. Trong đấu tranh quyết liệt đối địch nhau, họ coi nhau là kẻ thù và có những nhận định quá đáng về nhau. Nay lịch sử đã sang trang, cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước, có thể phê phán nhau về đường lối và phương pháp, không nên giữ mãi hận thù kiểu sống mái và triệt tiêu nhau. Những người cộng sản đã thắng trong chiến tranh, do họ đã dựng được lá cờ yêu nước trong nhân dân, nhưng họ đã thất bại trong xây dựng đất nước do đã không giữ đường con đường tự chủ tự lập. Đó là bi kịch của họ, cũng là bi kịch cửa đất nước do họ độc quyền lãnh đạo. Sớm muộn những thế lực lành mạnh của đất nước vốn ở hai trận tuyến đối lập, sẽ biết tìm thấy nhau, bắt tay nhau, hợp tác vì nghĩa lớn: xây dựng một nước Việt nam độc lập, dân chủ, phát triển và phồn vinh, trong dó luật pháp được tôn trọng và công bằng xã hội được thực hiện, hòa nhập với thế giới ngày nay. Đến lúc ấy danh từ "ngụy" cũng sẽ biến hẳn đi, để trong hồ sơ, lý lịch, lưu trữ của chính quyền, trên sách, báo, trong lời nói, không còn có ai bị xúc phạm, khinh thị, bị phân biệt đối xử là thuộc "ngụy quân" và "ngụy quyền" như từ 1975 đến nay. Đáng lý ra, ngay sau khi ấy, danh từ "ngụy" đã không nên không được dùng đến, cũng như những lớp "học tập cải tạo không nên có; thực tế đó là những trại giam của những người chiến thắng nhằm giam cầm, đầy đọa những người thua trận, làm cho chữ "giải phóng" trở nên một tai họa ghê gớm cho hàng triệu con người, kéo dài oán thù lẽ ra đã có thể sớm nguôi ngoại và chấm dứt.
ĐOÀN KẾT VÀ HÒA GIẢI HÒA HỢP
Chữ đoàn kết được nêu lên không biết đến bao nhiêu lần trong các văn kiện của đảng cộng sản. Đoàn kết dân tộc. Đoàn kết quốc gia. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Có báo Đoàn kết, câu lạc bộ Đoàn kết, cửa hàng Đoàn kết, cho đến bánh kẹo cũng mang nhãn hiệu Đoàn kết. Đoàn kết nghĩa là bắt tay nhau, chung lòng chung sức, hợp quần, đồng tâm nhất trí để phấn đấu...
Thế nhưng đối với những người lãnh đạo cộng sản, chữ đoàn kết có ý nghĩa khác với ý nghĩa thông thường. Theo họ, đoàn kết luôn có nghĩa, và chỉ có một ý nghĩa là: Theo tôi! Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, trong Mặt trận Liên Việt hay trong mặt trận Tổ Quốc có nghĩa là theo sự lãnh đạo của đảng cộng sản, vâng lời đảng cộng sản, chịu mọi sự áp đặt của đảng cộng sản. Nói khác với đảng, cãi lại đảng là vi phạm tinh thần đoàn kết, là nhằm cách phá vỡ khối đoàn kết, là có tội, có khi tội rất nặng. Ngay ở trong đảng, vấn đề giữ đoàn kết của đảng như con ngươi của mắt mình, có nghĩa là luôn phải tuân theo ý kiến của lãnh đạo, không được có ý kiến khác, nếu có ý kiến khác thì liền bị kết tội là bè phái, là chia rẽ, là phá vỡ sự đoàn kết thống nhất, thậm chí là phản bội, là phản động... Có hồi Đảng Dân Chủ Việt nam và Đảng Xã Hội Việt nam cùng với Đảng cộng sản Việt nam đoàn kết trong Mặt Trận Tổ Quốc trên tinh thần bình đãng, tôn trọng lẫn nhau, nhưng thực tế hai đảng đó phải tuân theo sự chỉ huy và lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản. Hai chữ đoàn kết, bình đẳng chỉ là hai sợi dây buộc chát hai tổ chức ấy vào cỗ xe của đảng. Họ giải thích rằng đoàn kết thì phải có lãnh đạo; tinh thần dân chủ tập trung là thế! Cũng như đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa, đoàn kết với Liên xô .luôn bao hàm ý tuân theo sự lãnh đạo và chỉ huy của Liên xô, những ý kiến của Liên xô luôn phải coi là chỉ thị để chấp hành nghiêm chỉnh. Trong mối quan hệ giữa đảng cộng sản trên bán đảo Đông Dương, giữa ba nước Việt Miên Lào cũng vậy, đoàn kết bao gồm ý phải công nhận sự lãnh đạo của Việt nam, phải coi ông Hồ Chí Minh là người lãnh đạo của cả 3 đảng. Nước lớn và nước nhỏ, nước đàn anh và nước đàn em luôn rõ ràng, phân minh, không thể nhập nhằng được! "Đoàn kết" trở thành một sợi giây vô hình trói buộc mọi cá nhân với đảng, mọi tổ chức với đảng cộng sản, thủ tiêu các quyền dân chủ, thủ tiêu sự bình đẳng, làm cơ sở cho mọi sự chuyên quyền và độc đoán tệ hại. Đây cũng là một kiểu cách lạt mềm buộc chặt của ông Hồ Chí Minh.
