CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
Nếu lịch sử đã biến bọn cán binh CSVN thành những tên hề vô duyên nhất trước mắt hơn 17 triệu dân miền Nam sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975, thì lịch sử cũng tặng cho bọn Rau Răm Ở Lại, là Vĩnh và các bạn bè, một dịp may bằng vàng để cảm nhận được một cách sâu xa câu nói của một chính khách phương Tây: Lịch sử sẽ được viết lại bởi những kẻ chiến thắng. Chuyện của người chiến bại sẽ hoàn toàn bị xuyên tạc...
Trong sự xuyên tạc ấy, tuy nhiên, có một điều đau đớn nhất đó là việc kẻ thù lại nói khá đúng về bọn lãnh tụ cá mập, bọn chính khách hoạt đầu, bọn tướng lãnh đê hèn chưa đánh đã bỏ chạy. Chúng nói thế nào về bọn lãnh tụ cá mập? - Là bọn ăn cắp, bọn lưu manh, bọn huyênh hoang, bọn lì lợm, bọn vô lương tâm. Chúng nói thế nào về bọn chính khách hoạt đầu? - Là bọn Việt gian, bọn tưởng bở lập lờ thỏa hiệp, bọn trí thức bằng cấp ngập tới răng nhưng đụng trận thực tế ngu hơn con bò. Chúng nói thế nào về bọn tướng lãnh chưa đánh đã bỏ chạy? - Là bọn cướp có môn bài, hiếp dâm có giấy phép; bọn mà tư cách và danh dự của một quân nhân còn thua cả một anh tân binh quân dịch!
Hỡi ơi, điểm này kẻ thù đã nói gần như y chang, cãi thế nào được!?
Nhưng điều mà kẻ thù đã nói về những người ở lại để chiến đấu, để còn nước còn tát, để không tự hổ với lòng mình rằng mình là thằng chỉ huy bỏ rơi đơn vị, bỏ rơi em út chạy lấy thân; thì kẻ thù đã xuyên tạc như thế nào? Chúng đã đề quyết rằng họ là những người liều thân giữ của, tiếc vợ năm vợ bảy, bọn ếch ngồi đáy giếng vì trình độ chưa... đọc nổi chữ in!
Chao ôi là cay đắng!
Cái thủa ban đầu, với sự tự tôn mặc cảm, việc trả thù coi vậy mà còn nhẹ tay. Nhưng thời gian trôi qua, ôi thời gian, tên chỉ điểm đốn mạt nhất, đã tố giác với chúng con người thật với giá trị thật của bọn sa cơ thất thế! Và khi biết rằng sự thật không phải bọn "ngụy" là bọn có trình độ không đọc nổi chữ in như lời Đảng tuyên truyền xuyên tạc nhiều chục năm, mà khác, khác xa như thế nhiều lắm, khác đến độ đời thằng cai tù có sống thêm mấy kiếp nữa cũng chẳng thể đuổi bắt kịp những giá trị sống mà bọn tù đã được sở hữu; sự tự tôn mặc cảm từ đó dần dần chuyển hóa thành sự tự ti mặc cảm. Bọn tù bắt đầu khốn nạn thật sự trước cái mặc cảm mới này của bọn cai tù!...
Khi các trại cải tạo với tình hình đã tương đối ổn định và đi vào nề nếp nói theo ngôn ngữ của các cai tù, thì chúng cũng bắt đầu được đi phép Sài Gòn hoặc những thành phố lớn lân cận để biết ra rằng cái nón cối và đôi dép râu quả là một chướng ngại ghê gớm trong việc ăn mày tình cảm của người dân miền Nam. Đây là những lần đầu tiên trong đời, nhiều kẻ biết được mùi tủ kính của các cửa hiệu, hoặc được dịp đếm mỏi cổ những tầng nhà cao ốc, được biết mùi "cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc", được dịp lùng mua cho bằng được một cái đồng hồ Seiko "có cửa sổ, không người lái, có đèn nháy và chạy cả năm", được há hốc những cái mồm răng vẩu nhìn người đẹp thành thị miền Nam thướt tha yêu kiều, dù bây giờ họ có vẻ hơi lười biếng cười đùa, nhưng ô kìa! họ biết lái cả "ô-tô con" và "xe bình bịch" nữa chứ!
Vâng, bọn cán binh Việt cộng từ rừng rú được trực tiếp đưa vào làm cai tù trong các trại giam cũng trong rừng rú, sau những lần đi phép đã bắt đầu được nhìn thấy một phần sự thật về miền Nam, về con người Tự Do ở miền Nam. Trong cái đầu dày đặc đêm tối của sự cuồng tín ấy, liệu chúng có nảy ra tí so sánh nào giữa thực thể của hai miền Nam Bắc không? Có khởi sự nghi ngờ về những lời tuyên truyền nhồi sọ xuyên tạc miền Nam kéo dài mấy chục năm trời từ bọn lãnh tụ của chúng hay không? - Có thánh mà biết được, khi cửa mồm của chúng đã biến thành một cái máy nói dối tự động dù bất cứ ở đâu với bất cứ ai về bất cứ một vấn đề gì.
Ngoài Bắc ư? Cái gì cũng có, cũng to, cũng tốt cả!
- Có TV không?
- Ồ, có chứ! Chạy đầy đường
- Có máy lạnh không?
- Gắn đầy công viên!
- Có cà rem không?
- Ồ, thu hoạch ăn không hết phải đem phơi khô xuất khẩu!
Nếu viết hết ra những câu đối thoại trong một cuộc hạnh ngộ nào đó giữa hai người thuộc hai chế độ Quốc Cộng ở Việt Nam vào giai đoạn sau 30 tháng 4 năm 1975 có thể lên tới hàng chục nghìn. Và nếu như những mẩu đối thoại ấy được cắt riêng ra, được đem dịch sang một thứ tiếng khác cho người ngoại quốc đọc hẳn họ sẽ điên lên mà kết luận rằng thằng dịch giả này là một thằng bố láo, hoặc đó là những mẩu đối thoại mà kẻ trả lời chắc chắn điếc một trăm phần trăm!
Tự ti mặc cảm, một hậu quả tất yếu và phổ quát cho những kẻ có lồng ngực giam hãm một quả tim lạc hậu hèn kém, được che dấu bởi một bộ mặt Cách mạng tiên tiến. Cộng sản, dù là Cộng sản Tây Cộng sản ta, Cộng sản Nga Cộng sản Tàu; hãy mổ ngực chúng ra mà xem, quả tim triệu thằng như một.
Chúng không mặc cảm sao được khi mà chúng đã biết quá rõ mình cầm bằng thua địch thủ mọi mặt dẫu nay địch thủ đã sa cơ thất thế, không do yếu kém mà do nhiều nguyên ủy sâu xa không phải là chúng không biết.
Một trang nhật ký có lẽ bị xé vội vã và dùng lầm chỗ của tay thượng úy trại trưởng L4T3 đã bị bọn tù đi dọn cầu tiêu trên ban chỉ huy nhặt được. Trang nhật ký viết: "... Ba mươi năm theo Đảng, Đảng đã trang bị cho tôi những gì? Phải chăng chỉ có một kiến thức thua cả một thằng lính ngụy, một đời sống kinh tế không bằng một anh phu xe trong xã hội đối phương...!?"
Chỉ hai mươi bốn tiếng sau đó nội dung và tác giả của trang nhật ký được lan truyền rộng rãi khắp trại. Bọn cán bộ trại điên đầu. Và kẻ điên đầu nhất có lẽ là tên thủ trưởng. Chúng lồng lộn truy tìm tác giả của cái tin "xuyên tạc" ấy. Tìm mãi không ra, biện pháp duy nhất là... trừng trị tập thể. Chúng ra tay quần thảo bọn tù gần chết với những công tác lao động khổ sai, với những lời mạt sát thậm tệ. Để trả đũa, bọn tù không còn vũ khí nào khác hơn là sự châm biếm. Giai đoạn này sản sinh vô số chuyện châm biếm sự ngu dốt của cai tù do tù sáng tác. Vẻ huyênh hoang của bọn cai tù Cộng sản ngày đêm bị những bầy ong vô hình châm chích túi bụi. Chúng bắt đầu rút vào thế thủ nhưng bầy ong châm biếm của bọn tù vẫn gia tăng.
Châm biếm càng gia tăng thì sự thù hận của những kẻ tự ti mặc cảm càng dâng cao.
Thù hận càng dâng cao thì chúng càng siết chặt hơn mọi thứ. Và sau cùng, nghệ thuật sết tuyệt vời nhất của Cộng sản vẫn là: Ông cho chúng mày đói xem chúng mày còn châm biếm được nữa hay không?
Kể từ sau đợt học tập chính trị vào cuối năm 1975 thì tù cải tạo tại trại L4T3 thực sự bắt đầu lê lết vì đói. Theo lý thuyết mỗi người có trực tiếp tham gia lao động được hưởng mỗi ngày 500 grs gạo. Ai bệnh ăn cháo. Tuy nhiên, trên thực tế mỗi bữa mỗi người chỉ được phát trên dưới hai bát cơm nhỏ nấu bằng loại gạo đã chôn dấu nhiều năm trong các mật khu giờ đã mục mọt gần hết. Khẩu phần có thể được phát kèm thêm dăm ba cọng rau muống, hoặc miếng bí ngô luộc bằng hai đốt ngón tay, hoặc miếng củ cải luộc, thêm tí nước muối đen như nước cống. Chất béo và chất ngọt tuyệt nhiên đã bị cắt hẳn ngay từ tháng thứ hai.
Trong khi bọn cán binh Cộng sản bắt đầu đạt được giấc mộng lớn của chúng là có thằng đã có xe đạp cỡi chơi, có đồng hồ đeo tay, có tí kính râm đeo mắt trông y như một lũ thầy bói; thì cũng là lúc lũ tù cải tạo bắt đầu phù thũng và kiết lỵ.
Ôi thật là một hỏa ngục trần gian! Một khối 120 người kiết lỵ hết 50 người. Với 70 người còn lại thì hết 40 người phù thũng. Kiết lỵ bò trên đất. Phù thũng cõng kiết lỵ. Kiết lỵ làm bậy luôn trên lưng phù thũng. Phù lủng lây kiết lỵ. Một khối 120 người giờ đây hết 90 người vừa phù thũng vừa kiết lỵ. Hai mươi người còn lại đều thấp thỏm chờ con ma kiết lỵ hỏi thăm bất cứ lúc nào. Riêng 10 thằng chưa được kể tới chính là những thằng may mắn nhất vì đã được Cách mạng cho... chôn có hòm!
Dù bệnh tật, nhưng nếu chưa da bọc xương, chưa đến độ ruồi bâu không thèm đuổi thì vẫn phải thi công lao động như thường. Nằm lỳ ở nhà ư? Đâu có dễ như vậy! Vả lại chưa chết thì thôi, ai lại nỡ để bạn bè suốt ngày lao động quần quật, đêm về lại phải theo lệnh quản giáo đốt đèn lên để phân tích, mổ xẻ, đấu tranh giúp đỡ mình, bắt mình phải khắc phục những khuyết điểm chai lười lao động còn tồn tại, buộc mình phải đề ra phương hướng mới, phải phấn đấu học tập lao động để sớm trở nên người công dân lương thiện... Cái đức tính "gan lì ỳ ẩu", nói cho cùng, khó mà thi thố nổi trong trại tù cải tạo của Cộng sản.
Nói chung chưa chết thì vẫn phải tham gia lao động. Người khỏe thì đi phát quang, đi phá nền nhà, đi đào ao đào giếng, đi xây dựng các doanh trại cho bộ đội, đi khuân đạn... Người yếu bệnh thì đấy, cả một phi trường bao la đấy, cứ việc ngồi một chỗ, tay cầm đục tay cầm búa để đục xuyên qua những lớp nhựa cứng, tạo những lỗ đủ sâu đủ rộng cho một gốc bí ngô. Chỉ tiêu cho người bệnh đào đất trồng bí ngô theo quy hoạch của trung đoàn không nhiều lắm, hai mươi lỗ mỗi ngày và ngồi dưới trời nắng Tây Ninh từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa rồi từ 1 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Có nhiều khi ngồi luôn từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều nếu làm việc thông tầm...
Trong khi đi lao động như thế, bọn tù từ mạnh đến yếu đã đi với phong thái thế nào? - Một con mắt thì rình rập xem có con cóc con nhái nào không, con mắt kia thì dáo dác lo tìm mớ cỏ mực, cỏ hôi, cỏ cứt lợn hoặc vú sữa đất đem về sắc cho nhau uống chữa bệnh kiết lỵ.
Trong lúc ấy ở tại trại, tổ anh nuôi điên lên trước lũ chiến hữu phù thũng. Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi 3 ngày, đang xếp hàng dài trước bếp đợi xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù trầm kha. Nhìn đám phù thũng xếp hàng xin nước vo gạo làm nhiều người lớn tuổi nhớ đến lũ ốm đói 45 xếp hàng trước các nhà chung chờ nắm cơm phát chẩn!
Chính sách để cho phù thũng kiết lỵ đòi nợ máu giùm cho nhân dân đã được xét lại khi trực trùng Amibe bắt đầu ghé hỏi thăm luôn bọn cán binh Việt Cộng. Chúng bắt đầu buộc phải phát thuốc cho tù khi đã có vài thằng bộ đội lây bệnh của tù về bên kia thế giới đi tìm thăm Bác. Ông Tuyên, tù nhân bác sỹ, người được bọn quân y tiểu đoàn giao trọng trách bảo vệ sức khỏe cho anh em, mỗi buổi sáng lên phòng phát thuốc tiểu đoàn đem về vài chục viên Granidan và một ly cối thuốc nước B1 không biết được chế bằng chất gì mà vàng đục như nước tiểu. Tù nhân kiêm bệnh nhân từng khối, trước giờ xuất quân đi lao động, xếp hàng dài để được bác sỹ Tuyên đặt vào miệng một viên Granidan nếu kiết lỵ được nhấp chút B1 nếu phù thũng. Từ xa ngó tới, nhìn vẻ kính cẩn thành khẩn của người phát thuốc lẫn người nhận thuốc, người ta có thể tưởng lầm đó là quang cảnh một lễ Misa ngoài trời, và vị linh mục đang cho những con chiên ngoan đạo chịu Mình và Máu thánh chúa!
Tuy nhiên một viên Granidan và vài giọt B1 làm sao trị nổi chứng bệnh kiết lỵ và phù thũng lúc nó đã trở thành trầm kha!?
Hình như Cộng sản chỉ có một hành động công bằng duy nhất và không nặng tính giai cấp cho lắm (đương nhiên phải trừ giai cấp lãnh đạo và cán bộ ra!), đó là sự mai táng có tính cách dập vùi cho xong chuyện đối với tù và cả bọn vệ binh coi tù. Thân xác sẽ được trở về với cát bụi nơi một bìa rừng hay một cánh đồng hoang nào đó và thân nhân sẽ không bao giờ được thông báo. Vợ sẽ suốt đời chờ chồng. Mẹ sẽ suốt đời chờ con. Anh sẽ suốt đời chờ em. Khốn khổ thay cho những người còn sống ấy. Họ cứ mỏi mòn chờ mà đâu biết rằng sự chờ đợi của họ là một việc làm vô ích nhất trong những việc vô ích ở trần gian!
Thuốc của Bác của Đảng coi như đổ sông đổ biển. Bọn đầu não Việt cộng chắc hẳn đã được báo cáo rất kỹ cái việc lợi bất cập hại khi để mặc cho trực trùng Amibe hành hạ bọn tù. Thế là một chính sách mới ra đời: Chính sách gửi quà.
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa giàu mạnh muôn năm đã phải gián tiếp cầu cứu gia đình bọn "ngụy" gửi thuốc vào chữa cho thân nhân của họ, để tránh cho chúng khỏi bị chết lây. Chính sách gửi quà của chúng dĩ nhiên cũng được mang một chiêu bài thật đẹp đẽ như mọi chiêu bài khác: Để thể hiện sự khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, Cách mạng cho phép gia đình các cải tạo viên gửi đến thân nhân đang học tập cải tạo mỗi người 3 kgs quà và thuốc men...
Tuy nhiên, chính sách gửi quà ra đời cũng không giản dị vào ngon ơ cho bọn tù! Trước khi được gửi thư về gia đình để báo tin được phép gửi quà, bọn tù phải trải qua nhiều tai kiếp. Tai kiếp đầu tiên là phải trải qua một thời gian học tập thảo luận gù lưng những nội quy quy định cho việc viết thư báo tin về nhà. Sau đó còn phải làm bài thu hoạch và làm những bản cam kết...
Bốn ngày trời học tập trôi qua, rốt cuộc cũng chỉ xoay quanh mấy điểm:
1. Quà không được gửi quá 3 kgs.
2. Thư viết về phải nói những gì có lợi cho Cách mạng, cho gia đình và cho bản thân. Đặc biệt phải ngắn gọn trong vòng một trang để quản giáo không mất quá nhiều thì giờ cho việc đọc kiểm duyệt.
3. Tuyệt đối không được viết tiếng nước ngoài, không được tiết lộ địa điểm đang học tập, không được kêu ca, không được dùng các ám hiệu dưới bất cứ hình thức nào. Tên các loại thuốc tây phải phiên âm sang tiếng Việt để sự kiểm duyệt của quản giáo được dễ dàng.
Những ngày kế tiếp, bọn tù bò lê ra để tập viết những bức thư kêu cứu gửi về gia đình bằng ngôn ngữ của Cách mạng. Ngoài bìa thư, nơi địa chỉ người gửi chỉ được ghi vỏn vẹn một bí số "Hòm thư L4T3".
Khi thư được thu nộp lên quản giáo rồi thì tai kiếp kế tiếp cũng bắt đầu xảy ra cho tất cả các khối! Dù thế nào, những người có kinh nghiệm về xã hội Cộng sản đều có thể đồng ý với nhau về một điểm, rằng chốn lao tù trong xã hội Cộng sản là một môi trường lý tưởng nhất cho sự phát triển cùng cực mọi bản năng thấp kém của con người. Trong điều kiện sống bị o ép tối đa về tất cả các mặt, bọn cán bộ của chế độ đã biết khai thác và xử dụng một lưng cơm, một chén cháo, cao hơn một chút nữa là một lời hứa được... nhận nhiều hơn 3 kgs quà... như một tuyệt chiêu để lũ tù tự động ra tay sát hại lẫn nhau.
L4T3, khối 2, lại một lần nữa khốn khổ về hệ thống ăng-ten của thằng Ba Tô! Mỗi ngày đi lao động về, nó mắc cái võng nằm ngay hông phòng, nơi có thể quan sát được cả phòng ngủ lẫn nhà bếp và nhiều xó xỉnh khác nữa thuộc phạm vi khối 2. Không một lời nói, một hành động khác thường nào của người trong phòng mà quản giáo Cư không được phúc trình đầy đủ. Dĩ nhiên chưa ai nhìn thấy hậu quả của những người bị báo cáo, nhưng có một điều chắc chắn thư của họ sẽ không được đem ra ngoài bưu điện Tây Ninh, mà được dùng làm đóm hoặc giấy chùi đít cho lũ vệ binh trên tiểu đoàn!
Với riêng Vĩnh, thế sự thăng trầm lúc này coi như bỏ ngoài tai. Chẳng còn gì làm Vĩnh phải bận tâm hay sợ hãi. Đúng hơn, Vĩnh đang biến thành một thứ mà ai cũng sợ hãi, kể cả thằng Ba Tô với mấy thằng râu ria ẩn mặt của nó. Anh đang giữ chức quán quân về bệnh tật của khối 2 nói riêng và có thể của cả L4T3 nói chung. Ngoài bệnh bao tử vốn là chỗ cố tri, bệnh ghẻ không trầm trọng như nhiều người khác nhưng phù thũng và kiết lỵ thì vô địch, chưa kể thêm bệnh sạn thận hành hạ chết ngất nhiều phen. Niềm hy vọng của Vĩnh hiện nay là mong ngóng chiều chiều bạn bè đi lao động về kiếm giùm cho mớ lá hoa cành củ bậy bạ sắc uống. Nguyễn Thành Đính đi lao động trên trung đoàn cậy được một miếng vỏ cay hoa Đại già đem về cho Vĩnh sắc uống chữa bệnh sạn thận. Nước vỏ Đại đắng không thua bồ hòn. Uống vào ruột gan tê dại. Anh em ai cũng khuyên thuốc đắng dã tật, nhưng uống năm lần bảy lượt đái ra máu vẫn hoàn đái ra máu! Sau một cơn đau thừa sống thiếu chết Vĩnh mới tiểu ra được một viên sạn to bằng nửa hạt ngô thì bắt đầu dính kiết lỵ!
Kinh nghiệm trong tù cho thấy những người bị kiết lỵ càng về sau càng nặng. Và những anh to con lại là những anh bị con Amibe vật nhanh và thê thảm hơn ai hết. Điển hình là một tay cận vệ của tổng thống Thiệu bên khối 3. Hắn to và đẹp trai như Nguyễn Công Án, sức lao dộng bằng ba và sức ăn phải bằng năm người thường; thế nhưng chỉ hai ngày kiết lỵ, con ma Amibe vật chết tươi không cách gì cứu nổi. Hoặc giả anh chàng Phan Lâm cũng bên khối 3. Hắn có sức nặng ít lắm cũng phải 80 kgs. Hơn nửa năm tù có hao hụt thì giờ này cũng phải còn 70 kgs. Lâm bị kiết lỵ và cũng chỉ hai ngày sau hắn nhão ra như một cái mền rách. Vĩnh không thể nào quên được hình ảnh vài người bạn, trong đó có Nguyễn Đình Tạc với vóc dáng chẳng thua Phan Lâm là bao nhiêu, xúm lại xốc Lâm lên và khênh ra cầu tiêu. Xong việc lại khênh Lâm về. Cứ thế đi rồi về, về rồi đi cho đến lúc chẳng còn ai khênh nổi nữa và để mặc cho Lâm ngồi suốt ngày trên một cái thùng đạn kê ngoài hiên nhà...
Vĩnh không to con như Phan Lâm, không cốt-xì-tô như cận vệ của ông Thiệu nhưng như thế không có nghĩa là không khốn nạn thê thảm trước con ma cà rồng kiết lỵ. Chao ôi! mỗi ngày chạy ra cầu khoảng bốn chục lần; chạy riết để sau cùng không còn chạy nổi nữa và anh em phải mắc cho Vĩnh một cái võng ngoài vườn bên cạnh vài tay kiết lỵ trầm kha khác. Nằm trên võng ngó trời ngó đất qua những nhánh cây, Vĩnh không nghĩ tới cái chết cũng không nghĩ tới gia đình, chẳng tủi thân tủi phận mà cũng chẳng thèm uất hận như thủa ban đầu; Vĩnh nằm nghĩ tới những đề tài đang viết, viết trong óc và học thuộc lòng trong tim. Mỗi ngày hai bữa Nguyễn Thành Đính nhận giùm phần cháo đem ra cho Vĩnh. Anh không muốn ăn. Một phần sự tiêu chảy khủng khiếp đã làm mọi cơ phận trong người tê dại, kể cả bao tử, cơ quan chính đẻ ra cái đói; một phần Ngô Văn Tuyên suốt ngày bắt Vĩnh uống những lon nước sắc bằng cỏ hôi vừa tanh vừa lợm, lắm khi anh còn bắt Vĩnh ăn cả bã với hy vọng món thuốc dân tộc kiểu bác Hồ này có thể cứu Vĩnh khỏi thần chết. Hai bát cháo có tí muối trắng, do đó, cao lắm chỉ đổ được vào miệng Vĩnh vài thìa để làm vốn cho sự tiêu chảy triền miên.
Chiều chiều đôi lúc có một vài người bạn ghé thăm. Vĩnh không buồn trò chuyện. Cũng có một vài người thương Vĩnh, chạy đôn chạy đáo trao đổi đủ thứ để mong kiếm được cho Vĩnh ít viên thuốc đau bụng. Một buổi chiều Tuyên đem đến cho Vĩnh bốn viên Chloroquine - loại thuốc sốt rét cực mạnh của Mỹ - và khuyên Vĩnh uống.
Vĩnh thều thào.
- Thuốc sốt rét mà. Tôi có sốt rét đâu.
Tuyên buồn rầu.
- Tôi biết! Nhưng tôi đã quan sát thấy nhiều tay uống vài viên thôi mà kiết lỵ giảm hẳn...
- Vô lý quá!
- Đồng ý, nhưng làm sao được bây giờ! Có thể trong Chloroquine có một chất gì đó diệt được Amibe mà tôi không rõ. Có điều uống vừa thôi, uống quá lố nguy hiểm.
Như để cho Vĩnh vững tin hơn, Tuyên thêm. Tôi có check với xừ Nhuận và lũy cũng nói có thể trong Chloroquine có kháng chất đối với Amibe...
Nghe thấy Tuyên nhắc tới tên dược sỹ Nhuận, Vĩnh thấy trong lòng kém vui nhưng không nói ra. Anh không quá ghét Nhuận nhưng từ ngày nghe Nhuận đọc bản tự khai trước khối, đã gọi phụ mẫu như là một thứ chuyên nghề "bóc lột nhân dân", khiến Vĩnh và một số anh em khác không muốn giao du với Nhuận nữa. Vĩnh lặng lẽ cầm lấy mấy viên thuốc từ tay Tuyên, ngẫm nghĩ giây lát rồi cho một viên vào miệng, chiêu với một ngụm nước cỏ hôi đựng trong cái long guigoz do Tuyên trao cho.
Thấy Vĩnh đã uống thuốc, Tuyên đứng lên. Anh ngó Vĩnh trấn an. Ông cứ yên tâm. Từ sáng đến giờ mới có hai mươi lần, như vậy là số lần đi cầu đã giảm xuống quá nửa so với mấy ngày qua. Tôi có thể bảo đảm với ông rằng ông sẽ là một trong những người được nhận quà đầu tiên. Émitine, Néomycine tới tay là bỏ bố lũ Amibe chứ khó gì đâu...
Vĩnh không bận tâm lắm đến câu trấn an của Tuyên. Anh kéo tấm vải đắp lên sát ngực, lắng nghe một người bạn nằm võng kế cận đang nặng nề tụt xuống khỏi võng. Ngô Văn Tuyên chạy lại tiếp hắn một tay. Tiếng mông người rơi cái phịch trên một thùng đạn dùng làm bô không còn nghe đau đớn, tiếp theo đó là tiếng của máu trong ruột sủi ra, giục giã, cồn cào, xót xa và nhanh gọn...
Tiếng anh bạn khẽ cất lên.
- Giúp tôi lên võng được rồi.
Tiếng Tuyên ngần ngại hỏi.
- Không chùi à?
Giọng người bạn chán nản trả lời.
- Sáu bảy chục lần một ngày thở không ra hơi, chùi làm gì nữa!
Vĩnh dần dần thiếp vào giấc ngủ. Dĩ vãng lại trôi qua đầu anh, rõ ràng và minh bạch... Các anh là bọn ngu dốt không đọc nổi chữ in... Thằng kia, mày cười Cách mạng cái gì?... Anh mới 30 tuổi mà sao ngụy nó cho anh in nhiều sách thế?... Uống đi, uống đi! Cỏ hôi và vú sữa đất là thuốc dân tộc. Cách mạng bao năm sống trong rừng rú đã toàn nhờ nó mà khỏi...
Trong sự xuyên tạc ấy, tuy nhiên, có một điều đau đớn nhất đó là việc kẻ thù lại nói khá đúng về bọn lãnh tụ cá mập, bọn chính khách hoạt đầu, bọn tướng lãnh đê hèn chưa đánh đã bỏ chạy. Chúng nói thế nào về bọn lãnh tụ cá mập? - Là bọn ăn cắp, bọn lưu manh, bọn huyênh hoang, bọn lì lợm, bọn vô lương tâm. Chúng nói thế nào về bọn chính khách hoạt đầu? - Là bọn Việt gian, bọn tưởng bở lập lờ thỏa hiệp, bọn trí thức bằng cấp ngập tới răng nhưng đụng trận thực tế ngu hơn con bò. Chúng nói thế nào về bọn tướng lãnh chưa đánh đã bỏ chạy? - Là bọn cướp có môn bài, hiếp dâm có giấy phép; bọn mà tư cách và danh dự của một quân nhân còn thua cả một anh tân binh quân dịch!
Hỡi ơi, điểm này kẻ thù đã nói gần như y chang, cãi thế nào được!?
Nhưng điều mà kẻ thù đã nói về những người ở lại để chiến đấu, để còn nước còn tát, để không tự hổ với lòng mình rằng mình là thằng chỉ huy bỏ rơi đơn vị, bỏ rơi em út chạy lấy thân; thì kẻ thù đã xuyên tạc như thế nào? Chúng đã đề quyết rằng họ là những người liều thân giữ của, tiếc vợ năm vợ bảy, bọn ếch ngồi đáy giếng vì trình độ chưa... đọc nổi chữ in!
Chao ôi là cay đắng!
Cái thủa ban đầu, với sự tự tôn mặc cảm, việc trả thù coi vậy mà còn nhẹ tay. Nhưng thời gian trôi qua, ôi thời gian, tên chỉ điểm đốn mạt nhất, đã tố giác với chúng con người thật với giá trị thật của bọn sa cơ thất thế! Và khi biết rằng sự thật không phải bọn "ngụy" là bọn có trình độ không đọc nổi chữ in như lời Đảng tuyên truyền xuyên tạc nhiều chục năm, mà khác, khác xa như thế nhiều lắm, khác đến độ đời thằng cai tù có sống thêm mấy kiếp nữa cũng chẳng thể đuổi bắt kịp những giá trị sống mà bọn tù đã được sở hữu; sự tự tôn mặc cảm từ đó dần dần chuyển hóa thành sự tự ti mặc cảm. Bọn tù bắt đầu khốn nạn thật sự trước cái mặc cảm mới này của bọn cai tù!...
Khi các trại cải tạo với tình hình đã tương đối ổn định và đi vào nề nếp nói theo ngôn ngữ của các cai tù, thì chúng cũng bắt đầu được đi phép Sài Gòn hoặc những thành phố lớn lân cận để biết ra rằng cái nón cối và đôi dép râu quả là một chướng ngại ghê gớm trong việc ăn mày tình cảm của người dân miền Nam. Đây là những lần đầu tiên trong đời, nhiều kẻ biết được mùi tủ kính của các cửa hiệu, hoặc được dịp đếm mỏi cổ những tầng nhà cao ốc, được biết mùi "cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc", được dịp lùng mua cho bằng được một cái đồng hồ Seiko "có cửa sổ, không người lái, có đèn nháy và chạy cả năm", được há hốc những cái mồm răng vẩu nhìn người đẹp thành thị miền Nam thướt tha yêu kiều, dù bây giờ họ có vẻ hơi lười biếng cười đùa, nhưng ô kìa! họ biết lái cả "ô-tô con" và "xe bình bịch" nữa chứ!
Vâng, bọn cán binh Việt cộng từ rừng rú được trực tiếp đưa vào làm cai tù trong các trại giam cũng trong rừng rú, sau những lần đi phép đã bắt đầu được nhìn thấy một phần sự thật về miền Nam, về con người Tự Do ở miền Nam. Trong cái đầu dày đặc đêm tối của sự cuồng tín ấy, liệu chúng có nảy ra tí so sánh nào giữa thực thể của hai miền Nam Bắc không? Có khởi sự nghi ngờ về những lời tuyên truyền nhồi sọ xuyên tạc miền Nam kéo dài mấy chục năm trời từ bọn lãnh tụ của chúng hay không? - Có thánh mà biết được, khi cửa mồm của chúng đã biến thành một cái máy nói dối tự động dù bất cứ ở đâu với bất cứ ai về bất cứ một vấn đề gì.
Ngoài Bắc ư? Cái gì cũng có, cũng to, cũng tốt cả!
- Có TV không?
- Ồ, có chứ! Chạy đầy đường
- Có máy lạnh không?
- Gắn đầy công viên!
- Có cà rem không?
- Ồ, thu hoạch ăn không hết phải đem phơi khô xuất khẩu!
Nếu viết hết ra những câu đối thoại trong một cuộc hạnh ngộ nào đó giữa hai người thuộc hai chế độ Quốc Cộng ở Việt Nam vào giai đoạn sau 30 tháng 4 năm 1975 có thể lên tới hàng chục nghìn. Và nếu như những mẩu đối thoại ấy được cắt riêng ra, được đem dịch sang một thứ tiếng khác cho người ngoại quốc đọc hẳn họ sẽ điên lên mà kết luận rằng thằng dịch giả này là một thằng bố láo, hoặc đó là những mẩu đối thoại mà kẻ trả lời chắc chắn điếc một trăm phần trăm!
Tự ti mặc cảm, một hậu quả tất yếu và phổ quát cho những kẻ có lồng ngực giam hãm một quả tim lạc hậu hèn kém, được che dấu bởi một bộ mặt Cách mạng tiên tiến. Cộng sản, dù là Cộng sản Tây Cộng sản ta, Cộng sản Nga Cộng sản Tàu; hãy mổ ngực chúng ra mà xem, quả tim triệu thằng như một.
Chúng không mặc cảm sao được khi mà chúng đã biết quá rõ mình cầm bằng thua địch thủ mọi mặt dẫu nay địch thủ đã sa cơ thất thế, không do yếu kém mà do nhiều nguyên ủy sâu xa không phải là chúng không biết.
Một trang nhật ký có lẽ bị xé vội vã và dùng lầm chỗ của tay thượng úy trại trưởng L4T3 đã bị bọn tù đi dọn cầu tiêu trên ban chỉ huy nhặt được. Trang nhật ký viết: "... Ba mươi năm theo Đảng, Đảng đã trang bị cho tôi những gì? Phải chăng chỉ có một kiến thức thua cả một thằng lính ngụy, một đời sống kinh tế không bằng một anh phu xe trong xã hội đối phương...!?"
Chỉ hai mươi bốn tiếng sau đó nội dung và tác giả của trang nhật ký được lan truyền rộng rãi khắp trại. Bọn cán bộ trại điên đầu. Và kẻ điên đầu nhất có lẽ là tên thủ trưởng. Chúng lồng lộn truy tìm tác giả của cái tin "xuyên tạc" ấy. Tìm mãi không ra, biện pháp duy nhất là... trừng trị tập thể. Chúng ra tay quần thảo bọn tù gần chết với những công tác lao động khổ sai, với những lời mạt sát thậm tệ. Để trả đũa, bọn tù không còn vũ khí nào khác hơn là sự châm biếm. Giai đoạn này sản sinh vô số chuyện châm biếm sự ngu dốt của cai tù do tù sáng tác. Vẻ huyênh hoang của bọn cai tù Cộng sản ngày đêm bị những bầy ong vô hình châm chích túi bụi. Chúng bắt đầu rút vào thế thủ nhưng bầy ong châm biếm của bọn tù vẫn gia tăng.
Châm biếm càng gia tăng thì sự thù hận của những kẻ tự ti mặc cảm càng dâng cao.
Thù hận càng dâng cao thì chúng càng siết chặt hơn mọi thứ. Và sau cùng, nghệ thuật sết tuyệt vời nhất của Cộng sản vẫn là: Ông cho chúng mày đói xem chúng mày còn châm biếm được nữa hay không?
Kể từ sau đợt học tập chính trị vào cuối năm 1975 thì tù cải tạo tại trại L4T3 thực sự bắt đầu lê lết vì đói. Theo lý thuyết mỗi người có trực tiếp tham gia lao động được hưởng mỗi ngày 500 grs gạo. Ai bệnh ăn cháo. Tuy nhiên, trên thực tế mỗi bữa mỗi người chỉ được phát trên dưới hai bát cơm nhỏ nấu bằng loại gạo đã chôn dấu nhiều năm trong các mật khu giờ đã mục mọt gần hết. Khẩu phần có thể được phát kèm thêm dăm ba cọng rau muống, hoặc miếng bí ngô luộc bằng hai đốt ngón tay, hoặc miếng củ cải luộc, thêm tí nước muối đen như nước cống. Chất béo và chất ngọt tuyệt nhiên đã bị cắt hẳn ngay từ tháng thứ hai.
Trong khi bọn cán binh Cộng sản bắt đầu đạt được giấc mộng lớn của chúng là có thằng đã có xe đạp cỡi chơi, có đồng hồ đeo tay, có tí kính râm đeo mắt trông y như một lũ thầy bói; thì cũng là lúc lũ tù cải tạo bắt đầu phù thũng và kiết lỵ.
Ôi thật là một hỏa ngục trần gian! Một khối 120 người kiết lỵ hết 50 người. Với 70 người còn lại thì hết 40 người phù thũng. Kiết lỵ bò trên đất. Phù thũng cõng kiết lỵ. Kiết lỵ làm bậy luôn trên lưng phù thũng. Phù lủng lây kiết lỵ. Một khối 120 người giờ đây hết 90 người vừa phù thũng vừa kiết lỵ. Hai mươi người còn lại đều thấp thỏm chờ con ma kiết lỵ hỏi thăm bất cứ lúc nào. Riêng 10 thằng chưa được kể tới chính là những thằng may mắn nhất vì đã được Cách mạng cho... chôn có hòm!
