Tác Giả: ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA và Bác Sĩ HOWARD C.
CUTLER
Dịch Giả: Tỳ kheo THÍCH TÂM QUANG
Dịch Giả: Tỳ kheo THÍCH TÂM QUANG
PHẦN II
NHIỆT TÌNH VÀ TÌNH THƯƠNG CỦA CON NGƯỜI
(tiếp theo)
(tiếp theo)
CHƯƠNG 7
GIÁ TRỊ VÀ LỢI ÍCH CỦA TỪ BI
ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪ BI
Khi các cuộc thảo luận của chúng tôi tiếp diễn, tôi khám phá thấy
sự phát triển từ bi đóng một vai trò trong cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma lớn
hơn chỉ là phương tiện để trau dồi cảm nghĩ nhiệt tình và tình cảm, một phuơng
tiện cải thiện mối quan hệ với người khác. Thực ra rõ ràng, là với tư cách một
người Phật Tử đang tu hành, phát triển lòng từ bi là một phần tối thiết trên
con đường huân luyện tinh thần của Ngài.
"Vì tầm quan trọng đó mà Phật Giáo coi từ bi là một phần
thiết yếu trong việc phát triển tinh thần", tôi hỏi" Ngài có thể định
nghĩa rõ ràng hơn cái mà Ngài gọi là từ bi?
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Từ bi có thể định nghĩa đại thể
là trạng thái tâm không dùng bạo lực, không làm hại ai, và không hiếu chiến. Đó
là một quan điểm tinh thần căn cứ vào sự mong muốn người khác thoát khỏi khổ
đau, và kết hợp với ý thức tận tâm, trách nhiệm và tôn trọng đối với người
khác. "Bàn đến định nghĩa về từ bi, tiếng Tây Tạng từ Tse-wa cũng có nghĩa
là trạng thái tâm bao gồm một sự mong ước điều tốt lành cho chính mình. Trong
việc phát triển từ bi, ta có thể bắt đầu bằng mong ước cho chính mình thoát khỏi
khổ đau, và rồi thì đem cảm nghĩ tự nhiên này hướng về chính mình, trau dồi và
nâng cao nó, mở rộng nó ra cho cả những người khác.
"Bây giờ, khi người ta nói đến từ bi, tôi nghĩ rằng thường
có nguy cơ lầm lẫn tình thương với lòng quyến luyến. Cho nên khi thảo luận về từ
bi, trước tiên chúng ta phải phân biệt hai loại thương yêu hay tình thương. Một
loại tình thương nhuốm màu luyến ái - cảm tưởng kiểm soát ai đó, hay thương yêu
một người nào đó để người đó yêu lại mình. Loại thương yêu hay tình thương
thông thường này khá không công bằng và thiên vị. Và sự quan hệ chỉ dựa vào điều
đó không vững bền. Loại quan hệ thiên vị dựa vào quan sát và nhận biết người đó
là bạn, có thể dẫn đến một sự gắn bó cảm xúc nào đó và cảm nghĩ muốn gần gũi.
Nhưng trong tình trạng ấy chỉ cần nếu có một sự thay đổi nhỏ như bất hòa, hay
người bạn làm điều gì đó khiến cho bạn tức giận, thì đột nhiên tất cả dự định
tinh thần đều thay đổi, khái niệm"bạn tôi" không còn nữa. Rồi bạn sẽ
thấy sự gắn bó cảm xúc đó tan biến, và thay vì cảm giác thương yêu và lo lắng,
bạn có cảm nghĩ căm ghét. Cho nên loại tình yêu dựa vào sự quyến luyến, có thể
dính chặt chẽ với hận thù.
"Nhưng có một loại từ bi thứ hai không có sự gắn bó quyến
luyến như thế. Đó là từ bi chân chính. Loại từ bi này không dựa nhiều vào việc
người này hay người kia thân mật với tôi. Đúng hơn là, từ bi chân chính dựa vào
nhân tố căn bản là tất cả mọi người đều có một ham thích bẩm sinh muốn hạnh
phúc và khắc phục khổ đau, giống như chính tôi. Và cũng giống như chính tôi, tự
nhiên họ có quyền thực hiện nhiệm vụ khao khát căn bản này. Trên cơ sở công nhận
định sự bình đẳng và tính phổ biến của con người, bạn phát triển ý thức quan hệ
và gần gũi với người khác. Trên cơ sở đó, bạn cảm thấy từ bi dù bạn nhìn người
khác là bạn hay thù cũng vậy. Nó căn cứ trên quyền căn bản của con người hơn là
dự tính tinh thần riêng của bạn. Trên cơ sở đó, bạn tạo ra tình thương và từ
bi. Đó là từ bi chân chính.
"Vậy ta có thể thấy cách phân biệt giữa hai loại từ bi này
và trau dồi từ bi chân chính rất là quan trọng trong đời sống hàng ngày. Chẳng
hạn, trong hôn nhân thường có thành phần gắn bó tình cảm luyến ái. Nhưng tôi
nghĩ rằng nếu có thành phần từ bi chân chính, dựa vào vào sự tôn trọng lẫn nhau
như hai con người, hôn nhân sẽ lâu dài. Trong trường hợp gắn bó tình cảm không
có từ bi, hôn nhân không vững vàng bằng và có thể chấm dứt mau chóng hơn
".
Ý định phát triển một loại từ bi khác, phổ quát hơn, một loại từ
bi có đặc điểm chung là tách khỏi cảm nghĩ cá nhân, dường như giống một nhiệm vụ
quá nặng. Đắn đo như thể nói ra, tôi hỏi,"Nhưng tình yêu và từ bi là cảm
nghĩ chủ quan. Dường như sắc thái tình cảm hay cảm nghĩ về tình yêu và từ bi
thì cũng như nhau dù chúng có pha chút luyến ái hay "chân thành". Vậy
nếu một người kinh qua cùng một cảm xúc hay cảm nghĩ giống như thế trong cả hai
loại, tại làm sao phân biệt giữa hai loại lại quan trọng?
Bằng một giọng dứt khoát, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Trước
nhất tôi nghĩ rằng nét khác biệt giữa cảm nghĩ thương yêu chân chính hay từ bi
và thương yêu căn cứ vào sự gắn bó. Nó không phải là cảm nghĩ giống nhau. Cảm
nghĩ về từ bi chân chính mạnh mẽ hơn và rộng lớn hơn nhiều, nó có đặc tính rất
sâu sắc. Ngoài ra tình yêu và từ bi chân chính vững vàng hơn nhiều và đáng tin
cậy hơn. Thí dụ nếu bạn nhìn thấy một con vật đang bị đau đớn hết sức như con
cá đang quằn quại vì lưỡi câu, cùng lúc bạn có thể có cảm nghĩ không thể chịu đựng
được cái đau đớn như con cá đó. Cảm nghĩ đó không căn cứ vào mối liên tưởng đặc
biệt nào đến riêng con vật đó, một cảm nghĩ, "Ô, con vật đó là bạn
tôi". Trong trường hợp đó lòng từ bi của bạn chỉ dựa vào sự thật là chúng
sanh cũng có cảm giác đớn đau, và có quyền không chịu cái đau đớn như vậy. Cho
nên loại từ bi này không hòa lẫn với ham thích và luyến ái, có cơ sở hơn, và
lâu bền hơn."
Đi sâu vào chủ đề từ bi, tôi tiếp tục: "Bây giờ theo thí dụ
của Ngài khi nhìn thấy một con cá hết sức đau đớn vì lưỡi câu móc trong miệng
nó, Ngài đã nêu ra vấn đề chính yếu - liên quan đến cảm nghĩ không thể chịu đựng
được cái đau đớn của con cá"
"Đúng" Ngài trả lời."Thực ra, trong một ý nghĩa
nào đó ta có thể định nghĩa từ bi là cảm nghĩ không thể chịu đựng nổi khi nhìn
thấy người khác khổ đau, những chúng sanh khác khổ đau. Và để tạo ra cảm nghĩ ấy
ta phải cảm nhận tính chất nghiêm trọng hay trạng thái đau khổ của người khác.
Vì vậy, tôi nghĩ là càng thấu triệt sự đau khổ, các loại đau khổ mà chúng ta phải
chịu, thì mức độ từ bi càng sâu ".
Tôi đưa ra câu hỏi: "Được, tôi đánh giá cao sự thật là càng
nhận thức được khổ đau của người khác có thể nâng cao khả năng có tâm từ bi. Thực
ra, theo định nghĩa, từ bi đòi hỏi mở rộng lòng mình trước sự khổ đau của người
khác. Chia sẻ nỗi khổ đau của người khác. Nhưng có một câu hỏi căn bản hơn: Tại
sao chúng ta chạnh lòng trước cái khổ đau của người khác mà lại không quan ngại
đến khổ đau của chính chúng ta? Tôi muốn nói là đa số chúng ta sẵn sàng làm mọi
việc để tránh cái đau đớn và khổ đau của chính mình, thậm chí đến chỗ dùng ma
túy vân vân... Tại sao chúng ta lại cố ý quan tâm đến khổ đau của người khác?
Không chút ngập ngừng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: "Tôi
nghĩ rằng có sự khác biệt quan trọng giữa cái khổ đau của chính mình và cái khổ
đau mà bạn có thể nếm trải trong trái thái từ bi khi bạn quyết định chia sẻ niềm
đau của người khác - khác biệt trong tính chất". Ngưng một chút, và như thể
là dễ dàng nhằm vào cảm nghĩ riêng tư của tôi, Ngài tiếp tục: "Khi bạn
nghĩ về đau khổ của chính bạn, bạn có cảm giác hoàn toàn bị lân áp. Có cảm giác
nặng trĩu, bị cái gì đó dồn ép - một cảm tưởng bất lực. Có một sự buồn nản, cứ
như thể là tất cả năng lực của bạn đã trở thành tê liệt.
"Bây giờ, để tạo ra lòng từ bi, khi bạn nhận lấy cái khổ
đau của người khác, bước đầu bạn cũng có thể thấy khó chịu ở một mức độ nào đó,
một cảm giác bực bội hay không chịu đựng nổi. Nhưng trong trường hợp có lòng từ
bi, cảm giác lại khác hẳn., bên dưới cảm nghĩ khó chịu là tính hoạt bát quyết
tâm ở mức độ rất cao vì bạn tự nguyện và chủ ý chấp nhận cái khổ đau của người
khác vì mục đích cao cả hơn. Bạn sẽ thấy liên đới và ràng buộc, chìa tay ra
giúp người khác, một cảm giác sảng khoái chứ không buồn nản. Giống như người lực
sĩ trong khi tập luyện nghiêm ngặt, người lực sĩ phải trải qua nhiều thứ - lập
kế hoạch, đổ mồ hôi, gắng sức. Tôi nghĩ rằng nếm trải điều đó đúng là khó nhọc
và mất nhiều công sức Nhưng người lực sĩ không coi đó là sự nếm trải khổ đau. Người
lực sĩ hiểu điều đó là một thành quả to lớn, mộtsự nếm trải liên kết với cảm
giác vui sướng. Nhưng nếu cũng con người ấy phải làm công việc lao động thân thể
không phải là một phần tập luyện thể thao, thì người lực sĩ ấy sẽ nghĩ rằng:
"Ồ, tại sao tôi phải chịu sự thử thách khủng khiếp này?" Vì vậy, thái
độ tinh thần gây ra sự khác biệt to lớn."
Những lời nói đó, được nói bằng sự quả quyết như vậy, đã kéo tôi
ra khỏi cái cảm giác bị đè nén thành người tìm cách giải quyết khổ đau, vượt
qua khổ đau.
"Ngài nói bước thứ nhất trong việc tạo ra loại từ bi đó là
cảm nhận đúng sự khổ đau. Nhưng có kỹ thuật đặc biệt nào khác trong Phật Giáo
dùng để nâng cao lòng từ bi của một con người không?
"Có. Thí dụ trong truyền thống của Đại Thừa Phật Giáo,
chúng tôi thấy có hai loại kỹ thuật chính để trau dồi từ bi. Chúng là phương
pháp "bẩy điểm nhân và quả" và phương pháp quan điểm và bình đẳng giữa
ta và người" Phương pháp "quan hệ và bình đẳng là kỹ thuật bạn có thể
tìm thấy tại chương tám trong cuốn "Chỉ dẫn về lối sống của Bồ Tát" của
Shantideva. Nhưng, nhìn vào đồng hồ tay của Ngài, Ngài thấy đã hết giờ, Ngài
nói " Tôi nghĩ chúng ta sẽ thực hành một vài bài tập hay thiền định về từ
bi trong các cuộc nói chuyện trước công chúng vào cuối tuần này.
Nói xong, Ngài mỉm cười nồng hậu và đứng lên chấm dứt cuộc thảo
luận.
GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Tiếp tục thảo luận về từ bi trong buổi gặp sau đó, tôi bắt đầu:
"Bây giờ chúng ta đang nói về tầm quan trọng của từ bi", về niềm tin
mà Ngài cho rằng tình cảm con người, thân thiện, tình bạn, và vân vân... là những
diều kiện tối thiết cho hạnh phúc. Nhưng tôi băn khoăn - thí dụ, một thương gia
giàu có đến gặp Ngài và nói " Thưa Ngài, Ngài nói rằng muốn hạnh phúc thì
thân thiện và từ bi là rất quyết định. Nhưng bản tính của tôi không phải là người
ân cần và dễ thương. Thành thực mà nói, tôi thực sự không cảm thấy động lòng
hay có lòng vị tha. Tôi có khuynh hướng đúng hơn là người khá lý trí, thực tiễn
và có lẽ là một người trí thức, và không cảm thấy những loại xúc cảm như vậy.
Tuy nhiên tôi cảm thấy dễ chịu về cuộc sống của tôi, tôi cảm thấy hạnh phúc về
điều kiện sống của tôi. Tôi rất thành công trong thương mại, bạn hữu, và tôi
chu cấp đầy đủ cho vợ con, và tôi có mối quan hệ tốt với họ. Tôi không cảm thấy
thiếu thốn gì. Phát triển từ bi, vị tha, ân cần và vân vân nghe có vẻ hay lắm,
nhưng với tôi vấn đề ấy là thế nào? Dường như chỉ là quá ủy mị..."
"Trước hết" Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời " nếu ai
đó nói điều đó, tôi vẫn còn ngờ rằng liệu người ấy có thực sự hạnh phúc trong
thực tế không. Tôi thật sự tin là từ bi cung cấp cơ sở cho sự sinh tồn của con
người, giá trị thực sự của đời sống con người, không có điều đó sẽ thiếu một bộ
phận căn bản. Hết sức nhậy cảm trước cảm nghĩ của người khác là một yếu tố của
thương yêu và từ bi. và không có nó, thí dụ, tôi nghĩ người đó gặp khó khăn
trong quan hệ với vợ. Nếu một người thực sự có thái độ lãnh đạm đối với đau khổ
và cảm nghĩ của người khác, dù cho là tỷ phú, có học vân, không có vấn đề gì với
vợ và con, và được quấy quần bởi bạn bè, những thương gia giàu có, chính trị
gia, và những nhà lãnh đạo quốc gia, tôi nghĩ bất chấp những thứ đó, hiệu quả của
tất cả những thứ tích cực đó chỉ ở trên trên bề mặt.
Nhưng nếu người đó vẫn tiếp tục không cảm thấy từ bi, không cảm
thấy thiếu thốn gì ...thì có thể là có chút khó khăn giúp cho người ấy hiểu được
sự quan trọng của từ bi..."
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại hồi lâu để suy nghĩ. Thỉnh thoảng
ngừng lại trong suốt những buổi đàm đạo, không tạo sự im lặng khó xử nào, mà
đúng hơn là những lúc ngừng lại này giống như lực hấp dẫn, thấu thập thêm sức
thuyết phục và ý nghĩa cho những lời của Ngài khi cuộc đàm đạo tiếp nối trở lại.
Cuối cùng Ngài tiếp tục, "Tuy nhiên cho dù là đúng, vẫn có
một vài điều mà tôi cần lưu ý. Trước nhất, tôi có thể gợi ý cho người đó suy
nghĩ về kinh nghiệm của chính mình. Người ấy sẽ thấy rằng nếu có một người nào
đó đối xử với mình bằng lòng từ bi và tình cảm, điều đó sẽ làm cho người ấy cảm
thấy hạnh phúc. Vì vậy nên trên cơ sở kinh nghiệm ấy, nó sẽ giúp cho người ấy
nhận ra rằng người khác cũng cảm thấy vui khi được đối xử ân cần và từ bi. Cho
nên, công nhận sự việc này sẽ làm cho người ấy tôn trọng hơn nữa độ nhậy cảm
xúc của người khác và làm cho người ấy thiên về việc đem từ bi và ân cần đến
cho người khác. Đồng thời người ấy khám phá ra rằng mình càng ân cần với người
khác bao nhiêu thì mình lại càng nhận được nhiều ân cần bây nhiêu. Tôi không
nghĩ rằng phải mất nhiều thời gian người đó mới nhận thức ra điều đó. Thành thử,
điều này trở thành cơ sở cho tình bạn và sự tin cậy lẫn nhau. "Bây giờ, giả
dụ người này có tất cả những điều kiện thuận lợi cụ thể này, thành công trong đời,
bạn hữu xum vầy, tài chính bảo đảm, và vân vân..., tôi nghĩ thấm chí có thể là
gia đình con cái đều nương tựa vào người ấy và hồ như thỏa mãn vì người ấy
thành công, và họ có nhiều tiền bạc và một cuộc sống sung túc. Tôi nghĩ rằng ở
mức độ nào đó thậm chí không cần có cảm xúc ân cần và tình cảm của con người,
người ấy không nếm mùi cảm giác thiếu thốn. Nhưng nếu người ấy cảm thấy mọi thứ
đều ổn thỏa, không thực sự cần phát triển từ bi, tôi cho rằng cách nhìn đó là
do vô minh và thiển cận. Dù cho có vẻ là những người khác phải nương nhờ vào
người ấy khá nhiều, trên thực tế những gì đang xẩy ra là quá nhiều quan hệ hay
tác động qua lại của những người đó với người ấy chỉ căn cứ trên sự nhận thức rằng
người ấy là nguồn thành công giàu có. Họ có thể chịu ảnh hưởng bởi của cải và
quyền thế của người ấy và chỉ liên hệ vói người ấy về những thứ đó chứ không phải
là chính người ấy. Cho nên trong một ý nghĩa nào đó, mặc dầu họ không nhận được
sự ân cần và tình cảm của người ấy, nhưng họ vẫn bằng lòng, và có thể không
mong muốn gì hơn nữa. Nhưng điều gì sẽ xẩy ra khi cơ đồ của người ấy bị sa sút,
lúc ấy cơ sở của sự quan hệ sẽ suy yếu. Rồi người ấy sẽ bắt đầu thấy hậu quả của
sự không có ân cần và lập tic bắt đầu đau khổ.
"Tuy nhiên, nếu có lòng từ bi, đương nhiên đó là điều mà họ
có thể trông cậy vào, cho dù có những khó khăn kinh tế, và sự giàu có xuống dốc,
họ vẫn có điều gì đó để chia sẻ với đồng loại. Kinh tế thế giới lúc nào cũng
mong manh và chúng ta phải chịu quá nhiều mất mát trong đời sống, nhưng thái độ
từ bi là điều chúng ta lúc nào cũng phải mang theo với chúng ta".
Người thị giả mặc áo choàng nấu sẫm vào phòng và lặng lẽ rót
trà, trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, "Đương nhiên muốn giảng giải
cho ai đó về sự quan trọng của từ bi, trong một số trường hợp, bạn phải đối đầu
với người rất cứng rắn, cá nhân chủ nghĩa và ích kỷ, người đó chỉ biết đến
mình, quyền lợi của mình. Và thậm chí có thể là có những người không có khả
năng thông cảm ngay cả những người mà họ thương yêu hay gần gũi với họ. Nhưng
ngay cả với những người như thế, vẫn có thể bày tỏ tầm quan trọng của từ bi và
tình thương trên cơ sở rằng đó là cách tốt nhất để đáp ứng lợi ích cho bản thân
họ. Họ mong muốn có sức khỏe tốt, sống lâu, và an tâm, hạnh phúc và sung sướng.
Và nếu đây là những thứ mà họ ham thích, tôi nghe nói rằng có cả bằng chứng
khoa học là những thứ đó có thể được tôn lên bởi cảm nghĩ thương yêu và từ
bi... Nhưng là một bác sĩ, bác sĩ tâm thần, có lẽ ông phải biết nhiều hơn về những
xác nhận khoa học này?"
"Thưa vâng", tôi đồng ý, "Tôi cho rằng rõ ràng là
có bằng chứng khoa học hậu thuẫn cho những xác nhận về lợi ích vật chất và cảm
xúc từ những trạng thái từ bi của tâm".