Cần khôi phục lại ý nghĩa chân thật của hai chữ đoàn kết, cùng nhau đoàn kết trên cơ sở ngang nhau.
Nhân đây cũng xin có vài lời về cụm từ "hòa giải, hòa hợp dân tộc"; vấn đề này từng gây biết bao tranh cãi trên báo chí hải ngoại. Người thì nói rằng đây là vấn đề quan trọng bậc nhất, không thể bỏ qua. Người thì cho rằng không cần, đó chỉ là cái bẫy nguy hiểm, một sự lừa lọc. Đầu năm 1993, trong cuộc họp với một số Việt Kiều ở Sài gòn, ông Võ Văn Kiệt nói bảy lần đến đoàn kết và hòa hợp, không nói đến hòa giải. Hòa hợp là một yêu cầu nhằm giải quyết vấn đề ngăn cách, chia cách, xa lánh, bất hòa, không hiểu nhau, không gần nhau, không quan hệ hay ít quan hệ với nhau vì xung khắc, vì định kiến... Hòa giải là một yêu cầu nhằm giải quyết những vấn đề xung khắc, xung đột, có khi là hận thù với nhau, xuất hiện so những điều kiện trước đây, nay cùng nhau gặp gỡ trực tiếp để thanh toán cho êm đẹp đi đến hiểu nhau, gần nhau, đạt đến mối quan hệ thân quen khác hẳn trước.
Nếu hiểu rõ như vậy thì trong xã hội Việt nam rất cần đến sự hòa giải, hòa hợp, vì do những điều kiện lịch sử, đã có những sự đối địch giữa chế độ miền Bắc và miền Nam, đã có chiến tranh huynh đệ tương tàn, đã có người của phía bên này và phía bên kia, do đó người dân thường ít hiểu về chính trị cũng bị ảnh hưởng trong suy nghĩ. Trong nhân dân, đã có khá nhiều điều đã được hòa giải một cách tự phát, trong gia đình, giữa bạn bè, người thân quen ngay từ sau 30- 4- 1975. Sự hòa hợp đã được thực hiện khá rộng và khá sâu trong nhân dân vốn giàu tình cảm và lương tri (bon sens).
Tuy nhiên vẫn cần có chủ trương hòa giải và hòa hợp trên phạm vi quốc gia, để thực hiện một cách đầy đủ, rộng khắp, nhất quán trong nhận thức, trong văn kiện, tầl liệu, trên sách báo, trong nếp nghĩ, trong cả đánh giá những sự kiện và nhân vật lịch sử cũng như trong xử sự hiện nay. Biết bao nhiêu việc cần làm để mở trang sử mới, không bị quá khứ giam hãm và đè nặng để thanh thản nhìn tới tươnglai.
Hòa giải và hòa hợp cần thực hiện rộng khắp, trong quan hệ nhà nước với công dân, không còn định kiến dân "ta" và dân "ngụy", "ngụy quân" và "ngụy quyền" cũ trong các cơ quan hành chánh, an ninh, các cơ quan của đảng cộng sản hiện nay, quan hệ giữa các cơ quan hành chánh, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học với công dân; quan hệ với bà con Việt Kiều... trong đó nhà nước và Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước phải giữ vai trò chủ động và chân thành. Đây không phải là kiểu trịch thượng, ban ơn, "ta cho các người được hòa giải và hòa hợp với ta" mà là hòa hợp và hòa giải trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau về nhân cách và nhân phẩm. Nếu không, vẫn là kiểu "đoàn kết" có nghĩa là khuất phục, theo tôi! Và hòa giải, hòa hợp lại là cúi đầu xin tha tội, rồi mới chìa tay ra bắt.
Do đó hòa giải và hòa hợp phải xuất phát từ thiện chí, từ tình anh em trong một nhà, từ tình nghĩa ruột thịt, con em chung một tổ quốc, nhìn lại quá khứ với con mắt am hiểu, độ lượng, thông cảm nhau, từ đó tôn trọng, quí mến nhau trên tinh thần bình đẳng.