Dù bệnh tật, nhưng nếu chưa da bọc xương, chưa đến độ ruồi bâu không thèm đuổi thì vẫn phải thi công lao động như thường. Nằm lỳ ở nhà ư? Đâu có dễ như vậy! Vả lại chưa chết thì thôi, ai lại nỡ để bạn bè suốt ngày lao động quần quật, đêm về lại phải theo lệnh quản giáo đốt đèn lên để phân tích, mổ xẻ, đấu tranh giúp đỡ mình, bắt mình phải khắc phục những khuyết điểm chai lười lao động còn tồn tại, buộc mình phải đề ra phương hướng mới, phải phấn đấu học tập lao động để sớm trở nên người công dân lương thiện... Cái đức tính "gan lì ỳ ẩu", nói cho cùng, khó mà thi thố nổi trong trại tù cải tạo của Cộng sản.
Nói chung chưa chết thì vẫn phải tham gia lao động. Người khỏe thì đi phát quang, đi phá nền nhà, đi đào ao đào giếng, đi xây dựng các doanh trại cho bộ đội, đi khuân đạn... Người yếu bệnh thì đấy, cả một phi trường bao la đấy, cứ việc ngồi một chỗ, tay cầm đục tay cầm búa để đục xuyên qua những lớp nhựa cứng, tạo những lỗ đủ sâu đủ rộng cho một gốc bí ngô. Chỉ tiêu cho người bệnh đào đất trồng bí ngô theo quy hoạch của trung đoàn không nhiều lắm, hai mươi lỗ mỗi ngày và ngồi dưới trời nắng Tây Ninh từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa rồi từ 1 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Có nhiều khi ngồi luôn từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều nếu làm việc thông tầm...
Trong khi đi lao động như thế, bọn tù từ mạnh đến yếu đã đi với phong thái thế nào? - Một con mắt thì rình rập xem có con cóc con nhái nào không, con mắt kia thì dáo dác lo tìm mớ cỏ mực, cỏ hôi, cỏ cứt lợn hoặc vú sữa đất đem về sắc cho nhau uống chữa bệnh kiết lỵ.
Trong lúc ấy ở tại trại, tổ anh nuôi điên lên trước lũ chiến hữu phù thũng. Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi 3 ngày, đang xếp hàng dài trước bếp đợi xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù trầm kha. Nhìn đám phù thũng xếp hàng xin nước vo gạo làm nhiều người lớn tuổi nhớ đến lũ ốm đói 45 xếp hàng trước các nhà chung chờ nắm cơm phát chẩn!
Chính sách để cho phù thũng kiết lỵ đòi nợ máu giùm cho nhân dân đã được xét lại khi trực trùng Amibe bắt đầu ghé hỏi thăm luôn bọn cán binh Việt Cộng. Chúng bắt đầu buộc phải phát thuốc cho tù khi đã có vài thằng bộ đội lây bệnh của tù về bên kia thế giới đi tìm thăm Bác. Ông Tuyên, tù nhân bác sỹ, người được bọn quân y tiểu đoàn giao trọng trách bảo vệ sức khỏe cho anh em, mỗi buổi sáng lên phòng phát thuốc tiểu đoàn đem về vài chục viên Granidan và một ly cối thuốc nước B1 không biết được chế bằng chất gì mà vàng đục như nước tiểu. Tù nhân kiêm bệnh nhân từng khối, trước giờ xuất quân đi lao động, xếp hàng dài để được bác sỹ Tuyên đặt vào miệng một viên Granidan nếu kiết lỵ được nhấp chút B1 nếu phù thũng. Từ xa ngó tới, nhìn vẻ kính cẩn thành khẩn của người phát thuốc lẫn người nhận thuốc, người ta có thể tưởng lầm đó là quang cảnh một lễ Misa ngoài trời, và vị linh mục đang cho những con chiên ngoan đạo chịu Mình và Máu thánh chúa!
Tuy nhiên một viên Granidan và vài giọt B1 làm sao trị nổi chứng bệnh kiết lỵ và phù thũng lúc nó đã trở thành trầm kha!?
Hình như Cộng sản chỉ có một hành động công bằng duy nhất và không nặng tính giai cấp cho lắm (đương nhiên phải trừ giai cấp lãnh đạo và cán bộ ra!), đó là sự mai táng có tính cách dập vùi cho xong chuyện đối với tù và cả bọn vệ binh coi tù. Thân xác sẽ được trở về với cát bụi nơi một bìa rừng hay một cánh đồng hoang nào đó và thân nhân sẽ không bao giờ được thông báo. Vợ sẽ suốt đời chờ chồng. Mẹ sẽ suốt đời chờ con. Anh sẽ suốt đời chờ em. Khốn khổ thay cho những người còn sống ấy. Họ cứ mỏi mòn chờ mà đâu biết rằng sự chờ đợi của họ là một việc làm vô ích nhất trong những việc vô ích ở trần gian!
Thuốc của Bác của Đảng coi như đổ sông đổ biển. Bọn đầu não Việt cộng chắc hẳn đã được báo cáo rất kỹ cái việc lợi bất cập hại khi để mặc cho trực trùng Amibe hành hạ bọn tù. Thế là một chính sách mới ra đời: Chính sách gửi quà.
Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa giàu mạnh muôn năm đã phải gián tiếp cầu cứu gia đình bọn "ngụy" gửi thuốc vào chữa cho thân nhân của họ, để tránh cho chúng khỏi bị chết lây. Chính sách gửi quà của chúng dĩ nhiên cũng được mang một chiêu bài thật đẹp đẽ như mọi chiêu bài khác: Để thể hiện sự khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, Cách mạng cho phép gia đình các cải tạo viên gửi đến thân nhân đang học tập cải tạo mỗi người 3 kgs quà và thuốc men...
Tuy nhiên, chính sách gửi quà ra đời cũng không giản dị vào ngon ơ cho bọn tù! Trước khi được gửi thư về gia đình để báo tin được phép gửi quà, bọn tù phải trải qua nhiều tai kiếp. Tai kiếp đầu tiên là phải trải qua một thời gian học tập thảo luận gù lưng những nội quy quy định cho việc viết thư báo tin về nhà. Sau đó còn phải làm bài thu hoạch và làm những bản cam kết...
Bốn ngày trời học tập trôi qua, rốt cuộc cũng chỉ xoay quanh mấy điểm:
1. Quà không được gửi quá 3 kgs.
2. Thư viết về phải nói những gì có lợi cho Cách mạng, cho gia đình và cho bản thân. Đặc biệt phải ngắn gọn trong vòng một trang để quản giáo không mất quá nhiều thì giờ cho việc đọc kiểm duyệt.
3. Tuyệt đối không được viết tiếng nước ngoài, không được tiết lộ địa điểm đang học tập, không được kêu ca, không được dùng các ám hiệu dưới bất cứ hình thức nào. Tên các loại thuốc tây phải phiên âm sang tiếng Việt để sự kiểm duyệt của quản giáo được dễ dàng.
Những ngày kế tiếp, bọn tù bò lê ra để tập viết những bức thư kêu cứu gửi về gia đình bằng ngôn ngữ của Cách mạng. Ngoài bìa thư, nơi địa chỉ người gửi chỉ được ghi vỏn vẹn một bí số "Hòm thư L4T3".
Khi thư được thu nộp lên quản giáo rồi thì tai kiếp kế tiếp cũng bắt đầu xảy ra cho tất cả các khối! Dù thế nào, những người có kinh nghiệm về xã hội Cộng sản đều có thể đồng ý với nhau về một điểm, rằng chốn lao tù trong xã hội Cộng sản là một môi trường lý tưởng nhất cho sự phát triển cùng cực mọi bản năng thấp kém của con người. Trong điều kiện sống bị o ép tối đa về tất cả các mặt, bọn cán bộ của chế độ đã biết khai thác và xử dụng một lưng cơm, một chén cháo, cao hơn một chút nữa là một lời hứa được... nhận nhiều hơn 3 kgs quà... như một tuyệt chiêu để lũ tù tự động ra tay sát hại lẫn nhau.
L4T3, khối 2, lại một lần nữa khốn khổ về hệ thống ăng-ten của thằng Ba Tô! Mỗi ngày đi lao động về, nó mắc cái võng nằm ngay hông phòng, nơi có thể quan sát được cả phòng ngủ lẫn nhà bếp và nhiều xó xỉnh khác nữa thuộc phạm vi khối 2. Không một lời nói, một hành động khác thường nào của người trong phòng mà quản giáo Cư không được phúc trình đầy đủ. Dĩ nhiên chưa ai nhìn thấy hậu quả của những người bị báo cáo, nhưng có một điều chắc chắn thư của họ sẽ không được đem ra ngoài bưu điện Tây Ninh, mà được dùng làm đóm hoặc giấy chùi đít cho lũ vệ binh trên tiểu đoàn!
Với riêng Vĩnh, thế sự thăng trầm lúc này coi như bỏ ngoài tai. Chẳng còn gì làm Vĩnh phải bận tâm hay sợ hãi. Đúng hơn, Vĩnh đang biến thành một thứ mà ai cũng sợ hãi, kể cả thằng Ba Tô với mấy thằng râu ria ẩn mặt của nó. Anh đang giữ chức quán quân về bệnh tật của khối 2 nói riêng và có thể của cả L4T3 nói chung. Ngoài bệnh bao tử vốn là chỗ cố tri, bệnh ghẻ không trầm trọng như nhiều người khác nhưng phù thũng và kiết lỵ thì vô địch, chưa kể thêm bệnh sạn thận hành hạ chết ngất nhiều phen. Niềm hy vọng của Vĩnh hiện nay là mong ngóng chiều chiều bạn bè đi lao động về kiếm giùm cho mớ lá hoa cành củ bậy bạ sắc uống. Nguyễn Thành Đính đi lao động trên trung đoàn cậy được một miếng vỏ cay hoa Đại già đem về cho Vĩnh sắc uống chữa bệnh sạn thận. Nước vỏ Đại đắng không thua bồ hòn. Uống vào ruột gan tê dại. Anh em ai cũng khuyên thuốc đắng dã tật, nhưng uống năm lần bảy lượt đái ra máu vẫn hoàn đái ra máu! Sau một cơn đau thừa sống thiếu chết Vĩnh mới tiểu ra được một viên sạn to bằng nửa hạt ngô thì bắt đầu dính kiết lỵ!
Kinh nghiệm trong tù cho thấy những người bị kiết lỵ càng về sau càng nặng. Và những anh to con lại là những anh bị con Amibe vật nhanh và thê thảm hơn ai hết. Điển hình là một tay cận vệ của tổng thống Thiệu bên khối 3. Hắn to và đẹp trai như Nguyễn Công Án, sức lao dộng bằng ba và sức ăn phải bằng năm người thường; thế nhưng chỉ hai ngày kiết lỵ, con ma Amibe vật chết tươi không cách gì cứu nổi. Hoặc giả anh chàng Phan Lâm cũng bên khối 3. Hắn có sức nặng ít lắm cũng phải 80 kgs. Hơn nửa năm tù có hao hụt thì giờ này cũng phải còn 70 kgs. Lâm bị kiết lỵ và cũng chỉ hai ngày sau hắn nhão ra như một cái mền rách. Vĩnh không thể nào quên được hình ảnh vài người bạn, trong đó có Nguyễn Đình Tạc với vóc dáng chẳng thua Phan Lâm là bao nhiêu, xúm lại xốc Lâm lên và khênh ra cầu tiêu. Xong việc lại khênh Lâm về. Cứ thế đi rồi về, về rồi đi cho đến lúc chẳng còn ai khênh nổi nữa và để mặc cho Lâm ngồi suốt ngày trên một cái thùng đạn kê ngoài hiên nhà...
Vĩnh không to con như Phan Lâm, không cốt-xì-tô như cận vệ của ông Thiệu nhưng như thế không có nghĩa là không khốn nạn thê thảm trước con ma cà rồng kiết lỵ. Chao ôi! mỗi ngày chạy ra cầu khoảng bốn chục lần; chạy riết để sau cùng không còn chạy nổi nữa và anh em phải mắc cho Vĩnh một cái võng ngoài vườn bên cạnh vài tay kiết lỵ trầm kha khác. Nằm trên võng ngó trời ngó đất qua những nhánh cây, Vĩnh không nghĩ tới cái chết cũng không nghĩ tới gia đình, chẳng tủi thân tủi phận mà cũng chẳng thèm uất hận như thủa ban đầu; Vĩnh nằm nghĩ tới những đề tài đang viết, viết trong óc và học thuộc lòng trong tim. Mỗi ngày hai bữa Nguyễn Thành Đính nhận giùm phần cháo đem ra cho Vĩnh. Anh không muốn ăn. Một phần sự tiêu chảy khủng khiếp đã làm mọi cơ phận trong người tê dại, kể cả bao tử, cơ quan chính đẻ ra cái đói; một phần Ngô Văn Tuyên suốt ngày bắt Vĩnh uống những lon nước sắc bằng cỏ hôi vừa tanh vừa lợm, lắm khi anh còn bắt Vĩnh ăn cả bã với hy vọng món thuốc dân tộc kiểu bác Hồ này có thể cứu Vĩnh khỏi thần chết. Hai bát cháo có tí muối trắng, do đó, cao lắm chỉ đổ được vào miệng Vĩnh vài thìa để làm vốn cho sự tiêu chảy triền miên.
Chiều chiều đôi lúc có một vài người bạn ghé thăm. Vĩnh không buồn trò chuyện. Cũng có một vài người thương Vĩnh, chạy đôn chạy đáo trao đổi đủ thứ để mong kiếm được cho Vĩnh ít viên thuốc đau bụng. Một buổi chiều Tuyên đem đến cho Vĩnh bốn viên Chloroquine - loại thuốc sốt rét cực mạnh của Mỹ - và khuyên Vĩnh uống.
Vĩnh thều thào.
- Thuốc sốt rét mà. Tôi có sốt rét đâu.
Tuyên buồn rầu.
- Tôi biết! Nhưng tôi đã quan sát thấy nhiều tay uống vài viên thôi mà kiết lỵ giảm hẳn...
- Vô lý quá!
- Đồng ý, nhưng làm sao được bây giờ! Có thể trong Chloroquine có một chất gì đó diệt được Amibe mà tôi không rõ. Có điều uống vừa thôi, uống quá lố nguy hiểm.
Như để cho Vĩnh vững tin hơn, Tuyên thêm. Tôi có check với xừ Nhuận và lũy cũng nói có thể trong Chloroquine có kháng chất đối với Amibe...
Nghe thấy Tuyên nhắc tới tên dược sỹ Nhuận, Vĩnh thấy trong lòng kém vui nhưng không nói ra. Anh không quá ghét Nhuận nhưng từ ngày nghe Nhuận đọc bản tự khai trước khối, đã gọi phụ mẫu như là một thứ chuyên nghề "bóc lột nhân dân", khiến Vĩnh và một số anh em khác không muốn giao du với Nhuận nữa. Vĩnh lặng lẽ cầm lấy mấy viên thuốc từ tay Tuyên, ngẫm nghĩ giây lát rồi cho một viên vào miệng, chiêu với một ngụm nước cỏ hôi đựng trong cái long guigoz do Tuyên trao cho.
Thấy Vĩnh đã uống thuốc, Tuyên đứng lên. Anh ngó Vĩnh trấn an. Ông cứ yên tâm. Từ sáng đến giờ mới có hai mươi lần, như vậy là số lần đi cầu đã giảm xuống quá nửa so với mấy ngày qua. Tôi có thể bảo đảm với ông rằng ông sẽ là một trong những người được nhận quà đầu tiên. Émitine, Néomycine tới tay là bỏ bố lũ Amibe chứ khó gì đâu...
Vĩnh không bận tâm lắm đến câu trấn an của Tuyên. Anh kéo tấm vải đắp lên sát ngực, lắng nghe một người bạn nằm võng kế cận đang nặng nề tụt xuống khỏi võng. Ngô Văn Tuyên chạy lại tiếp hắn một tay. Tiếng mông người rơi cái phịch trên một thùng đạn dùng làm bô không còn nghe đau đớn, tiếp theo đó là tiếng của máu trong ruột sủi ra, giục giã, cồn cào, xót xa và nhanh gọn...
Tiếng anh bạn khẽ cất lên.
- Giúp tôi lên võng được rồi.
Tiếng Tuyên ngần ngại hỏi.
- Không chùi à?
Giọng người bạn chán nản trả lời.
- Sáu bảy chục lần một ngày thở không ra hơi, chùi làm gì nữa!
Vĩnh dần dần thiếp vào giấc ngủ. Dĩ vãng lại trôi qua đầu anh, rõ ràng và minh bạch... Các anh là bọn ngu dốt không đọc nổi chữ in... Thằng kia, mày cười Cách mạng cái gì?... Anh mới 30 tuổi mà sao ngụy nó cho anh in nhiều sách thế?... Uống đi, uống đi! Cỏ hôi và vú sữa đất là thuốc dân tộc. Cách mạng bao năm sống trong rừng rú đã toàn nhờ nó mà khỏi...
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
Hơn nửa năm trời Cộng sản vơ vét từ những vật dụng thượng đẳng như các loại máy điện tử, những đồ thiết bị tối tân cho các bệnh viện, trường ốc, các loại xe cộ cơ giới... cho đến chổi cùn giẻ rách nơi các công tư sở đem ra Bắc; dân miền Nam đã thực sự lâm cảnh khó khăn khi đi tìm mua những loại thuốc tây cần thiết.
Tỷ như chúng vơ vét thuốc tây để cung cấp cho đồng bào ruột thịt miền Bắc đang cần thiết thì cũng lấy làm vui; đàng này, dân ngoài Bắc mánh mung chạy được vào trong Nam thăm người thân, câu đầu tiên vẫn là có thuốc tây không? Kế tiếp mới là những câu xin xỏ xe đạp, radio, áo len, mùng mền...
Như vậy cả một núi thuốc tây ở miền Nam sau 30 tháng Tư chạy đi đâu?
Thời gian này 100 người dân miền Nam thì hết 99 người, trừ một người sau cùng bị câm, đều phát chửi thề vì một bản tin đăng trên các báo lá cải của nhà nước Cộng sản, hoan hỉ loan đi một cái tin như sau: "... Chính phủ và nhân dân ta, trong tình quốc tế vô sản, tình ruột thịt với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, gần đây đã quyết định gửi giúp chính phủ và nhân dân Angola một tàu thuốc tây đủ loại. Chuyến tàu hữu nghị đã rời cảng Hải Phòng ngày...".
Thêm vào đó, bọn Tàu Chợ Lớn cũng ra tay bạo tàn không kém. Ngoài những số thuốc tây khổng lồ bị Việt cộng vơ vét vào kho của chúng, một số lớn còn lại cũng chui luôn vào kho của ba Tàu. Khi có dịp, chúng tung ra bán với giá cắt cổ và tiền bạc của người dân miền Nam lại có dịp chui vào túi chúng để có thuốc tây mà lo cho người thân.
Trong hoàn cảnh như thế, người ở nhà bắt đầu nhận được thư của thân nhân từ các trại cải tạo gửi về. Dĩ nhiên những lá thư đó không tỏ lộ được chút nào địa danh thân nhân họ đang bị đày đọa và nội dung các bức thư hầu như đều tương tự nhau về... cách hành văn: Ngắn gọn và đầy những lời lẽ giả dối. Sao lại lạ thường dường này? Người đọc thư không thể không kinh ngạc. Chả nhẽ mới nửa năm xa cách mà thân nhân mình lại giở trò tiến bộ với cả cha mẹ vợ con nhanh đến thế sao? Cái gì mà nhờ ơn Đảng, nhờ ơn nhà nước? Rồi đến tên các thứ thuốc tây! Sao lạ tai lạ mắt và khó đọc như thế này? Chả nhẽ mới đó đã quên cả tên những món thuốc tây thông dụng? Nào là Át-sờ-pi-rin-nờ, Xờ-tờ-rép-tô-mi-xin-nờ, sa-côn-lờ, nào là bê-oong-đờ-xăng-mi-li-gờ-ram-mờ, ê-mi-tin-nờ... Thôi thì đủ thứ loại những chữ phiên âm dị thường.
Người ở nhà, hỡi ơi, đâu biết rằng nội cái vụ viết thư thôi, chồng cha anh con của họ đã phải lên lớp, phải thảo luận, phải thu hoạch về bài học dạy cách viết thư trong xã hội mới. Bài học này cũng có hai phần mục đích và yêu cầu như tất cả các bài học chính trị khác. Mục đích là: Xã hội ta việc viết thư từ cho nhau không nhằm phô bày cái mặt tiêu cực của tình cảm ủy mị con người, mà biên thư là để động viên lẫn nhau, để cùng nhau củng cố niềm tin vào Đảng và Cách mạng... Yêu cầu là: Phải áp dụng nghiêm túc nội quy quy định trong việc viết thư về gia đình...
Nội quy thì nhiều điểm lắm, nhưng một vài lá thư sau đây có thể là những lá thư tiêu biểu đã đạt yêu cầu phần nào về cả hai mặt ý thức tốt được mục đích và ứng dụng tốt được yêu cầu của Cách mạng trong việc viết thư về gia đình xin viện trợ thuốc men...
Sau đây là nội dung lá thư của một anh bị phù thũng gửi về cho vợ.
Em thương yêu, Anh khỏe lắm em ạ. Em và các con đừng lo gì cho anh cả nhé. Ngày hồ hởi phấn khởi lao động, đêm về không trác táng rượu chè như xưa, trong khi lại được Cách mạng lo cho vô cùng đầy đủ từ vật chất đến tinh thần nên hiện nay anh mập phì ra.
Hôm nay Cách mạng chiếu cố cho biên thư về thăm gia đình, lại còn cho thông báo gia đình được gửi vào 3 cân quà và thuốc tây để trong này anh có thêm cái dùng. Nói thật với em thực tế anh cũng chẳng cần gì đâu, nhưng nếu được, em nhớ gửi cho anh vài món như sau:
- 3 bánh thuốc lào. - 2 cân đường thẻ. - 1 cân đường cát vắt sẵn chanh. - Đặc biệt Bê-oong (B1) loại mạnh nhất.
Anh, Nguyễn Văn A.
TB. Tuyệt đối đừng gửi đồ mặn. Đặc biệt thịt thà là cái anh không thích. TB lần nữa. Nhớ trong vòng 3 cân thôi. Đừng nặng hơn kẻo vi phạm quy định. Tốt nhất em đọc kỹ thông cáo của nhà nước trên các báo!
Biết bao đêm thức trắng dằn vặt lo âu cho nhau, chồng biên thư cho vợ ân tình buộc phải gói ghém vào từng đó chữ. Ở nhà, người vợ dù có thật thà đến đâu cũng khóc ngất vì đã quá rõ chồng mình "mập phì" có nghĩa là thế nào. Toàn xin đồ ngọt mà không dám xin lấy một tí đồ mặn, lại còn dặn phải gửi Vitamin B.1 loại mạnh nữa chứ!
Sau đây là nội dung lá thư của một anh bị kiết lỵ gửi về cho cha mẹ.
Bố mẹ thương yêu, Thấm thoát con đã đi học tập cải tạo được nửa năm rồi. Dù lúc nào con cũng nhớ tới bố mẹ và các em nhưng vì ý thức được đi học tập cải tạo là nghĩa vụ nên con luôn phấn đấu biến sự thương nhớ ấy thành hành động cụ thể là học tập tiến bộ để sớm được Cách mạng cho về đoàn tụ gia đình.
Riêng phần bố mẹ đừng quá lo cho con. Trong này con rất đầy đủ. Cách mạng không để thiếu thốn gì cả. Nhân đây con cũng báo tin để bố mẹ rõ là trại cho phép gia đình gửi vào cho con 3 cân quà và thuốc men cần dùng. Nếu được, xin bố mẹ gửi cho con vài thứ như sau.
- 1 hộp muối vừng lạc. - 1 cân đường thẻ. - 1 cân muối trắng trộn tiêu hoặc ớt bột. - 2 hộp Nê-ô-mi-xin-nờ và 10 ống Xờ-tờ-rích-nin-nờ
Kính thư, Con, Trần Văn B.
TB. Tuyệt đối xin bố mẹ đừng gửi đồ tanh như mắm tôm mắm ruốc. Con không thích. À, nếu có dịp nào bố ra Bắc thăm chú Tứ, xin bố cho con gửi lời thăm chú ấy vì con giống chú ấy nhất nhà phải không bố?
Một vài chữ vắn tắt như trên, nhưng trên thực tế đã làm cho ông cụ điên lên và bà cụ lăn đùng chết ngất. Ôi trời ơi, thế này thì chúng giết con tôi rồi! Chú Tứ là ai? Chú Tứ là em ông cụ, đã chết vì kiết lỵ trong trại Đầm Đùn hai mươi năm xưa! Còn trong cái "phiếu đặt hàng" chỉ thấy xin toàn émitine và Néomycine là những loại thuốc chữa bệnh kiết lỵ! Con tôi cầm bằng sắp chết vì kiết lỵ trong tù Cộng sản như chú nó rồi trời ơi! Bà mẹ tỉnh dậy giật tóc giật tai giật mình giật mẩy. Nó chẳng xin gì mà chỉ xin muối! Người bố than thở. Chắc nó sợ bọn quỷ nhòm nhò nên không dám xin chà bông, còn những thứ tanh như mắm ruốc người kiết lỵ làm sao ăn được!
Thốt nhiên một buổi sáng đẹp trời, một số tù cải tạo được lệnh lên tiểu đoàn nhận vật dụng cất một nhà kho đặc biệt bên hông văn phòng thủ trưởng trại. Hai ngày sau khi nhà kho được làm xong thì một buổi trưa cả trại nhốn nháo vì có 4 chiếc Molotova có xe hộ tống từ đâu chạy đến đỗ trước văn phòng tiểu đoàn. Từ những kẻ bệnh nặng gần chết nằm nhà đến những người đi lao động quanh quất khu vực tiểu đoàn đều bất động theo dõi biến cố. Quà đến! Tin đồn lan nhanh như ánh bình minh trên những trái tim u ám mệt mỏi.
Khi những tù trực hậu cần được lệnh gấp rút lên tiểu đoàn xuống hàng vào kho thì tin đồn đã trở thành sự thật. Chiều đi lao động về, cả trại hớn hở không khác nào người dân trong một nước Cộng sản khi biết được tin có một lãnh tụ vĩ đại vùa trúng thượng mã phong mà chết.
Tên quản giáo Cư, cũng như hầu hết các quản giáo khác, ngay buổi chiều xuống tận các khối để nói chuyện. Phải thú nhận hôm nay quản giáo Cư có vẻ vui vẻ hơn mọi bữa, vui vẻ pha chút ngậm ngùi khó hiểu. Hắn cho anh em khỏe mạnh ra khênh Vĩnh và những người kiết lỵ nằm ngoài vườn vào ngồi trong nhà để tiện việc lên lớp.
Lúc tất cả đã ngồi đâu vào đó, quản giáo Cư bắt đầu.
- Tôi xa nhà đi chiến đấu đến nay đã 12 năm. Mười hai năm nhận được thư gia đình 4 lần, trong ấy có hai lần báo tin bố tôi và một người thân khác đã qua đời. Riêng chuyện quà cáp chưa bao giờ có!
Nói tới đây Cư ngưng lại nhìn xuống mũi chiếc dép râu, ngậm ngùi tiếp. Do đó, các anh phải nhớ rằng Cách mạng thương các anh vô cùng. Một hai ngày nữa khi quà các anh được nhập sổ và ký nhận xong, trại sẽ sắp xếp cho các anh nghỉ lao động một ngày để lên lãnh quà gia đình. Thay mặt ban chỉ huy trại, tôi cũng nhắc nhở các anh vài điểm như sau.
Thứ nhất, các anh phải tuyệt đối chấp hành nội quy quy định việc nhận quà. Thứ hai, đợt quà đầu tiên này chắc chắn có anh có có anh không. Nhưng với châm ngôn Cách mạng đã đề ra, các cải tạo viên phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, chúng tôi nhắc nhở các anh nên hữu ái với nhau. Hữu ái không có nghĩa là hạt muối chia đôi cục đường lụm cả; mà mỗi thứ mình có, mình nên nhìn lại mà chia xẻ cho những anh em không có, đặc biệt thuốc tây dùng chữa bệnh kiết lỵ và phù thũng... Thứ ba, trại cũng biết các anh gần đây thiếu thốn nhiều thứ, chẳng do chủ trương của nhà nước, mà vì đất nước ta mới giải phóng, khó khăn là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Thế nên Cách mạng cho gia đình gửi quà vào là để gia đình được dịp tiếp tay với Cách mạng tạo thêm điều kiện thuận lợi hơn cho các anh trong học tập cải tạo... Các anh nên hiểu chuyện quà cáp trên cơ sở vừa tình vừa lý như vậy. Trại sẽ nghiêm trị bất cứ kẻ xấu nào xuyên tạc chính sách gửi quà đầy nhân đạo của Cách mạng.
Tên Cư lên lớp đôi ba điều, răn đe đôi ba chuyện rồi rút lui. Bọn tù bò lê ra bàn tán. Vĩnh được khênh trở lại giang sơn là cái võng ngoài vườn của mình.
Chiều chập choạng. Vườn rau chung quanh ngai ngái mùi đất và mùi nước tiểu. Những cây rau dền và những luống cải ngồng xanh tốt cao quá đầu người. Tiếng côn trùng thầm thì rên rỉ như đang tập dượt cho một bản hợp tấu lớn đêm nay... Vĩnh nằm trên võng ngó chênh chếch về hướng những dãy cầu tiêu mà nơi đó có lần một người bạn đã bị bắn chết, đầu óc không ngưng tụ về một điều gì rõ rệt. Mãi một lúc sau những ngôi sao xuất hiện sớm trên bầu trời mới làm Vĩnh nhớ đến một ý nghĩ từng đeo đuổi trước đó... Noel qua rồi! Mà Noel đã qua thì sẽ "ba Vua lễ Nến, Tết đến sau lưng con nít thì mừng người lớn thì lo". Câu đồng dao thuộc từ buổi thiếu thời nay lại trôi về đầu Vĩnh. Vĩnh cố nằm nhớ lại bài thơ Khi Anh Về của Nguyễn Đình Toàn mà nhớ không hết... Khi anh về trời trong và gió mát. Con đường nằm thơm lá mục quê hương. Bầy cải ngồng dỗ ong bướm về sân. Anh nằm đây buổi trưa và tiếng nắng... Rồi Tết đến rồi lòng anh nhớ quá!...
Bài thơ chẳng nhớ hết những cũng làm Vĩnh bồi hồi xúc động. Chao ôi, cái nhớ nhung trong trưa nắng của NDT giờ đang là cái tái tê của buổi chiều tàn quanh Vĩnh. Nơi đây cũng có cải ngồng, cũng vo ve tiếng ong, nhưng cái Tết thì nghe xa vời như mình chỉ từng trải qua ở một kiếp nào khác!... Rồi tết đến rồi lòng anh nhớ quá!... Chao ôi, liệu Tết sẽ còn có đến nơi đây chăng? Hay chỉ là một trời tang thương, không thơ không mộng, là thân tàn ma dại kiếp nửa thú nửa người!?
Đôi ba người bạn chợt ghé thăm để thay nhau tặng Vĩnh ít câu chuyện vui cười. Rồi thì trước khi Vĩnh thiếp đi, anh còn nghe thấy một tay khe khẽ nói với một tay khác: thằng này chắc tiêu!...
Sáng hôm sau cả trại ngẩn người vì lệnh cho nghỉ tại trại để sửa soạn lãnh quà ban ra sớm hơn mọi người dự tính. Cả trại bùng lên một khí thế khác thường. Các khối trưởng đều phải lên tiểu đoàn thật sớm để cùng quản giáo sắp xếp danh sách. Tù cải tạo bên trong trại thấp thỏm chờ quà như chờ mẹ về chợ! Phải tới 10 giờ sáng thì đợt người đầu tiên của khối 2 mới được khối trưởng thông báo xếp hàng lên tiểu đoàn. Đúng như Ngô Văn Tuyên nói, bọn bệnh nặng được gọi tên trước, trong đó có Vĩnh.
Dù sao, những gói quà có một phép màu dị thường. Có những người nằm như sắp chết bỗng dưng bật dậy khi nghe thấy tên mình được gọi. Vĩnh nhập bọn ghẻ chóc, phù thũng và kiết lỵ đầu tiên đi lên tiểu đoàn. Bạn bè các khối biết tin Vĩnh đi lãnh quà đều nhào đến chia mừng. Nguyễn Đình Tạc, người thường hay bi quan cho sức khỏe của Vĩnh, chận ngay lối đi.
- Trời cứu mày đó Vĩnh ơi!
Đính đứng cạnh, cười.
- Chứ chẳng lẽ Bác và Đảng!?
Đặng Thế Tiến từ đâu chạy đến.
- Ê Vĩnh! lả trước vài phùa đi mày! Lên tiểu đoàn bày ra đó coi không được đâu!
Vĩnh bước đi. Cây gậy trong tay cầm không muốn nổi. Anh chỉ ngó các bạn cười khẽ. Sau cùng anh cũng trả lời.
- Ráng đổ cứt cho tao, có bánh tao sẽ cho ăn lá, có kẹo tao sẽ cho ăn giấy.
Tiến quay sang nói với Hóa.
- Mẹ kiếp! Nó còn đểu như thế mà mày bảo nó tiêu sao được. Thằng ấy trời đánh không chết. Lenin, Stalin và... Amibe hạ nó sao nổi!
Vĩnh bước đi mà còn nghe vẳng sau lưng tiếng cười vui của các bạn.
Đoạn đường từ khối lên tới tiểu đoàn không xa, chừng trăm thước, thế mà đám tù bệnh cũng lết gần 10 phút. Lúc tới gần địa điểm phát quà, Vĩnh thấy một tổ tù khác đang khập khễnh khênh quà về trại. Gặp nhau giữa đường chẳng ai buồn hỏi ai. Nhìn vóc dáng của nhau, cả hai bên đều biết kẻ đối diện với mình đều là những thằng bệnh sắp chết. Sau cùng khối trưởng Trai dẫn đám Vĩnh tới địa điểm phát quà. Nơi ấy lũ quản giáo đều hiện diện đầy đủ. Ngay trước nhà kho, một chiếc bàn dài có ba tên bộ đội ngồi giữ sổ sách. Tên hậu cần được lệnh mở cửa kho. Cửa kho vừa mở đã có ba bốn con chuột từ trong phóng ra.
Một thằng bạn bệnh thầm thì.
- Chuột như thế chắc quà bên trong bị khoét tùm lum!
Một giọng khác.
- Giỏi lắm nó chỉ nuốt được tí mắm ruốc, tí đường, tí tôm khô. Những con chuột đứng lù lù kia kìa. Người đang nói chợt chỉ tay về phía bọn cán bộ, tiếp. Đấy, loài chuột ấy mới ghê gớm. Chúng nuốt cả giang sơn gấm vóc và sự tự do của chúng ta...
Thấy anh bạn bốc đồng chửi hơi nặng, người lên tiếng than vụ chuột nín khe luôn.
Tên hậu cần sau khi mở kho, tay cầm một danh sách tiến đến bên bàn và nói.
- Theo đúng nội quy quy định việc nhận quà, giờ gọi ai người ấy lên trước bàn để được kiểm tra quà trước khi ký nhận. Các anh nghe rõ cả chưa?
Chẳng thằng tù nào thèm trả lời. Và nhìn mấy thằng "ngụy" toàn những thứ chết dở sống dở, tên hậu cần cũng không buồn mắng mỏ làm gì. Hắn xướng tên. Vĩnh nằm vào đợt thứ hai. Khi nghe thấy tên, như mọi người trước đó, anh tiến tới trước bàn. Gói quà được chuyển từ kho đặt lên bàn. Khối trưởng Trai đích thân mở gói quà trước sự chứng giám của ba cặp mắt cú vọ: Một của tên quản giáo, một của tên cán bộ hậu cần và một của chính người nhận.
Tên quản giáo Cư từ trước đã không ưa Vĩnh do cái vụ sách báo, dù nay anh bệnh gần chết, đôi mắt hắn do đó nhìn Vĩnh với đầy ác cảm pha chút thắc mắc tại sao giờ đây cái thằng phản động này vẫn chưa chết!?
Gói quà đã được mở banh ra. Từ thùng đến tờ giấy gói được xem xét kỹ lưỡng như người ta nghiên cứ những tờ bạc giả. Tên Cư cầm lên tờ kê khai các món có trong thùng quà. Hắn quay sang khối trưởng Trai.
- Tôi đọc món nào anh mở món đó kiểm tra nghe chưa?
- Dạ.
- Một cân nạc xưởng!
Xướng xong hắn nhìn soi mói vào thùng quà, hỏi lớn. Nạc xưởng nà cái rì?
- Dạ đây. Khối trưởng Trai vừa nói vừa vội vã giơ lên cân lạc xưởng mập căng và đỏ au mà giờ đây tưởng như chẳng có cặp môi tươi thắm của một giai nhân nào lại có thể quyến rũ đến như thế.
Tên Cư hỏi gằn.
- Món ăn hả? Làm sao ăn?
- Dạ nướng, chiên hoặc hấp cơm cũng được.
Tên hậu cần chợt bỉu môi ra chiều khinh bỉ.
- Ăn với uống! Toàn những thứ phức tạp!
Tên quản giáo lại xướng.
- Một non muối mè!
Khối trưởng Trai lại giơ lon guigoz đựng muối mè lên. Anh đặt nó sang một bên. Tên hậu cần giục.
- Mở ra kiểm tra chứ để đó làm gì?
Lon muối mè được mở ra và một que đũa được thọc vào. Que đũa bị khựng lại lưng chừng. Tên quản giáo Cư nét mặt đầy cảnh giác vội lên tiếng.
