Saturday, October 19, 2013

HỒI KÝ ĐẠI HỌC MÁU CỦA HÀ THÚC SINH - KỲ 1


THAY LỜI TỰA

Tháng 6 năm 1975 - một tháng sau ngày bộ đội cộng sản tràn ngập miền Nam tự do - những quân nhân công chức của Việt Nam Cộng Hòa nghe Đài Phát thanh lần lượt loan báo các lệnh gọi trình diện "học tập cải tạo". Đó là các thông cáo ngày 10-6, ngày 11-6, và ngày 20-6, ký tên Ủy Ban Quân Quản Thành phố Saigon - Gia Định. Ngoài sự chỉ định rõ ràng những địa điểm và ngày giờ trình diện, còn có lời yêu cầu những người đi học tập cải tạo phải "đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong mười ngày, kể từ ngày tập trung trình diện" (thông cáo ngày 20-6). Riêng đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội và cảnh sát, các Dân biểu và Thượng nghị sĩ, các lãnh tụ đảng phái "phản động" tại miền Nam, thì được lệnh "đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong một tháng kể từ ngày học tập đầu tiên" (thông cáo ngày 11-6).

Bản tường trình tháng 4 năm 1983 của Ginetta Sagan và Stephen Denney (Aurora Foundation), căn cứ trên những kết quả điều tra và phỏng vấn, đã cho biết: "Rất ít, nếu có, người đi học tập cải tạo được thả về sau thời hạn mười ngày hay một tháng... Trong số hơn một triệu người đã đi vào các trại học tập cải tạo (trên 150 trại rải rác khắp nước Việt Nam) thì có khoảng 500.000 người được trả tự do trong vòng ba tháng; 200.000 người đã ở trong trại từ hai năm đến bốn năm; 240.000 người đã phải chịu đựng ít nhất năm năm trong cảnh tù đày; và cho đến nay (4-1983) vẫn còn ít nhất là 60.000 người đang bị giam giữ...".

Chúng ta thông cảm cho sự ngập ngừng, dè dặt của Sagan và Denney khi đưa ra những con số thống kê về tù cải tạo. Những con số ấy chỉ gợi lên được một ý niệm, chứ không thể có được giá trị dữ kiện. Làm sao đòi hỏi số thống kê chính xác về những nạn nhân của một chế độ mà sự dối trá vốn được coi là nguyên tắc chỉ đạo căn bản?

Phần tường trình về "học tập cải tạo" chiếm 26 trang trong bản tường trình của Aurora Foundation, nhằm minh chứng một trong những hiện tượng vi phạm nhân quyền trầm trọng đang xảy ra tại Việt Nam, trong khoảng thời gian từ 30-4-1975 đến 30-4-1983. Thật ra, trước đó, miền Bắc suốt hai mươi mốt năm sống dưới chế độ Cộng Sản đã không được biết đến nhân quyền là gì. Nếu nói về văn kiện chính thức, thì chế độ "học tập cải tạo" đã được ban hành do Nghị quyết số 49 (ngày 20-6-1961) và Thông cáo số 121 (ngày 8-9-1961). Sự ban hành ấy có nghĩa là: mọi thành phần bị coi như đối nghịch, phản động, đã từng (hoặc đang) ở trong các nhà tù thì nay đều bị Đảng và Nhà nước "gom" lại trong một loại nhà tù mới, tổ chức quy mô hơn, theo đúng khuôn mẫu của các nước Cộng Sản đàn anh. Loại nhà tù này đặc sắc hơn những nhà tù bình thường khác ở chỗ nó có thể thỏa mãn cùng một lúc nhiều mục tiêu. Thí dụ mục tiêu an ninh (giam giữ vô hạn định những thành phần nguy hiểm mà khỏi phải mất công thực hiện các thủ tục pháp lý, đồng thời luôn luôn giữ được sự chủ động kiểm soát khối lượng tù nhân tùy theo tình hình an ninh nội chính); mục tiêu chính trị (có điều kiện thuận lợi để thực hiện chương trình tẩy não và nhồi sọ tư tưởng Cộng Sản, mặt khác tạo không khí thường xuyên khủng bố tinh thần nhân dân bằng hình thức đe dọa gián tiếp, nhờ đó dễ dàng tiến hành các kế hoạch chính trị); mục tiêu kinh tế (xử dụng không công một khối nhân lực đáng kể trong những công tác kiến thiết, sản xuất, và phục vụ bộ máy lãnh đạo; đồng thời tránh được trách nhiệm phối trí khối nhân lực này vào một guồng máy kinh tế vốn đang lâm vào cảnh khiếm dụng) v.v...

Chế độ "học tập cải tạo" được mở rộng ngay sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm, dĩ nhiên vẫn với sự áp dụng những phương pháp quản lý cũ, và vẫn nhắm vào những mục tiêu cũ, nhưng đặc biệt có phần khắc nghiệt và tàn nhẫn hơn trong cung cách quản lý. Nguyên nhân có thể là vì lòng căm thù (pha lẫn mặc cảm) đối với thành phần tù nhân mới. Nguyên nhân cũng có thể là vì sự suy đồi trầm trọng trong tình hình chính trị và kinh tế sau khi hoàn thành cuộc cưỡng chiếm đã khiến cho điều kiện ăn ở của tù nhân trong các trại học tập trở thành tồi tệ vượt ngoài sức tưởng tượng, thí dụ khẩu phần thường lệ của tù nhân cùng với những thực phẩm do thân nhân tiếp tế đã bị cắt xén hoặc tước đoạt nhằm cung ứng bù đắp cho chính những cán bộ quản giáo. Tính chất phi nhân của chế độ "học tập cải tạo", thể hiện qua những sự thật khủng khiếp, chỉ từ sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ mới bắt đầu được phanh phui trước dư luận thế giới. Và được phanh phui bởi nguồn tài liệu đắt giá: tiếng nói của những người đã sống sót và đã vượt thoát, sau khi trở về từ các "trại học tập".

ĐẠI HỌC MÁU là một trong những tiếng nói đó. Không phải là tiếng nói đầu tiên, và chắc chắn cũng không phải là tiếng nói sau cùng. 822 trang sách, chia thành 70 chương, chỉ là lời tường trình của một chứng nhân về những điều mắt thấy tai nghe trong 4 "trại học tập": Trảng Lớn, An Dưỡng, Suối Máu và Hàm Tân. Đó là những nơi mà Hà Thúc Sinh, một sĩ quan thuộc binh chủng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã sống từ ngày 26-6-1975 đến ngày 9-2-1980, nghĩa là trong 4 năm 7 tháng 14 ngày.

Tháng 11-1980, Hà Thúc Sinh bắt đầu viết ĐẠI HỌC MÁU tại đảo Pulau Bidong, mảnh đất tự do đầu tiên mà anh đặt chân tới sau khi vượt thoát khỏi Việt Nam. Bản thảo được hoàn tất vào tháng 12-1984 tại San Diego (California), mảnh đất tự do thứ hai của anh. Viết ĐẠI HỌC MÁU, Hà Thúc Sinh chẳng qua chỉ làm tiếp công việc đã từng được làm bởi nhiều người khác (và hẳn còn đang được tiếp tục làm bởi nhiều người khác nữa). Đó là nói lên tiếng nói của sự thật, cái sự thật bi thảm và kinh tởm về chế độ "học tập cải tạo" của Cộng Sản, cái sự thật mà cho đến giờ phút này vẫn còn hoặc chưa được biết tới đầy đủ, hoặc bị cố tình tảng lờ, cố tình phủ nhận, bởi những con người may mắn của một thế giới tự do nhất định không chịu tỉnh ngủ.

Nghĩ cho cùng, tiếng nói của sự thật vốn không phải là thứ tiếng nói êm tai, dễ nghe. Và người ta có lẽ thích nhìn văn chương như cánh cửa mở ra một thế giới bình an, hạnh phúc, hơn là một thế giới đày đọa, khốn cùng. Tiếc thay, trên mặt địa cầu hiện nay có những bức màn sắt được dựng lên để chận bít tất cả mọi cửa ngõ dẫn đến bình an và hạnh phúc. Ngày nào những bức màn sắt đó chưa sụp đổ, ngày đó văn chương còn phải tiếp tục đóng vai trò của những viên đạn xuyên phá, của những hồi chuông cảnh tỉnh và báo động.

Trong một bản "nhạc tù" viết tại trại Hàm Tân năm 1980, Hà Thúc Sinh đã tự nhủ rằng, nếu còn sống mà trở về, anh sẽ chỉ xin được làm "một đời thằng mõ không công". Anh đã sống sót, đã trở về. Và anh đang làm đúng cái công việc mà khi ở trong tù anh ước nguyện. Làm thay cho những người bạn đã không được may mắn sống sót để trở về cùng anh. Làm thay cho những người bạn mà anh chỉ biết cầu nguyện rằng đến giờ này vẫn còn sống sót để sẽ có ngày trở về. Đồng thời, cũng làm thay luôn cho những người tuy đã may mắn sống sốt trở về, nhưng khi may mắn thêm lần nữa là thoát thân được đến vùng tự do thì lại đổi tính đổi nết, trở thành nhân từ và đãng trí.

Tám trăm trang ĐẠI HỌC MÁU được kết thúc bằng một hoạt cảnh xảy ra bên một con suối trong trại Hàm Tân, khi tác giả cùng mấy anh em bạn tù vừa được "lệnh tạm tha", hí hửng đi tắm rửa, bị một tên an ninh vòng đai trông thấy, quát hỏi:

" - Mấy thằng tù kia, đội nào nhà nào mà giờ này còn tắm ở đây?

" - Báo cáo cán bộ, tụi tôi được thả rồi, được tự do rồi.

"Tên công an thứ hai nghe vậy vội chen vào:

" - Này, ăn nói với cán bộ mà vô phép thế đấy phỏng? Mày tưởng thế là mày tự do đấy phỏng?"

Hà Thúc Sinh kết thúc bản tường trình ở đấy: câu hỏi chót đã không được trả lời. Nhưng đã được ghi lại nguyên văn để gửi đến chúng ta.

Thỉnh thoảng người Cộng Sản lại buột miệng hỏi một câu, mà ít ai chịu để ý nghe. Nếu để ý nghe, thế giới tự do hẳn đã đỡ tốn rất nhiều thời giờ, bút giấy và xương máu

NXB Nhân Văn 3-1985



QUYỂN SÁCH NÀY...
Quyển sách này không thể là một tác phẩm tiểu thuyết văn chương, cũng không thể nằm trong hình thức một hồi ký chính trị hoặc một bút ký lao tù. Quyển sách này, thực tế, chỉ có thể được coi như một đống quặng mỏ, được khai quật và còn giữ nguyên hình thái chân thực của nó. Hoặc có thể nói một cách khác, bảy mươi chương sách này có thể xem như bảy mươi tấm ảnh, được chụp liên tục và được rửa ra bởi một phó nháy may mắn và có tính tiếc của, nháy được bảy mươi hoàn cảnh buồn nhưng có ý nghĩa trong đời tù cải tạo dưới chế độ cộng sản. Hoặc có thể nói một cách khác hơn nữa, quyển sách này là bản phúc trình của một người lính VNCH bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản, rồi thoát được ra ngoài, ngồi viết lại để kính gửi tới những ai còn thương yêu và còn quan tâm đến nước Việt Nam và con người Việt Nam còn ở lại...

Quặng mỏ, những tấm ảnh chụp vội và chụp tham, hay bản phúc trình được thảo bởi một anh lính quèn, bản chất của nó thực khó tránh khỏi hai yếu tố chính thô và thực! Đồng lúc, mục đích của nó cũng không có gì khác hơn là ước ao sẽ được sử dụng như một thứ nguyên liệu cho một công trình biến hóa có ích lợi.

Tác giả có nhiều hoài vọng, phải nói thật như thế, nhưng hoài vọng lớn nhất vẫn là mong sao mớ quặng mỏ này sẽ giúp cho một guồng máy chống cộng nào đó chạy thêm một vòng xích, một sử gia nào đó có thêm một chứng từ về cơn đau ốm quê hương, hoặc một người Việt Nam lưu lạc nào đó tìm được một quyết định: Phải cứu lấy người ở nhà!...

Hà Thúc Sinh
Hoa Kỳ 12-84.



VÀO TRUYỆN
Một trăm hai mươi "học viên" được dồn vào một "lớp học" gỗ mà trước kia người Mỹ dựng lên như một đơn vị phòng ngủ dành cho tám người. Người Việt Nam dù có nhỏ con hơn người Mỹ đi nữa, nhưng với một diện tích 15m x 5m cho một trăm hai mươi con người thì quả là tự điển Việt Nam không thể có một tĩnh từ nào mô tả cho chỉnh tình trạng này.

- Tao lạy mày cho tao nhấc cái chân lên, tao đã tê đến bìu rồi!

Một giọng nói khe khẽ cất lên trong đêm tối. Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng thì thầm nói chuyện của một vài người. Giọng nói lại bắt đầu vang lên, nửa đau thương nửa hài hước. Tao lạy mày Hóa ơi, tao lạy mày cho tao nhấc cái chân lên một tí. Tiếng van nài hầu như vẫn chưa được đáp ứng. Giọng nói bỗng đổi tông, vừa lớn vừa quạu. Tiên sư nhà mày thế này mà ngủ được à? Ông tê lên đến rốn rồi. Cu dế không còn biết nó nằm ở đâu nữa này trời ơ...i...

Tiếng trời ơi sau cùng đã lôi cả phòng thức dậy. Có tiếng cười rần rần tiếp theo là tiếng xô đẩy, âm thanh giống một đợt sóng từ xa đưa tới: Nhỏ, lớn dần và vỡ òa ra khi va vào chân núi.

Sự lộn xộn khiến cái khối một trăm hai mươi người như nở lớn hơn ra.

- Trời ơi bỏ cái cùi chỏ ra chỗ khác giùm đi ông cố nội!

- Mày chân thật hay chân giả hả thằng quỷ? Sao cái đầu gối mày cứng gớm ghiếc vậy?

- Ối mẹ ơi, nó chọc thủng mắt tôi rồi!

- Chọc cái con củ c... Từ chiều đến giờ bộ vai tao là đùi vợ mày à? Đã tựa, đã ngủ, đã ngáy lại còn đổ nước rãi vào cổ ông nữa!

Cái khối nở lớn ấy hình như teo lại tức khắc khi có tiếng lên đạn và tiếng quát tháo từ ngoài hắt vào.

- Này, chúng mày nàm cái rì thế? Muốn bạo hành chống đối phỏng? Ổn định ngay không ông bắn bỏ mẹ bây giờ!

Giọng nói của thằng bộ đội gác đêm vừa quê mùa vừa hỗn xược nhưng không đủ làm cho bọn tù bực bội. Họ yên lặng vì một ý thức bất chợt nào đó hơn là vì sợ hãi. Phải năm bảy phút sau khi tên bộ đội bỏ đi, không khí mới hoàn toàn im vắng trở lại.

Một giọng thầm thì.

- Mày nghĩ tụi nó dám bắn mình không?

Một giọng khác.

- Thằng bộ đội oắt con ấy à?

- Không... là nói chính sách của chúng nó ấy chứ.

- Bắn thế đếch nào được. Giọng thứ hai ra vẻ ta đây rành chuyện bàn cờ quốc tế. Hắn tiếp. Này nhé, một cái thây ma thằng Mỹ mà còn cò kè thêm một bớt hai năm này năm khác, cái thây sống này không đáng mười ngàn đô la à? Mười mấy thằng trong chính trị bộ chúng giàu thật đấy, nhưng liệu chúng có điên đến độ lâu lâu lại lôi ra một xấp đô la đốt chơi không?

Không có tiếng trả lời. Giọng thứ hai tiếp tục, trầm và có vẻ dạy đời. Thương mại trước tất cả mọi sự, ông bạn ơi!

- Thằng lính Mẽo và thằng lính Mít khác nhau chứ?

Giọng một lên tiếng yếu ớt, tuồng như hắn nêu ý kiến với lòng cầu mong ý kiến mình được sai.

- Đồng ý, nhưng mà...

- Nhưng mà cái đếch! Một giọng thứ ba bỗng nổi lên với vẻ bực dọc. Ông cứ ngồi đó mà đợi thằng Mỹ nó chuộc!

- Chứ sao! Giọng thứ hai chợt sôi nổi. Cờ hai bên đều kẹt thì bắt tay xóa đi làm lại, bộ xóa luôn à?

- Ông như thế nào mà nhận định kiểu đó?

- Đại úy, ba mươi năm quân vụ được không?

- Thảo nào... Thôi tôi thua!

Giọng thứ ba nói một cách cay đắng rồi im. Nhưng dường như tuổi trẻ không cho hắn im lâu. Hắn cựa quậy trong chỗ mình ngồi tựa như để buồng phổi được hít không khí nhiều hơn một chút, rồi chững chạc, hắn cất tiếng nói. Thưa ông đại úy, em chỉ là thiếu úy, em xin góp ý với ông đại úy thế này: Ông và em, ĐM chỉ là những con chốt. Những con chốt đã qua sông cả rồi. Những con chốt không còn xe, còn pháo, còn mã nào yểm trợ nữa cả! Và bọn đánh cờ chắc chắn giờ đây chúng đã mua bộ cờ mới, đánh ván cờ mới ở một chỗ mới mất rồi ông đại úy ơi! Ngừng một chút như để lấy hơi, hắn thở dài. Chỉ còn hai con đường duy nhất nếu muốn sống thoi thóp cho quãng ngày tàn là: Vượt ngục hoặc im mẹ nó cái mồm cho xong!

- Nói khẽ chứ, họ nghe được thì khổ cả đám bây giờ!