Ngay trong cộng đồng Việt ở nước ngoài, với những quá khứ và lịch sử khác nhau, trong các tổ chức khác nhau, quan điểm chính trị khác nhau, có khi đối địch nhau, cũng cần đặt vấn đề hòa giải và hòa hợp, tôn trọng nhau trên tinh thần dân chủ, đa nguyên, chung sức hợp tác xây dựng cộng đồng lớn mạnh, đóng góp có kết quả nhất để xây dựng tổ quốc. Trong cộng đồng người Việt, cũng có ý kiến cực đoan cho rằng đối với cộng sản, không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền (rút lui như thế nào và giao quyền ra sao thì có người không phát biểu rõ được) vì họ là những kẻ có tội, phá hại đất nước... Đây là lối nhìn trịch thượng, không thực tế. Còn cần tạo nên nhiều sức ép trong và ngoài nước mạnh mẽ mới có thể ép những người lãnh đạo Đảng cộng sản chấp nhận bầu cử dân chủ thật sự theo quan diềm đa nguyên. Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, những người có cách nghĩ cực đoan không nhiều, số này lại đang giảm đi rõ rệt. Tôi đã có dịp gặp hàng nghìn người ở nhiều nước, với những đặc điểm rất khác nhau về quá khứ, hoạt động đảng phái, nghề nghiệp cũ, động cơ rời đất nước, hoạt động hiện nay... Thật là phong phú. Họ là giáo sư, trí thức các ngành khoa học, tự nhiên và xã hội. Họ là nhà kinh doanh. Họ là cựu sĩ quan của miền Nam cũ, có người là thiếu tướng, trung tướng, đại tướng. Họ là dân biểu, thượng nghị sĩ ở quốc hội Sài gòn cũ. Họ là nhà báo, văn nghệ sĩ, bác sĩ, dược sĩ. Tôi không e ngại gặp gỡ, thảo luận, đối thoại với bất cứ ai.
Suốt hơn hai năm gặp gỡ nhiều người, tôi ghi chép tất cả và nhận thấy mỗi người một vực, không ai giống ai, thế nhưng tất cả đều có một nét chung: Họ là những người lương thiện, có thiện tâm, ít nhiều đều có lòng yêu nước, mong mỏi quê hương phồn thịnh. Cá biệt lắm mới có người cực đoan, mù quáng, thiên về cảm tính, bị quá khứ cầm tù, và những người này dù sao vẫn có thể cảm hóa được. Tôi đặc biệt quý trọng thế hệ trẻ, từ 20 đến 30, 35 tuổi, là sinh viên, cán bộ kỹ thuật các ngành, họ không bị quá khứ ràng buộc, có cách nhìn thoáng rộng, độc lập và tự chủ. Chính số cán bộ trẻ này có nhiều kinh nghiệm khoa học, kỹ thuật, quản lý, kinh doanh, chắc chắn sẽ có ích cho mất nước trong thời gian tới, khi họ có thể trở về một thời gian ngắn hoặc đài tùy theo yêu cầu để làm việc ở trong nước. Số cán bộ, trí thức trẻ này có tấm lòng hòa giải và hòa hợp rất tự nhiên, nhẹ nhàng mà không kém phần sâu đậm. Có anh chị em trẻ còn nói, việc hòa giải hòa hợp là chuyện của các vị, chúng tôi không muốn kế thừa cái truyền thống chia rẽ của các vị! Tuổi trẻ chúng tôi ở trong nước với ở ngoài nước đã là bạn bè anh em với nhau rồi. Tất cả thành kiến và thủ đoạn chia rẽ dân tộc, phân chia giả tạo từ cả hai phía thành: yêu nước và phản động, yêu nước và bán nước, yêu nước và "việt gian"; quốc gia và cộng sản, tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Nga Tầu, bù nhìn của kẻ này và kẻ khác... đã đến lúc phải thanh toán triệt để. Sẽ gỡ đi được gánh nặng đè lên cuộc sống của dân tộc ta, mọi người thanh thản lao vào sự nghiệp lớn: phát triển đất nước, khắc phục lạc hậu và nghèo khổ, ráng đuổi kịp các nước láng giềng.
DƯỚI ĐÁY GIẾNG
ở miền Bắc, từ khi còn ở tuổi mẫu giáo, các em đã được các cô dạy cho lòng căm thù. Cái gì xấu xa là đế quốc, dịa chủ, ngụy. Tập bắn súng là có sẵn bia: lính Mỹ, máy bay Mỹ, lính ngụy. Tập đánh giặc, tập bắt tù binh. Tập tra hỏi tù binh. Tập giải tù binh đi.. Khi làm tính, lập đếm, cộng trừ nhân chia cũng dùng số lính ngụy, lính Mỹ bị diệt trong 1 trận, trong hai trận lớn nhỏ để tính. Cách xưng hô cũng rõ ràng, bạn thù ta rạch ròi. Bác Hồ, chú cán bộ, ông Stalin, bác Mao, đồng chí bộ đội, còn thì phía bên kia phải gọi bằng thằng tuốt. Thằng Tổng thống Mỹ, thằng Tổng thống ngụy, thằng Việt gian, thằng sĩ quan Mỹ, thằng chỉ huy ngụy, thằng lính biệt kích, thằng Tỉnh trưởng... Trong những câu chuyện kể cho tuổi thơ trong trắng và ngây thơ, ông Stalin, bác Mao, bác Hồ hiện lên như thần thánh, tiên phật, các chú bộ đội luôn hiền ơi là hiền, dũng cảm, mưu trí, nhiều sáng kiến, cứu đồng bào trong bão lụt, thật thà, ngay thẳng, còn những kẻ hung ác, lừa đảo, tham lam, ngờ nghệch, ngu ngốc thì đều là "Mỹ- ngụy" và "tay sai"!