"Cho nên tôi nghĩ rằng giáo dục ai đó về những sự việc ấy
và các nghiên cứu khoa học tất sẽ khích lệ một số người trau dồi trạng thái tâm
từ bi...", Đức Đạt Lai Lạt Ma bình luận." Nhưng tôi nghĩ rằng ngoài
những nghiên cứu khoa học, có những lập luận khác cho rằng con người có thể hiểu
và cảm nhận từ những những kinh nghiệm thực tiễn hay trực tiếp hàng ngày. Thí dụ,
bạn có thể vạch ra rằng không có từ bi sẽ dẫn đến một sự tàn nhẫn nào đó. Có
nhiều thí dụ cho thấy trong một số thực tế ở một mức độ nào đó, người tàn nhẫn
thường bất hạnh phúc và không vừa lòng như Stalin và Hitler. Những người như vậy
thường chịu đựng cảm giác khó chịu bất an và sợ sệt dai dẳng. Thậm chí khi họ
ngủ tôi cho là họ vẫn cảm thấy sợ hãi... Tất cả những điều đó có thể khó hiểu,
nhưng một điều mà bạn có thể nói là những người như vậy thiếu một cái gì mà bạn
có thể tìm thấy ở một người từ bi hơn - ý thức về tự do, ý thức xả bỏ, cho nên
khi bạn ngủ bạn sẽ nguội đi và không nghĩ nữa. Người tàn nhẫn không bao giờ có
được kinh nghiệm ấy. Một cái gì đó lúc nào cũng kìm kẹp họ, ảnh hưởng tới họ,
và họ không thể có được cảm nghĩ buông bỏ, ý thức về tự do." Ngài ngừng một
chút, lơ đãng gãi đầu, và tiếp tục."Mặc dầu tôi mới chỉ ức đoán, nhưng tôi
nghĩ rằng nếu bạn hỏi một số người tàn nhẫn: Lúc nào thấy hạnh phúc hơn khi ở
thời thơ ấu được mẹ chăm sóc và được gần gũi gia đình nhiều hơn hay bây giờ khi
có nhiều quyền uy hơn, ảnh hưởng và địa vị hơn? Tôi nghĩ rằng họ sẽ trả lời họ
thích hơn lúc còn nhỏ. Tôi nghĩ rằng cả đến Stalin cũng được thương yêu bởi người
mẹ khi còn thơ ấu."
Tôi nhận xét, "Đưa Stalin ra, tôi nghĩ Ngài đã tìm ra một
thí dụ điển hình chứng minh điều Ngài nói, về hậu quả của cuộc sống không từ
bi. Ai ai cũng biết hai đặc điểm trong trong cá tính của ông ta là tàn nhẫn và
nghi kị. Stalin xem tàn nhẫn là một đức hạnh, thực tế là ông ta đã đổi tên
Djugashvili thành Stalin, có nghĩa là "con người thép" Và trong cuộc
đời ông ta ông càng tàn nhẫn ông ta lại càng trở nên nghi kị. Sự nghi kị của
ông ta ai cũng biết. Rốt cuộc sợ hãi và nghi kị người khác dẫn đến những cuộc
thanh trừng lớn và những chiến dịch chống lại nhiều nhóm người khác ở đất nước
ông ta, dẫn đến tù đầy và hành quyết hàng triệu người. Nhưng ông vẫn thấy kẻ
thù ở khắp nơi. Không lâu trước khi ông chết, ông ta đã nói với Nikita
Khruschev, "tôi không tin ai cả, kể cả chính tôi nữa". Lúc cuối đời
ông ta còn thù địch cả với bộ tham mưu tin cẩn nhất của ông. Rõ ràng là càng
tàn nhẫn và oai quyền, ông ta càng bất hạnh phúc. Một người bạn của ông đã nói
cuối cùng nét nhân tính duy nhất của ông để lại là sự bất hạnh của ông.
Svetlana, con gái của ông mô tả ông sao mà khổ vì cô đơn và trống trải đến mức
ông không còn tin tưởng là người ta có thể thực sự thành thực hay nhiệt tâm.
"Dầu sao, tôi biết thật khó mà hiểu được một con người như
Stalin và tại sao họ có thể làm được những việc kinh khủng như vậy. Nhưng một
trong những điểm mà chúng ta nói tới là ngay cả những thí dụ cực đoan về người
tàn nhẫn họ cũng luyến tiếc quá khứ khi nhìn lại một số khía cạnh êm đềm hơn
trong thời thơ ấu của họ, như tình thương yêu từ người mẹ. Nhưng sẽ ra sao đối
với nhiều người không có tuổi thơ êm đềm hay không có người mẹ thương yêu? Những
người bị ngược đãi vân vân? Hiện tại, chúng ta đang thảo luận về đề tài từ bi,
Để mọi người phát tâm từ bi Ngài có nghĩ rằng họ cần được chăm sóc nuôi dưỡng bởi
những bậc cha mẹ hay bảo mẫu có tính ân cần và tình cảm không?"
"Vâng, tôi nghĩ điều đó rất quan trọng."Ngài ngưng một
chút, tự động lần tràng hạt một cách khéo léo trong những ngón tay của Ngài và
ngẫm nghĩ." Có một số người, ngay từ lúc đầu, chịu nhiều đau khổ và thiếu
tình cảm của người khác.- cho nên sau này trong đời sống hầu như họ không có cảm
tính con người, không có khả năng từ bi và tình cảm, những người đó rất nhẫn
tâm và tàn bạo..." Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại nữa, và dường như cân nhắc
vấn đề một cách nghiêm chỉnh một lúc. Khi Ngài cúi xuống uống trà, ngay đường
nét đôi vai Ngài cũng cho thấy Ngài đang suy nghĩ lung lắm. Ngài không chứng tỏ
ra ý định tiếp tục ngay, và chúng tôi lặng lẽ uống trà. Cuối cùng Ngài nhún vai
như thể thừa nhận Ngài không có giải pháp.
"Vậy Ngài có nghĩ là những kỹ thuật nâng cao sự đồng cảm và
phát triển từ bi sẽ không giúp ích gì cho hạng người có một quá trình khó khăn
nhu vậy?"
"Bao giờ các lợi ích cũng có mức độ khác nhau nhận được khi
thực hành những phương pháp và kỹ thuật khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh riêng
biệt của mỗi người", Ngài giảng giải."Cũng có thể trong một số trường
hợp những kỹ thuật ấy hoàn toàn vô hiệu quả..."
Cố gắng làm sáng tỏ, tôi cắt ngang: "Những kỹ thuật đặc biệt
để nâng cao từ bi mà Ngài nói đến là...?
"Đó là điều mà chúng ta vừa nói đến. Trước nhất, nhờ học hỏi,
hoàn toàn hiểu biết giá trị của từ bi - nó cho bạn cảm tưởng tin chắc và quyết
tâm. Rồi sử dụng các phương pháp nâng cao sự đồng cảm, như dùng óc tưởng tượng,
sáng tạo và hình dung mình trong tình cảnh của người khác. Và cuối tuần này
trong cuộc nói chuyện trước công chúng, chúng ta sẽ bàn về một số bài tập hay
cách thực hành mà bạn sẽ tu tập như cách tu tập Tong-Len, dùng để củng cố từ bi
của bạn. Nhưng tôi nghĩ rằng quan trọng là phải nhớ rằng những kỹ thuật này như
sự tu tập Tong Len,được phát triển để giúp ích càng nhiều càng tốt, ít nhất
cũng một phần nhân loại. Nhưng không bao giờ có thể mong ước là kỹ thuật ấy có
thể giúp ích cho 100 phần trăm con người, toàn thể dân số con người.
"Nhưng vấn đề chính thực ra là nếu chúng ta nói đến những
phuơng pháp khác nhau để phát triển từ bi -- điều quan trọng là người ta có
thành thực nỗ lực trong việc phát triển khả năng phát tâm từ bi không. Mức độ
mà họ thực sự có thể trau dồi từ bi tùy thuộc vào quá nhiều sự thay đổi, ai có
thể nói được? Nhưng nếu họ hết sức nỗ lực, nhằm tử tế hơn, để trau dồi từ bi,
và làm cho thế giới này tốt đẹp hơn, rồi thì đến cuối ngày, họ có thể nói
"Ít nhất tôi đã làm hết mình".
LỢI ÍCH CỦA TỪ BI
Trong những năm vừa qua đã có nhiều cuộc nghiên cứu ủng hộ ý kiến
cho rằng phát triển từ bi và vị tha đã có một tác động tích cực về sức khỏe thể
chất và cảm xúc. Thí dụ trong một thử nghiệm nổi tiếng, David MacClelland, một
nhà tâm lý học thuộc Đại Học Harvard cho một nhóm sinh viên xem cuốn phim về Mẹ
Teresa hoạt động giúp những người đau yếu và nghèo khổ tại Calcutta. Những sinh
viên này thuật lại cuốn phim kích thích cảm nghĩ từ bi. Sau đó nhà tâm lý học
này phân tích nước bọt của các sinh viên này và phát hiện ra có sự gia tăng chất
immuno-globulin-A, một kháng thể có thể giúp chống lấy nhiễm đường hô hấp.
Trong một cuộc khảo cứu khác của James House tại Trung Tấm Nghiên Cứu của Đại Học
Michigan, những nhà nghiên cứu thấy làm những công việc thiện nguyện đều đặn,
tương tác với người khác bằng thái độ từ bi và ân cần, tăng tuổi thọ thêm và chắc
chắn là tăng sức sống chung. Nhiều nhà nghiên cứu khác trong lĩnh vực mới về
tâm-thể trong y học đã chứng minh những khám phá tương tự, dẫn chứng trạng thái
tích cực của tâm có thế cải thiện sức khỏe thể chất của chúng ta.
Thêm vào hiệu quả lợi ích về sức khỏe thể chất của ta, có bằng
chứng là từ bi và ứng xử chu đáo có lợi cho sức khỏe xúc cảm. Những cuộc nghiên
cứu cho thấy chìa tay ra giúp đỡ người khác có thể đem lại cảm giác hạnh phúc,
điềm tĩnh hơn, và ít chán nản hơn Trong một cuộc nghiên cứu ba mươi năm của một
nhóm tốt nghiệp tại Đại Học Harvard, nhà nghiên cứu George Vaillant kết luận,
thực tế áp dụng lối sống vị tha là một thành tố cốt yếu có lợi cho sức khỏe
tinh thần. Một cuộc khảo sát khác của Allan Luks, được tiến hành với vài ngàn
người thường xuyên tham gia các hoạt động tình nguyện giúp đỡ người khác, cho
thấy hơn 90 phần trăm những người tình nguyện ấy báo cáo họ '"hân
hoan" liên tưởng đến hoạt động này, có đặc điểm là cảm thấy ấm áp tình người,
nhiều nghị lực hơn, hồ như phớn phở. Họ cũng cảm thấy cảm giác bình thản rõ
ràng, và nâng cao giá trị của mình sau hành động mà cách ứng xử chu đáo không
chỉ mang lại tác động nuôi dưỡng xúc cảm mà người ta còn thấy rằng sự điềm tĩnh
của người giúp đỡ liên quan đến sự giảm bớt các loại rối loạn thể chất do căng
thẳng.
Trong khi rõ ràng bằng chứng khoa học là hậu thuẫn cho lập trường
Đức Đạt Lai Lạt Ma về giá trị thực sự và thực tiễn của từ bi, ta không cần phải
chỉ dựa vào những công cuộc thử nghiệm và khảo sát để xác định sự đứng đắn của
quan điểm này. Chúng ta có thể nhận ra sự liên quan chặt chẽ của quan tâm, từ
bi, và hạnh phúc riêng tư trong đời sống của chúng ta và đời sống của những người
chung quanh. Joseph, một nhà thầu xấy cất sáu mươi tuổi, mà tôi gặp vài năm
nay, là một minh họa tốt cho việc này. Trong ba mươi năm, Joseph điều khiển
công việc kiếm tiền dễ dàng, lợi dụng việc xấy cất tăng vọt dường như vô tận tại
Arizona để trở thành triệu phú. Tuy nhiên vào cuối thập niên 80, việc buôn bán
bất động sản địa ốc đổ vỡ tồi tệ nhất trong lịch sử Arizona. Joseph bị thiệt hại
nặng và mất mọi thứ. Cuối cùng ông phải tuyên bố phá sản Những khó khăn về tài
chánh gây căng thẳng trong hôn nhân của ông, dẫn đến ly dị sau 25 năm chung sống.
Không đáng ngạc nhiên lắm, Joseph đã không chịu đựng được mọi sự. ông bắt đầu uống
rượu nhiều. May mắn là cuối cùng ông đã bỏ được rượu nhờ sự giúp đỡ của Hội Bài
Trừ Rượu (AA). Là thành viên trong hoạt động của Hội này, ông trở thành người bảo
trợ, và giúp người khác chừa rượu. Ông nhận ra ông rất vui trong vai trò bảo trợ,
chìa tay giúp người khác, và tình nguyện gia nhập vào các tổ chức khác. ông đã
đem kinh nghiệm làm ăn của ông để giúp đỡ những người bị thiệt thòi kinh tế.
Nói về đời sống hiện tại, ông nói, "Hiện tôi có một cơ sở tân trang nhỏ Cơ
sở này có thu nhập vừa phải, nhưng tôi hiểu rằng tôi sẽ không bao giờ giàu có bằng
trước đây. Điều nực cười là tuy vậy tôi thực sự không muốn có tiền như truớc
đây nữa. Tôi muốn dành nhiều thì giờ tình nguyện làm cho các đội ngũ khác nhau,
trực tiếp làm việc với mọi người, và giúp đỡ họ bằng tất cả khả năng của tôi.
Những ngày này, tôi cảm thấy hoàn toàn vui sướng từng ngày hơn là cả tháng kiếm
được nhiều tiền. Tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết trong đời tôi."
THIỀN ĐỊNH VỀ TỪ BI
Như đã hứa trong khi đàm đạo, đúng theo lời Ngài, Đức Đạt Lai Lạt
Ma kết thúc bài giảng trước công chúng bằng một cuộc hành thiền về từ bi. Đó là
một bài tập đơn giản. Tuy vậy bằng một lối nói mạnh mẽ và tao nhã, dường như
Ngài tóm tắt và kết tinh lại cuộc thảo luận về từ bi trước đây, biến nó thành một
buổi tập chính thức trong năm phút, trực tiếp vào ngay điểm.
Muốn phát tâm từ bi, bạn bắt đầu bằng cách công nhận bạn không
muốn khổ đau và bạn có quyền có hạnh phúc. Điều này có thể được kiểm chứng hay
được công nhận là đúng bằng kinh nghiệm của bạn. Rồi bạn công nhận những người
khác, cũng giống như bạn, cũng không muốn khổ đau và cũng có quyền có hạnh
phúc. Vậy nên việc đó trở thành cơ sở để bạn phát tâm từ bi.
"Vậy... hôm nay chúng ta hãy thiền định về từ bi. Bắt đầu
mường tượng đến một người hết sức đau khổ, một người đau đớn hay ở trong một
tình trạng rất bất hạnh. Trong ba phút đầu thiền tập, suy ngẫm về đau khổ của một
cá nhân theo phép phân tích - hãy nghĩ đến sự đau khổ dữ dội và tình trạng sống
bất hạnh của người ấy. Sau khi nghĩ đến sự đau khổ của người ấy trong vài phút,
kế đến, cố gắng liên hệ việc đó đến chính mình, nghĩ rằng cá nhân ấy cũng có khả
năng chứng nghiệm đau khổ, niềm vui và hạnh phúc, và cũng đau khổ như mình đau
khổ. Rồi, cố gắng để câu trả lời tự nhiên của bạn phát sinh - một cảm tính từ
bi tự nhiên đối với người ấy. Cố gắng đi đến kết luận, hãy nghĩ xem bạn mong muốn
người ấy thoát khỏi khổ đau mạnh đến đâu. Giải quyết điều đó sẽ giúp người đó
thoát khỏi khổ đau. Cuối cùng, hãy trụ tâm vào loại kết luận hay giải pháp đó,
và trong mấy phút cuối cùng của buổi thiền tập, cố gắng phát tâm trong một trạng
thái từ bi hay thương yêu."
Với lời giảng trên, Đức Đạt Lai Lạt Ma khoanh chân ngồi trong tư
thế thiền định, hoàn toàn bất động Ngài hành thiền cùng với cử tọa. Một sự im lặng
hoàn toàn. Nhưng có điều gì đó đang khơi dậy trong khi ngồi ở cuộc họp sáng đó.
Tôi nghĩ rằng cả đến người cứng cỏi nhất cũng không thể tránh bị lay chuyển khi
bị vấy quanh bởi một nghìn rưởi người, mỗi người đều nắm giữ tư tưởng từ bi
trong tâm. Sau một vài phút, Đức Đạt Lai Lạt Ma thốt lên một câu kinh bằng tiếng
Tây Tạng, giọng của Ngài trầm trầm, nhịp nhàng, lên bổng xuống trầm gây lắng dịu
và khoan khoái.
PHẦN III
CẢI ĐỔI SỰ KHỔ ĐAU
-ooOoo-
CHƯƠNG 8
ĐỐI ĐẦU VỚI KHỔ ĐAU
Vào thời Đức Phật, một phụ nữ tên Kisagotami đau khổ vì đứa con
duy nhất của bà bị chết. Không thể chấp nhận sự việc ấy, bà chạy gặp hết người
này đến người khác để tìm thuốc cứu đứa bé sống lại. Người ta đồn Đức Phật có
loại thuốc đó.
Kisagotami liền tìm đến Đức Phật, bà cung kính chào Ngài và
thưa: "Thưa Ngài, có phải Ngài có thể làm ra thứ thuốc cứu được đứa con của
tôi phải không?"
Đức Phật trả lời: "Ta biết thứ thuốc đó, nhưng muốn làm ra
thứ thuốc đó, ta cần phải một số chất liệu."
Nhẹ người, bà hỏi: "Ngài cần chất liệu gì?
"Mang cho ta một nắm hạt cải"
Người đàn bà này hứa sẽ mang đến cho Ngài nhưng khi bà sắp sửa
đi, Ngài nói thêm " Ta cần hạt giống cải lấy từ một gia đình không có con
cái, chồng vợ, cha mẹ, hay người làm đã chết"
Bà ta đồng ý và bắt đầu đi đến hết nhà này đến nhà kia để tìm
xin hạt cải. Nhà nào cũng đồng ý cho bà hạt giống, nhưng khi bà hỏi trong nhà
này có ai đã chết không, thì bà không thể tìm ra nhà không có ai chết - nhà này
thì con gái chết, nhà kia thì người làm chết, nhà nọ thì chồng hay cha mẹ chết.
Kisagotami không thể tìm được một nhà nào thoát khỏi sự đau đớn của cái chết.
Thấy không phải chỉ mình bà đau khổ, bà đã thôi không giữ thi hài của đứa con
và quay về với Đức Phật, với tâm lòng đại bi Ngài nói: "Không phải chỉ
mình bà mất con, chết là một qui luật đối với tất cả chúng sanh, không có cái
gì trường tồn".
Cuộc tìm kiếm đã dạy cho bà biết không ai thoát khỏi khổ đau và
mất mát. Không phải chỉ mình bà chịu bất hạnh khủng khiếp đó. Hiểu thấu bản chất
vấn đề cũng không loại bỏ được đau khổ không tránh được do mất mát, nhưng nó giảm
bớt đau đớn do cố gắng chống lại thực tế buồn thảm của cuộc đời.
Mặc dù đau đớn và khổ đau là hiện tượng phổ biến của con người,
nhưng không có nghĩa là chúng ta dễ dàng chấp nhận chúng. Con người đã chế ra một
kho tàng rộng lớn những chiến lược để tránh phải chịu đau khổ. Đôi khi chúng ta
dùng những phương tiện bên ngoài như hóa chất - làm giảm hay dùng thuốc cho những
cảm xúc đau đớn bằng thuốc men hay rượu cồn. Chúng ta còn có một loại cơ cấu
bên trong - phòng thủ tâm lý, thường là vô thức, làm vật đệm cho chúng ta không
cảm thấy xúc cảm quá đau đớn và buồn bã khi chúng ta đối đầu với khó khăn. Đôi
khi những cơ cấu phòng thủ này rất thô sơ, như dễ dàng từ chối không công nhận
đang có khó khăn. Có những lúc, chúng ta có thể mơ hồ công nhận chúng ta có khó
khăn nhưng lại vùi đầu vào nhiều trò giải trí hay tiêu khiển để khỏi bận tâm đến
nó. Hay chúng ta có thể đoán già đoán non không thể chấp nhận chúng ta gặp khó
khăn, vô tình đổ lỗi cho họ và trách cứ họ về sự đau khổ của chúng
ta."Vâng, tôi khổ sở, nhưng không phải là tôi có khó khăn, mà các người
cũng có khó khăn. Nếu không phải là ông chủ chết tiệt đó lúc nào cũng làm tôi gặp
khó khăn (hoặc "đối tác phớt lờ tôi"... ) thì tôi sẽ không sao cả".
Khổ đau chỉ có thể tạm thời tránh được. Nhưng giống như bệnh nan
y không thể chữa khỏi hẳn được (hoặc có lẽ thuốc men chỉ chữa được trên bề mặt
nhưng lại che dấu triệu chúng không chữa khỏi được căn bệnh cơ bản) chứng bệnh
cứ nhức nhối và nặng thêm. Cảm giác phân khích do ma túy hay rượu tất nhiên làm
giảm đau một lúc, nhưng tiếp tục dùng chúng, thân thể sẽ suy tàn và phương hại
đến xã hội có thể gây nên nhiều đau khổ còn hơn cả sự bất mãn càng ngày càng lớn
hay đau khổ nhiều về tình cảm dẫn chúng ta đến những chất say ấy ngay lúc đầu.
