Hiếu Kinh Của Phật Giáo
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Tông chỉ của bộ Kinh Ðịa
Tạng nằm trong tám chữ: "Hiếu đạo, Ðộ sanh, Bạt khổ, Báo ân." Tám
chữ này muốn nói lên điều gì? Chính là nói lên đạo lý hiếu thảo với cha mẹ. Con
người biết hiếu thảo với cha mẹ thì sẽ làm trời đất rạng rở. Việc khiến trời
đất cảm động, cũng chính là lòng hiếu thảo cha mẹ, nên nói: "Thiên địa
trọng hiếu, hiếu đương tiên." Chữ Hiếu này rất quan trọng. Chỉ cần một chữ
"Hiếu" thì cả nhà được bình an. "Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận
tử." (Cha mẹ biết hiếu thảo thì sẽ sinh con hiếu thảo) Nếu như quý vị hiếu
thảo với cha mẹ mình, thì sau này con cái sẽ hiếu thảo với quý vị; còn nếu như
quý vị không hiếu thảo , thì con cái của quý vị sẽ không hiếu thảo với quý vị.
Cho nên vì sao phải học làm người? Làm người có ý nghĩa gì? Ðừng nói rằng tôi
sinh ra làm người, một cách quá mơ hồ là xong. Không phải vậy đâu! Gốc rễ của
cách làm người là ta phải biết bổn phận hiếu thảo với cha mẹ. Bởi vì cha mẹ
chính là trời đất, cha mẹ là sư trưởng, cha mẹ cũng là chư Phật. Nếu như quý vị
không có cha mẹ thì quý vị sẽ không có được thân thể này, mà không có thân thể
này thì quý vị sẽ không bao giờ thành Phật. Cho nên quý vị muốn thành Phật thì
trước tiên phải hiếu thảo với cha mẹ. Do vậy điều thứ nhất chính là Hiếu
Ðạo.
Thứ ba là "Bạt
khổ", vì đây là bộ Kinh dạy ta bạt trừ những khổ não của chúng
sinh.
Thứ tư là "Báo
ân", nghĩa là phải báo ân cha mẹ. Tám chữ Hiếu đạo, Bạt khổ, Ðộ
sinh, Báo ân này là Tông chỉ của Kinh Ðịa Tạng. Nếu như giảng rõ ràng thì rất
là nhiều, cho nên tôi chỉ giảng kỹ những điều quan trọng, sau đó thì các vị sẽ
hiểu rõ.
Nói đến đạo hiếu này, có
người vừa nghe nói thì liền nghĩ. "Tôi phải về nhà hiếu thảo với cha
mẹ." Nhưng về đến nhà, gặp cha mẹ thì liền quên đi việc hiếu thảo. Tại sao
quên? Chính là vì mình không biết đúng đắn thế nào là lòng hiếu thảo. Ðể bày tỏ
lòng hiếu thảo đúng đắn bạn cần phải học Phật pháp. Quý vị ở đây học Phật pháp
tức là hiếu thảo với cha mẹ. Không cần nói tôi về nhà mới là hiếu thảo cha mẹ,
để khi về đến nhà lại quên hiếu thảo cha mẹ. Quý vị ở đây học Phật pháp, làm
một người tốt trên thế giới, điều này đối với thế giới thì có lợi. Có lợi cho
thế giới, thì chính là hiếu thảo với cha mẹ.
Hiếu có bốn loại: Có
tiểu hiếu, đại hiếu, viễn hiếu, cận hiếu. Cái gì gọi là tiểu hiếu? "Tiểu
hiếu" là hiếu với gia đình, chính là có hiếu thuận với cha mẹ của mình ở
nhà, chứ chưa hiếu thuận với tất cả mọi người, chưa có thể làm một người hiếu
quảng đại. "Hiếu quảng đại" là gì? Hiếu quảng đại chính là "Ðại
hiếu", hiếu với khắp thiên hạ, xem tất cả cha mẹ trên đời là cha mẹ của
mình. Ðây gọi là hiếu thảo với tất cả mọi người. Nhưng đại hiếu này còn chưa
nói đến việc hiếu thảo chân chánh. "Hiếu thảo chân chánh" là sao?
Chân hiếu" là chỉ khi nào quý vị thành Phật mới gọi là Chân hiếu. Lòng
hiếu này vượt ngoài bốn loại hiếu kia; nó là một loại hiếu chân chánh. Cho nên
dù phụ thân không cho phép đức Thích Ca xuất gia, nhốt Ngài ở trong cung, nhưng
Ngài vẫn lén đi xuất gia tu hành. Ngài tu khổ hạnh sáu năm trên núi Tuyết, rồi
sau đó Ngài ngộ đạo thành Phật dưới cội cây Bồ đề, đây là sự hiếu thảo chân
chánh. Cho nên sau khi Ngài thành Phật, Ngài lên cung trời thuyết pháp cho mẹ.
Quý vị xem đây có phải là "Chân Hiếu" không?
Thế nào gọi là "cận
hiếu"? Cận hiếu là con người theo thời đại ngày nay mà hiếu thảo với cha
mẹ, đi học cũng là phương pháp hiếu thảo với cha mẹ, đây gọi là cận hiếu.
"Viễn hiếu" là hiếu thảo muôn đời; cận hiếu là hiếu thảo đời này. Cận
hiếu cũng có thể nói là tiểu hiếu, nhưng cũng có ít nhiều không giống. Viễn
hiếu là hiếu thảo muôn đời, như Trung Quốc có 24 người con hiếu, 24 người con
hiếu này là hiếu thảo muôn đời, vì họ đã để lại tiếng thơm cho muôn đời.
Nói đến "Nhị thập
tứ hiếu" này thì Trung Quốc có một người gọi là Ðổng Vĩnh. Ðổng Vĩnh còn
gọi là Ðổng Ảm. Ðổng Vĩnh rất hiếu thảo với cha mẹ. Hàng xóm của anh ta có một
người họ Vương, gọi là Vương Kỳ. Ðổng Vĩnh là người nghèo, không có tiền, Vương
Kỳ là người giàu có. Nhưng mẹ của Ðổng Vĩnh, vì nhờ có người con hiếu thảo nên
được khỏe mạnh mập mạp. Mặc dù đã lớn tuổi, nhưng từ sáng đến tối bà luôn cảm
thấy vui vẻ. Còn bà mẹ của Vương Kỳ mặc dù tiền bạc sung túc, ăn thì có thịt
heo, thịt gà, cá, vịt, toàn thứ ngon vật lạ, nhưng lại ốm yếu bệnh hoạn. Bà ta
không có một chút vui vẻ, luôn đau buồn. Có một hôm Ðổng Vĩnh không có ở nhà,
Vương Kỳ cũng không có ở nhà, bà ốm mới hỏi bà mập: "Nhà bà nghèo như thế,
cũng không có gì ngon để ăn. Vậy tại sao bà mập như vậy? Bà lớn tuổi như thế,
mà mập như vậy là lý do gì? Mẹ của Ðổng Vĩnh mới nói với mẹ của Vương Kỳ rằng:
"Bởi vì con của tôi rất là hiếu thảo, nó không dám làm một việc gì xấu cả,
lại rất thật thà đúng đắn, cần cù làm việc. Tôi không có điều chi đau buồn về
nó, lại rất hài lòng. Tâm hồn thoải mái, thân thể khỏe mạnh, tôi thích như vậy,
nên tôi mập được." Sau đó mẹ của Ðổng Vĩnh tức là bà mập hỏi lại bà ốm:
"Bà có tiền như thế, ăn toàn là thứ ngon vật lạ, tại sao lại ốm như vậy?
Bà ốm như cây sậy, có phải là bệnh gì không? Bà ốm này liền trả lời: "Tôi
hả! Tuy có tiền, tuy có đồ ăn ngon, nhưng đứa con của tôi, tánh nó không thật
thà, không đúng đắn, thường làm những hành vi phi pháp; hôm hay phạm pháp, ngày
mai cũng phạm pháp. Ba hôm nay bị sai nha bắt tra hỏi, mai lại có lệnh gọi của
phủ đường gửi đến. Tôi từ sáng đến tối, chỉ lo lắng cho đứa con này, ăn dù ngon
cách mấy cũng cảm thấy không vui, từ sáng đến tối lúc nào cũng ưu sầu, lo buồn.
Cho nên tôi càng ngày càng ốm đi, mập không nổi, đều là vì buồn bực chuyện này"...
"Hiếu", tuy có
viễn hiếu, cận hiếu, đại hiếu, tiểu hiếu, nhưng nói đến sự hiếu thảo chân
chánh, thì chân hiếu chính là tu hành để sau này thành Phật. Các vị hôm nay học
Phật pháp, không trở về nhà, chính là sự hiếu thảo chân chính, đúng là biết học
Phật. Có thể hành trì phật pháp thì mới là sự hiếu thảo đúng đắn nhất.
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
...........
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới. Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát. Chùa Vạn Ðức Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ. (08-10-1989) Thích Trí Tịnh Cẩn Chí |
Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Chí Tâm Quy Mạng Lễ
U-Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Ðịa-Tạng Bồ Tát
Ma-ha-tát.
Lạy đức từ bi đại
Giáo-chủ!
'Ðịa' là dày chắc-
'Tạng' chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi
mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa,
hoa vần vũ,
Mây xinh, mưa báu số
không lường.
Lành tốt, trang nghiêm
cảnh dị thường,
Người, trời bạch Phật:
Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa-Tạng đến
Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng
khen chuộng
Mười phương Bồ Tát
chung tin tưởng
Nay con sẵn có thiện
nhơn duyên,
Ngợi khen Ðịa-Tạng đức
vô thượng:
Lòng từ do chứa hạnh
lành
Trải bao số kiếp độ
sanh khỏi nàn,
Trong tay đã sẵn gậy
vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu
toàn chúng sanh,
Tay cầm châu sáng tròn
vìn,
Hào quang soi khắp ba
nghìn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện
chẳng hiền,
Ðài cao nghiệp cảnh soi
liền tội căn.
Ðịa-Tạng Bồ Tát thượng
nhơn, Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại
Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát. (Câu chót 3 lần)
Bài Tán Nguyện Hương
Nguyện mây hương mầu
này
Khắp cùng mười phương
cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh-Văn
Và cả thảy Thánh Hiền.
Duyên khởi đài sáng
chói
Trùm đến vô biên cõi
Xông khắp các chúng
sanh
Ðều phát Bồ-đề tâm
Xa lìa những nghiệp
vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
Nam-mô Hương-cúng-dường
Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 Lần)
Bài Văn Phát Nguyện
Lạy đấng Tam giới Tôn
Quy mạng mười phương
Phật,
Nay con phát nguyện
rộng
Thọ trì kinh Ðịa-Tạng.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam-đồ,
Nếu có kẻ thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm,
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc
Nam-mô Bổn-Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật. (3 lần)
Bài Kệ Khai Kinh:
Pháp vi diệu rất sâu vô
lượng
Trăm nghìn muôn ức kiếp
khó gặp
Nay con thấy nghe được
thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chơn
thật của Phật.
Nam-mô U-Minh giáo chủ
hoằng nguyện độ sanh:
Ðịa ngục vị không, thệ
bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận,
phương chứng Bồ-đề
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại
Thánh, Ðại Từ, Bổn-Tôn Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 Lần)
Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
1) Phật Hiện Thần Thông - Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại
cung Trời Ðao-Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết pháp:
Lúc đó, bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ Tát trong vô lượng thế giới ở mười
phương đều đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng:
- Ðức Phật Thích Ca Mâu
Ni có thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức 'đại trí-huệ thần-thông chẳng
thể nghĩ bàn' để điều phục chúng sanh cang cường làm cho chúng nó rõ 'pháp khổ
pháp vui'.
Khen xong, chư Phật đều
sai thị giả kính thăm đức Thế-Tôn.
Bấy giờ, đức Như-Lai
mỉm cười phóng ra trăm nghìn vừng mây sáng rỡ lớn. Như là: vừng mây sáng rỡ đầy
đủ, vừng mây sáng rỡ đại từ-bi, vừng mây sáng rỡ đại trí-huệ, vừng mây sáng rỡ
đại bát-nhã, vừng mây sáng rỡ đại tam-muội, vừng mây sáng rỡ đại kiết-tường,
vừng mây sáng rỡ đại phước-đức, vừng mây sáng rỡ đại công-đức, vừng mây sáng rỡ
đại quy-y, vừng mây sáng rỡ đại tán-thán ... Ðức Phật phóng ra bất-khả-thuyết
vừng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các thứ tiếng vi diệu.
Như là: tiếng Bố-thí
độ, tiếng Trì-giới độ, tiếng Nhẫn-nhục độ, tiếng Tinh-tấn độ, tiếng Thiền-định
độ, tiếng Bát-nhã độ, tiếng Từ-bi, tiếng Hỷ-xả, tiếng Giải-thoát, tiếng Vô-lậu,
tiếng Trí-huệ, tiếng Sư-tử hống, tiếng Ðại Sư-tử hống, tiếng Mây sấm, tiếng Mây
sấm lớn.
2) Trời,
Rồng.............Hội Họp -
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong,
thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà và cõi nước
phương khác cũng đến hội họp nơi cung Trời Ðao-Lợi.
Như là: trời
Tứ-Thiên-Vương, trời Ðao-Lợi, trời Tu-Diệm-Ma, trời Ðâu-Suất-Ðà, trời Hóa-Lạc,
trời Tha-Hóa-Tự-Tại, trời Phạm-Chúng, trời Phạm-Phụ, trời Ðại-Phạm, trời
Thiểu-Quang, trời Vô-Lượng-Quang, trời Quang-Âm, trời Thiểu-Tịnh, trời
Vô-Lượng-Tịnh, trời Biến-Tịnh, trời Phước-Sanh, trời Phước-Ái, trời Quảng-Quả,
trời Nghiêm-Sức, trời Vô-Lượng Nghiêm-Sức, trời Nghiêm-Sức-Quả-Thiệt, trời
Vô-Tưởng, trời Vô-Phiền, trời Vô-Nhiệt, trời Thiện-Kiến, trời Thiện-Hiện, trời
Sắc-Cứu-Cánh, trời Ma-hê-Thủ-La, cho đến trời Phi-Tưởng, Phi-Phi Tưởng-Xứ. Tất
cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỉ, Thần đều đến hội họp.
Lại có những vị Thần ở
cõi Ta-bà cùng cõi nước phương khác, như Thần biển, Thần sông, Thần rạch, Thần
cây, Thần núi, Thần đất, Thần sông chằm, Thần lúa mạ, Thần chủ ngày, Thần chủ
đêm, Thần hư-không, Thần trên trời, Thần chủ ăn uống, Thần cây cỏ... Các vị
thần như thế đều đến hội họp.
Lại có những Ðại Quỉ
Vương ở cõi Ta-bà cùng cõi nước phương khác, như: Ác-Mục Quỉ-Vương, Ðạm-Huyết
Quỉ-Vương, Ðạm-Tinh-Khí Quỉ-Vương, Ðạm Thai-Noãn Quỉ-Vương, Hành-Bịnh
Quỉ-Vương, Nhiếp-Ðộc Quỉ-Vương, Từ-Tâm Quỉ-Vương, Phước-Lợi Quỉ-Vương,
Ðại-Ái-Kính Quỉ-Vương.... Các Quỉ-Vương như thế đều đến hội họp.
3) Ðức Phật Phát Khởi - Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương tử đại Bồ Tát rằng: 'Ông xem coi tất cả chư
Phật, Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỉ, Thần đó ở trong thế giới này cùng thế giới
khác, nay đều đến hội họp tại cung Trời Ðao-Lợi như thế, ông có biết số bao
nhiêu chăng?'.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong
nghìn kiếp cũng không biết là số bao nhiêu!'
Ðức Phật bảo Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Ðến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số
Thánh, phàm này đều của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc
đã độ, đương độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu'.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi
bạch đức Phật rằng: 'Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành chứng đặng trí
vô-ngại, nghe lời đức Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng tiểu quả
Thanh-Văn, Trời, Rồng tám bộ chúng và những chúng sanh trong đời sau, dầu nghe
lời thành thật của Như-Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy
vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong đức Thế-Tôn nói rõ nhơn địa của
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát; Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không
thể nghĩ bàn như thế?'
Ðức Phật bảo Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau,
đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên, cứ một vật làm một sông Hằng,
rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một
cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong
một kiếp đều đem làm kiếp cả. Từ lúc Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát chứng quả vị thập-địa
Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên, huống là những thuở Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát còn ở bực Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật!
Này Văn-Thù Sư-Lợi!
Oai-thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Về đời sau, nếu
có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Ðịa-Tạng Bồ Tát, hoặc
khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường,
nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Ðịa-Tạng Bồ Tát, thời người đó sẽ
được một trăm lần sanh lên cõi trời Ðao-Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào
chốn ác đạo.
4) Trưởng Giả Tử Phát
Nguyện - Này Văn-Thù
Sư-Lợi! Trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp lâu xa về trước, tiền thân
của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát làm một vị Trưởng Giả tử. Lúc đó, trong đời có đức
Phật hiệu là: Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai, Trưởng Giả tử thấy đức
Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh
nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?
- Khi ấy, đức Sư-Tử
Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai bảo Trưởng Giả tử rằng: 'Muốn chứng được thân
tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả
chúng sanh bị khốn khổ'.
Này Văn-Thù Sư-Lợi!
Trưởng-Giả tử nghe xong liền phát nguyện rằng: 'Từ nay đến tột số chẳng thể kể
xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày
nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới
chứng thành Phật Ðạo'.
Bởi ở trước đức Phật
Sư-Tử Phấn Tấn Cụ-Túc Vạn Hạnh Như-Lai, Ngài lập nguyện rộng đó, nên đến nay đã
trải qua trăm nghìn muôn ức vô số bất-khả-thuyết kiếp, mà Ngài vẫn còn làm vị
Bồ Tát!