- Có gì trong ấy nữa đây? Đổ ra xem!
Khối trưởng Trai tuân lệnh đổ lon muối mè ra một tấm giấy dầu. Muối mè mới đổ ra chừng nửa bát thì tắc nghẽn không ra được nữa. Hai cặp mắt nghi ngờ chạm vào một cặp mắt hoảng hốt.
- Đập mạnh xem nào! Tên hậu cần ra lệnh.
Khối trưởng Trai đập mạnh lon muối mè xuống tờ giấy. Muối mè vẫn không chịu ra. Anh nhìn vào trong lon, cố dấu một nụ cười rồi thò tay vào lôi ra. Chà bông trong lon được nén đến độ đóng thành một khối cứng.
Tên Cư nhăn mặt.
- Cái quỷ gì vậy?
- Dạ chà bông.
- Chà bông là cái gì? Tên quản giáo vừa hỏi vừa bốc một chút lên ngửi.
- Dạ... là thịt heo kho khô, xé nhỏ, đánh tơi và sấy thật kỹ...
- Phải ăn chung với muối vừng à?
Khối trưởng Trai dạ đại một tiếng cho xong chuyện. Tên hậu cần lại lắc đầu lập lại câu nói cũ.
- Ăn với uống! Toàn những thứ phức tạp!
Giọng tên Cư.
- Hai che... che... che mi se là cái gì?
Khối trưởng Trai biết ngay là hai cái chemises mà người gửi đã không phiên âm sang tiếng Việt. Anh giơ hai cái áo lên và nói vội vã.
- Dạ hai cái che-mi-se là hai cái áo sơ-mi này đây!
Tên Cư lắc đầu cằn nhằn.
- Sơ-mi thì viết là sơ-mi. Che che với đậy đậy!...
Những món kế tiếp là thuốc tây đủ loại, từ thuốc cảm, dầu nóng đến thuốc bổ và các loại trụ sinh chữa kiết lỵ phù thũng hảo hạng của... đế quốc Mỹ bị ba Tàu ếm nên mất dịp du lịch sang Angola. Chưa hết, gói quà còn nhiều món rất phản động khác nữa. Một cân đường cát trắng. Một gói cà phê. Một lon sữa bột guigoz. Vài gói 555 lại còn đèo thêm một hộp bơ Đồng Tiền và một hộp phô mai Đầu Bò nữa.
Vĩnh liếc qua đống quà. Anh nhẩm tính thấy trọng lượng có thể đã trên 5 kgs.
Giọng cả quýnh của tên hậu cần trại lại khẽ cất lên.
- Gớm, xét trên cơ bản, gia đình anh này chưa tiến bộ nhiều lắm. Vẫn nổi lên cái mặt bơ thừa sữa cặn đấy nhá!
Tên quản giáo Cư có lẽ cũng biết còn rất nhiều "thân chủ" khác chờ mình, nên hắn nhìn Vĩnh xua tay như đuổi.
- Được rồi. Cho thu vào!
Ngoại trừ giấy gói, hộp và lá thư phải để lại; kỳ dư Vĩnh được nhận hết. Anh vội vã thu vén mọi thứ bỏ vào một cái bao nylon lớn. Vĩnh làm thật mau tuồng như ngại tên quản giáo có thể đổi ý vào phút cuối. Xong đâu đấy, Vĩnh run tay cầm bút ký nhận đủ vào tấm phiếu gửi của gia đình có nét chữ mềm mại quen thuộc của vợ.
Anh cố gắng khênh gói quà rời khỏi bàn và ngồi dưới đất nhập bọn với những người đã được nhận quà như anh. Phải đợi cả toán được nhận xong, khối trưởng Trai mới dẫn một lượt trở về khối. Ngồi xuống đất rồi Vĩnh mới thấy mệt. Nghĩ tới căn bệnh trong người, chưa cần biết rõ thuốc phải uống thế nào. Vĩnh moi ngay một viên Néomycine cho vào miệng nuốt chững. Vài phút sau Vĩnh thấy choáng váng vì sức mạnh của viên thuốc. Anh ngồi gục đầu xuống hai đầu gối cho đỡ mệt. Những hình ảnh hỗn tạp lại trôi qua đầu óc anh... Các bưu điện trên toàn cõi miền Nam suốt ngày ngập người. Họ phải nối đuôi nhau thành những hàng dài bất tận, dưới nắng cũng như dưới mưa, chờ đến lượt được gửi đi những món quà cho thân nhân đang hấp hối vì phù thũng và kiết lỵ trong lao tù Cộng sản...
Một tiếng động mạnh chen với tiếng cằn nhằn lớn giọng của tên quản giáo nhận quà làm Vĩnh bừng tỉnh. Vĩnh lắng tai nghe.
- Cái này là cái gì? Không ích lợi gì cho một cải tạo viên! Để ra kia, khung sẽ nghiên cứu...
Giọng khối trưởng Trai nhỏ nhẹ.
- Thưa đó chỉ là cái pipe.
- Pipe là cái gì mới được chứ?
- Dạ là cái ống vố, còn gọi là tẩu, để hút thuốc.
Tên Cư lẩm bẩm.
- Tẩu xưa kia tây đồn điền nó mới hút. Vả lại cái tẩu gì mà mất vệ sinh, mất văn hóa, cái tẩu gì mà trông như cái mông chị nữ thế kia? Lại còn nhận thêm hai con mắt vào đấy nữa!
-.....!
- Mở luôn cái hộp kia ra xem nào!
Vĩnh nhìn thấy khối trưởng Trai cầm lên một cái hộp tròn nhỏ. Anh nhìn kỹ hơn và nhận ra nó là một hộp Dunhill, thuốc dùng hút pipe. Khối trưởng Trai mở ra. Vĩnh thoáng thấy mặt anh ta hơi đần lại, mắt lim dim và mũi hinh hỉnh. Có lẽ khối trưởng Trai đang tận hưởng cái hương thơm ma quái của thuốc Ăng-Lê.
Tên Cư giơ tay cầm lấy hộp thuốc. Hắn ngửi rồi bốc lên một chút nhìn cho rõ.
- Cũng thơm ra phết đấy chứ. Nhưng chợt nhận ra cái màu sắc của thuốc vàng đen lẫn lộn, hắn nhăn mặt. Cái này chắc chắn có trộn ma túy. Tôi giữ lại để khung nghiên cứu.
Hộp thuốc và cái pipe của một anh bạn nào đó trên lý thuyết đã được Cách mạng chiếu cố để nghiên cứu, nhưng trên thực tế đã thật sự thay đổi chủ nhân từ giây phút ấy.
Hơn 15 phút sau cả toán mới được khối trưởng Trai tập hợp so hàng dẫn trở về khối. Bệnh hoạn đi một mình chưa nổi, giờ mỗi người lại còn đèo bồng thêm năm sáu ký quà thành thử tay nào tay nấy lê lết trên đường. Mãi khi vào tới bên trong hàng rào trại, bọn Vĩnh mới được bạn bè nhào ra khênh tiếp sức. Đính ôm gói quà giùm Vĩnh. Về tới phòng, việc đầu tiên Vĩnh lết ra giếng thay quần đùi. Anh mệt nhọc khôn lường. Đính phải chạy theo dìu Vĩnh trở lại phòng. Vĩnh cố gắng lôi hết mớ quà cáp ra để trên sàn nhà. Đám bạn bè thân thiết của Vĩnh xúm lại. Vĩnh hiểu tụi nó thèm gì. Đầu tiên anh mở hộp đường cát trắng ra rồi bóc luôn hai gói 555. Vĩnh thều thào.
- Xin chúng mày cứ tự nhiên như người Hà Lội...
Giọng Tạc bất nhẫn kêu lên.
- Không được. Tất cả đồ ăn phải để cho mày tẩm bổ. Tụi tao chỉ có quyền hút ăn mày của mày mỗi thằng một điếu 555 cho thơm mõm thôi...
Hóa từ ngoài chợt hốt hoảng chạy vào.
- Thằng Vĩnh về rồi hả? Có thuốc lào không?
Đính trả lời thay Vĩnh.
- Vợ nó chắc sợ nó hôi mồm nên không cho hút thuốc lào, chỉ có ba số 5 thôi, làm một điếu cho thơm râu thì làm.
Tiến xà xuống ngồi. Nó cầm lấy một điếu 555, miệng lẩm bẩm.
- Vợ mày đúng là một con mụ chậm tiến. Giờ này còn chơi cái của tư sản... thơm tho này!
Vĩnh quá mệt. Anh không muốn tham dự tí nào vào những câu chuyện của bạn bè lúc này. Anh nhẹ ngả lưng xuống và nhìn qua kẽ hở trên vách. Trời xanh ngắt. Một vài áng mây bay nhàn nhã về một phía mà anh nghĩ đó là phía Sài Gòn. Thốt nhiên trên vầng mây ấy anh nhìn ra khuôn mặt của vợ con. Vĩnh ngậm ngùi tự hỏi lòng: Con ta rồi sẽ chết thèm chết nhạt bao lâu vì gói quà này?
Bỗng một tiếng khóc hưng hức bên góc nhà đối diện cất lên. Mọi người ngỡ ngàng ngó sang. Lê Văn Thống, anh bạn đồng bệnh của Vĩnh ngồi với gói quà trên đùi. Anh ta đang mân mê gói quà, khóc nghẹn và mắt trừng trừng nhìn ra ngoài sân. Vĩnh cố gượng ngồi lên. Anh ngó sang Thống. Trông Thống ủ rũ như một cái hình nộm hết thời, nhưng trong đôi mắt đang hực lên của anh ta, Vĩnh có thể đọc được muôn vạn lời...
Tỷ như chúng vơ vét thuốc tây để cung cấp cho đồng bào ruột thịt miền Bắc đang cần thiết thì cũng lấy làm vui; đàng này, dân ngoài Bắc mánh mung chạy được vào trong Nam thăm người thân, câu đầu tiên vẫn là có thuốc tây không? Kế tiếp mới là những câu xin xỏ xe đạp, radio, áo len, mùng mền...
Như vậy cả một núi thuốc tây ở miền Nam sau 30 tháng Tư chạy đi đâu?
Thời gian này 100 người dân miền Nam thì hết 99 người, trừ một người sau cùng bị câm, đều phát chửi thề vì một bản tin đăng trên các báo lá cải của nhà nước Cộng sản, hoan hỉ loan đi một cái tin như sau: "... Chính phủ và nhân dân ta, trong tình quốc tế vô sản, tình ruột thịt với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, gần đây đã quyết định gửi giúp chính phủ và nhân dân Angola một tàu thuốc tây đủ loại. Chuyến tàu hữu nghị đã rời cảng Hải Phòng ngày...".
Thêm vào đó, bọn Tàu Chợ Lớn cũng ra tay bạo tàn không kém. Ngoài những số thuốc tây khổng lồ bị Việt cộng vơ vét vào kho của chúng, một số lớn còn lại cũng chui luôn vào kho của ba Tàu. Khi có dịp, chúng tung ra bán với giá cắt cổ và tiền bạc của người dân miền Nam lại có dịp chui vào túi chúng để có thuốc tây mà lo cho người thân.
Trong hoàn cảnh như thế, người ở nhà bắt đầu nhận được thư của thân nhân từ các trại cải tạo gửi về. Dĩ nhiên những lá thư đó không tỏ lộ được chút nào địa danh thân nhân họ đang bị đày đọa và nội dung các bức thư hầu như đều tương tự nhau về... cách hành văn: Ngắn gọn và đầy những lời lẽ giả dối. Sao lại lạ thường dường này? Người đọc thư không thể không kinh ngạc. Chả nhẽ mới nửa năm xa cách mà thân nhân mình lại giở trò tiến bộ với cả cha mẹ vợ con nhanh đến thế sao? Cái gì mà nhờ ơn Đảng, nhờ ơn nhà nước? Rồi đến tên các thứ thuốc tây! Sao lạ tai lạ mắt và khó đọc như thế này? Chả nhẽ mới đó đã quên cả tên những món thuốc tây thông dụng? Nào là Át-sờ-pi-rin-nờ, Xờ-tờ-rép-tô-mi-xin-nờ, sa-côn-lờ, nào là bê-oong-đờ-xăng-mi-li-gờ-ram-mờ, ê-mi-tin-nờ... Thôi thì đủ thứ loại những chữ phiên âm dị thường.
Người ở nhà, hỡi ơi, đâu biết rằng nội cái vụ viết thư thôi, chồng cha anh con của họ đã phải lên lớp, phải thảo luận, phải thu hoạch về bài học dạy cách viết thư trong xã hội mới. Bài học này cũng có hai phần mục đích và yêu cầu như tất cả các bài học chính trị khác. Mục đích là: Xã hội ta việc viết thư từ cho nhau không nhằm phô bày cái mặt tiêu cực của tình cảm ủy mị con người, mà biên thư là để động viên lẫn nhau, để cùng nhau củng cố niềm tin vào Đảng và Cách mạng... Yêu cầu là: Phải áp dụng nghiêm túc nội quy quy định trong việc viết thư về gia đình...
Nội quy thì nhiều điểm lắm, nhưng một vài lá thư sau đây có thể là những lá thư tiêu biểu đã đạt yêu cầu phần nào về cả hai mặt ý thức tốt được mục đích và ứng dụng tốt được yêu cầu của Cách mạng trong việc viết thư về gia đình xin viện trợ thuốc men...
Sau đây là nội dung lá thư của một anh bị phù thũng gửi về cho vợ.
Em thương yêu, Anh khỏe lắm em ạ. Em và các con đừng lo gì cho anh cả nhé. Ngày hồ hởi phấn khởi lao động, đêm về không trác táng rượu chè như xưa, trong khi lại được Cách mạng lo cho vô cùng đầy đủ từ vật chất đến tinh thần nên hiện nay anh mập phì ra.
Hôm nay Cách mạng chiếu cố cho biên thư về thăm gia đình, lại còn cho thông báo gia đình được gửi vào 3 cân quà và thuốc tây để trong này anh có thêm cái dùng. Nói thật với em thực tế anh cũng chẳng cần gì đâu, nhưng nếu được, em nhớ gửi cho anh vài món như sau:
- 3 bánh thuốc lào. - 2 cân đường thẻ. - 1 cân đường cát vắt sẵn chanh. - Đặc biệt Bê-oong (B1) loại mạnh nhất.
Anh, Nguyễn Văn A.
TB. Tuyệt đối đừng gửi đồ mặn. Đặc biệt thịt thà là cái anh không thích. TB lần nữa. Nhớ trong vòng 3 cân thôi. Đừng nặng hơn kẻo vi phạm quy định. Tốt nhất em đọc kỹ thông cáo của nhà nước trên các báo!
Biết bao đêm thức trắng dằn vặt lo âu cho nhau, chồng biên thư cho vợ ân tình buộc phải gói ghém vào từng đó chữ. Ở nhà, người vợ dù có thật thà đến đâu cũng khóc ngất vì đã quá rõ chồng mình "mập phì" có nghĩa là thế nào. Toàn xin đồ ngọt mà không dám xin lấy một tí đồ mặn, lại còn dặn phải gửi Vitamin B.1 loại mạnh nữa chứ!
Sau đây là nội dung lá thư của một anh bị kiết lỵ gửi về cho cha mẹ.
Bố mẹ thương yêu, Thấm thoát con đã đi học tập cải tạo được nửa năm rồi. Dù lúc nào con cũng nhớ tới bố mẹ và các em nhưng vì ý thức được đi học tập cải tạo là nghĩa vụ nên con luôn phấn đấu biến sự thương nhớ ấy thành hành động cụ thể là học tập tiến bộ để sớm được Cách mạng cho về đoàn tụ gia đình.
Riêng phần bố mẹ đừng quá lo cho con. Trong này con rất đầy đủ. Cách mạng không để thiếu thốn gì cả. Nhân đây con cũng báo tin để bố mẹ rõ là trại cho phép gia đình gửi vào cho con 3 cân quà và thuốc men cần dùng. Nếu được, xin bố mẹ gửi cho con vài thứ như sau.
- 1 hộp muối vừng lạc. - 1 cân đường thẻ. - 1 cân muối trắng trộn tiêu hoặc ớt bột. - 2 hộp Nê-ô-mi-xin-nờ và 10 ống Xờ-tờ-rích-nin-nờ
Kính thư, Con, Trần Văn B.
TB. Tuyệt đối xin bố mẹ đừng gửi đồ tanh như mắm tôm mắm ruốc. Con không thích. À, nếu có dịp nào bố ra Bắc thăm chú Tứ, xin bố cho con gửi lời thăm chú ấy vì con giống chú ấy nhất nhà phải không bố?
Một vài chữ vắn tắt như trên, nhưng trên thực tế đã làm cho ông cụ điên lên và bà cụ lăn đùng chết ngất. Ôi trời ơi, thế này thì chúng giết con tôi rồi! Chú Tứ là ai? Chú Tứ là em ông cụ, đã chết vì kiết lỵ trong trại Đầm Đùn hai mươi năm xưa! Còn trong cái "phiếu đặt hàng" chỉ thấy xin toàn émitine và Néomycine là những loại thuốc chữa bệnh kiết lỵ! Con tôi cầm bằng sắp chết vì kiết lỵ trong tù Cộng sản như chú nó rồi trời ơi! Bà mẹ tỉnh dậy giật tóc giật tai giật mình giật mẩy. Nó chẳng xin gì mà chỉ xin muối! Người bố than thở. Chắc nó sợ bọn quỷ nhòm nhò nên không dám xin chà bông, còn những thứ tanh như mắm ruốc người kiết lỵ làm sao ăn được!
Thốt nhiên một buổi sáng đẹp trời, một số tù cải tạo được lệnh lên tiểu đoàn nhận vật dụng cất một nhà kho đặc biệt bên hông văn phòng thủ trưởng trại. Hai ngày sau khi nhà kho được làm xong thì một buổi trưa cả trại nhốn nháo vì có 4 chiếc Molotova có xe hộ tống từ đâu chạy đến đỗ trước văn phòng tiểu đoàn. Từ những kẻ bệnh nặng gần chết nằm nhà đến những người đi lao động quanh quất khu vực tiểu đoàn đều bất động theo dõi biến cố. Quà đến! Tin đồn lan nhanh như ánh bình minh trên những trái tim u ám mệt mỏi.
Khi những tù trực hậu cần được lệnh gấp rút lên tiểu đoàn xuống hàng vào kho thì tin đồn đã trở thành sự thật. Chiều đi lao động về, cả trại hớn hở không khác nào người dân trong một nước Cộng sản khi biết được tin có một lãnh tụ vĩ đại vùa trúng thượng mã phong mà chết.
Tên quản giáo Cư, cũng như hầu hết các quản giáo khác, ngay buổi chiều xuống tận các khối để nói chuyện. Phải thú nhận hôm nay quản giáo Cư có vẻ vui vẻ hơn mọi bữa, vui vẻ pha chút ngậm ngùi khó hiểu. Hắn cho anh em khỏe mạnh ra khênh Vĩnh và những người kiết lỵ nằm ngoài vườn vào ngồi trong nhà để tiện việc lên lớp.
Lúc tất cả đã ngồi đâu vào đó, quản giáo Cư bắt đầu.
- Tôi xa nhà đi chiến đấu đến nay đã 12 năm. Mười hai năm nhận được thư gia đình 4 lần, trong ấy có hai lần báo tin bố tôi và một người thân khác đã qua đời. Riêng chuyện quà cáp chưa bao giờ có!
Nói tới đây Cư ngưng lại nhìn xuống mũi chiếc dép râu, ngậm ngùi tiếp. Do đó, các anh phải nhớ rằng Cách mạng thương các anh vô cùng. Một hai ngày nữa khi quà các anh được nhập sổ và ký nhận xong, trại sẽ sắp xếp cho các anh nghỉ lao động một ngày để lên lãnh quà gia đình. Thay mặt ban chỉ huy trại, tôi cũng nhắc nhở các anh vài điểm như sau.
Thứ nhất, các anh phải tuyệt đối chấp hành nội quy quy định việc nhận quà. Thứ hai, đợt quà đầu tiên này chắc chắn có anh có có anh không. Nhưng với châm ngôn Cách mạng đã đề ra, các cải tạo viên phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, chúng tôi nhắc nhở các anh nên hữu ái với nhau. Hữu ái không có nghĩa là hạt muối chia đôi cục đường lụm cả; mà mỗi thứ mình có, mình nên nhìn lại mà chia xẻ cho những anh em không có, đặc biệt thuốc tây dùng chữa bệnh kiết lỵ và phù thũng... Thứ ba, trại cũng biết các anh gần đây thiếu thốn nhiều thứ, chẳng do chủ trương của nhà nước, mà vì đất nước ta mới giải phóng, khó khăn là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Thế nên Cách mạng cho gia đình gửi quà vào là để gia đình được dịp tiếp tay với Cách mạng tạo thêm điều kiện thuận lợi hơn cho các anh trong học tập cải tạo... Các anh nên hiểu chuyện quà cáp trên cơ sở vừa tình vừa lý như vậy. Trại sẽ nghiêm trị bất cứ kẻ xấu nào xuyên tạc chính sách gửi quà đầy nhân đạo của Cách mạng.
Tên Cư lên lớp đôi ba điều, răn đe đôi ba chuyện rồi rút lui. Bọn tù bò lê ra bàn tán. Vĩnh được khênh trở lại giang sơn là cái võng ngoài vườn của mình.
Chiều chập choạng. Vườn rau chung quanh ngai ngái mùi đất và mùi nước tiểu. Những cây rau dền và những luống cải ngồng xanh tốt cao quá đầu người. Tiếng côn trùng thầm thì rên rỉ như đang tập dượt cho một bản hợp tấu lớn đêm nay... Vĩnh nằm trên võng ngó chênh chếch về hướng những dãy cầu tiêu mà nơi đó có lần một người bạn đã bị bắn chết, đầu óc không ngưng tụ về một điều gì rõ rệt. Mãi một lúc sau những ngôi sao xuất hiện sớm trên bầu trời mới làm Vĩnh nhớ đến một ý nghĩ từng đeo đuổi trước đó... Noel qua rồi! Mà Noel đã qua thì sẽ "ba Vua lễ Nến, Tết đến sau lưng con nít thì mừng người lớn thì lo". Câu đồng dao thuộc từ buổi thiếu thời nay lại trôi về đầu Vĩnh. Vĩnh cố nằm nhớ lại bài thơ Khi Anh Về của Nguyễn Đình Toàn mà nhớ không hết... Khi anh về trời trong và gió mát. Con đường nằm thơm lá mục quê hương. Bầy cải ngồng dỗ ong bướm về sân. Anh nằm đây buổi trưa và tiếng nắng... Rồi Tết đến rồi lòng anh nhớ quá!...
Bài thơ chẳng nhớ hết những cũng làm Vĩnh bồi hồi xúc động. Chao ôi, cái nhớ nhung trong trưa nắng của NDT giờ đang là cái tái tê của buổi chiều tàn quanh Vĩnh. Nơi đây cũng có cải ngồng, cũng vo ve tiếng ong, nhưng cái Tết thì nghe xa vời như mình chỉ từng trải qua ở một kiếp nào khác!... Rồi tết đến rồi lòng anh nhớ quá!... Chao ôi, liệu Tết sẽ còn có đến nơi đây chăng? Hay chỉ là một trời tang thương, không thơ không mộng, là thân tàn ma dại kiếp nửa thú nửa người!?
Đôi ba người bạn chợt ghé thăm để thay nhau tặng Vĩnh ít câu chuyện vui cười. Rồi thì trước khi Vĩnh thiếp đi, anh còn nghe thấy một tay khe khẽ nói với một tay khác: thằng này chắc tiêu!...
Sáng hôm sau cả trại ngẩn người vì lệnh cho nghỉ tại trại để sửa soạn lãnh quà ban ra sớm hơn mọi người dự tính. Cả trại bùng lên một khí thế khác thường. Các khối trưởng đều phải lên tiểu đoàn thật sớm để cùng quản giáo sắp xếp danh sách. Tù cải tạo bên trong trại thấp thỏm chờ quà như chờ mẹ về chợ! Phải tới 10 giờ sáng thì đợt người đầu tiên của khối 2 mới được khối trưởng thông báo xếp hàng lên tiểu đoàn. Đúng như Ngô Văn Tuyên nói, bọn bệnh nặng được gọi tên trước, trong đó có Vĩnh.
Dù sao, những gói quà có một phép màu dị thường. Có những người nằm như sắp chết bỗng dưng bật dậy khi nghe thấy tên mình được gọi. Vĩnh nhập bọn ghẻ chóc, phù thũng và kiết lỵ đầu tiên đi lên tiểu đoàn. Bạn bè các khối biết tin Vĩnh đi lãnh quà đều nhào đến chia mừng. Nguyễn Đình Tạc, người thường hay bi quan cho sức khỏe của Vĩnh, chận ngay lối đi.
- Trời cứu mày đó Vĩnh ơi!
Đính đứng cạnh, cười.
- Chứ chẳng lẽ Bác và Đảng!?
Đặng Thế Tiến từ đâu chạy đến.
- Ê Vĩnh! lả trước vài phùa đi mày! Lên tiểu đoàn bày ra đó coi không được đâu!
Vĩnh bước đi. Cây gậy trong tay cầm không muốn nổi. Anh chỉ ngó các bạn cười khẽ. Sau cùng anh cũng trả lời.
- Ráng đổ cứt cho tao, có bánh tao sẽ cho ăn lá, có kẹo tao sẽ cho ăn giấy.
Tiến quay sang nói với Hóa.
- Mẹ kiếp! Nó còn đểu như thế mà mày bảo nó tiêu sao được. Thằng ấy trời đánh không chết. Lenin, Stalin và... Amibe hạ nó sao nổi!
Vĩnh bước đi mà còn nghe vẳng sau lưng tiếng cười vui của các bạn.
Đoạn đường từ khối lên tới tiểu đoàn không xa, chừng trăm thước, thế mà đám tù bệnh cũng lết gần 10 phút. Lúc tới gần địa điểm phát quà, Vĩnh thấy một tổ tù khác đang khập khễnh khênh quà về trại. Gặp nhau giữa đường chẳng ai buồn hỏi ai. Nhìn vóc dáng của nhau, cả hai bên đều biết kẻ đối diện với mình đều là những thằng bệnh sắp chết. Sau cùng khối trưởng Trai dẫn đám Vĩnh tới địa điểm phát quà. Nơi ấy lũ quản giáo đều hiện diện đầy đủ. Ngay trước nhà kho, một chiếc bàn dài có ba tên bộ đội ngồi giữ sổ sách. Tên hậu cần được lệnh mở cửa kho. Cửa kho vừa mở đã có ba bốn con chuột từ trong phóng ra.
Một thằng bạn bệnh thầm thì.
- Chuột như thế chắc quà bên trong bị khoét tùm lum!
Một giọng khác.
- Giỏi lắm nó chỉ nuốt được tí mắm ruốc, tí đường, tí tôm khô. Những con chuột đứng lù lù kia kìa. Người đang nói chợt chỉ tay về phía bọn cán bộ, tiếp. Đấy, loài chuột ấy mới ghê gớm. Chúng nuốt cả giang sơn gấm vóc và sự tự do của chúng ta...
Thấy anh bạn bốc đồng chửi hơi nặng, người lên tiếng than vụ chuột nín khe luôn.
Tên hậu cần sau khi mở kho, tay cầm một danh sách tiến đến bên bàn và nói.
- Theo đúng nội quy quy định việc nhận quà, giờ gọi ai người ấy lên trước bàn để được kiểm tra quà trước khi ký nhận. Các anh nghe rõ cả chưa?
Chẳng thằng tù nào thèm trả lời. Và nhìn mấy thằng "ngụy" toàn những thứ chết dở sống dở, tên hậu cần cũng không buồn mắng mỏ làm gì. Hắn xướng tên. Vĩnh nằm vào đợt thứ hai. Khi nghe thấy tên, như mọi người trước đó, anh tiến tới trước bàn. Gói quà được chuyển từ kho đặt lên bàn. Khối trưởng Trai đích thân mở gói quà trước sự chứng giám của ba cặp mắt cú vọ: Một của tên quản giáo, một của tên cán bộ hậu cần và một của chính người nhận.
Tên quản giáo Cư từ trước đã không ưa Vĩnh do cái vụ sách báo, dù nay anh bệnh gần chết, đôi mắt hắn do đó nhìn Vĩnh với đầy ác cảm pha chút thắc mắc tại sao giờ đây cái thằng phản động này vẫn chưa chết!?
Gói quà đã được mở banh ra. Từ thùng đến tờ giấy gói được xem xét kỹ lưỡng như người ta nghiên cứ những tờ bạc giả. Tên Cư cầm lên tờ kê khai các món có trong thùng quà. Hắn quay sang khối trưởng Trai.
- Tôi đọc món nào anh mở món đó kiểm tra nghe chưa?
- Dạ.
- Một cân nạc xưởng!
Xướng xong hắn nhìn soi mói vào thùng quà, hỏi lớn. Nạc xưởng nà cái rì?
- Dạ đây. Khối trưởng Trai vừa nói vừa vội vã giơ lên cân lạc xưởng mập căng và đỏ au mà giờ đây tưởng như chẳng có cặp môi tươi thắm của một giai nhân nào lại có thể quyến rũ đến như thế.
Tên Cư hỏi gằn.
- Món ăn hả? Làm sao ăn?
- Dạ nướng, chiên hoặc hấp cơm cũng được.
Tên hậu cần chợt bỉu môi ra chiều khinh bỉ.
- Ăn với uống! Toàn những thứ phức tạp!
Tên quản giáo lại xướng.
- Một non muối mè!
Khối trưởng Trai lại giơ lon guigoz đựng muối mè lên. Anh đặt nó sang một bên. Tên hậu cần giục.
- Mở ra kiểm tra chứ để đó làm gì?
Lon muối mè được mở ra và một que đũa được thọc vào. Que đũa bị khựng lại lưng chừng. Tên quản giáo Cư nét mặt đầy cảnh giác vội lên tiếng.
- Có gì trong ấy nữa đây? Đổ ra xem!
Khối trưởng Trai tuân lệnh đổ lon muối mè ra một tấm giấy dầu. Muối mè mới đổ ra chừng nửa bát thì tắc nghẽn không ra được nữa. Hai cặp mắt nghi ngờ chạm vào một cặp mắt hoảng hốt.
- Đập mạnh xem nào! Tên hậu cần ra lệnh.
Khối trưởng Trai đập mạnh lon muối mè xuống tờ giấy. Muối mè vẫn không chịu ra. Anh nhìn vào trong lon, cố dấu một nụ cười rồi thò tay vào lôi ra. Chà bông trong lon được nén đến độ đóng thành một khối cứng.
Tên Cư nhăn mặt.
- Cái quỷ gì vậy?
- Dạ chà bông.
- Chà bông là cái gì? Tên quản giáo vừa hỏi vừa bốc một chút lên ngửi.
- Dạ... là thịt heo kho khô, xé nhỏ, đánh tơi và sấy thật kỹ...
- Phải ăn chung với muối vừng à?
Khối trưởng Trai dạ đại một tiếng cho xong chuyện. Tên hậu cần lại lắc đầu lập lại câu nói cũ.
- Ăn với uống! Toàn những thứ phức tạp!
Giọng tên Cư.
- Hai che... che... che mi se là cái gì?
Khối trưởng Trai biết ngay là hai cái chemises mà người gửi đã không phiên âm sang tiếng Việt. Anh giơ hai cái áo lên và nói vội vã.
- Dạ hai cái che-mi-se là hai cái áo sơ-mi này đây!
Tên Cư lắc đầu cằn nhằn.
- Sơ-mi thì viết là sơ-mi. Che che với đậy đậy!...
Những món kế tiếp là thuốc tây đủ loại, từ thuốc cảm, dầu nóng đến thuốc bổ và các loại trụ sinh chữa kiết lỵ phù thũng hảo hạng của... đế quốc Mỹ bị ba Tàu ếm nên mất dịp du lịch sang Angola. Chưa hết, gói quà còn nhiều món rất phản động khác nữa. Một cân đường cát trắng. Một gói cà phê. Một lon sữa bột guigoz. Vài gói 555 lại còn đèo thêm một hộp bơ Đồng Tiền và một hộp phô mai Đầu Bò nữa.
Vĩnh liếc qua đống quà. Anh nhẩm tính thấy trọng lượng có thể đã trên 5 kgs.
Giọng cả quýnh của tên hậu cần trại lại khẽ cất lên.
- Gớm, xét trên cơ bản, gia đình anh này chưa tiến bộ nhiều lắm. Vẫn nổi lên cái mặt bơ thừa sữa cặn đấy nhá!
Tên quản giáo Cư có lẽ cũng biết còn rất nhiều "thân chủ" khác chờ mình, nên hắn nhìn Vĩnh xua tay như đuổi.
- Được rồi. Cho thu vào!
Ngoại trừ giấy gói, hộp và lá thư phải để lại; kỳ dư Vĩnh được nhận hết. Anh vội vã thu vén mọi thứ bỏ vào một cái bao nylon lớn. Vĩnh làm thật mau tuồng như ngại tên quản giáo có thể đổi ý vào phút cuối. Xong đâu đấy, Vĩnh run tay cầm bút ký nhận đủ vào tấm phiếu gửi của gia đình có nét chữ mềm mại quen thuộc của vợ.
Anh cố gắng khênh gói quà rời khỏi bàn và ngồi dưới đất nhập bọn với những người đã được nhận quà như anh. Phải đợi cả toán được nhận xong, khối trưởng Trai mới dẫn một lượt trở về khối. Ngồi xuống đất rồi Vĩnh mới thấy mệt. Nghĩ tới căn bệnh trong người, chưa cần biết rõ thuốc phải uống thế nào. Vĩnh moi ngay một viên Néomycine cho vào miệng nuốt chững. Vài phút sau Vĩnh thấy choáng váng vì sức mạnh của viên thuốc. Anh ngồi gục đầu xuống hai đầu gối cho đỡ mệt. Những hình ảnh hỗn tạp lại trôi qua đầu óc anh... Các bưu điện trên toàn cõi miền Nam suốt ngày ngập người. Họ phải nối đuôi nhau thành những hàng dài bất tận, dưới nắng cũng như dưới mưa, chờ đến lượt được gửi đi những món quà cho thân nhân đang hấp hối vì phù thũng và kiết lỵ trong lao tù Cộng sản...
Một tiếng động mạnh chen với tiếng cằn nhằn lớn giọng của tên quản giáo nhận quà làm Vĩnh bừng tỉnh. Vĩnh lắng tai nghe.
- Cái này là cái gì? Không ích lợi gì cho một cải tạo viên! Để ra kia, khung sẽ nghiên cứu...
Giọng khối trưởng Trai nhỏ nhẹ.
- Thưa đó chỉ là cái pipe.
- Pipe là cái gì mới được chứ?
- Dạ là cái ống vố, còn gọi là tẩu, để hút thuốc.
Tên Cư lẩm bẩm.
- Tẩu xưa kia tây đồn điền nó mới hút. Vả lại cái tẩu gì mà mất vệ sinh, mất văn hóa, cái tẩu gì mà trông như cái mông chị nữ thế kia? Lại còn nhận thêm hai con mắt vào đấy nữa!
-.....!
- Mở luôn cái hộp kia ra xem nào!
Vĩnh nhìn thấy khối trưởng Trai cầm lên một cái hộp tròn nhỏ. Anh nhìn kỹ hơn và nhận ra nó là một hộp Dunhill, thuốc dùng hút pipe. Khối trưởng Trai mở ra. Vĩnh thoáng thấy mặt anh ta hơi đần lại, mắt lim dim và mũi hinh hỉnh. Có lẽ khối trưởng Trai đang tận hưởng cái hương thơm ma quái của thuốc Ăng-Lê.
Tên Cư giơ tay cầm lấy hộp thuốc. Hắn ngửi rồi bốc lên một chút nhìn cho rõ.
- Cũng thơm ra phết đấy chứ. Nhưng chợt nhận ra cái màu sắc của thuốc vàng đen lẫn lộn, hắn nhăn mặt. Cái này chắc chắn có trộn ma túy. Tôi giữ lại để khung nghiên cứu.
Hộp thuốc và cái pipe của một anh bạn nào đó trên lý thuyết đã được Cách mạng chiếu cố để nghiên cứu, nhưng trên thực tế đã thật sự thay đổi chủ nhân từ giây phút ấy.
Hơn 15 phút sau cả toán mới được khối trưởng Trai tập hợp so hàng dẫn trở về khối. Bệnh hoạn đi một mình chưa nổi, giờ mỗi người lại còn đèo bồng thêm năm sáu ký quà thành thử tay nào tay nấy lê lết trên đường. Mãi khi vào tới bên trong hàng rào trại, bọn Vĩnh mới được bạn bè nhào ra khênh tiếp sức. Đính ôm gói quà giùm Vĩnh. Về tới phòng, việc đầu tiên Vĩnh lết ra giếng thay quần đùi. Anh mệt nhọc khôn lường. Đính phải chạy theo dìu Vĩnh trở lại phòng. Vĩnh cố gắng lôi hết mớ quà cáp ra để trên sàn nhà. Đám bạn bè thân thiết của Vĩnh xúm lại. Vĩnh hiểu tụi nó thèm gì. Đầu tiên anh mở hộp đường cát trắng ra rồi bóc luôn hai gói 555. Vĩnh thều thào.
- Xin chúng mày cứ tự nhiên như người Hà Lội...
Giọng Tạc bất nhẫn kêu lên.