Một giọng thứ tư bỗng nổi lên. Giọng nói có vẻ thân mật ôn hòa của một người mà cái tuổi năm mươi của ông ta đã có thể cho phép ông ta thủ thế trong bất cứ vấn đề gì. Ông ta nói tiếp. Thế này nhé, tôi đề nghị các anh nên nghỉ cho khỏe. Mai mốt Cách mạng còn dạy mình học tập lao động cho phù hợp với đời sống mới. Mệt lắm chứ không chơi đâu. Rồi sẽ có lúc mình thèm ngủ mà sự bận rộn học hành sẽ chẳng còn được bao nhiêu thì giờ mà ngủ. Thức khuya nói nhảm chẳng lợi lộc gì. Ngừng một chút ông ta lại tiếp. Dù sao cũng mới có hai ngày.

Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái ưu sầu, độc chưa!
NGT.

Chỉ có rừng sâu núi thẳm,
Chỉ có trời cao đất dày,
Nhật ký tôi viết không biết rõ tháng ngày...
HTS.



TRẠI TRẢNG LỚN
6/75 - 7/76



MỘT
Căn cứ Trảng Lớn nằm về phía Tây Nam thành phố Tây Ninh. Khởi thủy nó là một căn cứ yểm trợ hỏa lực, có phi trường riêng và đầy đủ những đặc tính của một doanh trại quân đội Mỹ. Khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam do một điều khoản được ấn định trong cái hiệp định hài hước Ba Lê, căn cứ Trảng Lớn đổi chủ và do BTL/SĐ 25 trấn đóng và xử dụng.

Với những đức tính chuyên cần góp nhặt về nhà cho mẹ đĩ của một số tướng tá QLVNCH, căn cứ Trảng Lớn dần dần bị lột da là tôn, gỗ...; móc ruột là bàn, ghế, tủ, máy móc... Do vậy, chỉ một thời gian ngắn sau đó, một trong những căn cứ Mỹ lớn nhất miền Nam chỉ còn trơ bộ xương sườn là kèo và cột.

Tuy nhiên, khi căn cứ đổi chủ lần thứ ba, dù chỉ còn trơ kèo và cột, nhưng với "đỉnh cao trí tuệ của loài người", Đảng ta vẫn thừa điều kiện để biến căn cứ này thành một nhà tù vững chắc mà mây cũng ngập ngừng khi muốn bay vào và chim cũng cùng đường không thể bay ra!

Nửa đêm ngày 28 tháng 6 năm 1975, nhiều đoàn Molotova từ các địa điểm tập trung ở Sài Gòn đồng loạt khởi hành và đưa các sỹ quan cấp úy đã liều nhắm mắt đưa chân ra nộp mình cho Cách mạng vào những ngày 24, 25, 26 về căn cứ Trảng Lớn.

Sáng ngày 29, một sáng chủ nhật không bao giờ còn nhà thờ nhà thánh cho những con chiên ngoan đạo; không bao giờ còn những con đường đầy lá me xanh cho những người thi sỹ lính; không bao giờ còn được dịp chửi thề: ĐM nó, tuần nào cũng trăm phần trăm!... Một sáng chủ nhật buồn như thế, thê lương như thế, các đoàn xe như những con sâu róm dài bất tận cùng quy về và đổ các tên tội phạm chiến tranh (!) của chế độ Sài Gòn xuống vòng đầu địa ngục của họ.

Tha hồ xầm xì, tha hồ quan sát, tha hồ lo âu, tha hồ dự đoán; gì gì chăng nữa thì trước mặt mọi người vẫn là căn cứ Trảng Lớn. Dây thép gai mới được thả ra vây quanh từng khu riêng biệt. Mỗi khu có chừng hai mươi dãy nhà 15m x 5m. Trên những dãy nhà ấy, rõ ràng tôn và gỗ mới được đóng thêm lên những kèo cột cũ để bọn tù nhân của tân chế độ có nơi kê đầu.

Với lối điều động có súng dí sau lưng, Việt Cộng đã áp giải một cách thứ tự lớp lang để tù vào ngồi đúng vị trí mới của mình mà không ai bị xây sát chút nào.

Hai ngày đầu bó giò dằn mặt đã qua, ngày thứ ba bọn tù được thả ra khỏi phòng cho giãn gân cốt và để thực sự bắt đầu đi vào nếp sống mới với muôn nghìn thống hận về sau.

Sáu giờ sáng tên quản giáo của mỗi phòng xuống mở cửa. Hắn đứng giữa cửa dõng dạc phán.

- Hôm nay cho ra làm công tác vệ sinh cá nhân. Bảy giờ tập họp trong nhà bầu trưởng khối.

Lời lẽ của Cách mạng chỉ hà tiện thế thôi. Và tên quản giáo lạnh lùng bỏ đi.

Lũ tù từ bên trong ùa ra sân. Kẻ nhốn nháo đi tìm bạn bè. Kẻ chạy ra những vũng nước mưa đọng dọc theo những dãy hàng rào kẽm gai rậm rạp cỏ lau, dùng lon guigoz gạn từng miếng nước trong dùng đánh răng súc miệng.

- ĐM mày, chỗ người ta lấy nước sao lại đứng đái?

- Đồ cà chớn!

Những tiếng la hét thất thanh cùng nổi lên một lượt, khi có một anh chàng đứng phanh quần chơi luôn vào vũng nước mưa một bãi. Mặc những tiếng la hét, anh ta chỉ có một chân lý duy nhất, nói theo kiểu Bác và Đảng, là đái cho thỏa thích sự nín đái hai ngày qua.

- Đồ lì lợm!

- Mất nước cũng vì mấy thằng có máu lì như vậy.

Trước con mắt ngạc nhiên của đám đông về cái đức tính lì của mình, anh bạn tù vừa gài cúc quần vừa chậm rãi quay mình lại. Anh ta nhếch mép cười như một tên hề.

- Thưa các quan đồng viện, anh nói. Đến ngày hôm nay còn chỗ nào trên đất nước này mà không đáng đái lên!?

Chỉ nói khơi khơi như thế rồi anh bỏ đi, kệ những lời bình phẩm văng vẳng theo sau lưng.

Vừa nghe những âm thanh hỗn độn phát ra từ đám đông, Vĩnh vừa thong thả đứng đánh răng dưới một gốc cây. Anh thoáng thấy một người quen mặt đi qua nhưng anh không buồn gọi.

Trời tháng Sáu Trảng Lớn đã bắt đầu có những cơn mưa về đêm. Buổi sáng giá lạnh nhưng buổi trưa sẽ lửa đốt. Nhớ lại hai ngày qua nằm bó giò trong căn phòng bé tí với một trăm mười chín người khác mà Vĩnh rùng mình. Nếu tình trạng này kéo dài, nội bệnh truyền nhiễm cũng đủ rụng như sung, ấy là chưa nói vô phúc gặp những dịch như sốt sưng màng óc, kiết lỵ... Vĩnh nhớ có một năm nào đó quân trường Quang Trung bị dịch sốt sưng màng óc. Với một hệ thống y viện đầy đủ các phương tiện thuốc men như trước đây mà số tân binh quân dịch bị tử vong còn lên đến độ báo động đỏ. Trong tình trạng thế này mà bị sốt sưng màng óc hoành hành có mà thánh chữa.

Vĩnh đánh răng xong, nhét bàn chải vào túi. Anh kéo tấm khăn lông trên cổ xuống, nhúng một góc khăn xuống vũng nước và bắt đầu lau đầu cổ chân tay. Thốt nhiên Vĩnh thấy có người đập nhẹ vào lưng.

- Tao tìm mày suốt lúc đến giờ!

Người vừa nói với Vĩnh là Nguyễn Tất Ứng, trưởng ban báo chí BTL/Hải Quân. Ứng còn là bố đỡ đầu thằng con thứ hai của Vĩnh. Hai người gặp lại nhau nơi địa điểm tập trung trường Lê Quang Định trên đường Lê Văn Duyệt Gia Định. Vĩnh hỏi lại bạn.

- Mày nhốt phòng nào?

- Tao cũng chưa định được vị trí phòng tao nằm đâu trong trại này nữa. Tao chỉ biết đàng sau phòng tao là một núi vỏ đạn 105 ly. Mày cứ đi vòng xuống phía dưới kia, gặp đống vỏ đạn là thấy phòng tao.

- Không hiểu chúng nó còn tiếp tục giam cứng tụi mình trong phòng nữa không?

- Tao nghe nói được thoải mái rồi.

- Thoải mái là sao?

- Là ra vô tự do nhưng trong khoảng khu hàng rào này thôi. Tao muốn nói là cửa phòng từ hôm nay được mở rộng 24/24...

- Mày có được nghe thêm gì không?

Ứng có vẻ đắn đo.

- Cũng toàn tin đồn thôi!

- Đồn sao?

- Thì nghe đồn sớm nhất mười ngày về, muộn nhất là ba tháng.

- Mày tin không?

- Thấy hơi vô lý nhưng cũng mong như vậy.

Một mối lo âu chợt thoáng qua nét mặt Ứng. Ứng hỏi lại. Vậy chớ mày nghĩ sao?

- Tao sợ mọt gông quá Ứng à! Vĩnh vừa nói vừa cố nở một nụ cười. Anh xoay sang vấn đề khác. Có gì ăn không?

- Tao có đem theo ít nếp. Khi nãy vừa ra khỏi phòng tao nấu ngay một lon guigoz. Đi, đi với tao xuống đó.

Khoác cái khăn lông lên vai, Vĩnh lẽo đẽo theo bạn len qua các đám đông cũng đang tụm năm tụm ba bàn tán để tiến về phòng Ứng. Quang cảnh của một hỏa ngục đang thành hình mang đầy vẻ hỗn độn và bê bết của nó. Trên những lối đi lầy lội vì cơn mưa đêm hôm trước, dưới những gốc cây, dưới những hiên nhà, tù từng đám tụ tập bên những cái bếp kê vội bằng dăm ba viên gạch, đang cong đuôi thổi lửa nấu nhanh một miếng nước sôi để pha cà phê hoặc đổ mì gói.

Đi loanh quanh một lúc hai người về đến phòng Ứng. Căn phòng bừa bộn và dơ bẩn như tất cả các phòng khác. Nếu không có mùi cà phê thơm ngát trong không khí chung quanh, người ta không thể tránh khỏi ý nghĩ đây là hang ổ của bọn ăn mày thường tìm thấy trong những tác phẩm của Charles Dickens.

Vĩnh theo Ứng vào phòng, tháo dép cầm tay và bò qua đống chăn chiếu của anh em để về chỗ Ứng. Vĩnh ngồi tựa vào vách đảo mắt nhìn quanh. Anh chợt nhận ra tay vô địch đẩy cây và nhu đạo của VNCH Vương Đắc Vọng. Anh chàng sỹ quan pháo binh kiêm thể thao gia nặng 80Kg cũng vừa nhận ra Vĩnh.

- Chào ông bạn. Hắn lên tiếng trước. Ông bạn đã nói sai rồi.

- Có thể, nhà vô địch ạ.

- Mong rằng câu chuyện sẽ không xảy ra đúng như ông bạn nói.

- Nhưng...

Vĩnh tính nói tiếp nhưng nghĩ sao anh lại thôi. Nhà vô địch coi bộ cũng không muốn tiếp tục mẩu đối thoại nên chỉ mỉm cười và quay trở về với ly cà phê của hắn. Vĩnh cũng cầm lấy miếng cơm nếp của Ứng lên miệng.

- Quen hắn hả? Lúc trên xe tao khổ vì hắn. Người đâu mà lại vô ưu đến thế! Xe vừa lăn bánh, ai cũng lo ngay ngáy không biết nó sẽ đưa mình tới đâu, thì hắn đã ngáy như pháo gầm.

- Thì hắn dân pháo binh mà lại.

- Quen hồi nào?

- Hôm ở Lê Quang Định. Hắn cùng trong tổ ăn 10 người với tao. Tao đùa nắm bắp đùi hắn, nói: Chắc chắn tụi nó sẽ đem mình ra biển. Chúng ta lại sẽ được đi tàu há mồm. Nhưng không phải Việt cộng cho chúng ta đi di cư, mà đem chúng ta đi nuôi cá mập. Cái đùi như ông thì phải biết...

- Mày hay đùa giỡn thái quá. Ứng cự nự. Thời buổi này cũng nên giữ mồm giữ mép. Con ếch nó chết vì cái mồm.

- Đồng ý. Còn mục gì nữa không để tao về?

- Ngồi tí nữa. Thằng nằm cạnh tao sắp đem cà phê vào. Nhấp chút rồi đi.

Chẳng hiểu sao bỗng dưng Vĩnh muốn đứng lên ngay. Anh từ chối.

- Thôi, no bụng là tốt rồi. Mình thua tụi nó chỉ vì mình có quá nhiều nhu cầu!

Vĩnh rời chỗ ngủ của bạn và bước ra khỏi phòng. Anh lần đường tìm về phòng mình. Về tới chỗ nằm, anh xếp lại chăn chiếu và lần đầu tiên trong hai ngày qua, anh quan sát kỹ một trong những góc cạnh của thiên đường Cộng sản mà từ đây, dù muốn dù không, anh cùng các chiến hữu phải chấp nhận; chấp nhận một cách miễn cưỡng nhưng không biết đến bao giờ. Tuy đã lâm vào tình trạng thế phải thế, Vĩnh vẫn nhủ lòng sẽ cố sống trong một tinh thần mai phục; đúng hơn, tinh thần của một phóng viên chiến trường. Anh sẽ cố gắng chụp cho hết những hình ảnh hậu chiến tuyệt vời này. Mai đây nếu chuyện biển máu không xảy ra, biết đâu, một ngày nào...

Lúc này mọi người đã trở về phòng. Tất cả đang lo sắp xếp lại mớ hành trang của mình. Họ xầm xì bàn tán. Họ tranh luận về một tương lai mà hầu như chưa ai biết nó sẽ như thế nào. Họ than thở về những lầm lỡ ngày qua...

- Thật là khôi hài cho cái sợ ấm ớ của mình. Một giọng nói có vẻ lạc quan lên tiếng. Khi đi, tao ngại đến độ không dám đem theo cả áo len. Tất cả cái gì có màu nhà binh tao đều bỏ lại nhà. Vợ tao năm lần bảy lượt lận vào sắc tao một hộp bơ, mấy hộp sữa. Tao nhất định bỏ ra. Anh đem theo ăn uống cho khỏe. Tao nổi cáu. Bộ em tưởng đi Picnic à? Đem mấy thứ này vào mà trêu ngươi chúng hả? Cuối cùng bố tao biết chuyện, nạt ùm lên và kết quả bây giờ tao... cái gì cũng ăn ké tụi mày.

Những câu chuyện như thế chấm dứt khi một tên quản giáo từ ngoài bước vào. Hắn trừng mắt lấy uy và tự động... hô lấy một mình.

- Nghiêm!

Như một phản ứng tự nhiên, tù đứng phắt cả dậy.

Tên quản giáo đảo mắt nhìn chung quanh và bắt đầu "lên lớp". Tôi không ngờ các anh nại vô nễ như thế. Quân trường ngụy có dạy các anh cách chào kính cấp trên không? Nần sau, thấy quản ráo vào, trưởng phòng phải hô nên thật nớn nghiêm! Nghe rõ không?

- Rõ!

Một vài tiếng lác đác trả lời. Tên quản giáo chưa hết bực. Hắn lên lớp tiếp.

- Dù gì các anh cũng từng nà sỹ quan. Sỹ quan mà ba nô ba niếc nuộm thuộm như thế kia à?

- Ba nô ba niếc nuộm thuộm vì nâu nắm thiếu cái n... ồ...n!

Một câu trả lời vu vơ, khe khẽ từ một góc nào đó nổi lên nhưng cũng đủ làm tên quản giáo điên máu.

- Anh nào ăn lói với Cách mạng mà mất rậy thiếu ráo rục như thế?

Hắn vừa hỏi vừa trừng đôi mắt đỏ gay vào một góc phòng. Không ai trả lời. Một lần nữa hắn hỏi như hét. Thằng lào? Thằng lào anh hùng nhận coi?

Chắc chắn là chẳng có ai lại anh hùng trong trường hợp này, và sự thiếu anh hùng tính trong đám tù mở đầu cho một cuộc trù ếm chửi rủa dài dài cho cả phòng từ đó về sau. Tên quản giáo như để bõ tức và củng cố uy tín của mình trong cương vị làm thầy ngay từ những giây phút đầu, hắn tiếp tục mạt sát và giảng đạo. Lói các anh rõ. Kể từ đây, các anh phải ý thức cho đúng vị trí mới của mình. Học tập cải tạo phải nghiêm túc, ăn lói phải khiêm tốn, lễ độ. Nịch sử đã sang trang. Kẻ chống đối như kẻ vừa nói câu khi nãy chắc chắn không sớm thì muộn sẽ bị bánh xe nịch sử nghiền nát. Các anh phải nhớ ngày hôm nay các anh chỉ còn có quyền sống để học tập cải tạo, còn tất cả các quyền khác đã hoàn toàn chấm dứt, kể cả quyền... nói tục. Vả nại, trong chế độ đặt trên cơ sở đạo đức cách mạng của ta không chấp nhận nói tục. Các anh chỉ có hai con đường, một, học tập cải tạo tiến bộ để trở về nàm người công rân nương thiện của xã hội xã hội chủ nghĩa; hai, các anh sẽ tự xử nấy mình nếu thấy rằng xã hội này không thích hợp với các anh. Xã hội này sẽ không có con đường... con c... Có nghĩa nà con đường... nưng chừng, ở giữa.

Câu ví von đầy đạo đức Cách mạng của tên quản giáo làm đám tù buột miệng cười hô hố.

- Cười cái rì?

Cái cười hô hố của bọn tù chạm nọc tên quản giáo một cách nặng nề. Mắt trợn trắng miệng sùi bọt mép, cơn giận của hắn vỡ tung ra như một căn bệnh ung thư tưởng không còn thuốc chữa. Hắn xốc tới một người đứng gần nhất chộp lấy cổ áo. ĐM. cười cái gì? Mày...