5) Bà-La-Môn Nữ Cứu Mẹ - Lại thuở bất-khả-tư-nghị vô số kiếp về
trước, lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai, Ðức Phật
ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một
người con gái dòng Bà-La-Môn, người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người
đều kính nể, khi đi đứng lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của
người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam-Bảo. Thuở ấy, mặc dầu Thánh Nữ
đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh
chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết thần
hồn sa đọa vào Vô-Gián địa ngục.
Lúc đó, Thánh-Nữ biết
rằng người mẹ khi còn sống không tin nhơn quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy
mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những
đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ đức Phật
Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng của đức
Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.
Thánh Nữ chiêm bái
tượng của đức Phật lại càng sanh lòng kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: 'Ðức Phật
là đấng Ðại-Giác đủ tất cả trí-huệ, nếu đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi
khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào'.
Nghĩ đến đó, Thánh Nữ
buồn tủi rơi lệ chăm nhìn tượng Như-Lai mà lòng quyến luyến mãi.
Bỗng nghe trên hư không
có tiếng bảo rằng: 'Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay ta
sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi'.
Thánh Nữ chắp tay hướng
lên hư không mà vái rằng: 'Ðức thần nào đó mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như
thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ ngày đêm, không biết đâu để hỏi
cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào?'.
Trên hư không lại có
tiếng bảo Thánh Nữ rằng: 'Ta là đức Phật quá khứ Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương
Như-Lai mà ngươi đương chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường
tình của chúng sanh, nên ta đến chỉ bảo'.
Thánh Nữ nghe nói xong
liền té xỉu xuống, tay chân mình mẩy đều bị tổn thương. Những người đứng bên
vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại rồi bạch cùng trên hư không
rằng: 'Cúi xin đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ chỗ thác sanh của mẹ con,
nay thân tâm của con sắp chết mất!'.
Ðức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương
Như-Lai bảo Thánh Nữ rằng: 'Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà, rồi ngồi
ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ
ngươi'.
Lễ Phật xong, Thánh Nữ
liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu
của Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai trải suốt một ngày một đêm. Bỗng thấy
thân mình đến một bờ biển kia. Nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú
dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhẩy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi
bên kia.
Thấy những trai cùng
gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong biển, bị các thú dữ
giành nhau ăn thịt.
Lại thấy quỉ Dạ-Xoa
hình thù đều lạ lùng: hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu... răng
nanh chỉa ra ngoài miệng bén nhọn dường gươm, lùa những người tội gần thú dữ.
Rồi quỉ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội lại, hình trạng
muôn thứ chẳng dám nhìn lâu.
Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương
sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.
Có một vị Quỉ-Vương tên
là Vô-Ðộc, đến cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: 'Hay thay Bồ-tát! Ngài
có duyên sự gì đến chốn này?'.
Thánh Nữ hỏi Quỉ-Vương
rằng: 'Ðây là chốn nào?'
Quỉ-Vương Vô-Ðộc đáp
rằng: 'Ðây là từng biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết Vi'.
Thánh Nữ hỏi rằng: 'Tôi
nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thiệt như thế chăng?'.
Vô-Ðộc đáp rằng: 'Thiệt
có địa ngục'.
Thánh Nữ hỏi rằng: 'Nay
tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?'.
Vô-Ðộc đáp rằng: 'Nếu
không phải sức oai thần cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra ắt không
bao giờ có thể đến đó được'.
Thánh Nữ lại hỏi:
'Duyên cớ vì sao mà nước trong biển này sôi sùng sục như thế, và có những người
tội cùng với các thú dữ?'.
Vô-Ðộc đáp rằng: 'Những
người tội trong biển này là những kẻ tạo ác ở cõi Diêm-Phù-Ðề mới chết, trong
khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn
cho; lúc sống, kẻ đó lại không làm được nhơn lành nào cả.
Vì thế nên cứ theo
nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội
qua biển này.
Cách biển này mười muôn
do tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ trong biển đó sắp
bội hơn biển này.
Phía Ðông của biển đó
lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội hơn.
Ðó đều là do những
nghiệp nhơn xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính
là ba cái biển này vậy'.
Thánh Nữ lại hỏi
Quỉ-Vương Vô-Ðộc rằng: 'Ðịa ngục ở đâu?'
Vô-Ðộc đáp rằng: 'Trong
ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác
nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực kế đó có 500 chỗ đủ không lường sự
khổ sở, bực kế nữa có đến nghìn trăm cũng không lường sự thống khổ.
Thánh Nữ lại hỏi đại
Quỉ-Vương rằng: 'Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của
người phải sa vào chốn nào?'
Quỉ-Vương hỏi Thánh-Nữ
rằng 'Thân Mẫu của Bồ-tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?'
Thánh Nữ đáp rằng:
'Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời
tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa
lạc vào đâu?'
Vô-Ðộc hỏi rằng: 'Thân
Mẫu của Bồ-tát tên họ là gì?'
Thánh Nữ đáp rằng:
'Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà-La-Môn. Thân phụ tôi hiệu là
Thi-La Thiện Kiến. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt-Ðế-Lợi'.
Vô-Ðộc chắp tay thưa
Thánh Nữ rằng: 'Xin Thánh Nữ hãy về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm
nữa. Tội nữ Duyệt-Ðế-Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.
Nghe nói nhờ con gái
của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng
dường chùa tháp, thờ đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai. Chẳng phải chỉ
riêng thân mẫu của Bồ-tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhơn
Vô-Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả'.
Nói xong, Quỉ-Vương
chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.
Bấy giờ, Thánh Nữ dường
chiêm bao chợt thức tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức
Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng:
- 'Tôi nguyện từ nay
nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều
phương chước làm cho chúng đó được giải thoát'.
Ðức Phật bảo Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Quỉ-Vương Vô-Ðộc trước đó nay chính ông Tài-Thủ Bồ-tát.
Còn Thánh Nữ Bà-La-Môn đó nay là Ðịa-Tạng Bồ Tát vậy'.
1) Hóa Thân Cùng Quyến
Thuộc - Lúc đó phân
thân Ðịa-Tạng Bồ Tát ở các nơi có địa ngục trăm nghìn muôn ức bất-khả-tư,
bất-khả-nghị, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, vô lượng vô số thế giới đều đến
hội họp tại cung trời Ðao-Lợi.
Do nhờ thần lực của
Như-Lai, phân thân đó hiệp với những chúng đã được giải thoát ra khỏi chốn
nghiệp đạo ở mười phương, cũng đều đông đến số nghìn muôn ức na-do-tha, đồng
cầm hương hoa đến cúng dường Phật.
Những chúng cùng đến
với phân thân đó, thảy đều nhờ Ðịa-Tạng Bồ Tát giáo hóa làm cho trụ nơi đạo vô
thượng chánh-đẳng chánh-giác trọn không còn thối chuyển.
Những chúng đó từ kiếp
lâu xa đến nay trôi lăn trong vòng sanh tử ở trong sáu đường, chịu những điều
khổ sở không có lúc nào tạm ngừng dứt, nhờ lòng từ bi lớn và thệ nguyện sâu dày
của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, nên tất cả đều chứng được đạo quả.
Ðại chúng đó khi đã đến
cung trời Ðao-Lợi, lòng họ vui mừng hớn hở, chiêm ngưỡng đức Như-Lai mắt nhìn
mãi không rời.
2) Ðức Như-Lai An Ủi Ủy
Thác - Bấy giờ,
Thế-Tôn dơ tay sắc vàng xoa đảnh của hóa thân Ðịa-Tạng đại Bồ Tát trong trăm
nghìn muôn ức bất-khả-tư, bất-khả-nghị, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, vô lượng
vô số thế giới, mà dạy rằng: 'Ta ở trong đời ác ngũ trược giáo hóa những chúng
sanh cang cường như thế, làm cho lòng chúng nó điều phục bỏ tà về chánh; nhưng
trong mười phần vẫn còn một hai phần chúng sanh quen theo tánh ác.
Muốn độ chúng đó, Ta
cũng phân nghìn trăm ức thân lập ra nhiều phương chước. Trong chúng sanh đó,
hoặc có người căn tánh sáng lẹ nghe pháp của Ta thời liền tín nhận. Hoặc có
người phải ân cần khuyên bảo mới thành tựu, được thiện quả. Hoặc có kẻ vì tội
nghiệp quá nặng nên chẳng đem lòng kính tin ngưỡng mộ.
Ta phân ra nhiều thân
độ thoát những hạng chúng sanh mỗi mỗi sai khác như thế. Hoặc hiện ra thân
trai, hoặc hiện ra thân gái, hoặc hiện ra thân Trời, Rồng, hoặc hiện ra thân
Quỉ, Thần, hoặc hiện ra rừng, núi, sông, ngòi, ao, rạch, suối, làm lợi ích cho
mọi người, để rồi độ họ được giải thoát.
Hoặc hiện ra thân
Thiên-Ðế, hoặc hiện ra thân trời Phạm-Vương, hoặc hiện ra thân vua Chuyển-Luân,
hoặc hiện ra thân Quốc-Vương, hoặc hiện ra thân Cư-Sĩ, hoặc hiện ra thân
Tể-Phụ, hoặc hiện ra thân các hàng quan thuộc, hoặc hiện ra thân Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
Nhẫn đến hiện ra những
thân Thanh-Văn, La-Hán, Bích-Chi-Phật và Bồ Tát để hóa độ chúng sanh, chớ chẳng
phải chỉ có thân Phật hiện ra trước chúng thôi đâu!
Ðịa-Tạng! Ông xem Ta đã
trải qua bao số kiếp nhọc nhằn độ thoát những chúng sanh cang cường đầy tội khổ
khó khai hóa như thế. Ngoài ra những kẻ chưa điều phục được, thời phải theo
nghiệp thọ báo.
Nếu khi chúng nó có bị
đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ, thời ông nên nghĩ nhớ Ta ở cung Trời
Ðao-Lợi ân cần phó chúc đây mà gắng độ chúng sanh, làm cho chúng sanh trong cõi
Ta-Bà nầy đến lúc Phật Di-Lặc ra đời, đều đặng giải thoát khỏi hẳn các điều
khổ, gặp Phật, được đức Phật thọ ký'.
Bấy giờ, những hóa thân
Ðịa-Tạng Bồ Tát ở các thế giới hiệp chung lại một hình, rơi lệ thương cảm mà
bạch cùng đức Phật rằng: Từ số kiếp lâu xa đến nay, con nhờ đức Thế-Tôn tiếp độ
dắt dìu làm cho con được thần lực chẳng thể nghĩ bàn, đầy đủ trí huệ rộng lớn.
Con phân hiện thân hình
ra ở cùng khắp trăm nghìn muôn ức Hằng-hà-sa thế giới. Trong mỗi thế giới hóa
hiện trăm nghìn muôn ức thân. Mỗi thân đó hóa độ trăm nghìn muôn ức người làm
cho quy kính ngôi Tam-Bảo, khỏi hẳn vòng sanh tử hưởng vui Niết-Bàn.
Những chúng sanh nào ở
nơi Phật Pháp chỉ làm việc lành bằng một sợi lông, một giọt nước, một hột cát,
một bụi nhỏ, hoặc chỉ bằng chừng mảy lông tóc, con đều độ thoát lần lần, làm
cho chúng nó được lợi ích lớn.
Cúi mong đức Như-Lai
chớ vì những chúng sanh ác nghiệp trong đời sau mà sanh lòng lo lắng!...'
Cúi mong đức Như-Lai
chớ vì những chúng sanh ác nghiệp trong đời sau mà sanh lòng lo lắng!...'
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát
bạch cùng đức Phật ba lần như thế.
Lúc ấy, đức Phật khen
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Hay thay! Hay thay! Ta hỗ trợ cho ông được toại
nguyện! Từ số kiếp lâu xa đến nay thường phát nguyện rộng lớn, cứu độ tất cả
chúng sanh xong rồi, thời ông liền chứng quả Bồ-đề'.
1) Phật Mẫu Thưa Hỏi - Lúc đó, đức Phật-Mẫu là bà Ma-Gia
Phu-Nhơn chắp tay cung kính mà hỏi Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát: 'Thánh-giả! Chúng sanh
trong cõi Diêm-Phù-Ðề tạo nghiệp sai khác, cảm thọ quả báo ra thế nào?'.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát
đáp rằng: 'Trong nghìn muôn thế giới cho đến quốc độ, hoặc nơi thời có địa
ngục, nơi thời không có địa ngục, hoặc nơi thời có hàng nữ nhơn, nơi thời không
có hàng nữ nhơn, hoặc nơi có Phật Pháp, nơi không có Phật Pháp, nhẫn đến bực Thanh
Văn và Bích Chi Phật, v.v... Cũng sai khác như thế, chớ chẳng phải riêng tội
báo nơi địa ngục sai khác thôi đâu!'.
Bà Ma-Gia Phu-Nhơn lại
bạch cùng Bồ Tát rằng: 'Tôi muốn nghe tội báo trong cõi Diêm Phù Ðề chiêu cảm
lấy ác đạo'.
Ngài Ðịa-Tạng đáp rằng:
'Thánh-Mẫu! Trông mong ngài lóng nghe nhận lấy, tôi sẽ lược nói việc đó'.
Thánh-Mẫu bạch rằng:
'Xin Thánh-Giả nói cho'.
2) Bồ Tát Lược Thuật - Bây giờ, Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát thưa
Thánh-Mẫu rằng: 'Danh hiệu của những tội báo trong cõi Nam-Diêm-Phù-Ðề như dưới
đây:
- Như có chúng sanh
chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ, kẻ đó phải đọa vào Vô-Gián
địa ngục mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.
Như có chúng sanh nào
có lòng ác, làm thân Phật bị thương chảy máu, khinh chê ngôi Tam-Bảo, chẳng
kính Kinh-điển, cũng phải đọa vào Vô-Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp
không khi nào ra khỏi được.
Hoặc có chúng sanh xâm
tổn của thường trụ, ô phạm Tăng, Ni, hoặc tứ tình làm sự dâm loạn trong chốn
chùa chiền, hoặc giết hoặc hại ... Những chúng sanh đó phải đọa vào Vô-Gián địa
ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.
Như có chúng sanh giả
làm thầy Sa-Môn kỳ thật tâm chẳng phải Sa-Môn, lạm dụng của thường trụ, trái
phạm giới luật, gạt gẫm hàng bạch y, tạo nhiều điều tội ác. Hạng người như thế
phải đọa vào Vô-Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi
được.
- Hoặc có chúng sanh
trộm cắp những tài vật lúa gạo, đồ ăn uống y-phục, v.v... của thường trụ, cho
đến không cho mà lấy một vật, kẻ đó phải đọa vào Vô-Gián địa ngục trong nghìn
muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát thưa
rằng: 'Thánh-Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm những tội như trên đó thời phải
đọa vào địa ngục ngũ Vô-Gián, cầu tạm ngừng sự đau khổ chừng khoảng một niệm
cũng không được'.
Bà Ma-Gia Phu-Nhơn lại
bạch cùng Ðịa-Tạng Bồ Tát: 'Thế nào là Vô-Gián địa ngục?'.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát
thưa rằng: 'Thánh Mẫu! Bao nhiêu địa ngục ở trong núi Thiết Vi, lớn có 18 chỗ,
thứ kế đó 500 chỗ danh hiệu đều riêng khác nhau, thứ kế lại có nghìn trăm danh
hiệu cũng đều riêng khác nhau.
Nói về địa ngục Vô Gián
đó, giáp vòng ngục thành hơn tám muôn dặm, thành đó thuần bằng sắt cao đến một
muôn dặm. Lửa cháy trên thành không có chỗ nào hở trống. Trong ngục thành đó có
các nhà ngục liên tiếp nhau đều có danh hiệu sai khác.
Riêng có một sở ngục
tên là Vô Gián. Ngục này châu vi một muôn tám nghìn dặm, tường ngục cao một
nghìn dặm, toàn bằng sắt cả. Lửa cháy hực hở suốt trên suốt dưới. Trên tường
ngục rắn sắt, chó sắt, phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia.
Trong ngục có giường
rộng khắp muôn dặm. Một người thọ tội thời tự thấy thân mình nằm đầy chật cả
giường, đến nghìn muôn người thọ tội cũng đều tự thấy thân của mình nằm chật cả
trên giường. Ðó là do vì những tội nghiệp đã tạo ra nó cảm vời như thế.
Lại những người tội
chịu đủ sự khổ sở: trăm nghìn quỉ Dạ-Xoa cùng với loài ác quỉ, răng nanh bén
nhọn dường gươm, cặp mắt chói sáng như chớp nhoáng, móng tay cứng như đồng, móc
ruột bằm chặt.
Lại có quỉ Dạ-Xoa khác
cầm chỉa lớn bằng sắt đâm vào mình người tội, hoặc đâm trúng miệng mũi, hoặc
đâm trúng bụng lưng... rồi dồi lên trên không, lấy chỉa hứng lấy để lại trên
giường. Lại có diều hâu bằng sắt mổ mắt người tội.
Lại có rắn sắt cắn đầu
người tội. Nơi lóng đốt khắp trong thân thể đều lấy đinh dài đóng xuống giường,
kéo lưỡi ra rồi cầy bừa trên đó, lôi kéo người tội, nước đồng đổ vào miệng, dây
sắt nóng đỏ quấn lấy thân người tội, một ngày một đêm, muôn lần chết muôn lần
sống lại. Do vì tội nghiệp mà cảm lấy như thế, trải qua ức kiếp, không lúc nào
ra khỏi được.
Lúc thế giới này hư
hoại thời sanh nhờ qua địa ngục ở thế giới khác. Lúc thế giới khác đó hư hoại
thời lại sanh vào cõi khác nữa. Lúc cõi khác đó hư hoại thời cũng xoay vần sanh
vào cõi khác. Ðến khi thế giới này thành xong thời sanh trở về thế giới này.
Những sự tội báo trong ngục Vô Gián như thế đó.
Lại địa ngục đó do có
năm điều nghiệp cảm, nên kêu là Vô Gián. Năm điều đó là những gì?
1) Tội nhơn trong đó
chịu khổ ngày lẫn đêm, cho đến trải qua số kiếp không lúc nào ngừng ngớt, nên
gọi là Vô Gián.