Từ tuổi thiếu niên, qua giáo dục của nhà trường, đội thiếu niên tiền phong, lập trường bạn thù ta trong các em đã vô cùng rõ ràng. Phe ta, phe nó, chúng ta và chúng nó; ta nhất định thằng, địch nhất định thua. Tất nhiên trong chiến tranh, động viên cổ vũ hậu phương, tuyên truyền ủng hộ tiền tuyến là cần thiết. Thế nhưng việc giáo dục từ trẻ thơ những điều kể trên, có tính chất cường điệu thiên lệch, không đúng với thực tế đã gieo vào lòng các em các nhận thức sai lệch. Công bằng và lòng nhân ái bị coi nhẹ. Lớn lên khi tự tìm hiểu được thực tế, các em sẽ nhận ra rằng thực tế không phải là như vậy, dễ sinh ra hoài nghi, hoang mang, mất phương hướng trong nhận thức.
Việc tuyên truyền một chiều: ta cái gì cũng đẹp, cũng tuyệt vời, địch cái gì cũng xấu, cũng tồi tệ đã tạm thời đạt được kết quả không phải chỉ vì đồng bào ta nhẹ dạ và thiếu tỉnh táo. Nguyên nhân chủ yếu ít người nghĩ đến chính là ở chỗ miền Bắc hồi ấy bị cách ly hầu như triệt để với bên ngoài. Thông tin bị cắt đứt giữa miền Bắc và miền Nam. Tôi có một chị ruột, một em gái ruột ở miền Nam từ năm 1954, vậy mà suốt năm năm không có một mẩu tin? Đến năm 1960 mới biết được vài hàng qua một người trong họ xa ở Pháp. Phần lớn đều đứt liên lạc như thế. Giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17 bị đóng chặt. Hai bên bờ sông Hiền Lương như hai thế giới riêng biệt. Điện thoại, điện tín, thư từ bị cát đứt với nửa nước phía Nam và cũng là với cả thế giới.
Từ năm 1950, biên giới phía Bắc được mở ra, bắt đầu quan hệ với Trung Quốc, rồi sau đó với Liên xô. Sau 1954, vấn đề quan hệ với bên ngoài vẫn bị phong tỏa chặt. Chỉ có những quan hệ với "phe ta", mà cũng là quan hệ rất ít ỏi. Vũ khí, hàng hóa, thuốc men, thực phẩm, máy móc từ Liên xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác được chở đến. Một năm có chừng mấy chục đoàn chính phủ đi thăm, ký kết với các nước "phe ta", còn các đoàn thể xã hội như công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nhà văn, nhà báo đi ra nước ngoài thì có thể đếm trên đầu ngón tay. Một số văn nghệ sĩ, nhà báo dự Đại hội Liên hoan Thanh niên Thế giới (do Liên xô đứng ra tổ chức) ở Moscou hay Berlin trở về, đi nói chuyện khắp miền Bắc liền 4 tháng trời, thu hút và hấp dẫn mọi người tò mò muốn biết tình hình ở ngoài nước ta ra sao. Chiến sĩ thi đua nông nghiệp Trịnh Xuân Bái, anh hùng nông nghiệp Hoàng Hanh đi thăm Trung Quốc, Liên xô về là tha hồ mà kể chuyện, nửa năm không hết chuyện! Mỗi buổi đều chật cứng các nhà hát nhân dân ở ngoài trời. Mọi người thích thú, sung sướng, nức lòng nghe kể về nông trang tập thể ở Liên xô máy cày máy gặt trên đồng ruộng, về công xã nhân dân Trung Quốc, về những thửa ruộng năng xuất cao...
Ai nấy chung một nguyện vọng: ngày nay của Liên xô, Trung Quốc là ngày mai của Việt nam. Nghe chuyện về còn bàn tán suốt đêm, cho đến cả tháng trời sau đó... Những đoàn văn công, đoàn xiếc Liên xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ Hungari, Anbani... sang biểu diễn ở Hà nội và các tỉnh là những sự kiện mà hàng 1, 2 năm sau mọi người còn nhớ và nhắc đến. Cũng phải nói cả thời đó, tuổi trẻ sống trong cống hiến, trong chiến đấu, cuộc sống không có ước mong gì cao xa về vật chất, mọi người sống ngang nhau, thậm chí gần giống y như nhau, về tình cảm và tinh thần còn lạc quan, lãng mạn nữa. Hàng hóa viện trợ đầy đường, đầy bãi, trong vườn hoa, mà vẫn nguyên si, không mất mát.