Tuy nhiên chưa nói hết câu hắn đã phải buông cổ áo người đối diện ra. Một tên quản giáo khác bất chợt bước vào.

- Chuyện gì thế đồng chí Cư?

- Thưa đồng chí, tôi...

Cái nóng của tên quản giáo có tên Cư chợt nguội tức khắc như một cục than hồng bị ném vào một cái thùng đựng nước tiểu.

- Cho anh em bầu bán gì chưa?

- Dạ... đang tiến hành.

- Các khối khác người ta bắt đầu cả rồi!

Tên quản giáo mới đến mặc dù cũng không mang quân hàm, nhưng căn cứ theo sự khúm núm thủ lễ của tên quản giáo Cư, mọi người đều đoán rằng y phải có một chức vụ gì cao trong tiểu đoàn.

Sau khi lườm người đồng chí của mình một cái thật kín đáo, y quay sang đám tù. Bằng một giọng mật ngọt chết ruồi, y nhập đề ngay. Thế này nhé, thẳng thắn với các đồng chí, à quên, thẳng thắn với các anh, đồng chí Cư làm như ban nãy là có sai đường lối. Nhân danh cán bộ đảng, tôi... dàn hòa.

Y tằng hắng, vén cao tay áo rồi tiến lên một bước và tiếp tục. Khối này hơi đặc biệt, phải không? Vậy thì tôi sẽ đích thân làm việc với các đồng chí, à quên, với các anh, nhé! À mà hôm nay các anh đã thấy thoải mái chưa nào?

Câu hỏi vu vơ lấy lòng của tên cán bộ Đảng không được ai trả lời. Và hình như chính y cũng chẳng cần ai trả lời. Y ào ào nói tiếp. Theo chương trình của ban chỉ huy trại, kể từ ngày hôm nay các anh sẽ được Trên chiếu cố hơn để bắt đầu bước vào học tập. Cái kiến con ong còn biết tổ chức, thượng tầng kiến trúc, hạ tầng cơ sở tạo điều kiện tốt cho sinh hoạt tập thể. Chả nhẽ ta lại không? Thế cho nên Cách mạng yêu cầu các anh phải có ý thức cao về tổ chức hệ thống điều hành và có tinh thần cao chấp hành theo mệnh lệnh của hệ thống tổ chức ấy, mà tới đây, tôi và đồng chí Cư sẽ giúp đỡ các anh phương pháp bầu bán sao cho tốt, đạt được yêu cầu của Cách mạng. Các anh có nghe rõ không? Mấy anh ở góc dưới kia kìa?

Vài tiếng lác đác trả lời. Như chưa vừa ý, tên cán bộ Đảng hỏi lại. Các anh có nghe tôi hỏi không? Các anh ngồi dưới góc nhà kia có nghe tôi rõ không?

- Rõ!

- Thế thì tốt!

Tên cán bộ Đảng nói đoạn xoay qua nói nhỏ với tên quản giáo Cư một điều gì đó. Sau khi tên Cư bỏ đi, y quay trở lại với đám tù. Đề nghị với các anh, y tiếp. Chúng ta cùng ngồi cả xuống làm việc thoải mái hơn.

Mọi người chỉ chờ có thế. Y cũng ngừng nói và bước ra đứng gần phía cửa, thỉnh thoảng ngó lung ra ngoài như chờ đợi ai. Bây giờ Vĩnh mới chú tâm quan sát kỹ tên cán bộ Đảng. Đầu tiên là khuôn mặt của y, một khuôn mặt xương xẩu, lạnh tanh và tái như đã mất ba phần tư máu trong thân thể. Đôi mắt một to một nhỏ nằm láo liên dưới cặp lông mày thưa thớt như gái vô mao. Chiếc mũi khoằm của y lúc nào cũng như đề phòng sự quật khởi của hàm răng vẩu đầy bựa cơm nằm trơ thổ địa bên dưới. Tên quản giáo Cư đã quay trở lại. Hắn chìa cho tên cán bộ Đảng một tờ giấy. Tên cán bộ Đảng cầm lấy và xoay mặt về phía tù. Y cất tiếng.

- Thôi bây giờ thì ta triển khai công tác bầu bán nhá, mình quân sự cả, cơ cấu tổ chức chỉ cần nói sơ qua các anh cũng nắm vững rồi. Bây giờ theo đúng thể thức dân chủ tôi hướng dẫn các anh bầu ra một trưởng khối, hai phó khối một đặc trách hậu cần và một đặc trách điều hành các công tác lao động hàng ngày. Khối ta từ nay sẽ gọi là khối 10. Y chợt ngó vào tờ giấy rồi tiếp. Khối ta có 120 người, phải không? Vậy thì ta sẽ chia làm 12 tổ, mỗi tổ 10 người gồm một tổ trưởng và một tổ phó. Nói tới đây, y lại ngừng lại, đôi mắt nhấp nháy nhìn vào lũ tù. Thế nào, các anh có ý kiến gì không?

-...?

Không nghe ai đáp ứng, tên cán bộ Đảng lại tiếp.

- Nhất trí cả chứ? Thế thì tốt thôi! Nói đoạn y lại ngó vào tờ giấy. Thế thì là thế này, nhé. Để tranh thủ thời gian cho các anh nghỉ ngơi, chúng tôi đề nghị một số các anh học viên cải tạo trong anh em ra tranh cử, nhé. Các anh có nhất trí không nào?

Không ai trả lời. Nhất trí cả phải không? Thế thì tốt thôi! Bây giờ tôi đọc tên ai người ấy đứng lên nhá. Nói xong, theo đúng thể thức dân chủ kiểu Cộng sản, y nâng tờ giấy lên tận mắt và bắt đầu ê a đọc một lô tên tuổi. Những nhân vật được chọn từ trước lục đục đứng lên. Có kẻ hăng hái, có người hơi ngỡ ngàng không hiểu tại sao y lại gọi tên mình.

Kết quả cuộc bầu cử được thành công mỹ mãn, mà nói theo kiểu Việt cộng thì... đây là một thắng lợi lớn trong bước đầu của ta! Trương Thành Trai, trung úy phi công F5, khối trưởng. Nguyễn Ngọc Đỉnh, trung úy y sỹ, khối phó hậu cần. Quách Tứ, trung úy phi công trực thăng, khối phó điều hành kiêm tổ trưởng tổ A.3.

Vân vân và vân vân...

Sau cùng, cũng theo một phương thức cực kỳ dân chủ, một danh sách phân người cho các tổ được đọc lên. Và Vĩnh thuộc tổ A.3. của Quách Tứ, sỹ quan không quân và cũng là cháu gọi tác giả của câu thơ "sóng mài nghiên biển ngòi non chấm, gió trải tờ mây chữ nhạn đề" bằng chú.

CHƯƠNG HAI
Những ngày kế tiếp thoải mái theo kiểu tên cán bộ Đảng nói, là mọi người đều được tham dự vào những công tác tạp dịch, sửa sang lại nơi ăn chốn ở, đào hầm cầu, đắp bếp... Nói chung là công tác lao động chưa có gì đáng gọi là cực nhọc. Riêng khối 10 hơi kém vui vì tên quản giáo Cư hầu như suốt ngày chạy lồng lộn dưới khối! Hắn nhất định không để cho ai đứng yên được một phút.

Với tinh thần giật gấu vá vai, chả mấy chốc bằng những miếng ván thông tháo từ các thùng đạn pháo 105 ly, bằng những thùng phuy đập dẹp, bằng những cái đinh chế bằng cọng kẽm gai, bằng những sợi thừng bện bằng những sợi bao cát, bằng những dụng cụ kềm kéo búa cưa hoàn toàn tự chế, bọn tù đã tạm lo xong nơi ăn chốn ở cho mình. Có gay go chăng chỉ riêng vấn đề nước. Những cơn mưa bất chợt của tháng Sáu chỉ có thể giải quyết được nước ăn nước uống cho nhà bếp, còn nước tắm rửa quả là một vấn đề.

Thủa ban đầu cứ chừng ba ngày một, tiểu đoàn 1 trung đoàn 4 dưới bí số L4T1 được một chuyến tiếp tế nước bằng xe lôi bồn. Thật là kinh khủng cho cảnh dành giật. Chuyến xe vừa đậu ngoài hàng rào là tù từ bên trong, kể cả các người đẹp của biệt đội Thiên Nga và các nữ sỹ quan QLVNCH bên khối 14, đã mỗi người một thùng đại liên phóng ra. Trong chớp mắt cái xe lôi bồn đã bị phủ kín, y như một con bọ hung sa cơ thất thế bị một bầy kiến đói làm thịt không thương xót.

Phần Vĩnh, sau những giờ lao động và lo miếng ăn miếng uống xong, anh chạy khắp nơi tìm gặp bạn bè và cùng với một hy vọng mong manh gặp được các anh và em ruột của anh, những người mà anh biết chắc giờ này đã đều nằm trong các trại cải tạo. Thế nhưng ngoài Hiến, sỹ quan phụ tá cũ của anh và Ứng, Kim, bạn đồng binh chủng được gặp lại nhau từ lúc đi trình diện ở Lê Quang Định, Vĩnh không được gặp thêm một ai. Cũng may, ít ngày kế tiếp Vĩnh quen thêm được một lô bạn mới, chẳng hạn Nguyễn Ngọc Trụ (nghe nói là cháu của nhà báo Dzoãn Bình), Đặng Thế Tiến, Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Thành Đính, Ngô Văn Tuyên... Thường những lúc nghỉ ngơi hay khi chiều xuống, cả bọn xúm lại đánh cờ hoặc tìm cách nấu nướng linh tinh những thứ đem theo để ăn uống với nhau.

Những tay thuộc quân chủng Hải quân như Vĩnh, Ứng và Kim thường bị anh em cật vấn nhiều nhất bằng câu hỏi: Tại sao các ông có tàu mà không chạy? Họ cứ nghĩ rằng tất cả các sỹ quan Hải quân đều là những người lúc nào cũng ngồi trên tàu để có phương tiện đào ngũ sớm hơn ai hết!

Mỗi lần bị hỏi, Kim thường chỉ cười lạt.

- Chứ bộ chỉ có Dù với Thủy quân lục chiến mới có những đơn vị tử thủ hay sao?

- Giờ thứ 25 rồi còn thủ cái gì nữa!?

Vĩnh hiểu bạn bè hỏi để mà hỏi. Họ thừa biết không thiếu gì những đơn vị tiền đồn mà cấp chỉ huy của những đơn vị ấy đã mất liên lạc với thượng cấp ngay những ngày 27, 28. Họ loay hoay không biết xử trí ra sao với đơn vị và thuộc cấp. Mọi tin tức ở Sài Gòn họ đều mù tịt. Thậm chí có nhiều cấp chỉ huy đóng sâu trong sông lạch không biết đến cả tin tổng thống Hương đã bàn giao quyền lực cho đại tướng Minh từ chiều 28 tháng Tư; và hình ảnh dân Sài Gòn, trong đó có nhiều vị tướng lãnh, đã nháo nhào lên tìm mọi cách bỏ của chạy lấy người.

Tuy nhiên vấn đề chạy thoát đối với những người ở lại, hầu như không mấy ai đặt thành vấn đề, ngoại trừ những người thật sự có trách nhiệm trước quân đội.

Làm sao mà trách được một anh thợ mộc làm cho hãng RMK, khi mà anh ta thấy rằng thiên hạ ùn ùn bỏ chạy, trong lúc anh có thừa giấy tờ đi làm cho Mỹ để trình tòa đại sứ Hoa Kỳ xin cho cả vợ con di tản? Làm sao trách được chị đàn bà làm cho căn cứ Long Bình, khi mà chị nghe thấy đủ thứ tin đồn, rằng nếu chị ở lại, chị sẽ là một đối tượng chính cho Cộng sản ra tay nhúng chị vào biển máu? Cũng chẳng thể trách được một thằng ma cạo hèn nhát trốn lính, bỗng một sớm trở thành một phóng viên tăm tiếng nhờ những bài phóng sự bới móc đời tư nhằm tống tiền và lường gạt thiên hạ; kể cả những nhà văn chân chính chống Cộng đầy mình, nhưng lúc cần bảo vệ đất nước, ông ta tự biết mình chẳng còn một mũi nhọn nào khác ngoài cây bút - một thứ đã hoàn toàn biến thành vô dụng khi giặc đã mấp mé ngoại thành! Có rất nhiều thành phần đã không nên trách, mà còn nên mừng cho họ đã chạy thoát, kể cả những thứ gọi là ông tướng này ông tá kia, thứ tướng tá đã về vườn nhưng vẫn giữ nguyên cái cố tật phách lối tuyên bố huyênh hoang, đại khái rằng thì là đồng bào cứ yên tâm, nếu có phải di tản thì nhất định tôi sẽ là người di tản sau cùng, nhưng thực tế vừa nói xong ông ta đã cút mất! Những thứ ấy trách mà làm gì. Người ở lại luôn luôn thương họ như thương lũ ca nhi. Thế nhưng, lịch sử và những người ở lại khó có thể không trách những kẻ còn đủ trí nhớ để nhớ ra rằng mình từng có một đơn vị dưới tay, và mình đã bỏ nó mà chạy không một lời từ giã, dù lúc mình đến với nó, nó đã lên kèn lên trống đón mình như một người cha, người anh.

Lắm lúc Vĩnh tự hỏi không hiểu những người đã ra đi có bao giờ nghĩ tới những người còn ở lại hay không? Và tỉ như họ biết rằng những người ở lại đã khóc khi buông súng trước lệnh đầu hàng của vị tổng thống đại tướng Dương Văn Minh, thì họ sẽ nghĩ sao về những giọt nước mắt ấy? Chắc họ sẽ nghĩ đó là những giọt nước mắt thường tình của những người mấp mé bờ tử sinh! Không, không phải như vậy đâu. Phải là người ở lại mới biết được cường độ của lòng yêu Tự Do như thế nào, và sự tủi nhục khi thấy kẻ thù lê gót trước mắt ngay giữa thủ đô của mình ra sao. Lúc ấy, người ở lại mới thấy nước mắt của người đàn ông không hiếm như người ta tưởng. Nó đã ràn rụa chảy trước những hình ảnh thân quen vô cùng. Đi ngang nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nhìn bức tượng Tiếc-Thương bị kéo xập xuống, họ khóc mùi như một đứa trẻ. Đi ngang dinh Độc Lập nhìn những vết xích sắt T.54 cầy trên cỏ họ rơi lệ như mưa. Nhìn bầy trẻ nhỏ vô tư đùa chơi trong nắng, họ khóc như người bị cháy nhà. Không, hơn như thế! Phải là cháy cả thành phố, cháy cả đất nước thân yêu và tuồng như chỉ còn mỗi mình họ sống sót. Những trẻ nhỏ kia, trong đó có con em họ, sẽ đi về đâu? Chao ôi ai mà biết được!... Cái đau đớn của người ở lại là cái đau đớn của một chứng nhân, đã nhìn thấy trong một khoảng khắc sự sụp đổ của tất cả dĩ vãng, hiện tại và tương lai mà không còn một lý do nào để hiến thân xây dựng nó trở lại!

Nhưng những người ở lại nào chỉ có riêng những người cầm súng chiến đấu. Còn bao nhiêu thành phần khác nữa. Không thể nói được rằng những thành phần buôn thúng bán bưng, những bác phu xe, những anh thợ sắp chữ, những em bé bán báo... là nhũng người không biết tới hiểm họa Cộng sản. Họ biết và họ đau đớn không kém ai khi đất nước rơi vào tay Cộng sản. Nhiều khi họ còn đau đớn hơn nữa vì họ không biết cách mô tả, không thể nói ra. Vĩnh không bao giờ quên được hình ảnh của người đàn bà bán chè đậu hũ nơi phố anh ở. Ngày nào cũng thế, cứ đúng một giờ trưa là bà đi qua nhà anh, trên vai nặng trĩu quang gánh, một bên là thùng đậu hũ, bên kia thùng nước đường gừng với bát với thìa. Trên tay bà còn sóng sánh một sô nước có thả vài miếng lá chuối... Bà đã bán đậu hũ như thế từ ngày Vĩnh mới di cư vào Nam, tuổi mới lên mười, cho đến khi Cộng sản tràn vào Sài Gòn. Khi Vĩnh đỗ tiểu học, bà đã mừng anh một bát đậu hũ lớn không tính tiền. Khi anh học đại học bà cứ đùa đòi làm mối. Khi anh đi lính, rồi lấy vợ, rồi đẻ con; bà nhiều lúc nghỉ mát dưới mái hiên nhà anh, nói đùa dăm ba câu rồi cao hứng cho thằng con lớn của anh ăn miễn phí như từng cho bố nó hai mươi năm về trước. Khi Cộng sản tràn vào, đơn vị tan rã, Vĩnh trở về nhà vào một buổi trưa tháng 5. Người đầu tiên anh nhìn thấy ngồi trước hiên nhà anh vẫn là bà bán đậu hũ với quang với gánh với thùng với sô. Thấy bà, Vĩnh ngậm ngùi nói đùa.

- Bác không chạy à?

- Chạy đi đâu hả cậu?

Vĩnh vào nhà lấy mời bà một ly nước đá lạnh. Anh dọ dẫm.

- Giải phóng vào chắc bác cũng đỡ cực nhiều...

Ngoài dự tưởng của Vĩnh, phản ứng của bà bán chè đậu hũ đã làm anh ngượng ngùng.

- Cậu Vĩnh à, thú thật tôi ít học, sống đầu tắt mặt tối thật đấy, nhưng khi cùng di cư vào đây, tôi nghĩ tôi hiểu Cộng sản trước cậu nhiều đấy chứ!

Nói rồi bà ta có vẻ giận. Vĩnh phải giả lả xin lỗi.