2) Một người tội thân
đầy chật cả địa ngục, nhiều người tội mỗi thân cũng đều chật đầy cả địa ngục,
nên gọi là Vô Gián.
3) Những khí cụ để hành
hình tội nhơn như: chỉa ba, gậy, diều hâu, rắn, sói, chó, cối giã, cối xay,
cưa, đục, dao mác, chảo dầu sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống
niền dầu nước sắt nóng rưới thân, đói thời ăn hoàn sắt nóng, khát thời uống
nước sắt sôi. Từ năm trọn kiếp, đến vô số kiếp những sự khổ sở nối nhau luôn
không một giây ngừng ngớt nên gọi là Vô Gián.
4) Không luận là trai
hay gái, Mường, Mán, Mọi rợ, già trẻ, sang hèn, hoặc là Rồng, là Trời, hoặc là
Thần, là Quỉ, hễ gây tội ác theo đó mà cảm lấy, tất cả đều đồng chịu khổ nên
gọi là Vô Gián.
5) Nếu người nào bị đọa
vào địa ngục đó, thời từ khi mới vào cho đến trăm nghìn kiếp mỗi một ngày đêm
muôn lần chết, muôn lần sống lại, muốn cầu tạm ngừng chừng một khoảng niệm cũng
không đặng, trừ khi tội nghiệp tiêu hết mới đặng thọ sanh. Do vì lẽ liên miên
mãi nên gọi là Vô Gián.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát
thưa Thánh Mẫu rằng: 'Nói sơ lược về địa ngục Vô-Gián như thế. Nếu nói rộng ra
thời tên của những khí cụ để hành tội cùng những sự thống khổ trong địa ngục
đó, dầu đến suốt một kiếp cũng không thể nào nói cho hết được.'
Bà Ma-Gia Phu Nhơn nghe
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát nói xong, không xiết lo rầu. Bà chắp tay đảnh lễ Bồ Tát mà
lui ra.
1) Bồ Tát Vâng Chỉ - Lúc đó, Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát bạch cùng
đức Phật rằng: 'Bạch Thế-Tôn! Con nương sức oai thần của đức Như-Lai, nên chia
thần này ở khắp trăm nghìn muôn ức thế giới, để cứu vớt tất cả chúng sanh bị
nghiệp báo.
Nếu không nhờ sức đại
từ của đức Như-Lai, thời chẳng có thể biến hóa ra như thế được. Nay con lại
được Như-Lai phó chúc: từ nay đến khi Ngài A Dật Ða thành Phật, làm cho chúng
sanh trong sáu đường đều đặng độ thoát. Xin vâng! Bạch đức Thế-Tôn! Xin đức
Thế-Tôn chớ lo!'.
Bấy giờ đức Phật bảo
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Những chúng sanh mà chưa được giải thoát, tánh thức
của nó không định, hễ quen làm dữ thời kết thành nghiệp báo dữ, còn quen làm
lành thời kết thành quả báo lành.
Làm lành cùng làm dữ
tùy theo cảnh duyên mà sanh ra lăn mãi trong năm đường không lúc nào tạm ngừng
ngớt, mê lầm chướng nạn trải đến kiếp số nhiều như vi trần.
Ví như loài cá bơi lội
trong lưới theo dòng nước chảy, thoạt hoặc tạm được ra, rồi lại mắc vào lưới.
Vì thế nên ta phải lo nghĩ đến những chúng sanh đó.
Ðời trước ông trót đã
lập nguyện trải qua nhiều kiếp phát thệ rộng lớn độ hết cả hàng chúng sanh bị
tội khổ, thời Ta còn lo gì!'
2) Ðịnh Tự Tại Vương
Bạch Hỏi - Khi đức Phật
dạy lời như thế xong, trong Pháp hội có vị đại Bồ Tát hiệu là Ðịnh-Tự-Tại-Vương
ra bạch cùng đức Phật rằng:
'Bạch Thế-Tôn! Từ nhiều
kiếp đến nay, Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đã phát thệ nguyện gì, mà nay được đức
Thế-Tôn ân cần ngợi khen như thế? Cúi mong đức Thế-Tôn lược nói cho'.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn
bảo Ngài Ðịnh-Tự-Tại-Vương Bồ Tát: 'Lóng nghe! lóng nghe! Phải khéo suy xét đó,
Ta sẽ vì ông mà giải bày rõ ràng.'
3) Ông Vua Nước Lân Cận - Vô lượng vô số na-do-tha bất khả thuyết
kiếp về thuở trước. Lúc đó, có đức Phật ra đời hiệu là Nhất-Thiết-Trí-Thành-Tựu
Như-Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế-Tôn.
Ðức Phật đó thọ sáu
muôn kiếp. Khi Ngài chưa xuất gia, thời Ngài làm Vua một nước nhỏ kia, kết bạn
cùng với Vua nước lân cận; hai Vua đồng thật hành mười hạnh lành làm lợi ích
cho nhơn dân.
Nhơn dân trong nước lân
cận đó phần nhiều tạo những việc ác. Hai Vua cùng nhau bàn tính tìm những
phương chước để dắt dìu dân chúng ấy.
Một ông phát nguyện:
'Tôi nguyện sớm thành Phật sẽ độ dân chúng ấy làm cho đều được giải thoát không
còn thừa'.
Một ông phát nguyện:
'Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ
Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật'.
Ðức Phật bảo Ngài
Ðịnh-Tự-Tại-Vương rằng: 'Ông Vua phát nguyện sớm thành Phật đó, chính là đức
Nhứt-Thiết-Trí-Thành-Tựu Như-Lai.
Còn ông Vua phát nguyện
độ chưa hết những chúng sanh tội khổ thời chưa nguyện thành Phật đó, chính là
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đây vậy.'
4) Quang Mục Cứu Mẹ - Lại vô lượng vô số kiếp về thuở trước,
có đức Phật ra đời, hiệu là Liên-Hoa-Mục Như-Lai. Ðức Phật đó thọ bốn mươi
kiếp.
Trong thời mạt pháp, có
một vị La-Hán phước đức cứu độ chúng sanh. Nhơn vì đi tuần tự giáo hóa mọi
người, La-Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục, nàng này sắm sửa đồ ăn cúng
dường La-Hán.
La-Hán thọ cúng rồi
hỏi: 'Nàng muốn những gì?'.
Quang Mục thưa rằng:
'Ngày thân mẫu tôi khuất, tôi làm việc phước thiện để nhờ đó mà cứu vớt thân
mẫu tôi, chẳng rõ thân mẫu tôi thác sanh vào đường nào?'
La-Hán nghe nói cảm
thương bèn nhập định quan sát, thời thấy bà mẹ của Quang Mục đọa vào chốn địa
ngục rất khổ sở.
La-Hán hỏi Quang Mục
rằng: 'Thân Mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh nghiệp gì, mà nay phải đọa
vào chốn địa ngục rất khổ sở như thế?'
Quang Mục thưa rằng:
'Ngày còn sống, thân mẫu tôi chỉ ưa ăn thịt loài cá trạnh, phần nhiều là hay ăn
cá con và trạnh con, hoặc chiên, hoặc nấu, tha hồ mà ăn cho thỏa mãn.
Nếu tính đếm số cá
trạnh của người đã ăn thời đến hơn nghìn muôn. Xin Tôn Giả thương xót chỉ dạy
phải làm cách nào để cứu thân mẫu tôi?'
La-Hán xót thương bèn
dạy phương chước, ngài khuyên Quang Mục rằng:
'Ngươi phải đem lòng
chí thành mà niệm đức Thanh-Tịnh-Liên-Hoa-Mục Như-Lai, và vẽ đắp hình tượng đức
Phật, thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi!'
Quang Mục nghe xong,
liền xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng. Nàng lại đem lòng cung kính,
khóc than chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật.
Ðêm đó, nàng chiêm bao
thấy thân của đức Phật sắc vàng sáng chói như hòn núi Tu-Di. Ðức Phật phóng ánh
sáng mà bảo Quang Mục rằng: 'Chẳng bao lâu đây thân mẫu ngươi sẽ thác sanh vào
trong nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thời liền biết nói'.
Sau đó, đứa tớ gái
trong nhà sanh một đứa con trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Trẻ đó buồn khóc
mà nói với Quang Mục rằng:
'Nghiệp duyên trong
vòng sanh tử phải tự lãnh lấy quả báo. Tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối
tăm. Từ khi vĩnh biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục.
Nhờ phước lực của
người, nên nay được thọ sanh làm kẻ hạ tiện, lại thêm số mạng ngắn ngủi, năm
mười ba tuổi đây sẽ bị đọa vào địa ngục nữa. Người có phương thế gì làm cho tôi
được thoát khỏi nỗi khổ sở?'
Nghe đứa trẻ nói, Quang
Mục biết chắc là mẹ mình. Nàng nghẹn ngào khóc lóc mà nói với đứa trẻ rằng: 'Ðã
là mẹ của tôi, thời phải biết tội của mình, đã gây tạo hạnh nghiệp chi mà bị
đọa vào địa ngục như thế?'
Ðứa trẻ đáp rằng: 'Do
hai nghiệp: giết hại sinh vật và chê bai mắng nhiếc, mà thọ báo khổ. Nếu không
nhờ phước đức của người cứu nạn tôi, thời cứ theo tội nghiệp đó vẫn còn chưa
được thoát khổ'.
Quang Mục hỏi rằng:
'Những việc tội báo trong địa ngục ra làm sao?'
Ðứa trẻ đáp rằng:
'Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, dẫu đến trăm nghìn năm cũng không
thuật hết được'.
Quang Mục nghe xong,
than khóc rơi lệ mà bạch cùng giữa hư không rằng:
'Nguyện cho thân mẫu
tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn mười ba tuổi không còn có trọng tội cùng không
còn đọa vào ác đạo nữa.
Xin chư Phật trong mười
phương thương xót chứng minh cho tôi, vì mẹ mà tôi phát nguyện rộng lớn như
vầy:
Như thân mẫu tôi khỏi
hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp không còn thọ những
quả báo xấu đó nữa, tôi đối trước tượng của đức Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai
mà phát lời nguyện rằng: Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp,
trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba
ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo:
địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v...
Những kẻ mắc phải tội
báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác'.
Quang Mục phát nguyện
đó xong, liền nghe tiếng của Ðức Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai dạy rằng:
'Này Quang Mục! Nhà ngươi rất có lòng từ mẫn, vì mẹ mà phát ra lời thệ nguyện
rộng lớn như thế thật là hay lắm!
Ta quan sát thấy mẹ nhà
ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này sẽ thác sanh làm người Phạm Chí
sống lâu trăm tuổi.
Sau đó vãng sanh về cõi
nước Vô Ưu sống lâu đến số không thể tính kể.
Sau rốt sẽ thành Phật
độ nhiều hạng người, trời, số đông như số cát sông Hằng'.
Ðức Phật bảo Ngài Ðịnh-Tự-Tại-Vương
Bồ Tát rằng: 'Vị La-Hán phước lành độ Quang Mục thuở đó, chính là Vô-Tận-Ý Bồ
Tát. Thân mẫu của Quang Mục là Ngài Giải Thoát Bồ Tát.
Còn Quang Mục thời là
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đây vậy. Trong nhiều kiếp lâu xa về trước Ngài có lòng từ
mẫn, phát ra hằng hà sa số lời thệ nguyện độ khắp chúng sanh như thế.
Trong đời sau, như có
chúng sanh không làm lành, mà làm ác, nhẫn đến kẻ chẳng tin luật nhân quả, kẻ
tà dâm, vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt, ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại Thừa. Những chúng
sanh có tội nghiệp như thế chắc phải bị đọa vào ác đạo.
Nếu gặp được hàng thiện
tri thức khuyên bảo quy y với Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát chừng trong khoảng khảy móng
tay, những chúng sanh đó liền đặng thoát khỏi báo khổ nơi ba ác đạo.
Nếu người nào có thể
quy kính và chiêm ngưỡng đảnh lễ ngợi khen, cùng dưng cúng những y phục, đồ ăn
vật uống, các thứ trân bảo.... Thời người đó, trong trăm nghìn muôn ức kiếp
sau, thường ở cõi trời hưởng thọ sự vui thắng diệu.
Hoặc lúc phước trời
hết, sanh xuống chốn nhơn gian, vẫn còn thường làm vị Ðế Vương trong trăm nghìn
kiếp; lại nhớ được cội ngành nhơn quả trong các đời trước của mình.
Này Ðịnh-Tự-Tại-Vương!
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát có sức oai thần rất lớn không thể nghĩ bàn, nhiều sự lợi
ích cho chúng sanh như thế. Các ông, những bực Bồ Tát, phải ghi nhớ kinh này
hầu tuyên truyền lưu bố rộng ra'.
Ngài Ðịnh-Tự-Tại-Vương
bạch Ðức Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! xin Phật chớ lo! Nghìn muôn ức đại Bồ
Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà tuyên lưu rộng kinh này nơi
cõi Diêm-Phù-Ðề để cho lợi ích chúng sanh'.
Ngài Ðịnh-Tự-Tại-Vương
Bồ Tát bạch với Ðức Phật xong, bèn cung kính chắp tay lễ Phật mà lui ra.
5) Tứ Thiên Vương Hỏi
Phật - Bấy giờ, bốn
ông Thiên Vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay mà bạch cùng Ðức
Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát từ kiếp lâu xa nhẫn lại đã
phát nguyện rộng lớn như thế, tại sao ngày nay mà vẫn độ chưa hết, Ngài lại còn
phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Cúi mong đức Thế-Tôn dạy cho chúng con rõ'.
Ðức Phật bảo bốn vị
Thiên Vương rằng: 'Hay thay! Hay thay! Nay vì muốn được sự lợi cho chúng sanh.
Ta vì các ông cùng chúng thiên nhơn ở hiện tại và vị lai, mà nói những sự
phương tiện của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát ở trong đường sanh tử nơi Diêm-Phù-Ðề ở
Ta-Bà thế giới này, vì lòng từ mẫn xót thương mà cứu vớt, độ thoát tất cả chúng
sanh mắc phải tội khổ'.
Bốn ông Thiên Vương
bạch rằng: 'Vâng! Bạch đức Thế-Tôn! Chúng con xin muốn được nghe'.
6) Phương Tiện Giáo Hóa - Ðức Phật bảo bốn ông Thiên Vương rằng:
'Từ kiếp lâu xa nhẫn
đến ngày nay, Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát độ thoát chúng sanh vẫn còn chưa mãn nguyện,
Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ đời này, lại quan sát vô lượng kiếp về
sau, tội khổ cứ lây dây mãi không dứt.
Vì lẽ đó nên Ngài phát
ra lời trọng nguyện.
Ðịa-Tạng Bồ Tát ở trong
cõi Diêm-Phù-Ðề nơi thế giới Ta-Bà, dùng trăm nghìn muôn ức phương chước để
giáo hóa chúng sanh.
Nầy bốn ông Thiên
Vương! Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát hại loài sanh vật, thời dạy rõ quả
báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu.- Nếu gặp kẻ trộm cắp, thời Ngài
dạy rõ quả báo nghèo- khốn khổ sở.- Nếu gặp kẻ tà dâm thời Ngài dạy rõ quả báo
làm chim se-sẻ, bồ câu, uyên-ương.
-Nếu gặp kẻ nói lời thô
ác, thời Ngài dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.- Nếu gặp kẻ hay khinh
chê, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.- Nếu gặp kẻ nóng giận, thời
Ngài dạy rõ quả báo thân hình xấu xí tàn tật.
Nếu gặp kẻ bỏn xẻn,
thời Ngài dạy rõ quả báo cầu muốn không được toại nguyện.- Nếu gặp kẻ buông
lung săn bắn, thời Ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng.
-Nếu gặp kẻ trái nghịch
cha mẹ, thời Ngài dạy rõ quả báo trời đất tru lục.- Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây
cỏ, thời Ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.- Nếu gặp cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở
độc ác, thời Ngài dạy rõ quả báo thác sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
Nếu gặp kẻ dùng lưới
bắt chim non, thời Ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.- Nếu gặp kẻ hủy báng
Tam-Bảo, thời Ngài dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
Nếu gặp kẻ khinh chê
giáo pháp thời Ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.- Nếu gặp kẻ lạm phá của
thường trụ, thời Ngài dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.- Nếu gặp kẻ
ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già, thời Ngài dạy rõ quả báo ở
mãi trong loài súc sanh.
- Nếu gặp kẻ dùng nước
sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật, thời Ngài dạy rõ quả báo phải luân
hồi thường mạng lẫn nhau. - Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thời Ngài dạy rõ quả
báo cầm thú đói khát.
- Nếu gặp kẻ phung phí
phá tổn của cải một cách phi lý, thời Ngài dạy rõ quả báo tiêu dùng thiếu hụt.-
Nếu gặp kẻ tao ta kiêu mạn cống cao, thời Ngài dạy rõ quả báo hèn hạ bị người
sai khiến.
Nếu gặp kẻ đâm chọc gây
gỗ, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi.- Nếu gặp kẻ tà kiến mê
tín, thời Ngài dạy rõ quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh.
Những chúng sanh trong
cõi Diêm-Phù-Ðề, từ nơi thân khẩu ý tạo ác, kết quả trăm nghìn muôn sự báo ứng
như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.
Những nghiệp cảm sai
khác của chúng sanh trong chốn Diêm-Phù-Ðề như thế, Ðịa-Tạng Bồ Tát dùng trăm
nghìn phương chước để giáo hóa đó.
Những chúng sanh ấy
trước phải chịu phải chịu lấy các quả báo như thế, sau lại đọa vào địa ngục
trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi.
Vì thế nên các ông là
bậc hộ vệ người cùng bảo trợ cõi nước, chớ để những nghiệp chướng đó nó làm mê
hoặc chúng sanh.
Bốn ông Thiên Vương
nghe xong, rơi lệ than thở chấp tay lễ Phật mà lui ra.
****************
Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát
Bổn Nguyện Quyển Thượng Hết
Bổn nguyện Ðịa-Tạng .
Ðao Lợi Thiên Cung,
Thần Thông hiển hóa độ
quần mông,
Ðời ngũ trược khó
thông,
Chúng sanh cang cường,
Ham vui khổ vô cùng.
