Hòa thượng K. S. Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch
LỜI GIỚI THIỆU
Nếu
quý vị vượt qua sự sợ hãi thì có thể vượt qua tất cả. Nếu quý vị không sợ chết
thì sẽ đối diện với cái chết một cách bình tĩnh. Cuốn sách: "Chết Có Thật
Đáng Sợ Không?" của Hòa-Thượng Tiến-Sĩ K. Sri Dhammananda do Thầy Thích
Tâm Quang chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu và thu
hút người đọc từ trang đầu đến trang cuối, sẽ đem lại cho quý độc giả những
điều cần biết khi từ giã cõi đời này.
Quyển
sách nhỏ này sẽ dẫn dắt người đọc đi một hành trình thật xa từ sự sống để chuẩn
bị cho sự chết nhẹ nhàng, bình tĩnh không than van không khóc lóc. Chúng ta đến
cuộc đời này một cách hồn nhiên thì chúng ta ra đi một cách bình thản. Người ỏ
lại cũng phải đối diện với sự thật của cuộc đời rồi cũng sẽ lần lượt tới phiên
mình. Biết về sự chết không phải để bi quan, nhưng để chúng ta làm điều thiện,
tránh điều ác bởi vì sau khi chết chúng ta chỉ mang theo hành vi thiện ác mà
chúng ta đã làm.
Chết
không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi; vậy thì tại sao chúng ta lại sợ chết?
Chắc chắn quyển sách này sẽ đem lại cho quý độc giả một chút suy tư. Thần chết
không từ chối một ai, không phân biệt tuổi tác, nam hay nữ, vậy thì tại sao
chúng ta không chuẩn bị cuộc hành trình ra đi vĩnh viễn ngay từ bây giờ?
Đọc
"Chết Có Thật Đáng Sợ Không?" và chuyển quyển sách này đến những
người thân của chúng ta để cùng đọc, để cùng có thái độ bình thản lúc ra đi
không sợ hãi, không lo âu, và người ỏ lại không đau đớn vì chết là sự hiển
nhiên không ai tránh khỏi.
Chúng
tôi chân thành cầu nguyện Chư Phật Mười Phương gia hộ cho Thầy Thích Tâm Quang
mọi điều tốt đẹp, sức khỏe đầy đủ để tiếp tục sứ mạng hoằng pháp lợi sanh và hy
vọng cuốn sách nhỏ này sẽ được hưởng ứng nồng nhiệt của các Phật Tử khắp nơi
trên thế giới.
Mùa
Xuân Năm Đinh Sửu 1997
KIỀU
MỸ DUYÊN
LỜI NGƯỜI DỊCH
Cái
chết có thật đáng sợ không? Thông thường con người chúng ta, ai cũng sợ chết.
Nhưng thực ra cái chết không đáng sợ như chúng ta tưởng. Cuốn sách nhỏ này do
Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được
những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa, muốn tránh khỏi
sợ hãi cái chết chúng ta phải làm gì vân vân ..
Ngoài
phần nói về cái chết, phần hai của cuốn sách này Hòa Thượng Tiến Sĩ K Sri
Dhammanda hướng dẫn người Phật Tử chúng ta phải làm gì trong những trường hợp
vui như sanh con, cưới hỏi và những trường hợp buồn như đau yếu và tang lễ. Vì
người Phật Tử chúng ta còn cố chấp, còn giữ nhiều những tập tục truyền thống
trái với giáo lý của Đức Phật và làm các tôn giáo khác hiểu lầm nên những nhận
xét cùng những phương pháp rất thực tiễn và cần thiết nêu lên tại đây giúp
chúng ta củng cố nền móng của Phật Giáo và tránh được sự ngộ nhận.
Nhận
thấy cuốn sách mang nhiều lợi ích thiết thực, tuy tự biết khả năng yếu kém,
nhưng với tấm lòng nhiệt thành, chúng tôi cố gắng dịch ra Việt Ngữ, hy vọng
đóng góp một phần nhỏ nhoi trong kho tàng Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam.
Chúng
tôi xin chân thành cảm tạ Chư Tôn Đức đã khích lệ, góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc
biệt các Đạo Hữu đã góp phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng
tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam Bảo và cầu nguyện Hồng
Ân Tam Bảo thùy từ gia hộ Quý Vị cùng Bửu Quyến thân tâm thường an lạc và hạnh
phúc.
Sau
cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức giả cao minh, các bậc
thiện trí thức, các bạn đạo ân nhân hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để
cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Ngày
9 Tháng 03 Năm 1997
Tỳ
Kheo THÍCH TÂM QUANG
-ooOoo-
TIỂU
SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TIẾN SĨ K. SRI DHAMMANANDA MAHA NAYAKA THERA
Đại
Lão Hòa-Thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda, Trưởng Lão Tăng Già Mã Lai Á, phục
vụ Phật Giáo Mã Lai trên 42 năm trong các chức vụ như một vị lãnh đạo tinh
thần, một học giả, một cố vấn và một thiện hữu. Ngài sanh ngày 18 Tháng Ba Năm
1919 tại làng Kirinde, Tỉnh Matara phía nam Sri Lanka (Tích Lan).
Ngài
khởi đầu việc học hành theo nền giáo dục thế tục khi Ngài được 7 tuổi và tuy
còn nhỏ Ngài đã phát triển mối quan tâm đặc biệt đến Phật giáo. Được sự giúp đỡ
của một người cậu là Sư Trưởng tại ngôi chùa địa phương và người mẹ tận tâm của
Ngài, Ngài thọ Sa Di giới vào năm 12 tuổi. Ngài được đặt pháp danh là
"Dhammananda" có nghĩa là "Người chứng nghiệm hạnh phúc qua Phật
Pháp" .
Sau
mười năm tu học chuyên về giáo lý Đức Phật, năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn
bằng Ngôn Ngữ Học, Triết Lý, và Quy Tắc Pali Viện Đại Học Vidyalankara
Pirivena.Ngài tốt nghiệp Cao Học Triết Lý Ấn Độ năm 1949 tại Viện Đại Học
Beneres (Ba-Lã-Nại).Sau khi phục vụ 3 năm tại Sri Lanka, Ngài được tuyển chọn
đi hoằng Pháp tại Mã Lai.
Vào
các thập niên 50 và 60, Phật Giáo bị giới trí thức Trung Hoa tại Mã Lai coi rẻ
và nghĩ rằng Đạo Phật chỉ là mê tín dị đoan. Qua Hội Truyền Bá Giáo Lý Phật Đà,
Ngài đã phát hành các tài liệu, các loại sách về mọi phương diện của Phật Giáo
và kết quả một số đông đã nhận thức được giáo lý chân chính của Đức Phật. Ngài
đã phát hành các cuốn sách rất phổ thông như " Người Phật Tử Tin Gì",
"Làm Thế Nào Để Sống Khỏi Sợ Hãi và Lo Lắng", "Hạnh Phúc Lứa
Đôi", "Nhân Loại Tiến Về Đâu" và "Thiền Định-Con Đường Duy
nhất".
Tuy
không phải là một nhà truyền giáo hùng biện, nhưng Ngài đã thành công cảm hóa
tư tưởng của cả giới thanh niên lẫn trí thức với một lối trình bầy Giáo Pháp
của Đức Phật một cách rõ ràng, đơn giản và khoa học. Ngài nhận được các Văn
Bằng Tiến Sĩ Danh Dự của nhiều Đại Học trên thế giới và cũng được ân thưởng
Tước Vị Johan Setia Mahkota bởi Hoàng Đế Mã Lai. Ngài cũng có, như Đức Phật mô
tả, Bẩy Đức hạnh cao quý của một Đại nhân trong Kinh Sakha Sutta (A.N. 4:31):
Ngài là người đáng yêu, đáng kính trọng, học thức, là một cố vấn, một người
nhẫn nại chịu nghe, thâm trầm trong đàm luận, và không bao giờ cổ xúy một cách
vô căn cứ.
BENNY
LIOW WOON KHIN
-ooOoo-
PHẦN
I
CÁI
CHẾT CÓ THẬT ĐÁNG SỢ KHÔNG?
MẠNG
SỐNG MONG MANH - CÁI CHẾT LÀ ĐIỀU CHẮC CHẮN
Đó
là câu châm ngôn nổi tiếng trong Đạo Phật. Biết rõ cái chết là điều chắc chắn
và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên
sợ chết. Theo bản năng, tất cả chúng ta đều sợ chết vì chúng ta không biết làm
sao để tránh khỏi nó. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào thân xác của
chúng ta, vì vậy trở nên đầy tham dục và luyến ái.
Một
đứa nhỏ ra đời đem niềm vui và hạnh phúc cho những người thân yêu. Dù người mẹ
đau đớn cùng cực lúc sanh nhưng vẫn vui mừng và thích thú ngắm nhìn đứa con mới
sanh. Người mẹ cảm thấy được đền bù xứng đáng sau nhiều khó khăn đau đớn phải
chịu đựng. Tuy nhiên đứa trẻ lọt lòng ra đã khóc hình như nó muốn nói ra nó
cũng phải chịu đau khổ của kiếp người. Đứa trẻ trở thành một thiếu niên rồi
trưởng thành, tạo các loại hành vi tốt và xấu. Rồi nó trở nên già nua, và cuối
cùng từ giã cõi đời này, bỏ lại bạn bè và thân quyến đau buồn: Đó là bản chất
cuộc sống của một con người. Con người cố gắng tránh khỏi nanh vuốt của tử thần
nhưng không một ai có thể thoát khỏi. Đến lúc gần chết, đầu óc liên tưởng đến
của cải tích lũy, và lo sợ quá đáng về những đứa con thân yêu của mình. Cuối
cùng, nhưng không kém phần quan trọng, con người lo lắng quá sức về thân xác
quý báu của mình; mặc dù với sự chăm sóc chu đáo và cẩn trọng nhưng nay đã suy
nhược, kiệt quệ và tan rã. Thật đau đớn khi phải xa lìa thân xác. Không thể
chịu đựng được thế nhưng không tránh nổi. Đó là tâm trạng của mọi người khi từ
giã cõi đời này với than van rền rĩ. Sự đau đớn về cái chết thật là khủng
khiếp, đó là thái độ của kẻ do ngu muội mà ra.
SỢ
CHẾT
Con
người lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì hy vọng và tưởng tượng về đời sống
tương lai của mình. Cái chết, chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp và khiếp sợ
hay kinh hãi chỉ do tâm trí của chúng ta tưởng tượng mà ra. Chúng ta thường
không đủ can đảm để đối đầu với ý tưởng về cái chết. Với những kẻ không dám đối
đầu với thực tế, khổ đau thật sự khủng khiếp và không thể chấp nhận được. Nhưng
nếu chúng ta biết đương đầu với sự thật, nó sẽ làm dịu bớt hay loại trừ cái
khủng khiếp của sự sợ hãi. Đời sống ví như một viên đạn lao tới mục tiêu, tức
là cái chết. Hiểu như vậy, chúng ta phải can đảm trực diện với hiện tượng tự
nhiên này. Muốn được tự do trong đời sống, chúng ta phải không sợ chết. Sợ hãi
chỉ đến với những kẻ không hiểu quy luật thiên nhiên. "Dù ở đâu đi nữa,
nếu có phát xuất, thì sợ hãi chỉ phát xuất nơi người mất trí điên khùng và
không bao giờ phát xuất nơi người khôn ngoan". Đó là lời Đức Phật dạy
trong Kinh Anguttara Nikaya. Sợ hãi chỉ là trạng thái của tâm thần. Khoa học
cho ta thấy quá trình của một cái chết ra sao? Cái chết chỉ là sự hao mòn sinh
lý của cơ thể con người. Chúng ta đừng sợ hãi và tưởng tượng hay tiên đoán về những
sự khủng khiếp không bao giờ đến để tìm cách chống lại. Một thầy thuốc nổi
tiếng, Sir William Osler nói như sau: "Theo kinh nghiệm hành nghề của tôi,
tôi thấy hầu hết những người chết không đau đớn và sợ hãi".
Một
nữ y tá lão thành nói: "Hình như thảm kịch lớn nhất đối với tôi là mọi
người suốt đời bị nỗi sợ chết ám ảnh. Khi chết đến, ta thấy rằng nó cũng tự
nhiên như bản chất cuộc sống. Rất ít người sợ chết khi đã sống trọn cuộc đời.
Theo kinh nghiệm của tôi, tôi chỉ thấy có một người có vẻ sợ hãi - một phụ nữ
đã làm một điều dữ cho người chị nay đã quá trễ để hối cải".
"Một
điều lạ lùng và đẹp đẽ sẽ đến với dù là đàn ông hay đàn bà khi họ đã sống trọn
đời. Tất cả sợ hãi, khiếp đảm đều biến mất. Tôi thường ngắm thấy tia sáng bình
minh hạnh phúc trong ánh mắt của họ khi họ nhận thức điều đó đúng. Đó là tất cả
ơn huệ của Tạo Hóa".
Vì
tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu tự nhiên. Nó tạo sự lo
âu trong đời sống. Vì vậy, con người sẽ không bao giờ dám mạo hiểm làm điều gì
cho dù đó là lẽ phải. Họ sống trong sợ hãi, lo lắng về bệnh tật và các tai nạn
có thể sẩy ra cướp mất mạng sống quý giá của mình. Nhận thức chết là điều không
tránh nổi, kẻ yêu đời sống trần thế sẽ đắm trong nhiệt thành cầu nguyện với
niềm hy vọng linh hồn sẽ được lên thiên đàng. Không một ai có hạnh phúc giữa
cơn lốc của sợ hãi và hy vọng như vậy. Đúng thật khó có thể coi thường hay
không lưu ý đến những bộc phát tự nhiên của bản năng để tự bảo vệ. Tuy nhiên có
một phương pháp để vượt qua sự sợ hãi. Hãy quên đi quan niệm về cái 'tôi'; hãy
đem tình thương vị kỷ hướng ra ngoài có nghĩa là làm lợi ích cho nhân loại và
tỏ tình thương với người khác. Bất cứ ai không quên sự thật rằng một ngày nào
đó mình sẽ chết và cái chết không thể tránh khỏi, sẽ hăng hái chu toàn nhiệm vụ
với đồng loại trước khi chết, làm được như vậy thì bây giờ cũng như mai hậu mọi
người chắc chắn sẽ chiêm ngưỡng kính phục. Say mê phục vụ người khác, chẳng bao
lâu chính bạn sẽ thoát khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, tự
phụ, và tự tôn.
BỆNH
VÀ CHẾT
Bệnh
và chết là việc sẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng ta, và chúng ta phải
chấp nhận điều đó với sự hiểu biết. Theo thuyết tâm lý hiện đại, nguyên nhân
căng thẳng tinh thần là do việc không dám đương đầu và chấp nhận sự thực ở đời.
Nếu không vượt qua hay khắc phục được sự căng thẳng đó sẽ gây nên bệnh tật.
Trong khi bệnh hoạn mà quá lo lắng hay thất vọng chỉ làm cho bệnh tăng lên. Đối
với những người có tâm hồn và hành động trong sạch, chết chẳng có gì đáng sợ.
Mạng sống của chúng ta gồm có tâm trí và thể xác hợp thành và vì vậy tâm trí và
thể xác không chết riêng. Nghiệp báo do những hành động xấu của chúng ta đã gây
nên trong đời trước theo chúng ta vào lúc tái sanh khiến chúng ta phải chịu
những khổ đau trong đời này. Những khổ đau đó có thể tránh khỏi nếu chúng ta cố
gắng tạo công đức, sống một cuộc đời đạo hạnh, và có những hành động tốt bất cứ
ở đâu hay bất cứ lúc nào. Làm như vậy, chúng ta có thể đương đầu với cái chết
một cách can đảm và thực tế. Theo lời Phật dạy, chúng ta không nên tin tưởng
vào một vị "cứu tinh" nào có thể lãnh gánh nặng, và cứu vớt chúng ta
khỏi hậu quả do những hành động sai lầm của chúng ta . Chúng ta luôn luôn nhớ
tới lời khuyên của Đức Phật: "Hãy tin vào mình để tự cứu, hãy gắng sức và
chuyên cần'. Người Phật Tử không sầu thảm và bi thương trước cái chết của thân
nhân và bạn bè. Không có cái gì có thể ngăn cản được bánh xe nhân quả. Khi một
người chết, nghiệp do họ tạo nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Kẻ quen, người
thân, bạn bè và thân quyến chỉ có thể tiễn đưa người chết đến huyệt mà thôi
trong khi người chết mang theo những hành động tốt hay xấu của mình. Những
người còn sống nên chịu đựng sự mất mát trong bình tĩnh và hiểu biết. Chết là
một tiến trình không thể tránh khỏi ở thế gian này. Đó là một điều chắc chắn
trong vũ trụ này. Cánh rừng có thể trở thành đô thị và đô thị có thể trở thành
bãi cát. Núi có thể biến thành hồ. Sự biến dạng có thể xẩy ra ở khắp nơi duy
chỉ có cái chết là điều không đổi. Tất cả mọi thứ chỉ là tạm bợ. Chúng ta có
cha ông, và cha ông của chúng ta cũng có cha ông, nhưng bây giờ họ ở đâu? Tất
cả đều đã quá vãng.
Đừng
nghe kẻ ngụy biện cho rằng chúng tôi đang trình bày một quan niệm yếm thế bi
quan. Đó là quan điểm thực tế nhất của chủ nghĩa hiện thực. Tại sao chúng ta
lại không thực tế mà mù quáng trước những sự kiện thực tế đó? Có phải cái chết
thiêu đốt mọi thứ? Đúng vậy! Nhưng đừng quên điều này: Cái chết khiến mọi người
hiểu rõ số phận của mình là dù cao sang đến đâu, hay kỹ thuật và y khoa tiến bộ
đến đâu đi chăng nữa cái chết vẫn như nhau: Hoặc ở trong quan tài hay trở thành
một nắm tro tàn. Sống và chết là một quá trình liên tục cho đến khi chúng ta
trở nên toàn hảo.
DANH
THƠM CÒN MÃI
Đức
Phật dạy: "Thân xác của con người tuy thành tro bụi nhưng danh tiếng của
họ vẫn còn". Ảnh hưởng của kiếp trước đôi khi rất sâu và mạnh hơn ảnh
hưởng của thân xác đang sống với một số khả năng hạn hẹp. Đôi khi chúng ta cảm
nghĩ và hành động theo tư tưởng của những người mà xác thân đã thành tro bụi.
Tư tưởng đó rất quan trọng trong mỗi hành động của chúng ta. Mỗi người sống là
một phần thân xác của tổ tiên đã khuất. Trong ý nghĩ này, chúng ta có thể cho
rằng những bậc anh hùng thời đại, những triết gia vĩ đại, các hiền triết, những
thi nhân và nhạc sĩ của mỗi dân tộc đang sống với chúng ta. Vì chúng ta liên hệ
đến những liệt sĩ và những nhà tư tuởng trong quá khứ, chúng ta có thể chia sẻ
những tư tưởng khôn ngoan, những lý tưởng cao quý, và cả đến âm nhạc bất diệt
qua nhiều thời đại. Dù rằng thân xác đã chết, nhưng ảnh hưởng của họ vẫn còn.
Xác thân chẳng là gì cả, nó chỉ là sự tổng hợp trừu tượng, một hỗn hợp luôn
luôn thay đổi của các thành phần hóa học Con người phải hiểu rằng đời sống của
mình như một giọt nước trong một con sông đang chảy và nên vui vẻ đóng góp một
phần của mình cho dòng sông cuộc sống.
Không
hiểu rõ bản chất của đời sống, con người sẽ bị chìm đắm trong vũng bùn ngu muội
của thế gian và rên rỉ khóc than. Nhưng khi hiểu được thực chất của mình, con
người sẽ từ bỏ tất cả những cái tạm bợ và tìm trạng thái Vĩnh Cửu. Trước khi
đến trạng thái Vĩnh Cửu, con ngưòi phải đương đầu với cái chết này đến cái chết
khác. Vì cái chết không nghĩa lý gì, con người không nên ngăn chặn sự tiếp diễn
không ngừng cái vòng sanh tử.
Theo
Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và kiếp sống cuối cùng của chúng ta trên thế
gian này. Nếu bạn làm điều thiện với lòng tin tưởng, bạn sẽ có một kiếp sau tốt
đẹp hơn. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy bạn không muốn tái sanh mãi mãi, và muốn đi
đến cứu cánh đó, bạn phải cố gắng phát triển tâm trí, loại bỏ mọi tham dục và
tinh thần ô trược .