Sự phòng thủ tâm lý bên trong như sự phủ nhận hay sự ức chế có thể che chở và bảo
vệ chúng ta không cảm thấy đau khổ lâu hơn một chút, nhưng vẫn không làm cho khổ
đau biến mất. Randall mất người cha bị bệnh ung thư hơn một năm qua. Anh rất gần
gũi với người cha, và vào lúc ấy ai cũng ngạc nhiên thấy anh vững vàng trước
cái chết của cha anh đến như thế. Anh giải thích bằng một giọng nói trầm tĩnh:
"Đương nhiên tôi buồn, nhưng tôi thực sự không sao cả, tôi sẽ rất nhớ ông,
nhưng dòng đời vẫn trôi chảy. Dầu sao tôi cũng không thể tập trung vào việc nhớ
ông ngay bây giờ, tôi phải thu xếp tang lễ và trông nom tài sản của ông cho mẹ
tôi...Nhưng tôi sẽ không sao cả," anh làm mọi người yên tâm. Tuy nhiên một
năm sau, ngay sau ngày giỗ của cha anh, Randall bắt đầu rơi vào tình trạng buồn
phiền nghiêm trọng. Anh đến gặp tôi và giải thích: "Tôi không hiểu nổi cái
gì sinh ra sự buồn phiền này. Hiện giờ mọi việc đều tốt đẹp. Không thể là do
cái chết của cha tôi, ông mất đã hơn một năm rồi tôi đã chấp nhận cái chết của
ông. Tuy nhiên chỉ cần chữa bệnh chút ít, vấn đề đã trở nên rõ ràng, trong lúc
cố kìm nén cảm xúc, để "đứng vững" anh chưa bao giờ đối phó đầy đủ với
cảm giác mất mát và đau buồn. Những cảm giác đó tiếp tục phát triển và cuối
cùng hiện nguyên hình là trạng thái buồn nản quá sức chịu đựng bắt buộc anh phải
đối phó.
Trong trường hợp của Randall, bệnh trầm cảm của anh tan đi khá
nhanh khi chúng ta tập trung vào sự đau đớn và cảm nghĩ mất mát của anh, và anh
hoàn toàn có thể đương đầu và trải qua sự đau buồn của anh. Tuy nhiên, đôi khi,
vô tình là những chiến lược nhằm để tránh vấp vấn đề của chúng ta phải khó khăn
lại càng làm trầm trọng thêm - ăn sâu vào cơ cấu ứng phó và khắc sâu vào cá
tính của chúng ta và rất khó trục xuất nó ra khỏi. Ví dụ đa số chúng ta có người
bạn bè, người quen hay người nhà tránh khó khăn bằng cách đổ cho người khác và
trách cứ họ - buộc tội người khác mà thực ra chính mình là người có lỗi. Chắc
chắn đây không phải là một phương pháp hữu hiệu để loại bỏ khó khăn, tuy nhiên,
nhiều người đã phải sống một đời bất hạnh chừng nào mà họ còn tiếp tục theo kiểu
ấy.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra chi tiết cách giải quyết vấn đề khổ
đau của con người - cách giải quyết cơ bản là bao gồm niềm tin vào khả năng
thoát khỏi khổ đau nhưng bắt đầu bằng sự chấp nhận khổ đau là một sự thật tự
nhiên trong cuộc sống của con người, và can đảm đương đầu với các khó khăn gặp
phải.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, khó khăn nhất định phát
sinh. Những khó khăn lớn nhất trong đời sống là những khó khăn không thể tránh
được phải đương đầu như già, bệnh và chết. Cố gắng tránh các khó khăn hay đơn
giản là không nghĩ đến chúng chỉ có thể dịu đi tạm thời, nhưng tôi nghĩ có một
cách giải quyết vấn đề tốt hơn. Nếu bạn trực tiếp đối đầu với khổ đau, bạn sẽ ở
trong một vị thế tốt để đánh giá đúng chiều sâu và bản chất của vấn đề. Nếu bạn
ở trong một trận đánh chừng nào mà bạn vẫn không hiểu tình trạng kẻ địch và khả
năng chiến đấu của địch, bạn sẽ hoàn toàn không sẵn sàng và tê liệt bởi sợ hãi.
Tuy nhiên nếu bạn biết rõ khả năng chiến đấu của đối thủ, loại vũ khínào kẻ địch
sử dụng vân vân..., bạn sẽ ở trong một vị thế tốt hơn nhiều khi bạn lấm trận.
Cũng giống như vậy, nếu bạn phải đương đầu với những khó khăn thay vì tránh
chúng, bạn sẽ ở trong một vị thế tốt hơn để đuơng đầu với chúng."
Cách giải quyết những khó khăn này rõ ràng hợp lý, nhưng nhân mạnh
vấn đề thêm một chút nữa, tôi hỏi: "Vâng, nhưng ngộ nhớ có lúc Ngài phải
trực tiếp đối đầu với hó khăn, mà không tìm ra được giải pháp thì sao?" Thật
khó mà dối phó ".
"Nhưng tôi nghĩ rằng tốt hơn vẫn là phải đương đầu với
nó". Ngài trả lời với một tinh thần thượng võ."Thí dụ như, bạn có thể
coi những vấn đề già và chết là tiêu cực, không ai mong muốn, và cố gắng quên
chúng đi. Nhưng cuối cùng, những chuyện ấy vẫn đến. Và nếu bạn tránh không nghĩ
đến chúng, vào một ngày nào đó, một trong những chuyện đó xẩy ra, bạn sẽ bị xốc
nguyên nhân của tình trạng khó chịu tinh thần không chịu đựng nổi. Tuy nhiên, nếu
bạn bỏ chút ít thì giờ nghĩ về tuổi già, cái chết, và những điều bất hạnh khác,
tâm bạn sẽ vững vàng hơn khi những chuyện đó xẩy đến vì bạn đã quen thưộc với
những vấn đề ấy và các loại đau khổ và đã lường trước chúng sẽ xẩy ra.
"Đó là lý do tại sao tôi tin là rất hữu ích khi tự mình chuẩn
bị trước để không bị ngỡ ngàng trước những khổ đau mà bạn phải gặp. Lại sử dụng
phép so sánh với trận chiến một lần nữa suy ngẫm về khổ đau có thể được coi như
cuộc tập trận. Người chưa bao giờ nghe nói về chiến tranh, súng ống, bom đạn và
vân vân sẽ hết sức sợ hãi khi ra chiến trường. Nhưng qua các tập luyện quân sự,
tâm bạn có thể làm cho tâm trí bạn quen với những gì có thể xẩy ra, cho nên nếu
chiến tranh nổ ra, nó sẽ không quá khắc nghiệt đối với bạn"
"Vậy thì, tôi có thể hiểu cách làm quen với những loại khổ
đau mà chúng ta gặp phải có một tác dụng giảm bớt sợ hãi, nhưng hình như là đôi
khi không có sự chọn lựa nào khác ngoài khổ đau có thể xẩy ra trong một số tình
thế khó xử. Làm sao chúng ta có thể tránh lo lắng trong những trường hợp ấy?"
"Hãy thí dụ một trường hợp khó xử?
Tôi ngừng lại để cân nhắc ." Như thế này, thí dụ, một người
đàn bà mang thai và qua xét nghiệm nước ối (amniocentesis) người ta phát hiện
ra đứa trẻ sẽ bị khuyết tật bẩm sinh nghiêm trọng. Họ nhận ra đứa trẻ sẽ bị tàn
tật nặng về tinh thần hay thân thể. Cho nên, hiển nhiên là người đàn bà sẽ hết
sức lo ấu vì không biết phải làm gì. Bà ta có thể chọn cách làm điều gì đó trước
tình trạng ấy và có thể phá thai, để đứa trẻ khỏi phải suốt đời đau khổ nhưng
người đàn bà đó sẽ bị dày vò bởi cảm nghĩ mất mát lớn lao và đau đớn và có thể
trải qua những cảm nghĩ khác như tội lỗi. Hoặc, bà ta có thể chọn cách để sự việc
đi theo tiến trình tự nhiên và đứa bé ra đời. Nhưng rồi bà ta sẽ phải đối đầu
suốt cuộc đời khó khăn và đau khổ cho chính mình và đứa con."
Đức Đạt Lai Lạt Ma chăm chú lắng nghe khi tôi nói. Bằng một giọng
có phần đăm chiêu, Ngài trả lời, " Cách giải quyết những vấn đề này dù là
theo cách nhìn Tây Phương hay Phật Giáo thì những loại tình trạng khó xử này quả
là rất khó khăn, rất khó khăn. Bây giờ theo thí dụ của ông về quyết định phá
thai vì khuyết tật bẩm sinh - không ai thực sự biết rút cục là cái gì có thể tốt
hơn. Thậm chí nếu đứa trẻ sinh ra tật nguyền, rút cục điều đó có thể là tốt hơn
cho người mẹ, hay cho gia đình hay chính đứa trẻ. Nhưng cũng có thể là tính đến
hậu quả về lâu về dài sau này, tốt hơn là nên phá thai, vì rút cục điều đó có
thể là tích cực. Nhưng ai là người quyết định đây? Quả là khó khăn. Thậm chí từ
quan điểm Phật Giáo, loại phán xét đó vượt quá khả năng lý trí của chúng
tôi." Ngài ngưng một chút và thêm, "tuy nhiên tôi nghĩ hoàn cảnh và
niềm tin của họ sẽ đóng một vai trò trong cách ứng phó loại tình trạng khó khăn
của những người đặc biệt này."
Chúng tôi ngồi im lặng.
Lắc lắc cái đầu, cuối cùng Ngài nói, "Bằng cách suy ngẫm về
các loại khổ đau mà ta đề cập đến, bạn có thể chuẩn bị tinh thần trước những vấn
đề đó ở một mức độ nào đó, bằng cách tự mình nhớ đến những sự việc mà bạn có thể
tình cờ biết về những loại tình trạng khó xử trong đời. Cho nên bạn có thể chuẩn
bị tinh thần trước. Nhưng bạn đừng nên quên sự thật là điều này không làm nhẹ bớt
tình hình. Nó có thể giúp bạn có tinh thần để đối phó, giảm thiểu sợ hãi vân
vân... nhưng tự nó không giảm bớt khó khăn. Chẳng hạn, nếu một đứa trẻ bị khuyết
tật bẩm sinh sẽ ra đời, dầu cho trước đó tinh thần bạn có mạnh thế nào đi nữa,
bạn vẫn phải tìm cách đối phó vấn đề. Cho nên. việc này vẫn còn khó khăn."
Trong khi Ngài nói, giọng ngài có vẻ buồn bã.- hơn là một nốt nhạc
mà có lẽ là một hợp ấm. Nhưng bên dưới giai điệu này, không phải là một giai điệu
vô vọng. Trọn một phút Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng nói, nhìn chằm chằm qua cửa sổ
như thể tìm cái gì ngoài thế giới bao la, rồi lại tiếp tục, "Thực ra không
có gì có thể tránh khỏi sự thật khổ đau là một phần trong đời sống. Và đương
nhiên chúng ta có khuynh hướng tự nhiên không thích khổ đau và khó khăn. Nhưng
tôi nghĩ rằng người bình thường không quan niệm chính bản chất của cuộc sống có
đặc tính khổ đau..".Đức Đạt Lai Lạt Ma bỗng nhiên bắt đầu cười "Tôi
có ý nói là vào ngày sinh nhật của bạn, người ta thường nói,"Chúc Ngày
Sinh Nhật vui vẻ" khi thực tế là ngày sinh nhật là ngày sự ra đời khổ đau
của bạn. Nhưng không ai nói "Chúc Mừng sinh nhật khổ đau " Ngài đùa.
"Chấp nhận khổ đau là một phần của cuộc sống hàng ngày, bạn
có thể bắt đầu xét đến những nhân tố thường gây cho bạn cảm nghĩ không thỏa mãn
và bất hạnh tinh thần. Nói chung, chẳng hạn, bạn cảm thấy vui sướng nếu bạn hoặc
người thân của bạn nhận được những lời khen, danh tiếng, của cải, và những chuyện
thích thú khác. Và bạn cảm thấy không hạnh phúc, và bất mãn, nếu bạn không đạt
được những thứ ấy hay nếu địch thủ của bạn lại có những thứ ấy. Tuy nhien nếu bạn
nhìn vào cuộc sống thường ngày, bạn thường thấy có quá nhiều các nhân tố và
hoàn cảnh gây đau đớn, khổ sở và cảm tưởng bất toại nguyện, trong khi những
hoàn cảnh đem niềm vui và hạnh phúc thì lại tương đối hiếm. Đó là điều mà ta phải
chịu đựng dù thích hay không thích. Vì đó là thực tế của cuộc sống của chúng
ta, thái độ đối với khổ đau của ta cần được thay đổi. Thái độ đối với khổ
đau trở nên rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến cách ta phải đối phó với khổ đau
khi nó phát sinh. Bây giờ, thái độ thông thường của chúng ta vốn rất ghét
và không chịu dược đau đớn và đau khổ của chúng ta. Tuy nhiên nếu chúng ta
có thể thay đổi thái độ của chúng ta đối với khổ đau, áp dụng một thái độ để ta
chịu đựng được nó tốt hơn, như vậy nó có thể giúp chúng ta nhiều trong việc chống
lại những cảm tưởng bất hạnh, bất toại nguyện và bất mãn về tinh thần
"Cá nhân tôi, sự tu tập giúp chịu đựng khổ đau mạnh và có
hiệu quả nhất là thấy và hiểu khổ đau là bản chất tiềm ẩn của samsara (luân hồi)
[*] khỏi cuộc sống chưa giác ngộ. Bây giờ khi bạn kinh qua đau đớn về thể xác
hay những vấn đề khác, đương nhiên ngay lúc ấy bạn có cảm nghĩ, " ôi chao,
nỗi đau này quá khó chịu' Có một cảm giác không chấp nhận liên quan đến khổ đau
đó, hồ như cảm nghĩ, 'ôi, tôi không thể chịu đựng được'. Nhưng vào lúc ấy, nếu
bạn nhìn vào tình huống dưới một góc độ khác, và nhận ra rằng chính xác thân
này, Ngài đập tay lên để biểu thị là có cơ sở thực sự của khổ đau thì bạn sẽ bớt
cảm nghĩ không chấp nhận - cái cảm nghĩ dường như bạn không đáng phải đau khổ,
và bạn là nạn nhân. Cho nên một khi bạn hiểu và chấp nhận thực tế, thi việc chịu
đựng khổ đau chỉ là một điều bình thường tự nhiên .
[*] Samsara (Tiếng Sanskrit, luân hồi) mà đặc điểm của nó là
tình trạng cuộc sống có chu kỳ sống, chết và tái sanh vô tận. Từ này cũng nhắc
đến tình trạng cuộc sống hàng ngày của chúng ta có đặc tính là khổ đau. Tất cả
chúng sanh đều ở trong trạng thái đó, bị đẩy tới bởi những dấu ấn của nghiệp từ
những hành động quá khứ và những trạng thái "ảo tưởng" tiêu cực của
tâm, cho đến khi ta loại bỏ được tất cả những khuynh hướng tiêu cực trong tâm
và đạt được tình trạng giải thoát.
"Vì thế, thí dụ, khi đối phó với vấn đề khổ đau mà người
dân Tây Tạng đã phải chịu đựng, ở một mức độ nào đó bạn có thể nhìn vào tình thế
và cảm thấy choáng váng, băn khoăn lo lắng."Làm sao điều đó có thể xẩy ra
trên thế gian này ?" Nhưng từ một góc cạnh khác bạn cũng có thể suy ngẫm về
sự thật là Tây Tạng cũng ở trong luân hồi", Ngài cười, "như hành tinh
này và toàn thể giải Ngân hà". Ngài lại cười. "Vì vậy nên, dầu sao,
tôi cũng nghĩ là cách bạn nhận thức cuộc sống nói chung đóng một vai trò trong
thái độ đối với khổ đau. Chẳng hạn, nếu cách nhìn căn bản của bạn là rằng đau
khổ là tiêu cực và phải cố tránh với bất cứ giá nào, trong một ý nghĩa nào đó,
đây là dấu hiệu thất bại, như vậy nó sẽ thêm phần lo ấu và kém sức chịu đựng
khi bạn gặp hoàn cảnh khó khăn, một cảm giác bị áp đảo. Mặt khác, nếu cơ bản là
bạn nhìn nhận khổ đau là một phần tất yếu trong cuộc sống của bạn, thì chắc chắn
điều đó làm cho bạn chịu đựng được nhiều hơn những nghịch cảnh của cuộc đời. Và
không có sức chịu đựng nào đó đối với khổ đau, đời sống của bạn trở nên khổ sở,
tựa như bạn trải qua một đêm bất hạnh. Đêm ấy dường như bất tận và dường như
không bao giờ chấm dứt."
"Dường như đối với tôi khi Ngài nói về bản chất tiềm ẩn của
cuộc sống có đặc điểm là khổ đau, căn bản là bất toại nguyện, có vẻ là một quan
điểm khá bi quan, thực sự làm nản lòng". Tôi nhận xét.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhanh chóng làm sáng tỏ: "Khi tôi nói đến
bản chất bất toại nguyện của cuộc sống, ta cần hiểu rằng đây là bối cảnh chung
của Đạo Phật. Những suy ngẫm đó phải được hiểu trong bối cảnh thích hợp, trong
khuôn khổ Đạo Phật. Nếu quan điểm khổ đau phải được nhìn nhận trong bối cảnh
thích hợp, tôi đồng ý là có một nguy cơ hoặc thậm chí có khả năng hiểu lầm cách
giải quyết này là khá bi quan và tiêu cực. Do đó, quan trọng là phải hiểu được
lập trường căn bản của Phật Giáo đối với toàn bộ vấn đề khổ đau. Chúng ta thấy
trong những lời giáo huân trước công chúng của Đức Phật, vấn đề đầu tiên Ngài dạy
là nguyên tắc của Tứ Diệu Đế, Đế thứ nhất là chân lý về khổ đau. Nơi đây nhân mạnh
về sự hiểu biết bản chất khổ đau của cuộc sống.
"Vấn đề phải nhớ là lý do tại sao phải suy ngẫm về khổ đau
lại quá quan trọng là vì có khả năng thoát ra, có sự lựa chọn. Có khả năng
thoát khỏi. Bằng cách loại bỏ nguyên nhân của khổ đau, có thể đạt được tình trạng
giải thoát, tình trạng thoát khỏi khổ đau. Theo tư tưởng Phật Giáo,nguyên nhân
căn bản của khổ đau là do vô minh, tham ái và sân hận. Những điều này được gọi
"tam độc của tâm". Những từ này có ý nghĩa rộng đặc biệt trong văn cảnh
Phật Giáo. Thí dụ, 'vô minh' không có nghĩa là thiếu tin tức được dùng theo
nghĩa quen thuộc hàng ngày mà là nói đến nhận thức sai lầm căn bản về bản chất
thực sự của cái ngã và tất cả các hiện tượng. Bằng cách phát triển tuệ giác vào
bản chất thực sự của thực tế và loại bỏ trạng thái phiền não của tâm như tham
và sân, ta có thể thanh lọc hoàn toàn tâm, thoát khỏi khổ đau. Trong phạm vi Phật
Giáo, khi suy nghĩ về cuộc sống hàng ngày của một người có đặc điểm là khổ đau,
điều này khuyến khích ta nên tu tập để loại bỏ nguyên nhân căn bản gây khổ đau.
Mặt khác không có hy vọng, hay không có khả năng thoát khổ chỉ suy ngẫm khổ đau
không thôi sẽ chỉ làm tư tưởng trở nên bệnh hoạn, và đúng là tiêu cực."
Nghe ngài nói, tôi bắt đầu cảm thấy cách suy nghĩ về "bản
chất khổ đau" của chúng ta đóng một vai trò trong việc chấp nhận một đời sống
không tránh được phiền não và thậm chí có thể có được một phương pháp có giá trị
khi đặt những vấn đề hàng ngày của chúng ta vào một cách đáng giá đúng mức Và
tôi bắt đầu nhận thức khổ đau được nhìn nhận ra sao trong một phạm vi rộng hơn
là một phần của con đường tinh thần lý tưởng hơn nhất là về mô hình Phật Giáo
công nhận khả năng thanh lọc tâm và cuối cùng đạt được tình trạng không còn khổ
đau. Nhưng, không muốn nhìn vào những suy đoán triết lý to lớn, tôi tò mò muốn
biết cách Đức Đạt Lai Lạt Ma đối phó với khổ đau ở mức độ cá nhân hơn, làm sao
Ngài có thể đối phó khi mất một người thân chẳng hạn.
Khi lần đầu tôi viếng thăm Dharamsala nhiều năm trước đây, tôi
có cơ hội biết Lobsang Samk, người anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi rất thích
ông ấy và rất buồn nghe tin ông chết đột ngột mấy năm trước đây. Biết Đức Đạt
Lai Lạt Ma và ông rất gần gũi tôi nói " Tôi tưởng tượng cái chết của anh
Ngài Lobsang làm Ngài rất đau đớn."
"Vâng"
"Tôi không biết làm sao Ngài có thể đối phó được việc
đó?".
"Đương nhiên, tôi rất buồn, rất buồn khi biết tin anh tôi
chết " Ngài nói một cách thanh thản.
"Và làm sao Ngài đối phó với cảm nghĩ buồn rầu đó? Tôi muốn
nói là có cái gì đặc biệt đã giúp Ngài vượt qua?"
"Tôi không biết", Ngài nói có vẻ nghĩ ngợi. "Tôi
cảm thấy buồn rầu mất vài tuần, nhưng dần dần cảm nghĩ đó qua đi. Nhưng vẫn còn
cảm nghĩ ân hận".."
"Ân hận?"
"Đúng, tôi đi vắng lúc anh tôi chết, và tôi nghĩ nếu tôi ở
nhà, có lẽ tôi có thể làm cái gì đó được để giúp anh tôi. Cho nên tôi có cảm
giác ân hận".