Nam mô Thường Trụ Thập
Phương Phật. (3 lần)
Nam mô Ðại Nguyện Ðịa
Tạng Bồ Tát. (3 lần)
1- Phổ Hiền Hỏi - Lúc đó, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát thưa cùng
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Thưa Nhơn Giả! Xin Ngài vì Trời, Rồng bát bộ và tất
cả chúng sanh ở hiện tại cùng vị lai, mà nói danh hiệu của những địa ngục là
chỗ thọ báo của những hạng chúng sanh bị tội khổ ở trong cõi Ta-Bà cùng
Diêm-Phù-Ðề này, và nói những sự về quả báo không lành. Làm cho chúng sanh
trong thời mạt pháp sau này biết rõ những quả báo đó'.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đáp
rằng: 'Thưa Nhơn Giả! Nay tôi nương oai thần của Ðức Phật cùng oai lực của Ngài
mà nói danh hiệu của các địa ngục, cùng những sự về tội báo và ác báo.
Danh Hiệu Của Ðịa Ngục - Thưa Nhơn Giả! Phương Ðông của
Diêm-Phù-Ðề có dãy núi tên là Thiết-Vi. Dãy núi đó tối thẳm không có ánh sáng
của mặt trời, mặt trăng, trong đó có địa ngục lớn tên là Cực-Vô-Gián.
Lại có địa ngục tên là
Ðại-A-Tỳ, lại có địa ngục tên là Tứ-Giác, lại có địa ngục tên là Phi-Ðao, lại
có địa ngục tên là Hõa-Tiễn, lại có địa ngục tên là Giáp-Sơn, lại có địa ngục
tên là Thông-Thương.
Lại có địa ngục tên là
Thiết Xa, lại có địa ngục tên là Thiết-Sàng, lại có địa ngục tên là Thiết-Ngưu,
lại có địa ngục tên là Thiết-Y, lại có địa ngục tên là Thiên-Nhẫn, lại có địa
ngục tên là Thiết-Lư.
Lại có địa ngục tên là
Dương-Ðồng, lại có địa ngục tên là Bảo-Trụ, lại có địa ngục tên là Lưu-Hỏa, lại
có địa ngục tên là Canh-Thiệt, lại có địa ngục tên là Tỏa-Thủ, lại có địa ngục
tên là Thiên-Cước.
Lại có địa ngục tên là
Ðạm-Nhãn, lại có địa ngục tên là Thiết-Hoàn, lại có địa ngục tên là Tránh-Luận,
lại có địa ngục tên là Thiết-Thù, lại có địa ngục tên là Ða-Sân...
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát nói
rằng: 'Thưa Nhơn Giả! Trong dãy núi Thiết-Vi có những địa ngục như thế số nhiều
vô hạn. Lại có địa ngục Kiếu Oán, địa ngục Bạt Thiệt, địa ngục Phẩn Niếu, địa
ngục Ðồng Toả, địa ngục Hỏa Tượng, địa ngục Hỏa Cẩu, địa ngục Hỏa Mã, địa ngục
Hỏa Ngưu, địa ngục Hỏa Thạch, địa ngục Hỏa Sàng, địa ngục Hỏa Lương, địa ngục
Hỏa Ưng, địa ngục Cứ Nha, địa ngục Bác Bì, địa ngục Ẩm Huyêt, địa ngục Thiêu
Thủ, địa ngục Thiêu Cước, địa ngục Ðảo Thích, địa ngục Hỏa Ốc, địa ngục Thiết
Ốc, địa ngục Hỏa Lang....
Những địa ngục như thế
trong đó mỗi ngục lớn lại có những ngục nhỏ, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc
bốn, nhẫn đến trăm nghìn, trong số đó danh hiệu chẳng đều đồng nhau'.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát nói
với Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng:'Thưa Nhơn Giả! Ðó đều là do chúng sanh trong cõi
Diêm-Phù-Ðề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như
thế.
Nghiệp lực rất lớn, có
thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh'.
Vì thế chúng sanh chớ
khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến
mảy mún đều phải chịu lấy.
Chí thân như cha với con,
mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu có gặp nhau cũng
chẳng bằng lòng chịu khổ cho nhau.
Nay tôi nương oai lực của
Ðức Phật mà nói sơ lược những sự tội báo nơi địa ngục. Trông mong Nhơn Giả tạm
nghe lời đó'.
Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đáp
rằng: 'Dầu từ lâu tôi đã rõ tội báo nơi ba đường ác đạo rồi, nhưng tôi muốn
Nhơn Giả nói ra để làm cho tất cả chúng sanh có tâm hạnh ác trong đời mạt pháp
sau này, nghe được lời dạy của Nhơn Giả, mà biết quy hướng về Giáo Pháp của
Phật'.
Tội Báo Trong Ðịa Ngục - Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát nói rằng: 'Thưa Nhơn
Giả! Những sự tội báo trong chốn địa ngục như vầy:
Hoặc có địa ngục kéo lưỡi
người tội ra mà cho trâu cày trên đó, hoặc có địa ngục moi tim người tội để cho
quỉ Dạ Xoa ăn, hoặc có địa ngục vạc dầu sôi sùng sục nấu thân người tội, hoặc
có địa ngục đốt cột đồng cháy đỏ rồi bắt người tội ôm lấy.
Hoặc có địa ngục từng
bựng lửa lớn bay tấp vào người tội, hoặc có địa ngục toàn cả thuần là băng giá,
hoặc có địa ngục đầy vô hạn đồ phẩn tiểu, hoặc có địa ngục lao gai chông sắt,
hoặc có địa ngục đâm nhiều giáo lửa.
Hoặc có địa ngục chỉ đập
vai lưng, hoặc có địa ngục chỉ đốt chân tay, hoặc có địa ngục cho rắn sắt cuốn
cắn, hoặc có địa ngục xua đuổi chó sắt, hoặc có địa ngục đóng ách lừa sắt.
Nhơn Giả! Những quả báo
như thế trong mỗi mỗi ngục có trăm nghìn thứ khí cụ để hành hình, đều là bằng
đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa. Bốn loại khí cụ này do các hạnh nghiệp quấy
ác của chúng sanh mà cảm vời ra.
Nếu tôi thuật rõ cả những
sự về tội báo ở địa ngục, thời trong mỗi địa ngục lại còn có trăm nghìn thứ khổ
sở, huống chi là nhiều ngục!
Nay tôi nương sức oai
thần của Ðức Phật và vì Nhơn Giả hỏi mà nói sơ lược như thế. Nếu nói rõ cả thời
cùng kiếp nói cũng không hết'.
1) Phật Phóng Quang Dặn
Bảo - Lúc đó khắp thân
của Thế-Tôn phóng ra ánh sáng lớn soi khắp đến trăm nghìn muôn ức Hằng hà sa
cõi nước của chư Phật; trong ánh sáng đó vang ra tiếng lớn bảo khắp các cõi
nước của chư Phật rằng:
'Tất cả hàng đại Bồ Tát
và Trời, Rồng, Quỉ, Thần v.v... lóng nghe hôm nay Ta khen ngợi rao bày những sự
của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát ở trong mười phương thế giới, hiện ra sức từ bi oai
thần không thể nghĩ bàn, để cứu giúp tất cả tội khổ chúng sanh.
Sau khi ta diệt độ, thời
hàng Bồ Tát Ðại Sĩ các ông cùng với Trời, Rồng, Quỉ, Thần v.v... nên dùng nhiều
phương chước để giữ gìn kinh này, làm cho tất cả mọi loài chúng sanh đều khỏi
tất cả sự khổ, mà chứng cảnh vui Niết Bàn'.
2) Phổ Quảng Thưa Thỉnh - Nói lời ấy xong, trong pháp hội có một vị
Bồ Tát tên là Phổ Quảng cung kính chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng: 'Nay con
nghe đức Thế-Tôn ngợi khen Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát có đức oai thần rộng lớn không
thể nghĩ bàn như thế.
Trông mong đức Như-Lai
lại vì những chúng sanh trong thời mạt pháp sau này, mà tuyên nói các sự nhơn
quả của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho hàng Trời, Người. Làm cho hàng
Trời, Rồng, bát bộ và chúng sanh trong đời sau kính vâng lời của Ðức Phật'.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn, bảo
Ngài Phổ Quảng Bồ Tát cùng trong tứ chúng rằng: 'Lóng nghe! lóng nghe! Ta sẽ vì
các ông nói lược về những sự phước đức của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát làm lợi ích cho
người cùng Trời'.
Ngài Phổ Quảng bạch Phật
rằng 'Vâng! Bạch đức Thế-Tôn! Chúng con xin ham muốn nghe'.
3) Phật Dạy Sự Lợi Ích - Ðức Phật bảo Ngài Phổ Quảng Bồ Tát:
'Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào nghe được danh hiệu của
Ðịa-Tạng đại Bồ Tát, hoặc là chắp tay, hoặc là ngợi khen, hoặc là đảnh lễ, hoặc
là luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng! Như có kẻ
thiện nam hay người thiện nữ nào hoặc là vẽ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát
rồi chừng một lần chiêm ngưỡng, một lần đảnh lễ, người đó sẽ được sanh lên cõi
trời Ðao Lợi một trăm lần, không còn phải bị sa đọa vào ác đạo nữa.
Ví dầu ngày kia phước
trời đã hết mà sanh xuống nhơn gian, cũng vẫn làm vị Quốc Vương, không hề mất
sự lợi lớn.
4) Khỏi Nữ Thân - Như có người nữ nào nhàm chán thân gái,
hết lòng cúng dường tượng vẽ của Ðịa-Tạng Bồ Tát, và những tượng cất bằng đất,
đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v... Ngày ngày thường đem hoa, hương, đồ ăn, đồ
uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu, v.v... cúng dường như thế
mãi không thôi.
Người thiện nữ mãn một
thân gái hiện tại, thời đến trăm nghìn muôn kiếp còn không sanh vào cõi nước có
người nữ, huống nữa là thọ thân gái! Trừ khi vì lòng từ cần phải thọ thân gái
để độ chúng sanh. Nương nơi phước cúng dường Ðịa-Tạng Bồ Tát và sức công đức
đó, trong trăm nghìn muôn kiếp chẳng còn thọ thân người nữ lại nữa.
5) Thân Xinh Ðẹp - Lại nữa, này Phổ Quảng Bồ Tát! Nếu có
người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bịnh tật, đến nơi trước tượng của Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ chừng trong khoảng một bữa ăn,
người nữ đó trong nghìn vạn kiếp thọ sanh được thân hình tướng mạo xinh đẹp
không có bịnh tật.
Người nữ xấu xí đó nếu
không nhàm thân gái, thời trăm nghìn muôn ức đời thường làm con gái nhà Vua cho
đến làm Vương Phi, dòng dõi nhà quan lớn cùng con gái các vị đại Trưởng Giả,
tướng mạo đoan trang xinh đẹp.
Do vì có lòng chí thành
chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát mà đặng phước như thế.
6) Quỉ Thần Hộ Vệ - Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có người
thiện nam, người thiện nữ nào có thể đối trước tượng của Ðịa-Tạng Bồ Tát mà
trổi các thứ kỹ nhạc, ngâm ca khen ngợi, dùng hương hoa cúng dường, cho đến
khuyến hóa được một người hay nhiều người.
Những hạng người đó ở
trong đời hiện tại cùng thuở vị lai sau, thường được trăm nghìn vị Quỉ Thần
ngày đêm theo hộ vệ còn không cho những việc hung dữ đến tai người đó, huống là
để cho người đó phải chịu các tai vạ bất ngờ!
7) Khinh Chê Mắc Tội - Lại nữa này Phổ Quảng Bồ Tát! Trong đời
sau, như có người ác và ác thần, ác quỉ nào thấy kẻ thiện nam, người thiện nữ
quy y cung kính, cúng dường ngợi khen chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát, mà vọng sanh khinh chê là không có công đức cùng không có sự
lợi ích, hoặc nhăn răng ra cười, hoặc chê sau lưng hay chê trước mặt, hoặc
khuyên bảo người khác cùng chê, hoặc khuyên bảo một người cùng chê hay nhiều
người cùng chê, cho đến sanh lòng chê bai trong chừng một niệm.
Thời những kẻ như thế đến
sau khi một nghìn Ðức Phật trong Hiền-Kiếp nhập diệt cả, bị tội báo khinh chê
nên còn ở trong địa ngục A-Tỳ chịu khổ rất nặng.
Qua khỏi Hiền-Kiếp này
mới được thọ thân ngạ quỉ, rồi mãi đến một nghìn kiếp sau mới thọ thân súc
sanh; lại phải trải qua đến một nghìn kiếp nữa mới đặng sanh làm người.
Dầu được làm người nhưng
ở vào hạng bần cùng hèn hạ tật nguyền thiếu sứt, hay bị những nghiệp ác ràng
buộc vào thân, không bao lâu phải sa đọa vào ác đạo nữa.
Này Phổ Quảng! Khinh chê
người khác cúng dường mà còn mắc phải tội báo xấu khổ như thế, huống nữa là tự
sanh ác kiến mà khinh chê phá diệt!
8) Tiêu Diệt Tội Chướng - Lại nữa, này Phổ Quảng Bồ Tát! Trong đời
sau, như có người nam, người nữ nào đau nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống
hay muốn chết cũng đều không được. Hoặc đêm nằm chiêm bao thấy quỉ dữ cho đến
kẻ thân thích trong nhà, hoặc thấy đi trên đường nguy hiểm hoặc bị bóng đè,
hoặc với quỉ thần cùng đi.
Trải qua nhiều tháng
nhiều năm, đến đỗi thành bịnh lao, bịnh bại... Trong giấc ngủ kéo dài kêu réo
thê thảm sầu khổ. Ðây đều bị nơi nghiệp đạo luận đối chưa quyết định là khinh
hay trọng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành.
Mắt phàm tục của kẻ nam,
người nữ không thể biện rõ việc đó, chỉ phải nên đối trước tượng của chư Phật
Bồ Tát, to tiếng mà đọc tụng kinh này một biến.
Hoặc lấy những món vật
riêng của người bịnh thường ưa tiếc, như y phục,đồ quí báu, nhà cửa ruộng vường
v.v... đối trước người bịnh cất tiếng lớn mà xướng lên rằng:
'Chúng tôi tên đó họ đó,
nay vì người bịnh này đối trước kinh tượng đem những của vật này hoặc cúng
dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng của Phật Bồ Tát, hoặc xây dựng chùa tháp,
hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào của thưòng trụ'.
Xướng lên như vậy ba lần
để cho người bịnh được nghe biết. Giả sử như thần thức của người bịnh đã phân
tán đến hơi thở đã dứt, thời hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến
bảy ngày, cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng tụng kinh này.
Sau khi người bịnh đó
mạng chung thời thời dầu cho từ trước có tội vạ nặng nhẫn đến năm tội Vô-Gián,
cũng được thoát khỏi hẳn, thọ sanh vào đâu cũng thường nhớ biết việc đời trước.
Huống nữa là người thiện
nam, người thiện nữ nào tự mình biên chép kinh này, hoặc bảo người biên chép,
hoặc tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát, cho đến bảo người khác vẽ đắp, người
đó khi thọ quả báo chắc đặng nhiều lợi lớn.
Này Phổ Quảng Bồ Tát! Vì
thế nên, nếu ông thấy có người nào đọc tụng kinh này, cho đến chỉ trong một
niệm khen ngợi kinh này, hoặc là có lòng cung kính đối với kinh, thời ông cần
phải dùng trăm nghìn phương chước khuyến hóa người đó, phát lòng siêng năng chớ
đừng thối thất, thời có thể được trăm nghìn muôn ức công đức không thể nghĩ bàn
ở hiện tại và vị lai.
9) Siêu Ðộ Vong Linh - Lại nữa, này Phổ Quảng Bồ Tát! Như những
chúng sanh đời sau, hoặc trong giấc ngủ, hoặc trong chiêm bao thấy các hạng
Quỉ, Thần nhẫn đến các hình lạ, rồi hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ,
hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt....
Ðó đều là vì hoặc cha mẹ,
con em, hoặc chồng vợ, quyến thuộc trong một đời, mười đời, hay, trăm đời nghìn
đời về thuở quá khứ bị đọa lạc vào ác đạo chưa được ra khỏi, không biết trông
mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt nỗi khổ não, nên mới về mách bảo với
người có tình cốt nhục trong đời trước cầu mong làm phương tiện gì để hầu được
thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên
dùng sức oai thần, khiến hàng quyến thuộc đó đối trước hình tượng của chư Phật,
chư Bồ Tát chí tâm tự đọc kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc đủ số ba biến
hoặc đến bảy biến.
Như vậy kẻ quyến thuộc
đương mắc trong ác đạo kia, khi tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong sẽ đặng
giải thoát, cho đến trong khi mơ ngủ không còn thấy hiện về nữa.
10) Khỏi Nô Lệ - Lại nữa, này Phổ Quảng! Như đời sau này
có những hạng người hạ tiện, hoặc tớ trai, hoặc tớ gái nhẫn đến những kẻ không
được quyền tự do, rõ biết là do tội nghiệp đời trước gây ra cần phải sám hối
đó, thời nên chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Rồi trong bảy ngày niệm
danh hiệu của Ðịa-Tạng Bồ Tát đủ một muôn biến.
Những người trên đó sau
khi mãn báo thân hạ tiện ở hiện đời trong nghìn muôn đời về sau thường sanh vào
bực tôn quí, trọn không bao giờ còn phải sa đọa vào ba đường ác khổ nữa.
11) Sanh Con Dễ Nuôi - Lại vầy nữa, này Phổ Quảng Bồ Tát! Về
trong thuở sau này, nơi cõi Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn,
Trưởng Giả, Cư Sĩ, tất cả các hạng người, và những dân tộc dòng họ khác, như có
người nào mới sinh đẻ hoặc con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì
đứa trẻ mới sinh ra đó mà tụng niệm kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì
đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đủ một muôn biến.
Ðược vậy thời đứa trẻ
hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây ra tội vạ chi cũng
đặng thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu.