- Tôi đùa đấy bác ạ. Nói đoạn Vĩnh chắt lưỡi. Khổ quá, không biết rồi ra sao nữa đây!?

Bà bán chè đậu hũ bỗng gay gắt.

- Đến giờ này mà cậu còn chưa biết rồi sẽ ra sao nữa à? Quan quyền như cậu thì tôi chưa biết ra sao thật đấy, chứ còn ngay cái hạng tôi, chúng nó cũng sẽ ghép tội buôn bán linh tinh, chai lười sản xuất, đường ra nông trường cũng chẳng bao xa!

Câu nói của bà bán đậu hũ theo Vĩnh mãi đến sau này. Anh cứ thắc mắc những người như bà ta không biết đau khổ tới đâu, khi mà ở xã hội cũ suốt một đời khổ cực buôn thúng bán bưng; và khi Cộng sản vào, không với đường lối cắt tí ngón tay dài bù cho ngón tay ngắn để có được một bàn tay gồm những ngón bằng nhau, mà chắc chắn chúng sẽ đi gọn một đường dao, và xã hội sẽ có dạng của một bàn tay cụt đồng đều, thì những người như bà sẽ như thế nào?

Những ngày đầu lao tù Vĩnh như người mất hồn. Đủ thứ chuyện đời luôn luôn đặt ra cho anh những vấn đề, và nỗi xúc động của trái tim buộc anh phải tìm lời giải đáp, thế nhưng chưa bao giờ anh giải đáp cho được trọn vẹn một vấn đề nào!

Tuổi của anh chưa đủ già để có thể mỉm cười trước mọi biến cố, cho nên nỗi đau đớn ngất người vẫn ngày đêm dằn vặt anh trước sự biến thiên của lịch sử - một sự biến thiên mà lắm lúc anh thấy mình quá mỏng để chịu đựng, quá nhỏ để cưu mang. Và hiện nay, cái khó khăn nhất của Vĩnh là đang cố gắng hết sức hòa mình vào cuộc sống mới: Cuộc sống lao tù Cộng sản! Điều khó khăn hơn nữa là làm sao Vĩnh phải tìm cho được sự khát sống trở lại, một yếu tố vô cùng cần thiết để thực hiện được dự tính của anh: Anh sẽ là một phóng viên của một chiến trường mới, chiến trường hậu chiến...

Trong giai đoạn của tuần lễ đầu, một phần bọn cai tù đang kín đáo học tập gấp rút chính sách đối xử với tù cải tạo, phải lo toan nhiều việc trong sự tổ chức và điều hành trại cải tạo của chúng, một phần anh em đa số vẫn tin việc học tập cải tạo không thể là một việc lâu dài, cho nên sự sinh hoạt chỉ mang tính cách ăn sổi ở thì, miễn sao có miếng cơm ăn, có một chỗ nằm và có dăm ba tên bạn cùng tần số để tán dóc cho qua những giờ phút tạp dịch quanh quẩn trong trại.

Mỗi chiều trưởng khối được lệnh lên tiểu đoàn "giao ban", một động từ Cộng sản dùng để chỉ việc lên gặp cán bộ trực nhận lệnh. Và lệnh đó chỉ quanh quẩn vài việc:

1. Nhắc nhở các cải tạo viên yên tâm học tập, tuyệt đối tin tưởng vào chính sách cải tạo trước sau như một của Cách mạng, đừng nôn nóng ngày về và đừng bàn tán những điều không có lợi cho bản thân và gia đình.

2. Phải tích cực cải thiện nơi ăn chốn ở vì sau đợt này sẽ còn nhiều đợt khác gồm đủ mọi thành phần xã hội được Cách mạng cho về đây học tập. Người đi trước phải có nghĩa vụ tạo điều kiện cơ sở tốt cho người đi sau.

3. Phân phối các tổ cho những công tác tạp dịch vào ngày kế tiếp.

Một buổi chiều trong giờ họp khối sau bữa ăn tối, sau khi thông báo lại những nhận xét của cán bộ quản giáo về những ưu khuyết điểm trong thái độ, ăn ở, lao động... khối trưởng Trại cho biết ngày mai sẽ tập họp toàn trại để nghe Trên đọc một bản thông cáo quan trọng.

Ngay đêm hôm đó, đề tài về cái gọi là bản thông cáo quan trọng được các bình luận gia triệt để khai thác. Cũng tương tự như các nhóm khác, nhóm của Vĩnh gồm dăm người rầm rì bàn tán tới nửa khuya.

- Về, nhất định về! Anh chàng hải quân trung úy Phạm Kim kiêm họa sỹ "nghiệp dư" khẳng định một cách hý hửng. Không có lý do gì, anh tiếp, nó lại dám giam mình lâu hơn 10 ngày.

- Tao cũng nghĩ như thế. Ứng dè dặt đồng tình.

- Các ông ấm ớ bỏ mẹ đi. Về là về. Nghĩ với ngợi gì nữa!

Ngô Văn Tuyên, anh chàng trung úy bác sỹ trông phốp pháp điển trai mới ở tù chưa được tuần lễ đã nhanh chóng bỏ nghề bác sỹ theo học nghề phóng viên, suốt ngày chạy quẩn săn tin như một anh nhà báo chuyên nghiệp. Tuyên vừa kéo lại tấm bao cát lớn dùng lót chỗ nằm, vừa tiếp. Cứ lấy lẽ thường mà suy thì điều nó phải thả mình là điều hợp lý nhất. Cá nằm trốc thớt còn chạy đường nào? Đất nước đã nằm trong tay chúng nó, chả nhẽ chúng đem giam cả triệu thằng để nuôi báo cô? Các ông nên nhớ một điều, rốt cuộc chúng nó cũng phải tái thiết đất nước. Nhưng tiền tái thiết đào đâu? Đào ở Mỹ chứ ở đâu bây giờ! Giam mình lại trả thù? Xin lỗi, xia Mỹ nó cũng không cho! Mặt khác miền Nam đã được điện tử và cơ giới hóa ở hầu hết các mặt. "Mỹ cút ngụy nhào" đã để lại một núi máy móc điện tử và cơ khí. Thử hỏi một lũ cán bộ i tờ từ Bắc vào sẽ làm nên cơm cháo gì không? Rốt cuộc lại cũng chúng mình thôi. Ít nhất năm năm tới, bác sỹ Tuyên bỗng cao giọng, chủ nhân ông trên mọi khía cạnh thực tế ở miền Nam này vẫn là ta!

- Chứ bộ nó đem giam ông lại, dí súng vào lưng ông, bắt ông lái máy cày, sửa máy điện tử, chế máy ủi đất... thì Tây kiện nó à? Ấy là chưa kể nó có thể bỏ đói ông, ông lạy nó mà xin được phục vụ!

Một giọng nói khác tự dưng len vào cắt ngang sự lạc quan của bác sỹ Tuyên. Anh ta là Đặng Thế Tiến, một người bạn mới của Vĩnh. Tiến người loắt choắt như một con khỉ. Anh tốt nghiệp chính trị kinh doanh và là một guitarist có hạng. Tiến mang cấp bậc thiếu úy và trước khi ngồi tù Cộng sản, anh xách cặp cho ông đại tá trưởng phái đoàn quân sự hai ba bốn bên gì đó ở Vĩnh Long.

- Tây không kiện nhưng Nga nó cười.

Lại một giọng nói khác. Đây là giọng nói của Nguyễn Thành Đính. Anh là trung úy của cục truyền tin. Đính gốc người Bùi Chu và từng là cựu chủng sinh của Dòng Đức Mẹ Đồng Công Thủ Đức. Đính có nhiều tài vặt và được anh em sớm đặt cho tước hiệu Vua Thuốc Lào vì anh hút thuốc lào, có nghề trồng thuốc lào và làm nõ điếu cầy thật kêu. Đính cũng là một trong những người lý luận địch phải thả ta nếu như địch không muốn khiêu chiến với mấy chục triệu dân miền Nam, đó là ông bà cha mẹ vợ con em út cháu chắt của ta.

Tiến chẳng chịu thua. Anh khều bao thuốc lá ra khỏi bụng, lấy một điếu rồi quăng cả gói xuống trước mắt mọi người.

- Các ông có biết Marx rút được mấy kinh nghiệm trong sự thất bại của Công xã Ba Lê không? Tiến bỗng chiếu tướng vào Vĩnh và Tuyên. Vĩnh, mày có biết không?

Vĩnh cười.

- Tao sẽ nói với mày được dễ dàng hơn nếu mày hỏi tao làm cách nào bấm được sáu nốt mi trên mặt đàn guitar.

Tiến ngửa mặt nhả khói cất tiếng cười thật vui.

- Khà khà... ông Tuyên dĩ nhiên chỉ biết làm cách nào để lụi cái sơ-ranh to tướng của ông ta vào đít phụ nữ, đã chẳng những không đau mà lắm em còn sướng phát rên lên. Người thứ hai ở đây là xừ Vĩnh mà cũng không biết nữa thì tôi đành phải thưa thốt để các ông nắm cho vững vấn đề... mọt gông!

Vài tiếng xầm xì nổi lên. Đừng phản đối khi tôi chưa phát biểu xong, Tiến phản đối. Anh tiếp. Thưa các quan đồng viện, thằng cố nội của Bác Hồ vĩ đại ta đã nói gì? Nó nói rằng Công xã Ba lê đã thất bại vì hai nguyên do chính. Một là, Cách mạng ngu bỏ mẹ, tràn vào Ba Lê mà chỉ lo chiếm giữ các xí nghiệp trong khi quên phéng đi ngân khố và các ngân hàng. Marx định nghĩa hành động này là ôm lấy một cái xác chẳng còn giọt máu nào. Hai là, Cách mạng đã đùa dai thả sỹ quan viên chức và các hàng giáo phẩm trở về Ba Lê. Hành động này là... là...

- Buông súng nửa giờ trước khi chiến thắng! Vĩnh bỗng nổi hứng nói chen vào.

- Đúng đúng! Tiến có vẻ khoái trá vì có người tiếp hơi cho câu chuyện của mình. Thế cho nên, Tiến tiếp. Với đỉnh cao trí tuệ loài người của Đảng ta, thưa các quan đồng viện, há Đảng ta lại tái phạm vào lỗi lầm này nữa chăng?

Câu phát biểu đầy chất bi quan của Tiến bắt mọi người phải suy nghĩ.

- Thôi đẹp đi mấy cha. Khuya lắm rồi. Một giọng xa lạ bỗng cất lên đầy vẻ cự nự trong đám người nằm ru giấc ngủ ngổn ngang trên nền xi măng. Mình là quân nhân, giọng của kẻ cự nự nói tiếp. Bàn chuyện chính trị làm đếch gì!

Trước khi dợm đứng lên, Tiến lẩm bẩm chửi thề. - Mẹ kiếp thằng này cho đi theo Cao văn Vện được! Không hiểu nó định nghĩa chữ chính trị như thế nào!?

Đám bạn bè Vĩnh cũng như bao nhiêu đám khác, đêm hôm ấy tụ tập bàn tán lung tung. Mặc cho khối trưởng nhiều lần yêu cầu giải tán ngủ, anh em vẫn ngồi lỳ. Tuy không nói ra, nhưng sau cùng ai cũng phải băn khoăn với câu nói của một anh chàng nào đó nằm trong đám người đang ru giấc ngủ.

- Cứ cãi nhau đi rồi mai này sẽ biết rõ. Nhưng đừng quên, nợ tình tha được, nợ tiền tha được, nợ tí máu cũng tha được; chỉ sợ nợ chính trị e khó có thể tha được!

CHƯƠNG BA
Như chương trình đã được thông báo vào chiều hôm trước, sáng hôm sau, ngay khi hồi kẻng 5 giờ điểm, các khối trưởng đã tích cực lôi mọi người dậy. Khối trưởng Trai hơi cuống khi nhìn thấy cảnh anh em khối 10 vẫn lè phè nằm nướng. Anh lên tiếng cự.

- Tôi lạy các ông dậy giùm cho. Tại sao cứ để người ta chửi lên đầu mình mới chịu?

Thế nhưng khối trưởng Trai không cự nự được nhiều hơn, và mọi người cũng không ai ngủ nướng được nữa. Tên quản giáo Cư thình lình xuất hiện ngay giữa cửa phòng.

- Nghiêm!

Một tiếng hô vội vã từ một chỗ nào đó xướng lên. Khối trưởng Trai giật mình quay lại. Ngược với dự đoán của mọi người là sẽ phải bành tai nghe những lời chửi rủa hôi hám không thua gì cái mồm cả đời không biết đánh răng của hắn ta, tên quản giáo Cư chỉ đùng đùng nổi giận với riêng khối trưởng Trai. Hắn hét.

- Anh Trai, anh gọi ai là "người ta"?

-.....?

- Cách mạng tin anh, đặt để vào chức năng khối trưởng để giúp Cách mạng giáo dục thắng lợi với tất cả những kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với Nhân Dân là đồng bọn các anh. Trong những lần giao ban, Cách mạng đã giáo dục riêng anh bao nhiêu lần về cách xưng hô?

-.....!

Bộ mặt lạnh tanh của khối trưởng Trai như làm cóng lạnh tên quản giáo. Hắn run lên.

- Tại sao anh không trả lời tôi? Tại sao?

- Thưa... tôi quên!

Như nhớ ra điều gì, tên quản giáo hạ cơn nóng thật nhanh và mỉm cười một cách nham hiểm.

- Thôi được, lần này tôi chấp nhận cho anh quên. Nói đoạn hắn nhìn vào đám đông, tiếp. Nhân đây, tôi nhắc nhở chung cho toàn khối, nghe rồi phải nhớ trong óc và chấp hành cho tốt, không phải tôi nói như nước đổ đầu vịt, nghe lỗ tai này để nó chạy ra lỗ tai kia. Hắn tằng hắng lấy hơi và đảo mắt một vòng như để uy hiếp tinh thần bọn tù. Tôi nhắc lại một lần cuối cùng, các anh phải nhớ các anh là kẻ có tội. Các anh vào đây là để học tập cải tạo, để phấn đấu trở thành người công dân lương thiện. Không phải Cách mạng đem các anh vào đây nuôi cơm để các anh ăn không ngồi rồi, để đàn đúm thêu dệt những chuyện phản động, để tùy tiện muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm. Yêu cầu đầu tiên của Cách mạng đòi hỏi nơi các anh không nằm ngoài tính dân tộc của cha ông để lại: tiên học lễ hậu học văn.

Nói tới đây bất chợt tên quản giáo quay sang khối trưởng Trai, hỏi. Tiên học lễ hậu học văn là gì? anh Trai.

Nỗi căm hờn như rần rần chạy trong từng gân máu của anh chàng phi công to con, từng được bầu làm chiến sỹ xuất sắc và có ảnh đăng trên báo Chiến Sỹ Cộng Hòa. Lấy hết bình tĩnh, khối trưởng Trai trả lời.

- Thưa anh tôi dốt chữ!

Cái ngu của chính tên quản giáo làm cho hắn mỉm cười. Bỗng dưng hắn hạ giọng từ bi vô lượng.

- Đấy, các anh thấy không! Mấy đời nhà các anh chỉ đi làm tay sai, hết Tây sang Nhật, hết Nhật sang Mỹ. Các anh nói tiếng Tây, tiếng Nhật và tiếng Mỹ như gió; còn tiếng của cha ông để lại thì cứ mù mờ như người nước ngoài. Yêu cầu của Cách mạng đòi hỏi các anh phải tập trung học tập cải tạo là triệt để đúng đắn, triệt để "lô rích móc xích". Nói tới đây hắn lại tằng hắng. Đã tự biết mình dốt ấy cũng là điều đáng quý, hắn nói tiếp. Nhưng dốt thì phải học tập. Tôi là người thay mặt Cách mạng giáo dục các anh, thì tôi là gì của các anh? Tên quản giáo bất chợt chỉ vào một người đứng gần khối trưởng Trai, hỏi đại. Là gì hả anh kia?

Anh chàng bị hỏi vừa bực vừa lúng túng, nhưng chỉ một tích tắc anh ta trả lời được ngay.

- Dạ là... Cách mạng!

Tên quản giáo Cư hơi nhăn mặt:

- Thì hẳn nhiên là Cách mạng rồi. Nhưng là gì chứ?

- Dạ là... Giải phóng!

Tên quản giáo có vẻ hơi cáu vì cái đần của thằng tù "ngụy". Hắn giơ quả đấm lên cao nói một cách cương quyết.

- Là thầy, nghe rõ chưa? Tôi thay mặt Cách mạng giáo dục các anh tức là thầy các anh, nhớ cả chưa?

-.....!

- Mà đã là thầy thì bản thân tôi sẽ phấn đấu hoàn thành tốt công tác làm thầy. Các anh phải xa cha mẹ vợ con thì tôi cũng xa cha mẹ vợ con. Các anh đi học tập lao động dầm mưa dãi nắng thì tôi cũng dãi nắng dầm mưa với các anh. Các anh ra nông trường thì tôi cũng có mặt ở nông trường. Các anh đến lâm trường thì tôi cũng phải đến lâm trường. Các anh ăn năm lạng thì tôi cũng bảy lạng là cùng...

Bọn tù bỗng im như tờ lắng nghe tên quản giáo lên lớp. Chẳng phải họ chú tâm chi đến những lời lẽ huênh hoang của tên quản giáo ngu dốt ấy, mà vì trong những câu hắn nói đã vô tình tiết lộ nhiều chi tiết quan trọng hầu như mấy ngày qua ai cũng muốn biết. Tại sao hắn lại nói các anh ra nông trường tôi cũng phải ra nông trường? Các anh đến lâm trường tôi cũng phải đến lâm trường? Thôi thế này thì bỏ mẹ cả đám rồi!