Cả một đời suy ngẫm về sự khổ đau không thể tránh được của con
người có thể đóng một vai trò trong việc giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma chấp nhận sự mất
mát, nhưng nó không tạo ra con người lạnh lùng vô cảm với sự cam chịu không gì
lay chuyển trên khuôn mặt khổ đau. Sự buồn rầu trong giọng nói của Ngài cho thấy
Ngài là người có xúc động con người sâu sắc. Đồng thời, tính bộc trực và cung
cách chân thật của Ngài, hoàn toàn không chút than van hay tự cáo buộc tạo ra
ân tượng không thể nhầm lẫn được về một con người chấp nhận hoàn toàn sự mất
mát.
Vào ngày hôm ấy, cuộc nói chuyện của chúng tôi diễn tiến tốt đẹp
cho mãi đến tận chiều. Luồng sáng vàng xuyên qua cửa chớp gỗ, đang từ từ tiến
qua căn phòng tối. Tôi cảm thấy một bầu không khí u sầu tràn ngập căn phòng và
biết cuộc thảo luận đã đến lúc chấm dứt. Nhưng tôi hy vọng sẽ hỏi Ngài cho chi
tiết hơn về vấn đề mất mát, để xem Ngài có thể cho thêm lời khuyên về cách tiếp
tục sống bình thường trước cái chết của một người thân, hơn là chỉ chấp nhận điều
không tránh được về khổ đau của con người.
Trong khi tôi sắp sửa mổ rộng vấn đề, Ngài có vẻ hơi bối rối, và
tôi nhận thấy vẻ mệt nhọc quanh mắt Ngài. Ngay lúc đó, người thư ký của Ngài lặng
lẽ vào phòng và nhìn tôi, đã nhiều năm rèn kuyện trong thực tiễn, điều đó cho
biết đã đến giờ tôi phải ra về.
"Vâng...", Đức Đạt Lai Lạt Ma nói một cách xin lỗi,
"có lẽ chúng ta nên chia ra... tôi cảm thấy hơi mệt.'
Ngày hôm sau, trước khi tôi có cơ hội trở lại đề tài trong buổi
thảo luận riêng với Ngài, vấn đề đã được đưa ra trong bưổi nói chuyện trước
công chúng của Ngài. Một cử tọa, rõ ràng đang đau đớn, hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma,
"Ngài có ý kiến gì về cách ứng xử trước một sự mất mát to lớn, như mất một
đứa con chẳng hạn?"
Bằng một giọng từ tốn dịu dàng, Ngài trả lời, "Ở một mức độ
nào đó tùy theo niềm tin riêng của con người. Nếu tin có tái sanh, theo nghĩ
thì có cách giảm thiểu phiền não hay lo lắng. Họ có thể được an ủi về thực tế
là người thân yêu của họ sẽ tái sanh.
"Với những người không tin có tái sanh, tôi nghĩ rằng vẫn
có một số cách đơn giản giúp cho đối phó với sự mất mát. Trước tiên, họ có thể
suy nghĩ rằng nếu họ lo lắng quá nhiều, bị áp đảo bởi cảm giác mất mát và phiền
muộn, và nếu họ tiếp tục cảm thấy bị áp đảo không những điều đó trở thành rất
tiêu cực và có hại cho chính họ, suy yếu sức khỏe của họ mà còn không có lợi
ích gì cho người chết.
"Thí dụ, chính trường hợp của tôi, tôi đã bị mất vị gia sư
kính yêu nhất của tôi, mẹ tôi và một trong những anh em tôi. Khi họ qua đời, dĩ
nhiên tôi cảm thấy rất buồn, rất buồn. Nhưng tôi luôn luôn nghĩ rằng lo lắng
quá cũng không ích gì, và nếu tôi quả thật thương yêu những người ấy, thì tôi
phải làm tròn những mong ước của họ bằng môt tâm tư bình thản. Cho nên tôi nỗ lực
làm như vậy. Vì thế tôi nghĩ rằng nếu bạn mất một người rất thân với bạn, đó là
cách thích hợp nhất để giải quyết điều đó. Bạn thấy đây cách tốt nhất để giữ kỷ
niệm về người ấy, tưởng nhớ tốt nhất, là hãy xem liệu bạn có thể thực hiện những
ước muốn của người ấy hay không.
Lúc đầu, đương nhiên, cảm nghĩ đau buồn và lo ấu là sự phản ứng
tự nhiên của con người trước sự mất mát. Nhưng nếu bạn để cho những cảm nghĩ mất
mát và lo lắng tồn tại dai dẳng, sẽ có nguy cơ là, nếu không kiềm chế được những
cảm nghĩ ấy chúng sẽ hồ như dẫn đến tự kỷ. Một tình trạng nơi mà chính bạn trở
thành trọng điểm. Và khi việc đó xẩy ra, bạn bị tràn ngập bởi cảm nghĩ mất mát,
và bạn cảm thấy chỉ có một mình bạn phải chịu đựng điều đó. Sự suy nhược phát
sinh. Nhưng thực tế có nhiều người cũng phải chịu đựng cùng một loại kinh nghiệm
như vậy. Vậy, nếu bạn thấy mình lo lắng quá nhiều, điều tốt cho bạn là nghĩ đến
những người khác cũng trong cùng hoàn cảnh hay những trường hợp còn bi thảm
hơn. Một khi bạn nhận thức như vậy, bạn sẽ không còn cảm thấy bị lẻ loi, như thể
bạn đã tự mình nhắm vào để thoát ra. Điều đó có thể giúp cho bạn một phần nào
an ủi.
Mặc dầu tất cả chúng sinh đều phải trải qua đau đớn và khổ đau,
tôi thường cảm thấy những người được nuôi dưỡng trong một số nền văn hóa Đông
Phương, hình như chấp nhận và chịu đựng khổ đau tốt hơn. Một phần là do niềm
tin của họ, nhưng có lẽ là vì khổ đau được thấy rõ rệt ở những quốc gia nghèo
như Ấn Độ hơn là ở các quốc gia giàu có hơn Đói kém, nghèo nàn, bệnh tật và chết
chóc diễn ra hàng ngày ngay trước mắt. Khi già cả và bệnh tật, họ không bị gạt
ra lề đường, không bị đưa vào viện dưỡng lão để được trông nom bởi những nhà y
tế chuyên môn - họ vẫn ở lại trong cộng đồng và được săn sóc bởi gia đình. Những
ai va chạm hàng ngày với thực tế của cuộc sống, không thể dễ dàng phủ nhận là đời
sống có đặc tính khổ đau, và đó là một phần tất yếu của cuộc sống.
Khi xã hội Tây Phương đạt được khả năng hạn chế khổ đau do điều
kiện sống khó khăn gây ra, dường như đã mất đi khả năng đối phó với khổ đau còn
lại. Những cuộc nghiên cứu của các khoa học gia xã hội đã nhân mạnh là hầu hết
những người dân trong xã hội tân tiến Tây Phương hay có niềm tin là thế gian
này là một nơi tốt đẹp để sống, cuộc sống đó hầu như là công bằng, và họ là những
người tốt đáng được hưởng những điều tốt đẹp ngẫu nhiên đến với họ. Niềm tin
này đóng một vai trò quan trọng dẫn dắt một cuộc sống hạnh phúc và giàu có hơn.
Nhưng khi sự phát sinh khổ đau không thể tránh được đã xói mòn niềm tin ấy và sẽ
gây khó khăn để tiếp tục sống hạnh phúc và thực tế. Trong bối cảnh ấy, một chân
thương tương đối nhẹ cũng có thể gây tác động tâm lý to lớn khi ta mất tin tưởng
vào niềm tin căn bản về thế gian này là công bằng và rộng lượng. Kết quả là khổ
đau tăng mạnh.
Chắc chắn là với sự tiến bộ kỹ thuật, mức tiện nghi vật chất
chung đã cải thiện rất nhiều tại xã hội Tây Phương. Chính vì vấn đề đó mà sự
thay đổi chủ yếu về nhận thức xảy ra vì khổ đau trở nên kém rõ ràng hơn, nó
không còn được coi là bản chất căn bản của chúng sinh - nhưng đúng hơn là một sự
bất thường, một dấu hiệu cho thấy cái gì đó đã sai lầm nghiêm trọng, một dấu hiệu
của "sự thất bại" trong hệ thống nào đó, một sự vi phạm vào quyền được
bảo đảm hạnh phúc!
Kiểu suy nghĩ như vậy nảy sinh những nguy hiểm ẩn tàng. Nếu
chúng ta nghĩ rằng khổ đau là cái gì trái với tự nhiên, một thứ gì đó mà ta
không phải nếm trải, thì đi tìm ai đó chịu trách nhiệm về cái khổ đau của chúng
ta sẽ không bức thiết lắm. Nếu tôi không hạnh phúc, thì tôi phải là 'nạn nhân'
của một người nào đó hay của một cái gì đó - môt khái niệm rất thông thường ở
Tây Phương. Kẻ đối xử không công bằng có thể là chính phủ, hệ thống giáo dục,
cha mẹ lộng hành, một gia đình tài quí, giống khác, hay người bạn đời không cẩn
trọng. Hoặc chúng ta có thể tìm sự trách cứ vào bên tôi: Có cái gì sai, tôi là
nạn nhân của bệnh tật, có lẽ là do gien khiếm khuyết. Nhưng nguy cơ tiếp tục tập
trung vào việc định rõ sự khiển trách giữ lập trường của nạn nhân, là nhớ mãi
khổ đau của chúng ta - với cảm nghĩ giận dữ, thất vọng và phẫn uất dai dẳng.
Đương nhiên, sự mong muốn thoát khỏi khổ đau là mục tiêu chính
đáng của mỗi người. Nó là kết quả tất yếu vì chúng ta mong ước được hạnh phúc.
Vì vậy nên, hoàn toàn chính đáng khi chúng ta tìm ra nguyên nhân của bất hạnh
phúc, và làm tất cả những gì có thể được để làm nhẹ bớt các vấn đề, tìm kiếm giải
pháp ở tất cả mức độ - toàn cầu, xã hội, gia đình, và cá nhân. Nhưng chừng nào
chúng ta còn xem khổ đau là một trạng thái trái tự nhiên, một hoàn cảnh khác
thường mà ta sợ hãi, cố né tránh và không chấp nhận, chúng ta sẽ không bao giờ
nhổ được gốc rễ của khổ đau để bắt đầu một cuộc sống hạnh phúc hơn.
-ooOoo-
CHƯƠNG 9
CHUỐC LẤY KHỔ ĐAU
Lần đầu tiên đến phòng mạch của tôi, có một quí ông trung niên bảnh
bao, ăn mặc sang trọng trong bộ com lê Armani, rất giữ lịch sự khi ngồi xuống,
ông bắt đầu kể những gì đã khiến ông tới chữa bệnh. ông nói khá dịu dàng bằng một
giọng nói có cân nhắc và tự chủ. Tôi liền hỏi ông một loạt câu hỏi thường lệ:
nêu lý do bất mãn, tuổi tác, tiểu sử, tình trạng hôn nhân.
"Con mụ phản trắc đó" ông đột nhiên kêu lên, giọng ông
nổi xung lên "Con vợ chết tiệt của tôi! Con vợ trước của tôi. Nó đã lang
chạ sau lưng tôi! Tôi đã cho nó tất cả. Đồ đốn mạt... đồ yêu tinh... con mẹ bẩn
thỉu..." Giọng của ông trở nên to hơn, giận dữ hơn, và độc địa hơn, và
trong hai mươi phút kế tiếp, ông kể hết sự bất bình này đến bất bình khác về
người vợ cũ của ông.
Đã gần hết giờ. Biết ông đang nổi nóng và có thể tiếp tục nổi
gân hàng giờ, tôi hướng dẫn ông: Hầu hết mọi người đều gặp khó khăn lúc mới ly
dị, chắc chắn có cái gì đó chúng ta sẽ nói đến trong những buổi gặp tới".
Tôi nói một cách dỗ dành, "À này, ông đã ly dị bao lâu rồi?."
"Tháng Năm vừa qua là 17 năm"!
Ở chương trước, chúng ta bàn về tầm quan trọng của sự chấp nhận
khổ đau như một là một việc tất yếu trong đời sống con người. Mặc dầu có một số
thứ khổ đau không thể tránh được nhưng một số thứ khác là do tự mình tạo ra.
Chúng ta đã khảo sát tỉ mỉ, chẳng hạn, làm sao mà khước từ không chấp nhận khổ
đau là một phần tất yếu của cuộc sống có thể dẫn tới việc xem mình là một nạn
nhân suốt đời và trách cứ người khác về những khó khăn của chúng ta - một
phương cách chắc chắn dẫn đến cuộc sống khổ đau.
Nhưng chúng ta cũng thêm vào những khổ đau riêng của chúng ta bằng
nhiều cách khác. Thường thường tất cả chúng ta cứ làm cho cái đau đớn của chúng
ta kéo dài, cứ tiếp tục, bằng cách diễn đi diễn lại mãi nỗi đau đớn trong tâm,
thổi phòng những bất công trong chuyện đó. Chúng ta nhắc lại những kỷ niệm đau
thương với lời mong muốn vô tình có lẽ bằng cách này hay cách khác điều đó sẽ
thay đổi được tình hình - nhưng nó chẳng bao giờ thay đổi cả. Đương nhiên, đôi
khi kể lại mãi những nỗi thống khổ có thể thỏa mãn một ít mục đích, nó có thể
tăng thêm kịch tính và một sự sôi động nào đó cho cuộc sống hay gợi chú ý và cảm
tình của người khác. Nhưng nó nó có vẻ giống như sự cân đối tội nghiệp cho sự bất
hạnh mà chúng ta tiếp tục phải chịu đựng. Nói về việc làm sao ta lại làm tăng
thêm khổ đau, Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng nghĩa, "Chúng ta có thể thấy có nhiều
con đường dẫn chúng ta kinh qua bất an và khổ đau tinh thần. Mặc dầu, thường
thường, những nỗi ưu phiền tinh thần và cảm xúc tự chúng có thể xẩy ra một cách
tự nhiên, nhưng chính chúng ta lại làm cho những cảm xúc tiêu cực ấy mạnh thêm
khiến chúng trở thành tai hại. Chẳng hạn khi chúng ta giận dữ hay căm ghét một
người nào đó, rất ít khi nó phát triển đến một mức cao độ nếu chúng ta bỏ mặc
nó. Tuy nhiên nếu ta tưởng ngưới ta đối xử bất công với chúng ta, những khía cạnh
mà chúng ta bị xử đối không được công bằng, và chúng ta cứ suy nghĩ mãi đến nó
thì điều đó sẽ nuôi dưỡng sân hận. Sân hận sẽ trở thành mạnh mẽ. Đương nhiên,
cũng có thể áp dụng như vậy khi chúng ta gắn bó với một người đặc biệt nào đó,
chúng ta có thể nuôi dưỡng ý tưởng là anh ấy hay cô ấy đẹp làm sao, và chúng ta
tiếp tục suy tưởng về những đức tính mà chúng thấy ở người đó, sự gắn bó càng
ngày càng mạnh. Nhưng điều đó cho thấy qua sự suy nghĩ và thân mật liên tục, tự
chúng ta làm cho những cảm xúc của chúng ta mãnh liệt hơn.
"Chúng ta cũng thường làm tăng thêm cái đau đớn và khổ đau
vì xúc cảm quá mức, phản ứng quá mạnh trước những việc tầm thường, và đôi khi
coi chúng như nhằm vào riêng mình. Chúng ta hay coi những việc nhỏ quá quan trọng
và thổi phồng chúng lên quá cỡ trong lúc ấy lại dửng dưng trước những việc thực
sự quan trọng, những vấn đề đó có ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của chúng ta và
có hậu quả và mối quan hệ lâu dài.
"Cho nên, tôi nghĩ, theo nghĩa rộng, bạn đau khổ hay không
đau khổ tùy thuộc vào cách bạn phản ứng trước một tình huống nhất định. Thí dụ,
bạn khám phá ra người nói xấu sau lưng bạn. Nếu bạn phản úng khi biết chuyện
người ta nói xấu bạn, thì đó là tính tiêu cực với cảm giác thương tổn và giận dữ,
rồi thì chính bạn tự phá hoại sự yên ổn trong tâm bạn. Sự đau đớn của bạn do
chính bạn tạo ra. Mặt khác nếu bạn kìm giữ không hành động một cách tiêu cực,
hãy để cho lời phỉ báng ấy qua đi như thể cơn gió nhẹ thoảng qua bên tai bạn, bạn
bảo vệ mình không có cảm nghĩ đau đớn, cảm nghĩ thống khổ. Cho nên mặc dầu bạn
thường không thể tránh được những tình huống khó khăn nhưng bạn có thể thay đổi
mức độ bạn khổ đau bởi sự lựa chọn cách phản ứng với tình hình.
"Chúng ta cũng thường làm tăng thêm đau đớn và khổ đau của
chúng ta vì cảm xúc quá mức và phản ứng quá mạnh trước những việc tầm thường,
và đôi khi coi chúng như nhằm vào riêng mình."
Với những lời trên, Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận căn nguyên của
những sự việc trầm trọng hàng ngày có thể làm tăng thêm nguồn gây khổ đau. Các
thầy thuốc chuyên khoa đôi khi gọi tiến trình này là cá nhân hóa những đau đớn
của chúng ta - khuynh hướng thu hẹp tầm nhìn của tâm lý của chúng ta bằng cách
giải thích hay giải thích sai mọi sự việc xẩy ra như là nó tác động đến chúng
ta.
Một tối, tôi dùng cơm chiều cùng một đồng nghiệp tại một tiệm
ăn. Việc phục vụ khách ăn nơi đây quá chậm, từ lúc ngồi xuống bạn tôi bắt đầu
phàn nàn .: "Hãy xem kìa! Người hầu bàn này quá ư là chậm chạp! Anh ta đâu
nhỉ! Tôi nghĩ rằng anh cố tình không biết đến chúng ta!"
Mặc dầu cả hai chúng ta đều không có việc gì phải vội cả, ông bạn
đồng nghiệp của tôi tiếp tục phàn nàn trong suốt bữa ăn và phát triển thành những
lời kể lể than van về đồ ăn, bát đĩa,dao dĩa và tất cả mọi thứ không hợp ý của
ông. Cuối bữa ăn, người hầu bàn bưng đến chúng tôi hai món tráng miệng không
tính tiền và giải thích: "Tôi xin lỗi vì phục vụ chậm tối nay" anh ta
nói rất thành thực, "vì chúng tôi thiếu nhân viên, một người nấu ăn nghỉ
hôm này vì gia đình có tang, và vào phút cuối một người hầu bàn gọi điện thoại
báo ốm. Tôi hy vọng không có gì bất tiện với quý ông..."
"Tôi sẽ không bao giờ còn đến đây nữa", bạn đồng nghiệp
của tôi cay đáng lẩm bẩm trong hơi thở của ông khi người hầu bàn bước đi.
Trên đây chỉ là một minh họa nhỏ cho thấy chúng ta đã góp phần
vào khổ đau của chúng ta bằng cách cá nhân hóa mọi tình huống khó chịu như thế
nào, như thể có dụng ý gây ra cho chúng ta. Trong trường hợp này, kết quả cuối
cùng chỉ là làm mất ngon, một giờ bực mình. Nhưng khi kiểu suy nghĩ như vậy trở
thành một mẫu hình lan tràn khắp thế giới, thấm chí vào lời luận bàn trong gia
đình hay bè bạn, thậm chí cả những sự kiện trong xã hội rnói chung, nó sẽ trở
thành khổ đau, nguồn đáng kể của chúng ta.
Trong khi mở rộng quan hệ mật thiết về loại suy nghĩ hẹp hòi
này, Jacques Lusseyran đã từng đưa ra một nhận xét sâu sắc. Lusseyran, bị mù từ
năm 8 tuổi, là người sáng lập tập đoàn kháng chiến trong Đệ Nhị Thế Chiến. Cuối
cùng, ông bị Quân Đức bắt và cầm tù tại Trại Tập Trung Buchenwald. Sau này kể lại
những kinh nghiệm của ông tại trại tù, Lusseyran nói, "... Lúc đó tôi thấy
bất hạnh đến với mọi người chúng tôi, vì chúng ta nghĩ mình là trung tâm thế giới,
vì chúng ta có một niềm tin khốn khổ là chỉ có mình chúng ta đau khổ đến mức
không chịu nổi. Sự bất hạnh là cảm thấy mình luôn bị cầm tù trong cái đẫy da bọc
thân của mình, trong tâm trí của mình."
'NHƯNG ĐIỀU ĐÓ KHÔNG CÔNG BẰNG'
Trong đời sống hàng ngày, khó khăn luôn luôn phát sinh. Nhưng bản
thân khó khăn không tự động gây đau khổ. Nếu chúng ta có thể trực tiếp giải quyết
các khó khăn và tập trung nghị lực của chúng ta vào việc tìm giải pháp, chẳng hạn,
khó khăn có thể biến đổi thành thử thách. Tuy nhiên nếu chúng ta rơi vào sự lẫn
lộn, cảm thấy khó khăn của ta là "không công bằng", tức là chúng ta
đã thêm chất liệu để nó trở thành nhiên liệu mạnh tạo tinh thần bất an và cảm
xúc đau đớn. Và bây giờ chúng ta có không chỉ hai khó khăn thay vì một, mà còn
cảm thấy "bất công" làm rối trí chúng ta, làm hao mòn chúng ta, và cướp
đi nghị lực cần thiết để giải quyết khó khăn gốc ban đầu.
Nêu vấn đề với Đức Đạt Lai Lạt Ma vào một buổi sáng, tôi hỏi:"Làm
sao có thể đối phó với cảm nghĩ bất công xem ra thường hành hạ chúng ta khi khó
khăn phát sinh?
