Saturday, October 19, 2013

HỒI KÝ ĐẠI HỌC MÁU CỦA HÀ THÚC SINH - KỲ 11


CHƯƠNG NĂM MƯƠI MỐT

Trại Suối Máu nằm theo hình chữ nhật. Nếu tính từ cổng chính (cổng mới, còn cổng cũ quay mặt ra con đường nhựa đã bị rào lại) thì bệnh xá chiếm một góc trong cùng. Để đi tới bệnh xá, người bệnh (dù lao vờ để trốn học chính trị như Vĩnh!) phải đi dọc theo con đường chính của trại vào sâu phía trong. Trên con đường này người bệnh sẽ lần lượt đi qua K.1, K.2 rồi K.3. Đối diện với ba K, phía bên này đường là ban chỉ huy của các K ấy. Phía trước mặt các ban chỉ huy có rất nhiều vọng gác, và từ các vọng gác súng đại liên đều chĩa sang phía các K. Đặc biệt, một lô-cốt coi mòi vững nhất và nhiều ổ súng nhất lại chính là ngôi thánh đường nho nhỏ ngày xưa. Chưa hết, trên con đường này, ngay phía trước hàng rào các K, người bệnh còn được hưởng một cảm giác ghê hồn khi nhìn thấy những dãy connex đen xì nằm dài dài bên lề đường dưới trời trưa nắng. Bên trong những connex ấy, ngoại trừ một cái có những tiếng hò hét không mệt mỏi thường xuyên phát ra, thứ hò hét của một con người đã xa vời lý trí, còn thì chỉ có những tiếng thở mệt nhọc, những tiếng cục cựa rã rời, chật chội giống như đời sống khốn cùng của những loài bò sát, những sinh vật cấp thấp dưới hang ổ chìm sâu trong lòng đất!...

Đi hết con đường chính sẽ quẹo trái, và đi thêm chừng hai trăm thước nữa là gặp góc trong cùng của trại Suối Máu. Nơi góc này tọa lạc bệnh xá và K.30 về phía trái, và phía phải là ban chỉ huy của K.4, K.30 và bệnh xá. Nếu tới góc bệnh xá và khối mộc, quẹo trái sẽ gặp một con đường chạy bên hông K.4 lên tới K.5; tuy nhiên con đường này bị concertina cắt làm nhiều đoạn, để ngăn cách ranh giới của hai K.4 và K.5. Dọc đường bên cánh phải là hàng rào thép gai cao ngất. Phía ngoài hàng rào thép gai ấy là rừng hoang cỏ rậm có đầy mìn. Vượt được bãi rừng đầy mìn này sẽ gặp đường sắt xe hỏa...

Thủ vai trò của một tù bệnh lao phổi trầm trọng. Vĩnh xách túi quần áo trên tay và lẽo đẽo đi theo tên quân y K.5 dẫn đường. Thỉnh thoảng Vĩnh không quên ngồi bệt xuống bên đường, mặc cho vẻ bực bội thường xuyên xuất hiện trên khuôn mặt rỗ chằng rỗ chịt của thằng Việt cộng. Một người bị ho lao ra máu và gầy như con mắm khô thế này không có quyền tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc tới... bệnh xá! Người ấy phải đi như Chúa đi trên đường chịu nạn, phải ngã lên ngã xuống mặc cho quân dữ ra tay roi vọt (tỉ như tên quân dữ thời mới rỗ chằng rỗ chịt này có ra tay roi vọt!). Và khi đã lê tới cổng bệnh xá, người ho lao không nên lấy làm đắc chí mà xồng xộc đi ngay vào phòng nhận bệnh. Người ho lao phải ngồi xuống bên cổng; ho cho đến khi nào thằng quân y phải sốt ruột và chạy vào phòng nhận bệnh kêu người ra giúp...

Vĩnh đã đóng thật khéo vai trò của một tù bệnh lao. Quả như anh dự đoán, chỉ sau vài cơn ho rũ rượi, ho bò trên đất, tên quân y đã đi thật nhanh về phía phòng nhận bệnh. Ít phút sau, Vĩnh thoáng thấy ngoài tên quân y còn có ba người khác đi theo, hai trong ba người ấy cầm theo cái cáng. Ít phút sau nữa thì Vĩnh đã được cáng vào nằm trong một dãy nhà tôn, trên một tấm phản gỗ đã cong queo vì sức nóng của đất trời.

Khi bốn người đã bỏ đi về phía dãy nhà tôn chéo góc với dãy nhà Vĩnh đang nằm, Vĩnh mới để ý quan sát chung quanh. Phòng cũng đồng dạng với kiểu phòng 5mX15m bên K.5, cũng tứ bề là tôn nhưng có nền xi măng và đặc biệt có kê chừng mười lăm cái phản gỗ loại dài thước tám rộng tám tấc. Cả phòng hiện có sáu người nằm kể cả Vĩnh, ngoại trừ một người trung niên trông khỏe mạnh đang ngồi lúi húi nấu đồ ăn trong góc nhà, còn mấy người nằm trên giường coi mòi đều già cả hoặc ốm đau nặng. Vĩnh nằm trên tấm phản sát lối ra vào giữa dãy nhà. Từ chỗ này anh có thể nhìn ra vuông sân rộng, nhìn thấy giếng nước gần cuối sân, nhìn thấy cái bếp của trại bệnh đang nhả khói lên trời nằm ngay cánh trái sát cổng trại, chỗ khi nãy Vĩnh đã biểu diễn một màn ho lao ngoạn mục. Trong phòng, cũng từ chỗ này, nhìn sang trái gần chỗ kê mấy cái bếp con và có người đang nấu nướng, Vĩnh thấy một người bệnh còn trẻ tuổi đang nằm đọc báo. Dù cách nhau đến mấy tấm phản nhưng Vĩnh vẫn nhìn thấy rất rõ anh ta. Anh gầy bằng... nửa Vĩnh. Nếu đem cân có giác lắm thì cũng 30 ký là cao. Nước da anh xanh không khác nào mới bị nhúng vào một thùng nước lơ Ông Tạo. Quả là một bộ xương khô đang nằm trên tấm phản đúng hơn là một con người. Lâu lâu anh lại húng hắng ho. Nằm đối ngay với Vĩnh là hai ông già. Một ông mập và một ông gầy. Cả hai nằm bất động như hai xác chết. Họ đều lim dim ngủ. Cách giường của hai ông già về phía tay phải chừng bốn tấm phản còn một thanh niên khác nữa. Anh này trông trắng trẻo bảnh trai. Nửa thân dưới anh đắp kín một tấm chăn cừu loại đắt tiền trước kia dù hiện tại đã ngả màu và trông rất bẩn. Nhìn kỹ chút nữa, Vĩnh thấy phía trên vách ở mỗi đầu chỗ nằm đều có dán một mảnh giấy ghi cấp bậc tên tuổi. Nhiều bảng tên đã mất nhiều chữ vì bị xé hoặc bị gián nhấm. Đại tá... Giám. Trung tá... Văn Quỳ. Đại... Phạn... Ân. Thiếu tá Trần Hoàng Quán... Những bảng tên khiến Vĩnh nghĩ rằng có lẽ dãy nhà này trước đây cũng là một trong những dãy nhà mà các đàn anh trong quân đội đã từng tạm trú một thời gian trước khi bị lôi ra Bắc.

Đang nghĩ ngợi vẩn vơ bỗng một người xuất hiện bên cạnh.

- Sao, đỡ ho chưa?

Một giọng nói thân mật cất lên, Vĩnh ngước nhìn người đứng bên cạnh và mỉm cười ngoại giao. Anh chưa kịp nói gì thì người ấy đã ngồi xuống mép phản, thò tay bắt ngay mạch cổ tay của Vĩnh. Tôi là Thiết, Hoàng Đình Thiết, bác sỹ "ngụy".

Thấy anh chàng bác sỹ mập mạp này vui vẻ, Vĩnh cũng yên tâm.

- Trước bác sỹ ở đâu?

- Tổng y viện Cộng Hòa... Nằm yên nhé! Nằm yên tôi chích cho một mũi thuốc khỏe.

Sau khi bắt mạch, nghe tim nghe phổi, bác sỹ Thiết chích cho Vĩnh một mũi B.12 nội hóa.

Vĩnh lên tiếng.

- Bác sỹ ở đây lâu chưa? Có mình bác sỹ thôi hả?

- Tụi tôi ở đây đông lắm. Giải giao từ Thành Ông Năm về đây từ cuối năm 75... Mà thôi! Từ từ rồi anh biết hết. Hiện tại nằm nghỉ cho khỏe. Ở đây coi vậy chứ dễ thở hơn ở trại nhiều. Vả lại phổi anh chẳng có gì nguy hại đâu. Ở đây không có quang tuyến nhưng nghe cũng biết. Chỉ là một cái sẹo cũ trên đỉnh phổi phải thôi. Tôi sẽ nhờ ông thầy Châu nghe lại một lần nữa cho chắc.

Nói đoạn bác sỹ Thiết cầm vài món đồ nghề bước ra ngoài sân. Vĩnh đâm lo. Quả mấy tay bác sỹ "ngụy" thứ thiệt này tài thật. Vĩnh lòe là lòe mấy thằng bác sỹ Việt cộng. Lòe mấy tay này coi bộ không nổi. Hôm được ông Triển cho lên đây nằm cũng vì cảm tình thôi. Nghe phổi ông ấy cũng thừa hiểu tình trạng của Vĩnh chỉ suy yếu vì những căn bệnh khác như sạn thận, bao tử, ruột... Những căn bệnh không truyền nhiễm và chỉ khi sắp chết may ra mới được đưa lên bệnh xá để có y chứng cho hồ sơ.. chết bệnh! Còn phổi chẳng có gì!

Hai ngày sau thì Vĩnh đã được ông đại tá bác sỹ Nguyễn Văn Châu, cựu cục phó quân y QLVNCH, một bác sỹ chuyên khoa về phổi xác nhận riêng với Vĩnh.

- Đừng lo! Phổi anh chẳng có quái gì đâu. Nhưng tôi sẽ cho anh nằm đây một tháng nghỉ ngơi. Anh biết me xừ Đào, già Đang và thằng Thắng phải không?

Vĩnh quên sao được bạn cũ. Đào là người từng bị Phạm An Toàn ăn cắp tiền và ném hết hình ảnh lẫn kính cận xuống hầm cầu tiêu đầy dòi bọ. Thắng là tay thiếu úy Biệt Kích trẻ tuổi ở chung khối với Vĩnh từ dạo Trảng Lớn. Còn ông già Đang thì mới không gặp vài tháng đây thôi, kể từ ngày di chuyển khỏi trại An Dưỡng. Hiện tại đám này đều may mắn lọt sang khối mộc của trại Suối Máu. Nhiệm vụ duy nhất của họ là kéo cưa lừa xẻ và được hưởng một chế độ ăn uống nghỉ ngơi tương đối thoải mái hơn các K khác rất nhiều. Khối mộc (K.30) nằm sát bệnh xá và dùng chung hội trường với lũ tù bệnh, và khi có việc nặng nề, mấy ông bác sỹ đều chạy sang khối mộc nhờ anh em bên đó giúp đỡ.

Nghe ông bác sỹ Châu nhắc đến tên ba người, Vĩnh gật đầu.

- Dạ biết. Tôi gặp họ hôm qua rồi.

Bác sỹ Châu thu đồ nghề và đứng lên.

- Họ nói anh văn nghệ lắm. Thôi ở đây ca hát đàn địch với anh em một thời gian cho vui.

Thế là coi như vận may lại đến với Vĩnh. Trước hết là anh thấy mình thoát khỏi đợt học tập chính trị mười ngày sắp đến. Vĩnh bắt đầu hòa mình vào sinh hoạt của bệnh xá Suối Máu và bắt đầu chụp những pô ảnh đang xảy diễn chung quanh anh.

Bệnh xá này gồm ba dãy nhà. Một dãy sát cổng dùng làm hội trường và nơi khám bệnh cũng như ngủ nghê cho sáu ông bác sỹ tù: Đại tá Nguyễn Văn Châu, cựu cục phó cục quân y; đại tá y sỹ Nguyễn Khái, cựu chỉ huy trưởng tổng y viện Cộng Hòa; trung tá y sỹ Trần Văn Nam, cựu chỉ huy trưởng quân y viện Trần Ngọc Minh, thiếu tá y sỹ Trần Đình Thiết, bác sỹ giải phẫu tổng y viện Cộng Hòa; thiếu tá y sỹ Cường, cựu tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn quân y sư đoàn TQLC; thiếu tá y sỹ Các, bác sỹ giải phẫu. Đó là về phía bác sỹ. Về phía bệnh nhân có hai dãy nhà. Một dãy cách ly là dãy Vĩnh hiện đang nằm gồm Vĩnh và năm người khác. Dãy kia nằm cắt góc với dãy cách ly và đối diện với dãy của các ông bác sỹ, gồm chừng mười người bệnh. Ba dãy nhà này hợp với dãy nhà bếp tạo thành một hình chữ nhật ôm lấy một vuông sân chính giữa. Nằm ngay góc dãy nhà cách ly và dãy nhà của các bác sỹ có một dãy nhà 5mX10m. Đây chính là dãy nhà ở của anh em khối mộc.

Trong dãy cách ly ngoài Vĩnh có ông Nguyễn Thụy Hòa, cựu thiếu tá không quân hồi hưu. Ông cũng là cư sỹ Khánh Vân, từng làm chủ bút tờ Đại Từ Bi của nha tuyên úy Phật Giáo QLVNCH. Nằm cạnh ông Hòa là ông Danh, cựu thiếu tá quân nhu. Anh chàng thanh niên gầy như bộ xương khô là Chung Văn Nhỏ, cựu thiếu úy địa phương quân. Người khỏe mạnh nhất và cũng là xếp dãy cách ly là Nguyễn Văn Tài, cựu thiếu tá quân nhu. Riêng anh chàng đẹp trai trắng trẻo không bị lao mà bị tê liệt hai chân. Chẳng hiểu vì lý do nào anh lại được đưa sang nằm bên dãy cách ly. Anh tên là Cao Anh Tuấn, cựu đại úy. Theo như anh nói, anh là em ruột của nhà thơ nữ Cao Thị Vạn Giả. Tác giả này xưa kia Vĩnh có đọc thấy một lần trong một quyển bình thơ. Vĩnh chỉ còn nhớ được một câu duy nhất của bà là câu:

Mù sương phi cảng não nề,
Thôi anh ở lại buồn về em mang...

Riêng dãy thường bệnh có cựu đại tá kiêm nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông. Tác giả của Chiều Mưa Biên Giới hiện đang bị bệnh sưng khớp hành hạ. Tất cả các khớp xương trong người anh đều sưng lên, đau nhức và không đi lại bình thường được. Do căn bệnh của anh, anh biến thành một cái máy báo thời tiết thật chính xác. Anh nói chiều mưa là chiều mưa, nói trưa nắng là trưa nắng. Thời tiết đã ảnh hưởng rất nhanh và tạo sự đau nhức trong thân thể anh. Người thứ hai là Chiêu, cựu đại úy quân cảnh. Chiêu vốn là một tay to con khỏe mạnh, chỉ vì bổ củi cho nhà bếp, bị một mảnh củi văng trúng dương vật làm độc; do không thuốc men chữa trị, vết độc lan dần và khi được đem lên bệnh xá, dương vật của Chiêu đã hoàn toàn bị mục rửa hết phần đầu và cực kỳ hôi thối! Căn phòng thường bệnh dài mười lăm thước, non chục người khác đều dồn về một góc, mình Chiêu mắc võng nằm một góc. Chiêu nằm chịu trận tháng này qua tháng khác với sự chăm sóc của non chục bác sỹ "ngụy" chỉ bằng thuốc đỏ, thuốc tím và lâu lâu được một hũ Bi quá hạn cách mạng bố thí cho! Không ai có thể đoán được rồi trong tương lai số phận của Chiêu sẽ ra sao. Người thứ ba là Nguyễn Bảo Tụng, cựu đại úy quân cảnh tư pháp và là nhà sưu tập tem nổi tiếng của Việt Nam. Anh Tụng bị bệnh gì Vĩnh không rõ, chỉ biết anh tương đối khỏe mạnh hơn hầu hết các anh em khác. Vì anh là người Công Giáo, thành thử có ai hấp hối, anh luôn luôn tỏ ra là một người hăng hái nhất trong công tác tông đồ. Anh phóng đến đầu giường của người hấp hối, chẳng cần biết người đó là Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Hòa Hảo Giáo hay Bà Hai Giáo; anh nhanh chóng làm phép rửa tội.

- Giu-Se! Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Thánh Thần!

Làm xong phép rửa tội, anh đứng đọc kinh Cầu Hồn oang oang trong phòng bệnh ngay đầu giường người hấp hối, sau khi đã quan sát kỹ càng trước sau để bảo đảm rằng không có thằng vệ binh nào đứng gần đấy.

Bên khu bệnh thường còn vài tay khác nữa, nhưng họ chỉ là những người bị tai nạn lao động, xẹt đến rồi xẹt đi trong vài ba ngày.

Để hội nhập vào khu cách ly không phải dễ dàng. Trước tiên, Vĩnh tự biết rõ mình hiện không lao; mà không lao thì dĩ nhiên phải sợ người lao và từ sự sợ hãi này, người ta rất khó quàng vai cụng chén với một người như Chung Văn Nhỏ hoặc ông cụ Hòa. Thế nhưng chỉ một tuần đầu qua đi, Vĩnh đã thắng được sự sợ hãi này một cách rất thiếu vệ sinh. Anh ăn cơm chung với Chung Văn Nhỏ và hầu như suốt ngày quây quần với những người lao thứ thiệt bên bàn cờ tướng hoặc bên cái điếu cầy. Phải chăng tình bạn thật có khả năng xóa mọi biên giới?

Để đốt thì giờ, Vĩnh ngồi hầu cờ tướng ông Hòa và kể chuyện văn nghệ cho nhau nghe. Ông có đưa cho Vĩnh xem một bộ sách dạy cách học chữ Hán ông soạn trong tù. Ông còn cho Vĩnh xem những bài bản dịch Hán Việt hoặc Việt Hán của ông, chẳng hạn bài Chức Cẩm Hồi Văn, ông dịch từ Hán sang Việt. Ông tỏ ra rất thích bài này và cứ ngâm đi ngâm lại mãi câu cuối: Cúi xin thiên tử trả ngay chàng về!... Hoặc giả bài Ông Đồ Già của Vũ Đình Liên, được ông dịch sang Hán Văn với tựa đề là Lão Nho Giả.

Dù sao, điều mà Vĩnh quý nhất ở ông cụ Hòa là cái khí phách và sự tự trọng. Theo lời kể lại của một số anh em, ông Hòa đã từng lợi dụng sự phát biểu đợt học tập chính trị cuối năm 75 ở Suối Máu, để chửi xéo Văn Tiến Dũng trước mặt mọi người, kể cả bọn cán bộ khung, rằng "thằng Dũng làng Noi cả nòi hốt cứt".

Sau bốn ngày Vĩnh nhập viện, bọn chỉ huy trại tù Suối Máu phát động một chiến dịch thi công ăn mừng 60 năm Cách Mạng Tháng Mười. Bọn tù bệnh không phải thi công lao động mà còn được ban chỉ huy trại bệnh cho đăng ký mua mỗi người nửa ký thịt heo (với giá cắt cổ) để "ăn mừng lễ" nếu như ai có tiền. Hầu như mọi người, từ bác sỹ tù đến bệnh nhân tù đều tỏ ra phấn khởi trước tin vui, ngoại trừ ông cụ Hòa. Khi bác sỹ Cường, kẻ phụ trách hậu cần trại bệnh, đến hỏi ông Hòa có mua thịt heo không, ông đã vùng vằng nằm quay mặt vào vách, nói như mắng.

- Người như tôi mà lại phải bỏ tiền ra mua thịt heo ăn mừng lễ của chúng nó à?

Rồi ngay đêm đó, bọn tù khối mộc lẫn bọn tù bệnh kéo nhau lên hội trường xem chương trình văn nghệ đặc biệt mừng lễ sinh nhật 60 năm Cách Mạng Tháng Mười của người anh em vĩ đại Liên Sô. Trong lúc màn ảnh nhỏ đang chiếu lại một số tài liệu và hình ảnh về cuộc đời Lenin, một giọng nói ngoài cửa chợt khàn khàn cất lên khiến mọi người tái mặt.

- Thằng sói đầu trên TV là cái thằng chó chết nào vậy mấy ông?

Sự thù hận cộng sản khiến không còn ai tìm ra được một dấu tích nào để chứng tỏ ông từng là một cư sỹ Phật Giáo, từng ăn chay niệm Phật để quên đời từ ngày giũ áo từ quan. Ở ông, ngày nay bọn tù bạn chỉ có thể nhìn thấy một nỗi chua chát tận cùng của một người đã quá hiểu cộng sản nhưng tuổi già, thân bệnh lại thất thế thất thời, không còn một hy vọng nào đánh trả được kẻ thù dù chỉ bằng một hành động khiêm tốn nhất.

Thế nhưng một người bạn khác, dù rất trẻ tuổi, tính tình lại hoàn toàn ngược lại với ông cụ Hòa. Người ấy là Chung Văn Nhỏ. Nhỏ lao rất nặng. Do hậu quả hư một bên phổi, dáng đi của Nhỏ luôn luôn lệch sang một bên. Suốt ngày Nhỏ nói không quá mười câu. Ngoài giờ ăn uống ngủ nghê, Nhỏ ngồi viên viên từng tí ruột bánh mì thảy nuôi cặp gà mua được của thằng bộ đội, từ hai tháng nay. Nhỏ ăn cơm chung với Vĩnh.