TRIẾT
LÝ ĐẠO PHẬT
Một
vị Thánh cao thượng đã đạt đến mức toàn hảo không khóc than khi những người
thân và những người gần gũi qua đời vì Ngài đã hoàn toàn quét sạch hết mọi cảm
xúc. Ngài A Na Luật, một vị A La Hán, không khóc than khi Đức Phật qua đời. Tuy
nhiên Ngài A Nan lúc đó chỉ là một Tu Đà Hoàn mới đạt được quả vị thứ nhất
trong các bậc Thánh, đã không kìm giữ được khóc than. Các tỳ kheo than khóc
phải nhớ quan điểm của Đức Phật về những hoàn cảnh có bản chất như vậy:
"Ông
A Nan! Có phải Đức Phật đã dạy chúng ta rằng những gì sanh ra, những gì tồn tại
và những gì duyên hợp đều đi đến tan rã (Thành, Trụ, Hoại, Diệt)? Đó là tính
chất của duyên hợp. Khi duyên hợp xuất hiện rồi lại mất đi - có thành thì phải
có hoại - Và khi những duyên hợp đó hết, Tịch Tịnh hiện tiền".
Những
lời dạy trên đây mô tả nền móng cấu trúc của Triết Lý Phật Giáo.
NGUYÊN
NHÂN CỦA KHỔ ĐAU
Nguyên
nhân của các buồn phiền và khổ đau là do Luyến Ái dưới mọi dạng thức. Nếu chúng
ta muốn tránh khổ đau, chúng ta phải bỏ luyến ái - không phải chỉ luyến ái
người mà luyến ái của cải nữa. Đó là sự thực căn bản, là bài học mà cái chết
dạy ta. Luyến ái cung cấp cho chúng ta nhiều thứ để thỏa mãn cảm xúc của chúng
ta, và dẫn ta vào con đường trần tục. Nhưng cuối cùng luyến ái trở thành nguyên
nhân của đau khổ. Nếu không học điều này, cái chết có thể tấn công và khủng bố
chúng ta. Sự kiện này đã được Đức Phật soi sáng rõ ràng. Ngài dạy: "Cái
chết sẽ mang con người đi khỏi dù người đó cố bám lấy con cái và của cải, giống
như một trận lụt lớn cuốn sạch cả ngôi làng đang ngủ".
Lời
dạy này ngụ ý là nếu ngôi làng đó tỉnh thức và cảnh giác thì có thể tránh khỏi
sự tàn phá của lũ lụt.
AI
CŨNG PHẢI CHẾT
Chúng
ta hãy nghiên cứu Đức Phật giải quyết vấn đề cho hai người, vì luyến ái mà cái
chết làm cho đau khổ. Một người là Bà Kisagatomi. Đứa con trai duy nhất của bà
ta bị rắn cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Đức Phật. Đức Phật
bảo Bà hãy đem đến cho Đức Phật một vài hạt giống cải (mù tạc) của một gia đình
không có ai chết, Đức Phật sẽ chữa cho. Nhưng Bà ta không thể tìm thấy một gia
đình nào mà không có người chết. Tất cả các gia đình mà Bà đã đến thì không nhà
nào là không khóc than hay đã khóc than về cái chết của người thân vào một lúc
nào đó. Bà đã hiểu sự thực đắng cay: cái chết rất phổ biến. Cái chết giáng
xuống tất cả mọi người và không chừa ai cả. Buồn đau là di sản đối với mọi
người.
Một
người khác được Đức Phật dạy là Patacara. Trường hợp của Bà này buồn thảm hơn.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Bà mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất
cả của cải. Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên như dại trên đường
phố cho đến khi gặp Đức Phật. Đức Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách
giảng giải cho Bà nghe là cái chết là một hiện tượng tự nhiên của tất cả mọi
người.
"Con
đã đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần này thôi, Patacara; con đã
đau khổ nhiều lần trong những tiền kiếp của con. Đã lâu, con đau khổ vì cái
chết của cha, mẹ, con cái và những người thân của con. Khi con đau khổ như vậy,
nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển cả".
Cuối
cùng, Patacara nhận thức được cái vô thường của cuộc đời. Patacara và
Kisagotami hiểu rõ cái khổ và cả hai đều cảm nhận được sự đau khổ của cái chết
. Bằng cách hiểu sâu xa Đế Thứ Nhất của Tứ Diệu Đế về "khổ" thì ba Đế
còn lại cũng hiểu được. Ngài nói: "Này các tỳ kheo, đây là khổ, nguyên
nhân của khổ, đây là diệt khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt kh?".
NĂM
UẨN
Chết
là sự tan rã của Uẩn. Những Uẩn này là thọ, tưởng, hành, thức, và sắc hay vật
chất. Bốn nhóm đầu thuộc về tinh thần hay nama, họp thành đơn vị của thức. Nhóm
thứ năm, rupa là vật chất hay vật lý uẩn. Sự phối hợp của tâm vật lý đó theo
quy ước được đặt cho một cá nhân, một con người hay cái Tôi. Cho nên những cá
thể hiện hữu như thế không phải là những cá nhân nào mà là hai thành phần cấu
tạo cơ bản của tinh thần và vật chất, thành phần này là những hiện tượng hiếm.
Chúng ta không coi năm uẩn là những hiện tượng mà là một thực thể vì lẽ do cái
tâm tự lừa dối của chúng ta, do ham muốn bẩm sinh của chúng ta cho những thứ
nói trên là của ta để thoả mãn cái Ngã quan trọng của chúng ta.
Chúng
ta sẽ thấy được bộ mặt thật của sự vật nếu chúng ta chịu nhẫn nại và có ý chí .
Nếu chúng ta quay vào nội tâm và quán chiếu bề sâu của tâm khảm, chú tâm và
nhận xét một cách khách quan, không hề liên tưởng đến bản ngã trong một thời
gian như Đức Phật dạy trong kinh Sati Patthana, chúng ta sẽ thấy năm uẩn, không
phải là một thực thể mà mà một loạt các tiến trình vật chất và tinh thần. Rồi
chúng ta không còn lầm lẫn cho cái bề ngoài là thật. Chúng ta sẽ nhìn thấy năm
uẩn này phát sanh và biến đi liên tục nhanh chóng. Chúng luôn luôn biến đổi
từng phút từng giây, không bao giờ Tĩnh mà Động, không bao giờ là Thực Thể mà
luôn luôn Biến Hiện.
TÁI
SANH
Bốn
uẩn hay thức và ba nhóm của yếu tố tinh thần (Thọ, Tưởng, và Hành), tạo thành
Nama hay đơn vị của thức, biến chuyển không ngừng, nổi lên rồi biến đi không
cùng một khuôn mẫu vì những khuôn mẫu đó cũng biến hóa luôn. Chúng phải lập lại
ngay một nền tảng tự nhiên mới (Sắc) - một lớp vật chất tươi tốt như trước - để
hoạt động điều hòa. Nghiệp quả hành động như một định luật, và định luật này
điều khiển việc sắp xếp năm uẩn sau khi chết. Kết quả là"tái sanh"
.
YẾU
TỐ VÀ NĂNG LƯỢNG
Tóm
lại, sự phối hợp của năm uẩn gọi là sanh và sự hiện hữu của những uẩn đó được
gọi là đời sống. Sự tan rã của chúng gọi là chết (tử), và sự tái phối hợp của
những uẩn ấy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, một người bình thường không dễ dàng gì
hiểu được tại sao những cái gọi là uẩn đó lại có thể tái phối hợp. Chúng ta cần
hiểu rõ bản chất của các yếu tố (năm uẩn), năng lượng tinh thần (hay sức mạnh
tinh thần), định luật về nghiệp quả, và sự song hành của năng lượng vũ trụ
(Khí) rất quan trọng. Một số người cho rằng cái chết là sự tan rã của năm uẩn
và sau đó, chẳng còn gì tồn tại nữa. Có người lại cho rằng chết có nghĩa là sự
chuyển tiếp linh hồn từ một thân xác này đến một thân xác khác; và với một số
người khác nữa, chết là sự kìm giữ vĩnh viễn một linh hồn chờ đợi ngày Xét Xử..
Tuy nhiên với người Phật Tử, chết chẳng là gì cả mà chỉ là tạm chấm dứt một
hiện tượng tạm thời. Chết chưa phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của cái được
gọi là chúng sanh.
NGUYÊN
NHÂN CÁI CHẾT
Theo
Đạo Phật, Chết xẩy ra do một trong bốn nguyên nhân sau đây:
I.
Mạng căn (hay thọ mạng) của chúng sanh mỗi loài đã hết. Cái chết này là mạng
triệt (Ayukkhaya)
II.
Sức hành của Nghiệp tạo nên đời sống đã kiệt. Cái chết này gọi là Khamma-kkhaya
(Nghiệp dĩ)
III.
Sự chấm dứt cùng một lúc của hai nguyên nhân trên - Ubbayakkhaya .
IV.
Cuối cùng có thể do những hoàn cảnh bên ngoài như tai nạn, biến cố bất ngờ,
hiện tượng thiên nhiên, hay Nghiệp quả từ kiếp trước không đề cập tại điều II.
Cái chết này gọi là Upacchedake.
Có
một sự tương đồng rất đúng để giải nghĩa bốn trường hợp chết trên đây: Một ngọn
đèn dầu có thể tắt do một trong bốn nguyên nhân:
I.
Bấc trong ngọn đèn đã cháy hết. Điều này giống như cái chết vì thời gian cho
một kiếp đã hết.
II.
Dầu đã cạn giống như Nghiệp lực đã hết.
III.
Dầu và bấc đã cháy hết cùng một lúc giống như cái chết do cả hai nguyên nhân
phối hợp đề cập tại I và II.
IV.
Hiệu quả của các yếu tố bên ngoài như gió thổi làm đèn tắt - giống như chết do
các nguyên nhân ngoại cảnh.
Cho
nên, Nghiệp quả không phải là nguyên nhân duy nhất của cái chết. Có những
nguyên nhân bên ngoài gây ra cái chết. Giáo lý của Đức Phật minh định rõ ràng
Nghiệp quả không thể giải thích tất cả những việc xẩy ra trong đời sống của
chúng ta.
ĐƯƠNG
ĐẦU VỚI BIẾN CỐ
Làm
sao chúng ta có thể đương đầu với các điều không tránh được này một cách tốt
nhất? Nên tiên liệu và suy nghĩ là cái chết trước sau cũng phải đến.. Điều này
không có nghĩa là người Phật Tử quan niệm cuộc đời là ảm đạm. Chết là một sự
thực, và ta phải đương đầu - và Phật Giáo là tôn giáo của lý trí huấn luyện các
đệ tử trực diện với các sự kiện, dù các sự kiện này làm ta không hài lòng.
Trưởng Giáo Nanak, vị khai sáng ra Đạo Sikh nói: "Thế gian sợ chết, với
tôi, chết đem niềm vui". Thật rõ ràng những vĩ nhân và những người cao
thượng không sợ chết và sæn sàng chấp nhận nó. Nhiều vĩ nhân đã hy sinh mạng
sống của mình để người khác được hạnh phúc. Tên tuổi của các vị này đã được lưu
truyền trên bảng vàng lịch sử thế giới cho hậu thế.
CÁI
CHẾT KHÔNG TRÁNH ĐƯỢC
Thật
là một nghịch lý khi chúng ta thấy cái chết đã cướp đi biết bao sinh mạng của
nhân loại nhưng chúng ta ít khi nghĩ đến cái ý tưởng đó là chúng ta cũngthế,
trước sau cũng trở thành nạn nhân của tử thần. Vì quá lưu luyến với cuộc đời,
chúng ta không muốn mang trong lòng tư tưởng yếu đuối, nhưng thực tế cái chết
là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta muốn chấm dứt ý nghĩ ghê gớm đó và tự lừa
dối mình rằng chết là một điều xa vời, một điều không cần phải lo lắng. Chúng
ta phải có đủ can đảm để đương đầu với biến cố ấy. Chúng ta phải sæn sàng trực
diện với sự thực trần trụi này. Chết là điều có thật. Nếu chúng ta nhận thức
được như vậy, và biết rằng cái chết không tránh khỏi; chúng ta hãy coi nó như
một sự bình thuờng chứ không phải là một biến cố đáng sợ để khi nó đến, chúng
ta sẽ đương đầu với nó một cách bình tĩnh, can đảm và tự tin.
BỔN
PHẬN VÀ TRÁCH NHIỆM
Biết
rằng một ngày nào đó, cái chết sẽ cướp mạng sống của ta, chúng ta phải bình
tĩnh, can đảm và tự tin để làm tròn bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Chúng
ta không nên chần chừ chu toàn trách nhiệm và bổn phận của chúng ta. Những việc
gì có thể làm được hôm nay, đừng để đến ngày mai. Chúng ta không nên phí phạm
thì giờ và sống một cách hữu ích. Những bổn phận đối với vợ, chồng và con cái
đứng hàng ưu tiên phải được thi hành đúng lúc. Để tránh gây căng thẳng và khó
khăn cho gia đình, chúng ta đừng chờ đợi đến phút cuối cùng mới viết di chúc.
Cái chết có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào - nó không chừa ai cả và không
chờ đợi. Chúng ta nên can đảm trực diện với biến cố tối hậu này với hy vọng và
tin tưởng rằng chúng ta đang chuẩn bị cho đời sống kế tiếp.
ÁI
DỤC VÀ VÔ MINH
Có
thể chế ngự được cái chết không? Câu trả lời là Có! Có chết vì có sanh. Sự tiếp
diễn không ngừng của cái sanh được gọi là luân hồi. Nếu chu trình của sự sống
ngưng lại, cái chết có thể chấm dứt ngay tại giai đoạn Vô Minh (Avijja) và Ái
Dục (Tanha ) - Đó là gốc rễ của cái vòng sanh tử cần phải tiêu diệt. Cho nên,
nếu cắt được Ái Dục và Vô Minh, sanh đuợc chế ngự, chết bị chinh phục, luân hồi
siêu thoát, và Niết Bàn hiện tiền.
Chúng
ta phải hiểu là mọi vật trong vũ trụ này đều không có thật, và cuộc sống chỉ là
ảo mộng. Nếu chúng ta dùng khoa học hay triết lý để phân tách, cuối cùng chúng
ta khám phá thấy không có gì cả mà chỉ là hư không. Gandhi đã từng nói:
"Sợ
chết chẳng khác gì sợ bỏ một cái áo cũ đã rách". Vì luyến ái, chúng ta rất
đau khổ khi mất người mình thương yêu. Việc này xẩy ra cho Bà Visakha, một đệ
tử hết lòng trong thời Đức Phật. Khi đứa cháu gái yêu dấu của Bà chết, Bà tìm
đến Đức Phật để yêu cầu Đức Phật giải cứu cho Bà khỏi phiền não.
"Này
Visakha, ngươi có muốn có nhiều con nhiều cháu như số trẻ trong thành phố này
không? " Đức Phật hỏi Bà.
-"Thưa
vâng, bạch Đức Thế Tôn, dĩ nhiên là con thích".
-"Này
Visakha, nếu vậy, ngươi sẽ khóc khi chúng chết phải không? Những ai có một trăm
thứ yêu dấu, những người đó có một trăm điều phiền não. Kẻ không có thứ gì yêu
dấu, kẻ đó không có phiền não. Người như vậy mới thoát khỏi phiền
não".
Khi
chúng ta mang lòng luyến ái, chúng ta phải chuẩn bị chịu đựng phiền não trong
lúc chia ly.
Tham
sống đôi khi làm cho người ta sợ chết. Chúng ta không dám chấp nhận rủi ro thậm
chí vì một lý tưởng chính đáng. Chúng ta sợ hãi là bệnh tật hay tai nạn sẽ chấm
dứt cuộc đời hình như quý giá của chúng ta. Biết rằng chết là điều tất nhiên,
chúng ta hy vọng và cầu nguyện cho linh hồn được lên Trời để xác thân chúng ta
được yên ổn và gìn giữ. Tin tưởng như vậy bắt nguồn từ những tham vọng mãnh
liệt, muốn có một đời sống trường cửu.
Mỗi
người, mỗi cá nhân phải biết rõ vai trò của cái chết nó định đoạt số phận của
mình. Dù là hoàng tộc hay bình dân, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, nơi an nghỉ
cuối cùng của thân xác con người là ở trong quan tài chôn sâu sáu tấc, hoặc
trong bình đựng tro cốt, hoặc ở dưới nước.
Tất
cả nhân loại phải đương đầu và chịu chung một số phận. Vì ngu si không hiểu
thực chất của đời sống, chúng ta thường rên rỉ khóc than. Khi ta hiểu được thực
chất của đời sống, chúng ta có thể nhìn thẳng cái vô thường của tất cả mọi
duyên hợp và tìm cách giải thoát. Nếu chúng ta không thoát khỏi những trói buộc
của cuộc đời, chúng ta sẽ phải đối mặt với cái chết mãi mãi. Về phương diện
này, vai trò của cái chết thật rõ ràng. Nếu người ta không chịu nổi cái chết,
thì họ phải hết sức cố gắng để vượt qua cái vòng sanh tử, tử sanh.
SUY
GẪM VỀ CÁI CHẾT
Tại
sao chúng ta phải nghĩ về cái chết? Tại sao ta phải suy gẫm nó? Đức Phật không
những chỉ khuyến khích chúng ta nói về cái chết, Ngài cũng khuyên chúng ta suy
gẫm nó và nghĩ đến nó thường xuyên. Đó là có sanh thì có chết. Tinh thần và thể
xác được tạo nên trong lúc thai nghén, phát triển, lớn lên và trưởng thành. Nói
một cách khác chúng theo tiến trình già nua. Đầu tiên, chúng ta gọi tiến trình
đó là lớn lên, rồi già đi. Thật ra đó chỉ là một tiến trình của sự lớn lên,
phát triển, trưởng thành và cuối cùng là cái chết không sao tránh được.
Ngày
nay, theo thống kê trên thế giới, mỗi ngày có hai trăm ngàn (200,000) người
chết hay độ 70 triệu mỗi năm.
Chúng
ta không quen suy gẫm về cái chết hoặc đả động đến nó. Điều chúng ta thường làm
là tránh nghĩ về cái chết và sống như thể chẳng bao giờ phải chết cả. Chừng nào
mà chúng ta còn sợ chết, chúng ta không bao giờ sống một cuộc đời đầy đủ và tốt
đẹp nhất. Cho nên một trong những lý do chính yếu để suy gẫm cái chết là để
chúng ta hoàn toàn tỉnh thức để khỏi sợ hãi. Suy gẫm về cái chết không làm cho
chúng ta chán nản hay không lành mạnh, mà chỉ có mục đích giúp cho chúng ta
thoát khỏi sợ hãi.
Lý
do thứ hai suy gẫm về cái chết sẽ thay đổi lối sống và thái độ của chúng ta với
cuộc đời. Giá trị trong cuộc sống hoàn toàn thay đổi một khi chúng ta không
nghĩ rằng chúng ta sống mãi ở đời, chúng ta sẽ bắt đầu một lối sống khác
hẳn.
Lý
do thứ ba là để có khả năng làm quen đương đầu với cái chết một cách xác đáng
và yên lành.
Suy
gẫm về cái chết có ba điều lợi ích:
-
bớt sợ hãi
-
đem lại phẩm chất mới cho đời sống để chúng ta sống cuộc đời có giá trị thích
đáng và
-
giúp chúng ta chết trong vinh dự.
Những
lợi ích trên giúp chúng ta sống lương thiện và chết có phẩm giá.
Suy
gẫm về cái chết chúng ta còn cần gì nữa?
Đạo
Phật khuyến khích suy gẫm về những nhân tố sau đây:
-
Tôi sống với tuổi của tôi, tôi không lo già;
-
Bệnh tật là lẽ thường, tôi không quá nghĩ về nó;
-
Tôi gánh chịu Nghiệp quả của tôi và tôi không thoát khỏi Nghiệp lực;
-
Chết là lẽ thường tôi không quá lo nghĩ về cái chết và
-
Tất cả những gì dễ thương và thích thú của tôi sẽ thay đổi và bỏ tôi.
Khi
chúng ta bình tâm suy gẫm về những thực trạng ấy, và giữ trong tiềm thức, nó sẽ
có tác dụng mạnh mẽ để khuất phục sợ hãi, tuổi già, bệnh tật, cái chết, và chia
ly. Điều này không phải là làm chúng ta kém lành mạnh mà chính là giúp chúng ta
thoát khỏi sợ hãi. Cho nên tại sao chúng ta suy gẫm về cái chết? Không phải là
chúng ta mong mỏi cái chết đến mà chúng ta không muốn sống hay chết trong sự sợ
hãi.