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Có thể có nhiều cách đối trị với
cảm tưởng đau khổ của ta là bất công. Tôi đã nói về tầm quan trọng của sự chấp
nhận khổ đau là việc tất yếu trong đời sống con người. Và tôi nghĩ rằng ở một số
khía cạnh người Tây Tạng đã ở trong vị thế chấp nhận thực tại khó khăn tốt hơn,
vì họ sẽ nói "Có thể đó là do Nghiệp của tôi trong quá khứ". Họ sẽ đổ
việc đó cho những hành động tiêu cực phạm ở đời này hay đời trước, do vậy có mức
chấp nhận lớn hơn. Tôi đã thấy một số gia đình định cư tại Ấn Độ trong tình trạng
hết sức khó khăn, sống trong cảnh hết sức nghèo và con cái còn bị mù cả hai mắt
hoặc đôi khi đôi khi trì độn. Và bằng cách này hay cách khác bà mẹ khổ sở đó vẫn
trông nom chúng, đơn giản chỉ than, "Đó là vì nghiệp của chúng, số phận của
chúng".
"Nói đến Nghiệp, ở đây tôi nghĩ rằng quan trọng là phải lưu
ý và hiểu rằng đôi khi vì hiểu nhẩm học thuyết về Nghiệp, chúng ta hay đổ lỗi mọi
việc cho Nghiệp và cố gắng tự miễn cho mình trách nhiệm hay sự cần thiết phải
có chủ động. Ta hoàn toàn có thể dễ dàng nói, đó là do Nghiệp quá khứ của tôi,
Nghiệp quá khứ tiêu cực của tôi, và tôi phải làm gì? Tôi bất lực. Đó là một sự
lầm lẫn hoàn toàn về Nghiệp, vì lẽ dầu ta chịu hậu quả của những hành vi trong
quá khứ, nhưng không có nghĩa là cá nhân ta không còn lựa chọn nào khác hay
không còn khả năng chủ động để thay đổi, để tiến hành sự thay đổi tích cực. Và
nó cũng vậy trong tất cả các lãnh vực đời sống. Ta không nên trở thành thụ động,
và cố bào chữa cho mình không phải chủ động với lý do mọi thứ đều là kết quả của
Nghiệp, vì lẽ nếu ta hiểu quan niệm về Nghiệp một cách đứng đắn, ta sẽ hiểu rằng
Nghiệp có nghĩa là "hành động". Nghiệp là một tiến trình hết sức tích
cực. Và khi chúng ta nói về Nghiệp, hay hành động thì đó là chính hành động của
mỗi người gây ra, trong trường hợp này của chính chúng ta trong quá khứ. Vậy kiểu
tương lai nào sẽ xẩy ra, nói rộng ra, nằm trong tay bạn ở hiện tại. Nó sẽ được
quyết định bởi loại chủ động mà bạn áp dụng bây giờ. "Cho nên Nghiệp không
nên được hiểu là loại tác động thụ động, tĩnh tại, mà đúng ra phải hiểu là tiến
trình tích cực. Điều này cho thấy tác động cá nhân đóng một vai trò quan trọng
trong việc quyết định diễn biến của tiến trình Nghiệp. Chẳng hạn, ngay cả một
hành động bình thường hay một mục đích bình thường, như nhu cầu ăn uống... Muốn
đạt được mục tiêu đơn giản ấy, chúng ta cần một hành động của chính chúng ta.
Chúng ta cân phải kiếm thực phẩm, rồi thì chúng ta cần phải ăn, điều này cho thấy
cả đến một hành động tầm thường nhất, thậm chí một mục tiêu đơn giản chỉ có thể
đạt được nhờ hành động..."
"Vậy thì, giảm thiểu cảm nghĩ bất công bằng cách chấp nhận
điều đó là kết quả của Nghiệp có thể rất hữu hiệu cho người Phật Tử" Tôi
xen vào, " Nhưng đối với những người không tin tưởng vào học thuyết về
Nghiệp, chẳng hạn rất nhiều người Phương Tây thì thế nào?...
"Những người tin tưởng vào khái niệm Đâng Sáng Tạo, Thượng
Đế, có thể chấp nhận những hoàn cảnh khó khăn dễ dàng hơn bằng cách xem mình là
một phần sáng tạo của Thượng Đế hay ý định của Thượng Đế. Họ có thể cảm thấy rằng
dầu vậy, tình hình dường như rất tiêu cực. Thượng Đế toàn năng và rất nhân từ,
cho nên có một ý nghĩa lnào đó, một tầm quan trọng nào đó là ẩn sau tình thế đó
mà người ta không biết được. Tôi nghĩ là hồ như niềm tin như vậy có thể trợ sức
và giúp đỡ họ trong lúc khổ đau.
"Những người không tin học thuyết về Nghiệp và khái niệm
Thượng Đế Sáng Tạo thì sao?"
"Với những người không có niềm tin.., "Đức Đạt Lai Lạt
Ma suy nghĩ một lát trước khi trả lời, "... có lẽ một cách giải quyết thực
tiễn và khoa học có thể giúp ích. Tôi nghĩ rằng các khoa học gia thường coi trọng
cách nhìn vào vấn đề một cách khách quan, nghiên cứu vấn đề mà không để cho
tình cảm dính líu. Bằng cách giải quyết như vậy, bạn có thể nhìn vào vấn đề với
một thái độ "Nếu có cách tranh đấu, thì tranh đấu, thậm chí có phải ra
tòa? Ngài cười ." Nếu bạn không thể thắng được, bạn chỉ có thể quên nó
đi."
"Một phân tích khách quan khiến tình thế khó khăn hay giải
quyết có thể rất quan trọng, vì lẽ với cách nắm bắt vấn đề này bạn thường sẽ thấy
có thể có nhiều nhân tố liên can khác ở hậu trường. Chẳng hạn, nếu bạn cảm thấy
bị xử đối bất công bởi ông chủ nơi làm việc, có nhiều nhân tố khác liên quan,
có thể ông ta bị khó chịu bởi điều gì đó, cãi vã với vợ ông ta sáng này hay điều
gì đó, và cách hành xử của ông ta chẳng liên quan gì đến cá nhân bạn cả, có thể
không rõ ràng là nhằm vào bạn. Đương nhiên, bạn vẫn phải đối đầu mặc dù tình thế
như thế nào, nhưng ít nhất với cách thức giải quyết này, bạn không thêm phần lo
ấu vào sự lo ấu đã có." "Loại giải quyết 'khoa học' này phân tách
tình hình một cách khách quan, có thể giúp ta khám phá ra những khía cạnh mà
chính ta đã góp phần vào vấn đề không? Điều đó giúp giảm thiểu cảm nghĩ bất
công liên quan đến tình huống khó khăn không?"
"Có chứ" Ngài trả lời một cách nhiệt tình."Điều
đó nhất định có tác động. Thông thường, nếu ta xem xét tỉ mỉ bất cứ trạng huống
nào với một cách không thiên vị và chân thật, chúng ta sẽ nhận ra rằng ở một phạm
vi rộng, chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về cái bộc phát các sự việc.
"Chẳng hạn, nhiều người đổ lỗi Chiến Tranh Vùng Vịnh cho
Saddam Hussein. Sau đó, trong một vài dịp, tôi đã nói. 'Như vậy không công bằng
'! Trong những hoàn cảnh như vậy, tôi thật sự cảm thấy phần nào tiếc cho Saddam
Hussein. Đương nhiên ông là một nhà độc tài, đương nhiên có nhiều chuyện xấu về
ông ta. Nếu nhìn vào tình thế một cách đại khái, rất dễ dàng đổ tất cả tội lỗi
cho ông ta - ông là kẻ độc tài, chuyên chế, và thậm chí mắt ông ta cũng có vẻ
đáng sợ? Ngài cười."Nhưng nếu ông không có quân đội, khả năng gây tác hại
sẽ bị giới hạn và nếu không có trang bị quân sự, đạo quân hùng mạnh ấy không thể
hoạt động được. Tất cả trang bị quân sự không tự nó sinh ra từ không khí loãng!
Cho nên khi ta nhìn vào điều đó như vậy, ta thấy có nhiều quốc gia dính líu
vào. "Vậy" Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp, " thường thường ta hay đổ lỗi
cho người khác về những khó khăn của chúng ta, về những nhân tố bên ngoài. Hơn
nữa chúng ta chỉ tìm kiếm nguyên nhân một chiều, rồi cố miễn trách nhiệm cho
mình. Dường như bất cứ lúc nào có cảm xúc mạnh thì thường hay có sự sai biệt giữa
những sự việc biểu lộ như thế nào và chúng thực đúng ra sao. Trong trường hợp
này, nếu bạn đi xa hơn nữa và phân tích trạng huống thật cẩn thận, bạn sẽ nhận
thấy Saddam Hussein chỉ là một phần của vấn đề, một trong nhiều yếu tố, ngoài
ra còn có nhiều điều kiện khác góp phần vào. Một khi bạn nhận thức được như vậy,
thái độ trước đây cho rằng chỉ mình ông ta là nguyên nhân tự động không còn nữa
và thực tế của tình hình sẽ hiện ra.
"Thói quen này dẫn đến đến việc nhìn vào sự việc một cách
toàn diện hơn - nhận thức rằng nhiều biến cố góp phần vào tình hình. Thí dụ, vấn
đề của chúng tôi với Trung Hoa- cũng vậy chúng tôi đã góp phần gây ra. Tôi nghĩ
rằng có lẽ thế hệ của chúng tôi có thể đã góp phần tạo ra tình hình này, nhưng
nhất định thế hệ trước chúng tôi, tôi suy xét, rất rất chểnh mảng, ít nhất cũng
một vài thế hệ trước. Cho nên tôi nghĩ rằng, chúng tôi, người Tây Tạng, đã góp
phần vào tình trạng bi thảm này. Sẽ không công bằng nếu đổ lỗi tất cả cho Trung
Hoa. Nhưng có nhiều mức độ. Đương nhiên, mặc dù chúng tôi có thể là nhân tố góp
phần vào tình hình, nhưng không có nghĩa là chỉ trách cứ mình chúng tôi. Thí dụ,
người Tây Tạng không bao giờ chịu khuất phục dưới sự áp bức của Trung Hoa, để
có sự kháng cự liên tục. Vì điều đó người Trung Hoa triển khai một chính sách mới
- di dân Trung Hoa sang Tây Tạng, để dân số Tây Tạng trở thành thiểu số, người
Tây Tạng bị chiếm chỗ, phong trào tranh đấu đòi tự do không thể còn hữu hiệu.
Trong trường hợp này, chúng ta không thể nói là cuộc kháng chiến của người Tây
Tạng đáng trách hay chịu trách nhiệm về chính sách của Trung Hoa."
Tôi hỏi, "Khi chúng ta nhìn vào sự góp phần của mình vào
tình huống, Ngài nghĩ sao khi tình huống ấy rõ ràng không phải là do lỗi của
mình dù mình không mảy may dính líu gì đến, ngay cả những tình huống không đáng
kể hàng ngày, như khi một người cố ý nói dối bạn?"
"Đương nhiên, đầu tiên tôi có thể cảm nhận thấy thất vọng
khi một người nào đó không thành thực, nhưng dù vậy, nếu tôi xem xét tình huống,
tôi có thể khám phá thực ra động cơ thúc đẩy họ dấu giếm tôi một điều gì đó
không phải là kết quả của một động cơ xấu. Có thể đơn giản chỉ là thiếu tin
tôi. Cho nên thỉnh thoảng khi tôi cảm thấy thất vọng bởi những loại vụ việc đó
tôi cố nhìn họ dưới một góc độ khác, tôi sẽ nghĩ rằng có lẽ người đó không hoàn
toàn tin tôi vì tôi không thể giữ bí mật. Tính tôi thường thẳng thắn, vậy nên
vì lẽ đó người ấy có thể đã quyết định tôi đúng không phải là người có thể giữ
bí mật, và tôi có lẽ không thể giữ được bí mật khi nhiều người mong muốn. Nói một
cách khác, tôi không phải là người đáng tin cậy vì bản tính cá nhân của tôi.
Cho nên, nhìn vào điều đó bằng cách ấy, tôi phải coi nguyên nhân là vì lỗi của
chính tôi.
Thậm chí bắt nguồn từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, cách phân tích nguyên
nhân này dường như hơi giống sự suy rộng nghĩa - tìm ra sự góp phần của chính
mình" vào tính không trung thực của người khác. Nhưng có một sự thành thật
xác thực trong giọng nói của Ngài khi Ngài nói, gợi ý rằng thực tế đâu là kỹ
thuật Ngài đã sử dụng ưu thế thực tiễn trong đời tư của Ngài để đối trị nghịch
cảnh. Áp dụng kỹ thuật đó vào đời sống của chúng ta, đương nhiên chúng ta có thể
không thường thành công trong việc tìm ra sự đóng góp phần của chính mình vào
tình huống khó khăn. Nhưng dù thành công hay không, ngay cả sự cố gắng chân thật
muốn tìm ra sự góp phần của mình vào vấn đề cho phép thay đổi trọng tâm giúp khắc
phục được lối suy nghĩ hẹp hòi dẫn đến cảm nghĩ thiếu xấy dựng về bất công mà
nó là nguồn bất mãn trong chính chúng ta và trên thế giới.
TỘI LỖI
Là sản phẩm của một thế giới không hoàn hảo, tất cả chúng ta đều
không hoàn hảo. Mỗi người trong chúng ta đều đã làm điều gì đó sai trái. Có nhiều
sự việc chúng ta hối hận.- những sự việc chúng ta đã làm hay những sự việc
chúng ta đáng lẽ phải làm. Thừa nhận sự sai lầm với ý thức hối hận chân thành,
giúp ta bám sát được con đường chính đáng trong đời và khích lệ chúng ta sửa chữa
những lỗi lầm lúc có thể và có biện pháp để uốn nắn những sự việc trong tương
lai. Nhưng nếu chúng ta để sự hối tiếc chuyển thành tội lỗi thái quá cứ bám chặt
vào ký ức về những tội lỗi trong quá khứ mà tự trách mình và tự căm ghét mình
triền miên, điều đó chẳng đi đến đâu ngoài việc là nguyên nhân hành hạ mình
không ngưng và tự gây đau khổ.
Trong cuộc đàm đạo trước đây chúng ta có nói qua về cái chết của
người anh Ngài, tôi nhớ là Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói đến điều Ngài hối hận về
cái chết của anh Ngài. Tò mò về cách Ngài đối trị với cảm nghĩ hối hận, và có
thể là cảm nghĩ tội lỗi, tôi trở lại vấn đề trong cuộc đàm luận sau đó, hỏi
Ngài, " Khi Ngài nói về cái Chết của Lobsang, Ngài có nói đến hối hận. Có
tình huống nào khác trong đời Ngài mà Ngài hối hận nữa không?"
Ồ, có chứ. Chẳng hạn có một nhà sư già sống ẩn tu. Trước đây vị
sư này có đến gặp tôi để thỉnh giáo, mặc dầu tôi nghĩ rằng vị này thực sự cao đạo
hơn tôi nhưng đến gặp tôi như thể là thủ tục. Dầu vậy một hôm nhà sư này đến và
hỏi tôi về tu tập bí truyền mức cao. Tôi vô tình nhận xét sự tu tập này rất khó
thực hành và có lẽ nó thích hợp với người trẻ hơn, và theo truyền thống việc tu
tập này bắt đầu ở giữa tuổi vị thành niên. Sau này tôi khám phá ra nhà sư này
đã tự tử để được tái sanh vào một thân thể trẻ hơn hầu tu tập theo cách này cho
được hiệu quả hơn..."
Ngạc nhiên về câu chuyên này, tôi nhận xét "Ồ, thật là ghê
gớm. Hẳn là khó khăn cho Ngài khi Ngài hay tin...
Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu buồn bã.
Ngài làm thế nào đối trị với cảm nghĩ hối hận như vậy? Làm sao
cuối cùng Ngài có thể rũ bỏ được nó?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm một lát trước khi trả lời,
"Tôi không quên được, nó vẫn còn đây" Ngài ngừng lại một lúc rồi mới
tiếp tục, "Tuy cảm nghĩ hối hận vẫn còn đó, nhưng nó không liên kết với cảm
nghĩ buồn phiền hay có tính chất lôi kéo tôi quay về. Nó không ích lợi gì cho
ai cả nếu tôi để cảm nghĩ hối tiếc đó đè nặng lên tôi là nguyên nhân gây nản
chí và thất vọng không có mục đích gì hoặc cản trở khả năng tôi tiếp tục phát
huy hết của tôi trong đời sống."
Vào lúc đó, hoàn toàn theo bản năng, điều làm tôi chú ý là con
người có khả năng thực sự đối đầu hoàn toàn với những bi kịch của cuộc đời và
phản ứng bằng cảm xúc, thậm chí bằng hối tiếc, mà không cho phép mình mặc cảm tội
lỗi thái quá hoặc coi thường mình. Con người hoàn toàn có khả năng chấp nhận
mình, là có giới hạn, nhược điểm, và suy xét lầm lẫn. Có khả năng thừa nhận
tình hình khó khăn về vấn đề nào đó và có phản ứng bằng cảm xúc, nhưng không phản
ứng quá mức. Đức Đạt Lai Lạt Ma thành thực cảm thấy hối hận về việc xẩy ra mà
Ngài đã mô tả nhưng kèm theo tâm trạng hối hận là phẩm giá và tình thương. Và
trong khi mang tâm trạng hối hận này, Ngài không để sự hối tiếc này đè nặng lên
Ngài thay vì như vậy Ngài vẫn tìm cách tiến lên và tập trung vào giúp đỡ người
khác bằng khả năng tối đa của Ngài.
Đôi khi tôi băn khoăn rằng liệu khả năng sống mà lại không để
cho tội lỗi dằn vặt mình là một phần của văn hóa không. Kể lại cuộc đàm luận với
Đức Đạt Lai Lạt Ma về hối hận với người bạn, một học giả Tây Tạng, tôi được biết,
thực ra trong ngôn ngữ Tây Tạng, thấm chí không có từ ngữ nào tương đương với từ
"tội lỗi" trong tiếng Anh, mặc dù có những từ có nghĩa "ăn
năn", "hối hận" hay "hối tiếc" nhưng có ý nghĩa sửa chữa
trong tương lai."
Tuy nhiên dù ý nghĩa thành phần cấu tạo văn hóa như thế nào, tôi
tin tưởng rằng bằng cách cân nhắc lại thói quen suy tư của chúng ta, và bằng
cách trau dồi cách nhìn tinh thần khác biệt dựa vào những nguyên tắc mà Đức Đạt
Lai Lạt Ma nêu ra, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể học được cách sống
không có vết nhơ tội lỗi khi nó chẳng làm được gì cả ngoài việc gây cho chính
mình khổ đau không cần thiết.
CHỐNG LẠI SỰ THAY ĐỔI
Tội lỗi nảy sinh khi chúng ta thuyết phục mình là chính chúng ta
đã gây ra các lầm lỗi không thể sửa chữa được. Sự dày vò của tội lỗi là cứ cho
rằng bất cứ vấn đề gì cũng là không thay đổi. Tuy nhiên vì không có gì không
thay đổi, cho nên đau đớn cũng vậy rồi sẽ dịu đi - Vân đề không còn tồn tại. Đó
là mặt tích cực của đổi thay. Mặt tiêu cực là chúng ta chống lại sự thay đổi gần
như trong mọi phạm vi hoạt động của cuộc sống. Điểm xuất phát để thoát khỏi khổ
đau là khám phá ra một trong những nguyên nhân chính: chống lại sự thay đổi.
Mô tả bản chất luôn luôn thay đổi của cuộc sống, Đức Đạt Lai Lạt
Ma giải thích, " Hết sức quan trọng là tìm ra nguyên nhân hay nguồn gốc của
khổ đau, và khổ đau phát sinh ra sao. Ta phải bắt đầu tiến trình này bằng cách
hiểu rõ bản chất tạm bợ phù du trong cuộc sống của chúng ta. Tất cả mọi sự, các
sự kiện và hiện tượng là đông lực thay đởi từng khoảnh khắc, không có gì đứng
yên. Nghĩ về sự tuần hoàn của mạch máu có thể dùng để củng cổ khái niệm này,
máu luôn luôn chảy, chuyển động và không bao giờ đứng nguyên một chỗ. Bản chất
thay đổi từng khoảnh khắc của hiện tượng này giống như một cơ chế gắn liền. Và
vì bản chất của tất cả hiện tượng đều thay đổi từng khoảnh khắc, nó cho chúng
ta thấy tất cả mọi sự vật đều không có khả năng tồn tại mãi không có khả nâng
giữ chúng mãi mãi nguyên như vậy. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi, không có cái
gì có thể hiện hữu trong điều kiện vĩnh viễn, không có gì có thể giữ nguyên bằng
sức mạnh của chính nó. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi, không có gì tồn tại
mãi, không có gì không thay đổi trước sức tác động độc lập với nó. Vì thế mọi sự
chịu tác động hay ảnh hưởng của những yếu tố khác. Cho nên, vào bất cứ lúc nào,
dù bạn có thích thú hay thú vị đến đâu thì cũng không lâu bền. Điều này trở
thành cơ sở phân loại khổ đau được biết trong Phật Giáo cho là 'đau khổ về đổi
thay'."