Trong thời gian nằm bệnh xá, Vĩnh còn quen được một người bạn mới thật đặc biệt. Anh tên là Nông Hải Sơn, cựu đại úy trưởng phòng kế hoạch của trường Bộ Binh Thủ Đức. Theo như Sơn cho biết, anh là cháu gọi ông Nông Quốc Long (thuộc cánh cụ Nguyễn Hải Thần?) bằng chú ruột. Sơn tính tình điềm đạm, xuất sắc đặc biệt về môn tử vi và chiêm tinh. Ở con người Sơn luôn luôn toát ra một cái gì thật thần bí. Anh giỏi tử vi đến độ chỉ cần nói giờ và ngày sinh tháng đẻ, bấm tay một lúc, anh có thể khẳng định ngày sinh tháng đẻ ấy đúng hay sai so với nhân dáng hiện tại. Nếu đúng, cũng chỉ cần bấm tay một lúc anh đọc vanh vách tất cả các sao và giải luôn tại chỗ lá số cho người được bấm. Có lần anh em cho Sơn một yếu tố tử vi, sau một lúc tính toán, Sơn than thở.

- Tên này không thể sống quá tuổi đôi mươi!

Anh em ai cũng thất kinh vì yếu tố tử vi bạn bè vừa cho anh chính là ngày giờ khai sinh của bọn phiến cộng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Ngoài tài tử vi, mỗi sáng tinh sương vào quãng bốn giờ, lúc thức giấc đi tiểu, Vĩnh luôn luôn thấy Sơn ngồi trên một cái ghế đẩu kê ngoài sân trại bệnh. Anh ngồi bất động, mắt ngước nhìn trời. Vĩnh không bao giờ quấy rầy bạn nhưng anh biết những lúc ấy Sơn đang nghiên cứu khoa chiêm tinh. Sơn hay nói với Vĩnh.

- Ông yên tâm! Thế nào ông cũng được thả trước tôi và tử vi ông cho thấy rõ ông không được hưởng tuổi già ở quê hương.

Nói đoạn Sơn lại buồn buồn, rồi tiếp. Mỗi sáng tôi soi gương, tôi biết số tôi lao tù còn dài lắm. Tài Khổng Minh cũng không giải nổi cái nghiệp oan khiên này cho tôi...

Vì Sơn ở trại Suối Máu trước bọn Vĩnh khá lâu, thủa còn tướng tá, nên anh biết rất nhiều chuyện nơi đây, kể cả những chuyện ở khám Chí Hòa, nơi anh bị giam giữ những tháng đầu tiên. Anh hay nói.

- Khám Chí Hòa không ngờ có ngày cùng một lúc được tiếp rước đến ba ông thủ tướng. Thủ tướng Phan Huy Quát, thủ tướng Nguyễn Văn Lộc và cả cựu thủ tướng Miên là Sơn Ngọc Thành.

Cũng qua Sơn, Vĩnh còn được biết ông Ngô Khắc Tỉnh đau ốm ra sao; em ông là Ngô Khắc Tịnh bị biệt giam như thế nào; ông Hồ Văn Châm mê đọc sách Cách mạng ra sao... Hết nói tới những nhân vật của chế độ cũ, Sơn lại kể tới những thằng Tàu tài phiệt ăn xài và mua chuộc bọn công an cai tù như thế nào. Riêng những chuyện đã xảy ra ở Suối Máu này, Sơn hay nhắc tới một câu chuyện mà anh cho là vui nhất. Đây là câu chuyện về một anh trung sỹ TQLC. Chả hiểu vì lý do nào, ông trung sỹ cũng bị tóm nhốt vào đây. Trong những đợt tự khai ban đầu, ông trung sỹ nhà ta đã khai rằng ông là trung tướng Nguyễn Huệ, tư lệnh sư đoàn 23B. Thời gian này ông "trung tướng Nguyễn Huệ" ở chung đội với hai tướng Giai và Thân. Mỗi khi xếp hàng, anh em thường nhường cho hai ông tướng đứng đầu hàng để ngầm giữ lễ nghi quân cách. Những lúc như thế, ông trung sỹ lại xồng xộc chạy lên mắng hai ông chuẩn tướng thứ thiệt.

- Tôi trung tướng, các anh chuẩn tướng phải đứng sau lưng tôi.

Biết rõ ông bạn tù không phải người bình thường, hai ông Giai và Thân đành tụt xuống dưới nhường chỗ tiên chỉ cho ông trung sỹ. Sau đó một thời gian, bỗng nhiên có một phái đoàn từ bộ tư lệnh quân khu 7 của Trần Văn Trà xuống tận trại Suối Máu kêu hai tướng Giai và Thân lên thẩm cung. Chúng yêu cầu hai ông cho biết trong quân đội "ngụy" có ai tên là Nguyễn Huệ cấp bậc và chức vụ là trung tướng tư lệnh sư đoàn 23B hay không. Ông Giai và Thân phải khẳng định rằng hơn hai mươi năm ở quân đội miền Nam, các ông ấy chưa từng nghe có tướng lãnh nào tên là Nguyễn Huệ, và cũng chưa từng nghe QLVNCH có sư đoàn nào gọi là sư đoàn 23B. Sau đó một thời gian, tướng Giai và tướng Thân bị bịt mắt đem lên xe jeep đưa đi mất. Đợt đi Bắc kế tiếp ông "trung tướng Nguyễn Huệ" cũng bị lôi đi luôn.

Những câu chuyện thương tâm nhất mà Sơn kể lại cho Vĩnh nghe ấy là câu chuyện xử bắn hai sỹ quan cấp thiếu tá trốn trại nơi đây. Họ trốn không thoát, bị bắt lại, bị tra khảo và sau cùng bị xử bắn. Khi tiếng súng hành quyết vang lên, trời hôm ấy đang quang bỗng nhiên tối sầm lại và mây đen kéo đầy trời. Sơn nói từ ngày được biên chế sang khối mộc, anh có làm một bàn thờ nhỏ giấu sau hàng rào K.30 để thờ hai vị thiếu tá đó mà không ai hay biết.

Sơn còn nhắc đến nhiều người đã chết nơi bệnh xá này. Anh chỉ lên cái bảng tên dán trên vách của dãy nhà cách ly và nói.

- Ông thấy cái bảng tên đại tá Giám kia không? Tội nghiệp ông ấy. Ông ấy chết ở đây cũng vì bệnh phổi. Ông ấy giỏi tử vi lắm và cũng là người từng bấm tử vi cho Nguyễn Văn Thiệu.

Rồi thì Sơn nhắc đến đại tá sử gia Phạm Văn Sơn. Sử gia Sơn cũng từng nằm bệnh xá này vì bệnh ghẻ. Ông ghẻ cùng mình, ghẻ cả mắt cả mũi. Chính Sơn là người hay sang trại bệnh đút giùm cơm cho đại tá Sơn ăn. Đợt lôi đi Bắc đầu tiên, dù bị ghẻ không lết nổi, đại tá Sơn vẫn bị quăng lên xe Molotova đem đi.

Một câu chuyện thương tâm khác nữa mà Sơn kể là câu chuyện về thiếu tá Linh, một tiểu đoàn trưởng của lực lượng Biệt Cách Dù. Ông Linh bị nhốt khám Chí Hòa cùng thời với Sơn. Ông bị nhốt biệt giam dài dài cho đến ngày được đem về Suối Máu. Ở Suối Máu sau khi khỏi bệnh bại xụi ông lại bị lao nặng. Ông được đưa sang bệnh xá và gặp lại Sơn bên khối mộc. Dù bệnh nặng, tinh thần ông Linh vẫn rất cao. Mỗi chiều, ông khập khễnh đi vòng vòng quanh vuông sân trại bệnh, cây gậy thay vì chống xuống đất ông lại chống lên trời.

- Sao anh không chống gậy xuống đất mà lại chống lên trời khó coi thế kia?

Có lần Sơn cất tiếng hỏi và ông Linh lạnh tanh trả lời.

- Tao đang tìm cách chống trời đây!

Những ngày sau cùng, theo Sơn kể, ông Linh hay nóng nảy. Ông nói oang oang trên giường bệnh như người mê sảng.

- Giữa tư bản và cộng sản mày chọn ai?

Tự hỏi xong ông lại hét lên để tự trả lời.

- Tao chọn cái khoảng trống giữa hai thứ đó!

Ông thiếu tá Linh sau cùng đã chết vì bệnh lao ở trại Suối Máu...

Vì thực phẩm hiện tại ở trại Suối Máu là tinh bột, thứ bột mì mà theo tin đồn, tù cải tạo biết rằng nó là tặng phẩm của thế giới Tự Do dành cho nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sắp chết đói, nên các K đều phải tìm cách đắp lò nướng bánh. Bệnh xá không có người phục dịch chuyện cơm nước. Mấy ông bác sỹ toàn những thứ ăn trắng mặc trơn có truyền thống, ngoài chuyện chữa bệnh nấu nồi cơm không nên chuyên; do đó ban chỉ huy trại bệnh kiêm khối mộc quyết định để cho bếp khối mộc quản lý luôn chuyện nấu ăn cho tù bệnh. Các ông bác sỹ, ngoài việc chẩn bệnh chữa bệnh cho anh em, chỉ phải làm thêm vài công tác nhỏ như trồng vài luống rau để tự túc, kéo nước đổ vào mấy cái chảo gang sứt quai đặt ngoài bờ giếng cho tù bệnh có nước tắm...

Vì lý do trên, thốt nhiên lũ tù bệnh đồng loạt biến thành lũ con ghẻ của khối mộc. Hôm nào rảnh rang thì họ nướng hộ bánh cho ăn trong lò nướng của họ. Hôm nào bận, họ chỉ nhồi bột sơ sài, nắn thành từng miếng to và dẹp cỡ bàn tay, thảy vào chảo nước sôi luộc chín và đem phát cho bệnh nhân mỗi người một miếng.

Sơn vẫn luôn luôn là một người bạn tốt bụng. Mỗi chiều đi lao động về, Sơn thường khuân sang bệnh xá tiếp tế cho đám Vĩnh những bó củi thật nỏ. Vĩnh và Nhỏ ngồi xắt mấy miếng bột luộc thành những lát thật mỏng, bỏ vào nồi, thêm tí mắm ruốc, tí ớt, tí rau lang, đổ nước vào và dùng củi Sơn cho nấu ăn với nhau.

Ngày tháng trôi qua, Sơn và Vĩnh còn phối hợp công sức để làm đàn guitar. Ván ép, cưa, bào, đục... đều do Sơn cung cấp. Rồi thì những cây đàn guitar lần lượt thành hình. Từ đó, mỗi chiều ngoài Sơn và một hai ông bạn bên khối mộc, Vĩnh còn có thêm ông bác sỹ Nam, một ông bác sỹ già và hóm hém đến chỗ Vĩnh nằm để học nhập môn nhạc lý và những bài đầu của tập Carulli.

Những khi trời chập choạng, Vĩnh, Sơn và Nhỏ hay ra hàng hiên phía ngoài cửa dãy cách ly ngồi ngắm mấy con gà và những cây rau dền xanh tươi của Chung Văn Nhỏ. Bên ngoài hàng rào là con đường dẫn vào cổng K.4. Ngồi nơi đây, Vĩnh thường thấy thoáng qua vài người bạn học cũ đi lao động về trong hàng ngũ của các tù nhân K.4. Thấy nhau ơi ới vài tiếng thôi. Chẳng ai dám nói chuyện với ai vì tụi quản giáo cũng như vệ binh K.4 rất ác, phạm nội quy liên hệ linh tinh là chúng bắt quỳ cả đội giữa đường.

Cũng trong những lúc ngồi với nhau, Vĩnh lại được nghe Sơn kể thêm cho biết ngay từ phòng cách ly này, một cuộc trốn trại ngoạn mục đã xảy ra gần sáu tháng về trước. Người trốn trại, và trốn thoát bằng cách vượt bãi mìn trước mặt, là một bệnh nhân. Đúng ra, anh ta không phải là một bệnh nhân. Anh là người can tội tự tử và được đem qua đây chữa trị. Anh đã tự tử bằng cách dùng một cây căm xe đạp đâm lút vào giữa ngực. Chả hiểu anh ta có tài xiên lĩnh hay không mà anh không chết. Trong thời gian được nằm bệnh xá, anh đã đánh lừa sự kiểm soát sớm tối của mấy ông bác sỹ "ngụy", bằng cách lôi một cái chân giường để lên giường của anh rồi bỏ màn phủ chăn lên. Ban đêm đi kiểm soát, ông bác sỹ Khái nhìn phớt qua thấy rõ anh đang ngủ và bản báo cáo nhân số đêm đó coi như đầy đủ trăm phần trăm. Mười giờ sáng hôm sau, cái chân giường vẫn ngủ say trong cái chăn. Mấy ông bác sỹ nhà ta sợ anh bạn chán đời tự tử lần nữa, vội vàng vén mùng tốc chăn thì hỡi ơi, họ chỉ còn nước chạy đi báo cáo!

Cuối tháng Mười Vĩnh bị cái răng gãy hành một cơn đau tưởng méo mặt suốt đời! Đời tù cộng sản không thể nói đau răng thua đau sạn thận hoặc đau ruột thừa sẽ kinh khủng hơn đau sưng khớp. Phải nói rằng cái đau nào cũng đáng đồng tiền bát gạo cả, vì nó là cái đau không thuốc men, cái đau cắn răng mà chịu. Nói tóm, cái đau nào cũng có đủ khả năng đem người ta ra nghĩa địa nếu như mạng người ấy không được ông bà độ trì cho một cách đặc biệt. Sống đời tù, Vĩnh đã chịu đựng nhiều thứ đau, nhưng có lẽ đau răng là cái Vĩnh sợ nhất, cảm thấy tuyệt vọng nhất! Nơi đây, nơi trại tù, các bệnh xá tuyệt đối không bao giờ có thuốc đau răng, và cũng chẳng bao giờ có phương tiện tối thiểu để khả dĩ nhổ ra được cái răng đang đau. Những cơn đau giật khiến Vĩnh lăn lộn như kẻ bị đập dập đầu. Cái đau méo mặt. Đau bủn rủn toàn thân. Đau phát sốt, rồi phát điên và sau cùng chỉ muốn nổi lửa đốt nhà. Chung quanh Vĩnh một lô bác sỹ cũng chỉ biết trố mắt mà nhìn vì họ không có thuốc. Vĩnh yêu cầu được nhổ nhưng mấy ông bác sỹ không dám với lý do răng đau là răng tiền hàm, rất sâu, không kìm không thuốc tê không thể nhổ được. Vĩnh đau quá, anh lần mò tìm một sợi dây đàn buộc vào chân răng, một đầu buộc vào cánh cửa và đá mạnh. Cái răng không ra và Vĩnh chết ngất vì ra máu quá nhiều. Do bạn bè khuyên, Vĩnh đã dùng đủ mọi thứ nhét vào chỗ răng đau. Nào là nhét bột ngọt, ngậm nước điếu, nhét Vitamin C, nhét mủ xương rồng... nhưng chẳng thứ nào giúp Vĩnh giảm được cơn đau như có lửa đốt trong đầu, như có điện giật nơi thái dương...

Cơn đau răng hành hạ ba ngày rồi. Ngày thứ tư Vĩnh mới hoàn hồn và cảm thấy như mình mất thêm đến mấy ký lô. Một buổi chiều bác sỹ Hoàng Đình Thiết xuống khám bệnh chỗ khu cách ly. Thiết hỏi Vĩnh về cơn đau răng. Vĩnh khẽ cười và nói đùa.

- Nó mà hành hạ tôi thêm một ngày nữa thì dù một bãi mìn chứ mười bãi mìn tôi cũng trốn ra ngoài tìm nha sỹ...

Ngay sáng hôm sau, đích thân bác sỹ Hoàng Đình Thiết xuống tận chỗ nằm trao cho Vĩnh một cái giấy xuất viện. Tấm giấy ghi: Ban y tế bệnh xá trại cải tạo Suối Máu chứng nhận anh Phạm Vĩnh thuộc K.5 sức khỏe hiện nay đã hoàn toàn bình phục. Anh Vĩnh được hoàn trả về trại để tiếp tục học tập lao động cải tạo.

Bên dưới tấm giấy còn ghi rõ ngày 28 tháng 10 năm 1977. Dưới nữa không thấy ký tên mà chỉ thấy đề ba chữ y sỹ trực.

CHƯƠNG NĂM MƯƠI HAI
K.5 cũng như các K khác chợt thưa hẳn đi vì những đợt người được tuyển đem lên Trảng Bom lao động sản xuất sau đợt học tập chính trị mười ngày.

Vĩnh trở lại K.5 bạn bè vắng nhiều. Nhưng những người như Ý, Huy, Dương và Điều thì vẫn còn nguyên. Vì có thành tích bệnh lao, Vĩnh có thể xin bác sỹ Triển cho nghỉ lao động tĩnh dưỡng một thời gian. Đã quen biết nhau, ông Triển cũng chẳng tiếc gì một lời đề nghị; do vậy, Vĩnh hiên ngang nằm phè và không hề phải làm một công tác gì dù là quét hội trường hay rửa cầu tiêu. Ở không mãi cũng buồn, Vĩnh bắt đầu trở lại suy nghiệm và tiếp tục viết nhạc. Đêm đêm đàn đúm với đám anh Huy để nghe ông trung tá Sâm, cựu liên đoàn phó liên đoàn 5 BĐQ nói về kinh nghiệm và quá trình làm bản tự khai của ông.

Thực ra ông Sâm là xếp cũ của Ý. Trước khi động viên, ông là giáo sư Pháp Văn của trường Taberd. Gặp ông nơi đây, Ý cố tình tránh né vì theo Ý "tay này dám có liên hệ chi đây với cộng sản, bằng không giờ này ông ta nhất định phải nằm ngoài Bắc rồi". Ông Sâm dần dần nhận biết được sự nghi kỵ của Ý, một buổi chiều bọn Vĩnh đang ngồi với nhau nhấm nháp tí nước gạo rang cháy giả cà phê thì ông Sâm chống gậy xà đến (ông hiện bị xụi một bên chân!). Ông lên tiếng hỏi Ý.

- Sao thấy tao là mày trốn biệt vậy Ý?

Ý cười cười, nửa đùa nửa thật.

- Sao giờ ông thầy còn nằm đây, ông thầy?

Ông Sâm đã biết rõ Ý nghi ngờ ông. Ông ngồi xuống cạnh mọi người, nhăn mặt.

- Bộ mày muốn tụi nó lôi tao đày ra Bắc lắm hả?

Nói rồi ông nhìn vào mặt Ý. Nói mày nghe. Tụi mày dở lắm. Mấy thằng bạn già bò ngũ bò lục của tao cũng ngu xấp lượt. Tao hỏi mày, thằng nào dân Biệt Động mà không giết hằng hà tụi nó? Và những thằng bị giết, thiếu gì thằng mình từng đọc qua tiểu sử trong bản trận liệt. Bộ mày không nhớ nổi tên năm ba thằng đã chết dưới tay mà khai báo với cách mạng rằng chúng nó là thân nhân của mày hay sao? ĐM. những thằng chết rồi đâu có ngồi dậy để mà tố giác mày man khai. Trời ơi! Thời buổi này làm bà con của liệt sỹ cách mạng dễ thấy mẹ, sao tụi mày ngu quá vậy?

Ngồi nghe ông Sâm nói với cái giọng bộc trực của một người miền Nam, Vĩnh tin là ông không phịa chuyện. Ở điểm này quả ông đã khôn ngoan vượt lên trên rất nhiều người đồng cảnh ngộ. Giờ đây, tỉ như bọn chúng có khám phá ra thì những đợt đem đi Bắc hầu như đã chấm dứt; và chả phải mỗi lúc mỗi đem từng cá nhân ra đày ngoài Bắc mà được. Ông Sâm, do đó, rất có thể đã thoát được việc bị đem ra Bắc chính nhờ xử trí khôn ngoan của ông.

Những đêm không đàn đúm với đám Ý và Huy thì Vĩnh lại nằm chuyện trò văn nghệ với Nguyễn Đình Tạc. Có lần Tạc bàn với Vĩnh rằng nếu sau này còn sống và đổi đời lần nữa, chắc anh sẽ viết một cái nghi án văn chương cho cả làng điên đầu chơi. Anh sẽ ngụy tao văn kiện để chứng minh rằng tác giả Lục Vân Tiên không phải là cụ Nguyễn Đình Chiểu, mà là của người em ruột tên Nguyễn Đình Chiếu...

Nhưng những chuyện văn học nghệ thuật Vĩnh được bàn với một người bạn mới tên Trần Mạnh Toàn có lẽ thú vị hơn. Toàn điềm đạm và hiền lành. Hầu như chả có đêm nào mà Toàn không tìm đến gặp Vĩnh. Hai người rất ít khi lên hội trường coi TV mà hay ra bờ giếng ngồi nói chuyện thi phú với nhau. Trong những tác phẩm chống cộng, Toàn hay nhắc nhở đến một tác giả người Anh George Orwell với tác phẩm chính trị giả tưởng lạnh mình của ông có nhan đề là Nineteen Eighty-four. Thêm một tác giả nữa mà Toàn tỏ ra yêu thích đặc biệt là Lâm Ngữ Đường. Anh hay nhắc đến tác phẩm Bí Danh của vị học giả uyên bác người Trung Hoa này. Đổi lại, Vĩnh nói cho Toàn nghe miền Nam không phải không có những tác phẩm quan trọng về việc báo động hiểm họa cộng sản. Nhiều tác giả có ý thức đã không thiếu bổn phận trong nhiệm vụ báo động này. Chỉ có quần chúng thiếu ý thức là không chịu tìm đọc, hoặc đọc mà không chịu tin mà thôi! Ngay thành phần sỹ quan cán bộ của quân đội, đã mấy người đọc Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc? Đã mấy người biết đến cái bìa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Mạnh Côn màu gì? Chao ôi, nếu bình tâm mà nói hẳn những ông như Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ phải là những nhà văn can đảm ghê lắm. Họ cứ viết cứ in để sách họ cứ ế chảy ra năm này tới năm khác, vì nó là sách... chống cộng!