Miền Nam và thế giới ra sao? Qua thông tin, tuyên truyền, người dân chỉ hiểu đại khái là miền Nam mất độc lập, phụ thuộc Pháp rồi Mỹ. Nhân dân trong đó khổ cực, lầm than, người yêu nước bị giết hại trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng rất tàn bạo, máy chém lê đi khắp mọi nơi; ở các thành thi chỉ là phồn vinh giả tạo, xã hội suy đồi, văn hóa đồi trụy, nạn xì ke, đĩ điếm, cờ bạc tràn lan, nạn tham nhũng tràn ngập... Tất cả những thông tin từ miền Nam theo nội dung ấy được chắt lọc, tô đậm, đưa lên báo, đài. Chính do tuyên truyền một chiều như thế mà sau 30- 4- 1975, bà con ta vào miền Nam bị choáng ngập bởi hàng hóa đẹp dù và tốt khác hẳn những điều dự đoán. Về xã hội, con người cũng thế. Xã hội miền Nam không đến nỗi hỗn loạn, thối nát, vẫn có những gia đình nề nếp, con người nhân hậu ở vùng tạm chiến và thành thị. Ngay trong những gia đình bị coi là thù địch trước đây vẫn có không ít những con người ngay thật, có văn hóa và lương tâm, có tư cách và hiểu biết. Nhìn ra thế giới cũng vậy. Miền Bắc trước đây có rất ít người đi được sang thế giới phương Tây. Họ chỉ là một số rất ít nhà ngoài giao được chọn lọc rất kỹ càng. Còn thì toàn xuất ngoại là đi các nước "phương ta". Sách báo, thư từ hầu như không có. Cho nên chỉ hiểu thế giới phương Tây qua các khái niệm quen thuộc trên đài báo: khủng hoảng, thất nghiệp, trộm cáp, lạm phát, bất công, đĩ điếm, cờ bạc, bãi công và đấu tranh của người lao động!
Trong tất cả giáo trình giảng dạy chính trị và kinh tế, lý luận và thực tế về chủ nghĩa xã hội được truyền bá là: ở chủ nghĩa xã hội ưu việt không có khủng hoảng vì tất cả đều sản xuất theo kế hoạch thống nhất, tính từ cái kim, chiếc quần đùi đến hộp diêm. Không có thất nghiệp vì ai cũng được nhà nước phân công làm việc. Không có bóc lột vì mọi giai cấp bóc lột không còn tồn tại, không có tư bản, địa chủ, phú nông thì làm sao có bóc lột được. Chỉ có thiếu thốn tạm thời. Sản xuất chỉ có tăng không ngừng, không bao giờ có thể giảm sút! "Chúng ta" hơn "chúng nó", "phe ta" hơn "phe họ" là lẽ đương nhiên. Họ dựa vào một số thành tựu có thật của Liên xô (phóng vệ tinh đầu tiên của quả đất, đưa người đầu tiên lên không gian vũ trụ...) để khẳng định rằng tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội là rõ ràng, không cần bàn cãi nữa. Tất cả sự thua kém chỉ là vì chủ nghĩa tư bản có trước hơn 200 năm; còn chủ nghĩa xã hội còn non trẻ.
Vì không thấy thế giới phương Tây ra sao, không có sách báo, thư từ, lại chưa có vô tuyến truyền hình nên cả xã hội đều hiểu tình hình thiên lệch, méo mó. Nam 1971 ở Hà nội mới thử nghiệm vô tuyến truyền hình mỗi tối một giờ. Năm 1973 mới chính thức phát truyền hình, nhưng nhìn ra thế giới qua đài TV Nga, theo hệ thống kỹ thuật Bông Sen. Chỉ có phim truyện của "phe ta", của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau 30- 4- 1975, cách nhìn thế giới đã bắt đầu thoáng rộng. Thế nhưng người đi ra nước ngoài vẫn bị kiểm soát gắt gao. Phải đến 1986 trở đi, với "đổi mới" và "mở cửa", ngọn gió bên ngoài mới thổi vào, người đi công tác sang phương Tây ngày càng nhiều (tuy cũng chỉ mới chiếm chừng 1 phần ngàn trong bộ máy hành chánh, kinh tế có hơn 6 triệu người). Trăm nghe không bằng một thấy! Thư từ, ảnh gia đình từ bên ngoài gửi về, hàng ngàn, hàng vạn bức thư và bức ảnh đến tận từng gia đình, từng người, chọc thủng những màn che chắn, những bức tường giả tạo. Điện thoại, fax, máy quay phim, máy ảnh, máy chiếu phim, băng cassette, băng video trở nên những vũ khí lợi hại về thông tin trung thực, từng ngày, từng ngày mở ra nhận thức chân thật, phong phú, kịp thời về thế giới xung quanh cho đông đảo người dân khao khát tìm hiểu và suy nghĩ.