Khái niệm vô thường đóng một vai trò chính trong tư tưởng Phật
Giáo, và suy tưởng về vô thường là sự tu tập then chốt. Suy tưởng về vô thường
phục vụ hai chức năng chính yếu trong phạm vi Phật đạo. Ở mức độ thông thường
hay trong ý nghĩa hàng ngày, người tu tập Phật Giáo suy tưởng cái vô thường của
chính mình- sự thật là đời sống rất mong manh và chúng ta không biết sẽ chết
lúc nào. Khi phối hợp suy nghĩ này với niềm tin vào cuộc sống hiếm có của con
người, và khả năng đạt được tình trạng Giải Thoát tinh thần, khả năng thoát khỏi
khổ đau và vòng tái sinh vô tận, thì việc suy tưởng này được dùng để tăng quyết
tâm của người tu tập trong việc sử dụng thời giờ của mình vào lợi ích tốt nhất,
bằng cách dân thân vào việc hành trì đưa đến Giải Thoát. Ở mức độ cao hơn, suy
tưởng về những khía cạnh tinh tế hơn của vô thường, bản chất vô thường của tất
cả hiện tượng, người tu tập bắt đầu truy tìm bản chất thực sự của thực tại, và
nhờ sự hiểu biết này, phá tan vô minh, nguồn gốc khổ đau chủ yếu của chúng ta.
Cho nên, trong khi suy tưởng về vô thường có một ý nghĩa to lớn
trong phạm vi Phật Giáo, câu hỏi được nêu lên: Suy tưởng và hiểu biết về vô thường
có ứng dụng thực tiễn nào trong đời sống hàng ngày cho người không phải là Phật
Tử không? Nếu chúng ta nhìn khái niệm "vô thường" từ một lập trường
"thay đổi", thì cậu trả lời nhất định là có. Xét cho cùng, dù ta nhìn
đời bằng một nhãn quan Phật Giáo hay Tây Phương, sự thực vẫn là cuộc sống luôn
thay đổi. Tới mức độ này mà chúng ta vẫn không chấp nhận sự thật đó và chống lại
những thay đổi tự nhiên của cuộc sống, chúng ta tiếp tục kéo dài mãi khổ đau của
chúng ta.
Chấp nhận sự thay đổi có thể là một nhân tố quan trọng trong việc
giảm thiểu mức khổ đau do chúng ta tự tạo ra. Cho nên thường là chúng ta gây
nên khổ đau cho chính chúng ta vì không chấp nhận từ bỏ quá khứ. Nếu chúng ta
xác định hình ảnh cho chúng ta bằng những gì thường có vẻ giống hoặc có thể có
vẻ giống hay không thể có vẻ giống thì chắc chắn chúng ta sẽ hạnh phúc hơn khi
về già. Đôi khi, chúng ta càng cố bám níu thì đời lại càng trở nên kỳ cục và
méo mó. Khi chấp nhận sự thay đổi không tránh được như một nguyên tắc tổng
quát, chúng ta có thể đối phó được nhiều vấn đề, giữ một vai trò tích cực hơn
nhờ học riêng về những thay đổi bình thường trong cuộc sống có thể ngăn chặn được
nhiều hơn nữa những lo ấu hàng ngày, nguyên nhân của nhiều phiền muộn của chúng
ta.
Phát giác ra giá trị của việc công nhận sự thay dổi bình thường
trong cuộc sống, một bà mới sanh kể cho tôi nghe chuyện bà đến phòng cấp cứu
lúc 2 giờ sáng.
"Có chuyện gì thế?" viên bác sĩ nhi khoa hỏi bà.
"Con tôi, tôi không biết nó làm sao!", bà ta khóc dữ dội,
"tôi nghĩ rằng nó bị ngạt thở hay sao ấy. Lưỡi nó cứ thè ra; đúng là nó cứ
thè lưỡi ra, lặp đi lặp lại nhiều lần như nó muốn nhổ ra một cái gì, nhưng
trong miệng nó không có gì cả ..."
Sau một vài câu hỏi và khám bệnh lẹ làng, viên bác sĩ bảo đảm với
bà ta, " Không có gì lo ngại cả. Khi đứa trẻ lớn lên nó ngày càng phát triển
ý thức nhiều về thân thể nó và nó xem thân thể có thể làm gì. Con bà mới khám
phá ra cái lưỡi của nó" Margaret, một ký giả ba mươi mốt tuổi, minh họa tầm
quan trọng chủ yếu của việc hiểu biết và chấp nhận thay đổi trong phạm vi quan
hệ cá nhân. Cô đến gặp tôi phàn nàn về một ít lo ấu mà cô cho là khó thích ứng
với việc ly dị mới đây của cô.
Cô giải thích, "tôi nghĩ rằng có một vài cuộc gặp gỡ để
chuyện trò với một người nào đó là một ý kiến hay, nó giúp tôi bỏ quá khứ và trở
về đời sống độc thân. Thật thà mà nói, tôi hơi bồn chồn về việc ấy"
Tôi hỏi cô về hoàn cảnh ly dị của cô.
"Chắc tôi phải nói việc ly dị được giải quyết êm thấm.
Không có mâu thuẫn, lục đục gì lớn hay điều gì tương tự. Chồng tôi và tôi đều
có công ăn việc làm tốt, cho nên chúng tôi không có vấn đề gí phải giải quyết về
tài chánh cả. Chúng tôi có một đứa con trai và dường nhu nó có thể thích nghi với
việc ly dị của chúng tôi, chồng tôi và tôi đồng ý cả hai đều có quyền trông nom
con, và việc này tiến triển tốt đẹp..."
"Ồ, tôi muốn hỏi là điều gì đã dẫn đến ly dị?
"Hừm... Tôi cho rằng chúng tôi không còn thương yêu
nhau", bà thở dài " dường như tình yêu lãng mạn dần dần không còn nữa,
chúng tôi không còn khăng khít như lúc ban đầu mới cưới. Chúng tôi đều quá bận
về công ăn việc làm và con chúng tôi hầu như bị bỏ mặc. Chúng tôi đã có một vài
lần đến văn phòng cố vân về hôn nhân, nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Chúng tôi vẫn
sống với nhau, nhưng giống như tình anh em chị em. Không cảm thấy tình yêu,
tình yêu vợ chồng thực sự Dù sao, chúng tôi cùng thỏa thuận, tốt hơn là chúng
tôi nên ly dị, để không còn điều gì nữa.
Sau hai lần đến khám bệnh mô tả vấn đề của cô, chúng tôi quyết định
áp dụng một phương pháp chữa tâm lý ngắn hạn, đặc biệt tập trung vào giúp cô giảm
thiểu lo ấu và điều chỉnh những thay đổi cuộc sống gần đây của cô. Nhìn chung,
cô là một người thông minh và là một người thích nghi dễ dàng về mặt cảm xúc.
Cô đã đáp ứng tốt đẹp trong đợt trị bệnh ngắn ngày và dễ dàng chuyển trở lại cuộc
sống độc thân.
Mặc dù lo lắng cho nhau, rõ ràng Margaret và chồng cô đã hiểu sự
thay đổi mức độ say mê là dấu hiệu chấm dứt hôn nhân. Nhiều khi chúng ta thường
hiểu sự giảm thiểu say mê là một dấu hiệu báo có vấn đề tai hại trong mối quan
hệ. Những lời to nhỏ đầu tiên về sự thay đổi trong mối quan hệ có thể tạo ra ý
nghĩa hoảng sợ, một cảm giác hết sức sai lầm. Có lẽ xét cho cùng là chúng ta đã
không chọn đúng người bạn đường. Người bạn đường không giống người mà chúng ta
mê say. Những bất đồng xuất hiện - chúng ta có ý muốn quan hệ tình dục, nhưng
người bạn đường của chúng ta lại mệt mỏi, chúng ta muốn đi xem một bộ phim đặc
biệt nhưng người bạn đường lại không thích hoặc luôn luôn bận rộn. Chúng ta
khám phá ra có nhiều dị biệt mà trước đây chúng ta không bao giờ thấy. Cho nên,
chúng ta kết luận, phải chấm dứt, rốt cuộc, không phải lẩn tránh sự thật là
chúng tôi trở nên có khoảng cách. Mọi việc không còn như cũ nữa, chúng tôi nên
ly dị.
Cho nên chúng ta phải làm gì? Những chuyên gia về quan hệ đẻ ra
háng tá sách, những cuốn sách nấu ăn bảo chúng ta phải làm gì khi đam mê và ngọn
lửa tình ái lãng mạn trở nên yếu dần. Họ đưa ra vô số gpợ ý được đứa ra để nhen
nhóm lại ngọn lửa tình yêu lãng mạn -sắp xếp lại thời khóa biểu nhằm ưu tiên
cho tình yêu lãng mạn, trù tính các bữa ăn chiều mơ mộng lãng mạn, hoặc đi chơi
xa ngày nghỉ cuối tuần, khen ngợi người bạn đường, học hỏi cách trò chuyện có ý
nghĩa. Đôi khi những việc này có kết quả, đôi khi không.
Nhưng trước khi tuyên bố mối quan hệ này chết, một trong những
việc có lợi ích nhất mà chúng ta có thể làm được là khi chúng ta nhận thấy có
thay đổi thì hãy lùi lại, đánh giá tình hình, và trang bị cho mình càng nhiều
kiến thức càng tốt những mẫu bình thường về thay đổi trong mối quan hệ.
Khi đời sống của chúng ta tiến triển, chúng ta phát triển từ lúc
ẵm ngửa đến tuổi thiếu niên, đến tuổi trưởng thành, đến tuổi già. Chúng ta chấp
nhận những thay đổi trong sự phát triển cá nhân như một tiến triển tự nhiên.
Nhưng mối quan hệ cũng là một hệ thống động, gồm có hai cơ quan tác động lẫn
nhau trong môi trường sinh động. Là một hệ thống sống, cũng tự nhiên và bình
thường là sự quan hệ phải đi qua các giai đoạn. Bất cứ mối quan hệ nào cũng có những
phương diện gần gũi thân mật khác nhau- thể xác, cảm xúc, và trí tuệ. Tiếp xúc
thể xác chia sẻ cảm xúc, tư tưởng và trao đổi ý kiến hoàn toàn là những cách
chính đáng của sự liên hệ với người mình thương yêu. Mạnh lên rồi yếu đi là
bình thường nhằm cân bằng: đôi khi gần gũi thể xác suy giảm nhưng gần gũi cảm
xúc có thể tăng lên, có nhiều lúc chúng ta không muốn chia sẻ bằng lời mà chỉ
muốn được ôm ấp. Nếu chúng ta nhậy cảm với vấn đề này, chúng ta sẽ vui hưởng thời
kỳ say mê tươi đẹp đầu tiên trong mối quan hệ, nhưng nếu nó nguội lạnh, thay vì
cảm thấy lo ấu hay giận dữ, chúng ta có thể tự mình đi tới những hình thái thân
mật mới cùng đem lại thỏa mãn - hay có thể thỏa mãn nhiều hơn nữa. Chúng ta có
thể thích bạn tình là bạn đường đời, thích tình yêu vững chắc hơn, mối ràng buộc
sâu đậm hơn.
Trong tác phẩm Cư Xử Thân Mật Riêng Tư, Desmond Morris mô tả những
thay đổi bình thường xẩy ra trong nhu cầu gần gũi thân mật của con người. ông
đưa ra giả thiết mỗi người chúng ta lập đi lập lại qua ba giai đoạn: "Ôm
chặt lấy tôi", "Đặt tôi xuống", và " Để mặc tôi". Chu
trình này trước nhất trở nên rõ ràng trong những năm đầu cuộc đời khi đứa trẻ
chuyển từ giai đoạn "ôm chặt lấy tôi' tiêu biểu thời kỳ ẵm ngửa rồi đến
giai đoạn "Đặt tôi xuống" khi đứa trẻ lần đầu tiên thám hiểm thế giới,
tập bò, tập đi, và đạt được sự độc lập và tự quản nào đó tách khỏi người mẹ. Đấy
là một phần của sự phát triển và nẩy nở tự nhiên. Tuy vậy những giai đoạn ấy
không chỉ tiến theo một hướng, mà ở nhiều giai đoạn, đứa trẻ có thể kinh qua một
số lo ấu khi cảm giác tách rời trở nên quá lớn, thì đứa trẻ quay về với người mẹ
để tìm sự xoa dịu và gần gũi. Ở tuổi trưởng thành, giai đoạn "Để mặc
tôi" trở thành giai đoạn dễ nhận thấy nhất khi đứa trẻ vật lộn để hình
thành cá tính. Mặc dù điều ấy có thể là khó khăn và làm cha mẹ đau đớn, hầu hết
các chuyên gia đều công nhận đó là môt giai đoạn bình thường và cần thiết để
chuyển tiếp từ tuổi thơ ấu đến trưởng thành. Ngay trong giai đoạn này vẫn có sự
pha trộn của các giai đoạn. Trong đứa trẻ mới lớn la lối :"Để mặc
tôi" với cha mẹ, nhu cầu "ôm chặt lấy tôi" có thể được đáp ứng bởi
sự đồng cảm mạnh với nhóm bè bạn cùng lứa tuổi.
Trong mối quan hệ người lớn cũng vậy, sự thay đổi liên tục như vậy
cũng diễn ra. Mức thân mật gần gũi thay đổi, có những thời kỳ thân mật nhiều
hơn lẫn với những thời kỳ xa cách lâu hơn. Đấy cũng là một phần của chu trình
sinh trưởng và phát triển bình thường. Muốn tiến tới tiềm năng đầy đủ với tư
cách con người, chúng ta cần biết quân bình nhu cầu gần gũi và hòa hợp với các
thời kỳ khi chúng ta phải quay về nội tâm, với ý thức tự quản sinh trưởng và
phát triển với tư cách cá nhân. Nếu ta hiểu được như vậy, chúng ta sẽ không còn
phản ứng bằng kinh hãi và hoảng sợ khi lần đầu tiên nhận thấy mình " đang
tách rời khỏi" người bạn đường, không còn hoảng sợ gì khi nhìn nước thủy
triều xuống ở bờ biển. Đương nhiên, đôi khi sự xa cách tình cảm tăng lên có thể
báo hiệu những vấn đề nghiêm trọng trong mối quan hệ (giận dữ ngấm ngầm không
nói ra chẳng hạn) và thậm chí sự tan vỡ có thể xẩy ra. Trong những trường hợp
đó, những biện pháp như chữa bệnh có thể rất hữu ích. Nhưng đừng quên vấn đề
chính yếu là xa cách phát triển không tự động có nghĩa báo hiệu là tai họa. Nó
cũng có thể là một phần của chu kỳ đáp lại việc xác định mối quan hệ một lần nữa
trong một hình thái mới mà nó thể đoạt lại hay còn hơn cả sự thân mật gần gũi
trong quá khứ.
Cho nên, việc chấp nhận, hay thừa nhận sự thay đổi là một phần tự
nhiên trong phản ứng qua lại của chúng ta với người khác, đóng môt vai trò quan
trọng trong quan hệ. Chúng ta sẽ vỡ lẽ ra rằng chính vào lúc chúng ta cảm thấy
thất vọng, nhất như thể mối quan hệ không còn là cái gì đó, thì sự thay đổi sâu
xa xẩy ra. Giai đoạn chuyển tiếp này có thể trở thành điểm then chốt khi tình
yêu thực sự bắt đầu chín mùi và thăng hoa. Mối quan hệ của chúng ta không còn dựa
vào sự đam mê cao độ, coi người kia là hiện thân của sự tuyệt hảo, hoặc cảm thấy
hợp nhau. Nhưng trong khi trao đổi vì điều đó, chúng ta nay ở một vị trí bắt đầu
thực sự biết người kia - hiểu người kia là như thế, một cá nhân riêng rẽ, có thể
có khuyết điểm và nhược điểm, nhưng là một con người như chúng ta. Chính ở điệm
trọng tâm này mà chúng ta có thể đưa ra lời cam kết trước sự tăng trưởng của một
người kia - một hành động của tình yêu thực sự.
Có lẽ cuộc hôn nhân của Margaret có thể cứu được bằng cách chấp
nhận sự thay đổi tự nhiên trong quan hệ và thiết lập mối quan hệ mới dựa vào những
nhân tố không phải là đam mê và lãng mạn.
Tuy vậy may mắn là câu chuyện chưa chấm dứt tại đây. Hai năm sau
lần khám bệnh cuối cho Margaret, tôi tình cờ gặp cô trong khu vực cửa hàng cửa
hiệu (cảnh ngẫu nhiên gặp bệnh nhân cũ trong môi trường xã hội làm cho tôi,
cũng như hầu hết các bác sĩ chuyên khoa, cảm thấy một chút lúng túng).
Tôi hỏi, "Dạo này cô ra sao?"
Cô reo lên "Còn gì tốt hơn! Tháng trước, tôi và chồng cũ của
tôi tái hôn"
"Thực sao?"
"Vâng đúng, và mọi việc diễn ra tuyệt trần. Chúng tôi tiếp
tục gặp nhau vì cùng trông nom con. Dầu sao, lúc đầu cũng khó khăn... nhưng sau
khi ly dị, không biết làm sao áp lực không còn nữa. Chúng tôi không còn ước vọng
gì nữa. Và chúng tôi thấy chúng tôi thực sự thích nhau, và thương yêu nhau. Mọi
việc không giống như khi chúng tôi cưới nhau lần đầu., nhưng không thành vấn đề,
chúng tôi thực sự hạnh phúc. Tôi cảm thấy đúng như vậy."
PHẦN III
CẢI ĐỔI SỰ KHỔ ĐAU
(tiếp theo)
(tiếp theo)
-ooOoo-
CHƯƠNG 10
CHUYỂN ĐỔI CÁCH NHÌN
Ngày xưa có một đệ tử của một triết gia Hy Lạp được sư phụ ra lệnh
trong ba năm cho tiền bất cứ người nào chửi mình. Khi thời gian thử thách này
trôi qua, vị sư phụ nói với ông, "Bây giờ con có thể đến thành Athens để học
về sự thông thái". Khi người đệ tử vào thành Athens, ông gặp một người
thông thái ngồi tại cổng thành và chửi tất cả mọi người đi qua. ông ta cũng chửi
luôn người đệ tử, khiến người đệ tử bật cười. "Tại sao ông cười khi tôi chửi
ông?" người thông thái hỏi. Người đệ tử trả lời, "vì lẽ trong ba năm
trời, tôi đã phải trả tiền cho ai chửi tôi, nay ông chửi tôi mà tôi không phải
trả tiền". Người thông thái nói, "Vào thành đi, tất cả là của ông
đó".
Những cha cố Sa Mạc thế kỷ thứ tư, một loạt những người lập dị,
rút vào vùng Sa Mạc Scete, hy sinh suốt đời, cầu nguyện, dạy câu chuyện này để
minh họa giá trị của khổ đau và gian khổ. Tuy nhiên không phải chỉ có gian khổ
không thôi, nó mở cửa "thành phố trí tuệ" cho người đệ tử. Nhân tố
chính khiến cho người đệ tử có thể đối trị hiệu quả với tình thế khó khăn là khả
năng chuyển đổi cách nhìn, nhìn tình hình từ một điểm thuận lợi khác. "Khả
năng chuyển đổi cách nhìn có thể là một trong những công cụ mạnh và hữu hiệu nhất
mà ta có để đối phó với vấn đề cuộc sống hàng ngày". Đức Đạt Lai Lạt Ma giải
thích.
Khả năng nhìn vào các sự việc từ những khía cạnh khác rất ích lợi.
Khi thực hành điều này, ta có thể sử dụng một số kinh nghiệm, một số sự việc bi
thảm, để phát triển sự bình tĩnh của tâm. Ta phải nhận thức được rằng mỗi hiện
tượng, mỗi sự việc, có những khía cạnh khác nhau. Mọi sự có tính chất tương đối.
Thí dụ, trường hợp của tôi, tôi mất nước. Từ quan điểm ấy điều đó thật là bi thảm-
thậm chí còn có những điều tệ hại hơn nữa. Sự tàn phá đang xẩy ra trên đất nước
chúng tôi. Tình hình rất tiêu cực. Nhưng nếu tôi nhìn vào cùng một sự việc dưới
một góc độ khác, tôi nhận thức được rằng là một người tị nạn, tôi có một cách
nhìn khác. Với tư cách là người tị nạn tôi không cần phải có thủ tục, nghi lễ,
và nghi thức ngoại giao. Nếu mọi thứ vẫn vậy, nếu mọi thứ đều tốt đẹp, rồi thì
nhiều lúc bạn chỉ giả bộ, bạn đòi hỏi. Nhưng khi bạn phải trải qua những tình
huống tuyệt vọng, đâu có thì giờ mà đòi hỏi. Cho nên từ góc độ đó, kinh nghiệm
bi thảm này rất hữu ích cho tôi. Ngoài ra vì là người tị nạn nên nó tạo rất nhiều
cơ hội cho tôi gặp được nhiều người. Những người từ những truyền thống tôn giáo
khác nhau, từ những tầng lớp xã hội khác nhau, những người lẽ ra tôi không thể
gặp được nếu tôi vẫn ở trong nước. Cho nên theo ý nghĩa ấy điều đó rất ích lợi,
rất ích lợi. "Dường như là khi vấn đề phát sinh, cách nhìn của chúng ta trở
thành thiển cận. Tất cả sự quan tâm của chúng ta đều nhằm vào lo nghĩ về vấn đề,
và chúng ta có ý nghĩ là chỉ mình chúng ta gặp phải khó khăn này. Điều này hình
như có thể dẫn đến sự quan tâm quá mức cho bản thân làm cho vấn đề dường như rất
nặng nề. Khi điều này xẩy ra, tôi nghĩ là nhìn sự việc bằng một nhãn quan rộng
hơn nhất định có ích - chẳng hạn, nhận thức được rằng có nhiều người đã trải
qua những kinh nghiệm tương tự, thậm chí còn tệ hơn nữa. Tập thay đổi cách nhìn
có thể giúp ích trong một số bệnh tật hay khi đau đớn. Vào lúc đau đớn phát
sinh, đương nhiên lúc đó rất khó khăn, tập hành thiền qui củ để lắng đọng tâm
Nhưng nếu bạn có thể so sánh, nhìn tình thế của bạn dưới một khía cạnh khác, bằng
cách nào đó việc này. Nếu bạn chỉ nhìn vào một sự việc, thì nó có vẻ càng ngày
càng to hơn. Nếu bạn tập trung quá gần, quá mạnh vào một vấn đề khi nó xẩy ra,
thì dường như là không thể kiềm chế nổi. Nhưng nếu bạn so sánh sự việc đó với một
sự việc lớn hơn nào đó, nhìn vào cùng một vấn đề từ một tầm xa, thì dường như
nó nhỏ lại và không quá lớn."