Trong giai đoạn này, phải nói rằng đời tù cải tạo của Vĩnh và các bạn ở Suối Máu tương đối nhàn nhã. Càng nhàn hơn khi bọn quản giáo bắt đầu biết hưởng thụ và biết lợi dụng bọn tù vào những công tác sinh lợi cho chúng. Dĩ nhiên trong điều kiện hiện tại, bon tù chưa thể ra biển Đông lặn mò ngọc trai, chưa thể lên núi khai thác mỏ vàng mỏ bạc; nhưng bọn tù còn ở lại Suối Máu có thể sáng chế ra những món đồ đeo tay bằng nhôm xủi rồng bay phượng múa không phải là những thứ không bán ra tiền trong thời buổi này. Ở miền Nam nó có thể chỉ là những món hàng mã cho con nít chơi, nhưng nếu nó được đem ra miền Bắc nghèo khó mấy chục năm dưới chế độ cộng sản, nó sẽ trở thành những nữ trang quý giá và cô gái nào cũng khát khao được làm chủ! Riêng đối với bọn tù lao động ở Trảng Bom, bọn quản giáo khai thác họ trong việc săn đuôi kỳ nhông...

Riêng về mặt thủ công, bọn quản giáo đã cung cấp đều đặn những miếng nhôm tốt, những tờ giấy nhám mịn cho một số tù cải tạo khéo tay hay làm. Không khí trại nhộn nhịp hẳn lên. Những chuyên viên vẽ và xủi những món đồ nữ trang bằng nhôm nổi tiếng như Đặng Ngọc Sinh, Lê Tuấn Khanh, Mai Mạnh Liêu... hầu như bận rộn suốt ngày. Vui hơn nữa là chính bọn quản giáo cũng lăng xăng chia xẻ sự bận rộn ấy với bọn tù làm thủ công và một phần nào quên đi sự cay nghiệt cần có cho một chức vụ cai tù của chế độ mới. Cũng nhờ sự lơi là này, nhiều anh đã dám mạo hiểm chờ đêm xuống, chui luôn những lớp thép gai dày đặc phía sau bếp sang K khác thăm bạn bè. Vĩnh cũng mạo hiểm một chuyến và chui được sang K.1. Lần mò cả tiếng Vĩnh mới tìm gặp được Hóa. Đứng nói chuyện với bạn một lúc, Vĩnh biết đại khái sinh hoạt bên K.1 dễ dàng hơn bên K.5. Ban đêm anh em tổ chức hát nhạc vàng công khai. Cũng qua Hóa, Vĩnh được thêm ít tin tức về những người bạn cũ hồi bên An Dưỡng. Và nhất là gần đây K.1 đang nhen nhúm một phong trào đánh hội chợ bọn ăng ten chỉ điểm. Lê Bá Lý, cựu hùm xám của trại 4 An Dưỡng đã lãnh một trận đòn gần chết đến độ bọn khung phải chuyển hắn sang K.4 để tránh bị tiếp tục ăn đòn...

Riêng số anh em lao động ở Trảng Bom nghe nói cũng rất thoải mái. Họ tương đối được ăn uống đầy đủ hơn những người còn ở lại Suối Máu. Sự thoải mái này phải chăng là một hình thức trả công của bọn cán bộ Suối Máu dành cho những người đã giúp chúng giải quyết được một vấn đề to lớn?

Hàng tuần, chở theo những chuyến Molotova đi thanh tra hoặc tiếp tế cho nông trường Trảng Bom về, riêng ở K.5, Vĩnh và các bạn nhiều lần thấy bọn vệ binh mỗi tên xách theo tay năm bảy xâu không rõ vật gì, chỉ thấy nó dài quãng gang tay, to bằng ngón út và quắt queo như đã bị phơi nắng nhiều ngày. Một thời gian sau, Vĩnh mới biết ra đó là những cái đuôi kỳ nhông phơi khô. Và khi sự biết đi xa hơn một tí thì nó không khỏi không làm Vĩnh ớn sợ.

Vì lặn lội trong rừng già Trường Sơn, chịu đựng một đời sống chiến đấu quá gian khổ về vật chất và căng thẳng về tinh thần kéo dài nhiều năm tháng, trừ những hạng cán bộ cấp cao, còn các thế hệ cán binh cộng sản cấp trung và cấp thấp đều dần dần bị chứng bệnh bất lực tình dục.

Khi chiếm được miền Nam, vấn đề to lớn này vẫn chỉ được âm thầm tự giải quyết trên căn bản cá nhân. Không có Đảng, không có nhà nước nào quan tâm, nghiên cứu và đặt thành vấn đề chữa trị cho các "đấng anh hùng cách mạng cấp thấp" này cả. Một trong những phương thuốc "dân tộc" chữa bệnh bất lực (!?) là dùng đuôi kỳ nhông phơi khô ngâm rượu uống, hầu như đã và đang được nhiều thế hệ cán binh CSVN đồng lượt săn tìm và chữa trị lấy. Khi phương thuốc này được loan truyền rộng rãi và Vĩnh được biết tới nó, thì cũng là lúc đi tới đâu có bọn vệ binh ở, Vĩnh đều thấy có treo những xâu đuôi kỳ nhông phơi ngoài sân sau nhà.

Trong tầm quan sát bị giới hạn của một tên tù, Vĩnh không có điều kiện để thu thập đủ dữ kiện, để có thể khẳng định căn bệnh bất lực tập thể của bọn cán binh cộng sản trầm trọng đến độ nào, và tỉ lệ cao đến đâu; nhưng ít nhất có hai nơi Vĩnh đã đi qua, ban chỉ huy K.5 và ban chỉ huy khu bệnh xá, nơi đâu Vĩnh cũng thấy chung một hiện tượng là bọn cán binh đều xử dụng và tỏ ra rất quý món thuốc dân tộc đuôi kỳ nhông ngâm rượu đế.

Sự thoải mái dành cho anh em săn đuôi kỳ nhông trên miệt Trảng Bom không rõ ngày có mỗi tăng thêm không, chứ riêng ở Suối Máu, đặc biệt ở K.5, sự thoải mái bắt đầu đi xuống khi một chiều kia, bọn cai tù kêu người phụ trách hậu cần của K, cũng là một cựu trung tá, tuyển một số tay khỏe mạnh lên hậu cần ban chỉ huy công tác đột xuất. Chừng nửa giờ sau, đoàn người trở về trại với những bao đậu nành nặng cả tạ trên vai. Những bao đậu được đem giấu khắp nơi trong K.5. Bọn quản giáo và vệ binh đi theo tù khuân đậu vào K trông thằng nào cũng có vẻ hớt hải. Sau này, tù K.5 mới biết ra nguyên do của việc phân tán mỏng nhiều tấn đậu nành tích trữ trên kho hậu cần trại là vì chúng bị thanh tra thình lình. Số đậu nành ấy là số đậu đầu cơ tích trữ của bọn chỉ huy K.5!

Khi cuộc thanh tra chấm dứt, khốn nạn thay, bọn chỉ huy trại đã chỉ có thể thu về kho của chúng không quá nửa số đậu chúng từng cho khuân vào giấu nơi những dãy nhà ngủ của bọn tù. Chúng lồng lộn lên để tìm thu về những tạ đậu đã mất. Nhưng lồng lộn thế nào thì cũng không thể đòi lại được những hạt đậu đã chui vào bụng của bọn tù ốm đói quanh năm.

Sự thoải mái thật sự chấm dứt từ tháng 12 năm 1977. Ngoài biện pháp kềm kẹp, chửi rủa, nhục mạ và hành xác bọn tù; chúng còn tính thành tiền số đậu nành đã mất và khấu trừ vào khẩu phần tinh bột mỗi ngày của tù. Chao ôi! Đòn gì chứ đòn đánh vào bao tử là đòn kinh khủng nhất trong tù cải tạo. Bình thường còn đói rã họng, đói đến độ chuột cống chuột chù, thằn lằn cắc ké, cào cào châu chấu đều biến mất hết nơi đây; giờ chúng lại còn khấu trừ vào số lượng bột hàng ngày nữa thì chịu sao cho thấu? Miếng bột luộc buổi trưa và ổ bánh mì buổi chiều bỗng nhiên teo lại một cách thê thảm. Trước khi ăn, người ta không cảm thấy đau đớn gì trong người; nhưng sau khi ăn miếng bột luộc vào, thốt nhiên ai cũng cảm thấy trong người mình như đang có một bãi sa trường. Ăn vào miếng bánh quả không khác nào là một trò chơi dại dột, đã đánh thức dậy hàng trăm con sán con lãi đang thiêm thiếp ngủ và xúi bẩy chúng vào một cuộc tranh giành không xứng đáng.

Ngoài việc bớt khẩu phần cho "chết cha tụi ăn cắp đậu", bọn vệ binh quản giáo còn ra tay nhục mạ bọn tù đến mức! Một lỗi nhẹ cũng đủ bị chửi sói đầu. Ông trung tá Tiến, cựu tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 SVSQ Thủ Đức, người có cả chục xe đò chạy đường miền Tây, có lẽ là nạn nhân đầu tiên của chiến dịch nhục mạ tù tại K.5. Chỉ vì gặp một thằng vệ binh giữa đường chưa kịp ngả nón chào, nó bắt ông trình diện, rồi chửi bới ông và sau cùng bắt ông quỳ ôm cột đèn giữa trời trưa nắng. Trò chơi khốn nạn này được bọn chúng ngày càng phát huy và không biết bao nhiêu người ở K.5 đã bị nhục vì trò chơi đó!

Khi thời tiết Biên Hòa bắt đầu gai gai lạnh để người dân miền Nam sửa soạn được đón cái lễ Giáng Sinh lần thứ ba dưới chế độ cộng sản, thì trại Suối Máu thực sự biến thành một loại trại trừng giới đạt tiêu chuẩn quốc tế về sự bạo tàn.

Trước lễ Giáng Sinh ít ngày, cũng như ở các K khác, K.5 được bọn cai tù tổ chức lên lớp một bữa. Khởi sự, tên trại trưởng khoe chuyện làng chuyện nước của hắn sau lần hắn đi phép về.

- Sau mười năm đi chiến đấu chống Mỹ cứu nước, trở về làng cũ tôi sung sướng và tự hào vô cùng. Hiện tại làng tôi đã có đến quá nửa số nhân dân biết đi guốc hoặc đi dép. (Bên dưới bắt đầu có những tiếng cười). Tên thủ trưởng vẫn tiếp. Lúc tôi ra đi theo lời bác gọi, làng tôi còn nghèo lắm. Bây giờ trở về thấy có nhiều gia đình đã có xe đạp, thậm chí có những gia đình đã có tới hai chiếc xe đạp!

Bọn tù bên dưới vừa nghe vừa nhìn cái dáng điệu diễn tả sự sung túc nơi quê cha đất tổ của thằng Việt cộng, nhất là khi hắn trịnh trọng khoe về vụ xe đạp, thì đã không còn nhịn được nữa. Tất cả đều phá lên cười. Tên trưởng trại dĩ nhiên làm sao hiểu nổi cái ý nghĩa của nụ cười... ngụy! Do đó, hắn lại tưởng lầm là bọn tù ngồi dưới không tin làng hắn giờ đây giàu có đến thế.

Tên trưởng trại nhăn mặt nói như hét để tái xác nhận về sự giàu có ấy. Tại sao các anh cười? Các anh không tin lời tôi à? Tôi nói thật đấy, làng tôi ngày nay thậm chí có những gia đình đã có tới hai cái xe đạp!

Tin quá đi chứ! Có thằng tù nào ngồi dưới mà lại không tin chuyện này! Nhưng chính vì tin mà họ không thể nhịn cười được. Sự giàu sang... ha ha ha!... Giấc mộng... ha ha ha!... trong xã hội mới là cái xe đ...a...p ha ha ha!

Bọn tù thay nhau cười rống lên. Tên trại trưởng nhìn thấy sự "thiếu nghiêm túc trong học tập cải tạo" ấy đâm cáu. Hắn bắt đầu xoay sang vấn đề đạo đức cách mạng, để lấy đà chửi bới bọn tù trong vụ đánh cắp tập thể đậu nành vừa qua. Và rồi để kết thúc câu chuyện trước thềm năm mớ Tây lịch, hắn răn đe và công khai cấm chỉ mọi hành vi có tính cách tôn giáo trong ngày Giáng Sinh sắp tới. Sau cùng, hắn thông báo cho tù K.5 một kế hoạch mới của trại, theo đó tất cả những người không đi lao động sản xuất ở Trảng Bom đều được tạo dịp sản xuất ngay ở Suối Máu này, nhằm phù hợp với kế hoạch 5 năm của nhà nước đã đề ra từ năm ngoái.

Đối với tù K.5, kế hoạch mới này không gì khác hơn là biến vòng đai trại Suối Máu, tức một phần thửa rừng nằm giữa trại và con đường sắt thành đất canh tác hoa màu sau này. Giờ đây, những người ở lại Suối Máu để được phè một thời gian mới thấy rằng bọn đi Trảng Bom ấy thế mà thọ! Lâu lâu có những người bị đau ốm, được đưa về "hậu cứ" Suối Máu nghỉ ngơi đều cho biết rằng lao động trên Trảng Bom rất thoải mái. Trên ấy lao động theo chế độ thông tầm. Mỗi ngày chúng phát dao, phát rựa và khẩu phần đem theo đường cho tù; tù cứ đi từng toán với nhau vào rừng đốn gỗ hoặc lồ ô theo một chỉ tiêu nhất định. Sáng đi, tối về; miễn sao chỉ tiêu phải hoàn tất. Đời sống không quá bị gò bó và bị hạ nhục tàn tệ như ở đây. Sự mô tả đời sống trên Trảng Bom dĩ nhiên đã được thêm mắm thêm muối rất nhiều, nhưng dù gì, đời sống lao động trên ấy đỡ chán và đỡ nguy hiểm hơn nơi đây, lúc này; lúc mà mọi người khởi sự chấp hành kế hoạch mới của trại đưa ra, kế hoạch biến vòng đai phía sau trại Suối Máu, tức khoảng rừng thưa nằm giữa trại và đường sắt, thành vùng canh tác hoa màu trong tương lai.

Một buổi sáng sau Tết dương lịch 1978, mỗi nhà mười hai người, vị chi mỗi tổ một người, phải lên trình diện khung để nhận công tác đặc biệt. Mặc dù chưa được bọn cai tù thông báo chính thức, nhưng qua sự rỉ tai nhau, hầu như ai cũng biết đây là một công tác loại... Hitchcock! Tin đồn này đã làm các tổ trưởng không còn dễ dàng trong việc cắt công tác như mọi ngày. Riêng tổ 1 đội 17, tổ trưởng Sơn cũng muốn cắt đại một người cho xong, nhưng anh lưỡng lự không biết cắt ai và nếu cắt liệu người ấy có đồng ý hay không? Cái phép nghỉ lao động một tháng của Vĩnh nhờ ông Triển xin ban y tế trại giúp cho đã hết hạn từ lâu, do đó, chắc chắn công tác sáng nay Vĩnh không thể tránh được nếu có quyết định của tập thể. Trong lúc mọi người còn nhùng nhằng, thì bỗng nhiên anh chàng thiếu úy hải quân nửa tỉnh nửa điên Trương Hồng, một con cóc của tổ, bỗng nhiên nghiến răng. Trong nhiều tháng chung sống với nhau, có lẽ đây là lần đầu tiên Vĩnh và mọi người thấy Hồng tỏ ra hăng hái trong sinh hoạt tập thể. Anh giơ cao tay tình nguyện.

Cả tổ ai cũng ngẩn ngơ trước sự tình nguyện bất ngờ của Hồng. Nhưng một thoáng sau đó anh Huy lên tiếng phản đối ngay. Có lẽ sự phản đối xuất phát từ tấm lòng thương người của anh. Cũng như mọi người, anh Huy nghi ngờ công tác hôm nay không chỉ là công tác phát quang như mọi bữa, mà chắc phải là một công tác loại mới hứa hẹn nhiều nguy hiểm dù mới qua tin đồn. Để cho một người bạn trong tình trạng bất thường bỗng nhiên nổi hứng tình nguyện anh thấy bất nhẫn quá; do đó anh lên tiếng phản đối và đề nghị.

- Tôi thấy công tác sáng nay không nên buộc ai phải đi và cũng không nên chấp nhận một lời tình nguyện của bất cứ ai. Cứ để trời gọi ai nấy dạ. Vậy tôi đề nghị mình nên bắt chước các tổ chung quanh rút thăm luôn cho tiện và cho công bằng!

Lời đề nghị của anh sau cùng được mọi người đồng ý.

Mười phút sau, một trong mười hai người của nhà 1 được lên khung nhận công tác vinh quang đột xuất là Vĩnh! Khi lên tới sân ban chỉ huy K.5, mọi người tập họp lại thành một khối bảy mươi người trong đội hình bốn hàng dọc. Tất cả đứng chờ quản giáo phụ trách quán triệt sơ bộ công tác. Trong lúc đứng đợi, Vĩnh xoay sang nói chuyện với mấy người bạn như Đặng Xuân Bính, Trần Mạnh Toàn và Võ Tấn Bảo Hùng. Mấy người bạn này sáng nay cũng có những bàn tay may mắn bắt trúng thăm như Vĩnh. Khi mọi người đang vui vẻ chuyện trò với nhau thì một thằng vệ binh chợt xách súng đi tới. Nó ngoắc đại hai người to con đứng gần Vĩnh ra khỏi hàng. Hai người bị lôi ra là Đặng Xuân Bính và Võ Tấn Bảo Hùng.

Tên vệ binh chỉ chỉ tới trước gian hậu cần, ra lệnh.

- Này, hai anh này theo tôi! Hai anh khênh mấy cái "ri-xe" đàng kia xếp thành đống trước bếp rồi lấy mấy cái "tôn-ne" đậy lại xem được không nào?

Chẳng riêng Bính và Hùng mà hầu như mọi người đều ngẩn ra trước cái lệnh của thằng vệ binh. Ri-xe là cái gì? Và tôn-ne là cái chi chi?

Thấy Hùng và Bính ngẩn người ra và chưa chịu bước đi, tên vệ binh có vẻ bực. Nó hét. Đã bảo ra khênh mấy cái bao ri-xe kia chất lại một đống rồi lấy mấy cái tôn-ne đậy nại, sao cứ đứng trơ thổ địa ra thế kia?

Cũng như mọi người, Bính và Hùng vẫn chưa hiểu, nhưng vì thằng vệ binh đã chỉ về phía nhà hậu cần trại, tay lại ve vẩy mũi súng chẳng lẽ không đi? Hai người vừa bước tới trước nhà hậu cần, vừa ngơ ngơ ngác ngác nhìn quanh. Thằng vệ binh đi theo thấy vậy bèn chỉ luốn vào mấy cái bao gạo Mỹ quăng dưới đất, gắt. Thế chứ cái gì đây? Không gọi là "ri-xe" thì gọi là cái gì đây?

Đến bây giờ thì mọi người đã hiểu ra ri-xe là cái gì. Thì ra ông vệ binh nhìn thấy chữ "Rice" to tướng in trên bao gạo, nên ông ấy gọi luôn cái bao ấy là bao "ri-xe"!

Vài tiếng cười tội nghiệp cất lên trong đám tù. Riêng Bính và Hùng đã khuân xong mấy bao gạo xếp ngay ngắn trước bếp rồi, hai anh vẫn không dám cười vì họ chưa biết cái "tôn-ne" là cái gì. May thay thằng vệ binh đã hiểu ra sự dốt nát của bọn "ngụy", nó chỉ luôn về phía mấy tấm tôle dựng bên vách nhà hậu cần. Thì ra thế! Bây giờ thì tiếng cười của bọn "ngụy" chỉ có trời mới giữ lại được!

Đang lúc vui nhộn không phanh không chuông thì thằng quản giáo phụ trách đội công tác đột xuất xuất hiện. Hắn bắt một người trong hàng ra đại diện để hô hoán làm thủ tục trình diện chào kính. Khi thủ tục chào kính báo cáo nhân số hoàn tất, tên quản giáo bắt đầu lên lớp.

- Giờ này cũng hơi muộn rồi đấy! Các anh dưới trại làm việc luộm thuộm, cắt cử thiếu khoa học, thiếu tổ chức nên mới muộn như thế này. Bây giờ đã gần chín giờ, tôi thay mặt khung quán triệt sơ bộ về một loạt công tác đặc biệt kể từ hôm nay. Như các anh biết, trong chiến dịch trồng cây nhớ bác do nhà nước phát động gần đây, trại ta hầu như chưa làm được một cái gì cụ thể. Các anh học tập tiến bộ đã được đưa lên Trảng Bom lao động thực tế, tạo được của cải vật chất dâng lên Đảng; riêng các anh còn lại đây rõ ràng chỉ làm tốn cơm gạo sắn khoai nhà nước. Hôm nay, qua nghiên cứu, khung quyết định tạo điều kiện cho các anh còn ở lại trại làm được một cái gì để lập công ăn mừng Tết truyền thống dân tộc sắp tới. Do vậy, sáng nay tôi sẽ hướng dẫn các anh đi khai quang vòng đai trại để tạo cơ sở đất đai cho những đội canh tác làm việc kế tiếp. Sau nay khung sẽ có quy hoạch trồng loại cây gì. Trước mắt tôi quán triệt các anh như vậy thôi. Khi ra tới hiện trường, tôi sẽ nói thêm về phương pháp làm việc với các yêu cầu cần thiết để đảm bảo công tác được tiến hành tốt và đạt chỉ tiêu như trên quy định.