Riêng tên quản giáo lấy làm hài lòng về sự ngoan ngoãn lắng nghe của bọn tù. Hắn mê man lên lớp. Còn về phần các anh, các anh phải có thái độ, có nghĩa vụ gì trong học tập, nhất là đối với người thầy dạy của mình? Các anh phải ý thức cho đúng đắn vị trí mới của mình, ấy là vị trí của một học viên cải tạo, nói nôm na là vị trí của một anh học sinh. Mà đã là học sinh thì phải có nhiệm vụ tôn kính thầy. Qua quan sát chẳng riêng khối này mà là tất cả các khối, khung nhận xét thấy các anh còn rất lơ là trong tác phong, thái độ học tập rất thiếu nghiêm túc, ăn nói rất thiếu khiêm tốn và lễ phép. Nói chung chung sự tác động qua lại trong tình người giữa các anh và các cán bộ quản giáo cũng như các chiến sỹ Cách mạng chưa đạt được tiêu chuẩn tốt. Điển hình là anh Trai khi nãy. Tại sao anh lại dùng chữ "người ta" để chỉ những người làm Cách mạng? Mổ xẻ cho sát, phân tích cho sâu, thì ta có thể khẳng định đây là kết quả của một quá trình đấu tranh tư tưởng chưa tốt. Vì đấu tranh tư tưởng chưa tốt nên anh Trai đã chưa củng cố được lập trường đứng hẳn về phía Cách mạng. Anh vẫn còn lơ vơ lờ vờ như người say thuốc lào. Bạn thù rất là chưa phân minh. Anh vẫn đặt những người Cách mạng sang hẳn một phía đối nghịch, do đó mới dùng những chữ lập lờ đánh lận con đen là chữ "người ta"! Nói công khai mà còn nói như thế, sau lưng chắc thế nào mà chả gọi những người Cách mạng là thằng nọ thằng kia.

Nói tới đây hắn bỗng giơ cao tay, vén tay áo một cách rất chậm rãi, tuồng như để ngầm khoe với mọi người hiện hắn đã được làm chủ cả một cái đồng hồ. Hắn xem giờ hơi lâu! Sau cùng hắn bỏ tay xuống và vòng cả hai tay ra sau đít. Sáng nay, hắn nói. Tôi tranh thủ lên lớp với các anh vài điều cần thiết như vậy thôi, có dịp tôi sẽ lên lớp tiếp. Cách mạng chỉ yêu cầu các anh từ nay về sau rút kinh nghiệm nơi khuyết điểm của anh Trai trong lời ăn tiếng nói. Lời nói không mất tiền mua, phải vậy không? Vậy thì các anh nói sao cho đúng vị trí của mình. Phải nhớ rằng đối với Cách mạng, tất cả mọi hành động, mọi lời ăn tiếng nói đều được đánh giá là kết quả của một quá trình ý thức. Do đó, đừng để vì những lời ăn tiếng nói mà gây ra hậu quả phải học tập cải tạo lâu dài.

Sau khi kết thúc câu nhát ma sau cùng, hắn quay lại nói nhỏ với khối trưởng Trai. Khối trưởng Trai gật đầu lia lịa. Lúc tên Cư đã khuất khỏi cửa, Trai quay lại phía anh em. Trai nhìn anh em một cách rất đau khổ, tuồng như cái mũ mà tên Cư đã âu yếm đội lên đầu anh vừa quá nặng lẫn quá chật khiến anh đau đớn chịu không thấu. Anh buồn rầu nói.

- Chúng ta đều vừa học được một bài học quý giá mà tôi là một điển hình. Yêu cầu anh em rút kinh nghiệm. Giờ cũng sắp tập họp đến nơi rồi, tôi đề nghị anh em tranh thủ làm công tác vệ sinh cá nhân thật nhanh. Cũng nhân đây, tôi nhắc lại lời quản giáo vừa nói với tôi khi nãy. Từ nay Trên cấm tuyệt đối việc nhúm lửa nấu nướng lẻ tẻ. Yêu cầu anh em tổ trực cho dọn sạch các viên gạch kê làm bếp chung quanh nhà. Ai còn vi phạm, bị bắt ráng chịu trách nhiệm.

Trai tính nói thêm nhưng hình như chẳng còn gì để nói, do đó anh ra một thủ hiệu tan hàng.

Mọi người đứng đã mỏi chân, được lệnh ai nấy gấp gáp cuốn chăn màn và phóng ra ngoài tìm nước đánh răng xúc miệng.

Đúng 7 giờ rưỡi, những tiếng kẻng thi nhau rền vang qua tất cả các trại thuộc L4. Riêng ở L4T1, khi nghe kẻng báo, mọi người đều từ trong phòng ùa ra sân như kiến vỡ tổ. Tất cả đều quy về khoảng đất rộng phía trước khối 10 và khối 14, chạy dọc theo con đường nhựa dẫn tới phía phi trường của căn cứ.

Đã một thời gian căn cứ bị bỏ hoang, cỏ lau mọc thành những cánh đồng bát ngát. Nơi những bãi đất trống trước đây giờ người ta chẳng nhìn thấy gì khác hơn là cỏ. Thỉnh thoảng có vài vũng nước mưa thật lớn và trong vắt còn hằn vết bánh xe Molotova. Những connex nằm rải rác bên đường lỗ chỗ vết đạn và nhất là súng ống, lựu đạn, giấy tờ, quân phục đủ loại đã dãi dầu mưa nắng: chứng tích của một cuộc tháo chạy ê chề tủi nhục vừa qua...

Hơn 1.000 tù của L4T1 được bố trí thành từng khối đứng dọc theo con đường nhựa. Vĩnh quan sát thấy sau mỗi ụ đất, mỗi connex đều có bố trí vệ binh. Chúng được trang bị AK.47 với nét mặt đầy cảnh giác hướng về bọn tù. Chắc đã được lệnh từ trước nên các khối trưởng tự động so hàng và điểm danh khối mình. Mười phút sau khi hàng ngũ đã đâu vào đó, bọn cán bộ tiểu đoàn và bọn quản giáo mới từ những dẫy nhà phía bên kia đường tràn sang.

Quả thực nếu như chúng không có những khẩu K.54 kè kè bên hông và những cái túi dết bằng da bò đeo trên vai thì không ai có thể tin được rằng đó là những sỹ quan cán bộ của tân chế độ. Thằng nào thằng nấy ngơ ngơ ngáo ngáo, áo quần xốc xếch dơ bẩn, lon lá không đeo; thực tình trông chúng không có tí tác phong nào của người quân nhân, chứ đừng nói chi tác phong của sỹ quan hoặc hạ sỹ quan cán bộ.

Chúng tràn sang bên này đường để tiến tới trước các hàng quân của những kẻ bại binh. Quản giáo khối nào tiến về khối đó. Riêng tên thủ trưởng, thủ phó và chính trị viên tiểu đoàn dừng chân ngay trên mặt lộ. Thật đúng là ba cái bia bắn trong quân trường!

Như tất cả mọi khối, tù khối 10 đã đứng vào vị trí của mình.

- Hôm nay ngày khai trường, này ông nhà văn nhà thơ, ông có thể mô tả quang cảnh này bằng một câu nào cho thật khéo không?

Một cái vỗ vai tiếp theo là một câu nói cất lên sau lưng Vĩnh. Vĩnh giật mình quay lại. Anh nhận ra Nguyễn Văn Ý, trung úy đại đội trưởng Biệt Động, thuộc tổ 5 và nằm cách Vĩnh hai người. Tự dưng Vĩnh hơi lo khi thấy có người biết được cái nghề tay trái trước đây của mình.

Trong trại cải tạo của Cộng sản, cái tóc là cái tội. Kinh nghiệm này ai cũng có thể tìm thấy qua hàng đống sách vở nói về thế giới lao tù của Cộng sản xuất bản trước kia. Mà đã được biết như vậy thì ai cũng muốn tìm mọi cách chứng minh mình... trọc đầu khi đã lọt vào đây. Là một sỹ quan "ngụy", chứng minh mình ít tóc đã là một điều khó tin, lại còn đần độn chơi thêm tí nước hoa lên cái đầu rậm tóc của mình thì thật có ngày... chết ăn năn tội không kịp!

Nghĩ thế Vĩnh cười nhạt.

- Văn với thơ cái khỉ gì ông!

Ý vẫn đùa.

- Làm gì như Phê Rô chối Chúa vậy? Đồng bọn cả mà. Rồi như đoán được sự e dè của Vĩnh, Ý trấn an và tiếp. Ức lắm ông ơi. Không biết ông sao chứ tôi 7 năm cầm quân săn chúng trong rừng trong rú, chúng lẩn như ma. Bây giờ chúng rờ rờ trước mặt mà mình đếch làm gì được.

- Không lấy làm buồn! Một giọng nói có vẻ lạc quan cũng từ phía sau Vĩnh chen vào. Cháy nhà ra mặt chuột. Cứ để cho tông ti họ hàng nhà chúng nó ló mặt ra hết đi. Một ngày nào đẹp trời ta sẽ làm cỏ tận gốc.

- Lúc ấy sướng nhỉ! Một tay khác mơ mộng. Ai xử sao mặc xác, chứ riêng tao...

Sự mơ mộng của anh bạn thứ ba đứng sau Vĩnh chưa kịp thành hình thì phải đứt đoạn vì một tiếng hô.

- Nghiêm!

Tiếng hô của khối trưởng Trai thật to làm mọi người trong khối 10 rầm rập tuân lệnh.

- Thao diễn, nghỉ!

- Ngh...

- Làm cái trò gì đó?

Một tiếng thét thứ hai cũng chợt nổi lên và cắt ngang tiếng hô của khối trưởng Trai. Khối trưởng Trai hoảng hốt quay lại. Một lần nữa anh muốn ỉ...ra quần. Trước mắt anh quang cảnh đang diễn ra không êm ả tí nào. Tên quản giáo Cư đã không còn đứng ở vị trí của hắn nữa mà đã chạy ngược lên mặt lộ, hợp với ba bộ mặt hớt hải của ba thằng chóp bu trại tù đang đứng trên mặt đường. Nhiều khẩu K.54 đã được rút ra khỏi bao da, cùng lúc ấy sau các connex, sau các gốc cây, bọn vệ binh súng đã lăm lăm trong tư thế sẵn sàng. Bên dưới, hơn 1.000 tù đều giật mình dây chuyền.

Tên chính trị viên tay lăm lăm khẩu K.54 và chậm tiến về phía Trai.

- Này thằng kia, mày hô hoán cái gì thế? Hắn vừa hỏi vừa run, nhưng chẳng ai rõ hắn run vì giận hay vì sợ. Hắn lập lại. Mày vừa hô hoán mật lệnh đồng khởi hay gì đấy?

Khối trưởng Trai thừa thông minh để hiểu căn nguyên của vấn đề. Anh có vẻ mất bình tĩnh, càng mất bình tĩnh hơn khi thấy họng súng cứ ve vẩy về phía mình một cách rất nguy hiểm.

- Dạ thưa...

Có lẽ sau khi hoàn hồn, tên thủ phó tiểu đoàn đã nhận ra cái hố của cả bọn nên hắn vội tiến lên, ra dấu cho tên chính trị viên ngừng nói và cất giọng thật lớn như muốn át đi một phần cái ngượng của chính bản thân mình.

- Anh kia, lần này tha, lần sau Cách mạng sẽ có biện pháp xử lý.

Nói với Trai xong hắn thụt vài bước lên mặt lộ, nói lớn với tất cả. Đây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng tôi nhắc nhở chung mọi người. Khi tập họp điểm danh báo cáo nhân số, mọi người phải có thái độ nghiêm túc và tác phong khiêm tốn. Các anh có quyền hô nghiêm, nhưng tuyệt đối cấm cái tác phong ngụy như ban nãy. Muốn dàn trận hay sao mà hô thao diễn?

Thế rồi cả tiểu đoàn lại mất thêm mười phút để lắng nghe bài học về sự tập họp điểm danh của tên thủ phó, lúc hắn đã cầm lên cái loa tay chạy pin để trên chiếc bàn kê ngay mặt lộ. Thôi thì đủ thứ chuyện hầm bà lằng. Rốt cuộc khi tập họp chỉ được dùng khẩu lệnh nghiêm và nghỉ một cách có tác phong... khiêm tốn theo đúng vị trí của một cải tạo viên. Mọi thứ khẩu lệnh khác của "Mỹ ngụy" đều phải dẹp bỏ vào đống rác của dĩ vãng. Để kết thúc bài học tập họp điểm danh, trên thủ phó không quên nhát ma thêm một điều nữa: Bất cứ ai lợi dụng chức năng đại diện tập thể để phát ngôn những lời lẽ gây phấn chấn tinh thần chống đối học tập cải tạo sẽ bị xử bắn!

Sau khi bài học chấm dứt, khối trưởng Trai quay lại với anh em. Bây giờ thì anh lúng túng như một tân khóa sinh lần đầu tiên phải làm tuần sự đại đội trong trường sỹ quan năm xưa. Anh không biết hô hoán thế nào để không bị ngộ nhận và có thể bị lôi ra bắn bỏ. Sau cùng, nối đuôi theo những tiếng hô Nghỉ của các khối khác, khối trưởng Trai cũng buồn bã buông một tiếng Nghỉ rồi đứng buồn như một anh Nhật vừa bị anh Tàu giải giới.

Sau khi tất cả các khối đã tập họp điểm danh và báo cáo nhân số, "Trên" bắt đầu làm việc. Tên chính trị viên, cái loa chính thức của bất cứ tiểu đoàn Cộng sản nào, tiến lên và cầm lấy cái loa từ tay tên thủ phó. Sau khi hội ý vài điều với tên thủ trưởng, hắn quay lại đám đông và bắt đầu đi vào bài học chính thức của ngày khai trường (!). Gõ vài cái vào loa, hắn tằng hắng lấy giọng.

- Hôm nay, vì hội trường chưa có, ban chỉ huy trại phải tập trung các anh ngoài trời để tranh thủ lên lớp với các anh những nội quy cơ bản cho sinh hoạt ăn ở và học tập lao động tập thể ở trại này. Yêu cầu trước mắt của Cách mạng là các anh phải chú ý nghe cho tốt, sau đó về đào sâu suy nghĩ, thảo luận hăng say và chấp hành cho đúng những nội quy quy định trong học tập cải tạo. Hắn thoáng nhìn đồng hồ tay, tiếp. Đáng lý ta phải lên lớp sớm hơn nhưng vì đa số các anh tác phong tập họp chưa đúng đắn, còn rất luộm thuộm gây mất thì giờ. Mùa này nóng nực, phải vậy không? Vậy bây giờ đã 8 rưỡi, ta sẽ tranh thủ lên lớp nhanh, giải phóng lớp sớm để các anh còn kịp về cơm nước và sửa soạn bước vào thảo luận chiều nay.

Cái loa tay bỗng nhiên câm. Người đứng xa chỉ thấy đôi môi của tên chính trị viên mấp máy tuồng như hắn đang ăn vụng một cái gì. Mãi đến khi tên thủ trưởng đập vào vai hắn báo động hắn mới hạ cái loa xuống khỏi miệng. Một tên cán bộ khác nhảy tới mò mò mẫm mẫm gì đó trên cái loa. Một lúc sau cái loa người lẫn cái loa máy lại bắt dầu làm việc trở lại.

Tiếp tục gõ thử vào cái loa vài cái, tên chính trị viên cất giọng trở lại. Đấy, các anh thấy không! Sự phồn vinh giả tạo của bọn đế quốc tư bản là như thế đấy. Cái loa này do bọn quân phiệt Nhật bổn chế tạo, trông thì đẹp mã lắm, mà dùng thì không tốt chút nào, toàn những lỗi lầm cố kỹ thuật!

Sau khi đả đế quốc tư bản một hơi về câu chuyện máy móc hắn mới quay về chủ đề chính. Trở lại vấn đề lên lớp hôm nay, hắn nói. Trước hết ban chỉ huy trại trả lời những thắc mắc tâm tư nguyện vọng của hầu hết các anh, dù chưa được chính thức đề bạt lên mà chỉ mới ngấm ngầm từ ngày nhập trại đến nay, ấy là vấn đề bao giờ thì về. Nhân danh Cách mạng, tôi xác quyết với các anh có đi thì phải có về. Tuy nhiên, đi thì đi một lượt nhưng về thì dứt khoát không thể cùng một lượt. Lý do các anh cũng tự hiểu. Chủ nghĩa Cộng sản không có nhà tù (!). Đó là điều ta phải khẳng định một cách dứt khoát. Chủ nghĩa Cộng sản chỉ có những trại tập trung cải tạo nhằm giúp đỡ những kẻ lầm lạc, mất phương hướng, có điều kiện tự rèn luyện để nhận biết được tội lỗi của mình, để phấn đấu lìa bỏ dĩ vãng xấu xa, trở về với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân. Trên thực tế, trại cải tạo ở xã hội ta phải nói là lý tưởng nhất so với các trại cải tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Có thể ví trại cải tạo ở đất nước ta có giá trị cao như những trường đại học tổng hợp (!). Và trong trường đại học tổng hợp này, các anh sẽ được Cách mạng tạo điều kiện để tự phấn đấu trở nên người công dân lương thiện. Được vào trại cải tạo của ta tức là đã may mắn như người được nhận vào học tại một trường đại học tổng hợp. Mà đã vào trường đại học tổng hợp thì không phải vào để mà chơi. Ta vào để ta học. Nhưng học thì phải có thi, có thu hoạch kết quả. Có thi, có thu hoạch kết quả thì phải có người đỗ người trượt. Đỗ thì vinh quy bái tổ, mà trượt thì dứt khoát phải tự nguyện đăng ký xin học lại cho bằng đỗ, dù học thêm 5 năm, 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa...