Con người là động vật cao cấp, khác các động vật khác là biết quan sát, biết so sánh, biết bắt chước. Mấy chục năm trước, sống kín mít không có thông thương, bặt thông tin với thế giới, đông đảo nhân dân- về mặt nhìn ra thế giới- giống như đứng cả dưới đáy giếng! Chỉ trông thấy nhau, so sánh với nhau, bắt chước nhau. Và do đó hài lòng với cuộc sống của mình. ăn, mặc, ở, quan hệ với nhau coi như ổn, không thành vấn đề. Mặc gần như dông phục, ăn uống cũng gần giống nhau, theo mức của tem phiếu. Lấy vợ lấy chồng cũng giống nhau, "được phép của đảng, của tổ chức", đám cưới đơn sơ giản dị. Cưới nhau về là yên ổn, không được ly dị, vì ly dị là thành bê bối to, thành xì căng đan, thành chuyện nhục nhã cho cả hai gia đình, đã có tổ chức hòa giải đứng ra dàn xếp bằng được. Cho nên vợ chồng an phận, không cần chinh phục nhau tiếp, chẳng cần chiều gì nhau thêm, không cần có động cơ vun đắp hạnh phúc lứa đôi, không ít cặp vợ chồng sống tẻ nhại, cam chịu số phận, chẳng khác gì xưa bố mẹ đặt đâu con ngồi dấy. Nay là tổ chức đặt đâu đảng đặt đâu xin ngồi nguyên đấy cho yên phận tránh mọi rắc rối và tránh bị chọc cười...
Thế là trong gần 30 năm, do điều kiện chiến tranh, do chính sách bế quan tỏa cảng, hàng chục triệu nhân dân Việt nam bị tước quyền được là công dân của thế giới. Họ không hiểu đồng loại đang sống ra sao, có những điều gì hơn để học tập, có những điều gì kém để giúp đỡ, không có đối tượng để so sánh, để vươn lên bằng người. Đất nước bị trì trệ khủng khiếp về mọi mặt cho đến tận nay bắt nguồn từ đó. Nếu như từ mấy chục năm trước ta được biết cuộc sống ở các nước khác, người dân được tự do ăn nói, tự do suy nghĩ, tự do đi lại ra sao, con người bình đẳng trước pháp luật thế nào, cái lợi của một xã hội co pháp luật ro ràng, có luật sư tự do, có người viết báo tự do... thì chúng ta không bao giờ cam chịu tình hình ở nước ta sao mà chậm tiến đến vậy! Chúng ta đã bị bịt kín mắt, không có đối tượng để quan sát và so sánh. Chỉ nhìn thấy nhau, chúng ta mất hẳn động lực dể vươn dậy cho như người, cho bằng người, cho hơn người. .
Cho đến tận bây giờ, khi đã gọi là mở cửa", là đổi mới", vẫn còn tình trạng nhân dân ta sống cứ như ở một hành tinh khác, với những qui tắc khác xa lạ với thế giới ngày nay. Các "thước đo" kích thước, giá trị ở nước ta cũng khác với các "thước đo" thế giới. Có những quan niệm trái ngược nhau ở các nước dân chủ, người công dân sinh ra là nghiêm nhiên có nhiều quyền. Quyền suy nghĩ, quyền phát biểu, quyền đi lại, quyền xuất cảnh, quyền tín ngưỡng hay không kín ngưỡng quyền giao dịch với bạn bè ở nước ngoài. Người công dân có quyền tự do rộng lớn, không phải nhà nước hay đảng nào ban phát cho mà tự mình có sẵn khi sinh ra và trưởng thành là đã có sẵn. Họ làm mọi chuyện theo ý muốn, không phải xin phép bất cứ ai, chỉ trừ những điều gì mà luật có khoản cấm. Mà những điều luật ngăn cấm xét cho cùng cũng chỉ vì quyền tự do của toàn xã hội.