Mười phút sau nữa thì đám Vĩnh đã có mặt ngoài hiện trường. Nơi đây là một vùng đất bỏ hoang và rất gần với cánh rừng thưa nằm ngay sát hàng rào từ K.5 chạy dài xuống tới bệnh xá. Vùng đất này có lẽ đã bỏ hoang từ lâu lắm, cỏ lau chen lẫn cỏ hôi mọc rậm rì. Từ chỗ này có thể nhìn thấy con đường sắt nằm trên một vị trí cao không quá xa. Vĩnh đi theo đội hình cho đến khi được lệnh ngừng chân tập họp trên một bãi đất trống. Nơi dãy rừng bên cánh phải, không ai nói ra nhưng tất cả đều biết có rất nhiều mìn cóc. Ban đêm nằm trong trại, thỉnh thoảng tù lại nghe thấy một tiếng nổ gây ra bởi loại mìn này. Một con cáo, một con chồn hoặc một con thỏ đều có thể làm cho nó phát nổ. Riêng đối với con người, loại mìn này nhiều khi không giết chết nhưng chắc chắn đụng vào nó, nó sẽ nhảy lên ngang đầu gối mới nổ và việc đi phép vĩnh viễn một cái chân là điều cầm bằng không thể tránh khỏi. Đứng ngó vu vơ và nghĩ ngợi lan man, Vĩnh bỗng buồn buồn nhớ tới những người bạn năm xưa đã chết, đã què cụt trong thời chiến tranh. Huỳnh Hồng Long, thằng bạn hướng đạo hiền như đất đã chết khi mới chuẩn úy. Đoàn Minh Dũng cũng vậy! Ôi cái thằng củ mĩ cù mì vừa ra trường được tuần lễ đã lên cố thiếu úy. Còn bao nhiêu đứa như vậy nữa? Và giờ linh hồn chúng nơi đâu? Có lẩn khuất quanh đây để phù trợ cho những thằng bạn không chết nhưng còn khổ hơn chết của chúng không? Vì cái chuyện què chuyện cụt lại làm Vĩnh nhớ tới một nhà thơ miền Nam cùng thời với Vĩnh, nhà thơ Luân Hoán. Chiến tranh đã làm anh mất đi một bàn chân trái. Anh đã làm những câu thơ than thở mà theo Vĩnh, có lẽ là những câu thơ yếm thế và thê lương nhất trong thời chiến tranh.
Hoán đã viết.

Tôi là một sỹ quan mù,
Chỉ huy một đoàn quân điếc!

Câu thơ ấy ngày xưa Vĩnh đọc chả thấy gì tai hại. Nhưng ngày nay nhớ lại, Vĩnh không khỏi bàng hoàng. Thế hệ của anh, của Luân Hoán, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Trần Tuấn Kiệt, Lâm Hảo Dũng... những người không vướng vào cái tai hại làm thơ huê tình ve gái ngay giữa thời chiến, nhưng lại dính vào một lỗi lầm có lẽ trầm trọng hơn: Đã tìm cách bi thảm hóa cái thân phận mình một cách hơi lố bịch. Buồn cười hơn là lại bi thảm hóa nó ngay lúc đối đầu với kẻ thù! Có ích lợi gì không? Hay chỉ là làm cho chính mình bị thui chột dần đi cái ý chí tranh đấu cần thiết trong một cuộc chiến sinh tử, nói thẳng ra, tự làm thui chột đi cái bản năng tự vệ mà đến một con thú nó cũng cần phải có một cách nguyên vẹn và đầy đủ. Trong cuộc chiến tranh vừa qua, phải nói hơn một lần Vĩnh và các bạn đồng thế hệ đã can tội tự sát trong tư tưởng...

Tiếng hô hoán điểm danh từng người đã vang lên. Rồi thì việc điểm danh chấm dứt. Tên quản giáo lại khởi sự lên lớp. Hắn chỉ sang thửa đất rậm cỏ lau bên trái và nói.

- Theo ghi nhận của trên đưa xuống thì mìn chỉ có nhiều trong cánh rừng thưa phía bên phải, còn bên trái dẫn ra tới đường sắt, dù cũng có mìn nhưng chỉ ít thôi. Hiện tại trại ta không có phương tiện rà mìn, vậy theo đúng chỉ thị của trên, tôi sẽ hướng dẫn các anh phương pháp rà mìn sao cho an toàn và đạt yêu cầu.

Nghe tới đây quả bọn tù đều tái mặt. Tên quản giáo hình như cũng đoán biết. Hắn vội trấn an. Các anh chẳng có gì phải lo! Cách mạng sẽ chỉ dạy cặn kẽ các anh phương thức làm việc trước khi thực hiện công tác. Yêu cầu trước mắt là các anh phải tuyệt đối bình tĩnh, lắng nghe cho tốt những gì tôi truyền đạt. Các anh phải gác bỏ ngay những ý nghĩ sai trái, rằng cách mạng đem các anh ra đây để quăng các anh vào bãi mìn. Trên điều các anh ra đây là điều một cách có phương pháp, để các anh có điều kiện lao động tốt và đạt được thành tích tốt. Cái gì cũng thế. Ta tuyệt đối tin tưởng vào Trên, ta hồ hởi phấn khởi ở công tác, thì khó khăn nào cũng vượt qua, công tác nào cũng hoàn thành được cả. Hiện tại ta thiếu những dụng cụ rà mìn và tiêu diệt mìn, ta khắc phục thôi! Tôi nói để các anh biết, hồi còn lặn lội đường Trường Sơn, đã có nhiều lúc chúng tôi ngủ trên bãi mìn. Sáng ra mới biết mình đã ngủ trên mìn. Các anh biết không? Mỹ ngụy nó thả mìn cóc, mìn râu, mìn chống người xuống đường Trường Sơn và những tuyến đường tiến quân của ta nhiều khi như bươm bướm. Thế mà chúng tôi tay không vẩn tháo gỡ và thủ tiêu được hết mìn trên đường tiến quân cơ đấy! Sau cùng các anh thấy không? Chúng tôi đã đánh thắng hoàn toàn và triệt để đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai ngụy quân ngụy quyền. Nói thế để các anh tin tưởng mà làm theo đúng phương pháp cách mạng đã làm...

Cà kê dê ngỗng đến mười phút tên quản giáo mới bắt đầu đi vào bài học rà và gỡ mìn bằng hai tay không! Quả thực ai cũng đoán biết trên bãi có mìn, nhưng không ai biết nó là loại mìn gì. Đến khi tên quản giáo lên lớp mọi người mới vỡ lẽ ra mìn nơi đây thuộc loại mìn chống cá nhân, được chôn ngầm dưới đất.

Theo đúng bài bản mọi người dàn hàng ngang, mỗi người cách nhau đúng một sải tay. Trên tay mỗi người cầm một cái que tre dài bằng hai chiếc đũa. Khi được lệnh, hàng ngang sẽ đồng loạt tiến lên phía trước và bắt đầu xâm trên đất với chiều ngang trách nhiệm. Chiều dài của buổi sáng hôm nay, do bởi ra quân hơi muộn, quản giáo quyết định một cách ân huệ là năm mươi thước cho mỗi người.

Trong lúc vừa tiến vừa xâm trên đất, nếu xâm nhằm một vật cứng phải đứng ngay lại và báo cáo thật lớn: Có mìn!

Báo cáo xong cứ việc cắm que tre vào chỗ nghi ngờ và bước lui trở lại. Phần vụ kế tiếp sẽ do những chuyên viên gỡ mìn thực hiện. Tuy nhiên để tránh tình trạng báo cáo láo, tên quản giáo đã nhắc nhở trước.

- Bất cứ anh nào cố tình báo cáo láo hoặc báo cáo không chính xác quá ba lần, anh ấy sẽ chịu biện pháp kỷ luật của khung và trước mắt là sẽ bị cấm thăm viếng vào đợt thăm viếng trước Tết...

Nghe câu răn đe của thằng Việt cộng ai cũng rủa thầm trong bụng. Nó biết mình không tam vô và coi trọng gia đình nên đưa chuyện gặp gỡ gia đình ra bắt chẹt đây! Tuy rủa thì rủa, trong lòng mọi người đều dấy lên một niềm vui bất thường. Tin sẽ được thăm nuôi ít nhất cũng đã được chính miệng tên quản giáo này tiết lộ.

Lúc hàng ngang bắt đầu tiến, Vĩnh cũng cẩn thận và chậm chạp tiến lên theo anh em. Trong cái dáng lom khom như người cấy lúa, hầu như trong đầu mọi người không có chỗ trống cho sự sợ hãi xuất hiện, mà chỉ có chỗ cho một nỗi kinh ngạc mênh mông ngự trị. Chao ôi! Ai có thể ngờ được cuộc đời mình lại có ngày đánh đu với tử thần một cách... vô duyên như thế này!?

Đã nửa tiếng trôi qua, bọn tù hồ như chỉ tiến được dăm thước. Tên quản giáo dù nhận lệnh trên, nhưng cá nhân hắn có lẽ cũng có tí ái ngại hộ bọn tù nên hắn lờ đi và không cất một lời thúc hối nào. Hắn ngồi tựa vào một gốc cây gòn đã chết khô nằm cách hiện trường độ hai chục thước tán dóc với một thằng vệ binh. Thấp thoáng nơi phía đường sắt có đôi ba thằng vệ binh khác ôm súng ngồi cạnh bọn tù lao động.

Mùa này trời Biên Hòa hay có những cơn mưa rất bất chợt. Bọn cai tù lại rất kỵ mưa. Cứ hễ trời vừa chuyển là chúng vội vàng gom tù đưa về trại tức thì. Chẳng phải chúng thương gì bọn tù mà chỉ vì trời mưa sẽ gây cho chúng nhiều trở ngại trong việc canh giữ.

Vĩnh chậm rãi tiến lên xâm cây que vào khoảng đất trước mặt. Có lúc Vĩnh dừng chân quan sát chung quanh. Anh thầm nhủ trong lòng nếu dưới chân anh đừng nổ bậy bạ một quả mìn thì thế nào anh cũng viết lại câu chuyện này. Bên cánh trái Vĩnh là Trần Mạnh Toàn. Trời sáng nay thực mát mẻ, ấy thế mà Vĩnh vẫn nhận ra trên trán Toàn từng giọt mồ hôi to tướng cứ thay phiên nhau nhỏ xuống đất. Anh chàng thiếu úy Nha Quân Pháp này trắng trẻo và hiền lành như con gái, đụng cái ca này chắc hẳn cường độ teo ruột phải cao hơn nhiều thằng thuộc loại bóp cò chuyên nghiệp khác.

Cuộc rà mìn trong thời đại Hồ Chí Minh tiến hành đã được trên hai tiếng đồng hồ. Nắng bỗng nhiên nhạt hẳn đi. Ngọn gió Đông Nam thổi qua cánh rừng thưa như muốn đem tất cả những hơi mát mẻ của cây cỏ tặng cho bọn sa cơ thất thế. Vĩnh bỗng ngước lên nhìn trời. Xa lắm về hướng Đông, những chùm mây xanh xám chỉ đem đến những hứa hẹn có mưa về buổi chiều. Thế nhưng gió vẫn từng cơn thổi mạnh. Mặt trời mờ thật nhanh đến độ chả mấy chốc người ta mất dần cảm giác rằng trưa đã sắp đứng bóng. Tên quản giáo cũng ngó trời ngó đất. Bọn Vĩnh mừng thầm. Dám có thể nó thấy trời chuyển mưa nhanh sẽ cho về sớm. Một lần nữa Vĩnh đứng thẳng lưng ngó những chùm mây xám ở hướng Đông. A! Nó đã tụ lại với nhau thành nhiều tầng mây đen tự bao giờ. Những tầng mây ấy đang lồng lộn bay về phía này.

Vĩnh lại ngó mình rồi ngó quanh các bạn. Hầu như chưa ai đạt nổi một nửa chỉ tiêu của sáng nay. Thế nhưng tạ ơn trời, chưa một tai biến nào xảy ra và cũng chưa thấy ai báo cáo rằng họ đã tìm thấy một quả mìn. Tên quản giáo chợt đứng lên nhìn đồng hồ tay. Hắn tiến lại phía tù và bất chợt ra lệnh.

- Thôi trưa rồi, các anh tập trung lại chỗ cũ tôi nhận xét vài điểm rồi cho về nghỉ trưa.

Những gánh nặng ngàn cân như được trút khỏi vai. Sau khi cắm cái que tre thật sâu xuống trước mặt, đánh dấu chỗ mình đã rà tới, bọn tù đều hớn hở quay lui.

Vĩnh không tự thấy được nét mặt của mình, nhưng anh có thể nhìn thấy được nét mặt của các bạn chung quanh. Đó là nét mặt của những xác chết! Những nét mặt tái xanh chen lẫn xám xịt. Những nét mặt như muốn biến vào cái màu sắc u ám của đất trời lúc nó đang quặn mình chuyển vào cơn mưa. Thế rồi những nét mặt ấy rã ra như sáp chảy, đổ ngang dọc trên mặt đất và chồng đè lên nhau. Tất cả mù mịt và thụ động hoàn toàn, kể cả nét mặt của tên quản giáo và mấy thằng vệ binh: Một tiếng nổ kinh hồn đã vang lên cách Vĩnh không quá mười sải tay!

Chao ôi! Sao lại có cái tiếng nổ lạ thường vậy? Nhưng tiếng nổ quả thực đã xảy ra, đã đánh vạt hẳn đi một phía có nhiều người. Một tiếng nổ kỳ cục. Một tiếng nổ vô duyên. Một tiếng nổ thánh thần cũng chẳng ngờ được: Tiếng nổ trên đoạn đường quay lui của bọn tù rà mìn...

Cơn mưa thốt nhiên ào ạt đổ xuống. Tên quản giáo la hét. Bọn vệ binh túa ra bố trí giữ an ninh.

- Bình tĩnh! Các anh bình tĩnh đâu ngồi yên đó. Tên quản giáo la lớn. Người bị nạn sẽ được tiếp cứu. Tất cả các anh phải ngồi yên tại chỗ chờ lệnh của tôi. Yêu cầu trước mắt đừng làm một hành động nào khả nghi không tốt để các đồng chí vệ binh phải buộc lòng nổ súng.

Bọn tù tuân lệnh ngồi xuống. Mưa bắt đầu nặng hột. Hơi đất ẩm bốc lên rất khó chịu. Những kiếp người cơ cực bắt đầu lấm lem. Tất cả đều dồn những ánh mắt lo âu về phía những người bị nạn. Phải mấy phút sau khi tiếng nổ xảy ra, bọn Vĩnh mới nghe thấy những tiếng rên. Dù mưa tầm tã nhưng Vĩnh vẫn nhìn thấy thật rõ ba người nằm trên mặt đất. Máu của họ theo nước mưa chảy loang lổ một khoảng lớn. Vĩnh đã nhận ra trong ba người có cả Võ Tấn Bảo Hùng, anh chàng trung úy pháo binh mập tròn như ông Nhị Thiên Đường, trong trại rãnh giờ nào là đem sách châm cứu ra nghiên cứu và thực tập ngay trên các huyệt mạch của anh.

Vĩnh và các bạn chỉ nghe thấy hai người khác rên la, còn Hùng nằm bất động và im lìm dưới mưa. Vì máu me nhiều quá, Vĩnh không thể biết được ai bị thương nặng hơn ai, nhưng anh vẫn đinh ninh người không rên la nhất định phải là người nặng nhất vì anh ta đã ngất đi...

Tên quản giáo sau khi rút súng lục bắn mấy phát chỉ thiên, có lẽ là ám hiệu cho bên trong trại biết ngoài này có tai nạn, hắn chạy lại phía bọn Vĩnh, nói.

- Tôi cần ba anh tình nguyện theo tôi.

Vĩnh nhanh chân chạy theo tên quản giáo và hai người bạn khác về phía những người lâm nạn.

Mười phút sau đó, với những cái cáng làm bằng áo và mấy cây gậy kiếm tại chỗ, ba người lâm nạn mình mẩy đầy máu me được đám bạn tù thay phiên nhau cáng vòng về trại. Không nói ra nhưng Vĩnh biết chắc một điều trong ba người ít nhất cũng sẽ có một người cụt chân; và người cụt chân, nếu có, sẽ là ông thầy châm cứu Võ Tấn Bảo Hùng! Tự dưng hình ảnh Long Nhí ở An Dưỡng lại hiện ra trong trí nhớ Vĩnh. Vĩnh không rõ giờ này Long ở K nào? Chân nó ra sao? Và tại sao lần đi viện vừa rồi anh không gặp nó cũng không gặp Cường phi công trên đó? Chẳng lẽ chân cẳng như thế mà không được đem lên bệnh xá chữa trị như bên An Dưỡng?

Vĩnh vừa đi theo anh em vừa vuốt nước mưa trên mặt. Mối buồn làm hồn anh tan loãng. Nó trôi dạt lang thang và sau cùng tấp vào một bài thơ một thời Vĩnh yêu thích, bài Barbara của Jacques Prévert. Vĩnh khẽ đọc đủ cho riêng mình nghe.

Nhớ lại đi em, Barbara!
Mưa rơi tầm tã trên thành Brest ngày hôm ấy...

Toàn bỗng nói khẽ bên tai Vĩnh.

- Đừng đọc nữa ông Vĩnh ơi! Đừng đọc nữa ông Vĩnh ơi!

Khi về tới cổng trại, Vĩnh nghe thấy một người than thở với một người khác.

- Biết thế hồi đó tao tình nguyện đi Trảng Bom quách. Trổ ngón xủi nghề quá, thằng quản giáo nó giữ lại luôn!

CHƯƠNG NĂM MƯƠI BA

Sau vụ nổ khiến một người cụt chân và hai người bị thương nặng, Vĩnh không đi rà mìn thêm một lần nào nữa nên không rõ công tác ấy ra sao? Bỏ dở hay vẫn được tiếp tục? Và K nào được tiếp tục phần vụ vinh quang ấy? Riêng ở K.5, sau vụ nổ, bỗng nhiên có một hiện tượng rất đáng phấn khởi xảy ra. Khẩu phần bột bỗng dưng được tăng tí chút và đặc biệt hơn nữa, hậu cần trại còn cho kêu tổ trực bếp lên khung nhận heo về thọc tiết.

Dĩ nhiên một con heo nặng quãng tám mươi ký được xẻ thịt và chia đều cho hơn bảy trăm khẩu phần thì mỗi khẩu phần giỏi lắm được hai đốt ngón tay thịt với ít nước luộc lều bều mỡ, nhưng bọn tù vẫn thấy hạnh phúc như thường. Cả trại đều bừng lên một khí thế khác thường khi có tin được ăn thịt heo. Bên cạnh cái hạnh phúc và cái khí thế ấy luôn luôn vẫn là những tin đồn...

- Calmer cái bất mãn vụ tay không rà mìn đấy!

- Quân khu 7 nghe đâu đã khám phá ra vụ gian lận tiền ăn của tù. Bọn khung phải bồi hoàn thực phẩm. Để rồi xem, tiếp theo vụ vật heo này thế nào cũng có vài thằng bị hạ tầng công tác.

- Không đâu! Tôi nghe nói sẽ có một phái đoàn thanh tra từ trung ương Đảng xuống thăm...

- Trung ương đảng chúng nó xuống cái trại phải gió này làm gì? Rõ là tin đồn của một lũ khùng!

- Dân ở ngoài làm dữ lắm. Thế nên chúng phải xét lại chế độ ăn uống cho tù...

Ngày đầu ăn thịt heo tin đồn chỉ quanh đi quẩn lại từng đó. Thêm hai ba ngày kế tiếp vẫn được ăn thịt heo, tin đồn bắt đầu... lên độ.

- Một phái đoàn quốc tế do Mỹ cầm đầu sẽ ghé thăm Suối Máu.

- Không, không đúng hẳn như vậy. Tao nghe nói là một phái đoàn Hồng Thập Tự.

- Sai hoàn toàn! Sẽ có một phái đoàn giám sát gồm bốn nước hai quốc hai cộng, sẽ lần lượt đi thăm tất cả các trại cải tạo ở Việt Nam do một phán quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc...

Những tin đồn đại loại được truyền đi và tạo một không khí tranh luận ngầm nhưng thật sôi nổi trong nội bộ tù cải tạo K.5. Dù những nguồn tin đưa ra để tranh luân đúng sai vẫn có nhiều dị biệt, nhưng rốt cuộc nó vẫn có cùng một mẫu số: Trại cải tạo sẽ được thế giới ghé thăm!

Việc được tăng khẩu phần tinh bột, được vật heo đều đều mấy ngày nay rõ ràng là một minh chứng cụ thể nhất (!?). Qua sự kiện này, người thì cho rằng bọn cán bộ trại đã được lệnh cho tù bồi dưỡng tí chất thịt để thế giới khỏi phải nhìn thấy màu xanh lá cây trên mặt tù cải tạo; người lại cho rằng cho ăn thịt heo là để trình diễn trước phái đoàn và sở dĩ mấy ngày nay được vật heo liên tiếp chỉ vì cứ đến phút cuối phái đoàn vì một lý do nào đó, lịch trình thăm viếng Suối Máu phải tạm thay đổi và hoãn lại. Đã có không ít người cầu Trời khấn Phật sao cho phái đoàn cứ kẹt vào phút cuối như thế chừng mươi ngày nửa tháng thì tốt biết mấy. Tù vừa được ăn thịt đều đều, lại vừa có thì giờ thảo những kháng thư bằng Anh và Pháp ngữ để nếu có dịp, sẽ dấm dúi cho một anh nhà báo Tây phương nào đó tháp tùng phái đoàn...

Mặc dù chưa được đọc một bản kháng thư nào, nhưng Vĩnh đã nghe phong thanh có một vài "anh già" đã lén lút thảo một kháng thư bằng Pháp ngữ tố giác với quốc tế về đời sống cùng cực trong các trại cải tạo của CSVN ngày nay. Bản Anh ngữ nghe đâu cũng đang được một nhóm anh em trẻ thực hiện với nội dung tương tự...