Còn như nó là đứa nương
nơi phước lực mà thọ sanh, thời đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn.
12) Ngày Thập Trai Tụng
Kinh Ðược Phước - Lại vầy nữa, này
Phổ Quảng! Trong mỗi tháng những ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười
tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày
mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ.
Tất cả những cử chỉ động
niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không có điều gì chẳng phải là
tội lỗi, huống nữa là những kẻ buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ
trăm điều tội lỗi.
Về đời sau, nếu có chúng
sanh nào trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối trước hình tượng của
chư Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh để đọc tụng kinh này một biến, thời chung quanh
chỗ người đó ở bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc, trong khoảng một trăm do-tuần
không có xảy ra những việc tai nạn.
Còn chính nhà của người
đó ở, tất cả mọi người hoặc già hoặc trẻ về hiện tại và vị-lai đến trăm nghìn
năm xa khỏi hẳn các ác đạo.
Trong mười ngày trai trên
đây nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này, thời trong đời hiện tại hay làm
cho người trong nhà không phải mắc phải bịnh tật bất ngờ, đồ ăn mặc dư dật.
Này Phổ Quảng! Vì thế nên
biết rằng Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát có bất khả thuyết trăm nghìn muôn ức những sự
oai thần lực lớn nhiều lợi ích cho chúng sanh như thế.
Chúng sanh trong cõi Diêm
Phù Ðề này có nhân duyên lớn với Ngài Ðịa-Tạng Ðại Sĩ. Những chúng sanh đó hoặc
được nghe danh hiệu của Ðịa-Tạng Bồ Tát, hoặc được thấy hình tượng của Ðịa-Tạng
Bồ Tát, cho đến nghe chừng ba chữ hay năm chữ trong kinh này, hoặc một bài kệ
hay một câu, thời những người đó hưởng sự an vui lạ thường trong đời hiện tại,
trăm nghìn muôn đời về vị lai thường được thác sanh vào nhà tôn quí, thân hình
xinh đẹp.
13) Danh Hiệu Của Kinh - Khi nghe Ðức Phật Như Lai tuyên bày ngợi
khen Ngài Ðịa-Tạng Ðại Sĩ xong, Ngài Phổ Quảng Bồ Tát liền quỳ xuống chắp tay
mà bạch cùng Ðức Phật rằng:
'Bạch Thế-Tôn! Từ lâu con
rõ biết vị Ðại Sĩ này có thần lực cùng đại nguyện lực không thể nghĩ bàn như
thế rồi, song nay vì muốn những chúng sanh trong đời sau này rõ biết các sự lợi
ích đó, nên con mới bạch hỏi cùng đức Như Lai.
Vâng! Con xin cung kính
tin nhận lời Phật dạy.
Bạch đức Thế-Tôn! Kinh
này đặt tên là gì và định cho con lưu bố thế nào?'
Ðức Phật bảo Ngài Phổ
Quảng: 'Kinh này có ba danh hiệu: một là 'Ðịa-Tạng Bổn Nguyện Kinh', cũng gọi
là 'Ðịa-Tạng Bổn Hạnh kinh' đây là tên thứ hai, cũng gọi là 'Ðịa-Tạng Bổn Thệ
Lực kinh' đây là tên thứ ba.
Do vì Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay phát nguyện rộng lớn làm lợi ích cho chúng
sanh, cho nên các ông phải đúng theo tâm nguyện mà lưu hành truyền bá kinh
này'.
Nghe Ðức Phật dạy xong,
Ngài Phổ Quảng Bồ Tát tin chịu, chắp tay cung kính lễ Phật lui ra.
1) Khuyên Tu Thánh Ðạo - Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng đại Bồ Tát bạch cùng
đức Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh trong cõi Diêm Phù
sanh tâm động niệm không chi là chẳng phải tội.
Nếu gặp những việc về
pháp sự lợi lành phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu. Còn hoặc khi gặp duyên
sự bạo ác chẳng lành lại lần lần thêm lớn: Những hạng người trên đó như kẻ mang
đá nặng đi trong bùn lầy càng nặng thêm lần, càng khốn đốn thêm lần, chân đạp
lún lút sâu.
Những người đó hoặc gặp
hàng thiện tri thức đội giùm đá bớt cho, hoặc là đội giùm hết cả, vì hàng thiện
tri thức đó có sức rất khỏe mạnh lại dìu đỡ người ấy khuyên gắng làm cho người
ấy mạnh chơn lên.
Nếu khi ra khỏi bùn lầy
đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy,
đừng có đi vào đó nữa.
Bạch đức Thế-Tôn! Những
chúng sanh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún rồi lần đến nhiều vô lượng.
Ðến khi những chúng sanh
quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời cha mẹ cùng thân quyến vì
người đó mà tu tạo phước lành để giúp tiền đồ cho người đó.
Hoặc treo phan lọng và
thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc Tôn Kinh, hoặc cúng dường tượng Phật cùng hình
tượng của các vị Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát cùng Bích Chi
Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của người sắp mạng chung, hoặc
là nơi bổn thức nghe biết.
Cứ theo nghiệp ác của
người đó đã gây tạo, suy tính đến quả báo, thời đáng lẽ người đó phải bị đọa
vào ác đạo, song nhờ thân quyến vì người đó mà tu nhơn duyên Thánh-đạo, cho nên
các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người đó đã
chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước
lành, thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi
trời hoặc sanh trong loài người hưởng lấy nhiều sự rất vui sướng, mà kẻ thân
quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích.
Vì lẽ trên đó nên nay con
đối trước đức Phật Thế-Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với
phi nhơn v.v... mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Ðề,
ngày lâm chung kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo
nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng ma quái.
Vì sao thế? Vì việc giết
hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ
có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi.
Giả sử người chết đó hoặc
là đời trước hay đời hiện tại vừa rồi, đã chứng đặng phần Thánh quả sẽ sanh vào
cõi Trời, cõi người, nhưng bị vì lúc lâm chung hàng thân thuộc gây tạo những
nghiệp nhơn không lành, cũng làm cho người chết đó mắc lấy ương lụy phải đối
biện, chậm sanh vào chốn lành.
Huống gì là người kia
chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành, đều theo ác nghiệp của
họ đã gây tạo mà tự phải bị sa đọa vào ác đạo.
Hàng thân thuộc nỡ nào
lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!
Cũng ví như, có người từ
xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn
trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa
đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.
Bạch đức Thế-Tôn! Con xem
xét những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, ở nơi trong giáo pháp của Phật, nếu
có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột
cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều tự mình được lợi ích cả.
2) Trưởng Giả Bạch Hỏi - Khi Ngài Ðịa-Tạng nói lời như thế xong,
trong pháp hội có một vị Trưởng Giả tên là tên là Ðại Biện.
Ông Trưởng Giả từ lâu đã
chứng quả vô sanh hiện thân Trưởng Giả để hóa độ chúng sanh trong mười phương,
ông chắp tay cung kính mà thưa hỏi Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng:
'Thưa Ðại Sĩ! Trong cõi
Nam Diêm Phù Ðề có chúng sanh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc
người lớn kẻ nhỏ, vì người chết đó mà tu các công đức, cho đến thiết trai cúng
dường, làm những phước lành, thời người chết đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng
giải thoát chăng?'
3) Kẻ Còn, Người Mất Ðều
Ðược Lợi - Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát đáp rằng: 'Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng sanh trong hiện tại
này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Ðức Phật mà nói lược về việc
đó.
Này ông Trưởng Giả! Những
chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của
một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật,
thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả.
Như có người nam cùng
người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác,
sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu
tạo phước lợi làm tất cà việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người
chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo
tu tạo đó.
Bởi vì cớ trên đây, nên
những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi
đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.
Con quỉ dữ vô thường kia
không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước, trong bốn
mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở các ty sở để biện luận về nghiệp quả,
khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Trong lúc mà chưa biết
chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác
đạo.
Thần hồn người chết đó
khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng
cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho.
Qua khỏi bốn mươi chín
ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.
Người chết đó, nếu là kẻ
có tội thời trải qua trong nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.
Còn nếu là kẻ phạm năm
tội vô gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong
nghìn kiếp muôn kiếp.
Lại vầy nữa, này ông
Trưởng Giả! Sau khi những chúng sanh gây phạm tội nghiệp như thế mạng chung,
hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp thêm phước lành cho người chết đó.
Thời khi sắm sửa chưa
rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau v.v... đổ vãi ra nơi
đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dưng cúng cho Phật cùng Tăng thời chẳng được
ăn.
Nếu như ăn trái phép và
không được tinh sạch kỹ lưỡng, thời người chết đó trọn không được mảy phước nào
cả.
Nếu có thể kỹ lưỡng giữ
gìn tinh sạch đem dưng cúng cho Phật cùng Tăng, thời trong bảy phần công đức
người chết hưởng được một phần.
Nầy ông Trưởng Giả! Vì
thế nên những chúng sanh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người thân
quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường, chí tâm cầu khẩn thời những người
như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả'.
Lúc Ngài Ðịa-Tạng nói lời
này, tại cung trời Ðao Lợi có số nghìn muôn ức na-do-tha Quỉ Thần cõi
Diêm-Phù-Ðề, đều phát tâm Bồ-Ðề vô lượng.
Ông Trưởng Giả Ðại-Biện
vui mừng vâng lời dạy, làm lễ mà lui ra.
1) Diêm La Vương Cùng Quỉ
Vương Vân Tập - Lúc đó trong dãy
núi Thiết-Vi có vô lượng Quỉ-vương cùng với Vua Diêm La đồng lên cung trời Ðao
Lợi đến chỗ của Ðức Phật.
Các vị Quỉ-vương đó tên
là: Ác Ðộc Quỉ-vương, Ða Ác Quỉ-vương, Ðại Tránh Quỉ-vương, Bạch Hổ Quỉ-vương,
Huyết Hổ Quỉ-vương, Xích Hổ Quỉ-vương, Tán Ương Quỉ-vương, Phi Thân Quỉ-vương,
Ðiển Quang Quỉ-vương, Lang Nha Quỉ-vương, Ðạm Thú Quỉ-vương, Phụ Thạch
Quỉ-vương, Chủ Hao Quỉ-vương, Chủ Họa Quỉ-vương, Chủ Phước Quỉ-vương, Chủ Thực
Quỉ-vương, Chủ Tài Quỉ-vương, Chủ Súc Quỉ-vương, Chủ Cầm Quỉ-vương, Chủ Thú
Quỉ-vương, Chủ Mị Quỉ-vương, Chủ Sản Quỉ-vương, Chủ Mạng Quỉ-vương, Chủ Tật
Quỉ-vương, Chủ Hiểm Quỉ-vương, Tam Mục Quỉ-vương, Tứ Mục Quỉ-vương, Ngũ Mục
Quỉ-vương, Kỳ Lợi Thất Vương, Ðại Kỳ Lợi Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Ðại Kỳ Lợi
Xoa Vương, A Na Tra Vương, Ðại A Na Tra Vương.
Những vị Ðại Quỉ Vương
như thế v.v.... mỗi vị cùng với trăm nghìn Tiểu Quỉ Vương, cả thảy ở trong cõi
Diêm Phù Ðề, đều có trức trách, đều có phần chủ trị.
Các vị Quỉ Vương đó cùng
với Vua Diêm La nương sức oai thần của Ðức Phật và oai lực của Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát, đồng lên đến cung trời Ðao Lợi đứng qua một phía.
2) Vua Diêm La Bạch Phật - Bấy giờ Vua Diêm La quì gối chắp tay bạch
cùng Ðức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Nay
chúng con cùng các vị Quỉ Vương nương sức oai thần của Ðức Phật và oai lực của
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát mới được lên đến đại hội nơi cung trời Ðao Lợi này, mà
cũng là vì chúng con đặng phước lành vậy.
Nay chúng con có chút
việc nghi ngờ, dám bạch hỏi đức Thế-Tôn, cúi xin đức Thế-Tôn từ bi vì chúng con
mà chỉ dạy cho'.
Ðức Phật bảo Vua Diêm La
rằng: 'Cho phép ông hỏi, Ta sẽ vì ông mà dạy rõ'.
Bấy giờ, Vua Diêm La
chiêm ngưỡng đảnh lễ đức Thế-Tôn và ngó ngoái lại Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, rồi
bạch cùng Ðức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Con
xem xét Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát ở trong sáu đường dùng trăm nghìn phương chước để
cứu độ những chúng sanh mắc phải tội khổ, Ngài không từ mệt nhọc.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đây
có những sự thần thông không thể nghĩ bàn được như thế, nhưng sao hàng chúng
sanh vừa đặng thoát khỏi tội báo, không bao lâu lại phải bị đọa vào ác đạo nữa?
Bạch đức Thế-Tôn! Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát đã có thần lực chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng tại vì cớ sao
hàng chúng sanh chẳng chịu nương về đường lành để được giải thoát mãi mãi? Cúi
xin đức Thế-Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con'.
3) Phật Giảng Sở Nhơn - Ðức Phật bảo Vua Diêm La rằng: 'Chúng
sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề tánh tình cứng cỏi khó dạy khó sửa. Ngài
Ðịa-Tạng đại Bồ Tát đây trong trăm nghìn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh
đó làm cho sớm được giải thoát'.
Những người bị tội báo
cho đến bị đọa vào đường ác lớn, Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát dùng sức phương tiện nhổ
sạch cội gốc nghiệp duyên, mà làm cho chúng sanh đó nhớ biết những công việc ở
đời trước.
Tại vì chúng sanh trong
cõi Diêm Phù Ðề kết nghiệp dữ, phạm tội nặng, nên vừa ra khỏi ác đạo, rồi trở vào
lại, làm nhọc cho Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát phả trải qua nhiều số kiếp lo lắng để
cứu độ chúng nó.
Ví như có người quên mất
nhà mình, đi lạc vào con đường hiểm, trong con đường hiểm đó có rất nhiều thứ
Quỉ Dạ Xoa, cùng hùm sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.
Người quên đường đó ở
trong đường hiểm chừng giây lát nữa sẽ bị hại.
Có một vị tri thức hiểu
nhiều Pháp thuật lạ, có thể trừ sự độc hại đó, cho đến có thể trừ quỉ Dạ Xoa,
các loài rắn độc v.v.... chợt gặp người quên lạc đường kia đương muốn đi thẳng
vào con đường hiểm nạn, bèn vội bảo rằng:
'Ô hay! Này ông kia! Có
duyên sự gì mà vào con đường hiểm nạn này? Ông có Pháp thuật lạ gì có thể ngăn
trừ các sự độc hại chăng?'
Người lạc đường đó, bỗng
nghe lời hỏi trên mới rõ là đường hiểm nạn, bèn liền lui trở lại muốn ra khỏi
đường hiểm nạn đó.
Vị thiện tri thức ấy nắm
tay dìu dắt, dẫn người lạc lối đó ra ngoài đường hiểm nạn, khỏi các sự độc hại
đến nơi con đường tốt, làm cho được an ổn rồi bảo rằng:
'Nầy người lạc đường! Từ
nay về sau chớ có đi vào con đường hiểm nạn đó nữa, ai mà vào con đường hiểm
đó, ắt khó ra khỏi đặng, lại còn phải bị tổn tánh mạng'.
'Người lạc đường đó cũng
sanh lòng cảm trọng. Lúc từ biệt nhau, vị tri thức lại dặn thêm:
'Nếu ông có gặp kẻ quen
người thân cùng những người đi đường hoặc trai gái, thời ông bảo cho họ biết
con đường đó có rất nhiều sự độc hại, vào đó ắt phải tổn tánh mạng, chớ để cho
những người ấy tự vào chỗ chết!'.
Vì thế nên Ngài Ðịa-Tạng
Bồ Tát đủ đức từ bi lớn, cứu vớt chúng sanh mắc tội khổ muốn cho chúng nó sanh
lên cõi trời cõi người để hưởng lấy sự vui sướng tốt đẹp.
Những chúng sanh tội khổ
đó rõ biết sự khốn khổ trong con đường ác nghiệp rồi, khi đã được ra khỏi,
chẳng còn trở vào nữa.
Như người quên đường kia
lạc vào đường hiểm, gặp vị tri thức dẫn dắt cho ra khỏi không bao giờ còn lạc
vào nữa.
Gặp gỡ người khác lại bảo
chớ vào đường ấy, tự nói rằng mình là quên đường nên đi lạc vào đó, nay đặng
thoát khỏi rồi, trọn hẳn không còn trở vào đường đó nữa.
Nếu còn đi vào đường ấy
nữa, thời là còn mê lầm không biết đó là con đường hiểm nạn mà mình đã từng sa
lạc rồi, hoặc đến nỗi phải mất mạng.
Như chúng sanh bị đọa vào
chốn ác đạo, Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát dùng sức phươg tiện cứu vớt cho được thoát
khỏi, sanh vào cõi trời, rồi cũng vẫn trở vào ác đạo nữa.
Nếu chúng sanh đó kết
nghiệp quá nặng, thời ở mãi chốn địa ngục không lúc nào được thoát khỏi.
4) Quỉ Vương Bày Thiện
Nguyện - 'Bạch đức
Thế-Tôn! Chúng con là hàng Quỉ Vương số đông vô lượng, ở trong cõi Diêm Phù Ðề,
hoặc có vị làm lợi ích cho người, hoặc có vị làm tổn hại cho người mỗi mỗi đều
không đồng nhau.
Nhưng vì nghiệp báo khiến
quyến thuộc chúng con đi qua thế giới ác nhiều lành ít.
Ði qua sân nhà người,
hoặc thành ấp, xóm làng, trại vườn, buồng nhà, trong đó như có người trai kẻ
gái nào tu được chút phước lành bằng mảy lông sợi tóc, cho đến treo một lá
phan, một bảo cái, chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật cùng tượng Bồ
tát, hoặc đọc tụng Tôn-kinh, đốt hương cúng dường một bài kệ một câu kinh v.v...
Hàng Quỉ Vương chúng con
cung kính làm lễ người đó như kính lễ các Ðức Phật thuở quá khứ, đương hiện tại
cùng lúc vị lai.