CHẾT
LÀ MỘT PHẦN CỦA ĐỜI SỐNG
Chết
đến với tất cả mọi người và là một phần của cái vòng sinh tử. Người chết trẻ,
kẻ chết già, chẳng ai không chết. Chẳng ai mời chúng ta đến thế giới này, và
cũng chẳng ai bảo chúng ta từ giã. Tôi không tránh được cái chết, và mọi người,
mọi cỏ cây, mọi hình thức, mọi chúng sanh đều theo con đường đó. Thu về, lá
rụng. Chúng ta không khóc vì cuối mùa lá rụng là điều tất nhiên. Cái chết của
loài người cũng thế.
Những
người có đạo hạnh, ít sợ chết hơn những người thế tục vì lẽ họ chỉ muốn sống để
thoả mãn năm giác quan của họ.
Theo
quan niệm của Nhà Phật, chết chưa phải là chấm dứt, và sanh cũng không phải là
bắt đầu. Thực ra, chết chính là sự bắt đầu (một kiếp sống mới), và sanh là sự
chấm dứt (kiếp sống cũ). Cái chết chỉ là một phần trong tiến trình sanh tử, tử
sanh. Nếu chúng ta hiểu được tiến trình đó, cái chết không làm ta khiếp sợ bởi
vì chết chưa phải là hết. Nó chỉ là đoạn cuối của cái vòng sanh tử, đi hết vòng
này lại đến vòng khác, và tiếp diễn không ngừng tỉ như lá lìa cành chưa phải là
hết. Chúng vào lòng đất và nuôi rể cây, sang năm cây lại có lá mới. Đời sống
của con người cũng như vậy. Cái chết làm nhân duyên cho sự tái sanh. Hiểu biết
được nguyên tắc căn bản đó, chúng ta sẽ nhẹ bớt sợ hãi.
SỐNG
CÓ Ý THỨC
Chúng
ta sống một cách điên rồ, không nghĩ rằng mình đã tốn biết bao nhiêu thì giờ
cho những việc vô bổ. Hôm nay, chúng ta phí thì giờ lo cho những chuyện năm
tới, cho 20 năm tới, và lo lắng cho tương lai đến độ chúng ta chẳng sống trọn
vẹn mỗi ngày?
Và
giá trị trong đời sống của chúng ta sẽ thay đổi. Đời sống có gì quan trọng?
Những gì thúc đẩy chúng ta? Những gì lôi cuốn chúng ta? Nếu chúng ta thực sự
suy gẫm cái chết, chúng ta sẽ xét lại giá trị của chúng ta. Có nhiều tiền,
chúng ta không thể đem theo được. Thân xác chúng ta phải bỏ lại để mai táng
bằng cách này hay cách khác. Chỉ còn lại nắm xương tàn vô giá trị. Chúng ta
không thể mang theo ngay cả cái xác thân quý giá với chúng ta khi chúng ta lìa
bỏ cõi đời này.
Phẩm
chất của của cuộc đời quan trọng hơn sự thủ đắc vật chất. Phẩm chất của cuộc
đời trước tiên là phẩm chất của tâm trí chúng ta. Chúng ta sống thế nào ngày
hôm nay quan trọng hơn nhiều ngoại vật khác. Chết là điều kiện để tái sanh.
Điều kiện cho sự tái sanh là cái chết và phẩm chất tâm trí, cái độc nhất mà
chúng ta mang theo. Đó là cái gia tài để chúng ta thừa hưởng mà không để lại
cho người khác:
-
Tôi tạo Nghiệp, tôi phải thọ Nghiệp.
-
Nghiệp sanh ra tôi, tôi phải tôn trọng và gánh chịu.
-
Nghiệp lành hay Nghiệp dữ tôi tạo ra, tôi đều phải gánh chịu hết, do đó tôi là
người thừa kế .
Những
gì theo ta là những phẩm hạnh có ở trong ta: phẩm hạnh của tâm trí, của tinh
thần, cùng những phẩm hạnh tốt hay xấu. Đó là tất cả những thứ chúng ta được
thừa hưởng. Đó là điều kiện quyết định việc tái sanh và tương lai của chúng ta.
Đến lượt những phẩm hạnh đó đem lại một giá trị cho đời sống của chúng ta.
Chúng ta có thể vui về bạc triệu mà chúng ta đã kiếm được nhưng điều quan trọng
hơn là chúng ta cần sống yên ổn và trau dồi đạo đức. Điều này có tác dụng tốt
vào lối sống của chúng ta, và vào những giá trị mà chúng ta phát triển. Không
phải là vấn đề thành công, mà là vấn đề làm sao để thành công.
CHẾT
XỨNG ĐÁNG
Sau
khi đã suy xét các điều trên, nếu chết không còn là một sự đe dọa mà là một
kinh nghiệm thực tế, chúng ta có thể trực diện nó với lòng tin tưởng. Chúng ta
không chỉ theo những điều nói trên mà còn cần có nhiều hành động khác để chết
một cách xứng đáng. Nếu chúng ta sống lương thiện, chúng ta chết dễ dàng hơn.
Dù đã sống sung sướng hay đau khổ, chúng ta phải cố gắng chết một cách xứng
đáng. Để đương đầu với cái chết phải đến, chúng ta hãy nỗ lực trong việc phát
triển phẩm hạnh không sợ hãi.
Có
một số người sợ chết hơn sợ đau đớn và sợ chia lìa người thân hơn là những thứ
đáng sợ khác. Khi một người sắp chết, nên gợi lòng can đảm và trấn an họ. Nhưng
trước tiên, mình phải trấn an mình đã. Dĩ nhiên, đau đớn sẽ hành hạ và không
thể chịu đựng nổi. Nhưng ngày nay, nhờ những tiến bộ y khoa, những đau đớn của
chúng ta được giảm thiểu trước khi chết. Đau đớn không còn là một điều sợ hãi
không tránh được nữa.
Tôi
thường trấn an người sắp chết, như trường hợp một người không còn sống nổi vì
ung thư: người ta không để bạn phải đau đớn vì việc điều trị nhanh chóng sẽ
giảm bớt đau đớn. Kết quả quan trọng là người bệnh được thoải mái và chết nhẹ
nhàng.
Một
số người khác lo âu vì sợ mất của cải. Nhưng nếu họ biết suy gẫm về cái chết
thì không có gì phải lo. Chúng ta hiểu có hợp thì có tan. Nếu một người sắp từ
trần không suy gẫm được điều này, chúng ta cần ân cần khuyến khích và trấn an
họ là con cái và những người thân quyến còn lại sẽ được chăm sóc. Cần giúp họ
an lòng là mọi việc sẽ đều tốt đẹp, có bạn hữu lo lắng cho họ, họ cần có sự
động viên can đảm để được thoải mái, an tâm, và tất cả mọi việc sẽ được lo lắng
chu đáo.
Trọng
tâm của việc này là gợi lòng can đảm của người sắp chết để họ được an lòng. Làm
thế nào để chết xứng đáng? Theo Phật Giáo là tạo một bầu không khí bình an
trong phòng người sắp ra đi. Không ích lợi gì nếu có người gào thét, kêu la và
khóc lóc. Có gì quan trọng hơn đối với một người sắp chết là việc phải chết?
Làm như vậy, người sắp chết không an tâm ra đi. Điều tốt hơn là bạn bè và thân
quyến có mặt cần chứng tỏ bằng sự hiện diện của họ rằng họ quan tâm, yêu mến,
và sæn sàng giúp đỡ người sắp ra đi.
"Biểu
tượng tôn giáo rất hữu ích và tiện dụng trong lúc này. Nếu người sắp chết là
một Phật Tử, một tượng Phật nhỏ cùng sự có mặt của các nhà Sư với những lời cầu
nguyện êm dịu sẽ rất ích lợi và giúp người chết có niềm an lạc và phẩm hạnh cao
quí nhất. Đó là điều tuyệt diệu giúp người ra đi, đi tìm cuộc sống mới trong
đường lối tốt đẹp nhất" -- (Đại đức Ajahn Jagaro)
CHẾT
NHẸ NHÀNG
Mọi
người đều mong muốn chết êm ả sau khi đã làm tròn nhiệm vụ và bổn phận trong
lúc sanh thời. Sự thật ra có bao nhiêu người đã sửa soạn cho cái chết này?
Chẳng hạn, có bao nhiêu người đã chịu khó nhọc chu toàn nhiệm vụ với gia đình,
thân nhân, bạn bè, xứ sở, đạo giáo và thân phận của chính mình? Họ sẽ không yên
tâm ra đi khi họ không chu toàn được một trong những nhiệm vụ đó.
Chúng
ta phải học cách vượt qua nỗi sợ chết, hiểu rằng các thần linh cũng phải chịu
số phận như vậy. Những ai phung phí thời giờ vô ích, sẽ than van khi mình đến
ngày tận số.
Khi
con người nhìn thấy đời sống của mình chỉ là một một giọt nước trong con sông
dài, họ sẽ cố gắng để góp sức, dù là ít ỏi vào dòng đời vĩ đại đó. Người khôn
ngoan đều hiểu rằng, muốn sống phải tìm cách giải thoát bằng cách tránh tội
lỗi, làm điều thiện, và thanh tịnh tâm trí. Người hiểu đời sống theo Giáo Lý
của Đức Phật không bao giờ lo lắng về cái chết. Cái chết không gây ra phiền
não, nhưng thật sẽ đáng buồn nếu ta chết mà chưa kịp làm gì cho chính mình và
cho người khác.
NGÀY
HÔM NAY TÔI CHẾT
David
Morris là một học giả Phật Giáo Tây Phương chết lúc 85 tuổi. èt lâu sau khi ông
chết, kẻ viết tập sách nhỏ này nhận được lá thư của ông (hiển nhiên ông đã viết
thư này trước đây và dặn thư này gửi đi khi ông chết). Thư như sau: 'ông sẽ vui
khi biết tôi chết ngày hôm nay. Có hai lý do: Điều thứ nhất, ông sẽ yên lòng
khi biết được sự đau đớn của tôi do bệnh tật cuối cùng đã hết. Điều thứ hai, từ
khi tôi trở thành Phật Tử, tôi đã giữ năm giới một cách trung thực. Kết quả,
ông biết kiếp tới của tôi sẽ không đau khổ.' Đời sống như một giấc mộng. Cái
chết là một điều xẩy ra thực tế và tái sanh là điều xuất hiện tự nhiên. Để trực
diện với biến cố này, ta phải tiếp tục hay chấm dứt cái vòng sanh tử luân hồi
để thoát khỏi khổ đau, đó mới chính là con người tri thức cần quan tâm.
-ooOoo-
Vietnamese,
with Unicode Times font
Chết
có thật đáng sợ không?
Hòa
thượng K. S. Dhammananda
Thích
Tâm Quang dịch Việt
Nguyên
tác: "Is death really frightening?"
MỤC
LỤC
Lời
Giới Thiệu
Lời
Người Dịch
Tiểu
Sử Tác Giả
Chết
Có Thật Đáng Sợ Không?
Sợ
Chết
Bệnh
Và Chết
Danh
Thơm Còn Mãi
Triết
Lý Đạo Phật
Nguyên
Nhân Của Khổ Đau
Ai
Cũng Phải Chết
Năm
Uẩn.
Tái
Sanh.
Nguyên
Nhân Cái Chết
Đương
Đầu với Biến Cố
Chết
Không Tránh Được
Bổn
Phận và Trách Nhiệm
Ái
Dục và Vô Minh
Suy
Gẫm về Cái Chết
Chết
Là Một Phần Của Đời Sống.
Sống
Có Ý Thức
Chết
Xứng Đáng.
Chết
Nhẹ Nhàng
Ngày
Hôm Nay Tôi Chết
Người
Phật Tử Nên Làm Gì?
Bổn
Phận Cha Mẹ
Khóa
Lễ Cầu Phước Cho Các Em
Tại
Sao Nương Tựa Nơi Phật
Giáo
Dục Và Văn Hóa Người Phật Tử
Hôn
Nhân.
Nghi
Thức Tôn Giáo.
Những
Điều Cấm Kỵ
Bùa
Chú Và Ma Thuật
Hình
Ảnh, Nước Thánh, Xâu Chuỗi.
Ốm
Đau.
Chết
Trước
Tang Lễ
Tang
Lễ
Chôn
Và Hỏa Táng
Lưu
Giữ Tro Cốt
Thời
Gian Để Tang.
Nghi
Thức Sau Tang Lễ.
Bố
Thí Cúng Dường.
Kết
Luận
-ooOoo-
LỜI
GIỚI THIỆU
Nếu
quý vị vượt qua sự sợ hãi thì có thể vượt qua tất cả. Nếu quý vị không sợ chết
thì sẽ đối diện với cái chết một cách bình tĩnh. Cuốn sách: "Chết Có Thật
Đáng Sợ Không?" của Hòa-Thượng Tiến-Sĩ K. Sri Dhammananda do Thầy Thích
Tâm Quang chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu và thu
hút người đọc từ trang đầu đến trang cuối, sẽ đem lại cho quý độc giả những
điều cần biết khi từ giã cõi đời này.
Quyển
sách nhỏ này sẽ dẫn dắt người đọc đi một hành trình thật xa từ sự sống để chuẩn
bị cho sự chết nhẹ nhàng, bình tĩnh không than van không khóc lóc. Chúng ta đến
cuộc đời này một cách hồn nhiên thì chúng ta ra đi một cách bình thản. Người ỏ
lại cũng phải đối diện với sự thật của cuộc đời rồi cũng sẽ lần lượt tới phiên
mình. Biết về sự chết không phải để bi quan, nhưng để chúng ta làm điều thiện,
tránh điều ác bởi vì sau khi chết chúng ta chỉ mang theo hành vi thiện ác mà
chúng ta đã làm.
Chết
không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi; vậy thì tại sao chúng ta lại sợ chết?
Chắc chắn quyển sách này sẽ đem lại cho quý độc giả một chút suy tư. Thần chết
không từ chối một ai, không phân biệt tuổi tác, nam hay nữ, vậy thì tại sao
chúng ta không chuẩn bị cuộc hành trình ra đi vĩnh viễn ngay từ bây giờ?
Đọc
"Chết Có Thật Đáng Sợ Không?" và chuyển quyển sách này đến những
người thân của chúng ta để cùng đọc, để cùng có thái độ bình thản lúc ra đi
không sợ hãi, không lo âu, và người ỏ lại không đau đớn vì chết là sự hiển
nhiên không ai tránh khỏi.
Chúng
tôi chân thành cầu nguyện Chư Phật Mười Phương gia hộ cho Thầy Thích Tâm Quang
mọi điều tốt đẹp, sức khỏe đầy đủ để tiếp tục sứ mạng hoằng pháp lợi sanh và hy
vọng cuốn sách nhỏ này sẽ được hưởng ứng nồng nhiệt của các Phật Tử khắp nơi
trên thế giới.
Mùa
Xuân Năm Đinh Sửu 1997
KIỀU
MỸ DUYÊN
-ooOoo-
LỜI
NGƯỜI DỊCH
Cái
chết có thật đáng sợ không? Thông thường con người chúng ta, ai cũng sợ chết.
Nhưng thực ra cái chết không đáng sợ như chúng ta tưởng. Cuốn sách nhỏ này do
Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được
những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa, muốn tránh khỏi
sợ hãi cái chết chúng ta phải làm gì vân vân ..
Ngoài
phần nói về cái chết, phần hai của cuốn sách này Hòa Thượng Tiến Sĩ K Sri Dhammanda
hướng dẫn người Phật Tử chúng ta phải làm gì trong những trường hợp vui như
sanh con, cưới hỏi và những trường hợp buồn như đau yếu và tang lễ. Vì người
Phật Tử chúng ta còn cố chấp, còn giữ nhiều những tập tục truyền thống trái với
giáo lý của Đức Phật và làm các tôn giáo khác hiểu lầm nên những nhận xét cùng
những phương pháp rất thực tiễn và cần thiết nêu lên tại đây giúp chúng ta củng
cố nền móng của Phật Giáo và tránh được sự ngộ nhận.
Nhận
thấy cuốn sách mang nhiều lợi ích thiết thực, tuy tự biết khả năng yếu kém,
nhưng với tấm lòng nhiệt thành, chúng tôi cố gắng dịch ra Việt Ngữ, hy vọng
đóng góp một phần nhỏ nhoi trong kho tàng Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam.
Chúng
tôi xin chân thành cảm tạ Chư Tôn Đức đã khích lệ, góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc
biệt các Đạo Hữu đã góp phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng
tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam Bảo và cầu nguyện Hồng
Ân Tam Bảo thùy từ gia hộ Quý Vị cùng Bửu Quyến thân tâm thường an lạc và hạnh
phúc.
Sau
cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức giả cao minh, các bậc
thiện trí thức, các bạn đạo ân nhân hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để
cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Ngày
9 Tháng 03 Năm 1997
Tỳ
Kheo THÍCH TÂM QUANG
-ooOoo-
TIỂU
SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TIẾN SĨ K. SRI DHAMMANANDA MAHA NAYAKA THERA
Đại
Lão Hòa-Thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda, Trưởng Lão Tăng Già Mã Lai Á, phục
vụ Phật Giáo Mã Lai trên 42 năm trong các chức vụ như một vị lãnh đạo tinh
thần, một học giả, một cố vấn và một thiện hữu. Ngài sanh ngày 18 Tháng Ba Năm
1919 tại làng Kirinde, Tỉnh Matara phía nam Sri Lanka (Tích Lan).
Ngài
khởi đầu việc học hành theo nền giáo dục thế tục khi Ngài được 7 tuổi và tuy
còn nhỏ Ngài đã phát triển mối quan tâm đặc biệt đến Phật giáo. Được sự giúp đỡ
của một người cậu là Sư Trưởng tại ngôi chùa địa phương và người mẹ tận tâm của
Ngài, Ngài thọ Sa Di giới vào năm 12 tuổi. Ngài được đặt pháp danh là
"Dhammananda" có nghĩa là "Người chứng nghiệm hạnh phúc qua Phật
Pháp" .
Sau
mười năm tu học chuyên về giáo lý Đức Phật, năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn
bằng Ngôn Ngữ Học, Triết Lý, và Quy Tắc Pali Viện Đại Học Vidyalankara
Pirivena.Ngài tốt nghiệp Cao Học Triết Lý Ấn Độ năm 1949 tại Viện Đại Học
Beneres (Ba-Lã-Nại).Sau khi phục vụ 3 năm tại Sri Lanka, Ngài được tuyển chọn
đi hoằng Pháp tại Mã Lai.
Vào
các thập niên 50 và 60, Phật Giáo bị giới trí thức Trung Hoa tại Mã Lai coi rẻ
và nghĩ rằng Đạo Phật chỉ là mê tín dị đoan. Qua Hội Truyền Bá Giáo Lý Phật Đà,
Ngài đã phát hành các tài liệu, các loại sách về mọi phương diện của Phật Giáo
và kết quả một số đông đã nhận thức được giáo lý chân chính của Đức Phật. Ngài
đã phát hành các cuốn sách rất phổ thông như " Người Phật Tử Tin Gì",
"Làm Thế Nào Để Sống Khỏi Sợ Hãi và Lo Lắng", "Hạnh Phúc Lứa
Đôi", "Nhân Loại Tiến Về Đâu" và "Thiền Định-Con Đường Duy
nhất".
Tuy
không phải là một nhà truyền giáo hùng biện, nhưng Ngài đã thành công cảm hóa
tư tưởng của cả giới thanh niên lẫn trí thức với một lối trình bầy Giáo Pháp
của Đức Phật một cách rõ ràng, đơn giản và khoa học. Ngài nhận được các Văn
Bằng Tiến Sĩ Danh Dự của nhiều Đại Học trên thế giới và cũng được ân thưởng
Tước Vị Johan Setia Mahkota bởi Hoàng Đế Mã Lai. Ngài cũng có, như Đức Phật mô
tả, Bẩy Đức hạnh cao quý của một Đại nhân trong Kinh Sakha Sutta (A.N. 4:31):
Ngài là người đáng yêu, đáng kính trọng, học thức, là một cố vấn, một người
nhẫn nại chịu nghe, thâm trầm trong đàm luận, và không bao giờ cổ xúy một cách
vô căn cứ.