Trong lúc "chờ đợi phái đoàn", tù cải tạo K.5 đã được ăn thịt heo sang tới ngày thứ tư. Thực ra trong cái vụ ăn thịt heo này, nếu nói theo từ ngữ cách mạng thì quả thật "không đạt chất lượng cũng như không đạt yêu cầu!". Nói cách khác, người được ăn thịt heo - một trong những món ăn vĩ đại nhất thời nay ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - đều cảm thấy không thoải mái thế nào ấy! Không thoải mái chẳng phải là ăn không ngon, mà chỉ vì ngay từ con heo thứ nhất được vật thịt, anh em đã khám phá ra con heo bị bệnh Than. Nhìn những thớ thịt thâm bầm, nhiều khi đen như than ai cũng biết đó là những con heo bệnh mà dưới chế độ tư bản bóc lột người ta phải đem đốt ngay. Nhưng nơi đây, nơi mà thằn lằn cắc ké và cào cào châu chấu còn ăn được thì nói chi đến chuyện heo bệnh! Tuy nhiên, khi con heo thứ năm được vật thịt thì lần đầu tiên bọn tù phải công nhận cán bộ cai tù cộng sản cũng biết phép vệ sinh như ai: Con heo được lệnh phải đem đi chôn! Sở dĩ con heo bị đem chôn vì nó là một con heo chết bệnh. Khi bọn tù anh nuôi khênh nó từ chuồng heo trên hậu cần trại về thì nó đã chết từ hồi nào. Con heo được mổ thịt tức thì. Vừa mổ ra, một mùi xú uế từ những thớ thịt đen thui bốc lên và lan tràn khắp bờ giếng. Tên cán bộ hậu cần trại lúc ấy mới nghiêm trang lên giọng.

- Con này chắc chắn không ăn được rồi! Coi thì phí của thật đấy nhưng đành phải chôn bỏ thôi. Tôi cấm các anh tùy tiện sử dụng đấy nhé.

Thế rồi con heo chết bệnh đầy mùi hôi thối được khuân đi chôn nơi góc vườn thuốc dân tộc của ông bác sỹ Triển. Đứng nhìn theo, dù chẳng khóc nhưng cũng không thiếu người ngậm ngùi đến độ!

Buổi trưa, khi giờ phát cơm đến, cả trại đều chùng xuống với chung một nỗi buồn. Con heo bệnh được đem đi chôn kia đã không được thay thế. Buồn hơn, khẩu phần tinh bột bỗng dưng lại bị cắt giảm một cách thê thảm. Mỗi người nhận về cho mình một miếng bột luộc chỉ bằng nửa bàn tay, có nghĩa là chỉ bằng phân nửa mấy ngày qua.

Những tiếng thầm thì nổi lên. Rồi thì sự thầm thì ấy chẳng mấy chốc, qua sự tiết lộ của đội anh nuôi, rằng thì là kể từ đây trại K.5 sẽ chay tịnh nhiều hơn để bồi hoàn vào số tiền mà tuần lễ qua ban chỉ huy trại đã mượn của... nhân dân mua heo cho mọi người ăn bồi dưỡng, đã trở thành những khúc... Đoạn Trường Tân Thanh thời mới.

Ăn trưa xong, kệ cho anh em nằm bàn tán với nhau, Vĩnh lên hội trường ngồi nhìn... Bác! Nhìn bác chán Vĩnh mò ra khu rèn ngồi nói chuyện với Mai Mạnh Liêu. Khu lò rèn nằm ngay góc phải của cổng trại, gần với mấy cái connex sét rỉ nơi dùng để nhốt những người vi phạm nội quy. Nơi đây, Liêu hành nghề rèn và chuyên rèn cuốc xẻng, dao mác cho hậu cần của ban chỉ huy trại. Cũng như mọi trưa, Liêu không ngủ mà ra ngồi lò rèn, bên cạnh luôn luôn có ông bạn khéo tay hay làm từng ở với Vĩnh một thời gian bên An Dưỡng, đó là ông bạn Minh chuột. Liêu và Minh vừa làm việc vừa thầm thì to nhỏ gì đó với nhau, thấy Vĩnh mò ra, họ chấm dứt ngay câu chuyện đang thì thầm.

Liêu trở lại với mấy cái cán dao đang gọt dang dở, còn Minh cũng trở lại với mấy cái bẫy chuột "văn minh hiện đại nhất thế giới" của anh ta. Nói như thế đối với mấy cái bẫy chuột mới được Minh sáng chế gần đây có lẽ không ngoa, vì những bẫy chuột này vừa nhạy, vừa gọn, vừa sản xuất hàng loạt lại vừa có cả âm nhạc! Ít nhất hiện nay Minh đã đặt được hơn mười cái trên những đà ngang của dãy nhà Vĩnh đang ở. Thoạt đầu những cái bẫy này làm anh em vui tai và rất khâm phục người sáng chế ra nó. Nhưng gần đây thì tình hình đã đổi khác. Minh bắt đầu được nghe những tiếng chửi rủa hoặc những lời cằn nhằn cự nự của mấy ông già khó ngủ và khó tính nằm cùng phòng. Quả thực những người có tuổi không thể vui được khi đêm đến đã khó ngủ, nằm vật vã với mối lo mình sẽ chết rũ tù, lại thỉnh thoảng phải nghe vài nốt nhạc kính keng koòng phát ra từ mấy cái bẫy chuột loại văn minh hiện đại của Minh! Nhưng mặc thiên hạ chửi, Minh vẫn hăng hái và kiên nhẫn chế thêm một mớ bẫy nữa. Minh đang sắp đặt kế hoạch "xâm lược" vào những dãy nhà kế cận để đặt bẫy.

Có lần Vĩnh hỏi.

- Mình ông hai bẫy đủ ăn rồi. Đặt chi lắm thế?

Minh cười.

- Ông tưởng thế à? Nói thật ông nghe, làm bẫy và đặt bẫy thì lười, chứ một ngày tôi bẫy được hai mươi con sẽ có hai mươi mốt thằng đến xin, bẫy được ba mươi con sẽ có ba mươi mốt thằng đến xin. Trong này "protéin" đâu có thừa thãi bao giờ!

Ngồi xem hai ông bạn làm việc một lúc, hỏi nhau dăm ba câu chuyện, Vĩnh bỗng chú ý đến mấy tiếng động phát ra từ cái connex gần đó. Anh vội hỏi Liêu.

- Có thằng nào trong đó hả?

Liêu quăng một mẩu sắt nhỏ vào một góc lò rèn, tay cầm cái điếu cầy dựng bên cạnh lên.

- Ừ, một thằng trước ở chung nhà với tao.

Nói đoạn Liêu nâng điếu lên miệng xục khô vài hơi, thình lình hắn bỏ điếu xuống, ngó đăm Vĩnh. Ủa, mà hình như mày cũng quen nó mà. Nó là thằng Đạo mỗi lần mày ghé chỗ tao mày hay nói chuyện với nó đó!

- Đạo hả?

Liêu gật đầu.

- Ừ thằng Đạo.

- Ủa, thế ra nó vẫn còn bị nhốt ở đây à? Tao nghe nói bị chuyển sang dãy connex trước K.2 lâu rồi mà?

Liêu đã kéo xong bi thuốc. Hắn giơ cái điếu về phía Vĩnh, thều thào.

- Kéo một bi đi.


Vĩnh lắc đầu, hỏi thêm.

- Nó khỏe không?

- Khỏe! Mày có thể nói chuyện với nó, nhưng coi chừng thằng vệ binh đang ngồi trên vọng gác kia.

Vĩnh ngước nhìn lên vọng gác nằm ngay trên đầu dãy connex. Một thằng vệ binh đang ngồi lim dim sau khẩu súng. Anh thấy rằng việc nói chuyện với người trong connex vào lúc này là không nên, nên chỉ tiếp tục nói chuyện với Liêu.

- Làm rèn ở đây mày có tiếp hơi được gì cho nó không?

Liêu thẳng thắn.

- Không! Mỗi tuần nó chỉ được mở connex hai lần để đổ phân và rửa ráy. Mấy thằng vệ binh ngó lăm lăm nên tao không thể cho nó được cái gì dù là một bi thuốc lào.

Vĩnh ngồi ngó ra cái connex nằm cách chỗ anh ngồi không quá mười bước chân. Trời nắng như thiếu đốt. Những tiếng lục đục trong connex thỉnh thoảng khẽ vang lên nhưng tuyệt nhiên Vĩnh không nghe thấy một lời nói hay một câu rên la nào. Anh bỗng nhớ đến Đạo...

Trong một dịp ghé nhà 7 nằm gần dãy nhà bếp thăm thằng cháu bị suyễn nặng. Vĩnh quen Đạo. Đạo nằm cạnh Huy, cháu gọi Vĩnh bằng cậu. Khi vô tình nhìn thấy trên cánh tay phải của Vĩnh có hình xâm một bông hoa Bích Hợp nho nhỏ, Đạo bỗng ngồi dậy hỏi Vĩnh.

- Anh Hướng Đạo hả?

Thấy người bạn trẻ hỏi han Vĩnh cũng vui vẻ trả lời.

- Vâng, anh cần gì không?

Nghe thế Đạo hỏi tiếp liền.

- Anh đạo nào vậy?

- Sau cùng trước khi động viên là liên đoàn Lam Sơn, tráng đoàn Sông Hậu. Còn anh?

Đạo bỗng chồn tới giơ tay trái ra.

- Đệ là Đạo. Trần Hướng Đạo. Cựu thiếu sinh của đạo Xuân Hòa.

Hai người mới gặp nhưng trong tình anh em Hướng Đạo tay bắt mặt mừng và tin tưởng nhau ngay. Rồi những ngày kế tiếp Vĩnh hay gặp Đạo lúc xuống bếp khều tí than nấu ké tí rau rác lượm lặt được.

Trong lần lên lớp học tập chính trị đợt mười ngày hồi đầu tháng 10, lúc ấy Vĩnh còn nằm bên bệnh xá thì ở nhà Đạo bị bắt nhốt connex. Dĩ nhiên Vĩnh không biết hết sự việc, nhưng qua lời kể lại của bạn bè, anh hiểu lý do Đạo nằm connex không "oan" tí nào.

Trên hội trường, trong một bài học, giáo viên giảng rằng: Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa nước ta, để tỏ lòng căm thù bọn Mỹ ngụy, có rất nhiều nhân dân ta đã đặt tên cho chó trong nhà là Kennedy, là Johnson, là Nixon, là Thiệu, là Kỳ...

Về phòng, chẳng ai cấm được một thiếu úy ở tuổi 22 trong cơn bực mình đã phát ngôn linh tinh rằng: Hồi tôi sang tu nghiệp bên Mỹ, tôi cũng thấy bọn xâm lược Mỹ đã tỏ ra cực kỳ phản động, bằng cách chúng dám lấy các tên lãnh tụ vĩ đại như Marx, Lenin, Stalin, Brejnev, Mao, thậm chí cả tên bác Hồ kính yêu của ta mà đặt cho lũ đười ươi ngay trong sở thú Hoa Thịnh Đốn!

Câu phát ngôn linh tinh của Đạo được một đấng ăng ten đem mách với khung và thiếu úy Trần Hướng Đạo vào nằm connex mịt mù cho tới nay. Khi Vĩnh rời bệnh xá về trại hồi cuối tháng Mười thì nghe tin Đạo bị đánh đập dữ lắm, sau đó bị đem sang giam bên K.2; không ngờ hôm nay Liêu tiết lộ Đạo đã được đem trở lại connex của K.5.

Thốt nhiên Liêu hỏi.

- Mày nghĩ liệu có phái đoàn quốc tế nào sẽ ghế thăm đây như tin đồn không?

-.....!

- Ở đội tao thiên hạ bàn tán dữ lắm. Chỉ có mấy anh tá già là giữ yên lặng tối đa.

- Nhưng ông bác sỹ Phát cũng nói bạo đấy chứ! Tối qua tao nói chuyện với ông ấy, ông ấy nói lung tung hết. Tao có cảm tưởng như sáng nay trại này đã phải tràn ngập bọn mũi lõ mắt xanh rồi!

Liêu bỗng cười khẽ.

- Ông bác sỹ Nguyễn Tuấn Phát ấy hả?

- Ừ.

- Mày cũng quen ông già hồi xuân ấy hả?

- Ừ.

Liêu chẳng hỏi thêm và Vĩnh cũng chẳng muốn chuyện trò thêm. Anh ngồi ngó nắng đầu óc nghĩ ngợi lan man. Có lúc Vĩnh lại nghe thấy Minh và Liêu bàn đến con heo đem chôn khi sáng. Một lúc sau họ lại bàn đến trận đá bóng sẽ diễn ra trên màn ảnh nhỏ đêm nay giữa đội Thiên Tân của nước Trung Quốc anh em vĩ đại và đội Hải Quan của thành Hồ ( toàn cây nhà lá vườn như Cù Hè, Cù Sinh, Tam Lang...) Trận đấu sẽ được trực tiếp truyền hình từ sân Thống Nhất tức sân Cộng Hòa cũ.

Vĩnh ngồi như thế ngoài khu rèn cả một buổi trưa cho đến khi anh Huy xuất hiện trước cửa hội trường tay cầm cái chổi để Vĩnh biết rằng giờ lao động sắp sửa tới.
°
Hội trường K.5 gồm hai dãy nhà tôn được gắn dính vào nhau. Nó có chiều dài mười lăm mét như tất cả các dãy nhà khác và chiều rộng chừng mười hai mét. Nền hội trường đắp đất. Bên trong phía trên có một sân khấu cố định. Bàn thờ thủ cấp Hồ Chí Minh không đặt trên sân khấu nhưng đặt trên một cái tủ tam cấp kê sát một bên vách hông hội trường. Hình như bọn chỉ huy K.5 muốn rằng mỗi chiều đến phải có nhiều trăm con mắt của lũ tù đồng hướng về và hướng lên ảnh tượng "bác kính yêu", nên chúng cho đặt cái TV 19" ngay dưới nấc kệ thứ hai của tam cấp.

Những ngày thường giờ xem TV thực tế không lôi cuốn được lũ tù. Chập choạng tối kiếm một cái lò nho nhỏ, đốt tí củi nấu tí nước sôi ngồi quây quần tán gẫu với nhau vẫn thú vị hơn là phải xem đi xem lại mãi mấy cái trò "rối nước", mấy cái tin lao động toàn là "vượt chỉ tiêu" của nhà nước! Tuy nhiên chiều tối thứ Bảy thì khác. Lên muộn một tí nhất định không thể tìm ra được một chỗ đứng trong hội trường. Màn cải lương chiều thứ Bảy dù gì vẫn còn nhiều ma lực đối với bọn tù. Đặc biệt bữa nào có những gánh hát gồm toàn những đào kép cũ thủ diễn. Có thể chẳng mấy ai còn thích gì những giọt nước mắt của các cô đào tăm tiếng một thời như Thanh Nga, Lệ Thủy, Bạch Tuyết... Nhưng những tiếng cười, câu diễu, lời cương của những anh hề Văn Chung, Thanh Việt, Phi Thoàn, Hoàng Giang... vẫn có khả năng làm cho những tâm hồn tù tội nguôi ngoai được một chút muộn phiền. Ấy là chưa kể có lắm anh hề cương một cách "phản động" trông thấy! Bọn tù nhiều lúc không khỏi giật mình lo âu (nhưng khoái!) cho một vài anh hề cải lương, chẳng hiểu cố tình hay vô ý, đã cương những câu còn nặng hơn cả tội chửi cha chế độ.

Đêm nay hội trường K.5 còn đông hơn cả những chiều thứ Bảy. Từ bốn giờ chiều, khi những toán lao động bên ngoài trại đã lai rai trở về thì hội trường đã hầu như không còn một chỗ trống. Những người lao động tại trại, bọn anh nuôi, bọn ốm bệnh, các tổ đan tre... đã mỗi người một cái ghế gỗ đâm bổ lên hội trường cắm dùi một chỗ ngồi. Có những anh sợ mất chỗ, đem luôn phần bột mì luộc của mình lên ngồi nhai trên hội trường ngay từ lúc phát đồ ăn vào lúc năm rưỡi. Hầu như ai cũng náo nức mơ sớm tới giờ khai mạc trận đấu bóng giữa hai nước Việt và Tàu cộng.

Cũng như hầu hết người Việt Nam, Vĩnh mê bóng tròn. Nhưng mê gì thì mê, anh không thể nào chui vào ngồi giữa một rừng người chen chúc trong cái nhà tôn nóng như hỏa lò thế kia được! Lúc bóng chiều đã đổ xuống khắp nơi, những tiếng reo hò nhắc nhở anh bạn tù có nhiệm vụ trực máy mở tủ để bắt TV thì Vĩnh và Toàn mới bắt đầu rời phòng ngủ ra đứng ngoài vuông sân trước hội trường. Đứng nơi đây, trong lúc chờ xem TV, hai người có thể nghe thấy nhiều câu chuyện thời sự được anh em tụm năm tụm ba bàn tán với nhau. Những câu chuyện họ nói tới, dù sao cũng không thể vượt xa hơn chuyện đã được ăn thịt heo, chuyện phái đoàn quốc tế có thể ghé thăm, chuyện nay mai sẽ được phát quần áo sọc để chính thức tù hóa những cải tạo viên của chế độ... Trong những lời bàn tán ấy, Vĩnh còn nghe thấy một tin đồn, theo đó nay mai sẽ có một số đông tù binh VNCH từng bị bắt trước 30 tháng Tư năm 75 được chuyển từ Bắc vào...

Rồi thì những câu chuyện như vậy bắt đầu chấm dứt khi TV được bật lên. Cái hoạt cảnh Con Rối Nước vừa rẻ tiền vừa quê mùa kệch cỡm do bọn văn nô Hà Nội biến chế, gần đây được phổ thông hóa trên TV bằng cách dùng làm mục chuyển tiếp giữa các chương trình, đã cho mọi người biết giờ trực tiếp trận đấu bóng tròn sắp tới. Những trận đấu giữa các hội tuyển Nam Bắc trước đây, do vậy, lại có dịp để mọi người đề cập đến với đủ thứ phen lê. Dĩ nhiên sự phê phán mạnh mẽ nhất vẫn nhằm vào việc bọn cán bộ chỉ đạo nền bóng tròn hiện nay, luôn luôn làm áp lực với các cầu thủ gốc "ngụy" phải bán độ mỗi khi có dịp thi đấu với các đội tuyển miền Bắc như đội tuyển Quân Đội Nhân Dân, đội tuyển Công An Nhân Dân Thành Phố Hà Nội...; việc anh em Cù Hè bị treo giày chỉ vì quyết liệt trả đũa bọn cầu thủ Công An chơi xấu lấy thịt đè người; việc mỉa mai bọn dìu dắt các đội banh của Hà Nội lúc nào cũng khoe khoang trên mặt báo rằng thì là "các vận động viên của đội có ưu điểm nổi bật là... ai cũng có một thể lực thật tốt!"...

Rồi thì trận đấu cũng đến giờ. Non một ngàn cặp mắt thụt sâu vì đói ăn đều hướng về phía cái màn ảnh nhỏ trắng đen bé tí để theo dõi một trận đấu vĩ đại giữa hai nước anh em vĩ đại. Qua lời giới thiệu của tay xướng ngôn viên trực tiếp truyền đi từ vận động trường, bọn tù được biết đội Thiên Tân là một trong bốn đội bóng xuất sắc nhất của Tàu cộng. Kể từ trận đấu giao hữu đầu tiên ngoài Bắc, đội cầu này đã thua đội tuyển Công An Nhân Dân Thành Phố Hà Nội trong một trận đấu không lấy gì làm gay go với tỷ số 3-1. Trong quá khứ, đội tuyển CATPHN lại từng thua đội Hải Quan Sài Gòn nhiều lần rất đậm đà, thành thử bọn tù cầm bằng kỳ này đội Thiên Tân có lấy cần xé mà đựng banh đem về Tàu!

Lúc trận đấu thực sự mở màn thì cổng trại bỗng bật mở. Chẳng hiểu vì lý do gì, bọn vệ binh từ trên khung lũ lượt kéo vào. Vĩnh thầm đếm và thấy chúng đông trên một tiểu đội. Trời đã tối nhưng Vĩnh vẫn có thể nhận ra trong số đó có vài thằng quản giáo. Bọn chúng vượt qua cổng rồi kéo thẳng vào hội trường đã đầy nghẹt người. Một tên trong bọn chợt nói lớn với mọi người.

- Máy của khung bị cố kỹ thuật! Yêu cầu các anh ngồi phía trên kia nhường một khoảng trống cho cán bộ và các anh vệ binh ngồi xem đấu bóng!...

Vĩnh và Toàn thực tế không theo dõi trận đấu một cách tích cực. Cả hai đứng ngoài sân nói chuyện, lâu lâu nghến chân nhìn vào trong hội trường. Dù ơ hờ nhưng cũng có lúc lòng Vĩnh sôi lên cùng với tiếng reo hò tở mở của anh em.

- Đốn! Đốn! ĐM. đốn chết mẹ nó đi!

- Ba Tàu chơi xấu! Đốn giò! Đánh bỏ mẹ nó đi!

Trong cơn hăng máu yểm trợ gà nhà, lũ tù "ngụy" còn đấm ào ào vào vách để tỏ lộ niềm xúc cảm. Anh chàng xướng ngôn viên nhiều lúc như sợ người anh em Trung quốc vĩ đại buồn, tường thuật có hơi thiên lệch, bị lũ "ngụy" hò hét chửi rủa um sùm. Những từ ngữ chuyên môn và rất lạ tai của làng bóng tròn miền Bắc được sử dụng qua giọng tường thuật, đều biến thành những thứ gia vị cho những lời chửi bới thật đậm đà của lũ tù.