- Không được. Tất cả đồ ăn phải để cho mày tẩm bổ. Tụi tao chỉ có quyền hút ăn mày của mày mỗi thằng một điếu 555 cho thơm mõm thôi...
Hóa từ ngoài chợt hốt hoảng chạy vào.
- Thằng Vĩnh về rồi hả? Có thuốc lào không?
Đính trả lời thay Vĩnh.
- Vợ nó chắc sợ nó hôi mồm nên không cho hút thuốc lào, chỉ có ba số 5 thôi, làm một điếu cho thơm râu thì làm.
Tiến xà xuống ngồi. Nó cầm lấy một điếu 555, miệng lẩm bẩm.
- Vợ mày đúng là một con mụ chậm tiến. Giờ này còn chơi cái của tư sản... thơm tho này!
Vĩnh quá mệt. Anh không muốn tham dự tí nào vào những câu chuyện của bạn bè lúc này. Anh nhẹ ngả lưng xuống và nhìn qua kẽ hở trên vách. Trời xanh ngắt. Một vài áng mây bay nhàn nhã về một phía mà anh nghĩ đó là phía Sài Gòn. Thốt nhiên trên vầng mây ấy anh nhìn ra khuôn mặt của vợ con. Vĩnh ngậm ngùi tự hỏi lòng: Con ta rồi sẽ chết thèm chết nhạt bao lâu vì gói quà này?
Bỗng một tiếng khóc hưng hức bên góc nhà đối diện cất lên. Mọi người ngỡ ngàng ngó sang. Lê Văn Thống, anh bạn đồng bệnh của Vĩnh ngồi với gói quà trên đùi. Anh ta đang mân mê gói quà, khóc nghẹn và mắt trừng trừng nhìn ra ngoài sân. Vĩnh cố gượng ngồi lên. Anh ngó sang Thống. Trông Thống ủ rũ như một cái hình nộm hết thời, nhưng trong đôi mắt đang hực lên của anh ta, Vĩnh có thể đọc được muôn vạn lời...
CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
Vĩnh đã khỏi được bệnh kiết lỵ nhờ số thuốc gia đình gửi vào trong đợt quà hai tháng về trước. Những người bệnh khác đa số cũng phục hồi mau lẹ, trừ một số rất ít bệnh đã thành bất trị, được Cách mạng chiếu cố vào những giây phút cuối, cho khênh lên bệnh xá trung đoàn để Cách mạng có được một ít hồ sơ những cải tạo viên chết bệnh và đã được Cách mạng tận tình cứu chữa. Trong số những người chết trên bệnh xá trung đoàn ấy có một thằng bạn đồng binh chủng với Vĩnh. Nó là Phương, cấp bậc Hải quân trung úy và nằm chung khối 1 với Ứng. Phương được đưa lên trung đoàn trong cơn mê sảng. Hai ngày sau anh em được tin nó chết. Trước khi chết nó mê sảng đến độ cười rống lên như một con ngựa và lấy phân bôi trét khắp cùng phòng bệnh. Những người nằm gần nó hầu hết đều tê liệt không thể có phản ứng, thành thử nhiều anh bị nó ghé thăm cho xơi ít phân tại chỗ! Trước một kẻ đã điên loạn, bọn vệ binh nhảy vào dùng báng súng đánh đập đầu nó như một quả dưa hấu bị rơi xuống đất. Phương chết trong tiếng cười rống của một kẻ đã hoàn toàn mất trí vì bệnh kiết lỵ.
Nhưng cái chết ấy là cái chết xa. Có một cái chết gần bên cạnh rất nhiều cái chết gần khác xảy ra trong trại đã làm cả trại L4T3 nhốn nháo. Đó là cái chết của Kiều Quang Trường, thiếu úy ANQĐ/SĐ18 bên khối 4.
Trường bị kiết lỵ từ lâu. Vì quá sợ trước những cái chết thê thảm xảy ra chung quanh, nên ngoài thuốc gia đình gửi vào, Trường vẫn tiếp tục nhờ bạn bè cùng tổ đi lao động kiếm hộ ít cỏ mực để sắc uống hàng ngày. Hai người bạn cùng tổ là Tỷ và Non chính là hai người thường xuyên đi kiếm cỏ mực cho Trường.
Vào nửa khuya một đêm kia, cả trại đều dựng ngược dậy vì những tiếng la hét vọng ra từ khối 4. Vĩnh là một trong những người đầu tiên chạy đến xem.
Bên trong khối 4, những ánh sáng tù mù phát ra từ những ngọn nên chế bằng giấy bồi trộn mỡ bò lấy từ các hộp đầu đạn 105 mm, soi khá rõ một quang cảnh hãi hùng. Tù cải tạo khối 4 đang nháo nhào vì một kẻ vật vã la hét. Vĩnh nhìn thấy 4 người, trong đó có cả Đặng Thế Tiến, đang cố đè người la hét xuống.
Giọng một anh bạn vang lên báo động.
- Nhét cái gì vào miệng nó kẻo nó cắn vào lưỡi!
- Nhanh lên nhanh lên! Đưa cái thìa Inox đó đây!
- Nhét vào, nhét vào đi! Coi chừng nó cắn đứt ngón tay.
Bốn người vừa vật nhau vừa tìm cách cậy mồm nạn nhân nhét cái thìa giữa hai hàm răng. Âm thanh hai hàm răng nhai cái thìa Inox phát ra rợn người. Thốt nhiên một tiếng báo động hét lên.
- Trời ơi! Rút cái thìa ra. Nó gẫy hết răng rồi.
Tiếng báo động hơi muộn. Người lâm nạn trong cơn vật vã, đã cắn vào cái thìa mạnh đến độ hai cái răng cửa gãy bật hẳn ra ngoài, máu văng tung tóe. Một người nhanh trí vồ lấy tấm áo thung vứt gần đó tọng ngay vào miệng nạn nhân.
- Coi chừng nó nghẹt thở!
- Thở bằng mũi không thở bằng mồm!
Người bệnh dù thế nào, cuối cùng cũng nằm im dưới sức đè của bốn người khác. Người đứng ngoài chỉ còn thấy hai bàn tay và một cẳng chân của hắn giẫy tê tê. Một lúc sau hắn thiếp đi. Đến lúc này mọi người mới hoàn hồn nghĩ đến chuyện chạy đi báo cáo vệ binh gác ngoài cổng. Khi khối trưởng Kiên của khối 4 bương bả chạy đi báo cáo thì người bệnh bỗng nhiên tỉnh dậy. Cơn vật vã đã qua. Hắn ngồi lên, giật tung cái áo thung khỏi miệng, máu theo đó rỉ ra hai bên mép, đôi mắt long lên một cách dễ sợ. Mọi người chưa biết xử trí ra sao thì người bệnh bắt đầu quờ quạng hai tay như một kẻ mù. Rõ ràng hắn không còn trông thấy cảnh vật chung quanh. Quờ quạng một lúc, hắn bắt đầu nói như người mê sảng.
- Mày chết với tao! Tao đã khám phá ra chúng mày. Chúng mày là một tổ chức CIA trá hình. Chúng mày đã âm mưu giết tao. Tao sẽ tố giác chúng mày...
Chao ôi, câu nói của một kẻ điên loạn như gáo nước lạnh nửa đêm đội vào gáy những tù nhân khác. Vì đâu mà ra nông nỗi như vậy? - Thằng đốn mạt! thằng khốn nạn! Cho nó chết cha nó đi. Một vài tiếng rủa căm hận khe khẽ nổi lên.. Đừng nóng! Nó bị ẩn ức gì đó. Cứ để xem. Một giọng khác chen vào. Tiếng rít ghê gớm của con bệnh vẫn đều đều nổi lên giữa đêm trường, trầm bổng, ngân nga và nhiều lúc như ma khóc quỷ cười.
- Tao sẽ tố giác chúng mày! Trời ơi, lũ CIA nằm vùng. Trời ơi, thằng Tỷ thằng Non là hai thằng CIA nằm vùng. Chúng nó âm mưu giết tôi. Chúng nó đánh thuốc độc tôi. Thủ trưởng đâu? Kêu thủ trưởng cho tôi. Tôi sẽ tố giác chúng với Cách mạng...
Đến lúc này mọi người đều xanh máu mặt. Và có lẽ hai anh chàng có tên Tỷ và Non phải xanh máu mặt hơn ai hết. Kẻ lâm nạn đã lôi họ ra mà gào đích danh.
Một người nói.
- Nhét giẻ vào mồm nó, đừng cho nó nói bậy. Một người khác.
- Tội nghiệp nó, nó điên rồi.
- Điên cái mẹ gì! Cơn mê sảng mới phơi bày được rõ rệt cái căn gốc ăng-ten của nó. Để nó tự do gào thét còn nhiều thằng mang vạ vịt không chừng.
Một giọng khác đồng tình.
- Đúng đấy, nhét giẻ vào mồm nó đi. Giờ này vô phúc nó nhớ ra tên thằng nào thằng ấy có mà bỏ mẹ!
Mọi người đang loay hoay chưa biết xử trí ra sao thì người mê sảng đã hai tay quờ quạng tìm cách đứng lên. Hắn hét.
- Khối trưởng đâu? Anh Kiên đâu? Dẫn tôi lên gặp thủ trưởng. Tôi tố giác thằng Tỷ thằng Non. Chúng nó là hai thằng CIA đã âm mưu giết tôi, phi tang tôi...
Một tay đứng gần Vĩnh nóng mặt sẵn tay áo sửa soạn nhảy vào bịt miệng người điên loạn. Ngay lúc ấy một tiếng hô nghiêm cất lên. Mọi người đều ngoái nhìn ra phía cửa. Đi sau khối trưởng Kiên của khối 4 là tên thủ trưởng trại, tên quản giáo khối và hai thằng vệ binh tay lăm lăm hai khẩu AK. Cả bọn mới đến hình như không có thì giờ lưu tâm đến cảnh hỗn độn trong phòng. Trong khi ấy giọng hét lanh lảnh của người bệnh vẫn tiếp tục vang lên: Chúng nó âm mưu giết tôi. Dẫn tôi đi gặp thủ trưởng. Thằng Tỷ thằng Non là hai thằng CIA...
Tên thủ trưởng phóng tới, nói lớn.
- Tôi đây, thủ trưởng đây, anh tên gì?
Người bệnh như chưa nhận ra nên vẫn say sưa la hét. Tên thủ trưởng ra lệnh cho mấy tay đứng gần ghì người bệnh ngồi xuống. Bệnh nhân vùng vẫy.
- Bỏ ra, bỏ tao ra. Chúng mày một bè âm mưu giết tao phải không?
Tên thủ trưởng quay hỏi khối trưởng Kiên.
- Tên là gì nhỉ, tôi quên rồi.
- Dạ anh ấy là Trường. Kiều Quang Trường.
Tên thủ trưởng quay lại bệnh nhân, kẻ giờ đây đã bị sức khỏe của ba người khác giữ cứng, đang ngồi trên một đống chăn mền bừa bộn.
Tên thủ trưởng ngồi nhìn bệnh nhân một lúc, chờ cho hắn hơi dịu xuống mới cất tiếng hỏi.
- Này, anh Trường. Bình tĩnh lại đi.
Bệnh nhân như lắng tai nghe. Hai tay khẽ quờ quạng, miệng thở hổn hổn.
- Ai, ai gọi tên tôi đấy?
- Tôi là thủ trưởng đây.
Bệnh nhân bỗng nhiên hét lên.
- Tưởng tao không thấy gì xúm lại lừa tao nữa phải không, lũ sát nhân? Trời ơi, chúng nó là lũ sát nhân!
Tên thủ trưởng giật bắn mình.
- Này, anh nói ai là lũ sát nhân đấy? Có im đi không nào?
- Chúng mày là lũ sát nhân!
Tên thủ trưởng đứng phắt lên, cáu.
- Anh Trường! Tôi ra lệnh anh im mồm ngay, cấm lợi dụng đau yếu phát ngôn bừa bãi!
Một vài tay xúm lại. Ai cũng cố cắt nghĩa cho Trường biết người đang nói chuyện với hắn chính là thủ trưởng trại.
- Có đúng là anh không? Có đúng anh thủ trưởng đấy không?
- Ừ. Tôi đây. Sao?
Bệnh nhân giơ tay mò mẫm về phía người vừa trả lời. Tên thủ trưởng lui vội một bước, gắt. Anh làm cái trò khỉ gì thế?
Trường nói tỉnh.
- Anh đưa cổ áo đây!
- Làm gì vậy?
- Tôi muốn rờ thấy quân hàm của anh.
Mọi người điếng hồn với cái bình tĩnh đầy ma quái của Trường. Tên thủ trưởng cũng bối rối không biết xử trí ra sao. Cuối cùng hắn đành tiến lại gần Trường, chìa một bên cổ áo ra cho bệnh nhân rờ. Ba ngôi sao trên cổ áo đã cho bệnh nhân biết chắc đó là tay thượng úy trưởng trại L4T3. Mọi người hồi hộp chưa đoán được sự thể sẽ ra sao, thì đùng một cái, bệnh nhân trợn ngược mắt lên và ngoẹo đầu sang một bên, máu trong miệng trào cả ra ngoài. Tên thủ trưởng lúng túng trông thấy. Hắn đứng dậy nói nhỏ với một thằng vệ binh. Thằng vệ binh xách súng lui khỏi phòng. Khối trưởng khối phó xúm lại đỡ bệnh nhân nằm xuống. Bác sỹ Đỉnh, khối phó hậu cần khối 2 bỗng nhiên xuất hiện. Anh nhảy vào một tay nắm lấy tay bệnh nhân lắng mạch, một tay bật mí mắt nạn nhân lên xem. Một lúc sau Đỉnh quay lại nói với đám cán binh Việt cộng.
- Nếu được, xin cho đi bệnh xá trung đoàn ngay.
Tên thủ trưởng ngần ngại.
- Anh ấy bị gì thế?
Đỉnh hơi ngẫm nghĩ.
- Theo tôi nhận xét thì anh này bị lạm thuốc.
- Lạm thuốc là gì?
- Uống quá liều thuốc.
- Thuốc gì?
- Tôi không có phương tiện thử nghiệm nên chưa thể khẳng định. Nói rồi Đỉnh lập lại câu đề nghị ban nãy. Nếu được, xin anh cho đi bệnh xá ngay mới hy vọng cứu kịp.
Vừa lúc đó tên vệ binh dẫn tên quân y trên ban y tế trại xuống tới. Tên quân y Việt cộng tiến đến. Nó chống một tay trên hông và bình tĩnh đứng quan sát bệnh nhân. Một lúc nó lên tiếng.
- Mửng này ăn sắn sống nhiều quá, say đây!
Mọi người đứng quanh đều thấy bực mình nhưng không ai dám cãi. Khối trưởng khối 4 tiến lại.
- Báo cáo anh, anh này bị kiết lỵ dai dẳng từ lâu. Tôi thấy anh ấy ngày nào cũng uống thuốc, uống đủ thứ, cả thuốc tây lẫn cỏ mực...
Tên thủ trưởng quay sang tên quân y, nói.
- Chuyện này có nhiều uẩn khúc. Đề nghị đồng chí quyết định cho đưa anh này lên bệnh xá trung đoàn đã. Tôi sẽ làm việc tiếp.
Một lúc sau Trường đã được đặt nằm trên võng và được khênh đi bệnh xá. Sau khi bệnh nhân đã được khênh đi khỏi, mọi người được lệnh ai về chỗ nấy nghỉ ngơi. Tên thủ trưởng trở về trại, theo sau có khối trưởng Kiên và tổ trưởng của Trường.
Vĩnh cũng trở về phòng. Khối 2 chẳng mấy người ngủ được dù đã 2 giờ sáng. Ai cũng thầm thì bàn tán về biến cố vừa qua. Quả thực nhìn qua hiện tượng chuyện này có nhiều uẩn khúc. Nhưng tại sao người bệnh trong cơn mê sảng lại thốt ra những lời lẽ giết người dường ấy? Lúc nãy nói chuyện với Tiến, Vĩnh được biết Trường là một tay đại mát giây của khối 4. Từ cái thời bị con ma kiết lỵ hoành hành, dù không quá nặng như nhiều người khác, Trường vẫn đều đặn mỗi ngày uống phòng hờ một viên Chloroquine (hay có thể nhiều viên mà không ai biết chắc!). Để chắc ăn hơn, Trường còn nhờ bạn bè, đặc biệt Tỷ và Non là hai người cùng tổ, đi lao động kiếm hộ những mớ cỏ mực đem về cho Trường sắc uống. Sự lạm thuốc, do đó, không phải là chuyện không thể xảy ra. Vĩnh nằm nghĩ ngợi đến số phận của Tỷ và Non. Kiểu này đại họa khó lường! Cả trại đã nghe rõ mồm một tiếng gào thét của Trường kết tội hai anh chàng này là bọn CIA nằm vùng và âm mưu giết người để phi tang.
Chưa biết phải quấy thế nào nhưng hầu như ai cũng thầm oán Trường đã quá độc ác trong những lời lẽ phát ra, dù phát ra trong cơn mê sảng. Tỷ thì Vĩnh không biết, nhưng Non thì Vĩnh biết rất rõ từ thời đi trình diện ở Lê Quang Định. Chính Vĩnh là người mua thuốc lá của hắn nơi đó...
Non là một trung úy bộ binh, bị thương nơi đầu và đã giải ngũ từ năm 70. Sau 30 tháng Tư, gia đình túng quẫn, vợ Non thu vén mua được cho hắn một sắc thuốc lá đủ loại để Non xách đi bán dạo qua các khu tập trung trình diện cải tạo. Hết bán bên trường Lê Văn Duyệt lại sang tới trường Lê Quang Định. Chẳng may cho Non, khi hắn sửa soạn rời sân trường Lê Quang Định trở về nhà ăn cơm trưa thì bị tụi vệ binh gác cổng chận lại.
- Làm gì trong này?
- Dạ tôi bán thuốc lá.
Tên vệ binh gác cổng ngó Non từ đầu đến chân, hỏi xẵng.
- Trước kia làm gì?
Với sự thực thà, lại càng thực thà hơn ở một người bị thương nơi đầu không còn được sự tính toán chuẩn xác và thích hợp trước một biến cố, Non ngây thơ trả lời.
- Trước đây ấy à? Trước đây tôi là trung úy. Tôi giải ngũ rồi...
Tên vệ binh nghe thấy Non thản nhiên xưng dĩ vãng ra, nó trợn mắt ngó Non như ngó một tên gián điệp nguy hiểm. Nó chỉ tay xuống đất, gay gắt ra lệnh.
- Bỏ cái túi xuống đây kiểm tra. Anh đứng nghiêm.
Sau khi kiểm soát sắc thuốc lá mấy thằng vệ binh đều sáng mắt. Một thằng nói.
- Nhân danh Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Định, tổ vệ binh canh phòng địa điểm tập trung trình diện cải tạo Lê Quang Định cấm anh rời địa điểm từ giây phút này. Số thuốc lá của Đế Quốc bị tịch thu để làm vi bằng buôn lậu!
Thế là tự dưng chưa thuộc diện cải tạo, ít lắm là trong giai đoạn hiện tại, Non bỗng lơ mơ đi vào đường tù tội và đánh mất luôn cái vốn liếng cuối cùng của cả gia đình là sắc thuốc lá! Ngày tháng qua Non cũng lầm lũi đi lao động khổ sai, cũng gù lưng học tập và thảo luận chính trị, cũng hòa mình vào mọi chuyển động của đời sống nơi đây. Mỗi ngày đi lao động, Non vẫn còn sự tốt bụng là tìm về những mớ cỏ mực cho bạn bè bị kiết lỵ sắc uống. Giờ đây, Non vừa bị một thằng bạn phạm thuốc nổi cơn điên loạn tố giác anh trước mọi người như là một tên tình báo CIA nằm vùng. Họa vô đơn chí, Vĩnh nghĩ bụng, tương lai thằng này chắc rồi sẽ đen hơn mõm chó!
Một giọng nói như báo động khẽ cất lên từ một góc nhà nơi có thể nhìn ra hướng cổng trại.
- Sao chúng nó gồng gánh nhau về kìa!
Tất cả mọi người trong phòng đều chồm dậy. Dưới ánh sao đêm, cái võng và ba bốn người nhấp nhô đang đi vào trong sân. Đoàn người dừng lại một lúc trước hội trường và có vẻ lúng túng chưa biết làm gì. Sau cùng, đám người khênh võng bước theo tên quân y vào hội trường. Mười phút sau họ rời hội trường và không có cái võng đi theo.
Một tay nằm gần Vĩnh hỏi vu vơ.
- Vậy là làm sao?
Một giọng khác.
- Chắc tịch dọc đường khênh về chứ gì!
Trời đã như gần sáng mà chẳng mấy ai ngủ được. Vĩnh trỗi dậy đi ra cầu tiểu. Anh gặp được một tay ở khối 4, hỏi luôn.
- Tay Trường ra sao bạn?
- Chết rồi. Lên tới trung đoàn nó đã chết từ hồi nào. Họ bắt đem về.
Vĩnh nghĩ ngợi.
- Tại sao lại có chuyện quái đản vậy?
- Quái đản là làm sao?
- Trước khi chết sao nó nói sảng vậy?
Người bạn vừa đứng tiểu vừa thở dài.
- Mẹ bố nó, đáng lý nó chết ai cũng thương, hóa ra cả trại ai cũng chửi. Thứ chết còn hại bạn!
- Giờ xác để đâu?
- Mắc võng nằm trên hội trường.
Anh bạn vắn tắt trả lời rồi xoay lưng bỏ đi. Trên đoạn đường trở về phòng phải vượt qua vài luống cải ngồng rồi vài gốc cây bông gòn lớn, nơi Vĩnh từng mắc võng nằm cả tháng trời vì kiết lỵ, bỗng dưng Vĩnh thấy tóc gáy dựng đứng. Gió vi vu thổi qua những cành cây nghe như lời gào thét của người vừa chết - một lời gào thét có lẽ độc ác nhất trong những lời gào thét mà anh từng nghe thấy - còn vang vọng đâu đây! Nghĩa tử là nghĩa tận. Hầu như cả trại, vì quá ái ngại cho người còn sống nên đã quên thương lấy người đã chết. Nếu xét cho cùng, cả người sống lẫn người chết đều đáng xót thương cả. Tất cả, không nhiều thì ít, đều đã và đang bị biến thái từ thể xác đến tâm hồn nơi cái thiên đường Cộng sản này. Ở bề ngoài, trên da thịt chưa ai xuất hiện dáng thú vật; nhưng ở bên trong, nơi có tâm hồn ngự trị, biết bao nhiêu kẻ đã mọc xanh một lớp lông thú xa lạ mà không hề tự biết! Thằng Ba Tô nó có biết việc nó làm là giết anh em không? Trên quan niệm sống của nó, biết đâu nó có đủ lý luận để biện minh cho hành động đê tiện làm chó săn của nó là đúng!? Nó đã hóa thú rồi. Lấy lòng con người để xét dạ con thú thì liệu hành động của con người ấy có đúng chỗ hay không?
Vừa đi Vĩnh vừa suy nghĩ lan man. Dẫu rằng cũng như mọi người, Vĩnh quan tâm rất nhiều cho vận mạng của hai anh chàng Tỷ và Non, nhưng trong sâu thẳm của lý trí và trái tim, Vĩnh thấy rõ mình không còn mảy may oán giận người đã chết. Làm kiếp người có nhiều hoàn cảnh không cho người ta được hưởng một cái chết bình thường, mà buộc phải chọn lựa một cái chết đẹp hay một cái chết không đẹp. Hoàn cảnh phải chọn lựa này có lẽ không đâu bằng trong lao tù Cộng sản. Trước sự phán đoán của đám đông, Trường đã chết một cái chết không đẹp, âu cũng là một điều đáng chia buồn cho hắn. Nhưng thù thực sự, nếu có, là cái thù dành cho những nguồn gốc của những cái chết không đẹp như thế. Và nguồn gốc ấy là ai? Kể cả thú vật xứ này cũng biết!
Bửng mắt hôm ấy chuyện gì phải đến đã đến. Sau khi tiếng kẻng báo thức 5 giờ điểm, trời còn mờ mờ, trong lúc mọi người đang lo đánh răng xúc miệng ngoài giếng thì cổng trại bỗng bật mở. Bốn thằng vệ binh súng ống đầy đủ bước vào, theo sau là tên thủ trưởng, chính trị viên và quản giáo khối 4. Chúng tiến đến trước vuông sân tập họp của khối 4. Khối trưởng khối phó chạy ra. Năm phút sau cả khối tập họp đầy đủ ngay trước khối. Tên chính trị viên Thảo mặt hầm hầm như một hung thần, thay mặt thủ trưởng dõng dạc lên tiếng sau khi cả khối đã làm xong thủ tục nghiêm nghỉ. Hắn nói lớn.
- Hai tên Tỷ Non bước ra khỏi hàng!
Tỷ và Non đồng bước ra khỏi hàng. Họ tiến đến chỗ được chỉ định đứng trước tập thể khối. Tên thủ trưởng bước tới một bước. Hắn mở rộng một tờ giấy trên tay và dõng dạc đọc.
- Lệnh bắt giam! Nhân danh thủ trưởng trại cải huấn L4T3, chiếu nghị quyết của ban chỉ huy trại, căn cứ trên lời tố giác của người đã chết, nay ra lệnh các đồng chí vệ binh bắt giam hai tên Nguyễn Văn Tỷ và Trần Văn Non thuộc tổ 3, khối 4. Trong khi chờ cuộc điều tra kết thúc để truy tố hai tên giết người phi tang ra trước tòa án nhân dân, mọi quyền lợi dành cho các cải tạo viên của hai tên Tỷ và Non được chấm dứt kể từ giờ phút này. Thủ trưởng L4T3 ký tên.
Tên thủ trưởng đích thân đọc xong lệnh bắt giam, hắn đưa mắt nhìn hai thằng vệ binh đứng gần nhất. Như đã có sắp xếp, hai thằng vệ binh hùng hổ bước tới chỗ đứng của Tỷ và Non. Chúng lấy dây thừng đem theo trói trật cánh khỉ Tỷ và Non lại. Xong đâu đấy, chúng kéo giật hai người lại phía sau vài bước cho thêm phần... bạo lực Cách mạng!
Ngoài dự trù của mọi người là sẽ phải nghe một bài học dông dài sau khi chúng đã trói Tỷ và Non, tên thủ trưởng lại chỉ nói vội khối trưởng hô mọi người đứng nghiêm. Sau khẩu lệnh nghiêm của khối trưởng, cả bọn chúng đều xoay lưng hùng hổ lôi hai người bị bắt giam về phía cổng trại.
Cả trại đều đổ dồn về khối 4. Mọi thứ lời bàn đồng loạt được tung ra. Mọi lời dự đoán về số phận Tỷ và Non đều được nói tới. Một số khác mon men đến nhìn vào hội trường. Xác của người chết vẫn nằm trên một cái võng mắc bên trong đó.
Một thảm kịch giản dị. Một người chết vì lạm thuốc và hai người khác sửa soạn lãnh bao cực hình vì người chết đó. Tất cả đều cùng nằm trong một giai cấp mới của xã hội này: Giai cấp tù cải tạo!
Những tiếng kẻng vang lên báo hiệu một ngày lao động khổ sai mới đã bắt đầu. Ai trở về khối nấy để sửa soạn tập họp. Mọi người lại xếp hàng, lại tay lon tay cóng, lại cuốc lại xẻng...
Buổi trưa đi lao động về, ai cũng biết tổ trực khối 4 đã làm xong hai việc. Họ đã đem chôn xác Trường ngoài cánh đồng cỏ lau, đồng thời đã bới hố rác theo như chỗ mà Tỷ và Non đã khai đem đổ bã cỏ mực sau khi sắc cho nạn nhân uống. Tổ trực đã tìm thấy đống bã cỏ mực đúng như lời khai.
Nhưng cái chết ấy là cái chết xa. Có một cái chết gần bên cạnh rất nhiều cái chết gần khác xảy ra trong trại đã làm cả trại L4T3 nhốn nháo. Đó là cái chết của Kiều Quang Trường, thiếu úy ANQĐ/SĐ18 bên khối 4.
Trường bị kiết lỵ từ lâu. Vì quá sợ trước những cái chết thê thảm xảy ra chung quanh, nên ngoài thuốc gia đình gửi vào, Trường vẫn tiếp tục nhờ bạn bè cùng tổ đi lao động kiếm hộ ít cỏ mực để sắc uống hàng ngày. Hai người bạn cùng tổ là Tỷ và Non chính là hai người thường xuyên đi kiếm cỏ mực cho Trường.
Vào nửa khuya một đêm kia, cả trại đều dựng ngược dậy vì những tiếng la hét vọng ra từ khối 4. Vĩnh là một trong những người đầu tiên chạy đến xem.
Bên trong khối 4, những ánh sáng tù mù phát ra từ những ngọn nên chế bằng giấy bồi trộn mỡ bò lấy từ các hộp đầu đạn 105 mm, soi khá rõ một quang cảnh hãi hùng. Tù cải tạo khối 4 đang nháo nhào vì một kẻ vật vã la hét. Vĩnh nhìn thấy 4 người, trong đó có cả Đặng Thế Tiến, đang cố đè người la hét xuống.
Giọng một anh bạn vang lên báo động.
- Nhét cái gì vào miệng nó kẻo nó cắn vào lưỡi!
- Nhanh lên nhanh lên! Đưa cái thìa Inox đó đây!
- Nhét vào, nhét vào đi! Coi chừng nó cắn đứt ngón tay.
Bốn người vừa vật nhau vừa tìm cách cậy mồm nạn nhân nhét cái thìa giữa hai hàm răng. Âm thanh hai hàm răng nhai cái thìa Inox phát ra rợn người. Thốt nhiên một tiếng báo động hét lên.
- Trời ơi! Rút cái thìa ra. Nó gẫy hết răng rồi.
Tiếng báo động hơi muộn. Người lâm nạn trong cơn vật vã, đã cắn vào cái thìa mạnh đến độ hai cái răng cửa gãy bật hẳn ra ngoài, máu văng tung tóe. Một người nhanh trí vồ lấy tấm áo thung vứt gần đó tọng ngay vào miệng nạn nhân.
- Coi chừng nó nghẹt thở!
- Thở bằng mũi không thở bằng mồm!
Người bệnh dù thế nào, cuối cùng cũng nằm im dưới sức đè của bốn người khác. Người đứng ngoài chỉ còn thấy hai bàn tay và một cẳng chân của hắn giẫy tê tê. Một lúc sau hắn thiếp đi. Đến lúc này mọi người mới hoàn hồn nghĩ đến chuyện chạy đi báo cáo vệ binh gác ngoài cổng. Khi khối trưởng Kiên của khối 4 bương bả chạy đi báo cáo thì người bệnh bỗng nhiên tỉnh dậy. Cơn vật vã đã qua. Hắn ngồi lên, giật tung cái áo thung khỏi miệng, máu theo đó rỉ ra hai bên mép, đôi mắt long lên một cách dễ sợ. Mọi người chưa biết xử trí ra sao thì người bệnh bắt đầu quờ quạng hai tay như một kẻ mù. Rõ ràng hắn không còn trông thấy cảnh vật chung quanh. Quờ quạng một lúc, hắn bắt đầu nói như người mê sảng.
- Mày chết với tao! Tao đã khám phá ra chúng mày. Chúng mày là một tổ chức CIA trá hình. Chúng mày đã âm mưu giết tao. Tao sẽ tố giác chúng mày...
Chao ôi, câu nói của một kẻ điên loạn như gáo nước lạnh nửa đêm đội vào gáy những tù nhân khác. Vì đâu mà ra nông nỗi như vậy? - Thằng đốn mạt! thằng khốn nạn! Cho nó chết cha nó đi. Một vài tiếng rủa căm hận khe khẽ nổi lên.. Đừng nóng! Nó bị ẩn ức gì đó. Cứ để xem. Một giọng khác chen vào. Tiếng rít ghê gớm của con bệnh vẫn đều đều nổi lên giữa đêm trường, trầm bổng, ngân nga và nhiều lúc như ma khóc quỷ cười.
- Tao sẽ tố giác chúng mày! Trời ơi, lũ CIA nằm vùng. Trời ơi, thằng Tỷ thằng Non là hai thằng CIA nằm vùng. Chúng nó âm mưu giết tôi. Chúng nó đánh thuốc độc tôi. Thủ trưởng đâu? Kêu thủ trưởng cho tôi. Tôi sẽ tố giác chúng với Cách mạng...
Đến lúc này mọi người đều xanh máu mặt. Và có lẽ hai anh chàng có tên Tỷ và Non phải xanh máu mặt hơn ai hết. Kẻ lâm nạn đã lôi họ ra mà gào đích danh.
Một người nói.
- Nhét giẻ vào mồm nó, đừng cho nó nói bậy. Một người khác.
- Tội nghiệp nó, nó điên rồi.
- Điên cái mẹ gì! Cơn mê sảng mới phơi bày được rõ rệt cái căn gốc ăng-ten của nó. Để nó tự do gào thét còn nhiều thằng mang vạ vịt không chừng.
Một giọng khác đồng tình.
- Đúng đấy, nhét giẻ vào mồm nó đi. Giờ này vô phúc nó nhớ ra tên thằng nào thằng ấy có mà bỏ mẹ!
Mọi người đang loay hoay chưa biết xử trí ra sao thì người mê sảng đã hai tay quờ quạng tìm cách đứng lên. Hắn hét.
- Khối trưởng đâu? Anh Kiên đâu? Dẫn tôi lên gặp thủ trưởng. Tôi tố giác thằng Tỷ thằng Non. Chúng nó là hai thằng CIA đã âm mưu giết tôi, phi tang tôi...
Một tay đứng gần Vĩnh nóng mặt sẵn tay áo sửa soạn nhảy vào bịt miệng người điên loạn. Ngay lúc ấy một tiếng hô nghiêm cất lên. Mọi người đều ngoái nhìn ra phía cửa. Đi sau khối trưởng Kiên của khối 4 là tên thủ trưởng trại, tên quản giáo khối và hai thằng vệ binh tay lăm lăm hai khẩu AK. Cả bọn mới đến hình như không có thì giờ lưu tâm đến cảnh hỗn độn trong phòng. Trong khi ấy giọng hét lanh lảnh của người bệnh vẫn tiếp tục vang lên: Chúng nó âm mưu giết tôi. Dẫn tôi đi gặp thủ trưởng. Thằng Tỷ thằng Non là hai thằng CIA...
Tên thủ trưởng phóng tới, nói lớn.
- Tôi đây, thủ trưởng đây, anh tên gì?
Người bệnh như chưa nhận ra nên vẫn say sưa la hét. Tên thủ trưởng ra lệnh cho mấy tay đứng gần ghì người bệnh ngồi xuống. Bệnh nhân vùng vẫy.
- Bỏ ra, bỏ tao ra. Chúng mày một bè âm mưu giết tao phải không?
Tên thủ trưởng quay hỏi khối trưởng Kiên.
- Tên là gì nhỉ, tôi quên rồi.
- Dạ anh ấy là Trường. Kiều Quang Trường.
Tên thủ trưởng quay lại bệnh nhân, kẻ giờ đây đã bị sức khỏe của ba người khác giữ cứng, đang ngồi trên một đống chăn mền bừa bộn.
Tên thủ trưởng ngồi nhìn bệnh nhân một lúc, chờ cho hắn hơi dịu xuống mới cất tiếng hỏi.
- Này, anh Trường. Bình tĩnh lại đi.
Bệnh nhân như lắng tai nghe. Hai tay khẽ quờ quạng, miệng thở hổn hổn.
- Ai, ai gọi tên tôi đấy?
- Tôi là thủ trưởng đây.
Bệnh nhân bỗng nhiên hét lên.
- Tưởng tao không thấy gì xúm lại lừa tao nữa phải không, lũ sát nhân? Trời ơi, chúng nó là lũ sát nhân!
Tên thủ trưởng giật bắn mình.
- Này, anh nói ai là lũ sát nhân đấy? Có im đi không nào?
- Chúng mày là lũ sát nhân!
Tên thủ trưởng đứng phắt lên, cáu.
- Anh Trường! Tôi ra lệnh anh im mồm ngay, cấm lợi dụng đau yếu phát ngôn bừa bãi!
Một vài tay xúm lại. Ai cũng cố cắt nghĩa cho Trường biết người đang nói chuyện với hắn chính là thủ trưởng trại.
- Có đúng là anh không? Có đúng anh thủ trưởng đấy không?
- Ừ. Tôi đây. Sao?
Bệnh nhân giơ tay mò mẫm về phía người vừa trả lời. Tên thủ trưởng lui vội một bước, gắt. Anh làm cái trò khỉ gì thế?
Trường nói tỉnh.
- Anh đưa cổ áo đây!
- Làm gì vậy?
- Tôi muốn rờ thấy quân hàm của anh.
Mọi người điếng hồn với cái bình tĩnh đầy ma quái của Trường. Tên thủ trưởng cũng bối rối không biết xử trí ra sao. Cuối cùng hắn đành tiến lại gần Trường, chìa một bên cổ áo ra cho bệnh nhân rờ. Ba ngôi sao trên cổ áo đã cho bệnh nhân biết chắc đó là tay thượng úy trưởng trại L4T3. Mọi người hồi hộp chưa đoán được sự thể sẽ ra sao, thì đùng một cái, bệnh nhân trợn ngược mắt lên và ngoẹo đầu sang một bên, máu trong miệng trào cả ra ngoài. Tên thủ trưởng lúng túng trông thấy. Hắn đứng dậy nói nhỏ với một thằng vệ binh. Thằng vệ binh xách súng lui khỏi phòng. Khối trưởng khối phó xúm lại đỡ bệnh nhân nằm xuống. Bác sỹ Đỉnh, khối phó hậu cần khối 2 bỗng nhiên xuất hiện. Anh nhảy vào một tay nắm lấy tay bệnh nhân lắng mạch, một tay bật mí mắt nạn nhân lên xem. Một lúc sau Đỉnh quay lại nói với đám cán binh Việt cộng.
