Thiên hồi ký Trại Kiên Giam đưa chúng ta trở về với những
trang sử đau thương của dân tộc; mở đầu bằng ngày 30 tháng Tư năm 1975; ngày mà
hàng triệu người phải rời xa đất Mẹ; ngày mở đầu một địa ngục cho hàng trăm
ngàn chiến sĩ, quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa bất khuất. Thiên hồi ký Trại
Kiên Giam trình bày tất cả những bi thảm của một trong những trại tù kiên cố cộng
sản được gọi là cải tạo và những khổ đau bất hạnh trong một xã hội có nhiều tầng
địa ngục được gọi là thiên đường…
Nguyễn Chí Thiệp sinh năm 1944 tại Quảng Nam, học các trường
Phan Chu Trinh Ðà Nẵng và Chu Văn An Sài Gòn. Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh 1965 – 1969, trường Bộ Binh Thủ Ðức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Ðà Lạt
1970.
Năm 1975 không trình diện học tập, bị bắt tháng 9 năm
1976 trong khi chuẩn bị vượt biên. Bị giam tại các trại giam Sở Công An Thành
Phố, Phan Ðăng Lưu và Chí Hòa. Cải tạo lao động tại các trại Z-30A Long Khánh,
A-20 Xuân Phước Phú Yên. Ðược thả tháng 2 năm 1988. Vượt biên đến đảo Pulau Bidong,
Mã Lai, tháng 5 năm 1988. Cư trú tại Hoa Kỳ từ tháng 10 năm 1989.
Trân trọng giới thiệu đến quý độc giả và thính giả khắp
nơi thiên hồi ký Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp.
PHẦN MỞ ĐẦU
Quyết định không ra đi trước ngày 30-4-75 là một quyết định
sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi phải trả một cái giá đắt gồm 16 tháng trốn
lánh trong lo âu hồi hộp, 12 năm đầy đọa từ nhà tù này đến nhà tù khác, một lần
vượt biển và một năm rưỡi ở trại tỵ nạn.
Tôi mất hơn 15 năm, cuối cùng tôi cũng phải tìm đến Mỹ,
điều tôi có thể làm được trước khi miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Vừa đến nơi
một người bạn đã cảnh giác tôi – Đừng xem nước Mỹ là một thiên đường – Tôi
không hề xem nước Mỹ là một thiên đường – chỉ có ở nước Cộng sản mới có thiên
đường vì ở đó có nhiều tầng địa ngục. Tôi đã ở tận cùng các địa ngục đi ra. Tôi
không đi tìm một thiên đường, nhưng tôi đã biết là phải chọn giữa một hoàn cảnh
cực kỳ xấu và một hoàn cảnh ít xấu hơn, chỉ giản dị thế thôi.
Thực tại cuộc sống đã trả lời điểm tranh luận của các nhà
triết học là: vật chất hay tinh thần. – Vật chất là yếu tố cần thiết để tạo ra
cuộc sống, nhưng khi vật chất đầy đủ một cách tương đối thì con người cần nhu cầu
cao hơn, là sự thỏa mãn tinh thần. Có thể đó là sự khác nhau giữa con người và
con vật. Karl Marx đã đem cả đời để đọc để viết, kiến thức của ông bao gồm cả
kho tàng triết học Đức, kinh tế học Ăng Lê và xã hội học Pháp, ông đã dùng duy
vật biện chứng để truyền bá duy vật sử quan. Những khám phá về thặng dư giá trị
một thời tưởng như là kinh điển, tất cả đều là những lầm lẫn của bộ óc được xem
là phi thường. Khi con người dùng cái trí, dù cái trí được rèn luyện, được xem
là lỗi lạc vẫn bị giới hạn, và khi sự phán đoán dựa trên lý trí nếu càng sai lầm
càng tai hại, chỉ có cái tâm là không giới hạn. Có thể đó là sự khác biệt giữa
các tôn giáo và Cộng sản chủ nghĩa. Các tôn giáo dùng tình thương để truyền bá
giáo điều. Karl Marx và Lenine muốn lập nên một tôn giáo nhưng tôn giáo dùng hận
thù làm động lực chính.