Ngay trước một cuộc đàm thoại với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi tình cờ
gặp viên quản lý một trung tâm mà tôi từng làm việc. Trong nhiệm kỳ ở cơ sở đó,
tôi cãi lộn với ông nhiều lần vì lẽ tôi tin là ông ta đã dàn xếp việc trông nom
bệnh nhân để lấy tiền. Khá lâu tôi dã không gặp ông ta một thời gian, nhưng
ngay khi tôi gặp ông, chúng tôi tuôn ra hàng tràng lý lẽ và tôi cảm thấy cơn tức
và căm ghét trào lên trong tôi. Vào lúc tôi được đưa vào phòng khách sạn của Đức
Đạt Lai Lạt Ma cho cuộc thảo luận vào chiều hôm đó, tôi bình tĩnh lại, nhưng vẫn
cảm thấy một chút khó chịu.
Tôi bắt đầu, "Hãy nói về một người nào đó làm người ta tức
giận. Phản ứng tự nhiên của người ta là bị xúc phạm, phản úng tức khắc là giận
dữ. Nhưng trong nhiều trường hợp, không phải chỉ là vấn đề tức giận ngay lúc bị
xúc phạm. Sau này người ta có thể nghĩ đến sự việc này, thậm chí rất lâu sau
này, và mỗi khi nghĩ đến,thì giận dữ và cứ như thế mỗi lần. Làm sao Ngài có thể
đối trị với loại tình thế như vậy?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu một cách tư lự, rồi nhìn tôi. Tôi băn
khoăn không biết Ngài có cảm thấy tôi không đưa ra đề tài này vì lý do học thuyết
thuần túy hay không.
Ngài nói, "Nếu bạn nhìn vào một góc độ khác thì chắc chắn
việc làm cho bạn tức giận có nhiều khía cạnh tích cực, phẩm chất tích cực. Nếu
bạn xem xét một cách cẩn trọng, bạn sẽ thấy hành động làm bạn tức giận, cho bạn
một số cơ hội, một cái gì đó lẽ ra không thể có được về mặt khác, ngay từ quan
điểm của bạn. Vậy bằng nỗ lực, bạn có thể thấy nhiều góc độ khác nhau đối với một
sự việc. Điều này sẽ giúp ích cho bạn." "Nhưng Ngài nghĩ sao nếu Ngài
tìm kiếm những khía cách tích cực của một người hay sự việc mà không thấy gì cả?"
"Ở đây, tôi nghĩ rằng xử trí một tình huống, bạn cần phải
có một số cố gắng. Hãy dành thì giờ nghiêm chỉnh tìm kiếm một cách nhìn khác về
tình huống đó. Không chỉ trên bề mặt mà thật thẳng thắn và minh bạch.Bạn cần phải
sử dụng tất cả lập luận của bạn và nhìn vào tình huống càng khách quan càng tốt.
Chẳng hạn, bạn phải suy nghĩ trên thực tế là bạn có thực sự giận dữ một người
nào đó mà bạn cho rằng họ có tính tiêu cực 100 phần trăm. Cũng giống như khi bạn
bị một người nào đó lôi cuốn mạnh mẽ thường có khuynh hướng cho những người này
có tính tích cực 100 phần trăm. Nhưng sự nhận thức này không phù hợp với thực tế.
Nếu bạn thấy người bạn của quá tuyệt vời, người đó định làm hại bạn trên một
phương diện nào đó, đột nhiên bạn sẽ nhận thức sâu sắc là những người ấy không
có đức tính tốt 100 phần trăm. Cũng giống như vậy, nếu kẻ thù của bạn, người mà
bạn ghét, thành thực xin được bạn tha thứ và tiếp tục tỏ ý tốt với bạn, bạn
không thể nào tiếp tục cho rằng những người này là xấu. 100 phần trăm Vậy nên,
dù khi bạn giận dữ ai, bạn có thể cảm thấy rằng người ấy không có tính tích cực
thì sự thực là không ai xấu 100 phần trăm. Họ cũng có những tính tốt nếu bạn điều
tra đủ. Cho nên, khuynh hướng nhìn người hoàn toàn tiêu cực là do nhận thức của
riêng bạn căn cứ vào sự đoán định tinh thần của riêng bạn, chứ không phải là bản
chất thực sự của cá nhân ấy.
"Cũng vậy, một tình huống lúc đầu bạn nhận thức là tiêu cực
100 phần trăm, có thể có những khía cạnh tích cực. Nhưng tôi nghĩ rằng dù bạn
có khám phá ra một khía cạnh tích cực trước một tình huống xấu, chỉ có thế thôi
vẫn chưa đủ. Bạn còn cần phải củng cố ý niệm ấy. Cho nên bạn cần phải nhắc nhở
mình về khía cạnh tích cực ấy nhiều lần, cho đến khi cảm nghĩ của bạn thay đổi.
Nói chung, một khi bạn đã rơi vào tình huống khó khăn, không thể
thay đổi thái độ bằng cách thực hiện môt suy xét đặc biệt một hay hai lần. Đúng
hơn là phài qua một tiến trình học hỏi, rèn luyện, và làm quen với những quan
điểm mới giúp bạn có thể đối trị với khó khăn."
Đức Đạt Lai Lạt Ma suy nghĩ hồi lâu, giữ vững lập trường thực dụng
thường lệ của Ngài, Ngài nói thêm, "Tuy nhiên nếu bất chấp những cố gắng của
bạn, bạn không tìm được những khía cạnh hay cách nhìn tích cực trước hành động
của ai đó, thì lúc này con đường hành động tốt nhất là hãy cố gắng quên nó
đi." Thôi thúc trước lời nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tối khuya hôm đó, tôi
có gắng khám phá ra một số "góc độ tích cực" của viên quản lý, những
khía cạnh mà ông ta không phải là xấu 100 phần. Điều đó không khó; tôi biết ông
là một người cha rất thương con, chẳng hạn, ông cố gắng hết sức nuôi nâng con
cái. Và tôi phải công nhận việc cãi lộn với ông cuối cùng đã đem lợi ích cho
tôi - chúng là phương tiện để tôi quyết định bỏ không làm việc tại cơ sở này nữa
và cuối cùng dẫn tôi đến một công việc vừa ý hơn. Trong khi những suy ngẫm này
không ngay lập tức dẫn đến sự ưa thích người đàn ông này, nhưng chắc chắn chúng
đã làm cho tôi mất đi một số cảm nghĩ căm ghét bằng chỉ một chút cố gắng. Trong
chốc lát, Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra một bài học còn sâu sắc hơn: Cách thay đổi
hoàn toàn thái độ thù nghịch với kẻ thù và biết cách quý mến kẻ thù.
CÁCH NHÌN MỚI VỀ KẺ THÙ
Phương pháp chính của Đức Đạt Lai Lạt Ma để thay đổi thái độ đối
với kẻ thù liên quan đến sự phân tách có hệ thống và hợp lý về phản ứng thông
thường của chúng ta với những kẻ làm hại chúng ta. Ngài giảng giải:
"Trước nhất hãy nhận xét thái độ đặc trưng đối với địch thủ.
Nói chung, đương nhiên, chúng ta không mong muốn những điều tốt đẹp cho kẻ địch.
Nhưng dù kẻ địch không vui do những hành động của bạn, thì ở đây bạn có gì vui
vẻ chứ? Nếu bạn suy nghĩ cẩn trọng, làm sao có cái gì bất hạnh hơn thế? Mang
gánh nặng của cảm nghĩ thù nghịch và ác ý. Và bạn thực ra có muốn như vậy
không?
"Nếu bạn trả thù kẻ địch thì hình như chỉ tạo vòng lẩn quẩn
tội ác. Nếu bạn trả đũa người kia sẽ không nhận điều đó - họ sẽ trả đũa, rồi bạn
sẽ làm thế nữa, và cứ thế tiếp tục. Và đặc biệt khi điều này xẩy ra ở mức cộng
đồng, nó sẽ tiếp tục từ thế hệ này đến thế hệ khác. Kết quả lả cả hai phía đều
khổ đau. Rồi thì toàn bộ mục đích cuộc sống trở thành hỏng. Bạn có thể nhìn thấy
điều này trong trại tị nạn, nơi đây sân hận được nuôi dưỡng giữa nhóm này với
nhóm kia. Nó xẩy ra từ khi còn thơ ấu. Điều đó thật tệ hại. Cho nên, giận dữ và
sân hận giống như luỡi câu của người câu cá. Hết sức quan trọng cho chúng ta là
không được dể mắc vào lưỡi câu ấy.
"Hiện nay, nột số người coi căm thù mãnh liệt là tốt cho
quyền lợi quốc gia. Tôi nghĩ điều này là tiêu cực. Rất thiển cận. Chống lại lối
suy nghĩ này là cơ sở của tinh thần bất bạo động và hiểu biết."
Vì đã không chấp nhận thái độ đặc trưng của chúng ta đối với kẻ
thù, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục đưa ra một cách nhìn khác đối với kẻ địch, một
nhãn quan mới có thể có một tác động cách mạng trong đời sống của ta. Ngài giảng
giải:
Thường thường trong Phật Giáo người ta chú ý nhiều đến thái độ đối
với địch thủ hay kẻ thù. Đó là vì sân hận là chướng ngại vật lớn nhất cho việc
phát triển từ bi và hạnh phúc. Nếu bạn có thể học cách phát triển kiên nhẫn và
khoan dung đối với kẻ thù của bạn, thì mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều -
lòng từ bi của bạn đối với người khác bắt đầu tuôn chảy tự nhiên.
Vì vậy, đối với người tu tập tinh thần, kẻ thù đóng một vai trò
thiết yếu. Như tôi biết từ bi là cốt tủy đời sống tinh thần. Để bạn có thể hoàn
toàn thành công trong việc thực hành tình thương và từ bi, sự tu tập về nhẫn nại
và khoan dung là rất cần thiết. Không có tính dũng cảm chịu đựng tương tự với
nhẫn nại, thì cũng giống như không có tai họa nào tồi tệ hơn sân hận, Cho nên,
ta phải hết sức cố gắng không nuôi dưỡng sân hận với kẻ thù, mà tốt hơn là dùng
cuộc đấu trí ấy làm cơ hội nâng cao sự tu tập về nhẫn nại và khoan dung.
Thật ra, kẻ thù là điều kiện cần thiết để thực hành nhẫn nại.
Không có hành động của kẻ thù thì không thể có khả năng thành
công về nhẫn nại và khoan dung. Bạn bè chúng ta thuờng không thử thách và cho
chúng ta cơ hội trau dồi nhẫn nại, chỉ có kẻ thù của chúng ta mới cho chúng ta
cơ hội. Cho nên, từ lập trường ấy, chúng ta có thể coi kẻ thù của chúng ta là
những người thầy lớn và tôn kính họ đã cho chúng ta cơ hội quý báu tu tập nhẫn
nại.
"Ngày nay, có rất nhiều người trên thế giới, nhưng chúng ta
tương tác với khá ít người, và thậm chí lại càng ít người gây khó khăn cho
chúng ta. Cho nên khi bạn có dịp may để thực hành nhẫn nại và khoan dung, bạn
nên đối xử với lòng biết ơn. Thật là hiếm có. Chẳng khác gì bỗng nhiên tìm ra
được kho báu trong nhà bạn, bạn nên vui vẻ và biết ơn kẻ thù đã cho bạn cơ hội
quý báu. Vì lẽ nếu bạn chưa bao giờ thành công trong việc tu tập nhẫn nại và
khoan dung, chúng là những nhân tố chủ yếu để chống lại cảm xúc tiêu cực, thì
cũng là do sự phối hợp những nỗ lực của chính bạn và cơ hội mà kẻ thù mang lại.
"Đương nhiên, ta vẫn còn cảm thấy, "Tại sao tôi phải
tôn kính kẻ thù của tôi, hay thừa nhận sự đóng góp của họ, vì kẻ thù không có ý
muốn cho tôi cơ hội quý báu để tu tập nhẫn nại, không có ý muốn giúp đỡ tôi? Và
không những họ không mong muốn hay có ý định giúp tôi, nhưng họ còn có chủ ý hiểm
độc làm hại tôi! Cho nên đúng ra là phải căm ghét họ - họ nhất định không đáng
được kính trọng". Thực tế là có tâm trạng sân hận ở phía kẻ thù, ý đồ muốn
hại chúng ta, biến hành động của kẻ thù trở thành duy nhất. Mặt khác, nếu điều
đó chỉ đúng là một hành động làm hại chúng ta, thì chúng ta phải căm ghét các
bác sĩ và coi họ là kẻ thù vì thỉnh thoảng họ đã áp dụng các phương pháp đau đớn
như phẫu thuật Nhưng dầu vậy chúng ta vẫn không coi những hành động đó là gây
tai hại hay là những hành động của kẻ thù vì ý đồ của các bác sĩ là giúp đỡ
chúng ta. Vì thế cho nên đúng là chủ ý để hại chúng ta của kẻ thù biến thành
người duy nhất cho chúng ta cơ hội quý báu để tu tập nhẫn nại."
Ý kiến tôn kính kẻ thù của Đức Đạt Lai Lạt Ma vì cơ hội phát triển
mà họ cung cấp có thể hơi khó chấp nhận vào lúc ban đầu. Nhưng tình trạng này
cũng tương tự như người tập tạ cho thân hình mạnh khỏe và cân đối. Đương nhiên,
hoạt động nhấc tạ rất khó chịu lúc đầu vì tạ nặng. Ta gắng sức, đổ mồ hôi, đấu
tranh. Tuy vậy, nó đúng là một hành động tranh đấu chống lại sức kháng cự để rồi
mang lại sức mạnh cho chúng ta. Chúng ta có đánh giá cao dụng cụ cử tạ tốt
không phải vì bất cứ vui thích trực tiếp nào chúng cung cấp, mà là vì lợi ích
cuối cùng mà ta nhận được.
Có lẽ ngay cả việc Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định về tính hiếm
hoi và "tính quý giá" của kẻ thù cũng còn hơn chỉ là giải thích duy
lý kỳ khôi. Khi tôi nghe bệnh nhân của tôi mô tả những khó khăn của họ với những
người khác, điều này trở nên quá rõ ràng - khi sự việc đến, hầu hết mọi người
không có hàng đoàn kẻ thù hay đối thủ để tranh đấu, ít nhất ỏ mức độ cá nhân.
Thường thường, sự mâu thuẫn chỉ hạn chế ở một số ít người. Có thể ông chủ hay đồng
nghiệp, hay người hôn phối cũ, anh chị em ruột. Từ quan điểm trên, kẻ thù thực
rất hiếm - nguồn cung cấp rất giới hạn. Và đó là sự tranh đấu, một tiến trình
giải quyết xung đột với kẻ thù - nhờ học hỏi, quan sát, tìm ra những cách giải
quyết khác.- cuối cùng dẫn đến phát triển, hiểu biết sâu sắc, và kết quả chữa
trị bằng tâm lý thành công.
Hãy tưởng tượng sẽ ra sao suốt đời nếu ta không bao giờ phải đối
phó với kẻ thù, hay gặp trở ngại nào cả từ lúc nằm nôi cho đến khi xuống mồ,
người nào gặp cũng nuông chiều chúng ta, ủng hộ ta, nuôi dưỡng ta, (cho chúng
ta đồ ăn ngon dễ tiêu), làm cho chúng ta vui bằng bộ mặt khôi hài và ấm thanh
"yêu thương quyến rũ". Nếu từ khi mới sanh chúng ta được mang đi đây
đó trong cái giỏ, (và sau này có lẽ trong cái kiệu) Chưa bao giờ gặp phải sự
thách nào, chưabao giờ bị thử thách - nói tóm lại, nếu mọi người tiếp tục coi
chúng ta như trẻ nhỏ. Điều đó lúc đầu có vẻ tốt. Trong mấy tháng đầu của cuộc đời
có thể là thích đáng. Nhưng nếu cứ tiếp tục triền miên như thế thì nó chỉ đi đến
chế hồ như trở thành một loại của một khối sền sệt, một loại quái đản thực sự -
với sự phát triển tinh thần và xúc cảm của miếng thịt bê con. Chính sự tranh đấu
của đời sống làm cho ta thành người. Và do đó chính các kẻ thù của chúng ta thử
thách chúng ta, cho chúng ta sức kháng cự cần thiết để phát triển.
THÁI ĐỘ NHƯ THẾ CÓ THỰC TIỄN KHÔNG?
Thực hành cách tiếp cận những vấn đề của chúng ta một cách hữu
lý và học cách suy xét về những khó khăn hay về kẻ thù từ những cách nhìn khác
dường như là một công cuộc theo đuổi đáng giá, nhưng tôi băn khoăn không hiểu đến
một mức độ nào thì điều này có thể thực sự mang đến sự thay đổi cơ bản về thái
độ. Tôi nhớ có một lần đọc tài liệu về một cuộc phỏng vấn mà Đức Đạt Lai Lạt Ma
nói về việc tu tập tinh thần hàng ngày của Ngài là tụng kinh, tụng tám câu kệ
nói về huân luyện tâm, viết vào thế kỷ thứ Mười Một của Langri Thangpa, một vị
thánh người Tây Tạng. Trong đó có những câu như sau:
Bất cứ lúc nào kết giao với ai, cầu mong tôi sẽ tự cho mình là
người thấp nhất và coi người kia là cao thượng nhất trong thấm tâm tôi ..
Khi tôi thấy những chúng sanh bản chất ác độc, bị thúc ép bởi tội
lỗi hung bạo và ưu phiền, cầu mong tôi được coi họ như những người hiếm có này
là thân thiết như thể tôi tìm được một kho báu quý giá.
Khi những người khác, vì đố kị, đối xử xấu với tôi, sỉ nhục, phỉ
báng tôi và những điều tương tự, cầu mong tôi chịu thua và xin để cho họ chiến
thắng. ... Khi người mà tôi được lợi lạc với niềm hy vọng lớn lao, làm cho tôi
hết sức đau đớn, xin cho tôi được coi người ấy như Vị Giáo Chủ tối thượng của
tôi!...;
Tóm lại, xin cho tôi được trực tiếp hay gián tiếp đem lợi ich và
hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, và xin cho tôi được ấm thầm chịu đựng điều tai
hại và khổ đau của tất cả chúng sanh.
Sau khi đọc các câu trên, tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma, "Tôi
biết Ngài suy ngẫm nhiều về lời cầu nguyện này, nhưng thực sự Ngài có nghĩ rằng
ngày nay có thể áp dụng được không? Ý tôi muốn nói là bài kệ đó đã được viết bởi
một nhà sư sống trong tu viện - ở nơi mà việc xấu nhất có thể xẩy ra là có người
kháo chuyện về Ngài hoặc nói dối về Ngài hay có thể thỉnh thoảng là một đòn mạnh
hay vỗ mặt. Trong trường hợp ấy, có thể là dễ dàng "dâng chiến thắng"
cho họ- nhưng xã hội ngày nay, điều tai hại hay đối xử xấu mà ta nhận được từ
những người khác gồm có nào là hiếp dấm, hành hạ, giết người vân vân... Từ quan
điểm ấy, thái độ trong lời cầu nguyện ấy dường như thực không thể áp dụng được."
Tôi cảm thấy một chút tự mãn, vì đã có nhận xét mà tôi nghĩ khá xác đáng, một
nhận xét thông minh lắm..
Đức Đạt Lai Lạt Ma im lặng hồi lâu, Ngài nhíu mày suy nghĩ, Ngài
nói, "Có thể có một điều gì đó trong cái mà ông vừa nói". Rồi Ngài tiếp
tục thảo luận các trường hợp cần sửa đổi lại thái độ cần phải có biện pháp đối
phó mạnh trước sự gây hân của của người khác nhằm ngăn chặn điều tổn hại cho
mình hoặc người khác.
Tôi đã suy tư về cuộc đàm thoại với Ngài vào buổi tối hôm đó rất
khuya. Hai Hai vấn đề nổi lên một cách rõ ràng. Trước tiên, điều làm tôi chú ý
là Ngài sẵn sàng lạ thường khi tìm một cái nhìn mới về niềm tin và sự tu tập
riêng Ngài - trong trường hợp này, chứng tỏ Ngài sẵn lòng đánh giá lại lời cầu
kinh đã được ấp ủ trong lòng chắc chắn đã sống với Ngài qua nhiều năm tu tập.