- Nếu được, xin cho đi bệnh xá trung đoàn ngay.
Tên thủ trưởng ngần ngại.
- Anh ấy bị gì thế?
Đỉnh hơi ngẫm nghĩ.
- Theo tôi nhận xét thì anh này bị lạm thuốc.
- Lạm thuốc là gì?
- Uống quá liều thuốc.
- Thuốc gì?
- Tôi không có phương tiện thử nghiệm nên chưa thể khẳng định. Nói rồi Đỉnh lập lại câu đề nghị ban nãy. Nếu được, xin anh cho đi bệnh xá ngay mới hy vọng cứu kịp.
Vừa lúc đó tên vệ binh dẫn tên quân y trên ban y tế trại xuống tới. Tên quân y Việt cộng tiến đến. Nó chống một tay trên hông và bình tĩnh đứng quan sát bệnh nhân. Một lúc nó lên tiếng.
- Mửng này ăn sắn sống nhiều quá, say đây!
Mọi người đứng quanh đều thấy bực mình nhưng không ai dám cãi. Khối trưởng khối 4 tiến lại.
- Báo cáo anh, anh này bị kiết lỵ dai dẳng từ lâu. Tôi thấy anh ấy ngày nào cũng uống thuốc, uống đủ thứ, cả thuốc tây lẫn cỏ mực...
Tên thủ trưởng quay sang tên quân y, nói.
- Chuyện này có nhiều uẩn khúc. Đề nghị đồng chí quyết định cho đưa anh này lên bệnh xá trung đoàn đã. Tôi sẽ làm việc tiếp.
Một lúc sau Trường đã được đặt nằm trên võng và được khênh đi bệnh xá. Sau khi bệnh nhân đã được khênh đi khỏi, mọi người được lệnh ai về chỗ nấy nghỉ ngơi. Tên thủ trưởng trở về trại, theo sau có khối trưởng Kiên và tổ trưởng của Trường.
Vĩnh cũng trở về phòng. Khối 2 chẳng mấy người ngủ được dù đã 2 giờ sáng. Ai cũng thầm thì bàn tán về biến cố vừa qua. Quả thực nhìn qua hiện tượng chuyện này có nhiều uẩn khúc. Nhưng tại sao người bệnh trong cơn mê sảng lại thốt ra những lời lẽ giết người dường ấy? Lúc nãy nói chuyện với Tiến, Vĩnh được biết Trường là một tay đại mát giây của khối 4. Từ cái thời bị con ma kiết lỵ hoành hành, dù không quá nặng như nhiều người khác, Trường vẫn đều đặn mỗi ngày uống phòng hờ một viên Chloroquine (hay có thể nhiều viên mà không ai biết chắc!). Để chắc ăn hơn, Trường còn nhờ bạn bè, đặc biệt Tỷ và Non là hai người cùng tổ, đi lao động kiếm hộ những mớ cỏ mực đem về cho Trường sắc uống. Sự lạm thuốc, do đó, không phải là chuyện không thể xảy ra. Vĩnh nằm nghĩ ngợi đến số phận của Tỷ và Non. Kiểu này đại họa khó lường! Cả trại đã nghe rõ mồm một tiếng gào thét của Trường kết tội hai anh chàng này là bọn CIA nằm vùng và âm mưu giết người để phi tang.
Chưa biết phải quấy thế nào nhưng hầu như ai cũng thầm oán Trường đã quá độc ác trong những lời lẽ phát ra, dù phát ra trong cơn mê sảng. Tỷ thì Vĩnh không biết, nhưng Non thì Vĩnh biết rất rõ từ thời đi trình diện ở Lê Quang Định. Chính Vĩnh là người mua thuốc lá của hắn nơi đó...
Non là một trung úy bộ binh, bị thương nơi đầu và đã giải ngũ từ năm 70. Sau 30 tháng Tư, gia đình túng quẫn, vợ Non thu vén mua được cho hắn một sắc thuốc lá đủ loại để Non xách đi bán dạo qua các khu tập trung trình diện cải tạo. Hết bán bên trường Lê Văn Duyệt lại sang tới trường Lê Quang Định. Chẳng may cho Non, khi hắn sửa soạn rời sân trường Lê Quang Định trở về nhà ăn cơm trưa thì bị tụi vệ binh gác cổng chận lại.
- Làm gì trong này?
- Dạ tôi bán thuốc lá.
Tên vệ binh gác cổng ngó Non từ đầu đến chân, hỏi xẵng.
- Trước kia làm gì?
Với sự thực thà, lại càng thực thà hơn ở một người bị thương nơi đầu không còn được sự tính toán chuẩn xác và thích hợp trước một biến cố, Non ngây thơ trả lời.
- Trước đây ấy à? Trước đây tôi là trung úy. Tôi giải ngũ rồi...
Tên vệ binh nghe thấy Non thản nhiên xưng dĩ vãng ra, nó trợn mắt ngó Non như ngó một tên gián điệp nguy hiểm. Nó chỉ tay xuống đất, gay gắt ra lệnh.
- Bỏ cái túi xuống đây kiểm tra. Anh đứng nghiêm.
Sau khi kiểm soát sắc thuốc lá mấy thằng vệ binh đều sáng mắt. Một thằng nói.
- Nhân danh Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Định, tổ vệ binh canh phòng địa điểm tập trung trình diện cải tạo Lê Quang Định cấm anh rời địa điểm từ giây phút này. Số thuốc lá của Đế Quốc bị tịch thu để làm vi bằng buôn lậu!
Thế là tự dưng chưa thuộc diện cải tạo, ít lắm là trong giai đoạn hiện tại, Non bỗng lơ mơ đi vào đường tù tội và đánh mất luôn cái vốn liếng cuối cùng của cả gia đình là sắc thuốc lá! Ngày tháng qua Non cũng lầm lũi đi lao động khổ sai, cũng gù lưng học tập và thảo luận chính trị, cũng hòa mình vào mọi chuyển động của đời sống nơi đây. Mỗi ngày đi lao động, Non vẫn còn sự tốt bụng là tìm về những mớ cỏ mực cho bạn bè bị kiết lỵ sắc uống. Giờ đây, Non vừa bị một thằng bạn phạm thuốc nổi cơn điên loạn tố giác anh trước mọi người như là một tên tình báo CIA nằm vùng. Họa vô đơn chí, Vĩnh nghĩ bụng, tương lai thằng này chắc rồi sẽ đen hơn mõm chó!
Một giọng nói như báo động khẽ cất lên từ một góc nhà nơi có thể nhìn ra hướng cổng trại.
- Sao chúng nó gồng gánh nhau về kìa!
Tất cả mọi người trong phòng đều chồm dậy. Dưới ánh sao đêm, cái võng và ba bốn người nhấp nhô đang đi vào trong sân. Đoàn người dừng lại một lúc trước hội trường và có vẻ lúng túng chưa biết làm gì. Sau cùng, đám người khênh võng bước theo tên quân y vào hội trường. Mười phút sau họ rời hội trường và không có cái võng đi theo.
Một tay nằm gần Vĩnh hỏi vu vơ.
- Vậy là làm sao?
Một giọng khác.
- Chắc tịch dọc đường khênh về chứ gì!
Trời đã như gần sáng mà chẳng mấy ai ngủ được. Vĩnh trỗi dậy đi ra cầu tiểu. Anh gặp được một tay ở khối 4, hỏi luôn.
- Tay Trường ra sao bạn?
- Chết rồi. Lên tới trung đoàn nó đã chết từ hồi nào. Họ bắt đem về.
Vĩnh nghĩ ngợi.
- Tại sao lại có chuyện quái đản vậy?
- Quái đản là làm sao?
- Trước khi chết sao nó nói sảng vậy?
Người bạn vừa đứng tiểu vừa thở dài.
- Mẹ bố nó, đáng lý nó chết ai cũng thương, hóa ra cả trại ai cũng chửi. Thứ chết còn hại bạn!
- Giờ xác để đâu?
- Mắc võng nằm trên hội trường.
Anh bạn vắn tắt trả lời rồi xoay lưng bỏ đi. Trên đoạn đường trở về phòng phải vượt qua vài luống cải ngồng rồi vài gốc cây bông gòn lớn, nơi Vĩnh từng mắc võng nằm cả tháng trời vì kiết lỵ, bỗng dưng Vĩnh thấy tóc gáy dựng đứng. Gió vi vu thổi qua những cành cây nghe như lời gào thét của người vừa chết - một lời gào thét có lẽ độc ác nhất trong những lời gào thét mà anh từng nghe thấy - còn vang vọng đâu đây! Nghĩa tử là nghĩa tận. Hầu như cả trại, vì quá ái ngại cho người còn sống nên đã quên thương lấy người đã chết. Nếu xét cho cùng, cả người sống lẫn người chết đều đáng xót thương cả. Tất cả, không nhiều thì ít, đều đã và đang bị biến thái từ thể xác đến tâm hồn nơi cái thiên đường Cộng sản này. Ở bề ngoài, trên da thịt chưa ai xuất hiện dáng thú vật; nhưng ở bên trong, nơi có tâm hồn ngự trị, biết bao nhiêu kẻ đã mọc xanh một lớp lông thú xa lạ mà không hề tự biết! Thằng Ba Tô nó có biết việc nó làm là giết anh em không? Trên quan niệm sống của nó, biết đâu nó có đủ lý luận để biện minh cho hành động đê tiện làm chó săn của nó là đúng!? Nó đã hóa thú rồi. Lấy lòng con người để xét dạ con thú thì liệu hành động của con người ấy có đúng chỗ hay không?
Vừa đi Vĩnh vừa suy nghĩ lan man. Dẫu rằng cũng như mọi người, Vĩnh quan tâm rất nhiều cho vận mạng của hai anh chàng Tỷ và Non, nhưng trong sâu thẳm của lý trí và trái tim, Vĩnh thấy rõ mình không còn mảy may oán giận người đã chết. Làm kiếp người có nhiều hoàn cảnh không cho người ta được hưởng một cái chết bình thường, mà buộc phải chọn lựa một cái chết đẹp hay một cái chết không đẹp. Hoàn cảnh phải chọn lựa này có lẽ không đâu bằng trong lao tù Cộng sản. Trước sự phán đoán của đám đông, Trường đã chết một cái chết không đẹp, âu cũng là một điều đáng chia buồn cho hắn. Nhưng thù thực sự, nếu có, là cái thù dành cho những nguồn gốc của những cái chết không đẹp như thế. Và nguồn gốc ấy là ai? Kể cả thú vật xứ này cũng biết!
Bửng mắt hôm ấy chuyện gì phải đến đã đến. Sau khi tiếng kẻng báo thức 5 giờ điểm, trời còn mờ mờ, trong lúc mọi người đang lo đánh răng xúc miệng ngoài giếng thì cổng trại bỗng bật mở. Bốn thằng vệ binh súng ống đầy đủ bước vào, theo sau là tên thủ trưởng, chính trị viên và quản giáo khối 4. Chúng tiến đến trước vuông sân tập họp của khối 4. Khối trưởng khối phó chạy ra. Năm phút sau cả khối tập họp đầy đủ ngay trước khối. Tên chính trị viên Thảo mặt hầm hầm như một hung thần, thay mặt thủ trưởng dõng dạc lên tiếng sau khi cả khối đã làm xong thủ tục nghiêm nghỉ. Hắn nói lớn.
- Hai tên Tỷ Non bước ra khỏi hàng!
Tỷ và Non đồng bước ra khỏi hàng. Họ tiến đến chỗ được chỉ định đứng trước tập thể khối. Tên thủ trưởng bước tới một bước. Hắn mở rộng một tờ giấy trên tay và dõng dạc đọc.
- Lệnh bắt giam! Nhân danh thủ trưởng trại cải huấn L4T3, chiếu nghị quyết của ban chỉ huy trại, căn cứ trên lời tố giác của người đã chết, nay ra lệnh các đồng chí vệ binh bắt giam hai tên Nguyễn Văn Tỷ và Trần Văn Non thuộc tổ 3, khối 4. Trong khi chờ cuộc điều tra kết thúc để truy tố hai tên giết người phi tang ra trước tòa án nhân dân, mọi quyền lợi dành cho các cải tạo viên của hai tên Tỷ và Non được chấm dứt kể từ giờ phút này. Thủ trưởng L4T3 ký tên.
Tên thủ trưởng đích thân đọc xong lệnh bắt giam, hắn đưa mắt nhìn hai thằng vệ binh đứng gần nhất. Như đã có sắp xếp, hai thằng vệ binh hùng hổ bước tới chỗ đứng của Tỷ và Non. Chúng lấy dây thừng đem theo trói trật cánh khỉ Tỷ và Non lại. Xong đâu đấy, chúng kéo giật hai người lại phía sau vài bước cho thêm phần... bạo lực Cách mạng!
Ngoài dự trù của mọi người là sẽ phải nghe một bài học dông dài sau khi chúng đã trói Tỷ và Non, tên thủ trưởng lại chỉ nói vội khối trưởng hô mọi người đứng nghiêm. Sau khẩu lệnh nghiêm của khối trưởng, cả bọn chúng đều xoay lưng hùng hổ lôi hai người bị bắt giam về phía cổng trại.
Cả trại đều đổ dồn về khối 4. Mọi thứ lời bàn đồng loạt được tung ra. Mọi lời dự đoán về số phận Tỷ và Non đều được nói tới. Một số khác mon men đến nhìn vào hội trường. Xác của người chết vẫn nằm trên một cái võng mắc bên trong đó.
Một thảm kịch giản dị. Một người chết vì lạm thuốc và hai người khác sửa soạn lãnh bao cực hình vì người chết đó. Tất cả đều cùng nằm trong một giai cấp mới của xã hội này: Giai cấp tù cải tạo!
Những tiếng kẻng vang lên báo hiệu một ngày lao động khổ sai mới đã bắt đầu. Ai trở về khối nấy để sửa soạn tập họp. Mọi người lại xếp hàng, lại tay lon tay cóng, lại cuốc lại xẻng...
Buổi trưa đi lao động về, ai cũng biết tổ trực khối 4 đã làm xong hai việc. Họ đã đem chôn xác Trường ngoài cánh đồng cỏ lau, đồng thời đã bới hố rác theo như chỗ mà Tỷ và Non đã khai đem đổ bã cỏ mực sau khi sắc cho nạn nhân uống. Tổ trực đã tìm thấy đống bã cỏ mực đúng như lời khai.
CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN
Miền Nam hai mùa mưa nắng rõ rệt, nên nó không có cái cảnh thốt nhiên những cây cỏ ủ rũ của mùa Đông hóa thành xanh tươi để báo hiệu cho một mùa Xuân. Đời tự do đã khó phân biệt như thế, nói chi những kẻ ngồi đếm lịch trong bóng tối lao tù Cộng sản. Thế nên, nếu như không có những chiến dịch thi công mừng Tết dân tộc do bọn cai tù phát động, thì đếm cả đời, lũ tù cũng chẳng thể tìm ra tờ lịch nào là tờ báo hiệu cho một ngày nguyên đán.
Công tác thi công của tổ A.3 là phá sạch những nền nhà sau cùng nơi khu hành chánh tài chánh của BTL/SĐ25 trước kia. Suốt ngày trầm mình dưới nắng, bọn Vĩnh phải lấy sức người với tất cả những vật dụng tự chế để phá nền nhà. Lâu lâu lại có một tiếng nổ vang lên quanh quất; lại có những bóng người hớt hải xô dạt, rồi khênh nhau chạy về trại tìm cách cấp cứu. Những tiếng nổ như thế hay xảy ra ở những ụ đất phòng thủ của căn cứ. Họ đã cuốc nhằm những đầu đạn M.79 hoặc đạp nhằm mìn cóc, mìn râu trong lúc làm khổ dịch khai quang...
Với nhiệm vụ khai quật các nền nhà, tuy có cực khổ nhưng an toàn hơn. Dầu sao công việc này đã có thể thoải mái hơn nữa nếu như mỗi ngày Vĩnh và các bạn không phải nghe thấy những tiếng gào phát ra từ một cái tủ sắt lớn đựng bạc trước kia. Cái tủ sắt giờ đây nằm trơ vơ trên một nền nhà xi măng giữa trời giữa đất. Nó chỉ có vài lỗ thủng thông hơi được đục vội vã chung quanh. Tỷ và Non bị nhốt ngồi trong đó. Tiếng gào la khàn khàn và tắc nghẹn của họ chẳng phải để kêu ca oan uổng, chẳng phải để đầu hàng cái cực hình họ đang chịu; mà tiếng gào la của họ chỉ là những tiếng phát ra từ một nhu cầu sinh lý tận cùng nhất.
- Nước! Cho tôi nước!
- Trời ơi! Cho tôi nước!
- Nước! Cho tôi một giọt thôi. Trời ơi!
Tiếng gào la đứt ruột ấy làm cho Vĩnh bao lần chết lặng. Lao động bên ngoài dưới trời nắng Tây Ninh, cứ mỗi năm phút người ta lại phải uống nước một lần để không héo người dưới cái nắng. Nhốt trong một cái hộp sắt chật chội thế kia người ta còn khát tới đâu!? Có lần Vĩnh đánh bạo xin phép tên vệ binh ngồi canh tù trong một bóng mát gần đấy.
- Báo cáo anh tôi cho hai anh trong đó gáo nước được không?
Tên vệ binh nhăn mặt cáu kỉnh.
- Muốn vào đó luôn thì cứ việc!
Vĩnh không nói gì thêm. Anh đã có ý định riêng. Khi tên vệ binh bước sang kiểm soát một khu vực khác, Vĩnh nhìn sô nước của bán tổ để dành uống và ngẫm nghĩ. Cái hộp sắt kín bưng chỉ có vài lỗ thông hơi không cách gì tiếp nước cho hai người bị nhốt trong đó được! Sau cùng Vĩnh quyết định hỏi qua ý kiến của tổ trưởng Tứ. Tứ nhìn Vĩnh với vẻ khó chịu như người thình lình bị dồn vào một chân tường. Tuy nhiên Tứ không nói gì. Anh ta chỉ thoáng nhìn trời nhìn đất rồi cúi xuống khuân tiếp những tảng xi măng lớn vứt vào một đống. Vĩnh đã quyết định. Anh xách sô nước lên, quan sát chung quanh một vòng rồi tiến sát tủ sắt gần chỗ mấy lỗ thông hơi. Vĩnh hắt nguyên sô nước vào những cái lỗ thông hơi ấy. Bên trong chỉ có những tiếng lục đục mà không nghe thấy nói một lời nào. Vĩnh thầm nghĩ: Có lẽ hai đứa đang lên thiên đàng. Chúng có thể đã quên hết ngôn ngữ của trần gian này rồi!
Vĩnh xách cái sô không để lại chỗ cũ. Anh quay lại với công việc, vừa làm vừa nghĩ. Hai thằng bị nhốt như thế, mỗi ngày chỉ được phát tiêu chuẩn nửa lít nước uống làm sao chịu thấu!? Thế rồi Vĩnh không khỏi không uất ức nhớ lại ngày xưa... Bị ngộ độc bởi đòn tuyên truyền của Cộng sản, cả thế giới Tự do bỗng dưng trở mặt với đồng minh vì toàn những lý do không xứng đáng, và một trong những lý do không xứng đáng nhất là vụ chuồng cọp! Giả dụ như một số bọn trí thức, văn nghệ sỹ, bọn báo chí, bọn phản chiến bất lương đui mù chúng nó lên án này kia kia nọ còn có lý do khả thứ; ngay cả phái đoàn dân biểu Mỹ mà Vĩnh còn nhớ cầm đầu là dân biểu Paul Mc. Closkey, sang điều tra tình hình Đông Dương vào đầu tháng 3/75, và trước khi về nước đã họp báo ở Tân Sơn Nhất kêu gọi tổng thống Thiệu đình chỉ việc bắt giữ và tra tấn tù nhân chính trị nếu muốn VNCH còn được hưởng viện trợ Mỹ... Ngày nay tất cả những người ấy đang ở đâu nhỉ? Họ có biết rằng tỷ như xưa kia có chuồng cọp chăng nữa, thì những chuồng cọp ấy so với lối giam giữ ngày nay của CSVN chỉ đáng hàng em út xa lắc xa lơ? Thật là bất công, Vĩnh nghĩ, nếu Trời không tạo một dịp nào đó để nhúng những kẻ ngu muội ấy vào lửa Cộng sản một lần cho họ được sáng mắt ra!
- Trời ơi! Sô nước mới đây sao hết nhẵn rồi?
Tiếng la hốt hoảng của tổ phó Khoa chợt cất lên sau lưng Vĩnh. Vĩnh lầm lì.
- Đổ hết vào cái két sắt kia rồi.
Tổ phó Khoa cau mày.
- Cha ẩu vừa thôi cha. Lãnh búa cả đám.
- Lãnh tao chịu.
Biết Vĩnh nóng tính, Khoa im lặng. Hắn chỉ khẽ cằn nhằn lúc quay đi.
- Tối nay họp tổ tôi sẽ đưa vụ này ra mổ xẻ.
Vĩnh nổi cáu phát cười gằn.
- Thôi mổ xẻ làm đéo gì! Tao xin khắc phục khuyết điểm tại chỗ được không? Lần sau, kể cả mày có phải chui vào cái hộp này, tao xin hạ quyết tâm một giọt nước đái tao cũng không cho.
Khoa thấy Vĩnh thật sự muốn khà khịa, hắn im luôn và bỏ đi một nước.
Với riêng Vĩnh, mùa Xuân đầu trong tù đến với một tâm trạng và quang cảnh như thế. Tuy nhiên trước Tết hai tuần, cả trại, thú thật trong đó có cả Vĩnh, lòng bỗng nở rộ một đóa hoa Hy Vọng rực rỡ lạ thường. Đợt đầu tiên được thả!
Cả trại L4T3 được thả 14 người. Khối 2 có tỷ số cao nhất trại 6 trên 14 và tổ A.3 chiếm kỷ lục trong khối 2 với tỷ số thả 2 trên 6: Văn, cựu hải quân trung úy có bố thoát ly từ lúc hắn mới lọt lòng mẹ. Nguyên, thiếu úy giảng viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, có chú mang quân hàm đại tá hiện làm việc trong văn phòng An Ninh Nội Chính của Cao Đăng Chiếm. Thằng Ba Tô của tổ 7 cũng được thả trong dịp này nhờ một nguyên nhân không ai biết rõ ngoài hai điểm để có thể dự đoán: Một, từ đầu đến giờ nó đã hành nghề chó săn một cách xuất sắc khác thường; hai, căn cứ theo bản tự khai từng đọc trước khối của nó thì cả ba đời nội ngoại nhà nó đều là dân bần cố trung kiên với Cách mạng từ thủa Cách mạng còn... đỏ hỏn!
Với số người được thả không lấy gì làm khích lệ cho lắm, nhưng quả thực đã làm cho bao nhiêu người tối mặt tối mày. Hy vọng sống lại thật nhanh bằng một lập luận giản dị: Như thế là cánh cổng trại cải tạo đã hé mở. Nếu chưa thể mở toang một lượt thì cũng sẽ được mở rộng từ từ. Nay anh mai tôi...
Nhân vụ thả, bọn cai tù lại có dịp lôi tù lên lớp để tha hồ khoe khoang về đường lối khoan hồng trước sau như một của nhà nước Cộng sản. Và để cho không khí trại càng thêm phần hồ hởi phấn khởi, bọn cai tù chấm dứt đợt thi công sớm hơn hai ngày với bản báo cáo tất niên đọc trước trại có nội dung rất vượt chỉ tiêu, vượt đến nỗi bọn tù ngồi bên dưới đâm ngượng với thành quả lao động tự biết... rất khiêm tốn của chính mình. Nào là trong quý 4, khối 1 đã cải tạo được 30 mẫu đất đá ong biến thành nơi canh tác tốt. Khối 2 đã giải phóng được 20 tấn đạn đủ loại khỏi các hầm chứa trong nội vi trại và đã khai quật hơn 100 nền nhà Mỹ...
Nghe tên thủ phó Môn đọc bản báo cáo trước tập thể, có đại diện trung đoàn chủ tọa, mà bọn tù hết hồn. Ở đâu không biết chứ người khối 2 làm sao mà không rõ chuyện khối 2! Đạn đâu mà lắm thế? Rồi nền nhà Mỹ nữa! Tính rộng lắm cũng chỉ có chừng 30 cái nền nhà Mỹ trong phạm vi trách nhiệm của L4T3. Ba mưoi cái mà tay không phá trong mấy tháng đã đủ thấy ông thấy bà, một trăm cái phá sao cho hết, mà có hết đi nữa thì lấy nền nhà đâu ra mà phá!?
Thời còn thơ ấu ở Liên Khu Tư Vĩnh đã được nghe và đã sớm hiểu ý nghĩa của ba chữ Bờ-Cờ-Lờ, chữ tắt của động từ báo cáo láo trong giới Vẹm thời bấy giờ. Hai mươi mấy năm qua Vĩnh không ngờ bệnh Bờ-Cờ-Lờ trong hàng ngũ Cộng sản vẫn không đỡ tí nào. Trầm kha hơn là đàng khác!
Nhưng chúng muốn báo cáo với thượng cấp của chúng thế nào thì cũng kệ cha chúng, điều hân hoan chính là lũ tù được biết, qua sự thông báo trang trọng của chính tên thủ trưởng trại, theo đó vào dịp Tết tới đây, Cách mạng rất quan tâm và sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các cải tạo viên vui chơi đủ 3 ngày Tết truyền thống của dân tộc. Tiếp theo lời thông báo ấy, tay hậu cần trại đã đọc một danh sách các món ăn mà tù sẽ được hưởng trong dịp Tết như thịt lợn, nếp, bánh kẹo và có thể có cả tí... "máu nhân dân" nữa.
Tuy nhiên Tết chưa đến, những món béo bở nằm trong bản dự trù cấp phát của hậu cần trại dĩ nhiên chưa được thực hiện; nhưng điều trước mắt mà tù phải thực hiện ngay là đêm văn nghệ cho toàn trại. Các khối phải tổ chức những trò chơi hoặc những cuộc thi đấu như múa lân, kéo dây, cờ tướng, bóng chuyền v...v... để tạo không khí vui chơi thoải mái trong ba ngày Tết. Các ban văn nghệ thể thao được thành lập tại các khối tức thì. Trưởng ban của khối 2 là Huỳnh Công Cẩn, trung úy ANQĐ từng là tùy viên của ông số 2 ngành này. Trong ban của Cẩn có Đính phụ trách vũ, Vĩnh tiếp tay Nguyễn Đình Thuần lo chế một cái contre-basse dã chiến và một bộ trống. Đàn Guitar và Mando khung sẽ cho mượn.
Sau khi các ban văn nghệ khối phối hợp với nhau, một vài nhân vật được bầu ra để nắm giữ những chức vụ chính điều hành chung một ban văn nghệ trại. Đặng Thế Tiến của khối 4 làm phối trí viên. Nguyễn Văn Hóa của khối 3 với nghề cũ là ca trưởng một ca đoàn Công giáo lớn tại Sài Gòn phụ trách ban hợp xướng. Lê Văn Tần của khối 1 tốt nghiệp trường Âm nhạc Kịch nghệ Sài Gòn phụ trách dựng và đạo diễn kịch. Nguyễn Thành Đính của khối 2 phụ trách vũ. Trần Văn Chung của khối 3 phụ trách ảo thuật. Họa sỹ Hiếu Đệ của khối "cũ" (sau đó được bổ sung thêm tù và lập thành khối 5) có Đặng Ngọc Sinh của khối 2 trợ lực phụ trách trang trí sân khấu cũng như các vật dụng hóa trang... Riêng ban nhạc hầu hết là người của khối 2 phụ trách. Vĩnh contre-basse, Nguyễn Văn Lộc cùng tổ 3 với Vĩnh và Đặng Thế Tiến chơi Guitar, Kiều Công Long của khối 4 chơi Mando và "Ông Đạo Dừa" Nguyễn Lâm của khối 2 thủ giàn trống.
Trong khi ở các khối các anh em khác thuộc các ban lân, ban thể thao, ban ẩm thực... đang lo xúc tiến công tác của họ thì trên hội trường ban văn nghệ cũng tập dợt ráo riết. Trên sân khấu, đạo diễn Lê Văn Tần suốt ngày la hét um sùm y chang một đạo diễn thứ thiệt để điều khiển anh em trong ban kịch. Ở một góc khác của hội trường nhạc trưởng Nguyễn Văn Hóa đang vã mồ hôi tập cho một ban hợp xướng 50 người, toàn thứ ca sỹ bất đắc dĩ trốn lao động chân tay nhập vào ban hò hát. Ai làm sao mặc, Vĩnh cứ ôm cây đại hồ cầm do chính tay anh làm bằng một can xăng thủng với ít sợi dây điện thoại gẩy từng tưng theo lệnh của nhạc trưởng Hóa. Cạnh Vĩnh là Tiến. Lâu không được đánh đàn, có cái guitar trong tay, hắn chẳng đệm theo nhu cầu ban nhạc mà xoay vào một góc ngồi búng classique cho đỡ nghiền.
Bài hát hiện đang được Hóa tập cho mọi người hợp xướng là bài Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao được in trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Chính tên chính trị viên đưa bài này cho Hóa. Hóa có vẻ thích bài hát này vì một phần nhạc cũng khá hay, phần khác ngôn ngữ vẫn rất ướt át lãng mạn và không có tí nào chửi bới bọn "ngụy" trong đó cả. Hóa tập thật kỹ bài hát này cho ban hợp xướng.
Trước Tết 5 ngày thì đợt tổng dợt có sự kiểm tra của đại diện ban quản giáo được thực hiện. Tên quản giáo già khó đăm đăm của khối 4 xuống trụ trì buổi tổng dợt. Hắn lượn một vòng xem ban vũ biểu diễn, khen chê vài tiếng qua loa rồi lướt qua ban kịch. Sau cùng hắn dừng chân trước ban hợp xướng. Nhạc trưởng Hóa đợi đến lúc tên quản giáo đến gần mới ra hiệu cho tiếng contre-basse đi vài nốt dẫn nhập. Tên quản giáo già vừa nghe thấy mấy tiếng đàn trầm bỗng thốt lên kinh ngạc.
- A! Các anh chế được cả đàn công-tờ-rờ-bạt-xờ cơ à?
Cả bọn nghe nhằm một chữ tiếng Tây của ông quan quản giáo không hẹn đều phát phì cười.
Hóa là đầu đàn, thấy mọi người đều bật cười trước một câu nói của tên quản giáo làm anh cũng thấy ái ngại. Anh vội quay lại nhìn hắn và nói nhỏ nhẹ.
- Vâng, thưa anh cái công-tờ-rờ-bạt-xờ...
Sự lập lại chữ tiếng Tây theo giọng điệu của... Cách mạng của Hóa khiến cả ban hợp xướng cùng phá lên cười, một thứ tiếng cười không cách gì cầm giữ lại được. Riêng tên quản giáo ngẩn ngơ không hiểu bọn tù cười cái gì. Hắn trố mắt hỏi mọi người.
- Chứ tôi nói sai à? Cái đàn ấy không phát ra âm công-tờ-rờ-bạt-xơ là cái gì đấy?
Thấy cười nữa có thể nguy hiểm, ai cũng ráng nuốt tiếng cười đánh ực một cái xuống bụng. Hóa giơ tay gãi trán, nói liếm lấp.
- Báo cáo anh âm đàn ấy đúng là âm đàn công-tờ-rờ-bạt-xờ, nhưng hình dạng thì không phải thế...
Tên quản giáo ra điều hiểu biết. Hắn nói.
- Thì tôi nói âm chứ có nói hình thức đâu! Hình thức thì các anh làm sao làm được. Ngay nhà hát lớn ngoài thủ đô Hà Lội ta cũng mới có một cái. Ngẫm nghĩ tí chút, hắn tiếp. Thôi các anh tập đi không mất thì giờ. Tôi tham quan tí còn đi các ban khác...
Nói rồi tên quản giáo bước xéo ra đứng gần chỗ cửa và nhìn ban hợp xướng khởi sự tổng dợt. Nhạc trưởng Hóa nhìn anh em một thoáng. Ngón tay anh vẩy nhè nhẹ cho tiếng đại hồ cầm nổi lên để bắt trớn cho tiếng Mando trong trẻo của Kiều Công Long nhập cuộc. Khi trống, đàn, sáo đã đi hết phần Intro; nhạc trưởng Hóa chợt vung tay như chộp một con ruồi bên trái, hai mươi giọng hát bên cánh tả đồng lượt cất lên.
Rồi dập dìu mùa Xuân theo én về, Mùa bình thường, mùa vui nay đã về, Mùa Xuân mơ ước ấy, nay đã về đây...
Vừa hát được ba câu cả ban hợp xướng bỗng im bặt. Ai cũng thấy tên quản giáo nhảy nhổm như bị kim châm vào đít. Hóa thấy anh em ngưng ngang xương và đều ngó về phía tên quản giáo, anh linh tính thấy điềm không lành vội quay mặt lại. Tên quản giáo già bước nhanh đến gần Hóa, trợn mắt méo mồm mắng.
- Im hết đi, hát cái bài nhảm nhí gì vậy?
Hóa hơi nhăn mặt nhưng vẫn cố giữ giọng phân trần.
- Báo cáo anh... Tên quản giáo khoa tay chận Hóa lại.
- Tôi bảo im! Ai? Ai trong các anh là kẻ soạn ra bài hát này? Hắn hùng hổ lên lớp. Một bài hát hoàn toàn phản động và đầy ngụy tính từ nội dung đến hình thức.
Nhạc trưởng Hóa ngỡ ngàng như từ trời rơi xuống.
- Dạ thưa...
- Anh chưa được nói. Tên quản giáo nghiêm giọng. Tôi sẽ phân tích tính phản động của bài ca này trước, sau đó kẻ sáng tác nó sẽ phải trả lời trước ban quản giáo trại. Tôi nhắc lại, đây là một bài hát cực kỳ phản động. Thứ nhất nhạc Cách mạng không được phép ủy mị như thế. Rõ ràng đây là một bài nhạc vàng, đã dùng thể điệu Van-xờ, một thể điệu mà bọn nhạc sỹ phản động ưa dùng để diễn tả cái tâm tình ủy mị thấp kém, làm suy giảm tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Thể điệu Van-xờ...
Tất cả những người đang hiện diện ở hội trường đều nửa khóc nửa cười với lời lẽ của tên quản giáo. Hóa mím môi lấy can đảm
- Thưa anh...
Tuy nhiên tên quản giáo nhất định không cho Hóa nói. Hắn cướp giọng.
- Anh ngoan cố tôi cùm anh ngay. Tôi chưa nói hết. Dứt khoát tôi cấm các anh học tiếp bài Van-xờ này. Nó là một bài cực kỳ phản động. Mùa Xuân thế này mà dám nói là mùa Xuân bình thường à? Một mùa Xuân đại thắng, mùa Xuân đầu tiên độc lập, tự do và thống nhất, mùa Xuân tốn bao xương máu của các chiến sỹ Cách mạng mới quy được đất nước về một mối... mà dám bảo là mùa Xuân bình thường à? Bố láo bố lếu! Bài này ở đâu ra? Ai cho phép các anh học hát bài này?
Nhạc trưởng Hóa thấy không phải chuyện chơi rồi, thế nên anh vội vàng trình bày.
- Báo cáo anh bài này anh chính trị viên Thảo đã thuận cho tập. Vả lại nó là bài hát của Cách mạng...
Tên quản giáo già chỉ mặt Hóa. - Bố láo. Đừng nói bố láo!
Hóa vội vàng móc túi quần sau chìa ra một mảnh của tờ báo Sài Gòn Giải Phóng đã nhầu nát, có đăng bài Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao cho tên quản giáo xem. Tên quản giáo cầm lấy mảnh báo mần mò như người ta nặn nút bài cào. Một lúc sau hắn nhét tờ báo vào túi áo, nhăn mặt và lẩm bẩm. Lạ nhỉ! Lạ nhỉ! Sao báo lại cho đăng một bài hát có nội dung phản động dường này!?
Nghĩ ngợi một thoáng, hắn tằng hắng nói với Hóa. Thôi được, tạm thời các anh học bài khác. Tôi sẽ trình đồng chí chính trị viên nghiên cứu lại bài hát này.
Tên quản giáo nói đoạn bước thẳng ra cửa trước sự ngơ ngác của mọi người. Ra tới cửa, hắn bỗng dừng chân và quay lại dặn Hóa một câu cuối. Học bài nào thì học, nhưng cấm ngặt không được học và trình diễn những bài có thể điệu Van-xờ đấy nhé!