Chúng con truyền các hàng
Tiểu Quỉ có oai lực lớn, và kẻ có phần chức trách về cuộc đất đai đó, đều phải
hỗ trợ giữ gìn, còn chẳng cho việc dữ cùng sự tai nạn bất kỳ, bịnh tật hiểm
nghèo thình lình, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ của các nhà đó,
huống là để vào cửa!'
Ðức Phật khen Quỉ Vương
rằng: 'Hay thay! Tốt thay! Các ông cùng với Vua Diêm La có thể ủng hộ kẻ thiện
nam người thiện nữ như thế! Ta cũng truyền cho các vị trời Phạm Vương, Ðế Thích
hộ vệ các ông'.
5) Chủ Mạng Trình Thưa - Khi Ðức Phật nói lời ấy xong, trong Pháp
hội có một vị Quỉ Vương tên là Chủ Mạng bạch cùng Ðức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Bổn
nghiệp duyên của con là cai quản về tuổi thọ của người trong cõi Diêm Phù Ðề,
khi sanh khi tử con đều coi biết đó, cứ theo nơi bổn nguyện của con thời có lợi
ích rất lớn cho mọi người.
Nhưng tại vì chúng sanh
không hiểu ý con nên đến đổi khi sanh khi tử đều không được an ổn. Tại làm sao
thế?
6) Khi Sanh Nở Nên Làm
Lành Kiêng Ác - Người trong cõi
Diêm Phù Ðề lúc mới sanh, không luận là con trai hay con gái, khi sắp sanh ra
chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thời Thổ Ðịa vui mừng
không xiết, ủng hộ cả mẹ lẫn con đều đặng nhiều sự an vui, hàng thân quyến cũng
được phước lợi.
Hoặc khi đã hạ sanh rồi,
nên cẩn thận chớ có giết hại sanh vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho
người sản mẫu ăn, cùng nhóm họp cả hàng quyến thuộc lại để uống rượu ăn thịt,
ca xang đờn sáo, nếu làm những việc trên đó có thể làm cho người mẹ đứa con
chẳng đặng an vui.
Vì sao thế? Vì lúc sanh
sản nguy hiểm đó có vô số loài quỉ dữ cùng ma quái tinh mị muốn ăn huyết tanh.
Nhờ có con sớm đã sai các
vị Thần Linh xá trạch Thổ Ðịa, bảo hộ mẹ con người ấy, làm cho được an vui mà
đặng nhiều lợi ích.
Người ấy thấy mình được
an ổn, thời đáng lẽ nên làm việc phước lành để đền đáp công ơn Thổ Ðịa, mà trái
lại giết hại loài sanh vật, hội họp thân quyến, vì lẽ này, đã phạm tội lỗi tất
phải tự thọ lấy tai vạ, mẹ con đều tổn.
7) Lúc Chết Nên Tu Phước - Lại người trong cõi Diêm Phù Ðề đến lúc
mạng chung, không luận là người lành hay kẻ dữ, con cũng đều muốn cho họ không
bị đọa lạc vào chốn ác đạo.
Huống gì là người lúc
sanh tiền biết tu tạo cội phước lành giúp thêm oai lực cho con.
Trong cõi Diêm Phù Ðề,
những người làm lành đến lúc mạng chung cũng còn có trăm nghìn quỉ thần ác đạo
hoặc biến ra hình cha mẹ, nhẫn đến hóa làm người thân quyến dắt dẫn thần hồn
người chết làm cho đọa lạc vào chốn ác đạo, huống chi là những kẻ lúc sanh tiền
đã sẵn tạo nghiệp ác.
Bạch đức Thế-Tôn! Những
kẻ nam tử nữ nhơn ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thời thần thức hôn mê không
biện được lẽ lành điều dữ, cho đến mắt cùng tai không còn thấy nghe gì hết.
Hàng thân quyến của người
lâm chung đó, nên phải sắm sửa làm sự cúng dường lớn, tụng đọc Tôn Kinh, niệm
danh hiệu của Phật và Bồ Tát, tu tạo nhơn duyên phúc lành như thế, có thể cho
người chết thoát khỏi chốn ác đạo, các thứ ma, quỉ, ác thần thảy đều phải lui
tan cả hết.
Bạch đức Thế-Tôn! 'Tất cả
chúng sanh lúc lâm chung nếu đặng nghe danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu
của một Bồ Tát, hoặc nghe một câu một bài kệ kinh điển đại thừa, con xem xét
thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián cùng tội sát hại, những nghiệp ác nho
nhỏ đáng lẽ phải sa vào chốn ác đạo, liền đặng thoát khỏi cả'.
8) Ðức Phật Căn Dặn - Ðức Phật bảo Chủ Mạng Quỉ Vương rằng:
'Ông vì có lòng đại từ nên có thể phát ra lời nguyện lớn ở trong sanh tử cứu hộ
chúng sanh như thế.
Như về trong đời sau này,
có kẻ nam người nữ nào đến lúc mạng chung, ông chớ quên lãng lời nguyện trên
đó, đều nên làm cho giải thoát mãi mãi được an vui'.
Chủ Mạng Quỉ Vương bạch
cùng Ðức Phật rằng: 'Xin đức Thế-Tôn chớ lo! Trọn đời của con luôn luôn ủng hộ
chúng sanh ở cõi Diêm Phù Ðề lúc sanh lúc tử đều làm cho được an vui cả.
Chỉ trông mong các chúng
sanh trong lúc sanh cùng lúc tử, tin theo lời của con đã nói trên thời đều giải
thoát đặng lợi ích lớn'.
9) Ðức Phật Thọ Ký Cho
Chủ Mạng - Bấy giờ Ðức Phật
bảo Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Vị đại Quỉ Vương cai quản về tuổi thọ của mọi
người đây đã từng trải quan trăm nghìn đời làm vị Quỉ Vương, ủng hộ chúng sanh
trong lúc sanh cùng khi tử.
Ðó là bực Bồ Tát Ðại Sĩ
vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân đại Quỉ chớ thiệt thời không phải Quỉ.
Quá một trăm bảy mươi
kiếp sau, ông đó sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp đó tên là An
Lạc. Cõi nước tên là Tịnh Trụ, thọ mạng của đức Phật đó đến số kiếp không thể
tính đếm được.
Này Ðịa-Tạng Bồ Tát!
Những sự của vị đại Quỉ Vương đó không thể nghĩ bàn như thế, hàng Trời cùng
người được vị ấy độ thoát cũng đến số không thể hạn lượng'.
Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! Nay con vì chúng sanh trong đời
sau mà phô bày sự lợi ích, làm cho trong vòng sanh tử đặng nhiều lợi ích lớn.
Cúi xin đức Thế-Tôn cho phép con nói đó'.
Ðức Phật bảo Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Nay ông muốn khởi lòng từ bi cứu vớt tất cả chúng sanh
mắc phải tội khổ trong sáu đường, mà diễn nói sự chẵng thể nghĩ bàn, bây giờ
chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.
Giả sử ông có thể sớm làm
xong nguyện đó, Ta dầu có vào Niết Bàn, cũng không còn phải lo ngại gì đến tất
cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai nữa'.
Ngài Ðịa-Tạng bạch cùng
Ðức Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! Vô lượng vô kiếp về thuở quá khứ, có Ðức Phật
ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe danh hiệu của Ðức Phật đây mà tạm lời sanh lòng cung kính, liền đặng
siêu việt tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp, huống là vẽ đắp hình tượng cúng
dường tán thán!
Người này được vô lượng
vô biên phước lợi.
Lại hằng hà sa kiếp về
thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Bửu Thắng Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, phát tâm quy y với Phật trong khoảng
khảy móng tay, người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh
giác.
Lại về thuở quá khứ, có
đức Phật ra đời hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai, người này sẽ được
một nghìn lần sanh lên sáu từng trời cõi dục, huống nữa là chí tâm xưng niệm!
Lại bất khả thuyết bất
khả thuyết vô số kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Sư Tử Hống Như
Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, mà phát tâm quy y chừng trong một
niệm, người này sẽ đặng gặp vô lượng các Ðức Phật xoa đảnh thọ ký cho.
Lại về thuở quá khứ, có
Ðức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, chí tâm chiêm ngưỡng lễ bái hoặc lại
tán thán, người này nơi pháp hội của một nghìn Ðức Phật trong hiền kiếp làm vị
đại Phạm Vương, đặng Phật thọ ký đạo vô thượng cho.
Lại về thuở quá khứ, có
Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi không còn sa đọa vào chốn ác
đạo, thường được sanh vào chốn trời người, hưởng lấy sự vui thù thắng vi diệu.
Lại vô lượng vô số hằng
hà sa kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ða Bửu Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, liền khỏi đọa vào ác đạo, thường ở tại
cung trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Lại về thuở quá khứ có
Ðức Phật ra đời hiệu Bửu Tướng Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, sanh lòng cung kính, không bao lâu
người ấy sẽ đặng quả A La Hán.
Lại vô lượng vô số kiếp
về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây, thời người ấy sẽ siêu thoát tội
sanh tử trong một trăm đại kiếp.
Lại về thuở quá khứ có
Ðức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai.
Như có người nam người nữ
nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, thời người này đặng gặp hằng hà chư
Phật nói nhiều pháp mầu cho, đều đặng thành đạo Bồ Ðề.
Lại về thuở quá khứ, có
đức Tịnh Nguyệt Phật, đức Sơn Vương Phật, đức Trí Thắng Phật, đức Tịnh Danh
Vương Phật, đức Trí Thành Tựu Phật, đức Vô Thượng Phật, đức Diệu Thinh Phật,
đức Mãn Nguyệt Phật, đức Nguyệt Diện Phật, có bất khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn
như thế.
Tất cả chúng sanh trong
thời hiện tại cùng thuở vị lai: hoặc là Trời, hoặc là người, hoặc người nam,
hoặc người nữ chỉ niệm được danh hiệu của một Ðức Phật thôi, sẽ được vô lưông
công đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu.
Những chúng sanh đó lúc
sanh lúc tử đặng nhiều phước lợi, không còn phải đọa vào ác đạo nữa.
Như có người nào sắp mạng
chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó
mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Ðức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội
lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.
Năm tội lớn vô gián kia
dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng
bởi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên
những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.
Huống là chúng sanh tự
mình xưng danh hiệu của chư Phật, người này đặng vô lượng phước lành, trừ diệt
vô lượng khổ.
Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện Quyển Trung Hết
Bổn hạnh Ðịa Tạng,
Thệ nguyện rộng sâu,
Gậy vàng châu sáng độ
chúng sanh,
Ðịa ngục khổ không ngằn,
Tinh tấn kiền thành,
Khỏi mắc khổ trầm luân.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương
Pháp. (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Bồ Tát
Ma-ha-Tát. (3 lần)
Lúc đó Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát ma-ha-tát nương oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp
tay bạch cùng đức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Con
xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có
người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến
hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.
Những sự ấy tại làm sao
thế? Cúi xin đức Thế-Tôn dạy cho'.
Bấy giờ Ðức Phật bảo Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Nay ta ở trong toàn thể chúng hội nơi cung trời Ðao Lợi
này giảng về sự so sánh công đức khinh trọng của việc bố thí ở Diêm Phù Ðề. Ông
phải lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói!'.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát bạch
cùng Ðức Phật rằng: 'Chính con nghi ngờ về việc ấy. Con xin ưa muốn nghe'.
Ðức Phật bảo Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát rằng: 'Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có các vị Quốc Vương, hàng Tể
Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, hàng đại Sát Ðế Lợi, hàng đại Bà La Môn
v.v...
Nếu gặp kẻ hết sức nghèo
túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng
người thân thể không được vẹn toàn như thế.
Lúc các vị Quốc Vương đó
v.v... muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình,
tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem
cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.
Các vị Quốc Vương, Ðại
Thần đó v.v... đặng phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm
hằng hà sa chư Phật vậy.
Tại làm sao? Chính bởi vị
Quốc Vương đó v.v... phát tâm đại từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với
những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng quả báo như thế này,
trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ
để thọ dùng như y phục đồ uống ăn v.v....
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, như có vị Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v... gặp
chùa tháp thờ Phật, hoặc hình tượng Phật, cho đến hình tượng Bồ Tát, Thanh Văn
hay Bích Chi Phật, đích thân tự sửa sang, cúng dường bố thí.
Vị Quốc Vương đó, sẽ đặng
trong ba kiếp làm vị trời Ðế Thích hưởng sự vui sướng tốt lạ.
Nếu có thể đem phước lành
bố thí đó mà hồi hướng cho tất cả chúng sanh trong pháp giới, thời vị Quốc
Vương đó, trong mười kiếp thường được làm vị trời Ðại Phạm Thiên Vương.
Lại thế này nữa, này
Ðịa-Tạng Bồ Tát! Trong đời sau, nếu có vị Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn
v.v... gặp chùa tháp của đức Phật thuở trước, hoặc là kinh điển hay hình tượng
bị hư sụp rách rã, liền có thể phát tâm tu bổ lại.
Vị Quốc Vương đó, hoặc tự
mình đích thân lo sửa sang, hoặc khuyến hóa người khác cho đến khuyến hóa trăm
nghìn người khác cùng chung bố thí cúng dường để kết duyên lành.
Vị Quốc Vương đó, trong
trăm nghìn đời thường làm Vua Chuyển Luân, còn những người khác chung cùng làm
việc bố thí đó, trong trăm nghìn đời thường làm vua nước nhỏ.
Nếu lại ở trước chùa tháp
có thể phát tâm đem công đức cúng dường bố thí đó mà hồi hướng về đạo vô thượng
chánh giác, được như vậy thời vị Quốc Vương đó cho đến tất cả mọi người đều sẽ
thành Phật cả, bởi quả báo ấy rộng lớn vô lượng vô biên.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, như có vị Quốc Vương hay hàng Bà La Môn, gặp những người
già yếu tật bịnh và kẻ phụ nữ sanh đẻ, nếu trong khoảng chừng một niệm sanh
lòng từ lớn đem thuốc men, cơm nước, giường chiếu bố thí, làm cho những kẻ ấy
được an vui.
Phước đức đó rất không
thể nghĩ bàn đến được, trong một trăm kiếp thường làm Vua Trời Tịnh Cư, trong
hai trăm kiếp thường làm Vua sáu từng trời cõi Dục, không bao giờ còn đọa vào
ác đạo, cho đến trong trăm nghìn đời, lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ, rốt
ráo sẽ thành Phật đạo.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! trong đời sau như có vị Quốc Vương và Bà La Môn, có thể làm những việc
bố thí như thế sẽ đặng vô lượng phước lành.
Nếu lại có thể đem phước
đức đó hồi hướng đạo Bồ Ðề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành
Phật cả, huống gì cả những quả trời Phạm Vương, trời Ðế Thích, Vua Chuyển Luân.
Nầy Ðịa-Tạng Bồ Tát, vì
thế nên khuyến hóa tất cả chúng sanh đều phải học theo như thế.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, như có thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong Phật pháp mà
gieo trồng chút ít cội phước lành chừng bằng cái lông, sợi tóc, hột cát, mảy
bụi, phước lợi của những người đó sẽ hưởng thọ không thể ví dụ thế nào cho
được.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam cùng người thiện nữ nào gặp hình
tượng Phật, hình tượng Bồ Tát, hình tượng Bích Chi Phật, hình tượng Vua Chuyển
Luân mà bố thí cúng dường, thời đặng vô lượng phước lành, thường sanh ở cõi
người, cõi trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Như có thể đem công đức
hồi hướng cho cả pháp giới chúng sanh thời phước lợi của người ấy không thể ví
dụ thế nào cho được.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp kinh điển đại
thừa hoặc nghe thấy một bài kệ, một câu kinh, rồi phát tâm ân cần trân trọng
cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, người ấy được quả báo lớn vô lượng vô
biên.
Nếu có thể đem phước đức
hồi hướng cho khắp pháp giới cho chúng sanh thời phước lợi này không thể ví dụ
thế nào cho được.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp chùa tháp và
kinh điển đại thừa, nếu là kinh tháp mới thời bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng
lễ lạy ngợi khen chắp tay cung kính.
Nếu gặp kinh tháp cũ,
hoặc hư rách thời sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm làm, hoặc khuyến
người khác cùng đồng phát tâm.
Những người đồng phát tâm
đây, trong ba mươi đời thường làm vua các nước nhỏ. Còn vị đàn việt chánh đó
thường làm Vua Chuyển Luân, lại dùng pháp lành mà giáo hóa vua các nước nhỏ.
Lại vầy nữa Ðịa-Tạng Bồ
Tát! Trong đời sau, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở nơi cội phước lành
đã gieo trồng trong Phật pháp, hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa
tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một sợi lông, một mảy bụi,
một hột cát, một giọt nước.
Những sự lành như thế
không luận nhiều ít, chỉ có thể đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh,
thời công đức của người đó trong nghìn đời thường hưởng thọ sự vui thượng diệu.
Còn như chỉ hồi hướng cho
thân quyến trong nhà hoặc tự mình được lợi ích thôi, như thế thời sẽ hưởng quả
vui trong ba đời, cứ làm một phần sự lành, thời được hưởng báo tốt một muôn lần
trội hơn.
Này Ðịa-Tạng Bồ Tát!
Những nhơn duyên công đức về sự bố thí như thế đó.
Lúc đó vị Kiên Lao Ðịa
Thần bạch cùng Ðức Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! Từ trước đến nay, con từng
chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng vị đại Bồ Tát, đều là những bực trí huệ thần
thông lớn không thể nghĩ bàn độ khắp mọi loài chúng sanh.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đây
so với các vị Bồ Tát chỗ thệ nguyện rất là sâu rộng.
Bạch đức Thế-Tôn! Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát đây có nhơn duyên lớn với chúng sanh trong Diêm Phù Ðề.
Như Ngài Văn Thù, Ngài
Phổ Hiền, Ngài Quan Âm, Ngài Di Lặc cũng hóa hiện trăm nghìn thân hình để độ
chúng sanh trong sáu đường, nhưng chỗ phát nguyện của các Ngài còn có lúc hoàn
mãn.