- Thọc khe? Thọc cái con mẹ nó à!? 1
- Lật cánh? Lật cánh con vợ nó à!? 2

Những tiếng reo hò đang vang lên hòa với những tiếng đập ầm ầm vào vách tôn bỗng lắng hẳn xuống vì một tiếng súng nổ trong một góc hội trường. Tiếp theo đó là một tiếng thét lớn.

- Các đồng chí vệ binh rút ngay ra khỏi hội trường! Cảnh giác bọn phản động làm loạn!

Vĩnh đứng ngoài và nghe rất rõ câu ra lệnh trên. Toàn bản tính cẩn thận, muốn tránh vạ vịt, kéo ngay tay Vĩnh trở về phòng. Nằm trong phòng, Vĩnh và Toàn vẫn có thể nghe rất rõ sự náo động trên hội trường. Tuy nhiên, sự náo động ấy chỉ kéo dài chừng năm bảy phút rồi tắt ngấm. Kế nữa, giọng một tên cán bộ quản giáo vang lên.

-... cải tạo mà như thế hả? Đá chết ai? Đánh bỏ mẹ ai? Anh nào giỏi bước ra đây đá bỏ mẹ thử xem nào?...

Mươi phút sau hội trường tan hàng và trận đấu bỗng bị cắt ngang không cho tù coi nữa. Đây là hậu quả của sự phát ngôn linh tinh mà bọn tù đã vi phạm trong lúc được hưởng ân huệ xem truyền hình dưới chế độ mới, trong tù.

Toàn và Vĩnh vừa nằm nói chuyện lan man, vừa lắng nghe tiếng muỗi vo ve, tiếng động, tiếng nói móc nói méo, tiếng bàn luận về đủ mọi thứ chuyện của anh em tù đang lũ lượt rời hội trường tìm về những dãy phòng ngủ nóng bức chật hẹp. Hơi đất ẩm bốc lên quyện với mồ hôi, mùi chua mốc của quần áo cũ làm Vĩnh thấy khó chịu...

Một vài anh em cùng tổ với Vĩnh đã về tới. Ai cũng có vẻ luyến tiếc và mệt nhọc. Họ xà xuống chỗ nằm. Anh Huy chợt lết tới gần Vĩnh. Anh nói.

- Vĩnh ạ. Khi nãy tôi thấy tụi nó lôi một thằng ra khỏi connex và đem thẳng lên một chiếc jeep đậu sẵn ngoài cổng.

Vĩnh giật mình nghĩ ngay tới Đạo. Toàn chen vào.

- Hình như chuyện sẽ có một phái đoàn quốc tế ghé thăm là chuyện thật đấy! Tôi có nghe họ nói trong hai ngày nữa, khung họ sẽ cho lệnh dẹp hết những connex đặt phía trước các K của trại Suối Máu này.

Anh Huy nói như tự hỏi.

- Và do đó những người bị giam connex phải được lôi đi trước khi chuyện dẹp bỏ các connex được thực hiện?

Không ai trả lời câu hỏi của anh Huy.

Thực lòng Vĩnh muốn góp chuyện cho vui nhưng biết gì chắc chắn mà góp!? Chỉ một ngày mà đã có quá nhiều sự kiện xảy ra nơi đây. Nào là chuyện ăn thịt heo, chuyện phái đoàn quốc tế đến thăm, chuyện người bạn trẻ Trần Hướng Đạo được đem về rồi lại bị đem đi, chuyện thảo kháng thư, chuyện đấu bóng tròn và chuyện nổ súng giải tán lũ "ngụy" xem TV trên hội trường... Nhiều chuyện quá! Cứ chạy theo sự kiện mà luận hẳn có ngày điên!

Vĩnh ngồi dậy tính rủ Toàn bước ra ngoài sân cho mát thì thốt nhiên cả đám lại giật mình vì một loạt súng khác nổ ngoài phía cổng trại. Tiếp theo là tiếng chân chạy rầm rập nơi phía vườn thuốc Nam. Có nhiều tiếng la "đứng lại! Đứng lại!".

Anh em nằm trong dãy nhà 1 đều tìm cách nhìn ra ngoài, nhưng vì trời tối, lại bị dãy hội trường chắn mất tầm nhìn nên chẳng mấy ai biết rõ chuyện gì đã xảy ra. Mãi một lúc lâu sau đó, chuyện nổ súng và chuyện rượt đuổi mới được loan truyền khắp nơi, khi có mấy anh bạn tù bị trói đưa lên ban chỉ huy trại với tang vật còn nồng mùi hôi thối. Lúc Vĩnh bước ra tới bờ giếng, anh thấy nơi vườn thuốc Nam của ông bác sỹ Triển có nhiều ánh đèn pin, và nơi cổng, chỗ những người bị bắt giữ còn đứng đợi lệnh, Vĩnh thấy có cả Minh chuột, Mai Mạnh Liêu và một người rất quen mặt làm trong đội anh nuôi.

Một giọng nói chợt cất lên từ đám đông nơi bờ giếng. Vĩnh có thể nhận ra giọng ấy thật dễ dàng. Đó là giọng Phạm Xuân Đồng.

- Quân phản động! Heo chôn để làm mắm cúng bạn học của tao mà chúng nó dám đào lên chia chác với nhau!
--------------------------------
1
Thọc khe: Đưa banh thật sâu vào vùng cấm địa của đối phương.
2
Lật cánh: Banh chuyền thẳng từ tả biên sang hữu biên hoặc ngược lại.

CHƯƠNG NĂM MƯƠI TƯ

Đúng mười ngày trước cái Tết thứ ba trong tù thì Vĩnh lại kiếm ra chuyện để được đi bệnh xá. Việc đi bệnh xá vì chứng ho lao ra máu của Vĩnh xảy ra vào lúc toàn trại Suối Máu, đặc biệt K.5, đang nháo nhào lên vì mấy sự kiện đặc biệt.

1. Tù được phát đồ sọc đúng như tin đồn.
2. Chừng hai chục người từ Bắc được đem vào và được để ngủ tạm trên hội trường K.5 một đêm.
3. Một trung tá nghe nói là người từng xin rời Mỹ trở về Việt Nam bằng tàu Thương Tín, bị giam ở Chí Hòa và hiện được chuyển vào K.5 nằm chung với các đàn anh ở đội 20.

Buổi chiều trước khi rời cổng K.5, trong lúc đợi ông Triển về phòng sửa soạn vài thứ cần thiết để dẫn Vĩnh tới bệnh xá, Vĩnh may mắn hết sức được trò chuyện đôi câu với những anh em được chuyển từ Bắc vào. Đang loay hoay buộc lại túi quần áo trước cửa hội trường (vì có người mới đến tạm chiếm ngụ, những người cũ bị cấm chỉ bén mảng vào trong hội trường và hai bên không được liên hệ qua lại với nhau) thì một anh bạn tù bên trong hội trường bước ra, chỉ vào mấy người cũ đang kéo nước ngoài bờ giếng, hỏi Vĩnh.

- Sao ở đây trông mấy ông "hèn" quá vậy?

Vĩnh chới với trước câu nói báng bổ của người anh em. Chưa kịp trả lời thì người anh em đã tiếp luôn. Ngoài Bắc tụi tôi tối kỵ đội cái "bô đi ỉa" kia lên đầu. Thà rằng đội nắng đội mưa đi lao động...

Dù chới với nhưng Vĩnh không khỏi không thích thú trước lối nói thẳng thừng và ví von lạ tai của người anh em mới từ Bắc vào. Chính Vĩnh cũng nhiều lần thấy gai mắt trước cái cảnh mấy anh già bần tiện, từ buổi bọn hậu cần thảy xuống các đội một lô nón cối rách cũ của lũ bộ đội phế thải, đã chia chác giành giật bắt thăm để có được một cái nón cối rách đội trên đầu. Bản chất cái nón cối nào có xấu! Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, suốt ngày đội xùm xụp cái nón cối phế thải của kẻ thù trên đầu, trông nó tệ hại và khó coi làm sao ấy! Những người anh em ngoài Bắc mới được đưa vào, quả tình chưa rõ họ thuộc thành phần nào, nhưng với lối nói bộc trực của họ, Vĩnh có cảm tình tức thì.

Nghĩ ngợi tí chút, Vĩnh đáp.

- Đồng ý là hèn! Ở đây chúng tôi đều hèn cả anh ạ. Có hèn mới tự động dẫn xác đi nộp cho cách mạng! À còn các anh sao vậy? Sao lại được chuyển vào Nam vậy?

Một người khác cũng từ trong hội trường bước ra, trả lời thay người bạn của anh ta bằng một câu ngắn ngủi.

- Tụi này thằng nào cũng trên mười năm cả. Chúng nó hết gạo nuôi nên thả!

Cuộc trò chuyện chưa đâu vào đâu thì ông bác sỹ Triển đã xuất hiện trước cửa hội trường. Ông lên tiếng giục Vĩnh.

- Đi thôi! Liên hệ linh tinh coi chừng làm cả tôi mang vạ vịt bây giờ!

Những người mới đến nghe thấy ông bác sỹ Triển nói đều bỉu môi bỏ vào trong. Vĩnh mệt mỏi vác túi quần áo của mình lên vai, lầm lũi bước theo ông Triển sau khi lặng lẽ giơ tay chào mọi người.

Trên con đường từ K.5 lên bệnh xá, Vĩnh vừa đi vừa nhìn ngắm bộ quần áo sọc mà ông Triển vừa "diện" lên người. Bộ quần áo có hai màu xanh trắng, may theo kiểu bà ba, sọc chạy theo chiều dọc và chiều ngang của sọc to gần gang tay. Áo không có khuy nhưng có dây buộc. Trước mắt Vĩnh, quả thực bộ quần áo đã không hề làm cho ông Triển lạ lẫm hơn tí nào. Ông vẫn là ông Triển của mọi ngày: Chậm rãi, đẹp lão, sạch sẽ, hơi khó tính với anh em và rất lễ độ với những vệ binh gác cổng.

Vĩnh chợt lên tiếng hỏi.

- Cái ông về bằng tàu Thương Tín được đưa vào nằm ở phòng bác sỹ hả bác sỹ?

Ông Triển vẫn lầm lũi tiến bước. Ông đáp khẽ.

- Ừ.

- Cấp bậc gì vậy?

- Thiếu tá.

- Nghe nói là trung tá mà?

- Lão trung tá còn nhốt ở Chí Hòa. Họ đưa về đây một thiếu tá và nghe nói hai ba anh cấp úy nữa. Đám cấp úy hình như đưa sang K.1 hay K.2 gì đó.

- Sao họ về làm gì bác sỹ nhỉ?

Ông Triển đã trở lại với sự yên lặng cố hữu của ông. Ông không trả lời câu hỏi của Vĩnh nữa. Lúc hai người đi tới chỗ ngã rẽ ở góc K.3, một sự việc xảy ra làm ông Triển chùn bước đứng sát vào lề đường. Vĩnh dừng lại theo ông. Trên đường, xế trước cổng K.3 hai người tù đã trọng tuổi đang đứng nghiêm bên cạnh một thùng phân rất lớn có quang có gánh đầy đủ để lắng nghe một thằng vệ binh chửi rủa. Cái cảnh này gần đây không còn lạ gì với tù cải tạo Suối Máu. Chửi không mà ăn thua gì! Ở K.5 chúng còn bắt quỳ ôm cột đèn nữa ấy chứ! Thấy ông Triển tự dưng đứng dạt vào một bên đường, Vĩnh thầm thì.

- Đi cho rồi bác sỹ. Chả nhẽ đứng lại để thưởng thức thêm cái cảnh này sao?

Ông bác sỹ Triển không trả lời. Thốt nhiên Vĩnh giật mình vì một câu chửi lạ tai của thằng vệ binh vừa cất lên.

- Mày, thằng già này này. Từ lâu rồi tao đã chú ý đến cái lông mày rậm rạp của mày. Nội cái lông mày thôi trông cũng đã muốn đánh rồi!

Vĩnh nhìn người bị chửi. Ông ta chừng năm mươi lăm tuổi, râu tóc đã bạc nhiều. Vĩnh chú ý nhìn kỹ và nhận ra ông có một bộ lông mày lưỡi mác rất rậm. Không hiểu ông trả lời ra sao mà thình lình thằng vệ binh xốc lại đập luôn một báng súng vào mặt ông. Đến lúc này ông Triển có vẻ đã hết e dè. Ông quàng bước tiến lên. Vĩnh vội vã đi theo. Lúc bước qua gần chỗ thằng vệ binh đứng, dù nó không hề để ý tới, ông Triển vẫn lột thật nhanh cái nón xuống khỏi đầu.

Vào tới bệnh xá thì giờ phát cơm chiều đã chấm dứt. Những cái bếp con từ mấy dãy phòng bệnh nhả qua cửa sổ những sợi khói mỏng manh. Nơi hàng rào bên hông dãy cách ly, chỗ tiếp giáp với K.30 tức khối mộc, Vĩnh nhận ra mấy người bạn cũ, trong số có cả Nông Hải Sơn, đang lúi húi nấu nướng. Vĩnh được dẫn thẳng vào phòng nhận bệnh. Giờ này mấy ông bác sỹ cũng đang mỗi người một phần ăn, ngồi trên giường của họ, mặt quay vào vách nhàn nhã nhai khẩu phần của mình. Thấy ông Triển và Vĩnh, bác sỹ Châu nhanh nhẹn bỏ đũa đứng lên. Ông nhìn ông Triển, hỏi.

- Khỏe không anh Triển?

Ông Triển uể oải.

- Cũng nhàng nhàng vậy thôi. Nói đoạn ông chỉ vào Vĩnh. Bàn giao các ông cái "trung tâm y tế toàn khoa" này đây!

Tổ bác sỹ "ngụy" ở đây đã quá rành về Vĩnh. Duy lần này có lẽ có một điều họ không hề biết, ấy là Vĩnh đã thực sự... ho ra máu! Hôm nay bác sỹ Châu trực, thành thử ông đứng lên đưa thẳng Vĩnh xuống khu cách ly như đưa một bệnh nhân đã quá quen thuộc. Vĩnh đặt đồ đạc vào đúng cái giường nằm lần trước. Cả khu cách ly giờ chỉ còn lại mình Chung Văn Nhỏ. Thấy Vĩnh Nhỏ mừng ra mặt. Anh cuống quýt lên tiếng bên cạnh Vĩnh.

- Nằm đây nè! Nằm gần đây cho vui nè. Chỗ đó mưa tạt dữ lắm!

Vĩnh chưa kịp trả lời Nhỏ thì ông Châu đã dặn dò.

- Bệnh anh tôi biết rồi. Kỳ này cho nằm mịt mù. Bây giờ nhập băng với tên Nhỏ ăn uống cái gì đi. Tôi ăn cơm xong sẽ đo máu cặp mạch xem sao.

Chỉ nói thế rồi bác sỹ Châu lui gót. Dù đã được Nhỏ khuyến cáo chỗ nằm bị mưa hắt nhưng Vĩnh vẫn không đổi ý. Nằm ngay mé cửa dù gì vẫn thoáng hơn. Chui sâu vào phía trong ngộp chịu không nổi.

Vĩnh nhìn sang cái giường trống ngay bên cạnh. Đó là nơi ông cụ Nguyễn Thụy Hòa đã nằm trước kia. Ông Hòa đã chết hôm 17 tháng 12 vừa rồi. Vĩnh đã được nghe anh em kể lại cái chết đau thương của ông. Lúc chết đầu ông rụng không còn sợi tóc và thân thể chỉ là một bộ xương khô. Trước khi chết, ông được biên thư về nhắn người lên thăm. Tuy nhiên vì viết không đúng với nội quy quy định, tên quản giáo trại bệnh kiểm duyệt và xuống hoạch họe ông, ông chửi lại và đêm đó ông mất...

Chiếc giường trống bên cạnh như nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm Vĩnh có với ông cụ Hòa trong lần nằm viện kỳ trước.

Chung Văn Nhỏ chợt lên tiếng thúc hối.

- Tui đang nấu mì đây. Lại đây. Lại đây sửa soạn tụi mình đá một bữa mì đánh dấu ngày hội ngộ. Nằm một mình buồn thúi ruột ông ơi!

Ngày hôm sau, sau khi chẩn bệnh, bác sỹ Châu cho biết phổi Vĩnh lần này đã bết bát thực sự. Không cẩn thận sẽ là một Nguyễn Thụy Hòa thứ hai. Ông khuyến cáo trong lần thăm tới, phải cầu cứu gia đình cung cấp ngay thuốc chữa lao bằng không nguy to.

Đôi ba ngày kế tiếp, khi Vĩnh đã một lần nữa hòa mình được vào nếp sống nơi bệnh xá, thì không khí đón Tết đã thấy phảng phất khắp nơi. Thực ra ở trại Suối Máu không có cái cảnh đón Tết như ở Trảng Lớn và An Dưỡng; không có văn nghệ văn gừng, không múa lân múa võ nhưng không khí đón Tết vẫn thừa hớn hở: Ở đây tù sẽ được thân nhân vào thăm và tiếp tế trước dịp Xuân về. Việc viết thư thông báo cho gia đình vào thăm đã hoàn tất mấy ngày qua. Vĩnh sang bệnh xá và được viết thư báo gia đình lên thăm theo diện bệnh nhân. Ở diện này, người được thăm có rất nhiều hy vọng được gặp gia đình lâu hơn chút đỉnh.

Khi đã viết thư thông báo gia đình xong, Vĩnh lại lân la đi thăm các bạn cũ. Ông Nguyễn Bảo Tụng đã xuất viện tự bao giờ. Những người cũ bên khu thường bệnh chỉ còn anh Nguyễn Văn Đông và anh chàng đại úy quân cảnh tên Chiêu. Riêng Chiêu lúc này bệnh đã nặng lắm. Anh ta suốt ngày cởi truồng và đắp ngang mình một mảnh bao cát che ruồi. Mùi hôi thối từ bộ phận sinh dục của anh ta coi mòi còn nặng mùi hơn mấy tháng trước thật nhiều. Chiêu cứ nằm trên võng suốt ngày và chẳng thèm trò chuyện với ai một lời. Dù sao bên cạnh Chiêu lúc này đã có thêm vài người bạn mới. Họ đều là những người nằm chờ chết vì chứng bệnh ghẻ mủ đã tới hồi lở lói toàn thân...

Riêng anh Đông lúc này khép mình dạy nhạc lý căn bản cho mấy thằng bộ đội. Một buổi chiều, Vĩnh nói với anh.

- Anh Đông à, anh đau ốm lê lết thế kia còn nhận dạy nhạc cho tụi nó làm gì? Để sức mà nghỉ ngơi!

Anh Đông mệt nhọc chống tay ngồi lên trên tấm sạp gỗ của anh, lắc đầu nhè nhẹ.

- Phải dạy chúng nó chúng nó mới biết được giá trị của chúng ta chứ...

Vĩnh hết ý kiến trước lập luận của anh Đông, một lập luận trước sau chỉ đem đến cho anh sự mệt mỏi cùng cực. Dù quan điểm khác nhau tí chút về vụ dạy nhạc cho mấy thằng vệ binh, tình cảm giữa anh Đông và Vĩnh vẫn duy trì thật tốt. Miếng ngon miếng ngọt chẳng quên nhau. Khi vui vui, anh còn lục thư nhà ra cho Vĩnh đọc. Trong những lá thư ấy, anh khoe có cả thư của một cô ca sỹ học trò của anh, cô ca sỹ Giao Linh.

Trước Tết năm ngày thì ngoài khu thăm nuôi đã có những đợt thân nhân đầu tiên vào thăm. Theo lịch trình thăm viếng dành cho các K, bệnh xá mãi 28 Tết mới bắt đầu được thăm và thăm riêng, thăm lâu - Đó là lời nhấn mạnh một cách cực kỳ vui mừng trước đám tù bệnh của đại tá bác sỹ Nguyễn Khái, xếp sòng tổ y sỹ "ngụy" của bệnh xá Suối Máu.

Trong thời gian chờ thăm, cũng như các K khác, bác sỹ Cường, hậu cần trại bệnh, bắt đầu bận bịu với những công tác đi nhận thực phẩm cấp phát đặc biệt cho tù bệnh hưởng trong ba ngày Tết. Như bao giờ, trại bệnh không thể cáng đáng được việc nấu ăn, thế nên gà heo rau tươi đều được giao khoán cho bếp K.30 lo giùm.

Trước hôm thăm hai ngày, vào buổi chiều, trong lúc ngồi đánh cờ tướng với Chung Văn Nhỏ bên hiên nhà, chỗ nhìn ra con lộ đi lại của K.4, Vĩnh và Nhỏ chợt thấy bốn tên vệ binh lôi một người tù phía ban chỉ huy K.4 đến dãy connex nằm sát hàng rào đối diện với dãy cách ly. Người bị lôi trên đường trông gày guộc xanh xao chứng tỏ đã bị đánh đập rất nhiều. Bốn tên vệ binh lôi anh ta đến trước một connex, mở khóa cánh cửa sắt nặng nề rồi quăng anh vào trong. Trước khi cánh cửa sắt được khóa lại, một tên cất giọng hằn học.

- ĐM. mày cố tình phá hoại sản xuất phải không? Tụi tao sẽ quại mày đến trào thịt lợn ra ngoài mới thôi...

Chửi xong mấy thằng vệ binh kéo nhau đi.

Vĩnh và Nhỏ vội đứng lên. Vĩnh tính chạy một vòng báo động với anh em, nhưng nhìn sang phía khối mộc, anh đã thấy một số anh em đứng nấp sau những bụi Dâm Bụt rậm rạp theo dõi cùng sự kiện bên ngoài đường tự lúc nào.