Vĩnh ngao ngán ngó về phía sân khấu. Đạo diễn Tần đang nhảy như con choi choi và la hét luôn miệng. Cắt! cắt! ĐM. chỗ đó mày phải té xuống. Mày phải cố gắng kéo mép phải lên gần lỗ tai, càng gần càng tốt để tạo nét mặt cực kỳ đau đớn. Bị bắn vào bụng mà chỉ nhếch mép như cười tình coi thế đếch nào được! Thằng Hoàn nữa! Tao bảo mày mấy lần rồi. Khi tiếng súng nổ mày phải hốt hoảng chạy từ cánh gà bên trái vào phía bàn thờ tuốt trong kia để tạo chiều sâu sân khấu. Cứ chập chờn phía ngoài thế kia như cứt nổi trên ao trông chán lắm...
Trong lúc ban hợp xướng tập lại với bài Hò Kéo Pháo thì tên chính trị viên Thảo xuất hiện nơi cửa hội trường. Hắn đảo mắt một vòng rồi bước lại phía Hóa đứng. Đợi cho câu hát cuối cùng chấm dứt bài hát đang dợt, hắn lên tiếng.
- Này anh Hóa!
Hóa quay lại.
- Ồ anh... tôi đang muốn gặp...
Tên chính trị viên khoa tay.
- Tôi quán triệt vấn đề rồi. Cứ yên tâm tập dợt như thường. Tôi sẽ ở đây đích thân kiểm tra. Hóa muốn chơi tên quản giáo khối 4 một cái. Anh nhỏ nhẹ nói với tên Thảo.
- Báo cáo anh ban nãy theo sự lên lớp của anh quản giáo khối 4, anh em đều ái ngại và không muốn tập tiếp bài Mùa Xuân Đầu Tiên nữa... Tên chính trị viên lại xua hai tay như đuổi ruồi.
- Tôi đã bảo rồi. Tôi trách nhiệm và cho các anh học trình diễn bài ấy. Cái nhà anh quản giáo Thìn ấy thì biết cái gì! Anh ấy học chưa qua lớp 3 ấy mà...
Hóa thấy tên chính trị viên còn coi đồng bọn của nó chẳng ra gì nên anh không nói thêm nữa. Anh quay lại điều khiển anh em hát bài Mùa Xuân Đầu Tiên để cho tên chính trị viên duyệt. Tên Thảo đứng coi một lúc và gật gù ra chiều chịu lắm. Hắn đi tới đi lui, góp ý cho hết toán này sang nhóm nọ. Hắn đứng lại bên cạnh họa sỹ Hiếu Đệ, ngó anh đang vẽ rồng vẽ phượng trên một miếng giấy bao xi măng lớn bên hông sân khấu.
- Vẽ khéo đấy nhỉ! Tên chính trị viên lên tiếng khen vu vơ.
-.....
- Anh học vẽ lâu chưa?
Hiếu Đệ trả lời.
- Báo cáo anh cũng gần 30 năm rồi.
- Thế thì vững tay nghề lắm... Mà xưa anh làm gì?
- Dạ tôi dạy ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.
- Thế sao lại đi cải tạo?
Hiếu Đệ vừa cạo ít bột từ một viên gạch chỉ ra làm màu, vừa khẽ đáp.
- Dạ tôi là thiếu úy biệt phái.
Tên Thảo giơ cao hai tay.
- À, ra thế! Chắc anh là sỹ quan chiến tranh chính trị?
Nghe hỏi Hiếu Đệ giãy nảy như đỉa phải vôi.
- Thưa không. Tôi không dính dáng gì tới ngành chiến tranh chính trị cả!
Trước khi tiến tới ngồi trên một cái ghế kê trước sân khấu để xem tù dợt kịch, tên chính trị viên an ủi Hiếu Đệ.
- Tội anh thế cũng nhẹ. Cố gắng phục vụ tập thể tốt để được Cách mạng xét cho về còn đem tài ra phục vụ nhân dân.
Hiếu Đệ vừa vẽ vừa ậm ừ cho qua chuyện.
Phía bên này ban nhạc đã dợt xong, bọn Vĩnh xách điếu cày lại ngồi bên cánh trái sân khấu xem ban kịch tổng dợt.
Vở kịch được Tần dựng có nội dung không xuất sắc lắm. Một công nhân dân miền Nam thoát ly theo lời Bác gọi, sau trở vào Nam chiến đấu chống Mỹ cứu nước, anh không hề được biết chuyện gì xảy ra cho mẹ và vợ ở quê nhà thuộc một vùng ngoại ô Sài Gòn. Khi miền Nam đã được giải phóng, anh vinh quy bái tổ với đôi dép râu, với cái nón tai bèo và mươi ký gạo ăn đường đeo nặng trên vai. Lúc anh bước về tới sân nhà thì trời đã tối. Khẽ đẩy cánh liếp, anh nhìn vào và chết sững vì xúc động. Người vợ vẫn ở vậy chờ anh. Vợ chồng gặp nhau hàn huyên một lúc, mãi sau anh mới chợt nhớ ra quanh anh còn thiếu một người thân yêu nữa. Anh chợt lên tiếng hỏi. Mẹ đâu? Người vợ lúc này mới òa lên khóc. Chị kể rằng trong hơn hai mươi năm anh bỏ nhà ra đi chiến đấu, gia đình đã gặp bao nhiêu biến cố. Nào là Mỹ ngụy càn quét, đã hiếp chị đến... 999 lần, lại còn xả súng bắn chết mẹ già vân vân và vân vân. Kể lể xong chị tiến tới bàn thờ mẹ chồng, đốt vài cây nhang cắm trên cái lư nhỏ. Đến lúc này anh giải phóng mới nhận ra bàn thờ mẹ. Theo đúng truyền thống Cách mạng anh không khóc lóc như những kẻ bình thường. Anh chỉ giơ cao quả đấm, lập lại một câu nói quen thuộc mà Đảng đã dạy: Ta sẽ biến những đau thương này thành hành động cụ thể...
Màn từ từ buông. Một giọng hát từ phía sau sân khấu vang lên bài Đạp Trên Xác Thù để chấm dứt vở kịch.
Xem xong vở kịch. Tiến cười đưa ra một phê phán nhỏ.
- Thằng Tần chơi vợ Cách mạng ghê quá. Chỉ sống để chờ... ngụy đến hiếp thì còn gì là thân thể người ta!
Đính cũng cười, nói chen vào.
- Trâu hiếp chứ ai hiếp!
Hóa đặt cái điếu cày xuống đất, mắt nhìn lên sân khấu.
- Ngày xưa Kiều chỉ "mười lăm năm ấy biết bao vi trùng", ngày nay vợ anh Cách mạng bị hiếp đến hơn 20 năm. Kinh quá!
Cả đám đang tán láo bỗng im hết vì tên Thảo đã bước lên sân khấu. Hắn ra lệnh cho các "tài tử ca sỹ" phải ngồi tụ lại với nhau nơi hàng ghế giữa hội trường. Hắn cất giọng.
- Buổi tổng dợt hôm nay coi như tạm đủ. Quan trọng nhất là vở kịch thì tôi đã được kiểm tra. Qua quan sát có vài nhận xét với các anh thế này. Xét chung chung, mọi bộ môn đều nổi lên cái mặt tự biên tự diễn rất đáng biểu dương. Múa, hát, kịch nói, trang trí vân vân và vân vân đều có nhiều ưu điểm cả. Riêng vở kịch...
Nói tới đây tên Thảo ngó quanh như tìm kiếm ai. Hắn hỏi vu vơ. Anh nào dựng và đạo diễn nhỉ? Tôi quên mất tên rồi!
Bên dưới Tần vội đứng lên.
- Dạ tôi, Tần.
Tên chính trị viên chỉ xuống Tần.
- À, anh Tần. Tôi biết, tôi biết về anh. Nhân đây tôi cũng có lời biểu dương anh. Tuy nhiên trong vở kịch xét trên quan điểm Cách mạng còn nhiều khuyết điểm lắm đấy. Với riêng tôi, tôi thông cảm những khuyết điểm ấy. Dẫu sao với một thời gian dài sống dưới chế độ Mỹ ngụy, chúng đã đào tạo và xử dụng anh vào công tác viết kịch bôi nhọ Cách mạng, thì một sớm một chiều không thể nào tẩy sạch ngay được những khuyết điểm trong nghề dựng và đạo diễn kịch của anh, phải thế không? Vả lại, tên Thảo tằng hắng. Tôi cũng biết hầu hết những kịch sỹ như anh đều được ngụy nó cưng chiều như trứng mỏng, được đem về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị phục vụ với nhiều đặc quyền đặc lợi. Nói tới đây hắn hơi cao giọng hơn. Mà tôi bảo thật đấy nhé, những anh chiến tranh chính trị nếu không là CIA thì cũng là CIB cả đấy!
Bên dưới mọi người đều liếc nhanh sang Tần một cái. Mặt anh chàng đang nghệt ra như gái ngồi phải cọc. Bên trên sân khấu tên Thảo vẫn tiếp tục. Nói thì nói thế thôi. Nhiệm vụ của chúng tôi là giáo dục các anh, uốn nắn những sai trái nếu các anh vấp phải trong học tập cải tạo, đặc biệt trong khâu văn nghệ tự biên tự diễn này, một khâu còn hoàn toàn mới lạ với các anh xét trên cơ bản văn nghệ Cách mạng, phải thế không? Thế thì nhân đây, tôi cũng nêu ra vài khuyết điểm cụ thể nhất để các anh rút kinh nghiệm cho những lần tự biên tự diễn khác sau này. Hắn liếc nhanh đồng hồ tay, tiếp. Thì giờ sáng nay không có nhiều nên tôi chỉ nhặt ra vài khuyết điểm điển hình trong vở kịch thôi. Khuyết điểm thứ nhất thuộc về khuyết điểm ý thức. Tại sao khi anh giải phóng vừa đẩy cánh liếp để bước vào nhà, đạo diễn lại cho vài tiếng chó sủa vang lên đây đó? Xét hời hợt qua hiện tượng thì việc này không thấy gì nghiêm trọng cả, nhưng nếu ta nâng cao quan điểm sẽ thấy ngay tính chất phản động trong cảnh này. Người Cách mạng đâu phải lũ thổ phỉ mà bị chó sủa ran như vậy? Khuyết điểm thứ hai thuộc về hình thức, thuộc về kỹ thuật. Đấy các anh xem! Nói đoạn tên Thảo hơi quay người chỉ lên cái bàn thờ trên phông trong cùng của sân khấu.
Bàn thờ là một bức tranh vẽ nổi gồm một cụ bà người miền Nam có khăn ca-rô quàng cổ, có lư hương ở giữa và hai bên có hai chân nến đàng hoàng. Tên chính trị viên chỉ bàn thờ xong quay lại đám tù, tiếp. Các anh cứ nhìn kỹ bức ảnh mà xem, người mù cũng nhận ra được đó là ảnh của thằng Diệm. Tôi không rõ người vẽ cố tình hay vì tài nghệ chưa tới, đã vẽ một cụ già thành hình thằng Diệm đem lên bàn thờ công khai trên sân khấu!?
Dưới này Hiếu Đệ ngồi cạnh Vĩnh mặt mày xanh xám. Anh quay sang hỏi khẽ Vĩnh.
- Trời đất ơi! Ông nhìn kỹ giùm tôi xem bức ảnh tôi vẽ có giống Ngô Đình Diệm tí nào không?
Vĩnh cười.
- Sao ông dễ tin thế? Chúng nó đâu có muốn cái chuyện đem bàn thờ bàn thánh lên sân khấu bao giờ. Duy vật chứ đâu duy tâm!
- Không chịu thì bảo đẹp bỏ. Sao chụp mũ tui nghe ghê quá vậy?
Đính ngồi sau nghe thấy, chen vào.
- Công khai ra lệnh dẹp bỏ khác nào tự thú mình là đồ không cha không mẹ không thánh không thần. Cách hay nhất là tặng cho ông Hiếu Đệ một cái mũ to tướng, tập thể ai cũng rét và tự động hạ bàn thờ xuống có phải hay không?
Hiếu Đệ như hiểu ra, anh không than thở gì thêm nhưng nét mặt vẫn tái xanh tuồng như cái mũ mà thằng chính trị viên vừa âu yếm đội cho nặng quá đến độ anh chịu không thấu! Mãi một lúc sau Hiếu Đệ mới thì thầm.
- Tôi vẽ hơn 20 năm, dạy vẽ hơn 10 năm; đây là lần đầu tiên tôi không còn tin tưởng ở cặp mắt của tôi nữa. Chắc tôi phải giải nghệ mất!
Vĩnh cười khẽ.
- Ấy, đừng cho chúng nó ghi thêm một điểm son chứ, quan bác!
Trên sân khấu tên chính trị viên còn phen lê đôi ba điều nho nhỏ nữa trước khi hắn cho mọi người giải tán về ăn cơm trưa. Vĩnh kéo một hơi thuốc lào rồi đứng lên khoác vai Đính trở về khối.
Buổi trưa sau khi nhận phần ăn đã được chia chác bởi người trực tổ, Vĩnh chan vội tí nước muối vào ca cơm và xách ra đầu hè vừa ngồi nhìn nắng vừa ăn. Đầu anh lộn xộn nhiều hình ảnh... Một đoạn nhạc mới vừa trôi qua đầu, một đoạn nhạc Xuân thật đẹp; nhưng bỗng nhiên đoạn nhạc tắt nghẽn lúc anh vừa vội vàng bỏ ca cơm xuống lôi mảnh giấy và cây bút chì trong túi ra. Hình ảnh Tỷ và Non gào thét trong cơn khát lại đầy ắp trong trí nhớ Vĩnh...
Công tác thi công của tổ A.3 là phá sạch những nền nhà sau cùng nơi khu hành chánh tài chánh của BTL/SĐ25 trước kia. Suốt ngày trầm mình dưới nắng, bọn Vĩnh phải lấy sức người với tất cả những vật dụng tự chế để phá nền nhà. Lâu lâu lại có một tiếng nổ vang lên quanh quất; lại có những bóng người hớt hải xô dạt, rồi khênh nhau chạy về trại tìm cách cấp cứu. Những tiếng nổ như thế hay xảy ra ở những ụ đất phòng thủ của căn cứ. Họ đã cuốc nhằm những đầu đạn M.79 hoặc đạp nhằm mìn cóc, mìn râu trong lúc làm khổ dịch khai quang...
Với nhiệm vụ khai quật các nền nhà, tuy có cực khổ nhưng an toàn hơn. Dầu sao công việc này đã có thể thoải mái hơn nữa nếu như mỗi ngày Vĩnh và các bạn không phải nghe thấy những tiếng gào phát ra từ một cái tủ sắt lớn đựng bạc trước kia. Cái tủ sắt giờ đây nằm trơ vơ trên một nền nhà xi măng giữa trời giữa đất. Nó chỉ có vài lỗ thủng thông hơi được đục vội vã chung quanh. Tỷ và Non bị nhốt ngồi trong đó. Tiếng gào la khàn khàn và tắc nghẹn của họ chẳng phải để kêu ca oan uổng, chẳng phải để đầu hàng cái cực hình họ đang chịu; mà tiếng gào la của họ chỉ là những tiếng phát ra từ một nhu cầu sinh lý tận cùng nhất.
- Nước! Cho tôi nước!
- Trời ơi! Cho tôi nước!
- Nước! Cho tôi một giọt thôi. Trời ơi!
Tiếng gào la đứt ruột ấy làm cho Vĩnh bao lần chết lặng. Lao động bên ngoài dưới trời nắng Tây Ninh, cứ mỗi năm phút người ta lại phải uống nước một lần để không héo người dưới cái nắng. Nhốt trong một cái hộp sắt chật chội thế kia người ta còn khát tới đâu!? Có lần Vĩnh đánh bạo xin phép tên vệ binh ngồi canh tù trong một bóng mát gần đấy.
- Báo cáo anh tôi cho hai anh trong đó gáo nước được không?
Tên vệ binh nhăn mặt cáu kỉnh.
- Muốn vào đó luôn thì cứ việc!
Vĩnh không nói gì thêm. Anh đã có ý định riêng. Khi tên vệ binh bước sang kiểm soát một khu vực khác, Vĩnh nhìn sô nước của bán tổ để dành uống và ngẫm nghĩ. Cái hộp sắt kín bưng chỉ có vài lỗ thông hơi không cách gì tiếp nước cho hai người bị nhốt trong đó được! Sau cùng Vĩnh quyết định hỏi qua ý kiến của tổ trưởng Tứ. Tứ nhìn Vĩnh với vẻ khó chịu như người thình lình bị dồn vào một chân tường. Tuy nhiên Tứ không nói gì. Anh ta chỉ thoáng nhìn trời nhìn đất rồi cúi xuống khuân tiếp những tảng xi măng lớn vứt vào một đống. Vĩnh đã quyết định. Anh xách sô nước lên, quan sát chung quanh một vòng rồi tiến sát tủ sắt gần chỗ mấy lỗ thông hơi. Vĩnh hắt nguyên sô nước vào những cái lỗ thông hơi ấy. Bên trong chỉ có những tiếng lục đục mà không nghe thấy nói một lời nào. Vĩnh thầm nghĩ: Có lẽ hai đứa đang lên thiên đàng. Chúng có thể đã quên hết ngôn ngữ của trần gian này rồi!
Vĩnh xách cái sô không để lại chỗ cũ. Anh quay lại với công việc, vừa làm vừa nghĩ. Hai thằng bị nhốt như thế, mỗi ngày chỉ được phát tiêu chuẩn nửa lít nước uống làm sao chịu thấu!? Thế rồi Vĩnh không khỏi không uất ức nhớ lại ngày xưa... Bị ngộ độc bởi đòn tuyên truyền của Cộng sản, cả thế giới Tự do bỗng dưng trở mặt với đồng minh vì toàn những lý do không xứng đáng, và một trong những lý do không xứng đáng nhất là vụ chuồng cọp! Giả dụ như một số bọn trí thức, văn nghệ sỹ, bọn báo chí, bọn phản chiến bất lương đui mù chúng nó lên án này kia kia nọ còn có lý do khả thứ; ngay cả phái đoàn dân biểu Mỹ mà Vĩnh còn nhớ cầm đầu là dân biểu Paul Mc. Closkey, sang điều tra tình hình Đông Dương vào đầu tháng 3/75, và trước khi về nước đã họp báo ở Tân Sơn Nhất kêu gọi tổng thống Thiệu đình chỉ việc bắt giữ và tra tấn tù nhân chính trị nếu muốn VNCH còn được hưởng viện trợ Mỹ... Ngày nay tất cả những người ấy đang ở đâu nhỉ? Họ có biết rằng tỷ như xưa kia có chuồng cọp chăng nữa, thì những chuồng cọp ấy so với lối giam giữ ngày nay của CSVN chỉ đáng hàng em út xa lắc xa lơ? Thật là bất công, Vĩnh nghĩ, nếu Trời không tạo một dịp nào đó để nhúng những kẻ ngu muội ấy vào lửa Cộng sản một lần cho họ được sáng mắt ra!
- Trời ơi! Sô nước mới đây sao hết nhẵn rồi?
Tiếng la hốt hoảng của tổ phó Khoa chợt cất lên sau lưng Vĩnh. Vĩnh lầm lì.
- Đổ hết vào cái két sắt kia rồi.
Tổ phó Khoa cau mày.
- Cha ẩu vừa thôi cha. Lãnh búa cả đám.
- Lãnh tao chịu.
Biết Vĩnh nóng tính, Khoa im lặng. Hắn chỉ khẽ cằn nhằn lúc quay đi.
- Tối nay họp tổ tôi sẽ đưa vụ này ra mổ xẻ.
Vĩnh nổi cáu phát cười gằn.
- Thôi mổ xẻ làm đéo gì! Tao xin khắc phục khuyết điểm tại chỗ được không? Lần sau, kể cả mày có phải chui vào cái hộp này, tao xin hạ quyết tâm một giọt nước đái tao cũng không cho.
Khoa thấy Vĩnh thật sự muốn khà khịa, hắn im luôn và bỏ đi một nước.
Với riêng Vĩnh, mùa Xuân đầu trong tù đến với một tâm trạng và quang cảnh như thế. Tuy nhiên trước Tết hai tuần, cả trại, thú thật trong đó có cả Vĩnh, lòng bỗng nở rộ một đóa hoa Hy Vọng rực rỡ lạ thường. Đợt đầu tiên được thả!
Cả trại L4T3 được thả 14 người. Khối 2 có tỷ số cao nhất trại 6 trên 14 và tổ A.3 chiếm kỷ lục trong khối 2 với tỷ số thả 2 trên 6: Văn, cựu hải quân trung úy có bố thoát ly từ lúc hắn mới lọt lòng mẹ. Nguyên, thiếu úy giảng viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, có chú mang quân hàm đại tá hiện làm việc trong văn phòng An Ninh Nội Chính của Cao Đăng Chiếm. Thằng Ba Tô của tổ 7 cũng được thả trong dịp này nhờ một nguyên nhân không ai biết rõ ngoài hai điểm để có thể dự đoán: Một, từ đầu đến giờ nó đã hành nghề chó săn một cách xuất sắc khác thường; hai, căn cứ theo bản tự khai từng đọc trước khối của nó thì cả ba đời nội ngoại nhà nó đều là dân bần cố trung kiên với Cách mạng từ thủa Cách mạng còn... đỏ hỏn!
Với số người được thả không lấy gì làm khích lệ cho lắm, nhưng quả thực đã làm cho bao nhiêu người tối mặt tối mày. Hy vọng sống lại thật nhanh bằng một lập luận giản dị: Như thế là cánh cổng trại cải tạo đã hé mở. Nếu chưa thể mở toang một lượt thì cũng sẽ được mở rộng từ từ. Nay anh mai tôi...
Nhân vụ thả, bọn cai tù lại có dịp lôi tù lên lớp để tha hồ khoe khoang về đường lối khoan hồng trước sau như một của nhà nước Cộng sản. Và để cho không khí trại càng thêm phần hồ hởi phấn khởi, bọn cai tù chấm dứt đợt thi công sớm hơn hai ngày với bản báo cáo tất niên đọc trước trại có nội dung rất vượt chỉ tiêu, vượt đến nỗi bọn tù ngồi bên dưới đâm ngượng với thành quả lao động tự biết... rất khiêm tốn của chính mình. Nào là trong quý 4, khối 1 đã cải tạo được 30 mẫu đất đá ong biến thành nơi canh tác tốt. Khối 2 đã giải phóng được 20 tấn đạn đủ loại khỏi các hầm chứa trong nội vi trại và đã khai quật hơn 100 nền nhà Mỹ...
Nghe tên thủ phó Môn đọc bản báo cáo trước tập thể, có đại diện trung đoàn chủ tọa, mà bọn tù hết hồn. Ở đâu không biết chứ người khối 2 làm sao mà không rõ chuyện khối 2! Đạn đâu mà lắm thế? Rồi nền nhà Mỹ nữa! Tính rộng lắm cũng chỉ có chừng 30 cái nền nhà Mỹ trong phạm vi trách nhiệm của L4T3. Ba mưoi cái mà tay không phá trong mấy tháng đã đủ thấy ông thấy bà, một trăm cái phá sao cho hết, mà có hết đi nữa thì lấy nền nhà đâu ra mà phá!?
Thời còn thơ ấu ở Liên Khu Tư Vĩnh đã được nghe và đã sớm hiểu ý nghĩa của ba chữ Bờ-Cờ-Lờ, chữ tắt của động từ báo cáo láo trong giới Vẹm thời bấy giờ. Hai mươi mấy năm qua Vĩnh không ngờ bệnh Bờ-Cờ-Lờ trong hàng ngũ Cộng sản vẫn không đỡ tí nào. Trầm kha hơn là đàng khác!
Nhưng chúng muốn báo cáo với thượng cấp của chúng thế nào thì cũng kệ cha chúng, điều hân hoan chính là lũ tù được biết, qua sự thông báo trang trọng của chính tên thủ trưởng trại, theo đó vào dịp Tết tới đây, Cách mạng rất quan tâm và sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các cải tạo viên vui chơi đủ 3 ngày Tết truyền thống của dân tộc. Tiếp theo lời thông báo ấy, tay hậu cần trại đã đọc một danh sách các món ăn mà tù sẽ được hưởng trong dịp Tết như thịt lợn, nếp, bánh kẹo và có thể có cả tí... "máu nhân dân" nữa.
Tuy nhiên Tết chưa đến, những món béo bở nằm trong bản dự trù cấp phát của hậu cần trại dĩ nhiên chưa được thực hiện; nhưng điều trước mắt mà tù phải thực hiện ngay là đêm văn nghệ cho toàn trại. Các khối phải tổ chức những trò chơi hoặc những cuộc thi đấu như múa lân, kéo dây, cờ tướng, bóng chuyền v...v... để tạo không khí vui chơi thoải mái trong ba ngày Tết. Các ban văn nghệ thể thao được thành lập tại các khối tức thì. Trưởng ban của khối 2 là Huỳnh Công Cẩn, trung úy ANQĐ từng là tùy viên của ông số 2 ngành này. Trong ban của Cẩn có Đính phụ trách vũ, Vĩnh tiếp tay Nguyễn Đình Thuần lo chế một cái contre-basse dã chiến và một bộ trống. Đàn Guitar và Mando khung sẽ cho mượn.
Sau khi các ban văn nghệ khối phối hợp với nhau, một vài nhân vật được bầu ra để nắm giữ những chức vụ chính điều hành chung một ban văn nghệ trại. Đặng Thế Tiến của khối 4 làm phối trí viên. Nguyễn Văn Hóa của khối 3 với nghề cũ là ca trưởng một ca đoàn Công giáo lớn tại Sài Gòn phụ trách ban hợp xướng. Lê Văn Tần của khối 1 tốt nghiệp trường Âm nhạc Kịch nghệ Sài Gòn phụ trách dựng và đạo diễn kịch. Nguyễn Thành Đính của khối 2 phụ trách vũ. Trần Văn Chung của khối 3 phụ trách ảo thuật. Họa sỹ Hiếu Đệ của khối "cũ" (sau đó được bổ sung thêm tù và lập thành khối 5) có Đặng Ngọc Sinh của khối 2 trợ lực phụ trách trang trí sân khấu cũng như các vật dụng hóa trang... Riêng ban nhạc hầu hết là người của khối 2 phụ trách. Vĩnh contre-basse, Nguyễn Văn Lộc cùng tổ 3 với Vĩnh và Đặng Thế Tiến chơi Guitar, Kiều Công Long của khối 4 chơi Mando và "Ông Đạo Dừa" Nguyễn Lâm của khối 2 thủ giàn trống.
Trong khi ở các khối các anh em khác thuộc các ban lân, ban thể thao, ban ẩm thực... đang lo xúc tiến công tác của họ thì trên hội trường ban văn nghệ cũng tập dợt ráo riết. Trên sân khấu, đạo diễn Lê Văn Tần suốt ngày la hét um sùm y chang một đạo diễn thứ thiệt để điều khiển anh em trong ban kịch. Ở một góc khác của hội trường nhạc trưởng Nguyễn Văn Hóa đang vã mồ hôi tập cho một ban hợp xướng 50 người, toàn thứ ca sỹ bất đắc dĩ trốn lao động chân tay nhập vào ban hò hát. Ai làm sao mặc, Vĩnh cứ ôm cây đại hồ cầm do chính tay anh làm bằng một can xăng thủng với ít sợi dây điện thoại gẩy từng tưng theo lệnh của nhạc trưởng Hóa. Cạnh Vĩnh là Tiến. Lâu không được đánh đàn, có cái guitar trong tay, hắn chẳng đệm theo nhu cầu ban nhạc mà xoay vào một góc ngồi búng classique cho đỡ nghiền.
Bài hát hiện đang được Hóa tập cho mọi người hợp xướng là bài Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao được in trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Chính tên chính trị viên đưa bài này cho Hóa. Hóa có vẻ thích bài hát này vì một phần nhạc cũng khá hay, phần khác ngôn ngữ vẫn rất ướt át lãng mạn và không có tí nào chửi bới bọn "ngụy" trong đó cả. Hóa tập thật kỹ bài hát này cho ban hợp xướng.
Trước Tết 5 ngày thì đợt tổng dợt có sự kiểm tra của đại diện ban quản giáo được thực hiện. Tên quản giáo già khó đăm đăm của khối 4 xuống trụ trì buổi tổng dợt. Hắn lượn một vòng xem ban vũ biểu diễn, khen chê vài tiếng qua loa rồi lướt qua ban kịch. Sau cùng hắn dừng chân trước ban hợp xướng. Nhạc trưởng Hóa đợi đến lúc tên quản giáo đến gần mới ra hiệu cho tiếng contre-basse đi vài nốt dẫn nhập. Tên quản giáo già vừa nghe thấy mấy tiếng đàn trầm bỗng thốt lên kinh ngạc.
- A! Các anh chế được cả đàn công-tờ-rờ-bạt-xờ cơ à?
Cả bọn nghe nhằm một chữ tiếng Tây của ông quan quản giáo không hẹn đều phát phì cười.
Hóa là đầu đàn, thấy mọi người đều bật cười trước một câu nói của tên quản giáo làm anh cũng thấy ái ngại. Anh vội quay lại nhìn hắn và nói nhỏ nhẹ.
- Vâng, thưa anh cái công-tờ-rờ-bạt-xờ...
Sự lập lại chữ tiếng Tây theo giọng điệu của... Cách mạng của Hóa khiến cả ban hợp xướng cùng phá lên cười, một thứ tiếng cười không cách gì cầm giữ lại được. Riêng tên quản giáo ngẩn ngơ không hiểu bọn tù cười cái gì. Hắn trố mắt hỏi mọi người.
- Chứ tôi nói sai à? Cái đàn ấy không phát ra âm công-tờ-rờ-bạt-xơ là cái gì đấy?
Thấy cười nữa có thể nguy hiểm, ai cũng ráng nuốt tiếng cười đánh ực một cái xuống bụng. Hóa giơ tay gãi trán, nói liếm lấp.
- Báo cáo anh âm đàn ấy đúng là âm đàn công-tờ-rờ-bạt-xờ, nhưng hình dạng thì không phải thế...
Tên quản giáo ra điều hiểu biết. Hắn nói.
- Thì tôi nói âm chứ có nói hình thức đâu! Hình thức thì các anh làm sao làm được. Ngay nhà hát lớn ngoài thủ đô Hà Lội ta cũng mới có một cái. Ngẫm nghĩ tí chút, hắn tiếp. Thôi các anh tập đi không mất thì giờ. Tôi tham quan tí còn đi các ban khác...
Nói rồi tên quản giáo bước xéo ra đứng gần chỗ cửa và nhìn ban hợp xướng khởi sự tổng dợt. Nhạc trưởng Hóa nhìn anh em một thoáng. Ngón tay anh vẩy nhè nhẹ cho tiếng đại hồ cầm nổi lên để bắt trớn cho tiếng Mando trong trẻo của Kiều Công Long nhập cuộc. Khi trống, đàn, sáo đã đi hết phần Intro; nhạc trưởng Hóa chợt vung tay như chộp một con ruồi bên trái, hai mươi giọng hát bên cánh tả đồng lượt cất lên.
Rồi dập dìu mùa Xuân theo én về, Mùa bình thường, mùa vui nay đã về, Mùa Xuân mơ ước ấy, nay đã về đây...
Vừa hát được ba câu cả ban hợp xướng bỗng im bặt. Ai cũng thấy tên quản giáo nhảy nhổm như bị kim châm vào đít. Hóa thấy anh em ngưng ngang xương và đều ngó về phía tên quản giáo, anh linh tính thấy điềm không lành vội quay mặt lại. Tên quản giáo già bước nhanh đến gần Hóa, trợn mắt méo mồm mắng.
- Im hết đi, hát cái bài nhảm nhí gì vậy?
Hóa hơi nhăn mặt nhưng vẫn cố giữ giọng phân trần.
- Báo cáo anh... Tên quản giáo khoa tay chận Hóa lại.
- Tôi bảo im! Ai? Ai trong các anh là kẻ soạn ra bài hát này? Hắn hùng hổ lên lớp. Một bài hát hoàn toàn phản động và đầy ngụy tính từ nội dung đến hình thức.
Nhạc trưởng Hóa ngỡ ngàng như từ trời rơi xuống.
- Dạ thưa...
- Anh chưa được nói. Tên quản giáo nghiêm giọng. Tôi sẽ phân tích tính phản động của bài ca này trước, sau đó kẻ sáng tác nó sẽ phải trả lời trước ban quản giáo trại. Tôi nhắc lại, đây là một bài hát cực kỳ phản động. Thứ nhất nhạc Cách mạng không được phép ủy mị như thế. Rõ ràng đây là một bài nhạc vàng, đã dùng thể điệu Van-xờ, một thể điệu mà bọn nhạc sỹ phản động ưa dùng để diễn tả cái tâm tình ủy mị thấp kém, làm suy giảm tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Thể điệu Van-xờ...
Tất cả những người đang hiện diện ở hội trường đều nửa khóc nửa cười với lời lẽ của tên quản giáo. Hóa mím môi lấy can đảm
- Thưa anh...
Tuy nhiên tên quản giáo nhất định không cho Hóa nói. Hắn cướp giọng.
- Anh ngoan cố tôi cùm anh ngay. Tôi chưa nói hết. Dứt khoát tôi cấm các anh học tiếp bài Van-xờ này. Nó là một bài cực kỳ phản động. Mùa Xuân thế này mà dám nói là mùa Xuân bình thường à? Một mùa Xuân đại thắng, mùa Xuân đầu tiên độc lập, tự do và thống nhất, mùa Xuân tốn bao xương máu của các chiến sỹ Cách mạng mới quy được đất nước về một mối... mà dám bảo là mùa Xuân bình thường à? Bố láo bố lếu! Bài này ở đâu ra? Ai cho phép các anh học hát bài này?
Nhạc trưởng Hóa thấy không phải chuyện chơi rồi, thế nên anh vội vàng trình bày.
- Báo cáo anh bài này anh chính trị viên Thảo đã thuận cho tập. Vả lại nó là bài hát của Cách mạng...
Tên quản giáo già chỉ mặt Hóa. - Bố láo. Đừng nói bố láo!
Hóa vội vàng móc túi quần sau chìa ra một mảnh của tờ báo Sài Gòn Giải Phóng đã nhầu nát, có đăng bài Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao cho tên quản giáo xem. Tên quản giáo cầm lấy mảnh báo mần mò như người ta nặn nút bài cào. Một lúc sau hắn nhét tờ báo vào túi áo, nhăn mặt và lẩm bẩm. Lạ nhỉ! Lạ nhỉ! Sao báo lại cho đăng một bài hát có nội dung phản động dường này!?
Nghĩ ngợi một thoáng, hắn tằng hắng nói với Hóa. Thôi được, tạm thời các anh học bài khác. Tôi sẽ trình đồng chí chính trị viên nghiên cứu lại bài hát này.
Tên quản giáo nói đoạn bước thẳng ra cửa trước sự ngơ ngác của mọi người. Ra tới cửa, hắn bỗng dừng chân và quay lại dặn Hóa một câu cuối. Học bài nào thì học, nhưng cấm ngặt không được học và trình diễn những bài có thể điệu Van-xờ đấy nhé!
Vĩnh ngao ngán ngó về phía sân khấu. Đạo diễn Tần đang nhảy như con choi choi và la hét luôn miệng. Cắt! cắt! ĐM. chỗ đó mày phải té xuống. Mày phải cố gắng kéo mép phải lên gần lỗ tai, càng gần càng tốt để tạo nét mặt cực kỳ đau đớn. Bị bắn vào bụng mà chỉ nhếch mép như cười tình coi thế đếch nào được! Thằng Hoàn nữa! Tao bảo mày mấy lần rồi. Khi tiếng súng nổ mày phải hốt hoảng chạy từ cánh gà bên trái vào phía bàn thờ tuốt trong kia để tạo chiều sâu sân khấu. Cứ chập chờn phía ngoài thế kia như cứt nổi trên ao trông chán lắm...
Trong lúc ban hợp xướng tập lại với bài Hò Kéo Pháo thì tên chính trị viên Thảo xuất hiện nơi cửa hội trường. Hắn đảo mắt một vòng rồi bước lại phía Hóa đứng. Đợi cho câu hát cuối cùng chấm dứt bài hát đang dợt, hắn lên tiếng.
- Này anh Hóa!
Hóa quay lại.
- Ồ anh... tôi đang muốn gặp...
Tên chính trị viên khoa tay.
- Tôi quán triệt vấn đề rồi. Cứ yên tâm tập dợt như thường. Tôi sẽ ở đây đích thân kiểm tra. Hóa muốn chơi tên quản giáo khối 4 một cái. Anh nhỏ nhẹ nói với tên Thảo.
- Báo cáo anh ban nãy theo sự lên lớp của anh quản giáo khối 4, anh em đều ái ngại và không muốn tập tiếp bài Mùa Xuân Đầu Tiên nữa... Tên chính trị viên lại xua hai tay như đuổi ruồi.
- Tôi đã bảo rồi. Tôi trách nhiệm và cho các anh học trình diễn bài ấy. Cái nhà anh quản giáo Thìn ấy thì biết cái gì! Anh ấy học chưa qua lớp 3 ấy mà...
Hóa thấy tên chính trị viên còn coi đồng bọn của nó chẳng ra gì nên anh không nói thêm nữa. Anh quay lại điều khiển anh em hát bài Mùa Xuân Đầu Tiên để cho tên chính trị viên duyệt. Tên Thảo đứng coi một lúc và gật gù ra chiều chịu lắm. Hắn đi tới đi lui, góp ý cho hết toán này sang nhóm nọ. Hắn đứng lại bên cạnh họa sỹ Hiếu Đệ, ngó anh đang vẽ rồng vẽ phượng trên một miếng giấy bao xi măng lớn bên hông sân khấu.