BENNY
LIOW WOON KHIN
-ooOoo-
PHẦN
I
CÁI
CHẾT CÓ THẬT ĐÁNG SỢ KHÔNG?
MẠNG
SỐNG MONG MANH - CÁI CHẾT LÀ ĐIỀU CHẮC CHẮN
Đó
là câu châm ngôn nổi tiếng trong Đạo Phật. Biết rõ cái chết là điều chắc chắn
và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên
sợ chết. Theo bản năng, tất cả chúng ta đều sợ chết vì chúng ta không biết làm
sao để tránh khỏi nó. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào thân xác của
chúng ta, vì vậy trở nên đầy tham dục và luyến ái.
Một
đứa nhỏ ra đời đem niềm vui và hạnh phúc cho những người thân yêu. Dù người mẹ
đau đớn cùng cực lúc sanh nhưng vẫn vui mừng và thích thú ngắm nhìn đứa con mới
sanh. Người mẹ cảm thấy được đền bù xứng đáng sau nhiều khó khăn đau đớn phải
chịu đựng. Tuy nhiên đứa trẻ lọt lòng ra đã khóc hình như nó muốn nói ra nó
cũng phải chịu đau khổ của kiếp người. Đứa trẻ trở thành một thiếu niên rồi
trưởng thành, tạo các loại hành vi tốt và xấu. Rồi nó trở nên già nua, và cuối
cùng từ giã cõi đời này, bỏ lại bạn bè và thân quyến đau buồn: Đó là bản chất
cuộc sống của một con người. Con người cố gắng tránh khỏi nanh vuốt của tử thần
nhưng không một ai có thể thoát khỏi. Đến lúc gần chết, đầu óc liên tưởng đến
của cải tích lũy, và lo sợ quá đáng về những đứa con thân yêu của mình. Cuối
cùng, nhưng không kém phần quan trọng, con người lo lắng quá sức về thân xác
quý báu của mình; mặc dù với sự chăm sóc chu đáo và cẩn trọng nhưng nay đã suy
nhược, kiệt quệ và tan rã. Thật đau đớn khi phải xa lìa thân xác. Không thể
chịu đựng được thế nhưng không tránh nổi. Đó là tâm trạng của mọi người khi từ
giã cõi đời này với than van rền rĩ. Sự đau đớn về cái chết thật là khủng
khiếp, đó là thái độ của kẻ do ngu muội mà ra.
SỢ
CHẾT
Con
người lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì hy vọng và tưởng tượng về đời sống
tương lai của mình. Cái chết, chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp và khiếp sợ
hay kinh hãi chỉ do tâm trí của chúng ta tưởng tượng mà ra. Chúng ta thường
không đủ can đảm để đối đầu với ý tưởng về cái chết. Với những kẻ không dám đối
đầu với thực tế, khổ đau thật sự khủng khiếp và không thể chấp nhận được. Nhưng
nếu chúng ta biết đương đầu với sự thật, nó sẽ làm dịu bớt hay loại trừ cái
khủng khiếp của sự sợ hãi. Đời sống ví như một viên đạn lao tới mục tiêu, tức
là cái chết. Hiểu như vậy, chúng ta phải can đảm trực diện với hiện tượng tự
nhiên này. Muốn được tự do trong đời sống, chúng ta phải không sợ chết. Sợ hãi
chỉ đến với những kẻ không hiểu quy luật thiên nhiên. "Dù ở đâu đi nữa,
nếu có phát xuất, thì sợ hãi chỉ phát xuất nơi người mất trí điên khùng và
không bao giờ phát xuất nơi người khôn ngoan". Đó là lời Đức Phật dạy
trong Kinh Anguttara Nikaya. Sợ hãi chỉ là trạng thái của tâm thần. Khoa học
cho ta thấy quá trình của một cái chết ra sao? Cái chết chỉ là sự hao mòn sinh
lý của cơ thể con người. Chúng ta đừng sợ hãi và tưởng tượng hay tiên đoán về
những sự khủng khiếp không bao giờ đến để tìm cách chống lại. Một thầy thuốc
nổi tiếng, Sir William Osler nói như sau: "Theo kinh nghiệm hành nghề của
tôi, tôi thấy hầu hết những người chết không đau đớn và sợ hãi".
Một
nữ y tá lão thành nói: "Hình như thảm kịch lớn nhất đối với tôi là mọi
người suốt đời bị nỗi sợ chết ám ảnh. Khi chết đến, ta thấy rằng nó cũng tự
nhiên như bản chất cuộc sống. Rất ít người sợ chết khi đã sống trọn cuộc đời.
Theo kinh nghiệm của tôi, tôi chỉ thấy có một người có vẻ sợ hãi - một phụ nữ
đã làm một điều dữ cho người chị nay đã quá trễ để hối cải".
"Một
điều lạ lùng và đẹp đẽ sẽ đến với dù là đàn ông hay đàn bà khi họ đã sống trọn
đời. Tất cả sợ hãi, khiếp đảm đều biến mất. Tôi thường ngắm thấy tia sáng bình
minh hạnh phúc trong ánh mắt của họ khi họ nhận thức điều đó đúng. Đó là tất cả
ơn huệ của Tạo Hóa".
Vì
tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu tự nhiên. Nó tạo sự lo
âu trong đời sống. Vì vậy, con người sẽ không bao giờ dám mạo hiểm làm điều gì
cho dù đó là lẽ phải. Họ sống trong sợ hãi, lo lắng về bệnh tật và các tai nạn
có thể sẩy ra cướp mất mạng sống quý giá của mình. Nhận thức chết là điều không
tránh nổi, kẻ yêu đời sống trần thế sẽ đắm trong nhiệt thành cầu nguyện với
niềm hy vọng linh hồn sẽ được lên thiên đàng. Không một ai có hạnh phúc giữa
cơn lốc của sợ hãi và hy vọng như vậy. Đúng thật khó có thể coi thường hay
không lưu ý đến những bộc phát tự nhiên của bản năng để tự bảo vệ. Tuy nhiên có
một phương pháp để vượt qua sự sợ hãi. Hãy quên đi quan niệm về cái 'tôi'; hãy
đem tình thương vị kỷ hướng ra ngoài có nghĩa là làm lợi ích cho nhân loại và
tỏ tình thương với người khác. Bất cứ ai không quên sự thật rằng một ngày nào
đó mình sẽ chết và cái chết không thể tránh khỏi, sẽ hăng hái chu toàn nhiệm vụ
với đồng loại trước khi chết, làm được như vậy thì bây giờ cũng như mai hậu mọi
người chắc chắn sẽ chiêm ngưỡng kính phục. Say mê phục vụ người khác, chẳng bao
lâu chính bạn sẽ thoát khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, tự
phụ, và tự tôn.
BỆNH
VÀ CHẾT
Bệnh
và chết là việc sẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng ta, và chúng ta phải
chấp nhận điều đó với sự hiểu biết. Theo thuyết tâm lý hiện đại, nguyên nhân
căng thẳng tinh thần là do việc không dám đương đầu và chấp nhận sự thực ở đời.
Nếu không vượt qua hay khắc phục được sự căng thẳng đó sẽ gây nên bệnh tật.
Trong khi bệnh hoạn mà quá lo lắng hay thất vọng chỉ làm cho bệnh tăng lên. Đối
với những người có tâm hồn và hành động trong sạch, chết chẳng có gì đáng sợ.
Mạng sống của chúng ta gồm có tâm trí và thể xác hợp thành và vì vậy tâm trí và
thể xác không chết riêng. Nghiệp báo do những hành động xấu của chúng ta đã gây
nên trong đời trước theo chúng ta vào lúc tái sanh khiến chúng ta phải chịu
những khổ đau trong đời này. Những khổ đau đó có thể tránh khỏi nếu chúng ta cố
gắng tạo công đức, sống một cuộc đời đạo hạnh, và có những hành động tốt bất cứ
ở đâu hay bất cứ lúc nào. Làm như vậy, chúng ta có thể đương đầu với cái chết
một cách can đảm và thực tế. Theo lời Phật dạy, chúng ta không nên tin tưởng
vào một vị "cứu tinh" nào có thể lãnh gánh nặng, và cứu vớt chúng ta
khỏi hậu quả do những hành động sai lầm của chúng ta . Chúng ta luôn luôn nhớ
tới lời khuyên của Đức Phật: "Hãy tin vào mình để tự cứu, hãy gắng sức và
chuyên cần'. Người Phật Tử không sầu thảm và bi thương trước cái chết của thân
nhân và bạn bè. Không có cái gì có thể ngăn cản được bánh xe nhân quả. Khi một
người chết, nghiệp do họ tạo nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Kẻ quen, người
thân, bạn bè và thân quyến chỉ có thể tiễn đưa người chết đến huyệt mà thôi
trong khi người chết mang theo những hành động tốt hay xấu của mình. Những
người còn sống nên chịu đựng sự mất mát trong bình tĩnh và hiểu biết. Chết là
một tiến trình không thể tránh khỏi ở thế gian này. Đó là một điều chắc chắn
trong vũ trụ này. Cánh rừng có thể trở thành đô thị và đô thị có thể trở thành
bãi cát. Núi có thể biến thành hồ. Sự biến dạng có thể xẩy ra ở khắp nơi duy
chỉ có cái chết là điều không đổi. Tất cả mọi thứ chỉ là tạm bợ. Chúng ta có
cha ông, và cha ông của chúng ta cũng có cha ông, nhưng bây giờ họ ở đâu? Tất
cả đều đã quá vãng.
Đừng
nghe kẻ ngụy biện cho rằng chúng tôi đang trình bày một quan niệm yếm thế bi
quan. Đó là quan điểm thực tế nhất của chủ nghĩa hiện thực. Tại sao chúng ta
lại không thực tế mà mù quáng trước những sự kiện thực tế đó? Có phải cái chết
thiêu đốt mọi thứ? Đúng vậy! Nhưng đừng quên điều này: Cái chết khiến mọi người
hiểu rõ số phận của mình là dù cao sang đến đâu, hay kỹ thuật và y khoa tiến bộ
đến đâu đi chăng nữa cái chết vẫn như nhau: Hoặc ở trong quan tài hay trở thành
một nắm tro tàn. Sống và chết là một quá trình liên tục cho đến khi chúng ta
trở nên toàn hảo.
DANH
THƠM CÒN MÃI
Đức
Phật dạy: "Thân xác của con người tuy thành tro bụi nhưng danh tiếng của
họ vẫn còn". Ảnh hưởng của kiếp trước đôi khi rất sâu và mạnh hơn ảnh
hưởng của thân xác đang sống với một số khả năng hạn hẹp. Đôi khi chúng ta cảm
nghĩ và hành động theo tư tưởng của những người mà xác thân đã thành tro bụi.
Tư tưởng đó rất quan trọng trong mỗi hành động của chúng ta. Mỗi người sống là
một phần thân xác của tổ tiên đã khuất. Trong ý nghĩ này, chúng ta có thể cho
rằng những bậc anh hùng thời đại, những triết gia vĩ đại, các hiền triết, những
thi nhân và nhạc sĩ của mỗi dân tộc đang sống với chúng ta. Vì chúng ta liên hệ
đến những liệt sĩ và những nhà tư tuởng trong quá khứ, chúng ta có thể chia sẻ
những tư tưởng khôn ngoan, những lý tưởng cao quý, và cả đến âm nhạc bất diệt
qua nhiều thời đại. Dù rằng thân xác đã chết, nhưng ảnh hưởng của họ vẫn còn.
Xác thân chẳng là gì cả, nó chỉ là sự tổng hợp trừu tượng, một hỗn hợp luôn
luôn thay đổi của các thành phần hóa học Con người phải hiểu rằng đời sống của
mình như một giọt nước trong một con sông đang chảy và nên vui vẻ đóng góp một
phần của mình cho dòng sông cuộc sống.
Không
hiểu rõ bản chất của đời sống, con người sẽ bị chìm đắm trong vũng bùn ngu muội
của thế gian và rên rỉ khóc than. Nhưng khi hiểu được thực chất của mình, con
người sẽ từ bỏ tất cả những cái tạm bợ và tìm trạng thái Vĩnh Cửu. Trước khi
đến trạng thái Vĩnh Cửu, con ngưòi phải đương đầu với cái chết này đến cái chết
khác. Vì cái chết không nghĩa lý gì, con người không nên ngăn chặn sự tiếp diễn
không ngừng cái vòng sanh tử.
Theo
Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và kiếp sống cuối cùng của chúng ta trên thế
gian này. Nếu bạn làm điều thiện với lòng tin tưởng, bạn sẽ có một kiếp sau tốt
đẹp hơn. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy bạn không muốn tái sanh mãi mãi, và muốn đi
đến cứu cánh đó, bạn phải cố gắng phát triển tâm trí, loại bỏ mọi tham dục và
tinh thần ô trược .
TRIẾT
LÝ ĐẠO PHẬT
Một
vị Thánh cao thượng đã đạt đến mức toàn hảo không khóc than khi những người
thân và những người gần gũi qua đời vì Ngài đã hoàn toàn quét sạch hết mọi cảm
xúc. Ngài A Na Luật, một vị A La Hán, không khóc than khi Đức Phật qua đời. Tuy
nhiên Ngài A Nan lúc đó chỉ là một Tu Đà Hoàn mới đạt được quả vị thứ nhất
trong các bậc Thánh, đã không kìm giữ được khóc than. Các tỳ kheo than khóc
phải nhớ quan điểm của Đức Phật về những hoàn cảnh có bản chất như vậy:
"Ông
A Nan! Có phải Đức Phật đã dạy chúng ta rằng những gì sanh ra, những gì tồn tại
và những gì duyên hợp đều đi đến tan rã (Thành, Trụ, Hoại, Diệt)? Đó là tính
chất của duyên hợp. Khi duyên hợp xuất hiện rồi lại mất đi - có thành thì phải
có hoại - Và khi những duyên hợp đó hết, Tịch Tịnh hiện tiền".
Những
lời dạy trên đây mô tả nền móng cấu trúc của Triết Lý Phật Giáo.
NGUYÊN
NHÂN CỦA KHỔ ĐAU
Nguyên
nhân của các buồn phiền và khổ đau là do Luyến Ái dưới mọi dạng thức. Nếu chúng
ta muốn tránh khổ đau, chúng ta phải bỏ luyến ái - không phải chỉ luyến ái
người mà luyến ái của cải nữa. Đó là sự thực căn bản, là bài học mà cái chết
dạy ta. Luyến ái cung cấp cho chúng ta nhiều thứ để thỏa mãn cảm xúc của chúng
ta, và dẫn ta vào con đường trần tục. Nhưng cuối cùng luyến ái trở thành nguyên
nhân của đau khổ. Nếu không học điều này, cái chết có thể tấn công và khủng bố
chúng ta. Sự kiện này đã được Đức Phật soi sáng rõ ràng. Ngài dạy: "Cái
chết sẽ mang con người đi khỏi dù người đó cố bám lấy con cái và của cải, giống
như một trận lụt lớn cuốn sạch cả ngôi làng đang ngủ".
Lời
dạy này ngụ ý là nếu ngôi làng đó tỉnh thức và cảnh giác thì có thể tránh khỏi
sự tàn phá của lũ lụt.
AI
CŨNG PHẢI CHẾT
Chúng
ta hãy nghiên cứu Đức Phật giải quyết vấn đề cho hai người, vì luyến ái mà cái
chết làm cho đau khổ. Một người là Bà Kisagatomi. Đứa con trai duy nhất của bà
ta bị rắn cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Đức Phật. Đức Phật
bảo Bà hãy đem đến cho Đức Phật một vài hạt giống cải (mù tạc) của một gia đình
không có ai chết, Đức Phật sẽ chữa cho. Nhưng Bà ta không thể tìm thấy một gia
đình nào mà không có người chết. Tất cả các gia đình mà Bà đã đến thì không nhà
nào là không khóc than hay đã khóc than về cái chết của người thân vào một lúc
nào đó. Bà đã hiểu sự thực đắng cay: cái chết rất phổ biến. Cái chết giáng
xuống tất cả mọi người và không chừa ai cả. Buồn đau là di sản đối với mọi
người.
Một
người khác được Đức Phật dạy là Patacara. Trường hợp của Bà này buồn thảm hơn.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Bà mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất
cả của cải. Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên như dại trên đường
phố cho đến khi gặp Đức Phật. Đức Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách
giảng giải cho Bà nghe là cái chết là một hiện tượng tự nhiên của tất cả mọi
người.
"Con
đã đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần này thôi, Patacara; con đã
đau khổ nhiều lần trong những tiền kiếp của con. Đã lâu, con đau khổ vì cái
chết của cha, mẹ, con cái và những người thân của con. Khi con đau khổ như vậy,
nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển cả".
Cuối
cùng, Patacara nhận thức được cái vô thường của cuộc đời. Patacara và
Kisagotami hiểu rõ cái khổ và cả hai đều cảm nhận được sự đau khổ của cái chết
. Bằng cách hiểu sâu xa Đế Thứ Nhất của Tứ Diệu Đế về "khổ" thì ba Đế
còn lại cũng hiểu được. Ngài nói: "Này các tỳ kheo, đây là khổ, nguyên
nhân của khổ, đây là diệt khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt kh?".
NĂM
UẨN
Chết
là sự tan rã của Uẩn. Những Uẩn này là thọ, tưởng, hành, thức, và sắc hay vật
chất. Bốn nhóm đầu thuộc về tinh thần hay nama, họp thành đơn vị của thức. Nhóm
thứ năm, rupa là vật chất hay vật lý uẩn. Sự phối hợp của tâm vật lý đó theo
quy ước được đặt cho một cá nhân, một con người hay cái Tôi. Cho nên những cá
thể hiện hữu như thế không phải là những cá nhân nào mà là hai thành phần cấu
tạo cơ bản của tinh thần và vật chất, thành phần này là những hiện tượng hiếm.
Chúng ta không coi năm uẩn là những hiện tượng mà là một thực thể vì lẽ do cái
tâm tự lừa dối của chúng ta, do ham muốn bẩm sinh của chúng ta cho những thứ
nói trên là của ta để thoả mãn cái Ngã quan trọng của chúng ta.
Chúng
ta sẽ thấy được bộ mặt thật của sự vật nếu chúng ta chịu nhẫn nại và có ý chí .
Nếu chúng ta quay vào nội tâm và quán chiếu bề sâu của tâm khảm, chú tâm và
nhận xét một cách khách quan, không hề liên tưởng đến bản ngã trong một thời
gian như Đức Phật dạy trong kinh Sati Patthana, chúng ta sẽ thấy năm uẩn, không
phải là một thực thể mà mà một loạt các tiến trình vật chất và tinh thần. Rồi
chúng ta không còn lầm lẫn cho cái bề ngoài là thật. Chúng ta sẽ nhìn thấy năm
uẩn này phát sanh và biến đi liên tục nhanh chóng. Chúng luôn luôn biến đổi
từng phút từng giây, không bao giờ Tĩnh mà Động, không bao giờ là Thực Thể mà
luôn luôn Biến Hiện.
TÁI
SANH
Bốn
uẩn hay thức và ba nhóm của yếu tố tinh thần (Thọ, Tưởng, và Hành), tạo thành
Nama hay đơn vị của thức, biến chuyển không ngừng, nổi lên rồi biến đi không
cùng một khuôn mẫu vì những khuôn mẫu đó cũng biến hóa luôn. Chúng phải lập lại
ngay một nền tảng tự nhiên mới (Sắc) - một lớp vật chất tươi tốt như trước - để
hoạt động điều hòa. Nghiệp quả hành động như một định luật, và định luật này
điều khiển việc sắp xếp năm uẩn sau khi chết. Kết quả là"tái sanh"
.
YẾU
TỐ VÀ NĂNG LƯỢNG
Tóm
lại, sự phối hợp của năm uẩn gọi là sanh và sự hiện hữu của những uẩn đó được
gọi là đời sống. Sự tan rã của chúng gọi là chết (tử), và sự tái phối hợp của
những uẩn ấy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, một người bình thường không dễ dàng gì
hiểu được tại sao những cái gọi là uẩn đó lại có thể tái phối hợp. Chúng ta cần
hiểu rõ bản chất của các yếu tố (năm uẩn), năng lượng tinh thần (hay sức mạnh
tinh thần), định luật về nghiệp quả, và sự song hành của năng lượng vũ trụ
(Khí) rất quan trọng. Một số người cho rằng cái chết là sự tan rã của năm uẩn
và sau đó, chẳng còn gì tồn tại nữa. Có người lại cho rằng chết có nghĩa là sự
chuyển tiếp linh hồn từ một thân xác này đến một thân xác khác; và với một số
người khác nữa, chết là sự kìm giữ vĩnh viễn một linh hồn chờ đợi ngày Xét Xử..