Trong một hướng khác của cuộc sống, ở các trại tù Cộng sản
(gọi là trại lao động cải tạo), người tù cũng chứng minh được giá trị tinh thần
vượt trên giá trị về vật chất bằng chính bản thân họ, không ai tưởng tượng được
có những người tù đã sống được đến hơn ba năm trong xà lim tối với một chén cơm
nhỏ, chén khoai mì và nước muối mỗi ngày. Sống hay chết của những người tù
trong xà lim Kiên Giam trại Xuân Phước (A-20) chỉ giải thích được là ai còn niềm
tin vào giá trị tinh thần nào đó mới có thể kéo dài sự sống, ai mất niềm tin
thì chết. Niềm tin đó có thể từ tôn giáo, từ một ý thức chính trị là chế độ Cộng
sản sẽ sụp đổ và dân tộc Việt Nam sẽ được phục hưng hay niềm tin vào sự yêu
thương giữa con người và con người. Đó là những bài học đơn giản, thực nghiệm bằng
máu và nước mắt để đả phá cái lý luận cốt lõi của triết học Cộng sản, triết học
duy vật.
Nay, lý thuyết Cộng sản đã bị vứt vào sọt rác của lịch sử
và chế độ Cộng sản đã sụp đổ. Hệ thống Cộng Sản quốc tế rã ra từng mảnh và lần
lần bị xóa bỏ. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu dễ dàng và
nhanh chóng đến nỗi làm cho người ta phải sửng sốt bàng hoàng, những nhà lãnh đạo
các cường quốc nhiều khi còn không dấu được sự lúng túng trong việc thay đổi
chính sách ngoại giao. Thật đơn giản, chế độ Cộng sản không bị đánh sụp bằng những
đạo quân hùng mạnh, với những vũ khí tối tân từ bên ngoài, mà bị đánh sụp bằng
những cuộc biểu tình của dân chúng tại nước họ trong đó có cả những người từng
là đảng viên Cộng sản. Chế độ Cộng sản chỉ còn là ngắc ngoải tại Trung Quốc, Bắc
Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam, cái đau đớn của người Việt Nam và trớ trêu của lịch
sử dân tộc Việt Nam là chiến trường ác liệt nhất của cuộc chiến tranh ý thức hệ.
Người quốc gia dù chỉ được lãnh đạo một cách lờ mờ, vẫn kéo dài cuộc chiến đấu
nghiêng ngửa gần 30 năm, để rồi sau khi người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam, chiến
trường chống Cộng cuối cùng sụp đổ thì kẻ thù chung của nhân loại cũng từ từ bị
hủy diệt trong tan rã.
Ngày 30-4-1975 Saigon sụp đổ, tôi nghĩ giải pháp đẹp nhất
cho người chiến sĩ tự trọng là tự xử không đầu hàng giặc; tôi hèn, không đủ can
đảm để làm một chiến sĩ tự trọng, nên tôi phải kéo lê tấm thân càng ngày càng
tàn tạ từ nhà tù này đến nhà tù khác, mỗi ngày phải nuốt nhục cúi đầu. Giải
pháp hào hùng nhất cho người chiến sĩ kiên cường sau một lần thất bại là tạm
lui, ẩn nhẫn chờ thời, trui rèn tài đức để phục hận, tiêu diệt quân thù đem
vinh quang về cho tổ quốc. Tôi không đủ bản lãnh để làm một chiến sĩ kiên cường
nên khi ra khỏi nhà tù tôi vội vã bỏ nước ra đi. Lần ra đi không phải để chạy
trốn, không phải để tìm cho mình một điều kiện vật chất mà mình thiếu. Mười hai
năm tù, thiếu thốn những vật chất tối thiểu, có những lúc thèm ăn một cục muối,
một cục đường, một hơi béo. Thèm, từ ngữ diễn tả cảm giác rất sơ đẳng gần như hạ
tiện của con người; Tôi đã từng thèm rất nhiều thứ; nhưng rồi cũng quen, đúng
quen, sự thỏa hiệp kỳ diệu với hoàn cảnh, để cho con người tù sống, và giải
thích được lý do tại sao người tù trong chế độ Cộng Sản có thể sống được trong
những điều kiện mà khi kể lại người bình thường rất khó tin, cứ tưởng là người
tù khoa trương sự thật.