Bên dưới đám tù có nhiều tiếng xầm xì. Tên chính trị viên vẫn phớt tỉnh và tiếp tục. Các anh phải biết rằng Cách mạng chưa bao giờ gọi các anh là tù. Cách mạng đã trang trọng gọi các anh là những học viên cải tạo. Giờ đây có thể tuyệt đại đa số các anh chưa hiểu thấu lòng trân quý của Cách mạng dành cho các anh, nhưng nếu các anh được dịp đi tham quan các nông trường tập thể của các cựu tù binh Pháp sau trận Điện Biên Phủ thần thánh, các anh mới thấy rằng họ đang được sống như thế nào. Thật là rõ ràng họ đang được sống một kiếp mới hoàn toàn sung sướng, và hạnh phúc. Nói ra các anh không tin, chứ thực tế, sau một thời gian cải tạo, có nhiều tù binh được Đảng cho trở về Pháp đoàn tụ gia đình nhưng họ đã quyết liệt xin được ở lại sống trong đời tập thể mới của họ và thỉnh cầu Đảng và chính phủ cho được nhập tịch làm người công dân mới của một nước Việt Nam mới. Đối với tù binh thực dân Đảng còn xử cao thượng như vậy, nói gì đối với các anh, những đứa con Việt Nam máu đỏ da vàng đi lạc đường một thủa! Tôi khẳng định với các anh Cách mạng sẽ thương yêu các anh nhiều hơn thương yêu những tù binh thực dân Pháp hoặc Mỹ sau này. Ngay từ ban đầu, Cách mạng đã giấy trắng mực đen giáo dục các cán bộ chúng tôi phải giáo dục các anh như giáo dục các học viên cải tạo. Thế thì, trong tư thế của các cải tạo viên, các anh chẳng việc gì phải lo lắng và nôn nóng. Đúng nhất, các anh phải tự thấy mình có nghĩa vụ đền đáp cái ơn tri ngộ của Đảng, bằng cách đặt niềm tin tuyệt đối vào chính sách cải tạo của Đảng, của Cách mạng luôn luôn trước sau như một. Cách mạng nói 10 ngày là mười ngày, nói một tháng là một tháng. Nhưng 10 ngày hay một tháng với những người đỗ kìa! Trượt thì làm sao có chuyện 10 ngày hay một tháng được. Thế thì về sớm hay về muộn chủ yếu vẫn là ở chính các anh. Các anh học tập tiến bộ? Tốt, các anh cấp úy sẽ trở về đoàn tụ gia đình sau 10 ngày và các anh cấp tá cấp tướng sẽ về sau 30 ngày. Nhưng nếu các anh ngoan cố không chịu phấn đấu học tập cải tạo, ngoan cố không muốn từ khước con đường chống lại Đảng, chống lại Cách mạng, chống lại Tổ quốc, chống lại Nhân dân mà các anh đã một lần lầm lẫn đi qua, thì dứt khoát kẻ đó sẽ không bao giờ có ngày về! Đó là một vấn đề rất lô-rích móc xích.

Tên chính trị viên ngừng lại một lúc như để ôn bài và cũng để cho lũ "tù ngụy" ngấm những lời lẽ đểu cáng của hắn vào tận xương tủy, kế hắn tiếp. Tôi nói thật với các anh, qua quá trình gần 60 năm ra đời và trưởng thành của chủ nghĩa Cộng sản, chưa một đảng Cộng sản anh em nào lại có đường lối cực kỳ khoan hồng nhân đạo như của Đảng ta. Đừng nói đâu xa xôi, các anh cứ mở to mắt mà ngó đảng Cộng sản Kampuchea anh em của ta thì rõ. Sau ngày giải phóng Nam Vang, mọi sinh vật, kể cả chó mèo, nếu đã từng nếm mùi bơ thừa sữa cặn của bọn đế quốc tư bản phản động đều bị giết, giết hết, giết sạch. Nếu Đảng ta cũng ra tay theo đúng đường lối ấy thì liệu giờ này các anh còn được đứng nơi đây không? Tôi bảo thật, nếu cứ lấy câu châm ngôn mắt trả mắt răng trả răng ra mà xử với các anh, thì tội của các anh không chỉ xử bắn bằng một viên đạn, mà mỗi người phải chịu xử bắn bằng 10 thùng đạn đại liên. Nhớ chưa? Bằng 10 thùng đạn.

Lúc này nắng đã có vẻ hơi gắt, tên thủ trưởng tiến tới và nói nhỏ gì đó với tên chính trị viên; tên chính trị viên gật gù và quay lại phía bọn tù, tiếp. Để tranh thủ thời gian vì nắng đã lên cao, tôi tạm gác những chuyện khác cho những kỳ lên lớp kế tiếp. Giờ nhân danh chính trị viên tiểu đoàn, đại diện ban chỉ huy trại, tôi thông báo các anh những điểm chính buổi lên lớp hôm nay.

Một là, kể từ hôm nay, mọi sinh hoạt ăn ở học tập và lao động sẽ bắt đầu đi vào nền nếp tập thể. Cá nhân chủ nghĩa dưới mọi hình thức đều bị thủ tiêu. Sau buổi lên lớp này, các trưởng khối phó khối về lập danh sách thu tiền ăn 10 ngày đúng theo tinh thần thông cáo của chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã đăng tải trên các mặt báo. Ai đem theo gạo cá nhân đều phải nộp về kho hậu cần tiểu đoàn để phân phối cho tập thể sử dụng. Mọi thứ nồi niêu lon cóng dùng để nấu nướng linh tinh đều phải hủy bỏ. Dứt khoát từ đây không có chế độ bếp mẹ bếp con.

Hai là, kể từ nay, ngoài chế độ ăn uống được nhà nước cung cấp theo đúng tiêu chuẩn dành cho các cải tạo viên, Cách mạng còn quan tâm cung cấp thêm cho các anh tiếp phẩm hàng tháng theo tiêu chuẩn sau:

1. Mỗi tháng 1 kem răng. 2. Mỗi 3 tháng 1 bàn chải răng. 3. Mỗi tháng 1 gói thuốc lá và nửa lạng thuốc rê hoặc thuốc lào. 4. Mỗi tháng 1 lạng đường hoặc bánh kẹo nếu không có đường. 5. Mỗi năm 2 bộ quần áo.

Tên chính trị viên vừa dứt câu thì cả một rừng người đã nhao nhao lên. Yêu cầu các anh tuyệt đối giữ yên lặng và trật tự. Tên chính trị viên hét lớn trên loa. Ai muốn chống đối bước ra khỏi hàng.

Cùng với lời răn đe của hắn là những tiếng đạn lên nòng của nhiều khẩu AK.47 bố trí quanh địa điểm tập họp. Tiếng ồn lắng xuống dần. Tên chính trị viên lại tiếp. Chúng tôi đã nói với các anh rồi, về sớm hay về muộn là tùy ở nơi các anh. Riêng về phía chúng tôi, chúng tôi không hề muốn các anh ai cũng phải học tập lâu dài để mỗi năm lĩnh hai bộ quần áo của nhà nước. Riêng ở điểm này, các anh lại càng phải lưu ý hơn về lượng khoan hồng và lòng thương yêu của Cách mạng dành cho các anh. Các anh cứ nghĩ mà xem, nếu Cách mạng không có tấm lòng bể rộng sông dài thì việc gì phải tốn kém lo mãi cho những kẻ chậm tiến, không chịu phấn đấu tốt trong học tập cải tạo? Đàng này Cách mạng vẫn kiên trì tạo điều kiện vật chất cho những kẻ chưa tốt, ngoài cơm ăn còn có áo mặc để mà tiếp tục phấn đấu trở thành người công dân lương thiện phục vụ xã hội, phục vụ đất nước sau này. Đó chính là nét ưu việt nổi bật của Đảng ta, của chế độ ta. Các anh phải suy nghĩ cho kỹ trước khi kết luận.

Bọn "Rau Răm Ở Lại" như đã hiểu rõ thân phận mình nên hoàn toàn im lặng trở lại. Tên chính trị viên có vẻ hài lòng trước thái độ... biết điều ấy, hắn tiếp.

6. Mỗi ba tháng các anh sẽ được viết thư về thăm gia đình và ngược lại, chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện để gia đình các anh hồi âm. Nội dung viết thư như thế nào, động viên lẫn nhau ra sao vân vân và vân vân sẽ được học tập sau.

7. Từ nay, bằng mọi giá, ta sẽ biến trại này thành một xã hội xã hội chủ nghĩa nho nhỏ, ta sẽ cùng nhau chứng minh câu thơ của đồng chí Tố Hữu là đúng triệt để: Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm.

Tên chính trị viên ngừng nói. Hắn cầm lấy ly nước có màu xá xị để trên chiếc bàn cạnh đấy nhấp một chút. Tuồng như không muốn để cho lỗ tai bọn "ngụy" được... kịp thở, hắn đặt ly nước xuống và trở lại vấn đề ngay. Mai đây qua các khẩu hiệu, các anh sẽ có những tiêu chuẩn chắc chắn để phấn đấu trong học tập cải tạo, đạt chỉ tiêu các mặt theo đúng nguyện vọng của Đảng, của nhà nước, của nhân dân, của gia đình và của cả bản thân. Hắn liếc nhìn đồng hồ tay. Bây giờ đã gần 11 giờ, để tranh thủ thời gian cho các anh về sinh hoạt cơm nước, tôi xin nhường lời lại cho đồng chí thủ trưởng lên lớp tiếp với các anh.

Tên thủ trưởng tiểu đoàn hăm hở tiến lên nhận lấy máy. Qua giọng nói, mọi người có thể đoán được hắn gốc người Quảng Nam nhưng đã sống giữa tập thể người miền Bắc lâu ngày. Dù hàm răng không vẩu nhưng chân dung hắn cũng không khác cái bia bắn là bao. Vừa cầm lấy cái loa là hắn lên giọng nói ngay.

- Đồng chí chính trị viên vừa lên lớp với các anh vài khâu then chốt trong bước đầu học tập cải tạo. Chắc chắn trong các anh còn rất nhiều tâm tư nguyện vọng mà chưa có dịp bày tỏ. Tuy nhiên, rồi đây ban chỉ huy trại sẽ tạo nhiều điều kiện để các anh bày tỏ nó ra. Hiện tại nói thế đã đủ, nhân danh thủ trưởng, tôi cũng có vài lời nhắn nhủ với các anh em học viên cải tạo như thế này. Các anh đừng bao giờ quên các anh là những kẻ có tội, có tội với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; đồng lúc, các anh cũng đừng bao giờ quên Đảng là người sống có tình có lý. Có tình vì luôn luôn khoan hồng cho những kẻ có tội nhưng biết thành tâm ăn năn hối cải. Có lý vì họng súng Cách mạng cũng luôn luôn sẵn sàng bốc khói trước những kẻ ngoan cố không chịu học tập cải tạo, vẫn tiếp tục tìm đường chống phá Cách mạng, chống phá nhân dân.

Hôm nay Cách mạng quy các anh về đây để cùng sống dưới một "mái trường", tạo điều kiện tốt để các anh học tập lao động hầu trở nên người hữu ích, lương thiện; góp phần phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân xây dựng một xã hội mới độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no và giàu mạnh cho muôn đời con cháu mai sau.

Trong tương lai gần đây, tuần tự từng bước các anh sẽ được hướng dẫn đi vào nhiều khâu khác nhau của một quá trình học tập cải tạo. Hôm nay là ngày mở đầu cho bước đường dài phấn đấu đó, nhiệm vụ và yêu cầu trước mắt là các anh phải chấp hành tốt những nội quy của trại đã đề ra. Các anh cũng cần phải nhớ tất cả những kết quả tốt sẽ nhất định giúp các anh sớm được về đoàn tụ với gia đình; ngược lại, những kẻ gây kết quả xấu không những cá nhân mình bị thiệt thòi mà gia đình của những kẻ đó cũng phải chia xẻ nhiều trách nhiệm trước chính quyền địa phương.

Bây giờ mặt trời cũng đã đứng bóng, ban chỉ huy trại cho các anh về nghỉ để sửa soạn cơm trưa. Chiều nay các anh khối trưởng sẽ cho khối tập họp tại phòng vào lúc hai giờ. Các cán bộ quản giáo sẽ xuống hướng dẫn các anh sinh hoạt thảo luận những huấn thị mà tôi và đồng chí chính trị viên đã truyền đạt sáng nay.

Đứng mấy tiếng đồng hồ bọn tù vừa khát vừa mệt. Và sau khi trải qua vài câu hô hoán, mọi người được lần lượt quay trở lại phòng. Trong bữa cơm trưa hôm ấy, câu nói được anh em xử dụng nhiều nhất là câu: Cầu chúc bạn được hưởng ơn mưa móc 5 bộ quần áo của nhà nước!

CHƯƠNG BỐN
Đính được bầu làm trưởng ban trang trí của khối 10. Hắn được dành cho một chỗ nằm tương đối đặc biệt ở ngoài mái hiên. Đính khuân những thùng gỗ thông đựng đạn pháo vây lên thành vách và bên trên căn tấm poncho làm mái. Quả người ta không thể gọi nơi ngủ và làm việc của Đính là hầm hay là nhà! Hàng ngày Đính chui vào đó để kẻ những khẩu hiệu cho khối do quản giáo đưa xuống.

Non một tuần lễ đã qua, một trong những sự rầu rĩ nhất của mọi người là lượng thuốc lá dự trữ đã thực sự cạn. Riêng Vĩnh, Vĩnh đã hết sạch từ hai hôm nay. Ngoài những giờ lao động tạp dịch, buổi trưa Vĩnh hay mò vào giang sơn của Đính; một phần vì hắn dễ thương, một phần vì hắn có thuốc lào. Có thể nói Vĩnh là một người trẻ tuổi nhập tịch làng thuốc lào trong tù nhanh và dễ dàng nhất trong non một triệu tù nhân ngày nay!

Thật là khổ sở khi ăn cơm xong, lại là thứ cơm hẩm Việt cộng mà không có một tí khói cho đỡ tanh miệng! Lần đầu tiên tập tễnh hút thuốc lá Vĩnh say đến độ mửa nguyên một phần cơm rau ra ngoài. Dần dần quen đi, anh đã biết ếm khói, biết làm thế nào để được lên thiên đàng sau khi hạ cái điếu cầy xuống. Chơi với Nguyễn Thành Đính, chả bao lâu Vĩnh còn được học hàm thụ phương pháp trồng thuốc lào, biết sử dụng phân diêm phân lợn ra sao để thuốc lào say, êm, không khói ngang mà tăng khói dọc. Nói chung chỉ ở tù non một tuần lễ, các quan thuộc chế độ cũ hầu như ai cũng phải gia nhập làng thuốc lào. Riêng Vĩnh, đến bây giờ chỉ cần nhìn qua màu thuốc, nhìn qua sợi thuốc anh đã có thể biết ngay đó là loại thuốc rin hay rổm 1.

Trưa nay, sau khi kéo một hơi thuốc lào, Vĩnh đặt điếu vào chỗ cũ và mơ màng nhìn Đính đang ngồi trước một giải băng dài được khâu dính vào nhau bằng nhiều bao cát. Đính đang pha sơn để kẻ chữ.

- Kẻ chữ màu đỏ hả?

- Họ đưa sơn gì mình kẻ sơn đó.

- Liệu sơn có ăn trên bao cát không?

- Ăn chứ!

Vĩnh cúi xuống cầm lên mảnh giấy ghi các câu khẩu hiệu. Anh đọc qua một lượt và thấy câu nào cũng muốn phát ói!

1. Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng! 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta. 3. Đảng Lao Động Việt Nam quang vinh muôn năm! 4. Đảng Lao Động Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước! 5. Học tập lao động là thước đo lòng yêu nước của mọi người!

Vĩnh bỏ tờ giấy xuống, hỏi.

- Năm khẩu hiệu này ông tính kẻ trong bao lâu?

- Khẩu hiệu mẹ gì mà dài quá! Nhanh lắm cũng phải hai ngày mới xong. Vĩnh đứng lên, giỡn.

- Ông Đính ơi ông làm không công mà ông cũng không biết nữa sao, hả... trời?

Đính giật mình.

- Cái gì mà giữa trưa la lớn vậy? Tụi nó đang ngủ.

- Kệ cha tụi nó. Ông tính làm hai ngày thật hả?

- Chứ sao bây giờ?

Vĩnh tính nói me-sừ Kim bên khối 12 hay 13 gì đó cũng từng ấy khẩu hiệu nhưng anh ta dự trù tới nửa tháng. Tuy nhiên, nghĩ sao Vĩnh lại không nói. Anh đứng lên khom người chui ra ngoài sân, vừa lúc đó khối trưởng Trai từ ngoài chui vào. Vĩnh ngồi luôn xuống đống gạch rợp bóng râm của một cây trứng cá cạnh hiên nhà. Anh lắng nghe những lời đối thoại vẳng ra từ chỗ Đính.

- Ông Đính ơi!

- Gì nữa đây?

- Thêm mấy khẩu hiệu nữa này.

- Sao lắm thế?

- Tôi làm sao được! Ở trên họ đưa xuống các khối bắt thực hiện gấp.

Giọng Đính càu nhàu.

- Đúng là chế độ khẩu hiệu.

Giọng Trai hoảng hốt.

- Ông nói sao nghe ghê quá ông ơi! Bớt bớt lại giùm không kẹt cả đám.

Vĩnh không nghe thấy Đính nói gì thêm. Một thoáng Trai chui ra. Ngồi nhìn nắng một lúc Vĩnh lại chui vào với Đính.

- Thêm nữa hả?

Giọng Đính ngao ngán.

- Thêm ba khẩu hiệu đại ý dạy dỗ chúng mình phải yêu thương nhau!

- Buồn cười nhỉ!

Đính ngồi xuống góc hầm cầm cái điếu lên. Hắn nói.

- Chẳng buồn cười đâu. Tính tôi hay suy diễn. Để tôi suy diễn cái khẩu hiệu mới đưa xuống cho ông nghe. Khẩu hiệu nói rằng: Các cải tạo viên phải thương yêu nhau, tích cực giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong học tập! Rõ là lũ chó đểu.