Tuy nhiên với người Phật Tử, chết chẳng là gì cả mà chỉ là tạm chấm dứt một
hiện tượng tạm thời. Chết chưa phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của cái được
gọi là chúng sanh.
NGUYÊN
NHÂN CÁI CHẾT
Theo
Đạo Phật, Chết xẩy ra do một trong bốn nguyên nhân sau đây:
I.
Mạng căn (hay thọ mạng) của chúng sanh mỗi loài đã hết. Cái chết này là mạng
triệt (Ayukkhaya)
II.
Sức hành của Nghiệp tạo nên đời sống đã kiệt. Cái chết này gọi là Khamma-kkhaya
(Nghiệp dĩ)
III.
Sự chấm dứt cùng một lúc của hai nguyên nhân trên - Ubbayakkhaya .
IV.
Cuối cùng có thể do những hoàn cảnh bên ngoài như tai nạn, biến cố bất ngờ,
hiện tượng thiên nhiên, hay Nghiệp quả từ kiếp trước không đề cập tại điều II.
Cái chết này gọi là Upacchedake.
Có
một sự tương đồng rất đúng để giải nghĩa bốn trường hợp chết trên đây: Một ngọn
đèn dầu có thể tắt do một trong bốn nguyên nhân:
I.
Bấc trong ngọn đèn đã cháy hết. Điều này giống như cái chết vì thời gian cho
một kiếp đã hết.
II.
Dầu đã cạn giống như Nghiệp lực đã hết.
III.
Dầu và bấc đã cháy hết cùng một lúc giống như cái chết do cả hai nguyên nhân
phối hợp đề cập tại I và II.
IV.
Hiệu quả của các yếu tố bên ngoài như gió thổi làm đèn tắt - giống như chết do
các nguyên nhân ngoại cảnh.
Cho
nên, Nghiệp quả không phải là nguyên nhân duy nhất của cái chết. Có những
nguyên nhân bên ngoài gây ra cái chết. Giáo lý của Đức Phật minh định rõ ràng
Nghiệp quả không thể giải thích tất cả những việc xẩy ra trong đời sống của
chúng ta.
ĐƯƠNG
ĐẦU VỚI BIẾN CỐ
Làm
sao chúng ta có thể đương đầu với các điều không tránh được này một cách tốt
nhất? Nên tiên liệu và suy nghĩ là cái chết trước sau cũng phải đến.. Điều này
không có nghĩa là người Phật Tử quan niệm cuộc đời là ảm đạm. Chết là một sự
thực, và ta phải đương đầu - và Phật Giáo là tôn giáo của lý trí huấn luyện các
đệ tử trực diện với các sự kiện, dù các sự kiện này làm ta không hài lòng.
Trưởng Giáo Nanak, vị khai sáng ra Đạo Sikh nói: "Thế gian sợ chết, với
tôi, chết đem niềm vui". Thật rõ ràng những vĩ nhân và những người cao
thượng không sợ chết và sæn sàng chấp nhận nó. Nhiều vĩ nhân đã hy sinh mạng
sống của mình để người khác được hạnh phúc. Tên tuổi của các vị này đã được lưu
truyền trên bảng vàng lịch sử thế giới cho hậu thế.
CÁI
CHẾT KHÔNG TRÁNH ĐƯỢC
Thật
là một nghịch lý khi chúng ta thấy cái chết đã cướp đi biết bao sinh mạng của
nhân loại nhưng chúng ta ít khi nghĩ đến cái ý tưởng đó là chúng ta cũngthế,
trước sau cũng trở thành nạn nhân của tử thần. Vì quá lưu luyến với cuộc đời,
chúng ta không muốn mang trong lòng tư tưởng yếu đuối, nhưng thực tế cái chết
là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta muốn chấm dứt ý nghĩ ghê gớm đó và tự lừa
dối mình rằng chết là một điều xa vời, một điều không cần phải lo lắng. Chúng
ta phải có đủ can đảm để đương đầu với biến cố ấy. Chúng ta phải sæn sàng trực
diện với sự thực trần trụi này. Chết là điều có thật. Nếu chúng ta nhận thức
được như vậy, và biết rằng cái chết không tránh khỏi; chúng ta hãy coi nó như
một sự bình thuờng chứ không phải là một biến cố đáng sợ để khi nó đến, chúng
ta sẽ đương đầu với nó một cách bình tĩnh, can đảm và tự tin.
BỔN
PHẬN VÀ TRÁCH NHIỆM
Biết
rằng một ngày nào đó, cái chết sẽ cướp mạng sống của ta, chúng ta phải bình
tĩnh, can đảm và tự tin để làm tròn bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Chúng
ta không nên chần chừ chu toàn trách nhiệm và bổn phận của chúng ta. Những việc
gì có thể làm được hôm nay, đừng để đến ngày mai. Chúng ta không nên phí phạm
thì giờ và sống một cách hữu ích. Những bổn phận đối với vợ, chồng và con cái đứng
hàng ưu tiên phải được thi hành đúng lúc. Để tránh gây căng thẳng và khó khăn
cho gia đình, chúng ta đừng chờ đợi đến phút cuối cùng mới viết di chúc. Cái
chết có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào - nó không chừa ai cả và không chờ
đợi. Chúng ta nên can đảm trực diện với biến cố tối hậu này với hy vọng và tin
tưởng rằng chúng ta đang chuẩn bị cho đời sống kế tiếp.
ÁI
DỤC VÀ VÔ MINH
Có
thể chế ngự được cái chết không? Câu trả lời là Có! Có chết vì có sanh. Sự tiếp
diễn không ngừng của cái sanh được gọi là luân hồi. Nếu chu trình của sự sống
ngưng lại, cái chết có thể chấm dứt ngay tại giai đoạn Vô Minh (Avijja) và Ái
Dục (Tanha ) - Đó là gốc rễ của cái vòng sanh tử cần phải tiêu diệt. Cho nên,
nếu cắt được Ái Dục và Vô Minh, sanh đuợc chế ngự, chết bị chinh phục, luân hồi
siêu thoát, và Niết Bàn hiện tiền.
Chúng
ta phải hiểu là mọi vật trong vũ trụ này đều không có thật, và cuộc sống chỉ là
ảo mộng. Nếu chúng ta dùng khoa học hay triết lý để phân tách, cuối cùng chúng
ta khám phá thấy không có gì cả mà chỉ là hư không. Gandhi đã từng nói:
"Sợ
chết chẳng khác gì sợ bỏ một cái áo cũ đã rách". Vì luyến ái, chúng ta rất
đau khổ khi mất người mình thương yêu. Việc này xẩy ra cho Bà Visakha, một đệ
tử hết lòng trong thời Đức Phật. Khi đứa cháu gái yêu dấu của Bà chết, Bà tìm
đến Đức Phật để yêu cầu Đức Phật giải cứu cho Bà khỏi phiền não.
"Này
Visakha, ngươi có muốn có nhiều con nhiều cháu như số trẻ trong thành phố này
không? " Đức Phật hỏi Bà.
-"Thưa
vâng, bạch Đức Thế Tôn, dĩ nhiên là con thích".
-"Này
Visakha, nếu vậy, ngươi sẽ khóc khi chúng chết phải không? Những ai có một trăm
thứ yêu dấu, những người đó có một trăm điều phiền não. Kẻ không có thứ gì yêu
dấu, kẻ đó không có phiền não. Người như vậy mới thoát khỏi phiền
não".
Khi
chúng ta mang lòng luyến ái, chúng ta phải chuẩn bị chịu đựng phiền não trong
lúc chia ly.
Tham
sống đôi khi làm cho người ta sợ chết. Chúng ta không dám chấp nhận rủi ro thậm
chí vì một lý tưởng chính đáng. Chúng ta sợ hãi là bệnh tật hay tai nạn sẽ chấm
dứt cuộc đời hình như quý giá của chúng ta. Biết rằng chết là điều tất nhiên,
chúng ta hy vọng và cầu nguyện cho linh hồn được lên Trời để xác thân chúng ta
được yên ổn và gìn giữ. Tin tưởng như vậy bắt nguồn từ những tham vọng mãnh
liệt, muốn có một đời sống trường cửu.
Mỗi
người, mỗi cá nhân phải biết rõ vai trò của cái chết nó định đoạt số phận của
mình. Dù là hoàng tộc hay bình dân, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, nơi an nghỉ
cuối cùng của thân xác con người là ở trong quan tài chôn sâu sáu tấc, hoặc
trong bình đựng tro cốt, hoặc ở dưới nước.
Tất
cả nhân loại phải đương đầu và chịu chung một số phận. Vì ngu si không hiểu
thực chất của đời sống, chúng ta thường rên rỉ khóc than. Khi ta hiểu được thực
chất của đời sống, chúng ta có thể nhìn thẳng cái vô thường của tất cả mọi
duyên hợp và tìm cách giải thoát. Nếu chúng ta không thoát khỏi những trói buộc
của cuộc đời, chúng ta sẽ phải đối mặt với cái chết mãi mãi. Về phương diện
này, vai trò của cái chết thật rõ ràng. Nếu người ta không chịu nổi cái chết,
thì họ phải hết sức cố gắng để vượt qua cái vòng sanh tử, tử sanh.
SUY
GẪM VỀ CÁI CHẾT
Tại
sao chúng ta phải nghĩ về cái chết? Tại sao ta phải suy gẫm nó? Đức Phật không
những chỉ khuyến khích chúng ta nói về cái chết, Ngài cũng khuyên chúng ta suy
gẫm nó và nghĩ đến nó thường xuyên. Đó là có sanh thì có chết. Tinh thần và thể
xác được tạo nên trong lúc thai nghén, phát triển, lớn lên và trưởng thành. Nói
một cách khác chúng theo tiến trình già nua. Đầu tiên, chúng ta gọi tiến trình
đó là lớn lên, rồi già đi. Thật ra đó chỉ là một tiến trình của sự lớn lên,
phát triển, trưởng thành và cuối cùng là cái chết không sao tránh được.
Ngày
nay, theo thống kê trên thế giới, mỗi ngày có hai trăm ngàn (200,000) người
chết hay độ 70 triệu mỗi năm.
Chúng
ta không quen suy gẫm về cái chết hoặc đả động đến nó. Điều chúng ta thường làm
là tránh nghĩ về cái chết và sống như thể chẳng bao giờ phải chết cả. Chừng nào
mà chúng ta còn sợ chết, chúng ta không bao giờ sống một cuộc đời đầy đủ và tốt
đẹp nhất. Cho nên một trong những lý do chính yếu để suy gẫm cái chết là để
chúng ta hoàn toàn tỉnh thức để khỏi sợ hãi. Suy gẫm về cái chết không làm cho
chúng ta chán nản hay không lành mạnh, mà chỉ có mục đích giúp cho chúng ta
thoát khỏi sợ hãi.
Lý
do thứ hai suy gẫm về cái chết sẽ thay đổi lối sống và thái độ của chúng ta với
cuộc đời. Giá trị trong cuộc sống hoàn toàn thay đổi một khi chúng ta không
nghĩ rằng chúng ta sống mãi ở đời, chúng ta sẽ bắt đầu một lối sống khác
hẳn.
Lý
do thứ ba là để có khả năng làm quen đương đầu với cái chết một cách xác đáng
và yên lành.
Suy
gẫm về cái chết có ba điều lợi ích:
-
bớt sợ hãi
-
đem lại phẩm chất mới cho đời sống để chúng ta sống cuộc đời có giá trị thích
đáng và
-
giúp chúng ta chết trong vinh dự.
Những
lợi ích trên giúp chúng ta sống lương thiện và chết có phẩm giá.
Suy
gẫm về cái chết chúng ta còn cần gì nữa?
Đạo
Phật khuyến khích suy gẫm về những nhân tố sau đây:
-
Tôi sống với tuổi của tôi, tôi không lo già;
-
Bệnh tật là lẽ thường, tôi không quá nghĩ về nó;
-
Tôi gánh chịu Nghiệp quả của tôi và tôi không thoát khỏi Nghiệp lực;
-
Chết là lẽ thường tôi không quá lo nghĩ về cái chết và
-
Tất cả những gì dễ thương và thích thú của tôi sẽ thay đổi và bỏ tôi.
Khi
chúng ta bình tâm suy gẫm về những thực trạng ấy, và giữ trong tiềm thức, nó sẽ
có tác dụng mạnh mẽ để khuất phục sợ hãi, tuổi già, bệnh tật, cái chết, và chia
ly. Điều này không phải là làm chúng ta kém lành mạnh mà chính là giúp chúng ta
thoát khỏi sợ hãi. Cho nên tại sao chúng ta suy gẫm về cái chết? Không phải là
chúng ta mong mỏi cái chết đến mà chúng ta không muốn sống hay chết trong sự sợ
hãi.
CHẾT
LÀ MỘT PHẦN CỦA ĐỜI SỐNG
Chết
đến với tất cả mọi người và là một phần của cái vòng sinh tử. Người chết trẻ,
kẻ chết già, chẳng ai không chết. Chẳng ai mời chúng ta đến thế giới này, và
cũng chẳng ai bảo chúng ta từ giã. Tôi không tránh được cái chết, và mọi người,
mọi cỏ cây, mọi hình thức, mọi chúng sanh đều theo con đường đó. Thu về, lá
rụng. Chúng ta không khóc vì cuối mùa lá rụng là điều tất nhiên. Cái chết của
loài người cũng thế.
Những
người có đạo hạnh, ít sợ chết hơn những người thế tục vì lẽ họ chỉ muốn sống để
thoả mãn năm giác quan của họ.
Theo
quan niệm của Nhà Phật, chết chưa phải là chấm dứt, và sanh cũng không phải là
bắt đầu. Thực ra, chết chính là sự bắt đầu (một kiếp sống mới), và sanh là sự
chấm dứt (kiếp sống cũ). Cái chết chỉ là một phần trong tiến trình sanh tử, tử
sanh. Nếu chúng ta hiểu được tiến trình đó, cái chết không làm ta khiếp sợ bởi
vì chết chưa phải là hết. Nó chỉ là đoạn cuối của cái vòng sanh tử, đi hết vòng
này lại đến vòng khác, và tiếp diễn không ngừng tỉ như lá lìa cành chưa phải là
hết. Chúng vào lòng đất và nuôi rể cây, sang năm cây lại có lá mới. Đời sống
của con người cũng như vậy. Cái chết làm nhân duyên cho sự tái sanh. Hiểu biết
được nguyên tắc căn bản đó, chúng ta sẽ nhẹ bớt sợ hãi.
SỐNG
CÓ Ý THỨC
Chúng
ta sống một cách điên rồ, không nghĩ rằng mình đã tốn biết bao nhiêu thì giờ
cho những việc vô bổ. Hôm nay, chúng ta phí thì giờ lo cho những chuyện năm
tới, cho 20 năm tới, và lo lắng cho tương lai đến độ chúng ta chẳng sống trọn
vẹn mỗi ngày?
Và
giá trị trong đời sống của chúng ta sẽ thay đổi. Đời sống có gì quan trọng?
Những gì thúc đẩy chúng ta? Những gì lôi cuốn chúng ta? Nếu chúng ta thực sự
suy gẫm cái chết, chúng ta sẽ xét lại giá trị của chúng ta. Có nhiều tiền,
chúng ta không thể đem theo được. Thân xác chúng ta phải bỏ lại để mai táng
bằng cách này hay cách khác. Chỉ còn lại nắm xương tàn vô giá trị. Chúng ta
không thể mang theo ngay cả cái xác thân quý giá với chúng ta khi chúng ta lìa
bỏ cõi đời này.
Phẩm
chất của của cuộc đời quan trọng hơn sự thủ đắc vật chất. Phẩm chất của cuộc
đời trước tiên là phẩm chất của tâm trí chúng ta. Chúng ta sống thế nào ngày
hôm nay quan trọng hơn nhiều ngoại vật khác. Chết là điều kiện để tái sanh.
Điều kiện cho sự tái sanh là cái chết và phẩm chất tâm trí, cái độc nhất mà
chúng ta mang theo. Đó là cái gia tài để chúng ta thừa hưởng mà không để lại
cho người khác:
-
Tôi tạo Nghiệp, tôi phải thọ Nghiệp.
-
Nghiệp sanh ra tôi, tôi phải tôn trọng và gánh chịu.
-
Nghiệp lành hay Nghiệp dữ tôi tạo ra, tôi đều phải gánh chịu hết, do đó tôi là
người thừa kế .
Những
gì theo ta là những phẩm hạnh có ở trong ta: phẩm hạnh của tâm trí, của tinh
thần, cùng những phẩm hạnh tốt hay xấu. Đó là tất cả những thứ chúng ta được
thừa hưởng. Đó là điều kiện quyết định việc tái sanh và tương lai của chúng ta.
Đến lượt những phẩm hạnh đó đem lại một giá trị cho đời sống của chúng ta.
Chúng ta có thể vui về bạc triệu mà chúng ta đã kiếm được nhưng điều quan trọng
hơn là chúng ta cần sống yên ổn và trau dồi đạo đức. Điều này có tác dụng tốt
vào lối sống của chúng ta, và vào những giá trị mà chúng ta phát triển. Không
phải là vấn đề thành công, mà là vấn đề làm sao để thành công.
CHẾT
XỨNG ĐÁNG
Sau
khi đã suy xét các điều trên, nếu chết không còn là một sự đe dọa mà là một
kinh nghiệm thực tế, chúng ta có thể trực diện nó với lòng tin tưởng. Chúng ta
không chỉ theo những điều nói trên mà còn cần có nhiều hành động khác để chết
một cách xứng đáng. Nếu chúng ta sống lương thiện, chúng ta chết dễ dàng hơn.
Dù đã sống sung sướng hay đau khổ, chúng ta phải cố gắng chết một cách xứng
đáng. Để đương đầu với cái chết phải đến, chúng ta hãy nỗ lực trong việc phát
triển phẩm hạnh không sợ hãi.
Có
một số người sợ chết hơn sợ đau đớn và sợ chia lìa người thân hơn là những thứ
đáng sợ khác. Khi một người sắp chết, nên gợi lòng can đảm và trấn an họ. Nhưng
trước tiên, mình phải trấn an mình đã. Dĩ nhiên, đau đớn sẽ hành hạ và không
thể chịu đựng nổi. Nhưng ngày nay, nhờ những tiến bộ y khoa, những đau đớn của
chúng ta được giảm thiểu trước khi chết. Đau đớn không còn là một điều sợ hãi
không tránh được nữa.
Tôi
thường trấn an người sắp chết, như trường hợp một người không còn sống nổi vì ung
thư: người ta không để bạn phải đau đớn vì việc điều trị nhanh chóng sẽ giảm
bớt đau đớn. Kết quả quan trọng là người bệnh được thoải mái và chết nhẹ
nhàng.
Một
số người khác lo âu vì sợ mất của cải. Nhưng nếu họ biết suy gẫm về cái chết
thì không có gì phải lo. Chúng ta hiểu có hợp thì có tan. Nếu một người sắp từ
trần không suy gẫm được điều này, chúng ta cần ân cần khuyến khích và trấn an
họ là con cái và những người thân quyến còn lại sẽ được chăm sóc. Cần giúp họ
an lòng là mọi việc sẽ đều tốt đẹp, có bạn hữu lo lắng cho họ, họ cần có sự
động viên can đảm để được thoải mái, an tâm, và tất cả mọi việc sẽ được lo lắng
chu đáo.
Trọng
tâm của việc này là gợi lòng can đảm của người sắp chết để họ được an lòng. Làm
thế nào để chết xứng đáng? Theo Phật Giáo là tạo một bầu không khí bình an
trong phòng người sắp ra đi. Không ích lợi gì nếu có người gào thét, kêu la và
khóc lóc. Có gì quan trọng hơn đối với một người sắp chết là việc phải chết?
Làm như vậy, người sắp chết không an tâm ra đi. Điều tốt hơn là bạn bè và thân
quyến có mặt cần chứng tỏ bằng sự hiện diện của họ rằng họ quan tâm, yêu mến,
và sæn sàng giúp đỡ người sắp ra đi.