Khi màn ảnh TV trên dãy nhà nhận bệnh được bật lên thì nơi cái connex bên ngoài hàng rào có nhiều tiếng huỳnh huỵch vang lên. Bọn tù bệnh tò mò nhưng không dám ra gần hàng rào khi đêm đã xuống. Tất cả chỉ ngồi trong nhà lắng nghe. Lâu lâu trong connex lại vọng ra ít câu chửi thề tục tĩu và tuyệt nhiên không ai nghe thấy một tiếng rên la nào.

-... đánh cho mày chừa.... Mày giết lợn của tổ chức phải không?... ĐM... ai đạo diễn?...

Cứ thế, những lời chửi rủa vang lên rồi tiếp theo đó là những tiếng huỳnh huỵch của chân đá, của báng súng đánh vào một thân xác người.

Bọn tù bên trong ai cũng thấy xốn xang vì biết chắc có một người bạn đang bị kẻ thù đánh hội đồng trong cái connex ngoài kia. Kinh khủng hơn là ai cũng đoán được người bị đánh hiện đang bị nhét giẻ vào mồm. Đây là lối tra khảo tàn bạo bậc nhất của cộng sản. Ăn đòn mà thở ra được khó chết. Nhưng ăn đòn trong lúc miệng bị nhét giẻ sẽ ứ hơi và chết như chơi.

Nông Hải Sơn từ K.30 lần sang chỗ Vĩnh và Nhỏ ngủ. Sơn thầm thì.

- Mấy ông biết chuyện gì chưa?

-.....!?

- Khi nãy tôi liên lạc được với bên K.4, bên đó cho biết người bị nhốt là một đại úy tên Hiền. Anh ta gốc K.4 và bị giải giao từ Trảng Bom về...

Qua câu chuyện Sơn kể, Vĩnh và Nhỏ còn được biết chi tiết tại sao Hiền bị tra khảo dữ dội như vậy. Số là, Hiền được bọn bộ đội giao nhiệm vụ chăm sóc đâu non chục con heo cho chi nhánh K.4 trên Trảng Bom. Sau một thời gian heo được nuôi mập mạp thì chúng khởi sự chết. Nay chết một con, vài ba ngày sau chết thêm một con, rồi vài ba ngày sau nữa... cho đến lúc bầy heo chỉ còn lại hai con. Phân trại 4 trên Trảng Bom nhờ đó được ăn thịt heo đều đều. Đùng một cái có một thằng ăng ten chó đẻ đi mách bọn hậu cần trại, rằng thì là Hiền giết heo để cả trại có thịt ăn; giết bằng cách vài ngày lại bỏ vào lỗ tai một con heo mấy hạt đậu xanh. Heo vốn rất yếu, lắc lư đầu một lúc bị trật xương cổ là hết thuốc chữa. Hiền, do đó đã bị bọn an ninh Trảng Bom cùm và đánh đập tra khảo mấy ngày liền; sau được hoàn trả về cho bọn an ninh K.4 Suối Máu tiếp tục tra khảo. Hiện tại cuộc tra khảo đang diễn ra trong cái connex bên ngoài hàng rào. Bên trong Vĩnh và các bạn đang còn nghe rõ mồm một những tiếng chửi rủa và đánh đập Hiền của bọn an ninh.

Ba người gồm Sơn, Vĩnh và Nhỏ ngồi yên lặng lắng nghe. Một lúc sau có vài ánh đèn pin loáng thoáng ngoài phía connex. Tiếp theo có mấy tiếng cằn nhằn và chửi tục nho nhỏ giống như mấy thằng bộ đội đang gấu ó nhau chuyện gì. Rồi thì cửa connex được đóng lại. Chúng bỏ đi. Khu connex được hoàn toàn trả về với bóng tối, với những tiếng côn trùng rả rích khởi sự một điệu buồn về đêm...

Sáng ngày kế tiếp, trong lúc trại bệnh và khối mộc thình lình bị trải qua một cuộc kiểm nghiệm đồ đạc cá nhân, thì nơi cái connex nằm bên lề đường đi lại của K.4 lại diễn ra một trò lạ mới.

Quãng tám giờ sáng, trong lúc vừa thu đồ trải ra ngoài sân cho bọn bộ đội và quản giáo khám xét, bọn Vĩnh vẫn chú mục theo dõi những sự việc xảy diễn ra nơi khu connex. Cánh cửa connex đã được bật mở. Vì connex nằm chếch về phía ban chỉ huy K.4, nên những người đứng trong sân trại bệnh không thể nhìn thấy những gì đang xảy ra bên trong connex, tuy nhiên, có một điều chắc chắn ai cũng nhìn thấy là bọn cán binh cộng sản đang chụp ảnh rất nhiều góc cạnh từ trong ra tới ngoài connex. Tại sao lại có màn chụp hình chụp ảnh? Bọn tù trong sân trại bệnh đều ngạc nhiên tự hỏi. Ngó mấy thằng an ninh K.4 làm việc rất gấp, cộng với những lời thì thầm to nhỏ của bọn chúng, không nói ra nhưng bọn Vĩnh đều đoán biết hẳn phải có một cái gì khá hệ trọng đã xảy ra...

Một lúc sau đó, bên kia cái hàng rào đơn ngăn cách trại bệnh và K.4, chỗ gần cổng ra vào, Vĩnh và các bạn thấy một người ngồi ủ rũ dưới đất. Hình như anh ta đang cố gắng nuốt vào ngực một tiếng khóc đứt ruột. Chưa ai đoán ra chuyện gì thì một cái băng ca được hai thằng bộ đội khênh vào bên trong connex, một lát chiếc băng ca được khênh ra, bên trên có một người nằm và tấm vải bẩn thỉu màu cứt ngựa đắp trên mặt anh ta cho mọi người biết anh đã chết. Đến lúc này anh chàng ngồi nơi cổng ra vào của K.4 hình như không còn cầm được tiếng khóc nữa, anh ta bỗng rống lên như một đứa trẻ, đầu gục vào hàng rào thép gai. Bọn Vĩnh lắng nghe được những tiếng kể lể đứt ruột của anh như sau.

-... cách mạng ơi... xin cho tôi được nhìn mặt anh tôi lần cuối cách mạng ơi... anh ơi! Làm gì mà chết khổ vậy anh ơi... ai cũng ăn heo mà chỉ mình anh chết thôi anh ơi...

Khi người chết được đưa đi và người than khóc bên K.4 bị vệ binh chĩa súng đuổi vào bên trong, thì bọn tù bệnh đã được khám đồ xong. Vĩnh và Nhỏ lần lượt thu vén đồ đạc mang trở về phòng. Trước vuông sân bên dãy phòng thường bệnh, Vĩnh thấy anh Nguyễn Văn Đông đang bò lên trên đất thu nhặt từng cái lon cái cóng. Lúc này bệnh sưng khớp của anh đã quá nặng, nặng đến độ anh không thể đứng, không thể đi mà chỉ có thể chậm rãi bò từng chút trên mặt đất.

Bọn cán bộ khám xong đồ đạc của bệnh nhân thì khởi sự khám đến đồ đạc của các ông bác sỹ "ngụy". Ông Khái, ông Cường, ông Thiết, ông Các... đều đang sửa soạn bày "chợ trời" ngoài sân để đợi quản giáo tới khám. Tuy nhiên bọn chúng cũng chẳng ngu gì. Trong lúc mấy ông bác sỹ đang lúi húi thu vén đồ đạc trong phòng khuân ra sân, thì tên quản giáo đã ập vào khám tại chỗ. Người mang họa đầu tiên và duy nhất là ông bác sỹ Châu!

Ông Châu đã hàm oan một chuyện mà không thể đính chính với bọn cai tù, ấy là chúng khám trong sắc của ông và tìm ra một số tiền 250 đồng bạc mới. Số tiền này thực ra đối với giới danh vọng giàu có như ông Châu chẳng là bao, nhưng đối với một cán binh cộng sản thì đó là cả một gia tài lớn. Muốn có số tiền đó chúng phải dành dụm trong nhiều năm họa may mới có thể có được. Khi khám thấy số tiền khổng lồ (!) này, chúng đã lôi bác sỹ Châu ra hạch hỏi. Vì sợ liên lụy cho gia đình, ông Châu đã không dám nói thật ra rằng đó là số tiền vợ con ông đã dấm dúi cho ông trong mấy lần thăm trước. Ông sợ nếu khai thật, vợ con ông có thể rắc rối với địa phương, vì chúng sẽ đặt dấu hỏi ở đâu ra mà lắm thế!? Thế rồi chả hiểu nói quẩn nói quanh như thế nào, bọn quản giáo quy ông vào tội "lợi dụng cách mạng ưu đãi cho lên bệnh xá hành nghề chữa bệnh cho các cải tạo viên, đã trổ máu gian tham ngày cũ, ăn thù lao trái phép và nhận hối lộ của các cải tạo viên giả ốm bệnh trốn học tập lao động cải tạo!".

Ông Châu bị mạt sát thậm tệ rồi bị làm tự kiểm. Số tiền 250 đồng của ông rốt cuộc được khung... sung công!
°
Lần thăm nuôi đã qua để cái Tết thứ ba trong tù kéo đến. Ăn Tết ở bệnh xá hình như không vui nhộn bằng ăn Tết ở K. Câu chuyện xảy ra vào sáng mùng một Tết bên K.5 Vĩnh đã được Nguyễn Đình Tạc tường thuật đầy đủ, lúc hắn và một người nữa khênh một bệnh nhân lên bệnh xá trong một trường hợp cấp cứu.

Gặp nhau, Tạc khoe rằng trong lần thăm nuôi vừa rồi, anh đã được cô em gái từ Bắc lặn lội vào thăm. Dù sao điều này cũng đáng vui cho riêng Tạc. Năm 1954, ông cụ Tạc dẫn thằng con trai duy nhất vào Nam tìm tự do. Bà cụ tiếc vườn tiếc ruộng không đi, chấp nhận ở lại với đứa con gái nhỏ. Hơn hai mươi năm sau, theo như Tạc sung sướng diễn tả, quả thực "máu đâu ruồi bâu đấy!".

Sau khi nhấp chút rượu thuốc Vĩnh trao cho (gia đình Vĩnh vào thăm đã tiếp cho Vĩnh một chai rượu thuốc ngụy trang trong một chai nước mắm!), Tạc mới kể tới mấy câu chuyện ly kỳ xảy ra bên K.5.

Khởi đầu là chuyện tên an ninh gác khu thăm viếng bị em vợ Bùi Vịnh vác guốc bổ vào đầu vì hắn lợi dụng khám đồ khám luôn người ngợm cô em thế nào đó. Chỉ tội cho Vịnh, đã bị cấm thăm còn bị khung kêu lên chửi bới một trận, rằng thì là... không biết dạy dỗ thân nhân! Hết chuyện Bùi Vịnh lại đến chuyện mấy bà đi thăm nuôi dàn cảnh bợp tai cán bộ nhà nước ngay trên xe đò về tội "rờ ngực gái già giữa thanh thiên bạch nhật"... Tuy nhiên câu chuyện xảy ra đúng sáng mùng một Tết bên K.5 mới đáng nhớ và đáng đi vào văn chương truyền khẩu dân gian.

Tạc kể.

-... mãi đến chín giờ sáng một thằng vệ binh vào kiểm soát hội trường mới khám phá ra. Trên bàn thờ thủ cấp Hồ Chí Minh, không biết tự bao giờ, đã được một nhân vật vô danh đặt một chén sắn trộn bo bo và dán một câu đối như sau.

Mừng xuân đảng nuốt tròn sông núi,
Cúng bác tôi nhường nửa chén khoai.

Tệ hại hơn, nơi cằm Hồ Chí Minh dính đầy đờm dãi và được gắn lưa thưa ít cọng râu làm toàn bằng lông bậy bạ lấy ra từ nơi kín đáo của con người!

Dĩ nhiên thằng vệ binh nhảy cỡn lên như gà mắc đẻ. Nó phóng chạy về ban chỉ huy báo động ầm ĩ. Rồi thì kế đó chuyện gì đến phải đến. Sáng mùng một Tết con Dê, tức cái Tết thứ ba trong tù, tù cải tạo K.5 trại Suối Máu bị tập trung lên hội trường để nghe tên trưởng trại chửi bới thê thảm. Tuy nhiên càng bị chửi bọn tù càng khoái, vì chính nhờ sự chửi bới này, một vấn đề mà lẽ thường thì phải giấu nhẹm đi thì lại được công khai hóa trước hơn bảy trăm người vốn chẳng lấy gì làm "kính yêu bác" cho lắm.

Tên trưởng trại đã nói. Bác kính yêu là một người mà đến ngay kẻ thù cũng phải hết lòng kính trọng, ấy thế mà đêm hôm qua, lợi dụng lúc mọi người chờ đón giao thừa, một kẻ cực kỳ phản động trong trại ta đã dám làm thơ văn nhục mạ bác, lại còn dán cả lông d... lên cằm bác!

Thế là, sáng mùng một Tết cả K.5 coi như được lì xì một trận cười miễn phí no nê.

Qua Tạc, Vĩnh còn được biết hai chục anh em đã được đem từ Bắc vào toàn thành phần tù binh. Có những người đã bị giam từ 1960 vì bị bắt trong những cuộc nhảy toán thực hiện từ thời đệ nhất cộng hòa. Họ là những người rất can trường và cứng đầu. Đám này đã được chuyển đi và nghe nói họ được đưa về căn cứ Sóng Thần làm thủ tục cho về đoàn tụ với gia đình.

CHƯƠNG NĂM MƯƠI LĂM

Trời tháng Tư tháng Năm là cao điểm nóng ở Biên Hòa. Cho dù trại bệnh được nằm sạp gỗ và sống trong một môi trường không đến nỗi chen chúc nhau như ở các K, hoặc hỏa ngục trần gian như trong các dãy connex, nhưng quãng mười giờ sáng, sau khi các bác sỹ khám bệnh là bọn tù bệnh đã lục đục kéo nhau ra giếng tắm. Bên ngoài bờ giếng có một cái chảo sứt quai thật lớn của nhà bếp thải ra dùng để chứa nước tắm cho tù bệnh. Theo đúng nội quy của bệnh xá, các đấng bác sỹ "ngụy" còn kiêm cả nhiệm vụ kéo nước cho tù bệnh tắm; tuy nhiên, ở bệnh xá mấy tháng, Vĩnh chỉ thấy ông bác sỹ Khái, bác sỹ Châu hoặc bác sỹ Nam chăm làm việc này để phục dịch lũ tù bệnh (có thể ba vị này đã vào tuổi năm mươi cả, cái tuổi tương đối bớt tự ái vặt và nhẫn nhịn?), còn mấy ông bác sỹ trẻ thì hiếm khi các ông ấy chấp hành đúng nội quy quy định về việc này.

Riêng bọn tù bệnh, mỗi lần ra giếng tắm, chính bọn cách ly như Vĩnh lại là bọn không cần phải làm phiền tới ai cả; điều ấy có nghĩa là tự đi ra giếng, tự kéo nước lên và tự tắm rửa lấy được. Thế nhưng bên dãy thường bệnh thì khác. Đúng như ông bác sỹ Các (một ông bác sỹ làm biếng nhất trong những ông bác sỹ!) nói, họ là "cái rắc rối của cuộc đời!". Mà quả vậy! Không rắc rối sao được một khi Chiêu muốn tắm? Chao ôi! Cả chục ông bác sỹ phải khuân anh ta ra giếng, người cởi đồ, người tháo băng, người múc nước, người kỳ lưng, người rửa đít... Đến ngay nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông cũng đã là một cái rắc rối khá to rồi. Anh Đông đi đứng không được. Mấy ông bác sỹ lại phải chạy qua khối mộc nhờ một tay to con tốt bụng cõng hộ anh ra bờ giếng. Chỉ cần thế thôi vì khi ra tới bờ giếng rồi, anh vẫn có thể bò ngang bò dọc để múc nước từ cái chảo ra tắm gội lấy một mình.

Mỗi lần theo các bạn ra giếng tắm giải nhiệt, Vĩnh hay tò mò ngồi ngắm cái hoạt cảnh bi hài đang xảy diễn ra chung quanh. Trong lúc anh Đông ngồi tê liệt một chỗ, đôi mắt nhiu nhíu dưới ánh nắng chan hòa, tay vòng ra sau lưng kỳ lớp da xám xịt vì những dấu sẹo ghẻ còn lưu lại từ một mùa "ghẻ cả nước" năm nào; thì anh chàng Mẫn của K.30, một cựu trung sỹ ANQĐ, người tự xưng là Lã Phi Khanh, dịch giả bộ kiếm hiệp Lệnh Xé Xác (chẳng biết thực hư?) thao thao bất tuyệt về ngón Di Ảnh Kỳ Hình của một nhân vật chưởng mà anh từng dịch, về những giai nhân tuyệt sắc trong truyện Tàu anh đọc (dù lúc còn sống, ông cụ Hòa đã quả quyết với Vĩnh "Lã Phi Khanh tôi chưa gặp bao giờ nên không biết xừ ấy có thực là Lã Phi Khanh không, duy có điều tôi thử va vài lần, thì tôi biết chắc va dốt đặc, không biết một chữ Tàu nào cả!). Hoặc giả cũng ngoài bờ giếng, Vĩnh có thể vừa tắm vừa ngó mấy anh nuôi bếp K.30 nhồi bột ngay cạnh dãy cầu tiêu đầy ruồi và dòi bọ trắng mặt đất. Những con gà của tù nuôi đứng mổ ăn từng con dòi mập ú ấy. Chênh chếch về phía đầu hồi dãy thường bệnh, anh chàng Mẫn (trùng tên với Mẫn "Lã Phi Khanh" K.30), một tù nhân thuộc diện tệ đoan xã hội (bị bắt vì hút thuốc phiện) được chuyển từ trại Bùi Gia Mập về, bị bệnh trĩ đến độ có thể nói không còn thuốc nào chữa nổi! Anh ta, mỗi lần rời khỏi cái cầu tiêu đầy ruồi và dòi bọ nằm cạnh bếp K.30, phải bò trên đất mới về được tới cửa phòng. Về tới đó, anh còn phải ngồi xổm cả nửa tiếng đồng hồ, chờ cho khúc trực tràng sa ra ngoài, đỏ lòm những máu mủ và phồng to như một cái bong bóng lợn, từ từ teo lại và rút vào bên trong, lúc ấy anh mới đứng lên, xanh lét và run rẩy lết về chỗ nằm!

Cũng từ chỗ bờ giếng này, Vĩnh có thể nhìn qua lớp kẽm gai sét rỉ sau dãy cầu tiêu và thấy rất rõ sinh hoạt của một góc K.3. Cũng những luống cải tưới phân tươi đầy ruồi, cũng dãy cầu tiêu xây bằng gạch đỏ còn sót lại từ chế độ cũ, cũng những dãy nhà tôn nóng bức và ẩm thấp làm nơi ăn chốn ở cho tù, cũng một hai vuông sân bóng chuyền nhưng tù chẳng bao giờ có bóng mà chơi, cũng những hình nhân vất vưởng ốm đói, cũng những thằng quản giáo mặt mũi lầm lì và đần độn lâu lâu quẩn qua quẩn lại nơi khu bếp tập thể như muốn ăn trộm một cái gì...

Mấy ngày nay, ngoài những hoạt cảnh quen thuộc trên, Vĩnh và các bạn còn phát hiện ra bên K.3 có thêm một hiện tượng mới. Từ trong một dãy nhà trống (có thể là hội trường của K.3), lâu lâu lại vang lên những câu chửi rủa thật rùng rợn. Nhiều khi những câu chửi ấy "xúc phạm một cách nghiêm trọng" đến cả "bác Hồ kính yêu" nữa.

- Ối trời ơi! Tao đã nói tao tên là Hồ Công Min. Tao không phải là Hồ Chí Minh. Thằng Hồ Chí Minh nó chết thúi bỏ trong cái A Tăng Tì ngoài Ba Đình ấy. Còn tao là Hồ Công Min! Hồ Công Min!...

Sau những câu chửi rủa thường có tiếng vật lộn, tiếng ú ớ của một người bị nhét giẻ vào miệng. Cũng có khi vang lên những tiếng huỳnh huỵch của người bị đánh bằng báng súng vào lưng hoặc bị đá vào bụng.

Một buổi trưa, sau những câu chửi rủa la hét như mọi ngày, Vĩnh và những người bên trại bệnh đều nhìn thấy một người trần truồng thoát chạy ra khỏi dãy nhà trống một đầu hồi bên K.3. Người ở truồng ấy chạy thục mạng về phía những luống rau cải xanh nằm gần hàng rào ngăn đôi trại bệnh và K.3. Đầu tóc bờm xờm, thân thể dơ dáy, mặt mày lem luốc, bụng có vẻ bị bệnh chướng; đại thể anh ta là một người đang trong tình trạng điên loạn. Anh chạy như bay đến mấy luống cải, cúi xuống nhổ luôn hai bụi cải và cho lên miệng nhai rau ráu. Vừa nhai anh vừa ngửa mặt cười và nói những điều thật vô nghĩa. Vừa lúc ấy năm bảy người khác, cũng đều là tù cải tạo K.3, ùa chạy đến bên anh và miệng la làng với nhau.

- Giật mấy cây cải ra! Trời ơi đừng để nó ăn! Cứt không à!

Thế rồi mấy người đó đồng hè nhau nhảy vào vật người cởi truồng xuống đất, giật phăng đi mấy cây cải dính đầy phân người khỏi tay anh. Anh vùng vẫy, chửi rủa, la hét. Nhưng rồi cuối cùng anh đành thúc thủ trước sức mạnh của năm sáu người bạn. Anh bị khênh trở lại dãy nhà...