- Vẽ khéo đấy nhỉ! Tên chính trị viên lên tiếng khen vu vơ.
-.....
- Anh học vẽ lâu chưa?
Hiếu Đệ trả lời.
- Báo cáo anh cũng gần 30 năm rồi.
- Thế thì vững tay nghề lắm... Mà xưa anh làm gì?
- Dạ tôi dạy ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.
- Thế sao lại đi cải tạo?
Hiếu Đệ vừa cạo ít bột từ một viên gạch chỉ ra làm màu, vừa khẽ đáp.
- Dạ tôi là thiếu úy biệt phái.
Tên Thảo giơ cao hai tay.
- À, ra thế! Chắc anh là sỹ quan chiến tranh chính trị?
Nghe hỏi Hiếu Đệ giãy nảy như đỉa phải vôi.
- Thưa không. Tôi không dính dáng gì tới ngành chiến tranh chính trị cả!
Trước khi tiến tới ngồi trên một cái ghế kê trước sân khấu để xem tù dợt kịch, tên chính trị viên an ủi Hiếu Đệ.
- Tội anh thế cũng nhẹ. Cố gắng phục vụ tập thể tốt để được Cách mạng xét cho về còn đem tài ra phục vụ nhân dân.
Hiếu Đệ vừa vẽ vừa ậm ừ cho qua chuyện.
Phía bên này ban nhạc đã dợt xong, bọn Vĩnh xách điếu cày lại ngồi bên cánh trái sân khấu xem ban kịch tổng dợt.
Vở kịch được Tần dựng có nội dung không xuất sắc lắm. Một công nhân dân miền Nam thoát ly theo lời Bác gọi, sau trở vào Nam chiến đấu chống Mỹ cứu nước, anh không hề được biết chuyện gì xảy ra cho mẹ và vợ ở quê nhà thuộc một vùng ngoại ô Sài Gòn. Khi miền Nam đã được giải phóng, anh vinh quy bái tổ với đôi dép râu, với cái nón tai bèo và mươi ký gạo ăn đường đeo nặng trên vai. Lúc anh bước về tới sân nhà thì trời đã tối. Khẽ đẩy cánh liếp, anh nhìn vào và chết sững vì xúc động. Người vợ vẫn ở vậy chờ anh. Vợ chồng gặp nhau hàn huyên một lúc, mãi sau anh mới chợt nhớ ra quanh anh còn thiếu một người thân yêu nữa. Anh chợt lên tiếng hỏi. Mẹ đâu? Người vợ lúc này mới òa lên khóc. Chị kể rằng trong hơn hai mươi năm anh bỏ nhà ra đi chiến đấu, gia đình đã gặp bao nhiêu biến cố. Nào là Mỹ ngụy càn quét, đã hiếp chị đến... 999 lần, lại còn xả súng bắn chết mẹ già vân vân và vân vân. Kể lể xong chị tiến tới bàn thờ mẹ chồng, đốt vài cây nhang cắm trên cái lư nhỏ. Đến lúc này anh giải phóng mới nhận ra bàn thờ mẹ. Theo đúng truyền thống Cách mạng anh không khóc lóc như những kẻ bình thường. Anh chỉ giơ cao quả đấm, lập lại một câu nói quen thuộc mà Đảng đã dạy: Ta sẽ biến những đau thương này thành hành động cụ thể...
Màn từ từ buông. Một giọng hát từ phía sau sân khấu vang lên bài Đạp Trên Xác Thù để chấm dứt vở kịch.
Xem xong vở kịch. Tiến cười đưa ra một phê phán nhỏ.
- Thằng Tần chơi vợ Cách mạng ghê quá. Chỉ sống để chờ... ngụy đến hiếp thì còn gì là thân thể người ta!
Đính cũng cười, nói chen vào.
- Trâu hiếp chứ ai hiếp!
Hóa đặt cái điếu cày xuống đất, mắt nhìn lên sân khấu.
- Ngày xưa Kiều chỉ "mười lăm năm ấy biết bao vi trùng", ngày nay vợ anh Cách mạng bị hiếp đến hơn 20 năm. Kinh quá!
Cả đám đang tán láo bỗng im hết vì tên Thảo đã bước lên sân khấu. Hắn ra lệnh cho các "tài tử ca sỹ" phải ngồi tụ lại với nhau nơi hàng ghế giữa hội trường. Hắn cất giọng.
- Buổi tổng dợt hôm nay coi như tạm đủ. Quan trọng nhất là vở kịch thì tôi đã được kiểm tra. Qua quan sát có vài nhận xét với các anh thế này. Xét chung chung, mọi bộ môn đều nổi lên cái mặt tự biên tự diễn rất đáng biểu dương. Múa, hát, kịch nói, trang trí vân vân và vân vân đều có nhiều ưu điểm cả. Riêng vở kịch...
Nói tới đây tên Thảo ngó quanh như tìm kiếm ai. Hắn hỏi vu vơ. Anh nào dựng và đạo diễn nhỉ? Tôi quên mất tên rồi!
Bên dưới Tần vội đứng lên.
- Dạ tôi, Tần.
Tên chính trị viên chỉ xuống Tần.
- À, anh Tần. Tôi biết, tôi biết về anh. Nhân đây tôi cũng có lời biểu dương anh. Tuy nhiên trong vở kịch xét trên quan điểm Cách mạng còn nhiều khuyết điểm lắm đấy. Với riêng tôi, tôi thông cảm những khuyết điểm ấy. Dẫu sao với một thời gian dài sống dưới chế độ Mỹ ngụy, chúng đã đào tạo và xử dụng anh vào công tác viết kịch bôi nhọ Cách mạng, thì một sớm một chiều không thể nào tẩy sạch ngay được những khuyết điểm trong nghề dựng và đạo diễn kịch của anh, phải thế không? Vả lại, tên Thảo tằng hắng. Tôi cũng biết hầu hết những kịch sỹ như anh đều được ngụy nó cưng chiều như trứng mỏng, được đem về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị phục vụ với nhiều đặc quyền đặc lợi. Nói tới đây hắn hơi cao giọng hơn. Mà tôi bảo thật đấy nhé, những anh chiến tranh chính trị nếu không là CIA thì cũng là CIB cả đấy!
Bên dưới mọi người đều liếc nhanh sang Tần một cái. Mặt anh chàng đang nghệt ra như gái ngồi phải cọc. Bên trên sân khấu tên Thảo vẫn tiếp tục. Nói thì nói thế thôi. Nhiệm vụ của chúng tôi là giáo dục các anh, uốn nắn những sai trái nếu các anh vấp phải trong học tập cải tạo, đặc biệt trong khâu văn nghệ tự biên tự diễn này, một khâu còn hoàn toàn mới lạ với các anh xét trên cơ bản văn nghệ Cách mạng, phải thế không? Thế thì nhân đây, tôi cũng nêu ra vài khuyết điểm cụ thể nhất để các anh rút kinh nghiệm cho những lần tự biên tự diễn khác sau này. Hắn liếc nhanh đồng hồ tay, tiếp. Thì giờ sáng nay không có nhiều nên tôi chỉ nhặt ra vài khuyết điểm điển hình trong vở kịch thôi. Khuyết điểm thứ nhất thuộc về khuyết điểm ý thức. Tại sao khi anh giải phóng vừa đẩy cánh liếp để bước vào nhà, đạo diễn lại cho vài tiếng chó sủa vang lên đây đó? Xét hời hợt qua hiện tượng thì việc này không thấy gì nghiêm trọng cả, nhưng nếu ta nâng cao quan điểm sẽ thấy ngay tính chất phản động trong cảnh này. Người Cách mạng đâu phải lũ thổ phỉ mà bị chó sủa ran như vậy? Khuyết điểm thứ hai thuộc về hình thức, thuộc về kỹ thuật. Đấy các anh xem! Nói đoạn tên Thảo hơi quay người chỉ lên cái bàn thờ trên phông trong cùng của sân khấu.
Bàn thờ là một bức tranh vẽ nổi gồm một cụ bà người miền Nam có khăn ca-rô quàng cổ, có lư hương ở giữa và hai bên có hai chân nến đàng hoàng. Tên chính trị viên chỉ bàn thờ xong quay lại đám tù, tiếp. Các anh cứ nhìn kỹ bức ảnh mà xem, người mù cũng nhận ra được đó là ảnh của thằng Diệm. Tôi không rõ người vẽ cố tình hay vì tài nghệ chưa tới, đã vẽ một cụ già thành hình thằng Diệm đem lên bàn thờ công khai trên sân khấu!?
Dưới này Hiếu Đệ ngồi cạnh Vĩnh mặt mày xanh xám. Anh quay sang hỏi khẽ Vĩnh.
- Trời đất ơi! Ông nhìn kỹ giùm tôi xem bức ảnh tôi vẽ có giống Ngô Đình Diệm tí nào không?
Vĩnh cười.
- Sao ông dễ tin thế? Chúng nó đâu có muốn cái chuyện đem bàn thờ bàn thánh lên sân khấu bao giờ. Duy vật chứ đâu duy tâm!
- Không chịu thì bảo đẹp bỏ. Sao chụp mũ tui nghe ghê quá vậy?
Đính ngồi sau nghe thấy, chen vào.
- Công khai ra lệnh dẹp bỏ khác nào tự thú mình là đồ không cha không mẹ không thánh không thần. Cách hay nhất là tặng cho ông Hiếu Đệ một cái mũ to tướng, tập thể ai cũng rét và tự động hạ bàn thờ xuống có phải hay không?
Hiếu Đệ như hiểu ra, anh không than thở gì thêm nhưng nét mặt vẫn tái xanh tuồng như cái mũ mà thằng chính trị viên vừa âu yếm đội cho nặng quá đến độ anh chịu không thấu! Mãi một lúc sau Hiếu Đệ mới thì thầm.
- Tôi vẽ hơn 20 năm, dạy vẽ hơn 10 năm; đây là lần đầu tiên tôi không còn tin tưởng ở cặp mắt của tôi nữa. Chắc tôi phải giải nghệ mất!
Vĩnh cười khẽ.
- Ấy, đừng cho chúng nó ghi thêm một điểm son chứ, quan bác!
Trên sân khấu tên chính trị viên còn phen lê đôi ba điều nho nhỏ nữa trước khi hắn cho mọi người giải tán về ăn cơm trưa. Vĩnh kéo một hơi thuốc lào rồi đứng lên khoác vai Đính trở về khối.
Buổi trưa sau khi nhận phần ăn đã được chia chác bởi người trực tổ, Vĩnh chan vội tí nước muối vào ca cơm và xách ra đầu hè vừa ngồi nhìn nắng vừa ăn. Đầu anh lộn xộn nhiều hình ảnh... Một đoạn nhạc mới vừa trôi qua đầu, một đoạn nhạc Xuân thật đẹp; nhưng bỗng nhiên đoạn nhạc tắt nghẽn lúc anh vừa vội vàng bỏ ca cơm xuống lôi mảnh giấy và cây bút chì trong túi ra. Hình ảnh Tỷ và Non gào thét trong cơn khát lại đầy ắp trong trí nhớ Vĩnh...
CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM
Đêm 29 ta văn nghệ. Sáng 30 trừ những tổ trực canh tác phải đi tưới rau một buổi sáng, còn tất cả được các quản giáo xí xái cho làm công tác vệ sinh tại trại. Tất cả những gì dành cho ba ngày Tết đã được sắp sẵn. Hậu cần các khối đã lãnh về thịt heo, thịt bò, khoai tây, cà rốt, bánh kẹo... đầy đủ cho khối. Sau khi khối trưởng hội ý với các tổ trưởng, và thống nhất với nhau chương trình đón giao thừa, tất cả các phần kẹo bánh được lệnh để cho bác sỹ Đỉnh, khối phó hậu cần giữ lại để cả khối có cái liên hoan chung lúc nửa đêm.
Phạm Văn Dự, đầu bếp chính khối 2 đang điều động những chuyên viên tình nguyện đảm trách bếp suốt ba ngày Tết xắt thịt, gọt khoai và làm tất cả mọi việc bếp núc để sửa soạn cho bữa ăn ngày mùng 1.
Huỳnh Công Cẩn cũng đã tổ chức xong những cuộc đấu cờ, kéo tay, kéo dây với kết quả chung kết nội bộ. Cờ tướng về tay Nguyễn Văn Cấp tổ A.5. Kéo dây về tay tổ A.3, một bất ngờ khó tin vì tổ A.3 ngoài Đặng Xuân Bính có dáng vai u thịt bắp, kỳ dư toàn hạng ốm yếu ho hen như Vĩnh cả mà lại thắng chung kết trước tổ 9 là tổ toàn tay to con, có khối trưởng Trai trong đó nặng ít ra cũng phải 70 kgs. Gay go và hồi hộp nhất vẫn là giải kéo tay. Qua bao nhiêu gian truân, cuối cùng Nguyễn Thành Đính của tổ A.5 đã thắng Đặng Xuân Bính của tổ A.3. Trận kéo tay chung kết giữa hai hảo thủ này đã kéo dài gần 15 phút đồng hồ mới ngã ngũ... Chỉ có giải bóng chuyền là chưa đâu vào đâu vì khối 2 gặp một tí lộn xộn trong việc tổ chức, dù rằng khối có một tay đập lừng danh trong trại là anh chàng Hóa của tổ A.10. Một cái lạ thường hơn nữa là khối 2 có Nguyễn Đình Thuần nổi tiếng như một người khéo tay nhất trại L4T3, thế nhưng cái đầu lân do anh làm coi mòi lại xệ nhất so với những đầu lân của các khối khác. Phải nói rằng ban lân của khối 2 rất là... cà chua, hiện đang được giáo gian Trương Thanh Long cầm đầu tập dợt.
Dù sao thì ở hầu hết các bộ môn, khối 2 đã tương đối sẵn sàng có vốn cho một cuộc thi đấu toàn trại để mừng Chúa Xuân ngày mai.
Theo chương trình, cả trại phải tập trung trên hội trường trước giao thừa nửa tiếng để sửa soạn nghe Bác chúc Tết (!). Khi tất cả đã yên vị trên hội trường, một tên cán bộ từ ngoài bước lên sân khấu để sửa soạn máy vi âm. Khi máy đã điều chỉnh xong, hắn gọi Hóa lên sân khấu bắt nhịp cho mọi người hát một bài. Không hiểu vô tình hay cố ý, Hóa bắt nhịp bài Tiếng Gọi Thanh Niên, một bài hát của một tên Cộng sản đỏ au từ trong ra ngoài là Lưu Hữu Phước nhưng lại được các ông chính quyền quốc gia tiếp nối chọn làm quốc ca! Bài hát này, dù ngày nay trong nước chẳng còn ai công nhận nó là Quốc ca nữa, kể cả bạn và thù, nhưng trong cái giây phút trừ tịch lắng đọng nhất của tâm hồn, bài hát được tập thể hát lên như khơi dậy trong lòng người một nổi niềm vô hạn hận! Ác hơn, chẳng ai chịu hát theo lời gốc của bản nhạc. Như cái máy, bọn tù đều hát theo lời được chính quyền quốc gia sửa lại và dùng làm tiếng linh hồn cho cả miền Nam Tự Do!
... Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống...
Hát theo mọi người, lòng Vĩnh cũng dâng lên một niềm thương hận khó tả. Yêu ai yêu cả đường đi. Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng! Bài hát ấy là của thằng Cộng sản đẻ ra, để cho sòng phẳng oán ân dứt khoát phải quăng nó vào thùng rác của lịch sử. Trời ơi! Miền Nam Tự Do có biết bao nhiêu nhạc sỹ tài hoa và có ý thức phân minh quốc cộng, những Phạm Duy, Hùng Lân, những Phạm Đình Chương, Cung Tiến, những Anh Việt Thu, Nguyễn Đức Quang... Tại sao các chính quyền quốc gia coi họ như những kẻ đứng bên ngoài cuộc? Tại sao lại đi quảng cáo không công cho một thằng nhạc sỹ Cộng sản, bằng cách cùng một lúc đem hai ca khúc của nó biến thành hai bài hát quan trong nhất cho một đất nước, ấy là bài Quốc ca và bài Chiêu Hồn Tử Sỹ? Vô ý thức, vô trách nhiệm và bất cố liêm sỷ như thế mà đứng vào hàng lãnh đạo quốc gia thì thua Cộng sản từ gốc thua ra rồi!
Bài hát đã chấm dứt. Tên cán bộ nhìn đồng hồ tay. Vừa lúc ấy tụi cán bộ tiểu đoàn lũ lượt kéo nhau vào hội trường. Đêm nay là lần đầu tiên Vĩnh và các bạn mới thấy chúng ăn mặc sạch sẽ và tề chỉnh, đặc biệt có mang quân hàm đầy đủ. Đêm nay cũng là lần đầu tiên, nhờ đó, mọi người mới biết được cấp bậc thật của quản giáo khối mình. Tất cả đều mang cấp bậc hạ sỹ, trừ quản giáo khối 4 - kẻ mà chính trị viên Thảo đã xác nhận học chưa qua lớp 3 - mang cấp bậc chuẩn úy và quản giáo Cư của khối 2 mang cấp bậc trung sỹ.
Lúc chúng đã ngồi yên nơi những hàng ghế kê trên sân khấu, tên thủ trưởng mới bước ra trước máy. Hắn bắt đầu.
- Đêm nay trại quy các anh lên hội trường để trước thềm năm mới, biểu dương chung các anh đã không nhiều thì ít, có phấn đấu trong học tập lao động cải tạo năm qua. Thành quả học tập lao động của trại ta đã được báo cáo đầy đủ lên trên và có nhiều hy vọng trại ta sẽ là trại được đánh giá cao trong quá trình cải tạo. Mặc dù trong năm cũ, trại cũng có một số điểm yếu, phát xuất từ những tư tưởng tiêu cực của một thiểu số chậm tiến, chẳng hạn trường hợp tự tử bằng 16 viên Chloroquine của anh Đặng Đình Tùng ở khối 1, trường hợp trốn trại để vệ binh buộc lòng bắn hạ như của Lê Văn Truật ở khối 3, Nguyễn Xuân Dung ở khối 2, trường hợp đánh thuốc độc giết người để phi tang như hai tên Tỷ và Non ở khối 4, và rất nhiều trường hợp vi phạm nội quy linh tinh khác xảy ra đều khắp ở các khối... Những cá nhân ấy đã ghi những điểm đen bên cạnh những điểm son trong bản thành tích của cả trại. Năm mới sắp đến, ban chỉ huy trại rất mong tất cả các anh củng cố được niềm tin tuyệt đối hơn nữa (!?) vào chính sách khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, để từ đó phấn đấu nhiều hơn, đạt nhiều thành tích hơn trong quá trình học tập cải tạo của năm cũ. Hãy nhớ đó cũng là điều kiện duy nhất để được Cách mạng xét thả như một số các anh vừa được xét thả ít ngày trước đây. Dĩ nhiên trại cũng ghi nhận các anh chưa được tạo nhiều điều kiện vật chất để việc học tập cải tạo được dễ dàng hơn, hồ hởi phấn khởi hơn. Nhưng các anh cũng biết đất nước ta mới giải phóng, khó khăn là tình trạng chung cho cả nước. Dù sao thì ta vẫn phải luôn nhớ rằng khó khăn chỉ là tạm thời, thuận lợi vẫn là cơ bản. Vả lại các anh cũng thấy đấy, thành quả vĩ đại năm qua trại ta đạt được nhờ vào cái gì? Hoàn toàn nhờ vào hai tay không và một ý chí quyết thắng hoàn cảnh khó khăn. Điều này đã một lần nữa chứng minh đúng câu thơ của đồng chí Tố Hữu: Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Thế nhưng bên cạnh những thành quả đạt được, ta hãy khoan tự mãn. Bác đã dạy chữ khiêm tốn phải để hàng đầu. Đã vậy các anh còn phải luôn nhớ rằng các anh là những kẻ có tội với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Qua quan sát, trại nhận biết trong các anh có nhiều người văn hóa rất cao, nhiều khả năng khoa học kỹ thuật hơn chúng tôi, nhiều tài hơn chúng tôi; nhưng chắc chắn lòng yêu nước các anh không hơn chúng tôi, và sức phấn đấu rõ ràng các anh đã thua chúng tôi. Đất nước có tự do, có độc lập, có giàu mạnh được không, xét cho cùng chỉ cần nhất ở người dân hai yếu tố: Lòng yêu nước và sức phấn đấu để phục vụ đất nước! Cả hai các anh đều thiếu. Vậy, một lần nữa, trước thềm năm mới, nhân danh thủ trưởng trại, thay mặt ban chỉ huy trại, thay mặt ban quản giáo trại, chúng tôi chúc các anh khỏe. Khỏe để phấn đấu trong học tập trong lao động, sớm trở thành người công dân của một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hoàn toàn hòa bình, hoàn toàn tự do, hoàn toàn hạnh phúc.
Những tiếng vỗ tay cò mồi trên sân khấu đồng loạt nổi lên. Bên dưới tù cũng vỗ tay lộp độp phụ họa. Tay thủ trưởng trại nhìn đồng hồ rồi vội vã ra lệnh cho tên trực máy điều chỉnh radio. Một vài tiếng rè rè nổi lên qua hệ thống loa đã mắc sẵn trong hội trường từ đêm văn nghệ hôm trước. Tên thủ trưởng có vẻ vội vã giới thiệu với mọi người.
- Bây giờ tất cả các anh chú ý. Đây là lần đầu tiên trong đời các anh được nghe bác Hồ và bác Tôn kính yêu chúc Tết đồng bào cả nước. Yêu cầu trước mắt là các anh ngồi nghiêm chỉnh, cấm hút thuốc, giữ yên lặng tuyệt đối để nghe máy trực tiếp truyền thanh lời chúc Tết của hai Bác kính yêu phát đi từ thủ đô Hà Nội.
Có lẽ máy bắt hơi chậm, mọi người chỉ nghe được những nốt cuối của bài quốc thiều. Sau đó là giọng một đồng chí ca sỹ gái chua như cứt mèo hát 1 bài thơ Con Cóc của Hồ Chí Minh được một thằng nhạc sỹ loại liếm giường liếm chiếu phổ thành ca khúc.
Năm qua thắng lợi vẻ vang, Năm nay tiền tuyến lại càng thắng to. Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào...
Bài hát nheo nhéo tới ba lần mới chấm dứt. Kế đó là giọng xướng ngôn lanh lảnh cũng của một đồng chí gái đài phát thanh Hà Nội: Sau đây xin mời các đồng chí và đồng bào cả nước nghe lời chúc Tết của bác Hồ kính yêu...
Giọng Hồ Chí Minh vừa khô vừa yếu, được phát ra từ một cuộn băng có lẽ đã được dùng quá nhiều lần, đưa tới tai người nghe những lời chúc Tết với nội dung cũng chẳng khác gì mấy câu thơ trên.
Kế Hồ Chí Minh tới lượt Tôn Đức Thắng chúc Tết.
Giọng Tôn Đức Thắng cũng là giọng của một lão già sắp tịch. Lời chúc Tết của lão là một chứng minh rằng lão chỉ là một thứ bù nhìn thê thảm nhất trong những loại bù nhìn. Đời thủa nhà ai, đường đường mang danh là một chủ tịch nhà nước, câu đầu tiên mở màn cho lời chúc Tết đồng bào toàn quốc lại là: Thưa đồng chí bí thư thứ nhất Lê Duẫn kính yêu, thưa đồng chí chủ tịch ủy ban thường vụ quốc hội Trường Chinh kính yêu, thưa đồng chí thủ tướng chính phủ Phạm Văn Đồng kính yêu... Sau một lô những cái kính yêu như thế Tôn Đức Thắng mới chịu nhớ đến nhân dân - những chủ nhân hàm của đất nước! Lão đọc tiếp: Thưa đồng bào cả nước...
Bên dưới không ai thèm lắng nghe. Tù dúi đầu vào nhau bàn đến những món ăn của ngày mai. Huỳnh Công Cẩn ngồi cạnh Vĩnh nhất định không đồng ý cơm nước ngày mai sẽ ngon miệng, sẽ đạt yêu cầu một khi anh em lại bầu thằng Dự ra làm trưởng bếp. Cẩn nói.
- Thằng ăn chó cả lông ấy tôi biết nó quá rồi! Nó là thằng tổ sư nói dóc. Trước kia nó từng khoe tôi nó là tuyển thủ bóng chuyền của Quân đoàn 4. Tôi tin vào nó, tin đến độ phút cuối khối mình không tổ chức nổi một vòng đấu loại nội bộ. Biết thế cứ giao quách cho thằng Hóa...
Một người ngồi cạnh Cẩn xía vào.
- Trời ơi bộ Quân đoàn 4 hết người rồi sao? Ai lại chọn một thằng cao không tới thước rưỡi vào đội tuyển bóng chuyền bao giờ!?
Cẩn than thở.
- Mới đầu tôi cũng nghi nghi, nhưng nó bảo nó chỉ ki banh, chỉ nâng cho thiên hạ đập...
Người ngồi cạnh Cẩn rên lên.
- Ý mèng ơi! Nó đía ông đến vậy mà ông cũng tin sao trời? Có ai lại chịu nâng bi cho thiên hạ đái bao giờ không? Nó cũng từng khoe tôi nó có khả năng làm xong một con chó trong vòng 10 phút và ăn hết một con gà tây trong 8 phút!
Nghe hai người than thở với nhau, Vĩnh cười.
- Nhưng đó không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là ngày mai nó đừng cho cả khối ăn cơm nếp bằng kiểu trên sống dưới khê tứ bề nhão nhét là được rồi.
Rồi thì màn chúc Tết của "hai Bác kính yêu" cũng chấm dứt, tất cả được thứ tự lớp lang trở về khối để đón giao thừa có sự tham dự của quản giáo theo đúng chương trình đã sắp xếp. Trong lúc đợi quản giáo Cư xuống, cả khối cùng dọn về một phòng đã được chọn làm nơi đón Xuân ngồi tán gẫu với nhau. Vĩnh trở về chỗ của mình ngồi tựa lưng vào vách nhìn quang cảnh chung quanh. Một góc nhà đã được đám khéo tay có Nguyễn Đình Thuần làm xếp đã đặt sẵn một cái bàn, trên mặt bàn đầy những bánh và kẹo. Bên cạnh đống bánh kẹo còn có 3 chai bia con Cọp đựng đầy rượu đế dành cho hơn một trăm tù cải tạo khối 2 đón Xuân. Cách bàn bánh kẹo không xa là một cành mai già được Thuần và Đính phối hợp trang trí trông như thật.
Giọng Bính khẽ nói bên tai Vĩnh.
- Hơn một trăm thằng mà có không tới 3 lít máu nhân dân làm sao đủ say?
- Coi vậy chứ lâu không chơi, một hớp lăn cù cả đám. Tao...
Vĩnh chưa dứt câu thì quản giáo Cư đã xuất hiện nơi cửa. Khối trưởng Trai hô nghiêm thật lớn. Tên Cư chỉ bước qua ngưỡng cửa hai bước rồi đứng lại. Bộ quần áo mới khiến hắn trông bảnh hơn mọi ngày, nhất là cái quân hàm trung sỹ quân đội nhân dân gắn trên cổ áo giúp hắn có được tí đỉnh phong thái của một quân nhân. Dù sao hôm nay quản giáo Cư không hung hăng như mọi bữa. Hắn khoa tay khước từ khi khối trưởng mời hắn ngồi xuống một cái ghế đẩu độc nhất trong phòng. Hắn vẫn đứng và ra dấu cho mọi người ngồi xuống nền nhà. Hắn khởi sự nói.
- Bây giờ đã là năm mới rồi, các anh vừa được nghe hai Bác kính yêu chúc Tết, ban chỉ huy trại chúc Tết. Những lời hay ý đẹp đã được dùng hết và tôi chẳng còn gì để nói với các anh thêm. Nhưng là quản giáo, thôi thì cũng tranh thủ nói thêm với các anh vài điểm như thế này. Năm cũ đã qua đi, năm mới lại đến. Năm mới đến thì ta phải thế nào? Phải có tinh thần mới, sức khỏe mới, khí thế mới, phấn đấu mới, quyết tâm mới trong học tập lao động cải tạo trở nên người công dân lương thiện. Ba ngày Tết là ba ngày vui chơi, nhưng trong vui chơi, các anh cũng đừng bao giờ quên rằng các anh vẫn là những kẻ có tội với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Phải nhớ nếu như các anh đừng phạm những tội phản quốc tày đình, thì mùa Xuân thống nhất, Xuân hòa bình này đã phải đến với Tổ quốc ta, với nhân dân ta nhiều chục năm về trước. Chính vì sự ngoan cố ngoan cường của các anh đã làm cho đất nước ta mất đi bao mùa Xuân.
Nói tới đây hẳn đảo mắt một vòng, ngẫm nghĩ như tìm lời. Một lúc hắn tiếp. Trước thềm năm mới, một lần nữa, tôi nhắc nhở các anh phải ý thức đúng vị trí cải tạo của mình, phải nhớ mình là kẻ có tội, và có nghĩa vụ học tập tốt, lao động tốt, cải tạo tốt, sớm trở thành những người công dân lương thiện của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chúc tất cả các anh khỏe!
Tên quản giáo chúc một câu ngắn gọn rồi nhanh nhẹn lui bước. Khối trưởng Trai ngỡ ngàng nhìn ly nước và đĩa bánh cầm trên tay. Anh dự trù mời hắn một chút lấy thảo nhưng thái độ "cách ly" của hắn đối với bọn tù đã quá rõ ràng! Anh buồn buồn hô nghiêm một tiếng để tiễn hắn ra cửa rồi cầm đĩa bánh ly nước đặt lại trên bàn.
Tiếng súng đón giao thừa của bọn vệ binh bên ngoài càng lúc càng nổ ròn rã hơn. Bên trong, bác sỹ Đỉnh với bản tính trẻ trung và lạc quan, lại có tí máu văn nghệ vội vã lên tiếng.
- Thôi thì quản giáo đã chúc Tết, anh em ta cứ vui vẻ nhận lời chúc đi. Giờ tôi đề nghị chúng ta bắt đầu vui chơi đón Tết. Các bạn đồng ý chứ?
Không ai trả lời bác sỹ Đỉnh. Thực ra chẳng mấy ai buồn rầu chi cái lời chúc Tết kiểu chửi cha của thằng quản giáo. Bị chửi nhiều quá nghe cũng nhàm tai rồi. Không ai trả lời bác sỹ Đỉnh vì bên ngoài tiếng trống, tiếng phèng la của đội lân khối 5 tân lập đã rền vang cả sân trại. Đội lân bên ấy do anh chàng Dũng cầm đầu. Dũng là sỹ quan xuất thân trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Hắn bảo hắn là anh hay em gì đó của nữ ca sỹ Lệ Thanh. Dũng rất trẻ tính và nhiệt tình trong những công tác thi đua, nhất là thi đua văn nghệ giữa các khối. Hiện tại Vĩnh biết hắn đã cho ban lân của khối 5 khởi sự đi múa chào các khối bạn.
Tiếng trống múa lân đỡ ồn hẳn vì hình như ban lân khối 5 đã tiến về phía khối 3 nằm bên cánh phải của hội trường và sát phía cổng trại. Một giọng từ cuối phòng cất lên.
- Anh Đỉnh nói có lý, nhưng điều tiên quyết tôi đề nghị là ban trực bếp coi lại nồi niêu xoong chảo. Từ lúc quản giáo nói chuyện tôi đã nghe thấy có nhiều tiếng động rất khả nghi. Không rõ chuột bốn chân hay chuột hai chân. Mà chuột nào thì cũng tai hại như nhau cả!
Một giọng khác lên tiếng hùa vào.
- Đúng đúng! Đề nghị ta kiểm soát bếp múc một vòng rồi tất cả đi ngủ. Tôi nghĩ anh em đã đến lúc cần nghỉ ngơi hơn là vui chơi nói theo ngôn ngữ của anh Đỉnh.
Đỉnh bị kê cũng thấy bực.
- Xin lỗi anh Thụ, đó là ngôn ngữ của quản giáo chứ không phải của tôi!
Khối trưởng Trai thấy không khí kém vui vội nhảy vào can thiệp.
- Năm mới năm me rồi. Yêu cầu anh em mỗi người nhịn nhau một tiếng cho vui vẻ cả làng. Tôi rất tán đồng ý kiến của cả ba anh Đỉnh, Bính và Thụ. Trước hết anh Dự dẫn anh em xuống xem lại đồ ăn đồ uống cho ngày mai. Dăm ba con chuột rơi vào nồi ra-gu thì mệt nhau lắm! Sau đó ai vui chơi thì theo anh khối phó, ai muốn ngủ thì theo anh Thụ...
Vĩnh lẳng lặng bỏ ra ngồi trên cái ghế băng đặt trước hàng hiên. Đêm giao thừa trời vẫn hâm hấp nóng và không một ngọn gió. Bầu trời tối đen như mực. Thỉnh thoảng những đường đạn lửa của bọn vệ binh canh gác hoặc đóng chốt đó đây đan nhau trên trời rồi biến mất vào vô tận. Tiếng trống lân của một vài khối ham vui sớm vẫn ầm ỉ ngoài sân trại. Bỗng nhiên có giọng Đính thì thầm bên tai Vĩnh.
- Đêm 30 buồn nhỉ! Có cao hứng làm thêm được bài nào không?
Vĩnh chẳng buồn ngoái lại. - Mày muốn nói gì?
- Nhạc ấy?
Vĩnh liếc Đính một cái trong bóng tối. Khuôn mặt Đính chập chờn dưới ánh sáng của một chiếc đèn bão treo ngay đầu hồi nhà.
- Có. Tao mới làm thêm được bài "Rắm của ta không bao giờ thối nữa!".
- Bài gì quái đản vậy?
- Thì đói quá, trong bụng có gì đâu mà để cho rắm được thối một cách oanh liệt!?
Đính vỗ mạnh vào vai Vĩnh.
- Cứ yên tâm. Khi trưa tao làm heo, bộ ruột già dùng để thưởng cho người có công làm heo đã thuộc về tao...
Vĩnh bất nhẫn rên lên.
- Trời ơi tưởng thưởng cái gì, thưởng cái mớ bầy nhầy lộn cứt với đái ấy à?
Đính nhăn nhó.
- Mày ngu bỏ mẹ đi. Tao lấy cái ruột già không mà tế ông cố nội bác Hồ à? Tao vồ thêm được ít bạc nhạc, ít thịt vụn, ít tiết. Hiện tại tao đang làm chủ một khúc dồi đủ để chúng ta đón Xuân trong tù. Chút nữa mình sẽ tính chuyện.
Nghe tới chữ dồi Vĩnh đã muốn điên lên. Nội chữ dồi thôi đã đủ lâm ly bi thiết rồi! Rồi từ chữ dồi nó dẫn người ta đi tới đủ thứ linh tinh khác nữa. Nào hành hoa húng quế, nào tiêu nào ớt, nào mắm tôm chanh... Vĩnh thốt kêu lên.
- Trời ơi dồi thật hả mày?
- Tưởng đùa à?
- Có mắm tôm không?
- Cái ấy thì chịu!
- Mất ngon năm mươi phần trăm!
- Đành.
- Ừ, đành!
- Thế mày có tham dự không?
Vĩnh giãy nảy. Anh nuốt nước bọt và cố lấy giọng bình tĩnh.
- Đọc di chúc của Bác cũng khó tìm ra một câu nào đần độn đến thế! Và trong Tư Bản Luận hình như Marx cũng có mấy câu ca ngợi rất tới món... lòng lợn Việt Nam thì phải?
Đính đập nhẹ vào mông Vĩnh.
- Mình sẽ ăn Tết trước mọi người đêm nay với món dồi bất hủ của tao!
- Biểu dương đồng chí!
Đính lại ngẫm nghĩ.
- Chương trình tối nay khối nào cũng có văn nghệ mừng Xuân. Khối mình chắc cũng thế?
Vĩnh ngao ngán.
- Thằng Cẩn đã sắp xếp đâu vào đó. Nhưng như mày thấy đấy, thằng quản giáo vừa phun ra một lô nọc độc "tội ác với nhân dân" làm thằng nào coi mòi cũng xìu.
- Ngủ mẹ nó cho xong!
- Thì thằng Thụ "bổ củi" nó đã thẳng thắn đề nghị rồi đó.
Dưới bếp lúc này đã có một số người kéo xuống kiểm soát nồi niêu. Một người trong đám ấy lâu lâu lại lập lại một câu hát mới nghe ban nãy trên hội trường.
Năm qua thắng lợi vẻ vang, Năm nay tiền tuyến lại càng thắng to. Vị độc...
Lần này giọng hát chưa dứt thì bị một tiếng cự đầy cọc cằn len vào.
- Thôi im cha nó cái "cửa mình" lại đi! Mất mẹ nó hết rồi đây này!
Tiếng nói khá lớn làm mọi người chung quanh giật mình. Tiếng người nhao nhao lên.
- Mất gì vậy? Nhiều không?
- Trộm thật hả?
Giọng ông già Chuân than thở.
- Ban chiều tôi đã báo động rồi. Ông Dự ông ấy không nghe. Tôi đã bảo mùa này mùa củ mật mà. Ngoài Bắc ta xưa mùa này trộm đạo như rươi. Nói cứ ơ hờ. Thật đúng là khôn đâu tới trẻ, khỏe đâu tới già!