"Biểu
tượng tôn giáo rất hữu ích và tiện dụng trong lúc này. Nếu người sắp chết là
một Phật Tử, một tượng Phật nhỏ cùng sự có mặt của các nhà Sư với những lời cầu
nguyện êm dịu sẽ rất ích lợi và giúp người chết có niềm an lạc và phẩm hạnh cao
quí nhất. Đó là điều tuyệt diệu giúp người ra đi, đi tìm cuộc sống mới trong
đường lối tốt đẹp nhất" -- (Đại đức Ajahn Jagaro)
CHẾT
NHẸ NHÀNG
Mọi
người đều mong muốn chết êm ả sau khi đã làm tròn nhiệm vụ và bổn phận trong
lúc sanh thời. Sự thật ra có bao nhiêu người đã sửa soạn cho cái chết này?
Chẳng hạn, có bao nhiêu người đã chịu khó nhọc chu toàn nhiệm vụ với gia đình,
thân nhân, bạn bè, xứ sở, đạo giáo và thân phận của chính mình? Họ sẽ không yên
tâm ra đi khi họ không chu toàn được một trong những nhiệm vụ đó.
Chúng
ta phải học cách vượt qua nỗi sợ chết, hiểu rằng các thần linh cũng phải chịu
số phận như vậy. Những ai phung phí thời giờ vô ích, sẽ than van khi mình đến
ngày tận số.
Khi
con người nhìn thấy đời sống của mình chỉ là một một giọt nước trong con sông
dài, họ sẽ cố gắng để góp sức, dù là ít ỏi vào dòng đời vĩ đại đó. Người khôn
ngoan đều hiểu rằng, muốn sống phải tìm cách giải thoát bằng cách tránh tội
lỗi, làm điều thiện, và thanh tịnh tâm trí. Người hiểu đời sống theo Giáo Lý
của Đức Phật không bao giờ lo lắng về cái chết. Cái chết không gây ra phiền
não, nhưng thật sẽ đáng buồn nếu ta chết mà chưa kịp làm gì cho chính mình và
cho người khác.
NGÀY
HÔM NAY TÔI CHẾT
David
Morris là một học giả Phật Giáo Tây Phương chết lúc 85 tuổi. èt lâu sau khi ông
chết, kẻ viết tập sách nhỏ này nhận được lá thư của ông (hiển nhiên ông đã viết
thư này trước đây và dặn thư này gửi đi khi ông chết). Thư như sau: 'ông sẽ vui
khi biết tôi chết ngày hôm nay. Có hai lý do: Điều thứ nhất, ông sẽ yên lòng
khi biết được sự đau đớn của tôi do bệnh tật cuối cùng đã hết. Điều thứ hai, từ
khi tôi trở thành Phật Tử, tôi đã giữ năm giới một cách trung thực. Kết quả,
ông biết kiếp tới của tôi sẽ không đau khổ.' Đời sống như một giấc mộng. Cái
chết là một điều xẩy ra thực tế và tái sanh là điều xuất hiện tự nhiên. Để trực
diện với biến cố này, ta phải tiếp tục hay chấm dứt cái vòng sanh tử luân hồi
để thoát khỏi khổ đau, đó mới chính là con người tri thức cần quan tâm.
-ooOoo-
PHẦN
II
NGƯỜI
PHẬT TỬ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CỦNG CỐ PHẬT PHÁP?
DẪN
NHẬP
Những
truờng hợp vui như sanh con, hôn nhân và những trường hợp buồn như đau yếu, qua
đời của kiếp nguời rất cần thiết đến việc áp dụng một số nghi thức được triển
khai ở mọi xã hội từ thời thuợng cổ. Những nghi thức này, đã có từ trước khi
những tôn giáo lớn được thành lập trên thế giới, được truyền thừa từ cha ông
chúng ta, và qua dòng thời gian, lần hồi trở thành hình thức thực hành truyền
thống và tập quán cho đến ngày nay. Chúng ta vẫn tiếp tục áp dụng nhiều nghi
thức này vì ngu si và sợ hãi không dám thay đổi hay loại bỏ dù chúng ta đã đưọc
tiếp nhận một nền giáo dục hiện đại, tiên tiến về đời sống.
Đặc
biệt nghi thức trong truờng hợp buồn như có người chết hay tang lễ vẫn thực
hành trong huyền bí và dị đoan. Việc phải chi tiêu một số tiền lớn cho việc này
quả là một gánh nặng cho tang quyến. Đó là lý do chính khiến một số đông Phật
tử đã đổi đạo vì lẽ nguyên nhân này là lợi khí cho những nguời tôn giáo khác
nhắm mũi dùi đả kích vào người đạo Phật. Tối ư khẩn thiết cho tất cả các cộng
đồng Phật Giáo tại tất cả các quốc gia trên thế giới phải tỉnh thức về tình
trạng này và can đảm cố gắng cải cách nghi thức và nghi lễ thực hành cho phù
hợp đúng nguyên tắc tôn giáo của Đạo Phật.
Cuốn
sách này trình bày một cách đơn giản và dễ hiểu một số nghi thức để thực hành
trong những dịp buồn vui trong đời người Phật tử. Hy vọng người Đạo Phật sẽ cố
gắng hiểu biết các nghi thúc này và áp dụng khi truờng hợp cần đến. Làm được
như vậy, nguời Phật Tử không những đạt được mãn nguyện và niềm an lạc trong
kiến thức, thực hành đúng nghi thức Phật Giáo mà còn đề cao được tôn giáo của
mình trước mắt những người thuộc tôn giáo khác.
Tan
Teik Beng, Hội Trưởng
Hội
truyền Bá Phật Giáo Mã Lai Á
-ooOoo-
BỔN
PHẬN CHA MẸ TRONG VIỆC NUÔI NẤNG CON CÁI
Sanh
con là một dịp vui mừng. Có con và nuôi dưỡng con cái là một cuộc hành trinh
thể hiện trên niềm vui và tin tưởng. Đồng thời nó cũng có nghĩa là cuộc khởi
đầu của một thời gian dài hy sinh và trách nhiệm của cha mẹ. Dù rằng con người
đã tiến rất xa trên bực thang tiến hóa, những trẻ nhỏ vẫn cần một thời gian dài
mới trưởng thành và tự lập được. Cha mẹ với bổn phận nặng nề chịu trách nhiệm
săn sóc và nuôi duỡng chúng cho đến khi chúng thành người hữu dụng. Tuy nhiên
qua nhiều thế kỷ, xã hội đã triển khai một phương pháp được thử nghiệm kết quả
rất tốt để hướng dẫn các bậc cha mẹ trong việc nuôi nấng con cái. Trong mối
quan hệ này, tôn giáo là vai trò chính cung cấp cho cha mẹ một phương thức tổ
chức để huấn luyện đứa trẻ về đạo đức, cách cư xử và luân lý. Trong Phật Giáo,
Đức Phật đã cho cho các bậc cha mẹ lời khuyên dạy rất hữu ích về nhiệm vụ đối
với đứa trẻ và ngược lại. Kinh Thi-Ca-La-Việt có lẽ là lời khuyên tốt nhất
trong những lời dạy của Đức Phật. Đ?c Phật nêu một trường hợp khi Ngài thấy một
thanh niên trẻ đang thực thi một nghi thức đơn giản là cúi lạy sáu huớng (bắc,
nam, đông, tây trên, dưới). Hỏi thanh niên này về ý nghĩa và mục đích của hành
động lễ lạy này, nguời thanh niên trả lời không biết và anh chỉ làm theo lời
khuyên bảo của người cha đã qua đời. Đức Phật đặc biệt không trách cứ thanh
niên thi triển nghi thức trên nhưng Ngài đã giảng dạy ý nghĩa hữu ích của việc
thực hành lễ lạy này. Ngài nói hành động biểu lộ lòng tôn kính sáu hướng có
nghĩa là tôn kính việc chu toàn nhiệm vụ và bổn phận với cha mẹ, thầy dạy, hàng
giáo phẩm, vợ, con cái và nguời làm. Trên đây, chúng ta thấy Đức Phật nhấn mạnh
sự tương quan giữa mọi người nhưng đặc biệt giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ phải
săn sóc con cái và cho con quyền độc lập khi thời điểm đến và cho con thừa
hưởng gia tài đúng lúc. Mặt khác, về phần con cái cũng phải có bổn phận phải
săn sóc và thể hiện hết lòng hiếu kính cha mẹ. Điều này phải được thực thi từ
sự tương kính và biết ơn cha mẹ chứ không phải vì mong muốn được lợi lạc mà làm
vậy. Nơi đây cho thấy có một mối liên quan mật thiết giữa tôn giáo và sự liên
hệ cha mẹ, con cái. Bậc cha mẹ đừng quên ý nghĩa của tôn giáo khi đứa trẻ ra
đời. Gia đình phải phát triển mối tương quan tế nhị về tôn giáo đã được thiết
lập hầu tránh lầm lẫn.
Cha
mẹ có bổn phận phát triển mối tương quan căn cứ trên gia tài văn hóa và tôn
giáo. Trong khi các người của tôn giáo bắt buộc thi hành các lễ rửa tội, đặt
tên thánh chính thức cho đứa trẻ, cha mẹ người Phật Tử chỉ cần mang đứa trẻ đến
chùa để xác nhận lại niềm tin vào Ba Ngôi Tam Bảo, nương tựa vào Đức Phật, Pháp
và Tăng Già. Có nơi nương tựa vào Ba Ngôi Tam Bảo, chính các bậc cha mẹ cảm thấy
tin tưởng trong việc nuôi dưỡng đứa trẻ và an lòng vì đứa trẻ được che chở
không còn sợ hãi ma quỷ. Chúng ta không thể chối bỏ sự hiện hữu các lực lượng
ma quỷ chung quanh chúng ta hiểm ác với con người và có thể gây tai hại. Mang
đứa trẻ đến chùa và một khóa cầu nguyện thiêng liêng theo truyền thống cầu
phước cho em nhất định tạo phúc lợi cho em. Việc trên đây cũng được coi như là
bước đầu trong việc liên hệ với chùa từ khi em còn trứng nước, sư kiện này trở
thành một phần hay một mảnh trong đời sống của đứa trẻ. Thói quen trên nếu được
tiếp tục gìn giữ cho đến lúc trưởng thành sẽ đem lại lợi ích lúc gặp khó khăn.
KHÓA
LỄ CẦU PHƯỚC CHO CÁC EM NHỎ
Tụng
kinh đem hiệu quả tốt cho em nhỏ. Được biết trong lúc Đức Phật còn tại thế, khi
một em nhỏ trong trường hợp nguy kịch vì ảnh hưởng của ma quỷ bên ngoài, đem
đến trưóc mặt Phật, Đức Ph?t ra lệnh cho tất cả các thầy tụng kinh cầu nguyện
cho em. Kết quả là đứa bé đã thoát chết và sống tới già. Do vậy em đưọc gọi là
AYUWADDHANA có nghĩa là "sống lâu" vì không còn sợ bị chết non.
TẠI
SAO CHÚNG TA TÌM NƯƠNG TỰA NƠI ĐỨC PHẬT?
Khi
những người tin tưởng vào thượng đế, lúc sợ hãi, buồn thảm hay gập khó khăn, họ
thường cầu nguyện để được giúp đỡ và che chở. Nhiều Phật Tử hỏi là có thể quay
về với ai khi gặp phải trường hợp bất an. Trong truờng hợp này người Phật tử
nhớ tới Phật trong tâm trí đề tìm sự bằng an. Chắc chắn là quan niệm về thượng
đế của người Phật Tử khác hẳn với các tôn giáo khác nhưng khi suy gẫm về các
đức hạnh cao cả của Đức Phật, những chiến thắng vĩ đại của Ngài, những đặc tính
bình tĩnh và cao thượng của Ngài, đầu óc người Phật Tử sẽ bình tĩnh lại và sẽ
đạt được lòng tự tin. Cả đến những người thuộc tôn giáo khác nói rằng thượng đế
không phải là một người, nhưng là một sức mạnh đưọc nhân cách hóa trong đầu óc.
Khi đầu óc bình tĩnh, sung mãn, tập trung vào sức mạnh ấy, họ ở trong tư thế có
thể đối đầu với các xáo trộn, lượng định được những khó khăn và tìm cách vượt
qua được. Người Phật tử giải quyết các khó khăn bằng đường lối tương tự là gợi
trong tâm trí hình ảnh của Đức Phật. Đương nhiên những khó khăn của chúng ta là
do nguyên nhân nơi tâm trí của chúng ta nên tâm trí của ta duy nhất có thể giải
quyết vấn đề qua hiểu biết và tự tin. Vậy nên sự hiểu biết về Pháp rất là quan
trọng. Khi tâm trí sung mãn qua cảm hứng và thành tâm đối với Đức Phật, cảm
nghĩ bị bơ vơ,sợ hãi ma quỷ, cô đơn sẽ không còn và ta sẽ lấy lại lòng tự tin.
Điều này có nghĩa là tìm nương tựa nơi Đức Phật.
Trong
khi tìm nơi nương tựa cho con em tại chùa, có thể dâng cúng hoa, hương, nến hay
trái cây tại chánh điện và cung thỉnh thầy trụ trì tụng kinh cầu phước cho đứa
trẻ. Nếu muốn hơn nữa, có thể xin thầy trụ trì đặt cho em một pháp danh.
Lúc
đứa trẻ đang lớn, trách nhiệm của cha mẹ là thường xuyên đem em đến chùa để có
thể gần gũi các thiện-trí-thức, nghe những bài giảng đơn giản và những bài
thuyết pháp; lợi lạc bắt ngưồn từ đó. Trong thời gian này đứa trẻ sẽ quen thuộc
với việc hành trì và sẽ cảm thấy thoải mái giữa bầu không khí thanh tịnh của
ngôi chùa. Lẽ dĩ nhiên đứa trẻ phải được mang đến chùa vào những khóa cầu phước
đặc biệt trong những dịp như ngày tựu truờng, ngày thi, sanh nhật và những dịp
vui khác. Khi đứa trẻ nghe những lời tụng kinh thường xuyên, chúng sẽ tự cảm
thấy lòng tin tưởng vô biên vì chúng hiểu tụng kinh đem lợi lạc và cảm thấy
được che chở. Cho nên chúng sẽ có khuynh hướng ngày một làm tốt hơn bất cứ công
việc gì phải làm, và kết quả, chúng không còn bồn chồn lo lắng mà cảm thấy vũng
tâm không còn khiếp sợ bị bỏ rơi không được giúp đỡ.
GIÁO
DỤC VÀ VĂN HÓA NGƯỜI PHẬT TỬ - HÀNH TRÌ.
Phương
thức hữu hiệu để trình bày các bài giáo lý cho các em về luân lý và đạo đức là
dùng các hình ảnh, các bức minh họa, các ký hiệu tôn giáo và các bài nói về
huyền thoại và các mẩu chuyện về Phật Giáo. Phương pháp này giúp cho nhiều
người nhớ lại, đặc bIệt các em nhỏ, khiến việc nhận thức giá trị Phật Giáo càng
tốt đẹp hơn. Những màn trình diễn trên sân khấu hay các bức hoạt họa mô tả lịch
sử, các huyền thoại về Đức Phật cũng tạo một ắn tượng tốt và trường cửu trong
đầu óc các em.
Dìu
dắt các em trên con đuờng chính đáng, các bậc cha mẹ phải tự mình làm gương và
phải sống một cuộc đời lý tuởng. Không thể nào có được các con em xứng đáng từ
nơi những bậc cha mẹ không xứng đáng. Ngoài phần khuynh hướng do Nghiệp quả,
các em cũng bị ảnh hưỏng bởi những tật xấu và phẩm hạnh của cha mẹ. Các bậc cha
mẹ hữu trách nên cẩn thận không nên truyền thừa cho con cái những nét tiêu cực
của mình.
Lời
khuyên của Đức Phật về truyền thống và tập tục là không nên chấp nhận hay bác
bỏ ngay bất cứ điều gì mà không thực hiện xem điều đó có ý nghĩa và hữu dụng
không. Điều này không cần nhấn mạnh về những phương pháp này khi một người đã
hiểu rõ Pháp và có một cuộc sống có ý nghĩa. Đức Phật dạy, dù phương pháp nào
mà chúng ta áp dụng để rèn luyện tâm trí, thái độ của chúng ta phải được coi
như một người đã dùng cái bè để qua sông. Sau khi vượt qua sông, người đó không
cần phải bám vào cái bè nữa mà bỏ lại bên bờ rồi tiếp tục cuộc hành trình.
Tương tự như vậy, việc thực hành văn hóa chỉ được coi như là phụ giúp cho việc
đạt cảm hứng chứ không phải là cứu cánh.
Việc
thực hành văn hóa của người Phật tử thay đổi từ nước này qua nước khác. Khi
thực hiện những truyền thống văn hóa này, chúng ta phải cẩn thận không nên phân
loại Phật Giáo như thuộc riêng rẽ của bất cứ một ai cả. Thí dụ như chúng ta
không nên phân biệt Phật Giáo Trung Hoa, Phật Giáo Tích Lan, Phật Giáo Nhật
Bản, Phật Giáo Thái Lan, Phật Giáo Miến Điện, hay Phật Giáo Tây Tạng. Phân biệt
tạo bất hòa, kỳ thị và hiểu nhầm. Chúng ta cũng nên nhận thức một số gọi là các
nhà lãnh đạo Phật giáo đang hết sức phát huy uy lực của mình với nhãn hiệu Phật
Giáo bằng cách áp dụng mọi dạng thức thực hành và quan niệm như bùa ngải, thần
thông, thần bí và siêu nhiên để bịp bợm quần chúng. Những hành động vô lương
tâm này được thực thi hoàn toàn không có những điều mà Đức Phật đã nói về việc
hành đạo.
Một
việc thực hành thông thường nữa giữa những người Phật Tử là tổ chức khóa lễ cầu
phước khi dọn về nhà mới. Bất cứ lúc nào khi dọn vào một khu gia cư mới, hay
rời chỗ ở, theo tập tục thông thường người Phật tử cung thỉnh các thầy đến làm
lễ cầu phước để bảo đảm nơi mới đến được che chở khỏi ma quỷ, mọi người đều
được an vui ;hạnh phúc, an lạc và hài hòa tỏa khắp nơi. Tương tự như vậy, các
buổi lễ cầu phước cững được thi hành khi bắt đầu khai truơng việc buôn bán hay
bất cứ lúc nào việc buôn bán đuợc khởi sự.
HÔN
NHÂN
Theo
Đức Phật, khi đứa trẻ đến tuổi trưởng thành, bổn phận của cha mẹ là phải tìm
kiếm một người vợ xứng đáng cho con cái. Lẽ dĩ nhiên việc này không còn là một
tập quán trong xã hội hiện đại, tuy nhiên cha mẹ vẫn là người giúp đỡ, hỗ trợ
khi đứa con bắt đầu tìm kiếm một ý-trung-nhân xứng đôi vừa lứa. Đây là dịp tốt
nhất cho cha mẹ không những giúp về vật chất mà còn cho con cái những lòi
khuyên kín đáo, hướng dẫn chúng trong việc chọn lựa người bạn đường thích hợp
hầu tránh được các các chông gai cạm bẫy trên đời. Nếu đứa trẻ thường xuyên đến
chùa, chúng có nhiều cơ hội để kết giao với các bạn Phật tử đồng lứa tuổi, cùng
nhau chia sẻ giá trị và lợi ích của tôn giáo và trở thành những người bạn đường
tốt.
Nhận
thấy nhiều Phật tử có khuynh hướng quên bổn phận thiêng liêng vào những dịp
quan trọng và thuận lợi nhất trong đời sống - hôn nhân. Theo phong tục tại các
nước Phật Giáo, các thầy thường được mời đến nhà trong dịp lễ hỏi để làm lễ cầu
phước. Lễ này có thể tổ chức trước hay sau ngày cưới. Lễ cưới thường đưọc tổ
chức tại nơi thị thực hôn thú hay tại các nhà đương sự. Mong mỏi tất cả các cặp
vợ chồng đều chu toàn bổn phận trên khi làm lễ cưới. Lễ vật dâng cúng đơn giản
như hoa, hương và nến đưọc dùng trong lễ cầu phước ngắn với sự có mặt của cả
cha mẹ đôi bên trai, gái, thân quyến và bạn hữu. Lễ cầu phước trên tổ chức vào
một ngày thuận tiện, chắc chắn là một đóng góp tinh thần đáng kể cho việc thành
công, an lạc, hài hòa, và hạnh phúc cho tân lang và tân giai nhân.
Mê
đắm không thôi không phải là một căn bản đầy đủ cho một hôn nhân thành công;
cho nên giới trẻ phải đuợc khuyên bảo thực thi phần tâm linh trước khi phát
nguyện. Khi một cặp tiến hành việc hôn nhân bằng cách theo đúng giáo lý, cặp đó
được kính trọng hơn về thể chế tổ chức, và đương nhiên cặp này quay về với tôn
giáo lúc tinh thần căng thẳng giao động để tìm thấy nguồn an lạc.