Hiện tượng Hồ Công Min chỉ đôi ba ngày sau đó bọn tù bệnh và anh em bên K.30 đã hiểu hết tự sự: Người điên Hồ Công Min được trói khênh sang bệnh xá vào đúng một buổi trưa nóng như lửa đốt. Min được trói thật chặt, trói bằng dây thừng to bằng nửa cổ tay. Hai vệ binh hướng dẫn cả chục tay tù cải tạo áp giải anh sang bệnh xá. Ông bác sỹ Châu ra nhận bệnh với dáng điệu thật e ngại. Thực ra mấy ông bác sỹ ở đây đã có nhiều kinh nghiệm về những người bị bệnh điên được chuyển qua bệnh xá. Biện pháp này quá vô ích và khôi hài không khác nào hành động đánh bùn sang ao! Một mặt bệnh xá không chữa được bệnh điên, không có cả phương tiện tối thiểu để kềm chế người điên khi cần thiết; mặt khác chỉ gây phiền hà và nguy hiểm cho những tù bệnh vừa đói thuốc lẫn đói ăn nơi đây!

Nhưng lệnh nhận bệnh thì vẫn cứ phải vui vẻ mà nhận.

Trời tháng Tư tháng Năm bệnh xá vốn đã nóng như một cái lò bánh mì, thêm Hồ Công Min thì lò bánh mì ấy đã muốn biến thành một lò thuốc nổ.

Vĩnh đã từng gặp một số người điên trong tù kể từ thời Trảng Lớn lên tới đây. Anh chàng Thân của khối 4 L4T3, một người điên nhưng phát ngôn không điên tí nào lúc anh từ chối làm bản tự khai: "Tao không khai vì tao chẳng có tội với thằng đếch nào cả!". Anh chàng Trương Hồng từ trại An Dưỡng, một người điên củ mỉ cù mì, luôn luôn bảo đảm ngày công lao động và đạt chỉ tiêu trong mọi công tác khổ dịch; chỉ tội mỗi khi rảnh rỗi, anh lại ngồi tỉ mỉ vẽ máy bay tàu thủy với niềm hy vọng là chính những máy bay tàu thủy ấy sẽ có ngày chở anh thoát khỏi nơi đây. Anh chàng Mẫn của trại An Dưỡng, kẻ tự xưng mình là tân giáo chủ Tôn Giáo Liên Hiệp Thế Giới, bị đánh đập cùm kẹp rồi bị tha luôn ra ngoài Bắc. Anh chàng Phạm Xuân Đồng của K.5, một người điên mà nếu xét trên một vài thành quả, anh còn tài hơn chán vạn người không điên, ấy là đã ba lần trốn trại mò về nhà thăm mẹ và lần nào cũng thành công. Bây giờ Vĩnh biết thêm một người điên mới, người điên Hồ Công Min, một cựu đại đức tuyên úy Phật Giáo của QLVNCH.

Bệnh xá có ba dãy nhà. Người điên không thể được vinh dự nằm chung dãy với các bác sỹ, dù là bác sỹ có cùng gia phả "tù ngụy". Người điên lại càng không nên đặt nằm trong dãy thường bệnh gồm toàn những người tê liệt, bại xụi không thể đi đứng dễ dàng. Giải pháp hay nhất vẫn là tống cổ anh chàng điên vào nằm chung với bọn cách ly là yên chuyện. Một phần khu cách ly rộng rãi, phần khác bọn Vĩnh dù ho lao nhưng hai chân vẫn chạy được khi cần thiết. Có lẽ mấy ông bác sỹ tù đã nghĩ như thế cho nên họ đưa Hồ Công Min vào nằm chung phòng với Vĩnh và Nhỏ.

Vĩnh không có một tí kiến thức nào về phương pháp trị liệu, ngay cả cách đối xử với người điên, nhất là khi họ lên cơn. Hiện nay Vĩnh chỉ biết ông bác sỹ Thiết đã chích chào mừng người điên một mũi thuốc, mà theo ông ta, một con trâu chỉ cần hai phần ba lượng thuốc này cũng đủ ngủ dập ngủ vùi. Ống thuốc khá to. Ngay khi mũi kim được rút ra khỏi đùi, bắp đùi người điên đã nổi ngay lên một múi thịt to tướng. Lúc chích thuốc Min đang lên cơn nên có lẽ anh ta không thấy đau. Sau khi mũi thuốc được rút ra, năm bảy anh bạn bên khối mộc xúm lại đè nghiến Min xuống và trói gô anh vào tấm sạp gỗ. Min gào la, chửi rủa, nhổ đờm nhổ bọt.

- Tao là Hồ Công Min. Tao không phải là thằng Hồ Chí Minh.

Nghe chửi, một trong hai thằng vệ binh đứng ngoài cửa phòng chợt nhảy vào. Nó giơ cao báng súng và đập lia lịa vào mặt vào ngực Min. Mấy ông bác sỹ và bọn tù bệnh ai cũng thấy đau nhói trong tim trong óc nhưng đành bó tay. Thằng vệ binh vừa dọng bằng súng vào mặt vào cổ người điên, vừa chửi.

- ĐM. thằng bố láo! Giả điên chửi nhảm phải không? ĐM. đánh chết cha thằng hỗn láo!

Bác sỹ Châu nhanh trí vội làm mặt giận, hét mấy anh em bên khối mộc.

- Anh Đào, anh Sơn! Mấy anh kia nữa. Nhảy vào nhét giẻ vào mồm nó đừng cho nó nói bậy nữa!

Mấy anh tù đứng ngoài như hiểu ý. Họ nhảy ngay vào và phủ lấy người Hồ Công Min. Tên vệ binh thấy vậy ngừng tay đánh. Nó nhảy ra ngoài vài bước, đứng hằn học nhìn và miệng không ngớt chửi rủa.

Một lúc sau miệng Min đã được nhét giẻ. Giờ đây chỉ còn đôi mắt, đôi mắt đỏ như lửa và lạ lùng thay, nó dịu hẳn xuống khi hai thằng vệ binh đã quay gót bỏ đi.

Những ngày kế tiếp, lãnh đủ với người điên Hồ Công Min dĩ nhiên là Vĩnh và Nhỏ. Khi Min tỉnh, hai người phải thay phiên nhau dỗ ngon dỗ ngọt để đút cho anh từng miếng bo bo hoặc bột luộc xắt nhỏ. Lúc anh lên cơn, cả hai chỉ có nước ù té chạy báo động. Khủng khiếp nhất là lúc Min lên cơn vào lúc nửa đêm, khi hai người ngủ say. Có lần Min nhảy qua đấm Chung Văn Nhỏ túi bụi, miệng chửi ầm ĩ.

- Thằng Hồ già! Thằng Hồ già! Tao trả y bát ăn thua đủ với mày!

Hoặc.

- Thằng Hồ già! Thằng Hồ già! Cho mày sa A Tăng Tì...

Những lúc như thế Vĩnh và Nhỏ tung chăn chiếu chạy ùa ra ngoài sân. Được cái Min không bao giờ đuổi theo. Khi thấy hai người đã bỏ chạy là anh tự động ngồi xuống một góc nhà, miệng lâm râm tụng những chuỗi Phạn ngữ thật lạ tai. Tuy nhiên, sự nổi điên của anh thường không nặng lắm và không kéo dài. Nếu có nặng chăng, theo sự quan sát và nhận định chung của hầu hết mọi người trong bệnh xá, là khi anh thoáng nhìn thấy một cái nón cối, dù cái nón cối ấy do tù hay cai tù đội, đều làm anh nổi điên đến độ hung tợn. Mắt anh đỏ lên như hai hòn máu và lao tới như chỉ để bẻ cổ kẻ đang đội cái nón cối ấy.

Khi sự phá phách về đêm của Hồ Công Min chợt tăng lên, cao điểm là anh đã đánh Vĩnh, chụp lấy lon muối mè của Vĩnh để đầu giường ăn ngấu ăn nghiến; thì một biện pháp cần có cho Hồ Công Min được các bác sỹ nghiêm trọng đặt ra: Thương thì thương nhưng vẫn phải tìm cách cùm Min lại!

Khối mộc được nhờ để thực hiện một cái cùm, kiểu cùm có đế gỗ. Và chỉ một ngày sau đó, Hồ Công Min hoàn toàn bó chân ngồi một chỗ. Khi anh tỉnh táo thì hoặc Vĩnh, hoặc Nhỏ, hoặc Nông Hải Sơn dụ dỗ đút cho ăn. Khi anh ỉa đái thì lấy nước tắm gội tại chỗ. Khi anh lên cơn điên cứ mặc anh vật vã với cái cùm dưới chân. Khi anh chửi "bác kính yêu" thì đành đè anh nằm xuống, âu yếm nhét tí giẻ vào miệng anh để cái thân đau ốm ấy đỡ phải quằn quại dưới những cái đấm, cái đá vô nhân của quân thù!

Khi cả trại bệnh rỉ tai nhau về những tin đồn xảy ra bên ngoài xã hội, chẳng hạn ông cha Thanh "người hùng chống Thiệu" đã bị cách mạng hỏi thăm sức khỏe tống cổ vào Chí Hòa; hoặc dân Kiến Hòa "đất thép thành đồng" của cách mạng từ Tết đến giờ đã nhiều lần nổi loạn, đặc biệt nghe đâu đã có một hai trại tù được anh em ta mò về giải thoát, lần đầu vào cuối tháng 2 và lần vừa qua vào đầu tháng 5... thì dãy cách ly lại được rước thêm một vị điên mới.

Người điên thứ hai này được đem qua từ K.1. Ông này tuổi đã 50. Tên ông là Ái, người Huế, cựu giáo sư Pháp văn, và khi lên cơn ông nói tiếng Pháp thật lưu loát. Tuy nhiên ông Ái là một người điên hiền. Đúng ra ông là một người ngớ ngẩn hơn là điên. Khi lên cơn ông không gào la phá phách. Ông chỉ huyên thuyên nói tiếng Pháp, tuyệt nhiên không ăn uống và luôn miệng van xin "được xử bắn". Đặc biệt mỗi khi ông nhác thấy một thằng bộ đội hay quản giáo nào đi qua, ông đều chạy lại níu kéo và nói thật lễ độ bằng tiếng Pháp, đại ý.

- Thưa anh quản giáo, tôi van nài anh hãy xử bắn tôi ngay lúc này, tại đây. Xin đừng muộn hơn dù chỉ một giây phút, vì như thế tôi chịu không nổi, tôi sẽ... chết mất!

Thoạt đầu lũ vệ binh quản giáo điên máu đánh ông trận nào trận nấy gần chết. Chúng nghi ngờ ông giả điên để chọc ghẹo chúng. Lâu dần chúng phải công nhận ông là người mất trí từng cơn, và tống ông sang bệnh xá.

Hai thằng ho lao từ đây phải luân phiên phục dịch cơm nước và tắm rửa cho hai người điên. Vĩnh và Nhỏ hóm hém lại càng hóm hém hơn. Mấy ông bác sỹ nhà ta chỉ lo mỗi việc lụi thuốc ngủ vào đùi họ mỗi khi họ lên cơn điên, còn ngoài ra khoán cả cho Vĩnh, Nhỏ và đôi ba người bạn tốt bụng bên K.30.

Khi ông Ái bớt điên và được lệnh xuất viện, Vĩnh đã tình nguyện đi theo mấy người bạn bên khối mộc hộ tống ông về tận K.1. Sở dĩ Vĩnh muốn có dịp đi qua K.1 là để ghé thăm một người bạn văn nằm bên đó. Lúc đưa ông về tới trại trời đã tối mịt. Vừa dẫn ông vượt qua cổng Vĩnh đã dặn dò mấy bạn đi cùng hãy đưa ông về phòng và cố đợi Vĩnh một chút nơi cái vườn hoa giữa sân trại. Nói rồi, Vĩnh chạy ngang dọc hỏi thăm anh em về người bạn văn mà anh biết rõ anh ta đang ở trại này. Đi quẩn quanh một lúc, Vĩnh bước vào một dãy trại. Bên trong bạn tù nằm ngổn ngang. Dưới ánh đèn điện tù mù, Vĩnh cúi xuống hỏi đại một người nằm ngay đầu dãy nhà.

- Anh ơi, cho hỏi thăm tí. Anh Đinh Tiến Luyện nằm chỗ nào anh?

Người nằm ở đầu nhà chỉ tay vào một người đang nằm võng khoảng giữa gian nhà. Vĩnh nhanh chân tiến lại.

- Ông Luyện hả?

- Ừa!

- Hà Thúc Sinh đây!

Người nằm võng vội ngồi bật dậy. Tay bắt mặt mừng và hỏi thăm nhau mới được dăm ba câu Vĩnh đã phải vội cáo từ. Anh cho Luyện biết anh nằm bên bệnh xá, khi nào có dịp qua đó, nhớ ghé khu cách ly trò chuyện với nhau.

Trong gần ba năm tù, Luyện là người bạn văn thứ tư Vĩnh được gặp.

Ngày tháng trôi qua, người điên còn lại là Hồ Công Min cũng được xuất viện. Đại đức Hồ Công Min xuất viện chẳng vì khỏi bệnh, mà vì bọn y sỹ Việt cộng chỉ huy bệnh xá nhất định trả về K.3 với lý do bệnh xá không phải là nhà thương điên, và nhất là không có phương tiện để chữa trị cũng như giam giữ người điên.

Từ đó, những trưa nắng ra bờ giếng tắm, bọn Vĩnh thỉnh thoảng lại được nghe thấy những câu chửi quen thuộc vang lên nơi dãy nhà trống một đầu hồi "Tao là Hồ Công Min. Tao không phải là thằng Hồ Chí Minh...", tiếp theo đó thế nào cũng có những tiếng huỳnh huỵch đi kèm và những tiếng chửi thề tục tĩu của bọn vệ binh K.3.

Rồi cũng có lúc, y như được xem chiếu lại một cuộn phim, Vĩnh và anh em bên trại bệnh lại thấy Min phóng chạy ra khỏi dãy nhà, trần truồng, dơ bẩn, miệng hò hét như một kẻ đang bị một bầy chó dữ rượt đuổi. Anh chạy lại phía mấy luống rau, nhổ đại vài cụm và cho lên miệng nhai ngấu nghiến. Tuy nhiên càng về sau, Vĩnh càng thấy Min mất dần đi vóc dáng của một con người. Anh xanh mướt, mắt thụt sâu và mất thần. Dễ sợ nhất là cái bụng của anh, cái bụng ngày một chướng to trông như một cái trống, nằm nặng nề trên một cặp chân khẳng khiu như hai ống sậy. Vẻ chạy nhảy của anh cũng không còn mạnh và hùng hổ như trước. Anh yếu ớt, xiêu vẹo và số lượng người rượt đuổi theo anh không còn đông như xưa! Thường chỉ một hai tên tù bạn rượt theo đã đủ sức vật anh xuống, nhét giẻ vào miệng để tránh cho anh chửi bậy bạ, hoặc lôi ngược anh trở về phòng một cách dễ dàng. Con người ấy quả thực đã cận kề mộ huyệt!

Riêng Vĩnh vẫn tiếp tục được nằm bệnh xá. Công tác hàng ngày hiện giờ là đút cơm cho một ông bạn già. Ông này đã hoàn toàn tê liệt kể từ ngày được khênh từ K.4 sang. Ông đã bị một người bí mật đánh một thanh củi vào đầu khiến bán thân bất toại vì cái tội, theo như anh em bên K.4 cho biết, làm ăng ten cho giặc.

Vì cú đánh quá mạnh khiến ông bất tỉnh nhân sự liên tiếp mười ngày trời. Khi tỉnh dậy, ông chỉ có thể bập bẹ nói như một người đã bị cứng mất ba phần tư lưỡi. Những lúc đút cơm cho ông ăn, Vĩnh thấy thương xót ông kinh khủng. Nhưng những lúc ông mê sảng và ngọng nghịu nói những câu như "báo cáo anh... chúng nó... đêm nào cũng... tụ... họp dưới... bếp... tôi nghĩ chúng... nó là CIA..." thì Vĩnh chỉ muốn để mặc cho lão già bẩn thỉu ấy chết phứt cho xong! Thế nhưng để cho một người "chết phứt" coi vậy mà không phải dễ. Vĩnh và Nhỏ vẫn ngày đút cơm cho ông ăn, thay quần rửa đít cho ông lúc ông làm bậy trên giường và đêm đến lại phải nghe những lời báo cáo bẩn thỉu của ông thốt lên trong cơn mê ngủ.

Sau đợt thăm tháng Bảy, Vĩnh khỏe hẳn nhờ gia đình tiếp tế thuốc men khá đầy đủ. Những ngày kế tiếp Vĩnh được gặp Hóa, rồi gặp Tiến nơi bệnh xá. Mấy anh chàng này nghe tin Vĩnh đóng đô lâu dài bên bệnh xá nên hễ có dịp đưa người bệnh qua là họ luôn luôn tình nguyện. Anh em gặp nhau hàn huyên và không quên chia sớt cho nhau những món quà gia đình đem vào.

Thế nhưng bước vào tháng Tám, cái êm ả đôi lúc cô đơn nơi bệnh xá bỗng bị khuấy động hẳn lên với những cái tin, theo đó ở các K đều xảy ra những cuộc trốn trại có cả thành công lẫn thất bại. Nội cái đám đi xúc than đá bên K.3 cũng đã có hai người trốn thoát. Họ là những người thường được bọn quản giáo tín nhiệm đem theo xe hậu cần ra Biên Hòa xúc than đá về cung cấp cho toàn trại Suối Máu (Thời gian này trại Suối Máu được dùng than đá thay củi). Nhân lúc bọn vệ binh bất cẩn, họ nhảy khỏi xe và lẩn vào chỗ đông dân cư khu chợ Biên Hòa. Hai người thoát. Người thứ ba vô phúc trốn ngay vào nhà một thằng công an khu vực và bị bắt giao lại cho bọn vệ binh trại.

Tuy nhiên, một câu chuyện vượt ngục ngoạn mục hơn có lẽ là câu chuyện vượt ngục của một anh bạn đại úy cảnh sát bên K.1. Nghe phong thanh anh ta là con trai của một chủ tiệm đàn lớn đường Cao Thắng trước kia. Sự vượt ngục của anh đã thành công nhờ ở sự tiếp tay của gia đình. Anh đã bắt liên lạc và hẹn hò với người em ruột, vào mỗi buổi sáng, đem xe gắn máy Honda quần tới quần lui trên con đường chạy trước trại Suối Máu. Thế rồi vào một buổi sáng may mắn, anh được dẫn ra lao động trên vùng đất bên kia con đường nhựa. Người em đã nhận ra người anh và lướt xe qua hớt gọn người anh đi trước bao cặp mắt ngỡ ngàng không kịp phản ứng của bọn vệ binh.

Kế nữa là câu chuyện vượt ngục tập thể bằng đường xe hỏa. Một số tù K.4 đi lao động gần đường sắt. Do kinh nghiệm, mỗi lần có chuyến xe lửa chạy qua, dân ngồi trên mui xe lửa thường ném gạch, đá và những đồ dơ bẩn xuống phía những chiếc áo xanh bộ đội lúc họ phát hiện ra bọn này đứng gần đường xe hỏa; vì thế mỗi khi đưa tù đi lao động quanh khu vực này, bọn quản giáo và vệ binh thường đứng cách xa đường xe hỏa một khoảng cách xa đủ bảo đảm an toàn. Dựa vào điểm này, một ngày kia một số anh em lao động K.4 đã tập thể bỏ cuốc bỏ xẻng, phóng nhảy theo đoàn xe hỏa Thống Nhất trước sự ngơ ngác và hoàn toàn bó tay của bọn cai tù...

Cũng vì những cuộc vượt ngục liên tiếp xảy ra, bọn y sỹ Việt cộng và quản giáo trại bệnh duyệt xét lại tất cả các bệnh án của tù bệnh. Chúng đuổi về trại một số anh em bên khu thường bệnh. Vĩnh không bị đuổi về trại, ngược lại, theo như lời rỉ tai của bác sỹ Khái, anh và Nhỏ sẽ được ra hội đồng y khoa nay mai. Nghe được tin này, Vĩnh không khỏi không vui trong bụng. Và rồi cùng với Nhỏ, Vĩnh vật một con gà nuôi mấy tháng qua của Nhỏ nấu cháo đãi cả trại bệnh. Khi nồi cháo gà được bưng để trên một tấm sạp trước sự chứng kiến của mấy ông bác sỹ và mấy người bạn thân thiết, Vĩnh mở vung ra. Từ già tới trẻ, từ trên xuống dưới, đồng loạt đặt bát của mình quanh nồi cháo với đôi mắt thèm thuồng. Mùi gà bay quyện trong không khí thơm lừng. Vĩnh thọc hai cái thìa lớn banh thây con gà trong nồi cháo để một phần nước béo trong con gà được hòa vào với nồi cháo. Ngay lúc ấy, một vài điểm trắng to hơn hạt gạo bỗng từ trong con gà nổi phều lên trên mặt nồi cháo. Chưa ai nhìn thấy nhưng Vĩnh đã nhận ra ngay. Đó là những con dòi, những con dòi ngoài cầu tiêu mà không con gà nào nuôi trong trại tù không biết tới. Vĩnh đang lúng túng thì thêm một số nữa nổi lên. Ông Thiết là người thứ hai khám phá ra. Ông la lớn.

- Ối trời ơi hai thằng cha này làm gà bộ bỏ sót bộ đồ lòng hả. Sao dòi không vậy này?

Tiếp theo đó là tiếng cự nự, cằn nhằn của mọi người nổi lên. Người bị quy trách nhiều nhất là Chung Văn Nhỏ vì Nhỏ làm bộ đồ lòng, đã quên không mổ phao câu lại còn để nguyên cái bầu diều quăng vào nồi cháo. Thế nhưng, không quá năm phút sau đó, nồi cháo vẫn hết sạch, hết không còn một tí gì...

1      2      3      4      5      6      7      8      9       10      11      12      13      14

No comments:

Post a Comment