Vĩnh ngồi ngoài xa nhưng cũng thấy bác sỹ Đỉnh đã nhảy lên bếp. Cái nắp vung thật lớn được Nguyễn Đình Thuần gò bằng tôn, bên trong có lót một lớp bao bố để giữ hơi nóng, bị lệch hẳn sang một bên. Giọng Phạm Văn Dự.
- Ông nào lấy giùm cái đèn bão treo ngay đầu hồi nhà vào đây giùm tí.
Một giọng khác.
- Húp cháo cả đám!
Trưởng bếp Dự ngoái lại nói với giọng hơi bực.
- Cao lắm mất vài lon gô, gì mà toắng lên thế?
Chiếc đèn bão đã được một người đem xuống bếp. Đám đông bu lại cái chảo còn đầy hơi nóng và đã bị lệch nắp. Với tư cách trưởng bếp ngày Tết, Phạm Văn Dự nhảy lên bệ bếp đứng cạnh bác sỹ Đỉnh để kiểm tra cái chảo. Chẳng hiểu một đấng Diệu Thủ Thư Sinh nào đã ghé thăm. Một chảo đầy cháo thịt đã vơi đi gần 3 đốt ngón tay, tính ra cũng phải trên chục lon guigoz cháo.
Tiếng bàn thảo, tiếng cãi nhau, tiếng quy trách nhiệm cho nhau vang lên inh ỏi. Không rõ có ai nói gì không mà Phạm Văn Dự bỗng hét lên.
- Tao mà húp được một thìa cháo trong vụ này, tao thề sẽ bị cải tạo đời đời và không bao giờ nhìn thấy mặt vợ năm con của tao nữa!
Nhiều tiếng bàn cãi cứ tiếp tục vang lên trong đêm trừ tịch quanh chảo cháo thịt. Đính nói bên tai Vĩnh.
- Mẹ kiếp xảy ra vụ này mất vui. Khuya nay tao với mày ngồi húp tí nước luộc lòng, tụi nó lại tưởng mình chỉa cháo mừng Xuân của cả khối thì bỏ mẹ!
Vĩnh chẳng biết nói sao nên ngồi yên lặng.
Chương trình văn nghệ giao thừa của khối thế là có đủ lý do chính đáng để thủ tiêu. Khối trưởng Trai lập tức ban hành lệnh "thiết quân luật" trong phạm vi bếp khối. Một toán trực gác được thiết lập tức thì để thỏa mãn nhu cầu của... tình thế! Lạ quen không cần biết, hễ không nhiệm vụ mà bén mảng đến cách bếp 3 thước ăn búa như chơi!
Vĩnh thấy buồn buồn. Đêm giao thừa được đi lại thoải mái. Vĩnh rủ Đính mò sang các khối khác thăm thú một vòng cho biết sự tình. Sang khối 3 của Hóa anh được biết khối này cũng dẹp luôn phần văn nghệ giao thừa do ảnh hưởng câu chúc Tết của thằng quản giáo bên đó - câu chúc Tết cũng rập khuôn câu chúc Tết của quản giáo Cư bên khối 2: Có tội, có tội và có tội!
Thế nhưng khối 3 không có tình trạng mất cháo như khối 2. Anh em tụ năm tụ ba ăn bánh kẹo với nhau và chờ sáng. Hóa lôi ra mấy điếu thuốc thơm chẳng rõ đớp được ở đâu mời Đính và Vĩnh mỗi người một điếu. Sau đó cả ba kéo nhau ra sân ngồi tán gẫu.
Hóa than thở quá sức về anh chàng khối trưởng tên Khiêm của hắn. Vĩnh gạt đi.
- Năm mới năm me rồi, nói chuyện khác cho vui. Đừng nói chuyện con người và thế thái nhân tình làm gì nữa.
- Chuyện gì bây giờ?
Đính len vào.
- Tao đề nghị đi kiếm thằng Ứng và thằng Tiến. Tụi mình kiếm một chỗ ngồi thoải mái nghe thằng Vĩnh hát vài bài mới chơi.
Vĩnh thở dài.
- Đi thì đi.
Bỗng nhiên một mùi thơm ngọt ngào bốc qua mũi hai người. Ở một góc tối, một đám người chừng năm sáu anh đang ngồi quây quần với nhau bên những lon guigoz mở nắp. Họ xầm xì to nhỏ nhưng không ai nghe rõ họ nói gì với nhau.
Đính lên tiếng.
- Chúng nó ăn gì mà thơm thế?
Hóa tiến gần lại đám đông, một chập hắn quay lại gần Vĩnh, thở dài.
- Khối tao có cả một tiểu đội trực và canh gác bếp, không hiểu sao cái băng thằng Phạn An Toàn chúng nó mỗi thằng lại có được một lon guigoz cháo? Tụi nó đang húp xùm xụp với nhau!
Đính chợt khẽ rú lên.
- Thôi bỏ mẹ khối tao rồi...
Vĩnh đoán biết Đính nói gì. Anh vội vã giơ tay đấm khẽ vào lưng Đính, chận lại.
- Kệ mẹ chúng nó. Mày đừng gây ra cảnh ân oán cấp liên khối làm gì. Lợi bất cập hại.
Một lúc sau đó ba người cũng đi về khối 1 tìm Ứng, rồi khối 4 tìm Tiến. Năm người lại mò về phía hội trường và mỗi người đều có một tí bánh kẹo đem theo. Tiến đến một góc hội trường, năm người đều bày ra những thứ mình có.
Đêm 30 rạng mùng 1 Tết, cái Tết lao tù đầu tiên trong đời, Vĩnh lại ngồi hát cho vài thằng bạn nghe một số ca khúc mới của anh. Và khi những tiếng trống múa lân của nhiều khối đồng nổi lên cùng với những tiếng reo hò tở mở của anh em, Vĩnh biết là trời đã gần sáng. Lúc mặt trời nhô tí đỉnh ở một chân trời xa tắp, trông y hệt một vết cắt đang ứa máu tươi trên một màu da xanh xám thì bọn Vĩnh bắt đầu được thưởng thức khúc dồi heo béo bở do Nguyễn Thành Đính thực hiện trong tù...
Phạm Văn Dự, đầu bếp chính khối 2 đang điều động những chuyên viên tình nguyện đảm trách bếp suốt ba ngày Tết xắt thịt, gọt khoai và làm tất cả mọi việc bếp núc để sửa soạn cho bữa ăn ngày mùng 1.
Huỳnh Công Cẩn cũng đã tổ chức xong những cuộc đấu cờ, kéo tay, kéo dây với kết quả chung kết nội bộ. Cờ tướng về tay Nguyễn Văn Cấp tổ A.5. Kéo dây về tay tổ A.3, một bất ngờ khó tin vì tổ A.3 ngoài Đặng Xuân Bính có dáng vai u thịt bắp, kỳ dư toàn hạng ốm yếu ho hen như Vĩnh cả mà lại thắng chung kết trước tổ 9 là tổ toàn tay to con, có khối trưởng Trai trong đó nặng ít ra cũng phải 70 kgs. Gay go và hồi hộp nhất vẫn là giải kéo tay. Qua bao nhiêu gian truân, cuối cùng Nguyễn Thành Đính của tổ A.5 đã thắng Đặng Xuân Bính của tổ A.3. Trận kéo tay chung kết giữa hai hảo thủ này đã kéo dài gần 15 phút đồng hồ mới ngã ngũ... Chỉ có giải bóng chuyền là chưa đâu vào đâu vì khối 2 gặp một tí lộn xộn trong việc tổ chức, dù rằng khối có một tay đập lừng danh trong trại là anh chàng Hóa của tổ A.10. Một cái lạ thường hơn nữa là khối 2 có Nguyễn Đình Thuần nổi tiếng như một người khéo tay nhất trại L4T3, thế nhưng cái đầu lân do anh làm coi mòi lại xệ nhất so với những đầu lân của các khối khác. Phải nói rằng ban lân của khối 2 rất là... cà chua, hiện đang được giáo gian Trương Thanh Long cầm đầu tập dợt.
Dù sao thì ở hầu hết các bộ môn, khối 2 đã tương đối sẵn sàng có vốn cho một cuộc thi đấu toàn trại để mừng Chúa Xuân ngày mai.
Theo chương trình, cả trại phải tập trung trên hội trường trước giao thừa nửa tiếng để sửa soạn nghe Bác chúc Tết (!). Khi tất cả đã yên vị trên hội trường, một tên cán bộ từ ngoài bước lên sân khấu để sửa soạn máy vi âm. Khi máy đã điều chỉnh xong, hắn gọi Hóa lên sân khấu bắt nhịp cho mọi người hát một bài. Không hiểu vô tình hay cố ý, Hóa bắt nhịp bài Tiếng Gọi Thanh Niên, một bài hát của một tên Cộng sản đỏ au từ trong ra ngoài là Lưu Hữu Phước nhưng lại được các ông chính quyền quốc gia tiếp nối chọn làm quốc ca! Bài hát này, dù ngày nay trong nước chẳng còn ai công nhận nó là Quốc ca nữa, kể cả bạn và thù, nhưng trong cái giây phút trừ tịch lắng đọng nhất của tâm hồn, bài hát được tập thể hát lên như khơi dậy trong lòng người một nổi niềm vô hạn hận! Ác hơn, chẳng ai chịu hát theo lời gốc của bản nhạc. Như cái máy, bọn tù đều hát theo lời được chính quyền quốc gia sửa lại và dùng làm tiếng linh hồn cho cả miền Nam Tự Do!
... Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống...
Hát theo mọi người, lòng Vĩnh cũng dâng lên một niềm thương hận khó tả. Yêu ai yêu cả đường đi. Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng! Bài hát ấy là của thằng Cộng sản đẻ ra, để cho sòng phẳng oán ân dứt khoát phải quăng nó vào thùng rác của lịch sử. Trời ơi! Miền Nam Tự Do có biết bao nhiêu nhạc sỹ tài hoa và có ý thức phân minh quốc cộng, những Phạm Duy, Hùng Lân, những Phạm Đình Chương, Cung Tiến, những Anh Việt Thu, Nguyễn Đức Quang... Tại sao các chính quyền quốc gia coi họ như những kẻ đứng bên ngoài cuộc? Tại sao lại đi quảng cáo không công cho một thằng nhạc sỹ Cộng sản, bằng cách cùng một lúc đem hai ca khúc của nó biến thành hai bài hát quan trong nhất cho một đất nước, ấy là bài Quốc ca và bài Chiêu Hồn Tử Sỹ? Vô ý thức, vô trách nhiệm và bất cố liêm sỷ như thế mà đứng vào hàng lãnh đạo quốc gia thì thua Cộng sản từ gốc thua ra rồi!
Bài hát đã chấm dứt. Tên cán bộ nhìn đồng hồ tay. Vừa lúc ấy tụi cán bộ tiểu đoàn lũ lượt kéo nhau vào hội trường. Đêm nay là lần đầu tiên Vĩnh và các bạn mới thấy chúng ăn mặc sạch sẽ và tề chỉnh, đặc biệt có mang quân hàm đầy đủ. Đêm nay cũng là lần đầu tiên, nhờ đó, mọi người mới biết được cấp bậc thật của quản giáo khối mình. Tất cả đều mang cấp bậc hạ sỹ, trừ quản giáo khối 4 - kẻ mà chính trị viên Thảo đã xác nhận học chưa qua lớp 3 - mang cấp bậc chuẩn úy và quản giáo Cư của khối 2 mang cấp bậc trung sỹ.
Lúc chúng đã ngồi yên nơi những hàng ghế kê trên sân khấu, tên thủ trưởng mới bước ra trước máy. Hắn bắt đầu.
- Đêm nay trại quy các anh lên hội trường để trước thềm năm mới, biểu dương chung các anh đã không nhiều thì ít, có phấn đấu trong học tập lao động cải tạo năm qua. Thành quả học tập lao động của trại ta đã được báo cáo đầy đủ lên trên và có nhiều hy vọng trại ta sẽ là trại được đánh giá cao trong quá trình cải tạo. Mặc dù trong năm cũ, trại cũng có một số điểm yếu, phát xuất từ những tư tưởng tiêu cực của một thiểu số chậm tiến, chẳng hạn trường hợp tự tử bằng 16 viên Chloroquine của anh Đặng Đình Tùng ở khối 1, trường hợp trốn trại để vệ binh buộc lòng bắn hạ như của Lê Văn Truật ở khối 3, Nguyễn Xuân Dung ở khối 2, trường hợp đánh thuốc độc giết người để phi tang như hai tên Tỷ và Non ở khối 4, và rất nhiều trường hợp vi phạm nội quy linh tinh khác xảy ra đều khắp ở các khối... Những cá nhân ấy đã ghi những điểm đen bên cạnh những điểm son trong bản thành tích của cả trại. Năm mới sắp đến, ban chỉ huy trại rất mong tất cả các anh củng cố được niềm tin tuyệt đối hơn nữa (!?) vào chính sách khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, để từ đó phấn đấu nhiều hơn, đạt nhiều thành tích hơn trong quá trình học tập cải tạo của năm cũ. Hãy nhớ đó cũng là điều kiện duy nhất để được Cách mạng xét thả như một số các anh vừa được xét thả ít ngày trước đây. Dĩ nhiên trại cũng ghi nhận các anh chưa được tạo nhiều điều kiện vật chất để việc học tập cải tạo được dễ dàng hơn, hồ hởi phấn khởi hơn. Nhưng các anh cũng biết đất nước ta mới giải phóng, khó khăn là tình trạng chung cho cả nước. Dù sao thì ta vẫn phải luôn nhớ rằng khó khăn chỉ là tạm thời, thuận lợi vẫn là cơ bản. Vả lại các anh cũng thấy đấy, thành quả vĩ đại năm qua trại ta đạt được nhờ vào cái gì? Hoàn toàn nhờ vào hai tay không và một ý chí quyết thắng hoàn cảnh khó khăn. Điều này đã một lần nữa chứng minh đúng câu thơ của đồng chí Tố Hữu: Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Thế nhưng bên cạnh những thành quả đạt được, ta hãy khoan tự mãn. Bác đã dạy chữ khiêm tốn phải để hàng đầu. Đã vậy các anh còn phải luôn nhớ rằng các anh là những kẻ có tội với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Qua quan sát, trại nhận biết trong các anh có nhiều người văn hóa rất cao, nhiều khả năng khoa học kỹ thuật hơn chúng tôi, nhiều tài hơn chúng tôi; nhưng chắc chắn lòng yêu nước các anh không hơn chúng tôi, và sức phấn đấu rõ ràng các anh đã thua chúng tôi. Đất nước có tự do, có độc lập, có giàu mạnh được không, xét cho cùng chỉ cần nhất ở người dân hai yếu tố: Lòng yêu nước và sức phấn đấu để phục vụ đất nước! Cả hai các anh đều thiếu. Vậy, một lần nữa, trước thềm năm mới, nhân danh thủ trưởng trại, thay mặt ban chỉ huy trại, thay mặt ban quản giáo trại, chúng tôi chúc các anh khỏe. Khỏe để phấn đấu trong học tập trong lao động, sớm trở thành người công dân của một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hoàn toàn hòa bình, hoàn toàn tự do, hoàn toàn hạnh phúc.
Những tiếng vỗ tay cò mồi trên sân khấu đồng loạt nổi lên. Bên dưới tù cũng vỗ tay lộp độp phụ họa. Tay thủ trưởng trại nhìn đồng hồ rồi vội vã ra lệnh cho tên trực máy điều chỉnh radio. Một vài tiếng rè rè nổi lên qua hệ thống loa đã mắc sẵn trong hội trường từ đêm văn nghệ hôm trước. Tên thủ trưởng có vẻ vội vã giới thiệu với mọi người.
- Bây giờ tất cả các anh chú ý. Đây là lần đầu tiên trong đời các anh được nghe bác Hồ và bác Tôn kính yêu chúc Tết đồng bào cả nước. Yêu cầu trước mắt là các anh ngồi nghiêm chỉnh, cấm hút thuốc, giữ yên lặng tuyệt đối để nghe máy trực tiếp truyền thanh lời chúc Tết của hai Bác kính yêu phát đi từ thủ đô Hà Nội.
Có lẽ máy bắt hơi chậm, mọi người chỉ nghe được những nốt cuối của bài quốc thiều. Sau đó là giọng một đồng chí ca sỹ gái chua như cứt mèo hát 1 bài thơ Con Cóc của Hồ Chí Minh được một thằng nhạc sỹ loại liếm giường liếm chiếu phổ thành ca khúc.
Năm qua thắng lợi vẻ vang, Năm nay tiền tuyến lại càng thắng to. Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào...
Bài hát nheo nhéo tới ba lần mới chấm dứt. Kế đó là giọng xướng ngôn lanh lảnh cũng của một đồng chí gái đài phát thanh Hà Nội: Sau đây xin mời các đồng chí và đồng bào cả nước nghe lời chúc Tết của bác Hồ kính yêu...
Giọng Hồ Chí Minh vừa khô vừa yếu, được phát ra từ một cuộn băng có lẽ đã được dùng quá nhiều lần, đưa tới tai người nghe những lời chúc Tết với nội dung cũng chẳng khác gì mấy câu thơ trên.
Kế Hồ Chí Minh tới lượt Tôn Đức Thắng chúc Tết.
Giọng Tôn Đức Thắng cũng là giọng của một lão già sắp tịch. Lời chúc Tết của lão là một chứng minh rằng lão chỉ là một thứ bù nhìn thê thảm nhất trong những loại bù nhìn. Đời thủa nhà ai, đường đường mang danh là một chủ tịch nhà nước, câu đầu tiên mở màn cho lời chúc Tết đồng bào toàn quốc lại là: Thưa đồng chí bí thư thứ nhất Lê Duẫn kính yêu, thưa đồng chí chủ tịch ủy ban thường vụ quốc hội Trường Chinh kính yêu, thưa đồng chí thủ tướng chính phủ Phạm Văn Đồng kính yêu... Sau một lô những cái kính yêu như thế Tôn Đức Thắng mới chịu nhớ đến nhân dân - những chủ nhân hàm của đất nước! Lão đọc tiếp: Thưa đồng bào cả nước...
Bên dưới không ai thèm lắng nghe. Tù dúi đầu vào nhau bàn đến những món ăn của ngày mai. Huỳnh Công Cẩn ngồi cạnh Vĩnh nhất định không đồng ý cơm nước ngày mai sẽ ngon miệng, sẽ đạt yêu cầu một khi anh em lại bầu thằng Dự ra làm trưởng bếp. Cẩn nói.
- Thằng ăn chó cả lông ấy tôi biết nó quá rồi! Nó là thằng tổ sư nói dóc. Trước kia nó từng khoe tôi nó là tuyển thủ bóng chuyền của Quân đoàn 4. Tôi tin vào nó, tin đến độ phút cuối khối mình không tổ chức nổi một vòng đấu loại nội bộ. Biết thế cứ giao quách cho thằng Hóa...
Một người ngồi cạnh Cẩn xía vào.
- Trời ơi bộ Quân đoàn 4 hết người rồi sao? Ai lại chọn một thằng cao không tới thước rưỡi vào đội tuyển bóng chuyền bao giờ!?
Cẩn than thở.
- Mới đầu tôi cũng nghi nghi, nhưng nó bảo nó chỉ ki banh, chỉ nâng cho thiên hạ đập...
Người ngồi cạnh Cẩn rên lên.
- Ý mèng ơi! Nó đía ông đến vậy mà ông cũng tin sao trời? Có ai lại chịu nâng bi cho thiên hạ đái bao giờ không? Nó cũng từng khoe tôi nó có khả năng làm xong một con chó trong vòng 10 phút và ăn hết một con gà tây trong 8 phút!
Nghe hai người than thở với nhau, Vĩnh cười.
- Nhưng đó không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là ngày mai nó đừng cho cả khối ăn cơm nếp bằng kiểu trên sống dưới khê tứ bề nhão nhét là được rồi.
Rồi thì màn chúc Tết của "hai Bác kính yêu" cũng chấm dứt, tất cả được thứ tự lớp lang trở về khối để đón giao thừa có sự tham dự của quản giáo theo đúng chương trình đã sắp xếp. Trong lúc đợi quản giáo Cư xuống, cả khối cùng dọn về một phòng đã được chọn làm nơi đón Xuân ngồi tán gẫu với nhau. Vĩnh trở về chỗ của mình ngồi tựa lưng vào vách nhìn quang cảnh chung quanh. Một góc nhà đã được đám khéo tay có Nguyễn Đình Thuần làm xếp đã đặt sẵn một cái bàn, trên mặt bàn đầy những bánh và kẹo. Bên cạnh đống bánh kẹo còn có 3 chai bia con Cọp đựng đầy rượu đế dành cho hơn một trăm tù cải tạo khối 2 đón Xuân. Cách bàn bánh kẹo không xa là một cành mai già được Thuần và Đính phối hợp trang trí trông như thật.
Giọng Bính khẽ nói bên tai Vĩnh.
- Hơn một trăm thằng mà có không tới 3 lít máu nhân dân làm sao đủ say?
- Coi vậy chứ lâu không chơi, một hớp lăn cù cả đám. Tao...
Vĩnh chưa dứt câu thì quản giáo Cư đã xuất hiện nơi cửa. Khối trưởng Trai hô nghiêm thật lớn. Tên Cư chỉ bước qua ngưỡng cửa hai bước rồi đứng lại. Bộ quần áo mới khiến hắn trông bảnh hơn mọi ngày, nhất là cái quân hàm trung sỹ quân đội nhân dân gắn trên cổ áo giúp hắn có được tí đỉnh phong thái của một quân nhân. Dù sao hôm nay quản giáo Cư không hung hăng như mọi bữa. Hắn khoa tay khước từ khi khối trưởng mời hắn ngồi xuống một cái ghế đẩu độc nhất trong phòng. Hắn vẫn đứng và ra dấu cho mọi người ngồi xuống nền nhà. Hắn khởi sự nói.
- Bây giờ đã là năm mới rồi, các anh vừa được nghe hai Bác kính yêu chúc Tết, ban chỉ huy trại chúc Tết. Những lời hay ý đẹp đã được dùng hết và tôi chẳng còn gì để nói với các anh thêm. Nhưng là quản giáo, thôi thì cũng tranh thủ nói thêm với các anh vài điểm như thế này. Năm cũ đã qua đi, năm mới lại đến. Năm mới đến thì ta phải thế nào? Phải có tinh thần mới, sức khỏe mới, khí thế mới, phấn đấu mới, quyết tâm mới trong học tập lao động cải tạo trở nên người công dân lương thiện. Ba ngày Tết là ba ngày vui chơi, nhưng trong vui chơi, các anh cũng đừng bao giờ quên rằng các anh vẫn là những kẻ có tội với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Phải nhớ nếu như các anh đừng phạm những tội phản quốc tày đình, thì mùa Xuân thống nhất, Xuân hòa bình này đã phải đến với Tổ quốc ta, với nhân dân ta nhiều chục năm về trước. Chính vì sự ngoan cố ngoan cường của các anh đã làm cho đất nước ta mất đi bao mùa Xuân.
Nói tới đây hẳn đảo mắt một vòng, ngẫm nghĩ như tìm lời. Một lúc hắn tiếp. Trước thềm năm mới, một lần nữa, tôi nhắc nhở các anh phải ý thức đúng vị trí cải tạo của mình, phải nhớ mình là kẻ có tội, và có nghĩa vụ học tập tốt, lao động tốt, cải tạo tốt, sớm trở thành những người công dân lương thiện của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chúc tất cả các anh khỏe!
Tên quản giáo chúc một câu ngắn gọn rồi nhanh nhẹn lui bước. Khối trưởng Trai ngỡ ngàng nhìn ly nước và đĩa bánh cầm trên tay. Anh dự trù mời hắn một chút lấy thảo nhưng thái độ "cách ly" của hắn đối với bọn tù đã quá rõ ràng! Anh buồn buồn hô nghiêm một tiếng để tiễn hắn ra cửa rồi cầm đĩa bánh ly nước đặt lại trên bàn.
Tiếng súng đón giao thừa của bọn vệ binh bên ngoài càng lúc càng nổ ròn rã hơn. Bên trong, bác sỹ Đỉnh với bản tính trẻ trung và lạc quan, lại có tí máu văn nghệ vội vã lên tiếng.
- Thôi thì quản giáo đã chúc Tết, anh em ta cứ vui vẻ nhận lời chúc đi. Giờ tôi đề nghị chúng ta bắt đầu vui chơi đón Tết. Các bạn đồng ý chứ?
Không ai trả lời bác sỹ Đỉnh. Thực ra chẳng mấy ai buồn rầu chi cái lời chúc Tết kiểu chửi cha của thằng quản giáo. Bị chửi nhiều quá nghe cũng nhàm tai rồi. Không ai trả lời bác sỹ Đỉnh vì bên ngoài tiếng trống, tiếng phèng la của đội lân khối 5 tân lập đã rền vang cả sân trại. Đội lân bên ấy do anh chàng Dũng cầm đầu. Dũng là sỹ quan xuất thân trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Hắn bảo hắn là anh hay em gì đó của nữ ca sỹ Lệ Thanh. Dũng rất trẻ tính và nhiệt tình trong những công tác thi đua, nhất là thi đua văn nghệ giữa các khối. Hiện tại Vĩnh biết hắn đã cho ban lân của khối 5 khởi sự đi múa chào các khối bạn.
Tiếng trống múa lân đỡ ồn hẳn vì hình như ban lân khối 5 đã tiến về phía khối 3 nằm bên cánh phải của hội trường và sát phía cổng trại. Một giọng từ cuối phòng cất lên.
- Anh Đỉnh nói có lý, nhưng điều tiên quyết tôi đề nghị là ban trực bếp coi lại nồi niêu xoong chảo. Từ lúc quản giáo nói chuyện tôi đã nghe thấy có nhiều tiếng động rất khả nghi. Không rõ chuột bốn chân hay chuột hai chân. Mà chuột nào thì cũng tai hại như nhau cả!
Một giọng khác lên tiếng hùa vào.
- Đúng đúng! Đề nghị ta kiểm soát bếp múc một vòng rồi tất cả đi ngủ. Tôi nghĩ anh em đã đến lúc cần nghỉ ngơi hơn là vui chơi nói theo ngôn ngữ của anh Đỉnh.
Đỉnh bị kê cũng thấy bực.
- Xin lỗi anh Thụ, đó là ngôn ngữ của quản giáo chứ không phải của tôi!
Khối trưởng Trai thấy không khí kém vui vội nhảy vào can thiệp.
- Năm mới năm me rồi. Yêu cầu anh em mỗi người nhịn nhau một tiếng cho vui vẻ cả làng. Tôi rất tán đồng ý kiến của cả ba anh Đỉnh, Bính và Thụ. Trước hết anh Dự dẫn anh em xuống xem lại đồ ăn đồ uống cho ngày mai. Dăm ba con chuột rơi vào nồi ra-gu thì mệt nhau lắm! Sau đó ai vui chơi thì theo anh khối phó, ai muốn ngủ thì theo anh Thụ...
Vĩnh lẳng lặng bỏ ra ngồi trên cái ghế băng đặt trước hàng hiên. Đêm giao thừa trời vẫn hâm hấp nóng và không một ngọn gió. Bầu trời tối đen như mực. Thỉnh thoảng những đường đạn lửa của bọn vệ binh canh gác hoặc đóng chốt đó đây đan nhau trên trời rồi biến mất vào vô tận. Tiếng trống lân của một vài khối ham vui sớm vẫn ầm ỉ ngoài sân trại. Bỗng nhiên có giọng Đính thì thầm bên tai Vĩnh.
- Đêm 30 buồn nhỉ! Có cao hứng làm thêm được bài nào không?
Vĩnh chẳng buồn ngoái lại. - Mày muốn nói gì?
- Nhạc ấy?
Vĩnh liếc Đính một cái trong bóng tối. Khuôn mặt Đính chập chờn dưới ánh sáng của một chiếc đèn bão treo ngay đầu hồi nhà.
- Có. Tao mới làm thêm được bài "Rắm của ta không bao giờ thối nữa!".
- Bài gì quái đản vậy?
- Thì đói quá, trong bụng có gì đâu mà để cho rắm được thối một cách oanh liệt!?
Đính vỗ mạnh vào vai Vĩnh.
- Cứ yên tâm. Khi trưa tao làm heo, bộ ruột già dùng để thưởng cho người có công làm heo đã thuộc về tao...
Vĩnh bất nhẫn rên lên.
- Trời ơi tưởng thưởng cái gì, thưởng cái mớ bầy nhầy lộn cứt với đái ấy à?
Đính nhăn nhó.
- Mày ngu bỏ mẹ đi. Tao lấy cái ruột già không mà tế ông cố nội bác Hồ à? Tao vồ thêm được ít bạc nhạc, ít thịt vụn, ít tiết. Hiện tại tao đang làm chủ một khúc dồi đủ để chúng ta đón Xuân trong tù. Chút nữa mình sẽ tính chuyện.
Nghe tới chữ dồi Vĩnh đã muốn điên lên. Nội chữ dồi thôi đã đủ lâm ly bi thiết rồi! Rồi từ chữ dồi nó dẫn người ta đi tới đủ thứ linh tinh khác nữa. Nào hành hoa húng quế, nào tiêu nào ớt, nào mắm tôm chanh... Vĩnh thốt kêu lên.
- Trời ơi dồi thật hả mày?
- Tưởng đùa à?
- Có mắm tôm không?
- Cái ấy thì chịu!
- Mất ngon năm mươi phần trăm!
- Đành.
- Ừ, đành!
- Thế mày có tham dự không?
Vĩnh giãy nảy. Anh nuốt nước bọt và cố lấy giọng bình tĩnh.
- Đọc di chúc của Bác cũng khó tìm ra một câu nào đần độn đến thế! Và trong Tư Bản Luận hình như Marx cũng có mấy câu ca ngợi rất tới món... lòng lợn Việt Nam thì phải?
Đính đập nhẹ vào mông Vĩnh.
- Mình sẽ ăn Tết trước mọi người đêm nay với món dồi bất hủ của tao!
- Biểu dương đồng chí!
Đính lại ngẫm nghĩ.
- Chương trình tối nay khối nào cũng có văn nghệ mừng Xuân. Khối mình chắc cũng thế?
Vĩnh ngao ngán.
- Thằng Cẩn đã sắp xếp đâu vào đó. Nhưng như mày thấy đấy, thằng quản giáo vừa phun ra một lô nọc độc "tội ác với nhân dân" làm thằng nào coi mòi cũng xìu.
- Ngủ mẹ nó cho xong!
- Thì thằng Thụ "bổ củi" nó đã thẳng thắn đề nghị rồi đó.
Dưới bếp lúc này đã có một số người kéo xuống kiểm soát nồi niêu. Một người trong đám ấy lâu lâu lại lập lại một câu hát mới nghe ban nãy trên hội trường.
Năm qua thắng lợi vẻ vang, Năm nay tiền tuyến lại càng thắng to. Vị độc...
Lần này giọng hát chưa dứt thì bị một tiếng cự đầy cọc cằn len vào.
- Thôi im cha nó cái "cửa mình" lại đi! Mất mẹ nó hết rồi đây này!
Tiếng nói khá lớn làm mọi người chung quanh giật mình. Tiếng người nhao nhao lên.
- Mất gì vậy? Nhiều không?
- Trộm thật hả?
Giọng ông già Chuân than thở.
- Ban chiều tôi đã báo động rồi. Ông Dự ông ấy không nghe. Tôi đã bảo mùa này mùa củ mật mà. Ngoài Bắc ta xưa mùa này trộm đạo như rươi. Nói cứ ơ hờ. Thật đúng là khôn đâu tới trẻ, khỏe đâu tới già!
Vĩnh ngồi ngoài xa nhưng cũng thấy bác sỹ Đỉnh đã nhảy lên bếp. Cái nắp vung thật lớn được Nguyễn Đình Thuần gò bằng tôn, bên trong có lót một lớp bao bố để giữ hơi nóng, bị lệch hẳn sang một bên. Giọng Phạm Văn Dự.
- Ông nào lấy giùm cái đèn bão treo ngay đầu hồi nhà vào đây giùm tí.
Một giọng khác.
- Húp cháo cả đám!
Trưởng bếp Dự ngoái lại nói với giọng hơi bực.
- Cao lắm mất vài lon gô, gì mà toắng lên thế?
Chiếc đèn bão đã được một người đem xuống bếp. Đám đông bu lại cái chảo còn đầy hơi nóng và đã bị lệch nắp. Với tư cách trưởng bếp ngày Tết, Phạm Văn Dự nhảy lên bệ bếp đứng cạnh bác sỹ Đỉnh để kiểm tra cái chảo. Chẳng hiểu một đấng Diệu Thủ Thư Sinh nào đã ghé thăm. Một chảo đầy cháo thịt đã vơi đi gần 3 đốt ngón tay, tính ra cũng phải trên chục lon guigoz cháo.
Tiếng bàn thảo, tiếng cãi nhau, tiếng quy trách nhiệm cho nhau vang lên inh ỏi. Không rõ có ai nói gì không mà Phạm Văn Dự bỗng hét lên.
- Tao mà húp được một thìa cháo trong vụ này, tao thề sẽ bị cải tạo đời đời và không bao giờ nhìn thấy mặt vợ năm con của tao nữa!
Nhiều tiếng bàn cãi cứ tiếp tục vang lên trong đêm trừ tịch quanh chảo cháo thịt. Đính nói bên tai Vĩnh.
- Mẹ kiếp xảy ra vụ này mất vui. Khuya nay tao với mày ngồi húp tí nước luộc lòng, tụi nó lại tưởng mình chỉa cháo mừng Xuân của cả khối thì bỏ mẹ!
Vĩnh chẳng biết nói sao nên ngồi yên lặng.
Chương trình văn nghệ giao thừa của khối thế là có đủ lý do chính đáng để thủ tiêu. Khối trưởng Trai lập tức ban hành lệnh "thiết quân luật" trong phạm vi bếp khối. Một toán trực gác được thiết lập tức thì để thỏa mãn nhu cầu của... tình thế! Lạ quen không cần biết, hễ không nhiệm vụ mà bén mảng đến cách bếp 3 thước ăn búa như chơi!
Vĩnh thấy buồn buồn. Đêm giao thừa được đi lại thoải mái. Vĩnh rủ Đính mò sang các khối khác thăm thú một vòng cho biết sự tình. Sang khối 3 của Hóa anh được biết khối này cũng dẹp luôn phần văn nghệ giao thừa do ảnh hưởng câu chúc Tết của thằng quản giáo bên đó - câu chúc Tết cũng rập khuôn câu chúc Tết của quản giáo Cư bên khối 2: Có tội, có tội và có tội!
Thế nhưng khối 3 không có tình trạng mất cháo như khối 2. Anh em tụ năm tụ ba ăn bánh kẹo với nhau và chờ sáng. Hóa lôi ra mấy điếu thuốc thơm chẳng rõ đớp được ở đâu mời Đính và Vĩnh mỗi người một điếu. Sau đó cả ba kéo nhau ra sân ngồi tán gẫu.
Hóa than thở quá sức về anh chàng khối trưởng tên Khiêm của hắn. Vĩnh gạt đi.
- Năm mới năm me rồi, nói chuyện khác cho vui. Đừng nói chuyện con người và thế thái nhân tình làm gì nữa.
- Chuyện gì bây giờ?
Đính len vào.
- Tao đề nghị đi kiếm thằng Ứng và thằng Tiến. Tụi mình kiếm một chỗ ngồi thoải mái nghe thằng Vĩnh hát vài bài mới chơi.
Vĩnh thở dài.
- Đi thì đi.
Bỗng nhiên một mùi thơm ngọt ngào bốc qua mũi hai người. Ở một góc tối, một đám người chừng năm sáu anh đang ngồi quây quần với nhau bên những lon guigoz mở nắp. Họ xầm xì to nhỏ nhưng không ai nghe rõ họ nói gì với nhau.
Đính lên tiếng.
- Chúng nó ăn gì mà thơm thế?
Hóa tiến gần lại đám đông, một chập hắn quay lại gần Vĩnh, thở dài.
- Khối tao có cả một tiểu đội trực và canh gác bếp, không hiểu sao cái băng thằng Phạn An Toàn chúng nó mỗi thằng lại có được một lon guigoz cháo? Tụi nó đang húp xùm xụp với nhau!
Đính chợt khẽ rú lên.
- Thôi bỏ mẹ khối tao rồi...
Vĩnh đoán biết Đính nói gì. Anh vội vã giơ tay đấm khẽ vào lưng Đính, chận lại.
- Kệ mẹ chúng nó. Mày đừng gây ra cảnh ân oán cấp liên khối làm gì. Lợi bất cập hại.
Một lúc sau đó ba người cũng đi về khối 1 tìm Ứng, rồi khối 4 tìm Tiến. Năm người lại mò về phía hội trường và mỗi người đều có một tí bánh kẹo đem theo. Tiến đến một góc hội trường, năm người đều bày ra những thứ mình có.
Đêm 30 rạng mùng 1 Tết, cái Tết lao tù đầu tiên trong đời, Vĩnh lại ngồi hát cho vài thằng bạn nghe một số ca khúc mới của anh. Và khi những tiếng trống múa lân của nhiều khối đồng nổi lên cùng với những tiếng reo hò tở mở của anh em, Vĩnh biết là trời đã gần sáng. Lúc mặt trời nhô tí đỉnh ở một chân trời xa tắp, trông y hệt một vết cắt đang ứa máu tươi trên một màu da xanh xám thì bọn Vĩnh bắt đầu được thưởng thức khúc dồi heo béo bở do Nguyễn Thành Đính thực hiện trong tù...
No comments:
Post a Comment