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đây
phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong sáu đường trải đến kiếp số như
số cát trong trăm nghìn ức sông Hằng.
Bạch đức Thế-Tôn! Con xem
xét chúng sanh ở hiện tại nay và về vị lai sau, nơi chỗ sạch sẽ ở phương nam
trong cuộc đất của mình ở, dùng đất đá tre gỗ mà dựng cất cái khám cái thất.
Trong đó có thể họa vẽ,
cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc nắn hình tượng Ðịa-Tạng Bồ Tát, đốt hương
cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thời chỗ người đó ở được mười điều lợi ích.
Những gì là mười điều?
Một là đất cát tốt mầu,
Hai là nhà cửa an ổn mãi
mãi,
Ba là người đã chết được
sanh lên cõi trời,
Bốn là những người hiện
còn hưởng sự lợi ích,
Năm là cầu chi cũng toại
ý cả,
Sáu là không có tai họa
về nước và lửa,
Bẩy là trừ sạch việc hư
hao,
Tám là dứt hẳn ác mộng,
Chín là khi ra lúc vào có
thần theo hộ vệ,
Mười là thường gặp bực
Thánh Nhơn.
Bạch đức Thế-Tôn! Chúng
sanh trong đời sau cùng hiện tại nay, nếu ở nơi phần đất của mình cư trụ mà có
thể làm ra sự cúng dường Ngài Ðịa-Tạng như thế, thời được sự lợi ích như vậy'.
Vị Kiên Lao Ðịa Thần lại
bạch với đức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Trong
đời sau này, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong chỗ của mình cư trụ
mà có kinh điển này cùng hình tượng của đức Ðịa-Tạng Bồ Tát, người đó lại có
thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng của Bồ Tát.
Thời con dùng thần lực
của con thường hộ vệ người đó, cho đến tất cả sự tai họa như nước, lửa, trộm,
cướp, nạn lớn, nạn nhỏ, v.v... thảy đều tiêu sạch'.
Ðức Phật bảo Kiên Lao Ðịa
Thần rằng: 'Thần lực rộng lớn của ông, các thần khác ít ai bằng.
Vì cớ sao? Vì đất đai
trong cõi Diêm Phù Ðề đều nhờ ông hộ trợ, cho đến cỏ cây, cát đá, lúa mè, tre
lau, gạo thóc, của báu, tất cả những thứ từ đất mà có ra đều nhờ nơi sức thần
của ông cả.
Nay ông lại tuyên bày
những sự lợi ích của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, thời công đức và thần thông của ông
lại càng thêm trăm nghìn lần trội hơn lúc thường.
Này Ðịa Thần! Trong đời
sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào cúng dường Ðịa-Tạng Bồ Tát cùng đọc
tụng kinh điển này, chỉ có thể tu hành theo một việc mà trong kinh 'Ðịa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện' đã dạy.
Thời ông nên dùng thần
lực của ông mà ủng hộ người đó, chớ để tất cả sự tai hại cùng sự không vừa ý
đến nghe nơi tai, huống nữa là để cho phải chịu.
Chẳng phải chỉ riêng mình
ông hộ trì người đó, cũng có hàng quyến thuộc của Phạm Vương, Ðế Thích, quyến
thuộc của chư Thiên ủng hộ người đó.
Tại sao lại đặng các vị
Hiền Thánh ủng hộ như thế?
Ðều do vì những người ấy
chiêm lễ hình tượng của Ðịa-Tạng Bồ Tát và đọc tụng kinh 'Bổn Nguyện' này, tự
nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ chứng đạo Niết Bàn an vui, vì thế nên đặng
ủng hộ một cách lớn lao như thế'.
1) ÐỨC PHẬT PHÓNG QUANG
TUYÊN CÁO.- Lúc đó, từ trên đảnh môn đức Thế-Tôn phóng ra cả trăm nghìn muôn ức
tia sáng lớn.
Như là: tia sáng sắc trắng,
tia sáng sắc trắng lớn, tia sáng lành tốt, tia sáng ngọc, tia sáng ngọc lớn,
tia sáng sắc tía, tia sáng sắc tía lớn, tia sáng sắc xanh, tia sáng sắc xanh
lớn, tia sáng sắc biếc, tia sáng sắc biếc lớn, tia sáng sắc hồng, tia sáng sắc
hồng lớn, tia sáng màu lục, tia sáng màu lục lớn, tia sáng màu vàng y, tia sáng
màu vàng y lớn, tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn, tia sáng
tướng nghìn vòng tròn, tia sáng tướng nghìn vòng tròn lớn, tia sáng vòng tròn
báu, tia sáng vòng tròn báu lớn, tia sáng vừng mặt trời, tia sáng vừng mặt trời
lớn, tia sáng vừng mặt trăng, tia sáng vừng mặt trăng lớn, tia sáng tướng cung
điện, tia sáng tướng cung điện lớn, tia sáng tướng mây biển, tia sáng tướng mây
biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra
những luồng ánh sáng như thế xong, lại nói ra những tiếng rất vi diệu mà bảo
đại chúng rằng:
'Này tám bộ chúng Trời,
Rồng, người cùng phi nhơn v.v...! Lóng nghe hôm nay ta ở tại cung trời Ðao Lợi
tuyên bày ngợi khen những sự lợi ích trong hàng trời người, những sự không thể
nghĩ bàn, những sự về nhơn hạnh lên bực Thánh, những sự chứng quả Thập Ðịa,
những sự rốt ráo không lui sụt nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác... của
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát'.
2) QUÁN THẾ ÂM CẦU
THỈNH.- Lúc Ðức Phật nói lời trên đó vừa dứt tiếng, trong Pháp-hội có một vị
đại Bồ Tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay mà bạch
cùng Ðức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát đầy đủ đức từ bi lớn, Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ ở
trong muôn nghìn ức thế giới, ngài hóa hiện ra ức thân bao nhiêu công đức và
sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Ngài, con đã từng nghe đức Thế-Tôn cùng vô
lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời ngợi khen Ngài Ðịa-Tạng
Bồ Tát.
Dầu cho các Ðức Phật
trong thuở quá khứ, thuở hiện tại và thuở vị lai nói công đức của Ngài Ðịa-Tạng
Bồ Tát vẫn chẳng thể nói hết.
Vừa rồi lại được đức
Thế-Tôn bảo khắp trong đại chúng rằng đức Phật muốn tuyên nói các sự lợi ích
của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Cúi mong đức Thế-Tôn vì
tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn
của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, làm cho tám bộ chúng Trời, Rồng,v.v...chiêm ngưỡng lễ
lạy Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát để đặng phước lành'.
3) ÐỨC PHẬT TÁN THÁN VÀ
HỨA KHẢ.- Ðức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: 'Ông có nhơn duyên rất lớn với
chúng sanh trong cõi Ta Bà. Những hàng Trời, Rồng, hoặc Quỉ, cho đến chúng sanh
mắc phải tội khổ trong sáu đường nếu kẻ nào nghe danh hiệu của ông, thấy hình
tượng của ông, hay mến tưởng đến ông cùng khen ngợi ông.
Thời những chúng sanh ấy
đều ở nơi đạo vô thượng chánh giác quyết chẳng còn thối chuyển, thường được
sanh vào cõi người, cõi trời hưởng đủ sự vui vi diệu, khi nhơn quả sắp thành
thục liền được Phật thọ ký cho.
Nay ông sẵn lòng từ bi
lớn thương xót các loài chúng sanh và tám bộ chúng Trời, Rồng, v.v... mà muốn
nghe ta nói những sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Ông nên lóng nghe cho kỹ,
nay ta sẽ nói đó!'
Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát
bạch rằng: 'Vâng! Bạch đức Thế-Tôn con xin ưa muốn nghe.'
4) THẤY NGHE THÊM PHƯỚC
TRỜI.- Ðức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: 'Trong các thế giới về thuở hiện
tại nay và vị lai sau, có vị trời nào, hưởng phước trời đã mãn, năm tướng suy
hao hiện ra nơi thân, hoặc có kẻ phải đọa lạc vào nơi chốn ác đạo.
Các vị trời đó, hoặc nam
hoặc nữ đương lúc tướng suy hao hiện, hoặc thấy hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát, hoặc nghe tên Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh
lễ.
Thời các vị trời đó càng
thêm lớn phước trời, hưởng sự vui sướng rất nhiều không bao giờ còn phải bị đọa
lạc vào ba ác đạo nữa.
Huống chi là những người
thấy hình tượng Bồ Tát, nghe danh hiệu Bồ Tát rồi đem các thứ hương hoa, đồ y
phục, đồ uống ăn, vật báu, chuỗi ngọc... mà bố thí cúng dường, thời người này
đặng vô lượng vô biên công đức phước lợi.
5) NGƯỜI BỊNH ÐƯỢC LỢI -
Lại vầy nữa này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai
sau, những hàng chúng sanh trong sáu đường, như có kẻ sắp mạng chung mà đặng
nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát thoáng qua lỗ tai, thì kẻ
mạng chung đó không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo.
Huống chi là lúc sắp mạng
chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà cửa, vật báu, y phục v.v...
của người sắp mạng chung đó mà làm của chi phí để tô đắp hay họa vẽ hình tượng
của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Rồi làm cho người bịnh
lúc chưa chết, hoặc mắt thấy tai nghe biết rằng hàng thân quyến đem nhà cửa vật
báu v.v... vì mình mà tô vẽ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Người bịnh đó nếu có
nghiệp báo phải mang lấy bịnh nặng, thời nhờ công đức này liền được lành mạnh,
tuổi thọ thêm lâu.
Còn nếu người bịnh đó có
nghiệp báo số mạng đã hết, lại có đủ tất cả tội chướng nghiệp chướng đáng lẽ
phải đọa vào chốn ác đạo, song vì nhờ công đức này nên sau khi mạng chung, liền
được sanh vào cõi trời, cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu, tất cả tội
chướng thảy đều tiêu sạch.
6) TIÊN VONG ÐƯƠC PHƯỚC.-
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ Tát! Về đời sau, nếu có kẻ nam tử, người nữ
nhơn nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, hoặc lúc lên năm tuổi,
mười tuổi trở xuống mà chết mất anh chị em.
Ðến khi người đó khôn lớn
nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng thân quyến không rõ đọa lạc vào chốn nào, hay
sanh về thế giới nào, hoặc sanh lên cõi trời nào?
Người đó như có thể tô vẽ
hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, nhẫn đến nghe danh hiệu của Ngài rồi một
lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, từ một ngày cho đến bảy ngày đừng thối thất
tâm ban đầu, nghe danh hiệu thấy hình tượng chiêm lễ cúng dường.
Thời quyến thuộc đã sớm
khuất của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào ác đạo tính ra phải chịu đến
số kiếp, nay nhờ công đức tô vẽ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát và chiêm lễ
cúng dường của con cái, hay của anh em chị em, nên liền đặng giải thoát, được
sanh lên cõi trời cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu.
Còn như quyến thuộc đã
sớm khuất của người đó có phước lành, đã được sanh lên cõi trời cõi người hưởng
thọ quả vui thù thắng vi diệu rồi, thời nhờ công đức này càng thêm lớn nghiệp
nhơn về bực Thánh, hưởng vô lượng quả vui.
Như người đó lại có thể
trong hai mươi mốt ngày, chuyên lòng chiêm lễ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát và niệm lấy danh hiệu của Ngài đủ số một muôn biến, sẽ đặng Ðịa-Tạng Bồ Tát
hiện vô biên thân, mách cho người đó rõ nơi cõi của hàng thân quyến sớm khuất
kia đã sanh về.
Hoặc trong giấc mộng,
Ðịa-Tạng Bồ Tát hiện sức thần thông lớn, tự dắt người đó đến các thế giới thấy
hàng quyến thuộc.
Nếu người đó lại có thể
trong mỗi ngày niệm danh hiệu của Bồ Tát một nghìn biến luôn đến một nghìn
ngày.
Thời người đó sẽ được Bồ
Tát sai các vị Quỉ Thần ở tại chỗ đó hộ vệ trọn đời, hiện đời món ăn đồ mặc dư
dật, không có các thứ bịnh khổ, cho đến các sự tai vạ còn không hề vào đến cửa,
huống nữa là đến nơi thân.
Rốt ráo rồi người đó được
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát xoa đảnh thọ ký cho.
7) NGUYỆN LỚN SỚM THÀNH.-
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ Tát! Về đời sau, như có kẻ thiện nam người
thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu
đạo vô lượng chánh giác, muốn thoát khỏi tam giới.
Những người đó thấy hình
tượng và nghe danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, rồi chí tâm quy y hoặc đem
hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn uống, v.v... để cúng dường chiêm ngưỡng đảnh
lễ thời chỗ nguyện cầu của kẻ thiện nam cùng thiện nữ đó mau được thành tựu
không bao giờ bị chướng ngại.
Lại vầy nữa, này Quán Thế
Âm Bồ Tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, muốn cầu
trăm nghìn muôn ức điều nguyện trăm nghìn muôn ức sự về hiện tại cùng vị lai,
thời chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Ðược như thế thời nguyện
những chi và cầu những chi thảy đều thành tựu cả.
Lại cầu mong Ðịa-Tạng Bồ Tát,
vận đức từ bi rộng lớn ủng hộ mãi cho, người đó trong giấc chiêm bao liền đặng
Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát xoa đảnh thọ ký.
8) ÐƯƠC TRÍ HUỆ.- Lại vầy
nữa này Quán Thế Âm Bồ Tát! Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ
nào sanh lòng rất trân trọng đối với kinh điển đại thừa, phát tâm bất tư nghị
muốn đọc muốn tụng kinh điển ấy.
Dầu gặp đặng bực minh sư
truyền dạy cho những người đó học tập, nhưng đọc rồi quên rồi, trải đến cả
tháng cả năm vẫn không đọc tụng được.
Những kẻ thiện nam đó vì
có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên ở nơi kinh điển đại thừa
không có công năng đọc tụng.
Nhưng hạng người này khi
nghe danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, đem hết bổn tâm cung kính bày tỏ với
Bồ Tát, rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn, tất cả đồ ngọa cụ, v.v... cúng dường
hình tượng Bồ Tát.
Dùng một chén nước trong
để trước tượng Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó cung kính chắp tay thỉnh để
uống, xây mặt về hướng nam.
Khi nước vào miệng phải
chí tâm trịnh trọng, uống nước xong, phải cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng
ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày.
Người thiện nam cùng
thiện nữ đó trong giấc chiêm bao thấy Ðịa-Tạng Bồ Tát hiện thân vô biên rưới
nước trên đảnh của người đó.
Sau khi thức dậy, người
đó liền đặng thông minh, một phen nghe đến những kinh điển đại thừa ấy liền sẽ
nhớ mãi, không bao giờ còn quên một câu kệ nữa.
9) TAI NẠN TIÊU TRỪ.- Lại
vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ Tát! Về trong đời sau, như có những người nào ăn
mặc không đủ, cầu chi cũng không toại nguyện, hoặc thân nhiều tật bịnh, hoặc
nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc chia lìa, hoặc các sự tai
vạ cứ đến khuấy nhiễu nơi thân luôn, trong giấc mộng thường phải kinh sợ.
Những người như thế đó,
khi nghe danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, thấy hình tượng của Ðịa-Tạng Bồ
Tát nên chí tâm cung kính niệm đủ một muôn biến, thời những sự không toại ý
trên đó sẽ tiêu sạch lần lần, liền đặng an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong
giấc mộng thẩy đều an ổn vui vẻ.
10) KHỎI HIỂM NGUY.- Lại
vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ Tát! Về đời sau, nếu có người thiện nam thiện nữ
nào, hoặc nhơn sự làm ăn, hoặc nhơn sự công chuyện tư, hoặc nhơn sự sanh cùng
tử, hoặc nhơn việc gấp mà phải vào trong rừng núi, hay là qua sông vượt biển
hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm trở.
Người ấy trước khi đi nên
niệm danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát một muôn biến, được thế thời đi qua nơi
nào chốn nào cũng có các vị Quỉ Thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được
an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói sư tử... nhưng tất cả thứ độc
hại đều không thể phạm đến người đó được.
Ðức Phật bảo Ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát: 'Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát có nhơn duyên rất lớn với cõi Diêm Phù Ðề.
Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh thấy hình nghe tên của Ngài Ðịa-Tạng
Bồ Tát được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm nghìn kiếp cũng không biết
được.
Này Quán Thế Âm Bồ Tát!
Vì thế Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền kinh này làm cho chúng sanh trong
cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những sự an vui luôn'.
Bấy giờ đức Thế-Tôn liền
nói kệ rằng:
- Ta xem Ðịa-Tạng sức oai
thần
Kiếp số Hằng-sa khó tỏ
trần,
Thấy nghe một niệm chiêm
ngưỡng lễ,
Trời, người lợi ích sự
không ngằn,
- Hoặc Rồng hoặc Thần
cùng nam - nữ
Báo tận sẽ sa vào đường
dữ,
Chí tâm qui mạng Ðại Sĩ
thân,
Tuổi thọ thêm nhiều trừ
tội dữ.
Trẻ thơ chết mất mẹ cùng
cha,
Huynh đệ chị em kẻ ruột
rà,
Lớn khôn nghĩ đến đều
không biết,
Nẻo dữ đường lành ở đâu
là?
Hoặc vẽ, hoặc tô Ðại Sĩ
hình
Cảm thương chiêm lễ biệt
chẳng đành,
Hăm mốt ngày luôn niệm
danh hiệu.
Bồ-tát hiện thân đến bên
mình:
Chỉ rành quyến thuộc ở
nơi nào,
Dầu sa ác thú cũng ra
mau,
Nếu được không lui lòng
kính ngưỡng,
Thánh ký, Bồ-tát vuốt đầu
trao.
Bồ-đề vô thượng muốn tu
hành,
Mong ra ba cõi khỏi tử
sinh,
Người này đã phát lòng bi
lớn
Trước nên chiêm lễ Ðại Sĩ
hình.