Sau
lễ cưới vui vẻ, cặp vợ chồng mới này phải tự chính mình cố gắng trở nên bậc cha
mẹ thuần thành có trách nhiệm về những đứa con tương lai của mình.
NGHI
THỨC TÔN GIÁO
Mặc
dù các nghi thức, lễ nghi và các cuộc lễ không được càc bậc trí thức tán đồng.
nhưng việc hành đạo này lại quan trọng trong việc phát triển và duy trì phương
diện thành tâm trong tôn giáo và tạo một ý niệm cảm hứng giữa quần chúng. Đối
với đa số, phát triển lòng thành tâm là bước quan trọng nhất đối với việc kinh
nghiệm học hỏi của một tôn giáo. Không có phương diện thành tâm và văn hóa gắn
liền với Phật Giáo, ta có thể bị sa ngã vào một niềm tin và hành đạo khác, dù
chúng ta nhận thức là việc hành đạo như vậy có thể tiến đến dị đoan và niềm tin
mù quáng.
Rất
quan trọng cho tôn giáo có một số nghi lễ không phương hại và một số thực hành
hữu lý cho con người để nói lên lòng thành và những cảm nghĩ tâm linh. Nhiều
cuộc lễ Phật Giáo giúp việc trau dồi các thói quen tốt và cảm nghĩ tích cực
giữa những tín đồ khiến họ trở nên những người khoan dung, thận trọng và học
thức hơn. Khi thi triển với sự hiểu biết và nghiêm chỉnh, việc thực hành nghi
lễ truyền thống như vậy làm vững mạnh thêm niềm tin không phải chỉ như ý kiến
của người trí thức. Phật Giáo không có thành tâm sẽ lạnh lẽo, rời rạc và trừu
tượng.
NHỮNG
ĐIỀU CẤM KỴ
Đa
số mỗi sắc dân đều có những điều cấm kỵ riêng của họ. Mỗi sắc dân đều có niềm
tin duy linh riêng của mình và bị ảnh hưởng lẫn nhau. Vì ngu si, sợ hãi và dị
đoan mỗi sắc dân có khuynh hướng chấp nhận niềm tin của người khác thay vì
nghiên cứu một cách hợp lý và loại bỏ nếu không thích đáng với xã hội hiện đại.
Chẳng hạn, nhiều cộng đồng Á Châu tin là không nên cắt móng tay lúc trời tối
hay gội đầu vào một số ngày nào đó trong tuần. Một số người nghĩ rằng sui sẻo
khi gập một nhà tu trọc đầu sáng sớm trong khi một số lại không quét nhà khi
trời đã tối. Họ còn tin là không nên mang thịt đi lúc ban đêm vì sợ hãi là có
thể thu hút ma quỷ. Một vài bậc cha mẹ khuyên con cái nên mang theo một thanh
sắt để tránh ma. Lại có những người tin là chó tru lên hay cú kêu ban đêm là
những điềm sui sẻo và nháy mặt bên trái là điềm gở. Một số người coi những việc
trên là những vấn đề nghiêm trọng. Nhưng những ai không lưu ý gì đến những việc
đó thì chẳng sợ hãi và chảng lo âu.
Thái
độ của người Phật tử về những niềm tin trên như thế nào? Suy nghĩ chính đáng
chấm dứt nơi đâu và dị đoan phát khởi ở đâu? Tất cả đều bắt nguồn từ sự sợ hãi
cái không biết của chúng ta. Đôi khi phải có lý do thực hành để quan sát một số
các niềm tin này. Chẳng hạn lý đương nhiên là không nên khuyên cắt móng tay vào
ban đêm chỉ vì, đơn giản ta có thể cắt vào tay lúc tối. Về việc lo sợ ma quỷ,
Đức Phật nói: Chừng nào mà chúng ta còn đem tình thuơng yêu đến tất cả chúng
sanh có mặt hay khuất mặt, chừng nào mà chúng ta không làm hại ai cả bằng cách
sống hòa hợp và tin tưởng vào sức mạnh của Pháp hay Chân Lý dẫn giải bởi Đức
Phật, và chừng nào mà chúng ta còn phát triển sự hiểu biết chánh đáng bằng cách
nghiên cứu Giáo Lý, thì không có gì có thể hại ta đuợc.
Trên
đây cũng có nghĩa là chúng ta phải phát triển lòng thành và tin tưởng đạo lý
bằng cách thuờng xuyên thăm viếng chùa, và bằng cách có những cuộc bàn thảo hữu
ích với các thầy để tăng phần hiểu biết về Pháp. Chùa là nơi mà ta đạt được
nhiều kiến thức và hiểu biết để loại bỏ dị đoan và nhổ tận gốc rễ niềm sợ hãi
quá đáng trong đầu óc các người vô tội.
BÙA
CHÚ VÀ MA THUẬT
Giữa
những cộng đồng Á Châu, rất là thông thường người dân cho rằng họ là nạn nhân
của ma thuật và bùa chú khi họ gặp bất hạnh trong đời sống. Khi thấy có điều gì
không vui xẩy ra, họ thường đi tìm các nhà bói toán, chiêm tinh gia, đồng cốt
và 'bùa ngải'. Đương nhiên đời sống của những người buôn bán về ma thuật, bùa
chú trông vào việc nói với khách hàng là có điều gì sai hay một vài ma lực xử
dụng bởi người nào đó đã mang rủi ro cho gia đình. Rồi họ bảo là họ có thể
chống lại các ma lực đó và đòi một số tiền lớn để chữa trị. Kết quả duy nhất là
túi tiền của các nạn nhân nhẹ dạ này càng ngày càng vơi đi và cuối cùng không
có một kết quả nào đạt được nơi người bói tướng kinh nghiệm này. Phật Giáo đại
chúng cũng không tránh khỏi những quỷ kế của bọn lang băm và bịp bợm, bọn này
đã dám đội lột các nhà sư để kiếm tiền của các nạn nhân nhẹ dạ. Cho nên Đức
Phật đã khẳng định là nhiều những bất hạnh của chúng ta được tạo ra chính bởi
tâm trí không thanh tịnh, không được huấn luyện và đường lối duy nhất để vượt
qua là do sự cố gắng mở mang trí tuệ và tầm hiểu biết của chúng ta.
Người
Phật tử sửa chữa các bất hạnh bất cứ loại nào một cách khoa học như các phương
pháp của khoa thần kinh trị liệu hiện đại. Cách này đã được tóm tắt trong Phần
Hai Tứ Diệu Đế - Nguyên nhân của Khổ đau (Tập). Trước khi chúng ta nhìn vào
việc chữa trị các bất hạnh (Không may, đau yếu, mất người mất của và khó khăn
gia đình) chúng ta phải biết gốc rễ sanh ra các điều này. Chúng ta phải quan
sát chính xác cái gì hiện tại đang xẩy ra và hiểu biết chỉ có chúng ta mới vượt
qua khỏi. Tập trung thiện chí, tâm trí sung mãn để hiểu nguyên nhân của vấn đề
hầu tìm đuợc giải pháp. Trường hợp đau yếu, một đầu óc bình tĩnh giúp việc trị
liệu đuợc mau chóng. Chỉ trông vào siêu nhiên để vượt khỏi các bất hạnh không
phải là một giải pháp thích ứng để chấm dứt khổ đau. Chúng ta phải bình tĩnh
phản ảnh biết rằng cái bất hạnh này đến với tất cả mọi người trên thế gian này,
chúng ta phải nhìn cái xẩy ra cho chúng ta một cách chính xác để tìm ra cách
giải quyết thích ứng. Không phải là do định mệnh - nhưng mỗi cá nhân, hãy sử
dụng Nổ Lực Đúng Cách (Chánh Tinh Tấn) có thể tự mình tránh khỏi bất hạnh.
HÌNH
ẢNH, NƯỚC THÁNH, XÂU CHUỖI, BÙA PHÉP VÀ THƯ PHÙ
Xã
hội ngày nay được giáo dục tốt hơn xã hội trước đây trong quá khứ, tuy nhiên
mặc dù những tiến triển rộng lớn trên bình diện kiến thức khoa học, nhiều người
vẫn đau khổ vì sợ hãi, nghi ngờ và bất an. Nguyên nhân gốc rễ là do trạng thái
của tâm thần xuất phát từ ngu si, giao động và tham dục. Vì ngu si về vô thường
và cái ta thường còn, chúng ta tin vào cái ngã của chúng ta và niềm tin này đưa
đến tham dục. Chúng ta ham muốn vô độ, sợ mất đi cái mà chúng ta đang có. Chúng
ta sợ hãi chúng ta sẽ bị hại hoặc chúng ta sẽ phải đối đầu với những "rủi
ro". Nghĩ như vậy chúng ta phải làm gì? Theo bản năng tự nhiên chúng ta
quay về với niềm duy linh quá khứ và trông mong vào bùa phép, thư phù để che
chở chúng ta. Đức Phật đã tuyên bố minh bạch là các vật bên ngoài không đủ sức
để che chở những ai tâm trí yếu đuối và bối rối. Nguồn an ninh duy nhất của
chúng ta là tìm nương tựa vào kiến thức về chân lý của chúng ta và vào việc
thực hiện bản chất thực tiễn của cái ta và các hiện tượng khác. Một khi chúng
ta hiểu được không có gì là của ta thì không có gì có thể hại ta, chúng ta trở
nên vững vàng và tự tin. Không có gì có thể hại người, nếu người đó không sợ
hãi, không vị kỷ hoặc không lừa dối.
Tuy
nhiên điều trên đây không có nghĩa là Phật Giáo kết tội việc sử dụng một số vật
liệu có tính cách tôn giáo như dây chuyền có hình ảnh Đức Phật cho chúng ta cảm
nghĩ an toàn. Nhiều bậc vĩ nhân tìm thấy niềm an ủi và khuây khỏa khi ngắm vẻ
thanh thoát và bình thản hình ảnh Đức Phật. Thủ Tướng Ấn Độ, ông Nehru cho biết
khi ông bị cầm tù bởi người Anh, nguồn an ủi duy nhất của ông là bức ảnh nhỏ bé
của Đức Phật mà ông mang theo. Đương nhiên, hình ảnh này tự nó không có phép
thần thông nhưng nó tượng trưng phẩm hạnh vĩ đại của Đức Phật, chính Ngài luôn
luôn bình tĩnh và không sao suyến bởi những cuộc tấn công của kẻ địch. Biểu
tượng này đã nhắc nhở ông Nehru dùng lòng dũng cảm của chính ông bình tĩnh đối
đầu trước nghịch cảnh. Cũng vậy, chúng ta có theo mang ảnh của Đức Phật hay
những lời ghi trong kinh khiến cho chúng ta lòng tin tưởng. Nhiều kinh ghi phần
kết thúc với lời cầu nguyện: "Bởi sức mạnh của chân lý này, phần thắng sẽ
về tôi" hay "Hạnh Phúc đến với tôi". Điều này cho thấy là Phật
tử chúng ta không tin tưởng vào sức mạnh của hình ảnh duy linh hay bùa chú,
nhưng (dây chuyền có tượng Phật và những đọan kinh) chỉ là để giúp cho chúng ta
đạt tin tưởng chính nơi chúng ta.
Cũng
giống như vậy, một số Phật tử tới chùa để xin nước thải và vài đọan dây được để
trên kinh được tập trung chí thành tụng niệm. Việc trên về tâm lý đem cho người
sử dụng sức mạnh và lòng tin tuởng vì nhắc nhở cho họ chân lý trình bày trong
kinh, những lời Phật dạy.
ỐM
ĐAU
Mới
đây có nhiều chỉ trích nhắm vào càc vị lãnh đạo Phật Giáo cho rằng những người
đau yếu không được quan tâm đến. Những lời chỉ trích nhấn mạnh là những tín đồ
tôn giáo khác đi từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để ủy lạo các bệnh nhân.
Việc lo lắng về những người đau ốm là một điều thực ra rất đáng được ca ngợi.
Trong những nước Phật Giáo, những người thành tâm mời các nhà sư đến viếng thăm
các người đau yếu, các nhà sư thực ra có thiện chí hơn thế nữa, sæn sàng giúp
đỡ về phương diện này. Thật ra các nhà sư thường thông suốt về việc dùng các
thuốc truyền thống, thường được tham khảo cố vấn và các nhà sư bao giờ cũng
tình nguyện giúp đỡ trong các việc này.
Vì
một số Phật tử không am tường đạo của mình để phản công lại chiến thuật của
những người đ?o khác, sự hờ hững của một số Phật tử này khiến một số tín đồ của
đạo khác lợi dụng tình trạng và quy nạp những người đạo Phật. Những người khác
đạo còn đi xa hơn nữa là hứa khả cứu rỗi và đem địa ngục ra dọa nạt các nạn
nhân theo đường lối như vậy để quy nạp họ! Các nhà sư Phật Giáo không dính líu
gì đến việc này cả. Tuy nhiên các nhà sư lúc nào cũng đầy thiện chí, khi được
các thân quyến bạn bè người đau yếu cung thỉnh, đến bệnh viện hay tư gia để
thăm viếng ủy lạo các bệnh nhân.
Ốm
đau là một phần và một mảnh đời sống thường nhật của chúng ta trên thế gian
này, và chúng ta phải chấp nhận trên con đường tiến bộ. Dù sao, trong trường
hợp một người bị đau, ngoài việc tìm cách chữa trị theo đường lối tiên tiến
hiện đại, việc nên làm là mời các nhà sư đến để làm lễ cầu an cho mau hết bệnh.
Việc cầu an này khi được tiếp nhận với một đầu óc thích nghi sẽ mang ảnh hưởng
tinh thần và tâm lý đáng kể cho bệnh nhân và việc hồi phục được mau chóng. Đặc
biệt, khi bệnh não có liên quan đến thái độ tâm trí người bệnh, lễ cầu an do
một vị sư giúp ích rất nhiều. Chẳng hạn khi tin tưởng nguyên nhân của bệnh là
do ảnh hưởng xấu bên ngoài hay do ma quỷ, lễ cầu an tạo một thái độ tâm lý rất
tốt đem đến các làn sóng (tâm linh) cho cơ thể giúp cho mau khỏi bệnh. Tuy
nhiên, là người Phật tử, chúng ta không nên tự chúng ta đầu hàng niềm tin sai
lầm ma quỷ là nguyên nhân chính của bệnh hoạn.
Lời
khuyên của Đức Phật: - " Bất cứ bao giờ thân bạn bệnh nhưng đừng dể tâm
trí bạn bệnh". Lời khuyên này quả thật rất đúng. Theo lời khuyên này,
chúng ta phải được hướng dẫn bằng trí thông minh và cảm nghĩ thông thường để
tìm phương thuốc thích hợp cho bệnh tật của chúng ta hơn là tự đầu hàng những
dị đoan vô căn cứ.
CHẾT
Con
người là phải chết và cái chết là điều phải đến. Tuy nhiên, rất ít người có thể
chấp nhận sự chia lìa hay sợ hãi xẩy ra sau cái chết.
Quá
nhiều ngu si giữa hàng Phật tử đối với cái chết và một số đã đổi đạo để được
một cuộc mai táng "thích đáng" để chắc chắn được mau về thiên đường.
Gia đình chia rẽ vì những đứa con theo đạo khác đã đổi đạo của cha mẹ khi cha
mẹ sắp chết trên giường bệnh. Một số con cái của Phật tử không uy quyền vì
không được học hỏi để biết người Phật tử chân chính phải làm gì. Cho nên rất
quan trọng cho các bậc cha mẹ phải di chúc rõ ràng ước nguyện của mình để dạy
con cái phải làm gì lúc lâm chung. Nhiều người ngu si đã kiêng cữ không dự tang
lễ trong một thời gian nào đó nghĩ rằng nếu không làm như vậy thì sẽ bị rủi ro.
Trẻ
em phải được biết ngay từ khi còn nhỏ chết là điều tự nhiên trong đời sống. Các
em phải được dạy không được sợ hãi khi nhìn thấy quan tài hay các tử thi. Các
em phải biết có ý thức trong tang lễ. Những điều trên đây nếu như không được
dạy bảo cho em khi các em lớn lên các em sẽ bị lạc lõng và sẽ bị các người tôn
giáo khác vô lương tâm lung lạc điều khiển em để em đổi đạo hay tiêu một số
tiền lớn vào các việc mê tín dị đoan vô nghĩa.
Trước
tiên chúng ta phải hiểu quan điểm của người Phật tử đối với cái chết. Nói theo
khoa học "Đời Sống" là một loạt lên xuống không ngừng. Tế bào trong
cơ thể ta chết liên miên và thay thế bởi các tế bào mới. Cũng như vậy, sanh và
chết phát hiện bất cứ lúc nào. Hiện tượng chết chỉ là một cuộc kết thúc gây xúc
động của cuộc tiến hành liên tiếp ấy. Nhưng kết thúc không thường còn. Thật ra
cái "Trội" lên liền sau khi chết tái sanh phát xuất. Cho nên trong
Phật Giáo cái chết không được gọi là an giấc ngàn thu trong tâm tư của một đấng
thần linh sáng tạo nào đó mà là cuộc tiếp diễn không ngừng trong một dạng thức
khác. Do vậy không cần thiết phải sợ hãi cái chết. Trong quan diểm này, Đức
Phật không mô tả nghi thức đặc biệt nào về việc sắp đặt tử thi. Tử thi của
người chết phải được đem đi trang nghiêm vá phải được đối xử thích đáng với
niềm kính trọng để tưởng nhớ người chết đã có công trong lúc còn sống. Hành
động quá khứ của người chết (Nghiệp) sẽ quyết định đời sống tương lai sẽ ra
sao.
Chúng
ta đội ơn những gì người chết đã phục vụ cho chúng trong lúc tại thế. Phiền
muộn nổi lên trong tâm trí chúng ta vì lẽ người thân mà chúng ta thương yêu ra
đi giữa chúng ta. Khi chúng ta tập họp chung quanh xác thân người thương yêu
của chúng ta, là bạn bè hay thân quyến chúng ta tìm nguồn an ủi nơi những người
cũng đến chia sẻ nỗi buồn đau và ủng hộ tinh thần chúng ta trong giờ phút đau
buồn. Những việc thực hành văn hóa khác nhau (trong tang lễ) rất hữu ích để
giảm thiểu niềm đau thương của chúng ta.
TRƯỚC
TANG LỄ
Ngày
nay chết trong truờng hợp đặc biệt phải cần đến sự điều tra thì việc thực hành
thông thường tại các bệnh viện giảo nghiệm tử thi để kiểm soát nguyên nhân. Đôi
khi thân quyến phản đối việc này và cho rằng cắt mổ tử thi là phạm thánh. Với
người Phật tử không có lý do tôn giáo nào mà phải phản đối việc này. Đúng ra,
việc làm trước tang lễ này giúp cho người sống, cho các nhân viên chuyên môn y
khoa có được nhiều hiểu biết hơn để chữa trị các bệnh tật. Việc làm này phải
được coi như một công đức về phần người Phật tử. Như đã nói trước đây, xác thân
vật lý chẳng là gì cả mà chỉ là hỗn hợp của các chất (đất, nước, gió, lửa) sẽ
phân hủy khi chết. Cho nên không có lý do nào mà phải tin rằng linh hồn của
người chết sẽ tức giận khi xác thân được sử dụng vào mục tiêu khoa học. Chúng
ta có thể an tâm chắc chắn là các bác sĩ và các người chuyên môn đều có tinh
thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, rất thận trọng trong việc giảo nghiệm tử
thi nên các thân nhân không cần lo lắng về vấn đề này. Có nhiều người tình
nguyện khi chết cho bệnh viện và các sinh viên y khoa tử thi để nghiên cứu việc
giải phẫu.
Trong
việc liên quan trên đây, phải được coi là một công đức cao cả của người Phật Tử
khi cho những bộ phận cơ thể mình sau khi chết để có thể giúp ích cho người
khác. Chính Đức Phật nhiều lần trong tiền kiếp Ngài đã cho xác thân của Ngài để
người khác được lợi lạc. Ngài đã cho mắt, máu, thịt và một lần Ngài đã cho cả
xác thân để cứu nguời khác. Phật Giáo rất minh bạch về vấn đề này - việc tặng
các bộ phận của cơ thể đem lợi ích cho người khác là một công đức vĩ đại, được
nhiệt liệt khuyến khích.