Quả Vĩnh chưa kịp hiểu câu khẩu hiệu ấy đểu ở chỗ nào. Vĩnh chỉ ngạc nhiên thấy Đính nổi nóng hơi khác ngày thường. Vĩnh biết tính Đính rất điềm đạm. Vĩnh hỏi.

- Đểu chỗ nào!

- Câu này phải chia ra hai vế. Vế thứ nhất là câu "các cải tạo viên phải thương yêu nhau!". A, đừng tưởng nó thương gì mình đấy nhé. Nó chỉ muốn nói xa xôi cho mình biết rằng mình sẽ ở đây mịt mù, sẽ đếm lịch dài dài.

- Sao vậy?

- Ô hay, chứ bộ ông không biết câu "thú vật ở với nhau lâu ngày thì quyến luyến nhau, còn con người ở với nhau lâu ngày nhất định sẽ cắn xé nhau" hay sao? Đấy, vế này tiềm ẩn cái ý nghĩa ấy đấy.

Vĩnh tính hỏi còn vế thứ hai ra sao thì Đính đã tiếp ngay. Vế thứ hai mới độc. Nó bảo "tích cực giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong học tập!" ông có hiểu ra sao không?

-.... ?

- Là phải theo dõi nhau, phải tích cực đấu tranh sai trái, một cái rắm lớn rắm nhỏ của nhau cũng không được phép bỏ qua, phải đem nhau lên bàn mổ, tố giác nhau tận tình để được... về sớm!

Đính làm một hồi với vẻ bực tức. Hắn kéo một hơi thuốc lào và trước khi chui ra khỏi cái nhà hầm, hắn nói. Chúng mình sẽ phải đi một Đoạn-Đường Thương Khó dài hơn của Chúa, vác nặng hơn Chúa và thê thảm hơn nữa ở chỗ không được vác tà tà, không có người nâng hộ, mà vừa vác vừa phải chạy đua với nhau, bon chen kèn cựa cho đến lúc chết!

Rồi thì cả hai chui ra khỏi căn nhà hầm. Buổi trưa nắng gắt. Trong các phòng mọi người ngủ mê mệt. Vĩnh không biết đi đâu, không biết làm gì trong khoảng thời gian trống vắng này. Anh mò ra ngồi dưới bóng mát của một cây điệp lớn - nơi đây, mỗi chiều đi lao động về, một số đông tụ lại và biến gốc cây điệp thành trung tâm họp báo. Tất cả các tin tức, tất cả mọi bình luận suy diễn đều xuất phát từ gốc cây điệp này. Nhưng giờ đây gốc điệp vắng tanh vì mọi người đang ngủ. Họ ngủ lấy sức cho những giờ lao động ban chiều.

Vĩnh ngồi xuống gốc cây và ngó lên tàn cây rợp bóng mát. Một con rắn lục bụng to như có chửa quằn quại bò trên một nhánh cây. Lẫn trong tiếng chíu chít của bầy sẻ có con chim lạ vừa cất lên một tiếng gáy cô đơn. Sự hồi tưởng bất chợt trở về làm lòng Vĩnh tái tê. Chao ôi, đây là mộng hay thực? Ta đang ở đâu đây? Vì đâu nên nông nỗi này?

Cuộc đời trước mắt Vĩnh thốt nhiên biên thành một mớ bòng bong và anh thấy mình đang sa vào không phương thoát khỏi. Vĩnh bỗng thương nhớ lũ con của anh vô cùng. Vĩnh chợt hiểu một trong những đau đớn quằn quại nhất của anh khởi từ điểm này. Cứ tưởng tượng một ngày nào đó bầy con anh sẽ lớn lên, chẳng cần chúng phải căm thù, mà chỉ cần chúng nhìn anh bằng những cặp mắt hờ hững tuồng như nhìn một kẻ đã một lần đi lạc ra ngoài con đường của lịch sử, đã phạm những tội ác mà chúng cho là không thể tưởng tượng nổi - kết quả của một đường lối tuyên truyền nhồi sọ dựng đứng và ác độc của Cộng Sản - thì anh không rõ tâm hồn anh lúc ấy sẽ ra sao?!

Vĩnh đập mạnh vào trán đôi ba lần. Ôi thôi, ta mắc kẹt thật rồi! Ý nghĩ tự sát một lần nữa lại lởn vởn qua óc Vĩnh. Chưa bao giờ anh thấy anh bị xâu xé như lúc này. Ý chí thì muốn biến anh thành một chứng nhân của lịch sử; trong lúc trái tim anh lại thúc giục anh ra đi, thúc giục anh rời bỏ cõi này càng sớm càng tốt để chữ Tự Do mãi mãi còn được đậm màu. Một cái đinh hay một cái lưỡi lam... Vĩnh lại lắc đầu thật mạnh. Thốt nhiên Vĩnh nổi giận đùng đùng, nổi giận mà không biết vì sao mình nổi giận. Anh chộp một hòn đá ném mạnh lên cành cây có bầy chim đậu.

- Thằng kia, mày ném ai thế?

Vĩnh giật mình nhớ ra thực tế, nhớ ra rằng bên ngoài hàng rào gần đó có một vọng gác. Hòn đá anh ném đã rơi trúng vọng gác đó. Vĩnh giả vờ như không nghe thấy và chậm rãi đứng lên khỏi gốc điệp. Anh rảo bước về phía các dãy trại.

- Thằng kia, đứng lại!

Tiếng thét lần này lớn hơn và có kèm theo tiếng đạn lên nòng. Chẳng dại gì ngoái mặt lại để bị nhận diện, Vĩnh nhủ lòng và vùng chạy thật nhanh về phía nhà bếp khối 12, đâm sang bếp khối 11, đi vòng khối 11 và bọc về cửa sau khối 10. Vĩnh về chỗ nằm, cởi chiếc áo xanh nhét vào sắc và lôi chiếc áo nâu ra mặc. Vĩnh tính trỗi dậy mò ra ngoài nhưng hai thằng vệ binh có súng trên tay đã xuất hiện phía trước vuông sân khối 10. Dáng dấp của chúng cho thấy chúng đang lùng bắt một người.

Nằm yên tại chỗ, Vĩnh dặn lòng tự hậu phải kiểm soát kỹ các hành động của mình. Lỡ lọt tay kẻ thù không nên để thiệt mạng vì những lý do lãng nhách; nhất là kẻ thù của anh, một thứ kẻ thù mà giáo chủ của chúng, Lênin, từng dạy rằng: Chỉ cần một ý nghĩ thương xót bọn phản động thôi, thì người vô sản coi như đã phạm một trọng tội khó tha thứ!

Vĩnh ngó quanh phòng, hóa ra đâu phải tất cả đều ngủ. Nằm chen chúc đây đó vẫn có nhiều người vắt tay trên trán, đôi mắt họ gắn chặt ở một điểm nào đó trên trần nhà đầy mạng nhện.

Nằm bên trái Vĩnh là anh chàng bác sỹ Ngô Văn Tuyên, bên phải là trung úy Biệt Động khóa 25 võ bị Đặng Xuân Bính. Nằm sát nhau trong khu vực tổ A.3 với Vĩnh còn có trung úy Hải quân Lê Văn Trợ, trung úy Hải quân Nguyễn Văn, trung úy phi công Lê Văn Sanh, trung úy phi công Quách Tứ, thiếu úy phân chi khu trưởng Nguyễn Văn Hải, trung úy ban trận liệt / P.2 / TTM Nguyễn Văn Lộc, trung úy quân nhu Lê Văn Khoa, trung úy giảng viên Anh ngữ trường SNQĐ/TTM Trần Văn Nguyên...

Xa xa chút nữa về phía trái thuộc tổ A.4 có ông già Chuân thiếu úy trợ y, người có bệnh nghiến răng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử của những người mang bệnh nghiến răng. Xa hơn tí nữa là ông Thiệu, tài xế biệt phái của cục Trung Ương Tình Báo - một Moritz kiểu mới trong giờ thứ 25 của Việt Nam...

Thốt nhiên Vĩnh nghĩ, những khuôn mặt này rồi sẽ gắn chặt với ta trong bao lâu nữa? Cho dù có cùng hoàn cảnh nhưng liệu họ có cùng một nỗi day dứt đớn đau?

Ông già Chuân sau những giờ lao động về lôi mấy bánh thuốc lào đem theo, viên từng bi bán cho anh em bằng những giá cắt cổ 10 đồng 5 bi, mỗi bi nhét không đầy cái nõ điếu. Ông Thiệu, dù là tài xế biệt phái cho cục Trung Ương Tình Báo nhưng lại là người mù chữ. Ông chỉ biết đọc mà không biết viết... Thế thì cái đau đớn mất nước của ông Chuân liệu có thống buốt bằng cái đau đớn của cựu đại đội trưởng Biệt Động Đặng Xuân Bính hay không? Và của ông Thiệu có giống của Ngô Văn Tuyên - một người chắc hẳn đã quá rõ thân phận của một Zivago như thế nào trong xã hội Cộng Sản?

Tiếng kẻng làm sự suy nghĩ của Vĩnh bị gián đoạn. Trong phòng sự im vắng bị phá vỡ tức thì. Mọi người đều vội vã trỗi dậy, kẻ lục đục tìm mũ, người lấy bình nước... rồi nối đuôi nhau ra sân nắng tập họp.

Nắng Tây Ninh chang chang. Các khối đứng tập họp điểm danh ngay trước phòng của mình. Khối trưởng Trai sau khi hô hoán và báo cáo nhân số đi lao động cho quản giáo Cư đâu vào đấy, anh rút từ túi quần sau ra một quyển vở. Anh mở quyển vở, hướng về mọi người, đọc.

- Theo lệnh anh quản giáo, các anh sau đây ở lại nhà nhận công tác đột xuất. Nguyễn Văn Năm, Trần Văn Ích, Lê Thanh Nhàn, Bùi Lành, Trịnh...

- Sao anh phức tạp thế? Tên quản giáo Cư chợt nói chen vào bằng giọng bực bội. Sau không cắt nguyên một tổ cho nó dứt điểm mau lẹ?

- Dạ anh đã chỉ thị chỉ lấy 6 người có sức khỏe.

- Phức tạp! Hôm qua tổ nào trực?

- Dạ tổ A.5.

- Vậy hôm nay lấy tổ A.6. Tên quản giáo đảo đôi mắt cú vọ vào những người tập họp, hỏi khơi khơi. Nhân số còn bao nhiêu đi lao động?

- Thưa anh Đính ở nhà vẽ khẩu hiệu, anh Thuần anh Hiệp tiếp tục đào giếng, anh Cang anh Tâm và anh Ba Tô đắp bếp.

- Ba Tô là cái gì?

- Dạ thưa tên anh ấy là Tô, anh em quen gọi là Ba Tô.

- Ba Tô với bốn bát! Tên tuổi phải gọi cho đúng. Mai đây các anh đều có số cá nhân, không thể tùy tiện thêm đầu thêm đuôi như thế được. Nhớ chưa?

- Dạ.

- Còn những ai ở nhà nữa?

- Bác Chuân ở nhà đóng thùng thuốc tập thể cho khối.

Tên quản giáo chợt trợn trừng mắt ngó khối trưởng Trai.

- Đây là lần đầu và cũng là lần cuối, tôi quán triệt để các anh rõ và nắm cho vững cách xưng hô trong trại cải tạo. Nơi đây, cấm chỉ gọi nhau bằng chú chú bác bác. Các anh cùng có tội như nhau, cùng vào đây học tập cải tạo như nhau do đó bình đẳng, không ai là bác là chú của ai cả. Tất cả gọi nhau bằng anh, xưng tôi. Nghe rõ?

Không ai trả lời ngoài khối trưởng Trai nuốt hận dạ khẽ một tiếng. Tên quản giáo lườm nhanh mọi người một cái, mỉa mai. Vẫn chưa giải phóng được cái tác phong ngụy! Bác bác với chú chú. Công tác phục vụ hỗ tương cũng cám ơn cám iếc 2. Thốt nhiên hắn hỏi lớn. Còn ai ở nhà nữa không?

- Dạ còn tổ A.6 ở nhà nữa, vị chi tổng cộng 17 người.

Tên quản giáo khẽ lắc đầu.

- Khối có 120 người, 17 người ở nhà vị chi suýt soát mất đi 14% công trực tiếp lao động. Hơi nhiều!

Bọn tù đứng trong hàng đều giật mình như nhau. Một thằng cán binh Việt cộng rõ ràng i tờ rít mà sao khi tính toán công lao động nó lại tính nhẩm nhanh đến thế? Thảo nào dân miền Bắc 20 năm xưa hát câu áo anh rách vai quần tôi có hai miếng vá, 20 năm sau vẫn phải hát câu quần tôi có hai miếng vá áo anh rách vai...

Tên quản giáo hơi lẩm bẩm gì đó trong miệng, và trước khi ra lệnh cho khối trưởng Trai dẫn anh em tiến về phía phi trường trong căn cứ Trảng Lớn, hắn hỏi lớn. Anh Đính đâu?

- Có tôi.

- Lát nữa anh lên tiểu đoàn gặp chính trị viên!
--------------------------------
1
Rin: Thứ gốc, không pha chế tầm bậy. Rổm, thứ giả.
2
Trong việc giúp đỡ lẫn nhau hàng ngày Cộng Sản không chấp nhận sự cám ơn. Chúng quan niệm những công ích ta làm cho người khác hay ngược lại đều là nghĩa vụ của từng người trong sinh hoạt xã hội, mà đã là nghĩa vụ thì không ai phải cám ơn ai.

CHƯƠNG NĂM
Khối trưởng Trai dẫn khối 10 đi theo 4 hàng dọc rời cổng trại 1. Đoàn người lúc này tương đối còn sức khỏe, trông chưa đến nỗi bệ rạc cho lắm. Theo lệnh, khối 10 phải lên phi trường gỡ xí phần một số vỉ sắt lót phi đạo, gỡ và chất thành đống trong khu vực lưu trữ của trại 1 phòng có việc dùng về sau. Vĩnh nghe phong thanh rằng khu phi trường đầy đất đá nén ấy rồi đây sẽ được biến thành những thửa vườn trồng toàn bí ngô.

Những tấm vỉ sắt do Mỹ ráp bằng máy để làm sân bay, giờ đây lũ tù phải cùng nhau dùng sức của hai tay không để tháo gỡ nó ra. Tháo làm sao đây? Trong lúc bọn tù vã mồ hôi với những tấm vĩ sắt nặng nề thì tên quản giáo vẫn luôn miệng đay nghiến. Các anh gắn đựoc thì các anh phải tháo được! Thiết lập phi trường cho máy bay bắn phá nhân dân thì tài lắm, đến khi phải tháo nó ra thì viện dẫn đủ thứ khó khăn. Liệu nó có khó hơn việc Cách mạng đánh tan thực dân Pháp, đánh tan quân phiệt Nhật, đánh tan đế quốc Mỹ và ngụy quân ngụy quyền hay không?

Tên quản giáo đang miên man đay nghiến bỗng dưng hắn ngừng lại, rồi thốt hét lớn.

- Thằng kia, mày làm cái gì vậy?

- Dạ tôi đái.

- Mày đứng đái giữa trời giữa đất thế à?

- Thưa tôi mót quá. Ở đây đâu thấy cây cối gì!

Mặc dù cũng biết giữa phi trường bát ngát những lớp vỉ sắt làm sao tìm ra được bụi rậm, nhưng sự đái không đúng lúc của một thằng tù khiến tên quản giáo vẫn thấy mình bị xúc phạm. Hắn hằn học hỏi.

- Mày tên gì?

- Phạm Điểu.

Tên quản giáo như nổi điên lên vì lối trả lời cộc lốc của một tên "ngụy".

- Phạm Điểu hay Phạm Đểu? Hắn thét. Mày có biết lễ phép quân cách là gì không?

Ngoài dự đoán của tất cả mọi người kể cả tên quản giáo, trung úy Phạm Điểu, anh chàng người Quảng Nam cao không quá thước rưỡi, người từng ngang ngạnh nói câu "đến bây giờ còn chỗ nào trên đất nước này mà không đáng đái lên", đã trả lời một câu đáng ghi vào quân sử.

- Tôi là quân nhân của quân đội Sài Gòn, làm sao tôi biết được quân cách của "quân đội nhân dân anh hùng"!

Câu trả lời ấy đã biến Phạm Điểu thành người nằm connex đầu tiên của trại L4T1.

Người bị đánh đập và trói dẫn đi thì mặc người. Bánh xe lịch sử vẫn lăn và khối 10 vẫn phải tháo, gỡ, lay, xeo, bưng, khuân những tấm vĩ sắt nặng nề bằng hai bàn tay rướm máu để dọn đường cho bánh xe lịch sử ấy còn lăn tới, và không biết đến ngày nào nó mới lăn tòm xuống sông?!

Tổ A.3, nhân số cũng 10 người như tất cả các tổ khác, bỗng nhiên được lệnh ngừng tay.

- Chuyện gì nữa đây? Tổ trưởng Quách Tứ với giọng Bình Định khe khẽ than thở:

- Tăng cường đào giếng trên tiểu đoàn cho các quan quản giáo có nước tắm chắc! Đặng Xuân Bính thở dài.

- ĐM nó! Làm chuyện gì làm luôn một chuyện. Kéo tới kéo lui mệt quá trời!

Lệ Văn Trợ, với cái tính bộc trực của một người miền Nam, cáu quá cất tiếng chửi thề. Vì anh chửi thề nhiều quá, nên thoạt đầu anh em gọi anh là Ba Trợ, dần dần đổi thành Ba Trợn.

Nguyễn Văn, người vẫn thường khoe với cả tổ rằng mình là một cây bút của báo... Tuổi Ngọc, lại có bố thoát ly đi làm Cách mạng từ khi anh ta còn trong bụng mẹ, "người" hiện đã về thành và thế nào cũng bảo lãnh cho anh ra sớm, vội cất tiếng chen vào.