ở nước ta, một thời gian dài, cấm đủ thứ. Cấm tự do đi lại phải có giấy phép mới được đi vào Nam, lên vùng biên giới; cấm đi ra nước ngoài, phải có giấy phép đặc biệt; cấm gặp gỡ nói chuyện với bất kỳ người nước ngoài nào, cấm thư từ với họ; có dạo cấm làm bánh cuốn, cấm mở hàng phở vì vi phạm chính sách lương thực! Lại còn có đạo cấm thanh niên để tóc dài, mặc quần loe, lập tố cờ đỏ (hỗ trợ cho cảnh sát) chặn người, đè họ ra cắt tóc và cắt quần! Tất nhiên những điều quá quất thì hiện nay không còn, nhưng kiểu cách ban ơn, cho phép, hạn chế tự do vẫn còn dai dẳng. ở nước ta chỗ nào cũng đề phục vụ nhân dân, cơ quan nhà nước nào cũng được giáo dục về phục vụ nhân dân, nhưng nạn cửa quyền, quan liêu trái với tinh thần ấy vẫn là cố tật. ở nước khác, không có khẩu hiệu phục vụ nhân dân, vậy mà ai nấy đều có ý thức: tôi làm việc là để phục vụ những người khác cần đến tôi, tôi phải làm hết trách nhiệm cho họ hài lòng đến mức cao nhất là lẽ đương nhiên; luật pháp, đạo lý, lẽ ứng xử xã hội ắt phải là như thế. Những tiếng "cám ơn", xin lỗi" luôn ở cửa miệng, không phải hình thức, mà là thành nếp nghĩ, nếp sống, cách ứng xử bình thường trong xã hội. Đã trở nên hết sức cấp bách là những người cầm quyền ở nước ta có nhiều dịp ra nước ngoài quan sát nghiên cứu một thời gian để tìm hiểu nếp sống trong xã hội có luật pháp và dân chủ. Đi, tìm hiểu, quan sát, đối chiếu với ta và suy nghĩ. Có người có dịp đi, nhưng lao vào các nghi thức hiếu hỷ và làm ăn, bỏ phí việc tìm hiểu và quan sát. Và đến bao giờ số đồng bào ta được đi thăm các nước láng giềng, rồi các nước xa gần ngày càng nhiều, thì tình hình xã hội ta sẽ càng đổi thay nhanh chóng và sâu sắc hơn. Cho đến nay, do "mở cửa", mở rộng giao lưu, mở rộng quan hệ qua thăm viếng, du lịch, bằng điện thoại, điện tín, fax, bằng thư từ, ảnh, phim chiếu, cát sét, qua đài phát thanh các nước và vô tuyến truyền hình được truyền qua vệ tinh, nhân dân ta không còn ở đáy giếng nữa. Đó là điều kiện đã giành được để chúng ta bòa nhắp ngày càng sâu rộng vào thế giới, trở thành công dân thật sự của cộng đồng thế giới ngày nay.
NHỮNG NỖI LO
ở một xã hội thiếu dân chủ hoặc không có dân chủ, người dân bình thường, muốn được sống bình thường, thường lo sợ đủ thứ. Trước hết là lo. Từ lo mà phải sợ. Trước kia, ở miền Bắc là như thế. Lo cho bản thân mình và gia đình mình yên ổn. Lo để lý lịch mình luôn trong sạch, lý lịch cả nhà mình trong sạch. Lo để các giấy tờ hợp lệ, để hàng năm được cấp phiếu bình thường. Lo để con cái đi học thuận lợi, không bị trục trặc nửa chừng, được học lên đại học, thi đỗ được nhà nước tuyển dụng. Lo cho con được vào Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, rồi động viên nó phấn đấu vào đảng. Cao hơn một chút, lo cho con thi đại học có điểm cao theo qui định hàng năm, để được tuyển đi học nước ngoài ở Liên xô, Trung Quốc hay một nước "anh em". Cái lo của ai cũng gần giống như nhau, trong một xã hội mặc "đồng phục". Lo được lên lương, lên cấp đều đều, vì có lên lương lên cấp mới được cấp nhà có phòng rộng hơn một chút, mới được cấp phiếu lương thực, thực phẩm và hàng bách hóa loại cao hơn. Từ nhân viên lên cán sự, từ cán sự lên chuyên viên trung cấp, rồi lên chuyên viên cao cấp là cả một cuộc hành trình không giản đơn.
Hầu như ai cũng là công nhân viên nhà nước, nên cái lo của mỗi người, mỗi gia đình thật giống nhau. Hàng năm lo cho bản thân và vợ con hoặc chồng con, nếu là nhân viên, cán bộ nhà nước, nếu được bình hầu "lao động tiên tiến. Hầu như ai cũng là "lao động tiên tiến", chỉ trừ bị một lỗi gì nặng, mất "lao động tiên tiến" là bị một kỷ luật rất nặng. Chao ơi là một thời, mỗi con người có những mối lo nhỏ nhoi mà được coi là hệ trọng, mòn mỏi lo âu, mỏi mòn phấn đấu trong những mảnh đời chật hẹp, trong khung cảnh của một chế độ được coi là ưu việt, tự nhận là ưu việt, hơn người. Do không có luật pháp trong nếp sống xã hội, nên con người phải lo ứng xử theo một kiểu cách khác thường: lo làm vừa lòng nhà chức trách. Mà nhà chức trách thì quá nhiều? Phải lo vừa lòng ông bà Thủ trưởng trước hết. Thế nhưng ở một cơ quán, xí nghiệp, đâu chỉ có ông Thủ trưởng cùng với 2,3 đến 4,5 ông bà thủ phó. Còn có bộ tứ. Bộ tứ không phải là bộ bài tứ sắc, như một anh bạn ở miền Nam ra hồi 1976, 1977 hỏi lại tôi khi tôi kể cho anh nghe. Bộ tứ là bốn vị cai quản một đơn vị cơ sở thường gồm có: Thủ trưởng, Bí thư đảng ủy, Chủ tịch..hay Phụ trách. Công đoàn, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản. Có nơi mở rộng thêm thành bộ 5, thêm bà phụ trách nữ công, nếu ở đó có nhiều phụ nữ; thành bộ 6, thêm trưởng ban thi đua, hoặc trên trưởng ban kiểm tra hay thanh tra, tùy theo tình hình.