Thời gian ở tù tôi sống chung với hàng ngàn, hàng ngàn
chiến sĩ bất khuất của hàng trăm tổ chức chính trị và vũ trang chống lại chính
quyền Cộng sản sau tháng 4-1975. Nhiều lúc phải hổ thẹn trước tư cách của một đứa
em nhỏ hay sự bình thản khi nhận lãnh án tù từ 20 năm hay chung thân của một
người trước kia là nông dân, là công nhân hay là một binh sĩ, những người không
từng được hưởng một ân huệ nào của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nếu không nói
là chính họ là nạn nhân của những bất công trong chế độ đó. Chính là nhờ sự hổ
thẹn đó, tự thấy mình có lỗi, cũng từ đó tôi tạo được niềm tin, tin vào tương
lai của dân tộc, một dân tộc Việt Nam kỳ diệu, không ai hiểu nổi tại sao tồn tại
được. Ngoại nhân không ai hiểu được dân tộc Việt Nam tại sao tồn tại khi chỉ
tìm hiểu hoặc tiếp xúc một thành phần xã hội nào đó, nhất là thành phần trí thức
và thành phần nắm quyền. Họ không hiểu được sức sống của dân tộc Việt Nam là sức
mạnh tiềm tàng trong quảng đại dân chúng. Sức mạnh tiềm tàng đó trong điều kiện
lịch sử được kết hợp lại thành một lực lượng có lãnh đạo tốt thì sẽ đánh đuổi
được ngoại xâm và xây dựng đất nước phú cường; ngược lại, khi chưa có điều kiện
tập hợp thì nó tiềm phục làm sức sống cho dân tộc tồn tại ươm chồi chờ điều kiện
trỗi dậy thành rừng gỗ quí. Tôi vội vã ra đi vì tôi nghĩ là trong nước chưa có
điều kiện tập hợp.
Tôi nghĩ đến những người ra đi trước, làm gì không có chiến
sĩ kiên cường khi thất bại tạm lui ẩn nhẫn chờ thời và, sức mạnh của lòng yêu
nước thiết tha của con người Việt Nam trong những người Việt Nam hải ngoại. Tôi
nghĩ là thời gian gần mười lăm năm, điều kiện vật chất và gia đình được đầy đủ,
tương lai con cái được bảo đảm xán lạn, mỗi người Việt Nam lưu vong hải ngoại đều
xác định được rõ thế nào là tình yêu nước, và ai cũng mơ ước một ngày về xây dựng
quê hương để tự chứng tỏ mình là một chiến sĩ kiên cường, không phải là kẻ trốn
chạy, không tổ quốc.
Bây giờ 1990, viết về nhà tù Cộng sản hay tranh luận lý
thuyết Cộng sản quá chậm. Tôi chỉ mong ghi lại đây như là một chứng tích của một
đời đã qua. Bằng lời lẽ thô thiển mộc mạc, ghi lại để nhớ ơn cha mẹ, vợ, chị,
các em và những người thân đã giúp cho tôi có thể sống được và làm kỷ niệm đối
với bạn bè đã cùng sống với nhau những ngày gian khổ.
Nguyễn Chí Thiệp
No comments:
Post a Comment