- Ông Ba Trợn, ông giữ mồm giữ mép chút đi!

Lê Văn Trợ nghe Nguyễn Văn nhắc nhở đâm nổi cáu.

- ĐM mày ỷ con Cách mạng hả? Đi báo cáo đi.

Việc chỉ có thế mà hai người đâm ra to tiếng. Anh em phải can ngay ra. Vừa lúc đó tên quản giáo trờ tới.

- Này, tổ A.3 hả?

- Dạ.

- Tổ trưởng đâu?

- Có tôi.

- Đủ 10 người không?

- Dạ đủ.

Tên quản giáo lấy giấy bút ghi gì đó rồi lại nhét giấy bút vào túi. Hắn ngoắc một tay vệ binh đứng gần lại.

- Đồng chí dẫn 10 anh này về ban chỉ huy, bàn giao hậu cần trách nhiệm và xử dụng, đúng 5 giờ trả về trại.

Tên vệ binh lườm lườm bọn tù một cái rồi hách dịch hất hàm.

- Đi!

Ra lệnh xong hắn trí mũi súng vào tổ A.3, hất hất mũi súng về phía trước có ý bảo mọi người đi tới. Hắn lầm lũi đi theo sau khi đám Vĩnh đã bắt đầu cất bước..

Tổ A.3 đi trở lại con đường cái trong căn cứ. Hai bên lề đường đâu cũng có tù lao động. Chỗ thì cuốc đất, chỗ thì phát quang, chỗ thì lượm lặt và gom lại những súng đạn sét rỉ vứt khắp cùng, chỗ thì đang dùng sức người phá các nền nhà Mỹ...

- Vĩnh! Vĩnh!

Một tiếng la lớn cất lên trong đám tù đang khuân đạn từ một căn nhà đổ nát chất ra lề đường. Tiếng la bỗng im bặt khi có tiếng lên đạn và tiếng chửi thề độc địa của một thằng vệ binh nào đó. Vĩnh vừa bước đi vừa ngoái nhìn đám người bên vệ đường. Anh nhận ra trong đám người ấy có một người hao hao giống người anh họ của vợ mình. Anh Giong. Có lẽ anh ấy đã nhận ra Vĩnh và mừng quá lên tiếng gọi. Tổ A.3 quẹo phải ở một ngã tư. Vĩnh vừa đi vừa lo không rõ tiếp theo tiếng chửi thề của thằng vệ binh, anh Giong có mềm xương không vì sự vi phạm nội quy, tìm cách liên hệ linh tinh với các cải tạo viên của các trại khác?

Tổ A.3 được dẫn về ban chỉ huy tiểu đoàn 1. Sau khi tổ trưởng tập họp điểm danh, tên vệ binh bàn giao lại cho một tên khác.

Đây là lần đầu tiên tổ A.3 được bước vào ban chỉ huy tiểu đoàn. Nó gồm 5 dãy nhà lợp lá nền đất nằm song song với nhau. Dĩ nhiên những dãy nhà này cũng mới được bọn tù đổ công sức dựng lên theo đúng mode thời đại Hồ Chí Minh. Dãy nằm trong cùng thuộc khu vực hậu cần trại. Đàng sau nhà hậu cần là bếp tập thể. Một cái giếng cũng do tù mới đào nằm ngay sau bếp. Hiện tại tổ A.3 đang đứng trước dãy nhà hậu cần. Tên hậu cần ra tiếp nhận tổ A.3 có vóc dáng mập mạp khác thường. Thật đúng là giàu nhà kho no nhà bếp! Hắn mặc áo trận màu cứt ngựa mang quân hàm chuẩn úy tử tế nhưng bên dưới lại chơi một cái quần đùi may bằng cờ... của chúng ta!

Đặng Xuân Bính bỗng rít khẽ qua hai hàm răng.

- Tao mà có dịp vồ lại được mày thì tao sẽ đổ chì vào lỗ đít mày.

- Cứ kiên nhẫn, còn hưởng nhiều trò nhục hơn nữa ông ơi! Lê Văn Sanh, con cóc của tổ chợt nghiến răng.

Tiếng xầm xì trong hàng chấm dứt khi tên chuẩn úy hậu cần bỗng cất tiếng hô "nghiêm!". Tuy nhiên chưa ai kịp nghiêm thì hắn đã xổ vội một tiếng "nghỉ!".

- Thế lày nhá. Hắn bắt đầu nói. Chiều nay thì nà trên cắt công tác các đồng chí đến phục vụ hậu cần tiểu đoàn. Tôi đại diện hậu cần trại lồng nhiệt chào mừng các đồng chí. Trước nạ sau quen, phải không? Bác rậy công tác nào cũng vinh quang như nhau, vậy thì nà chiều nay các đồng chí công tác với tôi, tôi sẽ chỉ đạo các đồng chí những khu vực cần phải rải phóng.

Đây rõ ràng là một trong những tên cán binh đang còn trong tình trạng... mất dậy, hoặc chưa thuộc bài về cách xưng hô với lũ tù "ngụy", hoặc cái lưỡi của hắn đã cứng lại không còn thuốc gì chữa nổi nữa; cho nên hắn cứ thơ thới hân hoan xưng hô đồng chí đồng rận với lũ tù một cách tự nhiên như người... Hà Lội 1. Hắn chợt quay sang hỏi Quách Tứ. Đồng chí nà tổ trưởng hả?

Quách Tứ khó chịu như bị kiến cắn nhưng anh cũng gật đầu. Tên hậu cần lại tiếp. Chào mừng đồng chí được Đảng tín nhiệm giao công tác tổ trưởng. Không cần để ý đến nét mặt của người được chào mừng xanh đỏ vàng đen như thế nào, tên cán bộ hậu cần diễn giảng luôn một lèo về những vinh quang và quyền lợi của chức vụ tổ trưởng. Hắn nói. Tôi bảo thật các đồng chí. Đồng chí... Hắn chợt quay sang hỏi Quách Tứ. À mà đồng chí tên gì nhỉ?

- Tôi là Tứ.

- À đồng chí Tứ. Đồng chí phải biết rằng đồng chí rõ nà may mắn nắm đấy. Tôi í à!? Tôi phục vụ Đảng tính đến nay nà 15 năm, noanh quanh đi gần hết các D của F 2 này cấm đươc cái chức tổ trưởng. Mười lăm năm tự thủ nấy hai vai trò vừa thầy vừa thợ, chỉ huy toàn những tạ muối, tạ ngô, tạ khoai, tạ gạo. Bạn bè với nũ nợn, nũ gà. Đồng chí mới bước vào học tập đã nắm ngay tổ trưởng, may nắm đấy. Đồng chí cố mà nàm cho tốt công tác Trên giao phó. Đừng nàm rì sai trái. Mất không bao giờ nấy nại được.

Đột nhiên hắn ngưng nói vì hắn vừa phát hiện ra mấy cái áo bộ đội khác đang áp sau cánh cửa của nhà hậu cần. Ngẫm nghĩ một chút hắn tiếp. Lói thế đủ rồi. Các đồng chí bộ đội đang chờ ta. Bây giờ tôi triển khai công tác nhá. Vậy thì nà ta có 10 người phải không? À, mà đồng chí tổ phó đâu?

- Có tôi.

Anh chàng Khoa cũng người xứ Quảng, trung úy quân nhu nhưng lại từng có dịp sang Mã Lai tu nghiệp nghề... săn bắt "Cách mạng" trong rừng, nhanh nhẩu lên tiếng. Trong tổ Khoa không được anh em ưa cho lắm vì tính tình bộc lộ sự keo kiệt quá đáng ngay từ thủa ban đầu. Do vậy, vừa lên tiếng là Khoa đã bị ông Ba Trợn kê nhẹ một câu: Thích nhá, sửa soạn được chào mừng đấy!

Khoa nghe thấy nhưng anh cứ lờ đi. Tên cán bộ hậu cần kêu anh bước ra khỏi hàng.

- Có tổ trưởng nại có cả tổ phó, vậy ta chia tổ nàm 2 bán tổ, các anh nhất trí không? Một bán tổ sẽ do tổ trưởng đảm trách, bán tổ còn nại sẽ do tổ phó kiểm tra.

Sau khi tổ A.3 được chia làm 2 bán tổ, tên cán bộ có vẻ hài lòng ra mặt. Hắn nói. Tốt thôi! Giờ tôi chia công tác cho các đồng chí, nhá. Nói tới đây hắn chợt quay vào trong nhà gọi lớn. Đồng chí Toản! Đồng chí Toản đâu? Sau tiếng gọi, từ trong nhà một tên bộ đội khác vai đeo AK.47 bước ra. Nó mặc áo thung và bên dưới cũng chơi một cái quần đùi may bằng cờ quốc gia.

Đám Vĩnh cùng ngó tên bộ đội mới bước ra. Trông thấy nó rồi không thể nào gọi nó là một tên lính được. Bộ mặt non choẹt nhất định chỉ vừa thoát khỏi cái tuổi thò lò mũi xanh đôi ba năm. Trên đầu nó đội lệch một cái mũ lưỡi trai bẩn và nhầu như một cái giẻ lau xe. Mặc dù cũng giòng họ vẩu nhưng nhờ bộ mặt còn non sữa nên trông đỡ quỷ quái. Bù lại, nó có đôi mắt nhìn tù thật ác; đôi mắt như kết tụ sự thành công của một đường lối tuyên truyền nhồi sọ ác độc của Cộng sản về một đối phương "uống máu nhân dân không biết tanh!"

Nó bước ra sân lên tiếng một cách mất dạy không ngờ.

- Giao thằng nào thì giao nẹ nẹ nên. Dẫn mấy thằng tù đi hốt cứt chứ đi đâu mà nên nớp rông rài quá!

Tên cán bộ hậu cần vẫn bình thản nói với đám tù.

- Đồng chí Toản sẽ phụ trách chỉ đạo bán tổ A do anh Tứ nàm bán tổ trưởng. Anh tổ phó dẫn 4 người còn nại theo tôi.

Vĩnh lẽo đẽo đi theo bán tổ A. Tên bộ đội vừa dẫn đường vừa chửi trời chửi đất, sau cùng nó dẫn 5 người đến dãy cầu tiêu phía sau tiểu đoàn, lên lớp một lúc rồi kết luận.

- Chúng mày nhớ dọn cho sạch không ông bắt chúng mày ăn!

Nói đoạn, thằng bộ đội vác súng kiếm bóng mát ngồi.

Quách Tứ vì trách nhiệm vội vã lên tiếng giục anh em, còn anh em thì thằng nào cũng đứng nghệt mặt ra, không biết làm sao với hai tay không múc cho hết hai cái hầm phân đầy dòi và giấy lộn.

- Ông hỏi nó xem có xẻng có thùng gì không? Ba Trợ lên tiếng thúc Quách Tứ. Quách Tứ cũng đang tính như vậy, nhưng vì thấy bộ mặt thằng nhóc hắc ám quá anh còn ngần ngại. Sau cùng Tứ đánh bạo đi về phía tên bộ đội.

- Báo cáo anh, xin anh cho chúng tôi mượn đồ nghề. Tên bộ đội đã thủ thế từ lúc thấy Quách Tứ bước đến. Nghe Tứ hỏi, nó đổ quạu.

- Đồ nghề nà cái rì?

- Dạ xẻng hay cái thùng gì cũng được.

Tên bộ đội vùng vằng đứng lên.

- ĐM xẻng thùng thì nói xẻng thùng, nói đồ nghề! Cứ như là đồ nghề súng đạn để cho chúng mày đi bắn phá nhân rân không bằng! Quách Tứ đứng nuốt hận. Mọi người cũng nuốt hận. Vĩnh bỗng bắt giọng ngâm khe khẽ.

Chim quyên uống nước vũng trâu Phượng hoàng gà đá, diều hâu sẻ đùa!

- Ông ghi câu đó cho tôi nhé. Đặng Xuân Bính chợt lên tiếng bên tai Vĩnh.

- Ghi cho ai chứ ghi cho ông thì không dám.

- Sao thế?

- Nghe thấy tên ông tôi đã rét rồi.

- Sao lại rét? À, hay sợ tôi bà con với Đặng Xuân Khu?

- Đúng thế!

Bính bỗng ngó trời ngó đất rồi cười.

- Ông nghi cũng có lý. Chẳng dấu gì ông, ông nội của Đặng Xuân Khu ngày xưa là tá điền trung thành của ông cố nội tôi. Lão họ gì đó tôi cũng không nhớ nữa. Tôi chỉ nghe kể rằng ông cố nội tôi thương ông nội của Đặng Xuân Khu lắm lắm, thương đến độ cho cải họ nhập vào họ tôi ở làng Hành Thiện. Và ông cố nội tôi đặt cho ông nội Đặng Xuân Khu một cái tên mới là Đặng Xuân Đít...

Vĩnh không nhịn được cười trước khuôn mặt diễu lạnh tanh của bạn mình.

Quách Tứ đã kéo từ trong kho hậu cần ra một cái thùng đại liên trống và hai cái xẻng. Anh nói lớn.

- Có đồ nghề rồi đây mấy cha. Các cha thay phiên nhau múc đổ ra ao rau ngoài xa kia. Tôi, anh Bính và anh Vĩnh múc. Anh Hải anh Trợ ra ao ngồi lượm giấy bỏ riêng ra một đống tìm cách đốt cho sạch.

Thế là một màn múc cứt và chuyển cứt ra ao. Đây là màn mở tay nên ai cũng vụng về. Cái gì vụng về không sao, chứ hốt cứt mà vụng về thì chỉ 15 phút sau mấy thằng tù đã biến thành mấy đống cứt biết đi; thêm 15 phút kế thì không còn ai thấy thằng bộ đội ngồi trong bóng mát đâu nữa. Không hiểu nó không chịu nổi cái mùi vinh quang đích thực của xã hội xã hội chủ nghĩa, hay là đã rúc vào nhà kho kiếm chác vài hạt lạc sống hoặc ít miếng khoai khô!?

Lịch sử là một chuỗi những biến cố không ngừng, ai cũng biết điều đó; và người ta còn biết rõ hơn nữa là lịch sử không bao giờ dành riêng cho ai cái khả năng tiên đoán chuẩn xác. Cách đây vài tháng thôi, ai đoán nổi hàng triệu người miền Nam đang bị Cộng sản dí súng vào lưng bắt hốt cứt cho chúng như thế này? Có thể có một số người đoán biết được miền Nam sẽ hoàn toàn sụp đổ, nhưng chắc chắn không ai đoán ra cái hiện trạng này. Có thể họ sẽ đoán ra cái hậu quả của sự sụp đổ ấy là Cộng sản phải khôn ngoan hơn, ứng dụng khéo léo cái chính sách hòa hợp hòa giải của chúng để từng bước xích hóa êm thắm cả một miền Nam thù hận. Cũng có thể bi quan hơn, họ đoán rằng miền Nam nhất định sẽ trở thành biển máu. Không ai đoán đúng được cái chiêu thức của Cộng sản, rằng chúng chẳng có hòa hợp hòa giải, cũng chẳng cần có biển máu; nhưng để triệt hạ những thành phần chống lại chúng, chúng có một biện pháp siêu quần hơn: Gom tất cả lại, dùng sự khổ sai trên thể xác, tủi nhục trong tâm hồn giết dần những đối tượng của chúng!

Sự tiên đoán chuẩn xác, do đó, rõ ràng đã không có cho những người của thế giới Tự Do, kể cả những máy tính điện tử tinh vi nhất của Ngũ Giác Đài...

- ĐM lại rơi cái đầu Bác nó xuống mất rồi!

Tiếng chửi thề bực bội của Bính lúc hắn làm rơi cái thùng múc phân xuống hầm cầu khiến Vĩnh giật mình.

- Thì tìm cách lấy nó lên. Ông chửi tôi nghe ghê quá! Tổ trưởng Tứ khẽ cự.

Vĩnh cảm thấy mệt mỏi. Cuộc chiến tới đây rất cần những người như Bính, nhưng nếu cứ cái tính khí ấy, hắn sẽ tiêu trước khi có dịp cầm súng trở lại. Lúc Quách Tứ chạy tìm một cọng kẽm làm móc, Vĩnh thủ thỉ với bạn.

- Bính à, dù thế nào mày cũng không nên quá tin những người chung quanh. Mày chửi hoảng kiểu đó có ngày mang đại họa.

Bính như hồi tâm, hắn nhún vai.

- Tao cũng ngại bọn chức sắc này kia kia nọ lắm, nhưng có lẽ chỉ khi chết rồi tao mới bỏ được cái máu húc Biệt Động của tao!

Vĩnh lặng thinh trước câu than thở của Bính. Anh nhìn người bạn khóa 25 võ bị rồi ngó lên mây nói vu vơ.

- Sống nhục khổ hơn chết! Nhưng khốn nạn thay, lịch sử chỉ thuộc về những kẻ còn sống, không thuộc về những người đã chết...
--------------------------------

1
Sau 30/4/75, đồng bào Nam Bắc một số được gặp lại nhau. Đa số là người ngoài Bắc kéo vào thăm người trong Nam, từ đó xảy ra cảnh người trong Nam nhận họ còn người ngoài Bắc thì nhận... hàng. Vì hoàn cảnh đói khổ thiếu thốn mấy chục năm, người ngoài Bắc vào thăm người trong Nam gặp gì cũng lấy. Lấy trước xin sau! Do vậy, văn chương dân gian miền Nam đã sáng tác ra câu tự nhiên cứ như người Hà Nội để diễn ta tình huống thê thảm này!
2
Quân đội CSVN quen dùng các mẫu tự từ A đến F để gọi thay cho các cấp từ tiểu đội lên tới sư đoàn. Thí dụ D: tiểu đoàn. F: sư đoàn.

1      2      3      4      5      6      7      8      9       10      11      12      13      14

No comments:

Post a Comment