Nghe tên quy y đấng trọn
lành,
Cúng dường cung kính phát
lòng thành,
Nghiệp chướng chẳng hề
ngăn chướng đặng
Bao nhiêu mong ước sớm
viên thành.
Có kẻ phát tâm tụng kinh
sách
Muốn độ chúng sanh khỏi
tai ách
Dầu lập nguyện lớn chẳng
nghĩ bàn
Ðọc rồi quên rồi luôn sót
mất.
Người này nghiệp chướng
nó làm mê
Học đại thừa kinh khó mọi
bề
Y phục, uống ăn, các ngọa
cụ,
Cúng dường Ðịa-Tạng với
hương hoa.
Dùng chén nước trong bày
trước tượng,
Cách một ngày đêm bưng
lấy uống,
Sanh lòng ân trọng cữ ngũ
tân
Rượu thịt, tà dâm cùng
dối luống.
Trong hăm mốt ngày chớ
sát sanh,
Chuyên lòng tưởng niệm
Thượng Nhơn danh,
Chiêm bao thấy rõ
Tôn-dung hiện,
Thức rồi, liền đặng trí
khôn lanh.
Ðại Thừa kinh giáo nghe
qua tai,
Nghìn vạn đời sau nhớ
chẳng sai,
Chính nhờ Ðại Sĩ oai thần
lớn
Thầm giúp người kia có
huệ tài.
Chúng sanh nghèo khổ lại
ốm đau,
Cửa nhà họa hoạn, người
lìa nhau
Ngủ mê mộng mị không an
giấc,
Cầu muốn hỏng hư chẳng
được nào!
Dốc lòng chiêm lễ
Ðịa-Tạng Ngài,
Bao nhiêu việc ác thảy
tiêu ngay
Nhẫn đến chiêm bao đều an
cả,
Quỉ Thần phò hộ, của dư
xài.
Muốn qua sông biển, đến
núi rừng,
Cầm thú độc nguy, giặc
đón đường,
Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió
dữ,
Nhiều nỗi gian nan khốn
không lường,
Sắp sửa ra đi đối trước
tượng
Cúng dường kính lễ cùng
chiêm ngưỡng.
Núi rừng biển cả có vào
trong
Ác tai tiêu sạch thường
an sướng.
Quán Âm lóng nghe ta nói
rõ
Ðịa-Tạng vô lượng oai
thần đó,
Trăm nghìn muôn kiếp
thuật chẳng rồi,
Rộng tuyên Ðại Sĩ đầy sức
nọ!
Như người nghe đến
Ðịa-Tạng danh,
Thấy hình chiêm lễ hết
lòng thành,
Hương hoa, ăn uống, dưng
y phục,
Trăm nghìn báo đẹp hưởng
điều lành.
Nếu hay đem công hồi pháp
giới,
Rốt ráo thành Phật, sanh
tử khỏi,
Quán Âm nên biết gắng
tuyên bày,
Truyền khắp Hằng-sa nhiều
nước cõi!
1) ÐỨC PHẬT GIÁO PHÓ.-
Lúc đó đức Thế-Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Ngài Ðịa-Tạng đại Bồ Tát mà
bảo rằng:
'Ðịa-Tạng! Ðịa-Tạng! Thần
lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ
của ông không thể nghĩ bàn.
Dầu cho các Ðức Phật ở
mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của ông trăm nghìn
muôn kiếp cũng chẳng hết đặng.
Này Ðịa-Tạng! Ðịa-Tạng!
Ông nên nhớ hôm nay ta ở trong cung trời Ðao Lợi, nơi pháp hội lớn có trăm
nghìn muôn ức bất khả thuyết, bất khả thuyết tất cả các đức Phật, các vị Bồ
Tát, các hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng đây, một lần nữa đem các hàng chúng sanh,
những kẻ ở trong nhà lửa chưa ra khỏi ba cõi, mà giao phó cho ông.
Ông chớ để các chúng sanh
đó phải bị đọa vào các ác đạo dầu là chừng một ngày, một đêm, huống chi lại để
cho chúng nó phải bị đọa lạc vào địa ngục ngũ vô gián cùng địa ngục A Tỳ, mãi
đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào ra khỏi ư.
Này Ðịa-Tạng! Tâm tánh
của chúng sanh cõi Diêm Phù Ðề không định, phần đông đều quen theo thói ác,
thoảng hoặc có người phát tâm lành, nhưng rồi không bao lâu liền thối thất, còn
như duyên ác lại luôn luôn tăng trưởng.
Cũng vì lẽ đó, nên ta
phải chia thân này ra trăm nghìn ức để hóa độ, thuận theo căn tánh của chúng nó
hầu làm cho chúng nó được giải thoát.
Này Ðịa-Tạng! Hôm nay ta
ân cần đem chúng Trời, Người giao phó cho ông.
Trong đời sau, như có
hàng Trời, Người cùng thiện nam, thiện nữ nào trồng chút ít căn lành ở trong
Phập-pháp, chừng bằng sợi lông, mảy trần, hột cát, giọt nước, thời ông nên dùng
đạo lực của ông ủng hộ người đó, làm cho người đó tu tập lần lần đạo hạnh vô
thượng, chớ để họ thối thất.
Lại vầy nữa, này Ðịa-Tạng
Bồ Tát! Trong đời sau, hoặc có trời hay người nào phải theo nghiệp mà thọ báo
bị đọa vào chốn ác đạo, đến khi bị đọa vào ác đạo vừa bước đến cửa địa ngục,
những chúng sanh đó nếu có thể niệm đặng danh hiệu của đức Phật, hay danh hiệu
của một vị Bồ Tát, cùng một câu kệ kinh điển đại thừa.
Ông nên dùng thần lực của
ông tìm phương chước cứu vớt các chúng sanh đó, ông nên hiện thân ra trước kẻ
đó, phá tan địa ngục làm cho họ được sanh lên cõi trời hưởng những sự vui vi
diệu thù thắng'.
Bấy giờ đức Thế-Tôn liền
nói kệ rằng:
Ðời nay đời sau chúng
Thiên, Nhơn
Nay ta ân cần dặn bảo
ông;
Dùng đại thần thông quyền
độ họ,
Ðừng cho ác đạo đọa vào
trong.
2) BỒ TÁT TUÂN CHỈ.- Bấy
giờ Ngài Ðịa-Tạng đại Bồ Tát quỳ gối chắp tay bạch cùng Ðức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Cúi
xin đức Thế-Tôn chớ lo.
Trong đời sau, nếu có
người thiện nam cùng kẻ nữ nào, đối với trong Phật-pháp có một niệm cung kính,
con cũng dùng trăm nghìn phương tiện độ thoát người đó, làm cho mau đặng giải
thoát trong đường sanh tử, huống nữa là nghe các việc lành rồi luôn luôn tu
hành, tự nhiên ở nơi đạo vô thượng không bao giờ còn thối chuyển'.
3) HƯ KHÔNG TẠNG BẠCH
HỎI.- Lúc Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát bạch lời nói trên đó vừa xong, trong pháp hội có
một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng đức Phật rằng:
'Bạch đức Thế-Tôn! Từ khi
con đến cung trời Ðao Lợi này nghe đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không
thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Trong đời sau, hoặc có
người thiện nam cùng thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng Trời, Rồng v.v... nghe
kinh điền này và nghe danh tự của Ðịa-Tạng Bồ Tát, cùng với chiêm lễ hình tượng
Ðịa-Tạng Bồ Tát, thời những kẻ ấy được bao nhiêu điều phước lợi?
Cúi mong đức Thế-Tôn vì
tất cả hàng chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà nói lược việc ấy cho'.
4) HAI MƯƠI TÁM ÐIỀU LỢI-
Ðức Phật bảo Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát: 'Lóng nghe! lóng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì
ông mà nói rõ việc ấy cho.
Trong đời sau, người
thiện nam cùng thiện nữ nào thấy hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát và nghe
kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đồ ăn món uống, y phục, vật báu mà
bố thí cúng dường ngợi khen chiêm lễ thời kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi sau
đây:
1.- Các hàng Trời, Rồng
thường hộ niệm.
2.- Quả lành càng ngày
càng thêm lớn.
3.- Chứa nhóm nhơn vô
thượng của Thánh.
4.- Mãi không còn thối
thất đạo Bồ Ðề.
5.- Ðồ mặc món ăn dồi dào
đầy đủ.
6.- Những bịnh tật không
đến nơi thân.
7.- Khỏi những tai nạn về
lửa và nước.
8.- Không có bị hại vì
trộm cướp.
9.- Người khác thấy đến
sanh lòng cung kính.
10.- Các hàng Quỉ Thần
theo hộ trì.
11.- Ðời sau thân gái sẽ
chuyển thành thân trai.
12.- Ðời sau sẽ làm con
gái các hàng Vương Giả, Ðại Thần.
13.- Thân tướng xinh đẹp.
14.- Phần nhiều được sanh
về cõi trời.
15.- Hoặc làm bực vua
chúa.
16.- Có trí sáng biết rõ
việc trong những đời trước.
17.- Có mong cầu chi cũng
được toại ý.
18.- Quyến thuộc an vui.
19.- Các tai vạ bất ngờ
đều dứt sạch.
20.- Các nghiệp về ác đạo
đều trừ hẳn.
21.- Ði đến đâu cũng đều
không bị sự trở ngại.
22.- Ðêm nằm chiêm bao an
ổn vui vẻ.
23.- Những người thân tộc
đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ.
24.- Nếu về đời trước có
phước thời được thọ sanh về cõi vui sướng.
25.- Các bực Thánh ngợi
khen.
26.- Căn tánh lanh lợi
thông minh.
27.- Giàu lòng từ mẫn.
28.- Rốt ráo thành Phật.
5) BẨY ÐIỀU LỢI - Lại vầy
nữa, nầy Hư Không Tạng Bồ Tát! Như hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở hiện tại và vị
lai nghe danh hiệu của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát, đảnh lễ hình tượng của Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát, hoặc nghe các sự về bổn nguyện tu hành của Ngài Ðịa-Tạng Bồ
Tát mà ngợi khen chiêm lễ, thời sẽ đặng bảy điều lợi ích:
1.- Mau chứng bực Thánh.
2.- Nghiệp ác tiêu diệt.
3.- Chư Phật đến ủng hộ.
4.- Không thối thất Bồ
Ðề.
5.- Bổn lực được tăng
trưởng.
6.- Việc đời trước đều rõ
biết.
7.- Rốt ráo thành Phật'.
6) ÐẠI HỘI TÁN THÁN.- Bấy
giờ, bất khả thuyết tất cả các Ðức Phật và đại Bồ Tát cùng tám bộ chúng Trời,
Rồng ... ở mười phương đến dự Pháp-hội đó, nghe đức Thích Ca Mâu Ni Phật ngợi
khen tuyên bày sức oai thần lớn chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát,
đều khen là việc chưa từng có.
Lúc đó trời Ðao Lợi rưới
vô lượng hương hoa, thiên y, chuỗi ngọc để cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật
và Ðịa-Tạng Bồ Tát xong rồi, tất cả đại chúng trong pháp hội đều lại chiêm lễ
chắp tay mà lui ra.
KINH ÐIA TẠNG BỒ TÁT BỔN
NGUYỆN QUYỂN HẠ HẾT
PHẨM HỒI HƯỚNG
MA-HA BÁT-NHÃ
BA-LA-MẬT-ÐA TÂM KINH
Quán-Tự-Tại Bồ-tát hành
thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ
ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị
không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng,
hành, thức diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư pháp
không tướng : bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị
cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý, vô sắc, thinh hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô
ý-thức-giới; vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử
tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-Ðề-Tát-Ðỏa
y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.
Tam thế chư Phật y
Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã
ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng
chú, năng trừ nhứt-thế khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa
chú. Tức thuyết chú viết : Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la tăng-yết-đế,
bồ-đề tát-bà-ha.
BẠT NHỨT-THẾ
NGHIỆP-CHƯỚNG
CĂN-BỔN ÐẮC SANH TINH ÐÔ
ÐÀ-LA-NI
Nam-mô a di đa bà dạ. Ða
tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ, A di
rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ,
ta bà ha.
(7 lần)
A-Di-Ðà Phật thân kim
sắc,
Tướng hảo quang minh vô
đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ
Tu-Di,
Cám mục trừng thanh tứ
đại hải,
Quang trung hóa Phật
vô-số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc
vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ
chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng
bỉ ngạn.
Nam-mô Tây-phương
Cực-Lạc thế-giới, đại-từ, đại-bi A-Di-Ðà Phật.
Nam-mô A-Di-Ðà Phật.
(108 lần)
Nam-mô Quán-Thế-Âm
Bồ-Tát (10 lần)
Nam-mô Ðại-Thế-Chí
Bồ-Tát (10 lần)
Nam-mô Ðịa-Tạng-Vương
Bồ-Tát. (10 lần)
Nam-mô Thanh-Tịnh
Ðại-Hải-Chúng Bồ-Tát. (10 lần)
SÁM THẬP PHƯƠNG
A. Thập phương tam thế
Phật
A-Di-Ðà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai đức vô cùng cực
Ngã kim đại quy y
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật
nhơn
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương
cảnh
Phân minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn
Ðồng sanh Cực-Lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật độ nhứt-thiết.
Vô-biên phiền-não đoạn
Vô lượng pháp-môn tu
Thệ nguyện độ chúng-sanh
Tổng giai thành
Phật-đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình,
Ðồng viên chủng-trí,
B. Nhứt giả lễ kính chư
Phật,
Nhị giả xưng tán
Như-Lai,
Tam giả quảng tu
cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp
chướng,
Ngũ giả tùy-hỷ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển
pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ
thế,
Bát giả thường tùy học
Phật,
Cửu giả hằng thuận
chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi
hướng.
Phụ thêm bài : SÁM THẬP
PHƯƠNG (nghĩa)
Cũng gọi là : SÁM MƯỜI
PHƯƠNG.
A. Mười phương chư Phật
ba đời
Di-Ðà bực nhứt chẳng rời
quần-sanh
Sen vàng chín phẩm sẵn
dành
Oai-linh đức cả đã thành
vô-biên.
Nay con dưng tấm lòng
thiềng
Quy y với Phật sám liền
tội căn,
Phước lành con có chi
chăng,
Ít nhiều quyết cũng
nguyện rằng về Tây.
Nguyện cùng với bạn tu
đây
Tùy thời cảm-ứng hiện
nay điềm lành,
Biết giời biết khắc rõ
rành
Lâm chung tạn mặt cảnh
lành Tây-phương
Thấy nghe chánh-niệm hơn
thường
Vãng sanh Lạc-quốc đồng
nương hoa vàng,
Hoa nở thấy Phật rõ ràng
Thoát vòng sanh tử, độ
an muôn loài,
Phiền-não vô-biên thệ
dứt trừ,
Pháp môn tu học chẳng
còn dư,
Chúng-sanh nguyện độ bờ
kia đến
Phật đạo cùng nhau cứng
trí như.
Hư-không cõi nọ dầu cùng
Nguyện trên còn mãi
chẳng cùng chẳng thiên
Không tình cùng có đồng
nguyền :
Trí mầu của Phật đồng
viên đồng thành (19)
SÁM PHỔ HIỀN (nghĩa)
Nay con lại nguyện tu
hành :
Phổ-Hiền nguyện lớn sẵn
dành mười môn :
Một là nguyện lạy
Thế-Tôn
Hiện thân trước Phật hết
lòng kính tin
Hai, khen Phật đức rộng
thinh
Lời hay, tiếng tốt tận
tình ngợi ca.
Ba, thời sắm đủ hương
hoa
Tràng phan bảo cái dưng
ra cúng-dường.
Bốn, vì mê chấp lầm
đường
Tham sân nghiệp chướng
con thường sám luôn.
Năm, suy công-đức vàn
muôn
Của Phàm của Thánh con
đồng vui ưa.
Sáu, khi Phật chứng
thượng-thừa
Pháp mầu con thỉnh đã
vừa truyền trao.
Bảy, lòng chẳng chút
lãng xao
Cầu xin chư Phật chớ vào
vô-dư.
Tám, thường tu học
Ðại-Thừa
Bao giờ bằng Phật mới
vừa lòng con,
Chín, thề chẳng dám mỏi
mòn
Dắt dìu muôn loại đều
tròn pháp-thân.
Mười, đem tất cả
công-huân
Mọi loài cùng hưởng,
khắp trần cùng vui.
Mười điều nguyện lớn
nguyện rồi.
Nguyện về Cực-Lạc nguyện
ngồi tòa sen. (20)
HỒI HƯỚNG
Niệm Phật công-đức thù
thắng hạnh,
Vô-biên thắng phước giai
hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư
chúng-sanh
Tốc vãng Vô-lượng-Quang
Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng
trừ phiền não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn
minh liễu,
Phổ nguyện tội-chướng
tất tiêu-trừ,
Thế thế thường hành
Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương
tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ
mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ
vô-sanh,
Bất thối Bồ Tát vi bạn
lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng-sanh
Giai cộng thành
Phật-đạo.
PHUC NGUYỆN
A-Di-Ðà Phật thường lai
hộ trì, linh ngã thiện-căn, hiện tiền tăng-tấn, bất thất tịnh-nhơn. Lâm mạng
chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh diện phụng Di-Ðà, dữ chư
thánh-chúng, thủ chấp kim-đài, lai nghinh tiếp ngã, nhứt sát-na khoảnh, sanh
tại Phật tiền, cụ Bồ-tát đạo, quảng độ chúng-sanh, đồng thành chủng-trí.
Nam-mô Tây-phương
Cực-Lạc thế-giới, Ðại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thanh-Tịnh
Ðại-Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)
Nam-mô Tây-phương
Cực-Lạc thế-giới, Liên-Trì Hải-Hội Phật, Bồ-Tát, nhứt-thiết Hiền-Thánh-Chúng
chư Thượng-Thiện-nhơn. (1 lạy)
TAM TỰ QUY-Y
Tự quy-y Phật, đương
nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự quy-y Pháp, đương
nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí-huệ như hải.
Tự quy-y Tăng, đương
nguyện chúng-sanh, thống lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại.
No comments:
Post a Comment