Người biết lo toan nghĩa là biết sống yên ổn với tất cả các vị chức sắc trên; cao hơn, khôn hơn là biết sống đẹp với tất cả các vị đó; khôn hơn nữa là tìm kiếm một thế lực, một chỗ dựa, một người đỡ đầu cho mình trong số các quan chức ấy.
Trong một năm, có những sự kiện được coi là quan trọng nhất. Cả đơn vị cơ quan bàn tán xôn xao, thăm dò, điều tra, truyền tin, vui mừng, thất vọng, chia vui, chia buồn... theo những sự kiện ấy. Đó là các dịp kết nạp vào đảng, kết nạp vào đoàn (thường là nhân dịp những kỷ niệm lớn). Ai được xét chọn là đối tượng, ai bị gác ở lại? Đó là dịp xét khen thưởng, cất nhắc và đề bạt thường vào cuối năm. Đó là dịp bình bầu, xét khen thưởng thi đua tháng 5 và tháng 11, dịp giữa và cuối năm để xem ai là lao động ưu tú, ai là lao động xuất sắc là lao động tiên tiến? Cũng là dịp xét lên bậc, lên cấp lên chức, lên lương. Rồi những phiên họp cấp nhà ở, cấp phòng rộng hay hẹp, tầng cao hay thấp, ở nơi gần hay xa, nhà mới hay nhà cũ, bổ xung thêm diện tích bao nhiêu. Cả gia đình được 16 mét vuông hay 20 mét vuông, hay được 26 mét vuông?
Tất cả những chuyện mà ngay này có người cho là tủn mủn, chàng đâu vào đâu, vớ vẩn, vô duyên ấy, cả một thời đã gây biết bao sóng gió trong lòng người. Do ganh tỵ, suy bì, do kèn cựa nhau mà dèm pha, bịt đặt, vu khống, tung tin thất thiệt cho nhau, để đến mức cãi vã, hay giận hờn nhau kéo dài. Và biết bao nhiêu là oan ức, do oan mà ức, mà uất hận.
Những người ngay thẳng, không xu nịnh thì thiệt thòi, những kẻ cơ hội thì được chiếu cố. Và những kẻ cơ hội thường không thiếu. Sáng mồng một tết họ đã có mặt sớm ở nhà Thủ trưởng, cùng vợ con đông đủ mang theo bó hoa thật đẹp, gói quà có giá, đến trình diện và chúc tụng. Từ dưới lên trên. Cho đến ủy viên Bộ chính trị, các Trưởng ban của Trung ương. Dưới có kẻ cơ hội ở dưới, trên có kẻ cơ hội ở trên. Đó là những đệ tử trung thành, để "anh không quên đến em" trong các cuộc họp liên quan đến nguyện vọng của chúng em... Và những lời chúc tết. Không ai chúc nhau: nhất bản vạn lợi thời xưa, kiểu tư sản bóc lột! Không ai chúc nhau giàu sang, phú quý, cũng là của phong kiến cổ hủ. Chúc sức khỏe. Chúc nhau được vào đảng, con cháu được vào đoàn, được đi học nước ngoài, được lên lương, lên chức, được cấp nhà, đổi nhà rộng hơn dám bảy mét vuông. Cả một thời, cuộc đời vươn lên, ước mơ chỉ có thế! Dạo ấy người ta ít lo về tài năng, lại rất lo về chính trị.
Vì lý lịch được bổ xung luôn, nửa năm một lần. Nhận xét đều ghi lòng lý lịch. Những vấn đề "liên quan" là phức tạp nhất, đáng lo nhất. Có "liên quan" đến địa chủ, tư sản? Hoặc: thuộc gia đình bóc lột", là thành vấn đề. Vợ hoặc chồng thuộc thành phần bóc lột cũng thành vấn đề liên quan hệ trọng. Có anh, chị, em ở miền Nam cũng thành vấn đề phải khai báo, họ làm gì? Hiện có quan hệ gì không? Nếu là công chức, sĩ quan ở miền Nam thì lại càng thêm gay gắt. Bà con, anh chị em ở nước ngoài cũng vậy. Nếu là ở một nước "đế quốc, thì phiền to. Một gạch chéo, một dấu hỏi, thế là ở vào một thế kẹt cứng. Tất cả mọi chuyện sẽ bị chân lại hết, từ vào đoàn, vào đảng, lên đại học, đi học nước ngoài, hoặc lên lương, lên cấp, lên chức cũng vì vậy mà... để xem đã.
No comments:
Post a Comment