TANG
LỄ
Trong
hầu hết các xã hội văn minh có văn hóa, tang lễ được coi là dịp buồn phiền,
trang nghiêm. Tang lễ của người Phật tử phải được cử hành trang nghiêm theo
tinh thần ấy.
Dị
đoan lan tràn giữa một số người cho là "rủi ro" khi mang về nhà tử
thi chết ở một nơi nào đó. Chúng ta chắc chắn phải tỏ lòng kính trọng tưởng nhớ
đến người chết và phải quý trọng tử thi, và tang lễ phải được cử hành tươm tất.
Tử thi mang về nhà hay không mang về nhà tùy theo gia đình tang quyến. Trong
việc này, chúng ta cũng phải nêu lên là không sợ hãi hay kiêng cữ gì về việc
điều động tử thi. Một số người sợ hãi chạm vào tử thi e ngại bị "rủi
ro". Nếu quả là như thế thì các bác sĩ và các y tá điều dưỡng phải là
những người đau khổ nhất trên trái đất! Nếu thực tình chúng ta muốn tôn kính
tưởng nhớ người ra đi chúng ta phải tắm rửa và mặc quần áo cho người chết và
không để một người lạ hay nhà hòm làm việc này cho chúng ta. Phải nhớ rằng, dị
đoan, ngu si, và sợ hãi vô lý mang nhiều "rủi ro" đến hơn là biết ơn,
thương yêu và khiếu thẩm mỹ.
Trái
với niềm tin thông thường đại chúng, tang lễ ồn ào, trau chuốt, và đôi khi phô
trương, hay những tang lễ tưng bừng tốn kém cả ngàn đồng về những thứ không cần
thiết mà xưa này đưọc coi như việc làm bình thường của người Phật tử mà thực ra
việc thi triễn này không phải là Phật giáo chút nào cả. Đó là một quan niệm
hoàn toàn sai lầm đem thực thi các việc trên đây vào Phật Giáo. Việc thực hành
này chỉ là sự tiếp diễn không ngừng của tập quán cổ xưa truyền thừa từ thế hệ trong
quá khứ được sát nhập một cách mù quáng. Khi nhìn một đám tang với các nghi lễ
trên các người đạo khác thường tưởng rằng cái mà họ đang đưọc mục kích là một
cuộc vui diễu hành nào đó hơn là một tang lễ trang nghiêm.
Thường
thường một loại nhạc rộn ràng đưọc áp dụng thay loại trang nghiêm trong lúc
tiễn đưa linh cữu. Cho nên người ta có cảm tuởng đây là một cuộc lễ có tính
cách trình diễn phô trương giàu có hơn là để bầy tỏ sự buồn đau chân thật kính
trọng người quá cố. Phật Giáo không phản đối việc việc duy trì các việc thực
thi văn hóa nếu những việc thực hành này không mâu thuẫn với giáo lý của Đức
Phật nhưng khi thấy các điều đó thực hành phí phạm, hoang phí và không cần
thiết không đem lợi ích gì cho cả người sống lẫn người chết thì không tán đồng và
nên loại bỏ. Chẳng hạn tập tục về việc đốt vàng mã, giấy tiền, nhà táng, với
mục đích để cho người chết sử dụng bên kia thế giới hoàn toàn không Phật giáo
chút nào. Tuy nhiên trên phuơng diện tâm lý có thể giảm thiểu nỗi buồn đau,
đương nhân có thể làm điều gì có thể đem lợi lạc cho người ra đi nếu điều đó vô
hại và không nên có hành động cực đoan tin tưởng rằng điều đó dù sao cũng giúp
ích người ra đi.
Phật
Giáo không phản đối các cộng đồng thi triển tang lễ khác nhau thích hợp cho
từng địa phương và thời điểm. Nhưng điều quan trọng nhất là các tang lễ phải
được khả thi và chấp nhận là có văn hóa.
Nghi
lễ áp dụng trong một tang lễ Phật Giáo phải đơn giản, trang nghiêm, có phẩm
cách và ý nghĩa. Tại nhiều quốc gia các nhà sư Phật Giáo được mời đến nhà tang
quyến để thực thi một số nghi thức trước khi tang lễ. Cúng hoa và đốt một vài
ngọn nến hay vài nén nhang được chấp thuận trong trường này.
Thep
tục lệ, để tỏ lòng tôn kính người ra đi, bạn bè và thân quyến gửi những vòng
hoa chia buồn tang quyến. Những vòng hoa này không nên gửi đến vào trước ngày
tang lễ được cử hành vì hoa gửi sớm sẽ bị héo. Khi tang quyến thông báo
"không nhận hoa" thì điều này phải đuợc triệt dể tuân theo.
Vì
lẽ thân quyến thưòng có những ý kiến khác nhau cho nên có nhiều tranh luận trong
việc thực hành tang lễ. Những câu hỏi sau đây thường được nêu lên:
1.
Nên chôn hay hỏa táng?
2.
Nếu hỏa táng, phần tro cốt còn lại phải làm gì?
3.
Nên dùng loại quan tài nào?
4.
Phải mặc đồ đen hay đồ trắng?
5.
Nến phải dùng màu gì, đỏ hay trắng?
6.
Xác có thể để ở nhà bao nhiêu ngày trước khi chôn hay hỏa táng?
7.
Chi phí tối đa cho một tang lễ là bao nhiêu?
Những
câu hỏi trên đây được trả lời một cách đơn giản nhu sau:
Tang
lễ phải cử hành đơn giản, ồn ào giảm thiểu đến mức tối đa, nhưng phải có phẩm
cách. Có lẽ điều hợp lý nhất là thân quyến gần nhất với người qúa cố và một số
bè bạn thân cận nên cùng nhau thảo luận trong một cuộc họp bất thường để tìm ra
phương cách tốt nhất trong việc sắp xếp cử hành tang lễ cho thích hợp, thịnh
hành, trịnh trọng và không gây các món chi tiêu không cần thiết. Nếu như không
thể cùng nhau hội họp như trên thì điều tốt hơn là nên để cho một nhà thầu nhận
việc chung sự được tín nhiệm đảm nhiệm cho vì những người này họ biết phải làm
những gì và như vậy thân quyến đỡ gặp khó khăn trở ngại. Điều khuyên tốt là có
thể tìm đến một nhà sư khả kính và nhờ vị này hướng dẫn gia đình cách thúc tốt
nhất để sắp xếp việc tang lễ đứng theo đuờng lối của Phật Giáo. Nên nhớ là cho
đến nay, nghi lễ trong Phật giáo không có luật lệ gì khó khăn và cấp tốc mà
phải triệt để thi hành. Trong tất cả mọi vấn đề chúng ta luôn luôn theo lời dạy
của Đức Phật để duy trì điều độ và tôn kính trong bất cứ điều gì chúng ta làm
không gây thiệt hại cho nguời khác. Nếu chúng ta suy gẫm biết ơn đến điều thiện
do nguời quá cố đã làm trong lúc còn tại thế, và không quên chính chúng ta một
ngày nào đó phải ra đi nên chúng ta phải cố gắng làm điều tốt trong lúc còn
sống thì việc đóng góp của chúng ta sẽ có nghĩa lý và được quý trọng
Cách
ăn mặc đúng cách trong tang lễ như thế nào? Trong Phật Giáo, chúng ta bao giờ
cũng được khuyến bảo phải ăn mặc tề chỉnh và vừa phải. Không có luật lệ cứng
rắn hay chặt chẽ nào bắt chúng ta phải ăn mặc như thế nào trong tang lễ, tuy
nhiên phương diện thẩm mỹ dạy chúng ta nên ăn mặc mầu tối và tránh các trang
sức trong ý niệm tôn kính cảm nghĩ của tang gia và tưởng nhớ đến người quá cố.
Phụ nữ trong tang chế vẫn có thể đeo nhẫn cưới hay nhẫn hứa hôn. Tốt nhất là
mặc đồ đen, trắng, sám hay các mầu tương tự, vấn đề hoàn toàn do cá nhân quyết
định trong ý niệm sở hữu dù đồ đen thường được công nhận tượng trưng trong lúc
tang chế.
Xác
chết nên giữ bao lâu trước khi chôn hay hỏa thiêu? Với người sống trong khí hậu
nóng và ẩm thấp, chúng ta hiểu rằng phân hủy mục rữa rất nhanh nên việc giữ xác
lâu mất vệ sinh. Ngoài ra, việc giữ lâu khiến cho tinh thần thân nhân bị căng
thẳng vì phải kề cận xác chết trong một thời gian dài quá lâu thực ra không cần
thiết. Cũng có một số thân nhân vì quá đỗi đau thương đã hôn hay sờ mó xác chết
quá đáng. Đành rằng cảm nghĩ tình cảm cao độ với người quá cố mà thân nhân phải
chịu đựng, nhưng tình cảm này không nên quá mức và không nên khuyến khích. Khi
không được chỉ bảo ta phải giữ xác bao lâu cho đúng, ta cũng nên khôn ngoan
không nên kéo dài các lễ nghi. Theo luật lệ thông thường, thời gian việc giữ
xác chết chỉ vào khoảng một hay hai ngày đủ để sửa soạn việc tang lễ cũng như
để thông báo cho bạn bè thân quyến.
Vào
ngày chôn cất, các nhà sư Phật Giáo được mời đến để triển khai các nghi thức
tôn giáo cần thiết tại nhà và tại nghĩa địa. Có một số người đem heo hay gà
quay tượng trưng những phẩm vật cúng cho người quá cố. Việc làm này không nên
tán thành trong Phật Giáo vì đưa đến sự giết hại các loài vật vô tội. Đem hy
sinh các con vật để dâng cúng cho người ra đi phản lại giáo lý từ bi của Đức
Phật nên phải được loại bỏ. Đơn giản với một vài tràng hoa cùng với vài nén
nhang và đèn nến đủ để tượng trung cho các phẩm vật dâng cúng.
CHÔN
VÀ HỎA TÁNG
Nhiều
Phật Tử hỏi là nên đem chôn hay hỏa táng người chết. Phật Giáo là một tôn giáo
tự do nên linh động trong vấn đề này. Không có luật lệ cứng rắn hay bắt buộc
trong vấn đề này. Tuy nhiên tại một vài xứ Phật Giáo, việc hỏa thiêu thuờng
được thi hành. Việc lựa chọn cách này hay cách khác tùy thuộc nguyện vọng cuối
cùng của người quá cố hoặc ý muốn của người thân nhân.
Theo
quan niệm hiện đại, hỏa táng là một hình thức rất vệ sinh, nên cần được khuyến
khích. Vì y tế được cải tiến, vì nạn nhân mãn, đất đai ngày càng hiếm có, cho
nên việc hỏa táng thích hợp hơn. Nên để đất cho người sống hơn là xây đầy những
mộ chí.
Dù
chôn cất hay hỏa táng, một số người nặng tình cảm, ưa bỏ những vật dụng quí giá
vào quan tài ngưòi chết với hy vọng rằng người chết sẽ dùng đến. Việc chôn hay
hỏa thiêu những vật quý giá như vậy không có nghĩa lý gì hết. Thay vì bỏ những
vật dụng đó vào quan tài hay lò thiêu, tốt hơn là đem quần áo, giầy dép, và
những thứ khác cho những người nghèo khổ, khốn cùng, hoạc tặng các hội tù
thiện. Bất cứ sự giúp đỡ nào cho người nghèo và người túng quẫn là một hành
động đáng khen vì có lợi cho cho cả người sống lẫn người chết. Việc sợ hãi
không dám cho kẻ khác dùng đồ vật của người chất thật vô nghĩa và sai lầm.
LƯU
GIỮ TRO CỐT
Câu
hỏi thường được đặt ra là có nên chôn tro cốt, gìn giữ để thờ cúng hay hay đem
rắc xuống biển. Đức Phật không để lại một chỉ thị rõ ràng về vấn đề này. vì
Ngài muốn chúng ta hiểu xác thân chỉ là sự hỗn hợp của vật chất và sau khi
chết, những thứ này lại trỏ thành những nguyên tố. Đức Phật dạy xác thân là do
các nguyên tố Đất, Nước, Gió Lửa lập thành. Sau khi chết, hai chất còn lại là
Đất và Nước trở thành tro sau khi thiêu, không còn một ý nghĩa về tâm linh gì
cả. Vì di thể của nguời chết là những người ta thuơng yêu, nên chúng ta phải
kính trọng. Nhưng chúng ta phải hiểu là không nên quá xoắn-xít quanh những di
thể này, hoặc nghĩ rằng dầu sao chúng ta chẳng còn liên hệ gì với người đã
chết. Kinh Phật dạy rằng sau khi ta chết, linh hồn hay (thần thức) thoát khỏi
thân xác, và gá vào một thân xác khác ở một nơi nào đó.
Việc
lưu giữ xác chết có từ hồi xa xưa của chúng ta. Vào thời đó, người ta tin rằng
linh hồn bất tử. Trường hợp những nguời Ai Cập ướp xác vì họ hy vọng người chết
vẫn còn có thể liên lạc được với người sống. Những lăng mộ vĩ đại và những lâu
đài đuợc xây dựng để gìn giữ xác chết. Nhưng những việc thực hành này chỉ dành
cho các nhân vật quan trọng như vua chúa và các vị lãnh đạo tôn giáo. Phần còn
lại, xác chết của dân chúng chỉ được chôn cất sao cho thuận tiện,
Trái
lại một tập tục khác gọi là thờ cúng Tổ-Tiên. Theo đó, người sống liên lạc với
người chết qua nhũng tập tục lễ nghi chung quanh bàn thờ người chết. Điều này
đưa đến việc lưu giữ tro cốt trong bình hoặc đồ thờ. Việc làm này vẫn còn được
thi hành cho đến ngày nay.
Một
số người thích thờ cúng tro cốt trong nhà, một số người khác lại đem chôn, hoặc
đem tro cốt rắc xuống bIển hay xuống sông. Đây là tập tục căn bản của Ấn Độ
Giáo vì họ tin rằng tro cốt cuối cùng sẽ hợp nhất với lực đã khai sáng ra nó.
Áp
dụng một trong nhũng phương pháp trên không có gì hại cả. Nhưng chúng ta đừng
quên là Phật tử, chúng ta phải áp dụng phương pháp nào. Chúng ta cũng đừng hiểu
lầm rằng để tro cốt ở những nơi thiêng liêng như chùa chiền, người quá vãng sẽ
được "an toàn" vì không bị nghiệp lực lôi kéo. Việc để tro cốt trong
chùa chẳng có gì hơn ngoài việc biểu lộ sự kính trọng với người đã khuất. Trong
Phật đạo. việc giữ tro cốt người quá cố hoàn toàn do tang quyến định đoạt tùy
theo sỡ thích và lễ nghi.
THỜI
GIAN ĐỂ TANG
Khi
một người chết, thân nhân thường dành một thời gian để tang. Thời gian này tùy
theo sự liên hệ của người quá cố với những thân quyến trong gia đình có tang .
Trong thời gian này, thân nhân phục sức theo một lối nào đó, tránh các hội hè,
đình đám và du hý. Một số người mặc đồ trắng, một số khác mặc đồ đen, một số
không tham dự các lễ cưới hay những tiệc tùng thời gian một năm vân vân.. Việc
trên không phải là đặc lệ của người Phật Tử phải áp dụng vì kinh Phật không hề
nói đến. Tuy nhiên các cộng đồng đã đặt ra một số nghi thức riêng biệt căn cứ
theo tập tục văn hóa của mình, và được chấp nhận là của "Phật Tử".
Hậu ý của họ là để tưởng niệm người quá vãng, nhắc nhở việc tử vong của chính
mình, và phát triển nguồn tỉnh giác tâm linh. Nếu áp dụng một cách sáng suốt,
và nếu các việc thực thi không làm trở ngại gì đến cuộc sống, là Phật Tử, chúng
ta không có lý do gì để phản đối. Con Đường của Người Phật Tử Là Con Đường
Trung Đạo, Con Đường Điều Độ Trong Tất Cả Mọi Việc.
NGHI
THỨC SAU TANG LỄ VÀ CÁC BUỔI LỄ TƯỞNG NIỆM.
Rồi
có những câu hỏi về nghi thức sau tang lễ. Một số người cầu nguyện cho người
chết vào ngày thứ bẩy, ngày thứ 49, vào ngày thứ 100, trong khi một số người
khác, ngoài việc làm lễ cầu nguyện vào ngày thứ bẩy, còn làm lễ sau ba tháng và
một năm. Một số người tin tưởng là thần thức người chết có thể trở về vào những
thời gian đặc biệt đó. Tin hay không tin, việc đó không quan trọng với chúng
ta. Một buổi lễ để tuởng niệm người quá cố, đưọc bạn bè và tang quyến tham dự
cùng nhau chia sẻ về tâm linh, hỗ trợ tinh thần và làm vơi nỗi đau buồn của
thân nhân rất là cao quí. Các buổi lễ như vậy không cần thiết phải được tổ chức
vào một ngày đặc biệt nào đó. Bất cứ ngày nào thuận tiện cho tất cả mọi người
là đủ để chấp nhận được cho việc tổ chức buổi lễ này.
NGÀY
CÔ-HỒN không phải là danh từ hay việc tập tục của Phật Giáo. Tuy nhiên đó là
một việc làm tốt khi cả cộng đồng dành một ngày riêng biệt để tuởng niệm những
người quá cố, cùng nhau làm sạch sẽ các nghĩa địa và dâng hoa để tể tỏ lòng tôn
kính. Việc này cho thấy con cháu người quá cố tỏ lòng hiếu thảo và làm tròn
nhiệm vụ đối với Tổ tiên. Phật Giáo không hề phản đối việc bày tỏ lòng biết ơn
và tưởng nhớ cao đẹp này khi những hành động đó giúp các giới trẻ tỏ bày lòng
tôn kính những người già cả, và tích cực thực thi truyền thống vinh danh hương
hồn Tổ tiên. Tuy nhiên, việc một số người gây ấn tượng sợ hãi là nếu không thi
hành những tập tục nói trên, người chết sẽ hiện về hành hạ và nhiễu loạn thân
quyến là hoàn toàn vô căn cứ.
BỐ
THÍ CÚNG DƯỜNG
Trong
hầu hết các cộng đồng, các buổi lễ tôn giáo thường đuọc thi hành trong một thời
gian theo sau tang lễ. Việc làm này của người Phật Tử là góp phần trong phần
cúng dường và hồi huớng công đức cho người quá cố. Thân nhân tang quyến và một
số bạn bè thường mời các nhà sư và dâng cúng vật dụng cần thiết như thực phẩm
và thuốc men. Việc dâng cúng này góp phần vào đời sống vật chất của các vị
thánh thiện được coi như là một hành động công đức. Những người Phật Tử hiểu
biết còn tặng phẩm vật cho các tổ chức từ thiện, các người túng bấn, và các kế
hoạch xây dựng cơ sở tôn giáo cũng như tặng không kinh sách tôn giáo cho dân
chúng để tưởng nhớ mãi mãi đến người đã khuất. Những người thành tâm dâng cúng
với một tấm lòng khẩn thiết, tâm địa họ trở nên phóng khoáng. Họ có những hành
động tốt như vậy là để tưởng nhớ và tạo sợi dây liên lạc tâm linh với người quá
cố. Nếu người quá vãng ở trong một vị thế thuận lợi để tiếp nhận các nguồn sóng
tâm linh (hồi hướng công đức), họ sẽ nhiều điều lợi lạc. Mặt khác nếu họ không
ở trong một môi trường thuận lọi, những việc thiện đó cũng không phí phạm vì nó
giúp cho người sống, một khi đã có tư tưởng tốt, sẽ có một tâm hồn cao đẹp. Các
nhà sư Phật Giáo tại bất cứ chùa nào lúc nào cũng sæn sàng khuyến cáo tang
quyến phải làm những điều cần thiết trong việc cúng duờng .
KẾT
LUẬN
Chúng
tôi tha thiết hy vọng các bậc lãnh đạo Phật Tử địa phương nhận thức được một số
tập tục nói trên đang thịnh hành có tính cách tiêu cực và thành kiến, ngõ hầu
cải tạo để cho bất cứ những tập tục nào mà chúng ta thi hành phải có đầy dủ ý
nghĩa. Các bậc lãnh đạo của chúng ta nên đánh giá lại những tập tục hiện hành
và nhận thức những điều khẩn thiết để cải tổ việc giáo dục quần chúng và việc
phổ biến rộng rãi mục tiêu này.
-
[HẾT] -
No comments:
Post a Comment