Vân đề thứ hai là ít truyền cảm hơn. Tôi đã khắc phục được ý nghĩa kiêu ngạo của
riêng tôi.! Tôi chợt nghĩ là tôi đã gợi ý với Ngài là lời cầu nguyện có thể
không thích hợp vì nó không theo kịp được với thực tế phũ phàng của thế giới
ngày nay. Nhưng chẳng phải đến sau này tôi mới nghĩ về người tôi đang nói
chuyên với - một người đã hoàn toàn mất nước do sự xâm lăng tàn bạo nhất trong
lịch sử. Một người đã phải sống lưu vong trong gần bốn thập niên trong khi cả
nước đặt niềm hy vọng và mơ ước tự do vào người ấy. Một người có tinh thần
trách nhiệm sâu sắc, với tâm lòng từ bi, lắng nghe dòng người tị nạn luôn kể những
chuyện giết chóc, hãm hiếp, tra tân, và triệt hạ phẩm giá của người dân Tây Tạng
bởi người Trung Hoa. Hơn một lần tôi đã nhìn thấy vẻ quan ngại mênh mang và nỗi
buồn trên nét mặt của Ngài khi nghe những chuyện như thế được kể lại bởi những
người đã đi bộ vượt dãy Hi Mã Lạp Sơn (vượt núi băng rừng trong một cuộc hành
trình hai năm), chỉ để thoáng nhìn thấy Ngài. Và những chuyện nhu vậy không phải
chỉ có tính chất bạo lực vật chất không thôi. Thường, những chuyện này nhắc đến
ý đồ phá hoại tinh thần người dân Tây Tạng. Một người tị nạn Tây Tạng từng kể
cho tôi nghe về "trường học" Trung Hoa mà anh ta bị bắt buộc theo học
lúc con nhỏ lớn lên tại Tây Tạng. Buổi sáng dành cho việc truyền bá và nghiên cứu
cuốn "sách đỏ" của Mao Trạch Đông. Buổi chiều dành để báo cáo các
công việc được phân công làm ở nhà." Bài tập về nhà" thường được chế
ra nhằm thủ tiêu tinh thần Phật Giáo vốn đã đã ăn sâu trong lòng người Tây Tạng.
Thí dụ, biết người Phật Giáo cấm sát sinh và có niềm tin là mỗi sinh vật đều là
"sinh vật hữu tình" quý giá như nhau, một thầy giáo đã phân công cho
học trò nhiệm vụ phải giết một loại gì đó và phải mang đến trường ngày hôm sau.
Học sinh được chấm điểm. Mỗi con vật chết được cho giá trị điểm nào đó - con ruồi
một điểm, con sâu - hai điểm, con chuột năm điểm, con mèo - mười điểm - vân
vân.(Khi tôi kể chuyện này với một người bạn mới đây, người bạn tôi đã lắc đầu
với vẻ ghê tởm và trầm ngâm nói một mình." Tôi không biết học sinh được
bao nhiêu điểm khi người học sinh giết cả thầy giáo khốn nạn này!")
Nhờ sự tu tập tinh thần như việc tụng 8 câu kệ về việc huân luyện
tâm, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có thể đi đến chấp nhận thực tại của tình hình nhưng
vẫn tiếp tục tích cực vận động tự do và nhân quyền cho Tây Tạng trong 40 năm. Đồng
thời Ngài vẫn giữ một thái độ nhún nhường và từ bi với người Trung Hoa, điều đó
đã truyền cảm cho hàng triệu người trên thế giới. Và nơi đây tôi đưa ra ý kiến
là lời cầu nguyện ấy có thể không thích hợp với những "thực tại" của
thế giới ngày nay. Tôi vẫn còn đầy lúng túng mỗi khi nghĩ đến cuộc đàm thoại
này.
KHÁM PHÁ NHỮNG CÁCH NHÌN MỚI
Cố gắng áp dụng phương pháp thay đổi cách nhìn của Đức Đạt Lai Lạt
Ma, tôi tình cờ bát gặp một kỹ thuật khác vào một buổi chiều. Trong thời gian sửa
soạn cho tác phẩm này, tôi có tham dự một vài buổi thuyết giảng của Đức Đạt Lai
Lạt Ma tại bờ biển Miền Đông. Trở về nhà tôi đi bằng chuyến bay bay thẳng vể
Phoenix. Như thường lệ, tôi lấy chỗ ngồi cạnh lối đi Mặc dầu mới tham dụ buổi học
tập về tinh thần, nhưng tôi ở tronmg tâm trạng khá kỳ cục khi bước vào máy bay
đã đầy người. Tôiphát hiện chỗ ngồi của tôi lại ở hàng ghế ở giữa - kẹp giữa một
người đàn ông với khổ người to lớn có thói quen phiền toái là để cánh tay to sụ
vào thành ghế của tôi và một thiếu phụ trung niên mà mới trông tôi đã không
thích ngay vì bà ta đã chiếm chỗ ngồi bên cạnh lối đi của tôi. Có một điều gì
nơi thiếu phụ này thực ra đã làm tôi khó chịu- giọng nói bà ta quá the thé, điệu
bộ quá hống hách, tôi không chắc chắn lắm. Ngay sau khi máy bay cất cánh, bà ta
bắt đầu chuyện trò không ngớt với người đàn ông ngồi dãy ghế đằng trước. Người
đàn ông này hóa ra là chồng bà, và tôi đã lịch sự đề nghị đổi chỗ cho ông ta.
Nhưng cả hai đều không chịu vì cả hai muốn ngồi hàng ghế bên cạnh lối đi Tôi
càng trở nên khó chịu. Hoàn cảnh ngổi năm tiếng liền bên cạnh người đàn bà này
dường như không chịu đựng nổi.
Nhận ra là tôi phản ứng quá mạnh với một người đàn bà mà tôi
chưa từng biết, tôi quyết định là phải có "sự chuyển đổi" - theo tiềm
thức hẳn là bà đã nhắc tôi nhớ đến một người nào đó trong lúc tôi còn thơ ấu -
cảm giác hờn ghét - hướng về mẹ tôi vẫn chưa được giải đáp hay lắm hoặc một điều
gì đó. Tôi cố tìm kiếm trong óc nhưng không thể tìm ra được ứng viên thích hợp
- bà ta không nhắc cho tôi tìm được ai trong quá khứ.
Tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để thực hành việc
phát triển lòng nhẫn nại. Cho nên, tôi bắt đầu thực hành kỹ thuật mường tượng kẻ
thù của tôi ngồi trên ghế bên cạnh lối đi như một ân nhân quí mến, được đặt cạnh
tôi để dạy tôi nhẫn nại và khoan dung. Tôi hình dung chuyện này thật ngon với một
nhiệt tình- xét cho cùng, khi kẻ thù' biến mất bạn không thể có gì nhẹ người
hơn được- tôi mới gặp người phụ nữ này và bà ta cũng chưa làm gì hại tôi cả.
Sau khoảng 20 phút, tôi đầu hàng- bà vẫn làm tôi khó chịu! tôi cam phận bực bội
trong phần còn lại của cuộc hành trình. Hờn dỗi, tôi nhìn trừng trừng vào tay của
bà ta đang ngấm ngầm xâm phạm trên thành ghế của tôi. Tôi ghét mọi thứ về thiếu
phụ này. Tôi lơ đãng nhìn chằm chằm vào móng ngón tay cái của bà thì chợt nghĩ
là :. Phải chăng tôi ghét móng ngón tay cái này? Không thực đúng. Móng tay ấy
cũng bình thường thôi. Không có gì đặc biệt. Tiếp đến tôi liếc nhanh vào mắt bà
và tụ hỏi.: Phải chăng thực sự tôi ghét con mắt ấy? Vâng, tôi đã ghét (Đương
nhiên, không có lý do xác đáng- l một hình thái ghét bỏ thuần túy). Tôi nhắm
vào gần hơn nữa. Phải chăng tôi ghét cái con ngươi ấy? Không. Phải chăng tôi
ghét cái giác mạc, cái tròng mắt, hay cái màng cứng mắt ấy. Không, phải chăng
thực sự tôi ghét con mắt ấy? tôi phải thừa nhận là không. Tôi cảm thấy đang ở
trên cái gì đó. Tôi chuyển tới đốt ngón tay, ngón tay, hàm, và khuỷu tay. Với một
sự ngạc nhiên, tôi nhận ra có những chỗ của người đàn bà ấy tôi không ghét. Tập
trung vào chi tiết, vào những đặc diểm, thay vì tổng quát quá mức, dẫn đến một
sự thay đổi tinh tế trong tâm, một sự mềm lòng Sự thay đổi cách nhìn xé tan
thành kiến lúc đầu của tôi, đủ phóng khoáng cho tôi thấy bà ta chỉ là một chúng
sinh bình thường khác. Khi tôi nghĩ như vậy, thì đột nhiên bà quay sang với tôi
và trò chuyện. Tôi không nhớ đã nói những chuyện gì- hầu hết là chuyện phiếm-
nhưng khi chuyến bay kết thúc, giận hờn và khó chịu của tôi đã tiêu tan. Cứ cho
là như vậy, bà tuy không phải là người bạn mới tốt nhất của tôi, song bà cũng
không còn là con người tội lỗi chiếm ghế bên cạnh lối đi của tôi- bà chỉ là một
chúng sinh khác, giống như tôi, bà đi vào dòng đời với khả năng tốt nhất của
bà.
TÂM TRÍ UYỂN CHUYỂN
Khả năng cách nhìn, khả năng xem xét khó khăn của mình từ những
góc độ khác, được nuôi dưỡng bởi đắc tính uyển chuyển của tâm. Lợi ích tột bậc
của một tâm trí uyển chuyển là nó cho phép chúng ta nhìn bao quát tất cả đời sống-
để sống một cách trọn vẹn và có nhân tính. Sau một buổi thuyết giảng dài trước
công chúng tại Tucson vào một buổi chiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma quay về khách sạn.
Trong khi Ngài chậm rãi bước về phòng, một giải mấy đỏ tía giăng mắc bầu trời,
thu ánh sáng chiều tà và làm nổi bật hẳn lên dãy núi Catalina, toàn thể được tô
điểm bằng gam màu tía mênh mang. Ấn tượng thật hùng vĩ. Không khí ấm áp, đầy
hương thơm của cấy cối sa mạc, của cấy xô thơm, ngọn gió hiu hiu thổi, mang hơi
ẩm, báo hiệu hẹn cơn bão Sonoran đang thả sức tung hoành. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng
lại. Ngài lặng lẽ quan sát phía chân trời hồi lâu, ngắm nhìn toàn cảnh, và cuối
cùng bình luận về cái đẹp của cảnh tượng. Ngài bước đi vài bước rồi lại ngừng lại,
khom mình ngắm một nụ hoa oải hương nhỏ xíu trên cấy nhỏ. Ngài nhẹ nhàng mơn trớn
nụ hoa, chú ý đến hình thức mảnh mai của nó, băn khoăn thành tiếng về tên của cấy
này. Điều làm tôi chú ý là khả năng hoạt động của Ngài. Nhận thức của Ngài hình
như hành động quá dễ dàng từ ngắm nhìn trọn vẹn phong cảnh tới cái tập trung
vào một nụ hoa nhỏ bé, một sự thưởng thức đồng thời tổng thể khung cảnh cũng
như chi tiết nhỏ nhất. Một khả năng bao trùm tất cả những khía cạnh và toàn bộ
các lĩnh vực của cuộc sống.
Mỗi người trong chúng ta đều có thể mở mang sự uyển chuyển giống
như vậy trong tâm. Điều đó xẩy ra ít ra cũng ở một chừng mực nào đó trực tiếp
do những nỗ lực bằng cách mở rộng cách nhìn và cố gắng thận trọng trên những
quan điểm mới. Kết quả cuối cùng là sự tỉnh thức đồng thời về một bức tranh lớn
cũng như hoàn cảnh cá nhân chúng ta. Quan điểm kép này, cùng một lúc nhìn vào
"Thế Giới Lớn" và "Thế Giới Nhỏ " của chúng ta hồ như có thể
thực hiện chức năng phân loại giúp chúng ta phân biệt cái gì là quan trọng, cái
gì là không quan trọng trong cuộc sống.
Chính trường hợp của tôi, chỉ cần một ít thúc đẩy của Đức Đạt
Lai Lạt Ma trong quá trình các cuộc đàm thoại với Ngài, trước khi tôi bắt đầu
phá vỡ được cách nhìn hạn chế của tôi. Do bản tính và huân luyện, tôi thường
hay giải quyết giải quyết các vấn đề trên lập trường có động lực cá nbân - tiến
trình tâm lý chỉ diễn ra trong địa hạt tâm. Cách nhìn vào xã hội học hay chính
trị chưa bao giờ thu hút tôi quan tâm nhiều. Trong một cuộc đàm luận với Đức Đạt
Lai Lạt Ma, tôi bắt đầu hỏi Ngài về ý nghĩa quan trọng của việc đạt được một tầm
nhìn rộng lớn hơn.Vì đã uống một vài tách cà phê trước đó, cuộc đàm thoại của
tôi bắt đầu trở nên sôi nổi, và tôi bắt đầu nói đến khả năng thay đổi cách nhìn
như một tiến trình nội tâm, một cuộc theo đuổi đơn độc, chỉ căn cứ trên quyết định
có ý thức của cá nhân để tiếp nhận quan niệm khác. Giữa lúc lúc đàm luận về
tinh thần, Đức Đạt Lai Lạt Ma dứt khoát ngắt lời tôi và nhắc nhở tôi, "Khi
bạn nói về việc áp dụng một tầm nhìn rộng lớn hơn, điều này gồm có cả sự làm việc
hợp tác với người khác. Khi bạn có những khủng hoảng có tính cách toàn cầu chẳng
hạn, nhu môi sinh hay những vấn đề về cơ cấu kinh tế hiện đại, điều này đòi hỏi
một nỗ lực phối hợp giữa nhiều người, với một tinh thần trách nhiệm và cam kết.
Điều này bao trùm nhiều hơn một cá nhân hay một vấn đề riêng tư".
Tôi khó chịu vì Ngài đã chuyển sang đề tài có tính cách thế giới
trong khi tôi cố gắng tập trung vào đề tài cá nhân (tôi thật ngượng ngùng mà thừa
nhận, thái độ này về chính chủ đề mở rộng quan điểm )
"Nhưng tuần này, tôi nài nỉ, "trong cuộc đàm thoại của
chúng ta và trong các bài giảng công cộng của Ngài, Ngài có nói nhiều đến tầm
quan trọng tcủa sự đem lại thay đổi cá nhân từ bên trong, nhờ sự biến đổi bên
ngoài. Chẳng hạn, Ngài có nói đến tầm quan trọng của việc phát triển lòng từ
bi, lòng nhiệt tình, khắc phục giận dữ và sân hận, trau dồi nhẫn nại và khoan
dung..."
"Phải, đương nhiên sự thay đổi phải do nơi cá nhân. Nhưng
khi bạn tìm kiếm giải pháp cho toàn bộ các vấn đề, bạn cần có khả năng giải quyết
những vấn đề ấy từ lập trường của một cá nhân cũng nhu từ mức độ xã hội nói
chung. Cho nên khi bạn nói về linh động, về việc có một tầm nhìn rộng lớn hơn
vân vân..., điều này đòi hỏi khả năng đề cập đến các vấn đề từ nhiều mức độ
khác nhau: mức độ cá nhân, mức độ cộng đồng, và mức độ toàn cầu.
"Bây giờ, chẳng hạn, vì tại cuộc nói chuyện tại trường Đại
Học tối hôm nọ, tôi nói về sự cần thiết phải giảm bớt giận dữ và sân hận nhờ sự
trau dồi kiên nhẫn và khoan dung. Giảm thiểu sân hận giống như giải trừ quân bị
trong nội tâm. Nhưng, tôi cũng nói rõ trong cuộc nói chuyện đó, sự giải trừ
quân bị trong nội tâm phải đi đôi với sự giải trừ quân bị bên ngoài. Đó là điều
rất, rất quan trọng. May mắn thay, sau khi Đế Quốc Sô Viết sụp đổ, ít nhất vào
thời gian này, không còn đe dọa hủy diệt hạt nhân. Cho nên tôi nghĩ rằng, bây
giờ là lúc rất tốt, một sự bắt đầu rất tốt - Chúng ta không nên bỏ lỡ cơ hội
này! Bây giờ tôi nghĩ rằng chúng ta phải củng cố lực lượng hòa bình chân chính.
Không phải là không có chiến tranh nếu vũ khí vẫn được sản xuất giống như sự
răn đe vũ khí hạt nhân. Nhưng chỉ không có chiến tranh không thôi vẫn không phải
là hòa bình chân chính lâu dài cho thế giới. Hòa bình phải phát triển trên sự
tin cậy lẫn nhau. Và vì vũ khí là những trở ngại to lớn nhất cho việc phát triển
lòng tin cậy lẫn nhau, tôi nghĩ đã đến lúc phải tính cách loại bỏ những vũ khí ấy.
Điều đó rất quan trọng. Đương nhiên chúng ta không thể hoàn tất điều đó một sớm
một chiều được. Tôi nghĩ rằng biện pháp thực tế là đi từng bước một. Nhưng dầu
sao, tôi nghĩ chúng ta phải làm rõ mục tiêu chủ yếu của chúng ta: Toàn thể thế
giới đều phải giải trừ quân bị. Cho nên ở một mức độ nào đó chúng ta nên cố gắng
thực hiện sự mở mang hòa bình nội tâm, nhưng cũng đồng thời rất quan trọng là cố
gắng thực hiện việc giải trù quân bị và hòa bình bên ngoài, đóng góp phần nhỏ
nhoi của mình bằng bát cứ cách nào mà chúng ta có thể làm được. Đó là trách nhiệm
của chúng ta."
TẦM QUAN TRỌNG TRONG VIỆC TƯ DUY LINH HOẠT
Có một mối quan hệ qua lại giữa tâm trí uyển chuyển và khả năng
thay đổi cách nhìn. Một tâm trí linh hoạt uyển chuyển giúp chúng ta giải quyết
vấn đề từ nhiều cách nhìn, và ngược lại, chú tâm cố gắng quan sát một cách
khách quan những vấn đề từ nhiều cách nhìn hồ như có thể được xem là rèn luyện
tính linh hoạt cho tâm. Trong thế giới ngày nay, cố gắng phát triển lối tư duy
linh hoạt không phải chỉ là bài thực tập tự buông thả cho những người trí thức
biếng nhác - Nó có thể là một vấn đề sống còn. Thậm chí trên nấc thang tiến
hóa, muôn loài cũng hết sức linh động, cũng hết sức thích ứng với những thay đổi
môi sinh, để tồn tại và phát triển mạnh. Cuộc sống ngày nay có đặc điểm là thay
đổi bất ngờ, đột ngột, và đôi khi dữ dội. Một tâm trí uyển chuyển có thể giúp
chúng ta hòa hợp với những sự thay đổi bên ngoài đang xẩy ra chung quanh chúng
ta. Nó cũng có thể giúp chúng ta hòa nhập tất cả những mâu thuẫn nội tâm, tính
không nhất quán và mâu thuẫn trong tư tưởng. Nếu không trau dồi tâm trí mềm dẻo,
cái nhìn của chúng ta trở nên cứng nhắc và mối quan hệ của chúng ta với thế giới
trở thành có đặc điểm sợ hãi. Nhưng bởi áp dụng một phương pháp linh hoạt và mềm
dẻo trước cuộc sống, chúng ta có thể giữ bình tĩnh ngay cả đến khi trong những
hoàn cảnh hết sức bất an và xáo trộn. Đó là nhờ nỗ lực để đạt được một tâm trí
linh hoạt mà ta có thể nuôi dưỡng sức bật trong tinh thần con người.
Từ khi tôi biết Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi hết sức ngạc nhiên về mức
độ linh hoạt rộng lớn của Ngài, khả năng tiếp nhận hàng loạt quan điểm.Người ta
có thể cho rằng vai trò độc đáo của Ngài có thể là do hầu hết Phật Tử trên thế
giới đã đặt Ngài vào một vị trí hồ như là Người Bảo Vệ Đức Tin.
Với ý định đó tôi hỏi Ngài, "Có bao giờ Ngài thấy mình quá
cứng rắn trong quan điểm, hay quá hẹp hòi trong suy tư không?"
"... Ngài hắng giọng suy nghĩ hồi lâu trước khi trả lời dứt
khoát."Không, tôi không nghĩ như vậy. Thực ra, là ngược lại. Đôi khi tôi
quá linh động đến nỗi tôi bị buộc tội là không có đường lối kiên định."
Ngài bật cười lớn.". Một người nào đó đến gặp tôi và trình bày một số ý kiến,
và tôi xem lý lẽ mà họ nói rồi đồng ý, tôi thường nói với họ, "Ồ, thật tuyệt
vời!". Nhưng người kế tiếp đến với tôi với quan điểm tương phản, thì tôi
cũng xem vào lý do họ nói và tôi cũng đồng ý. Đôi khi vì vậy tôi bị phê bình,
và phải luôn được nhắc nhở: "Chúng ta đã cam kết về đường lối hành động, vậy
nên vào lúc này, hãy giữ đúng vấn đề ấy".
Từ câu nói trên không thôi, người ta có thể có cảm tưởng Đức Đạt
Lai Lạt Ma không quả quyết, không có nguyên tắc chỉ đạo. Thực tế, điều đó không
thể là sự thật. Rõ ràng là Đức Đạt Lai Lạt Ma có niềm tin căn bản làm nền tảng
cho tất cả hành động của Ngài. Tin vào lòng tốt tiềm ẩn của tất cả loài người.
Tin vào giá trị của từ bi. Một đường lối thân ái. Một ý thức con người bình đẳng
với tất cả sinh vật.
Nói về tầm quan trọng của linh hoạt, mềm dẻo và thích nghi, tôi
không muốn có ý đề nghị chúng ta trở nên thành người hay thay đổi ý kiến - hấp
thụ bất cứ niềm tin mới nào tình cờ xuất hiện chung quanh ta vào lúc đó, thay đổi
đặc tính của ta, hấp thụ một cách thụ động bất cứ khái niệm nào phơi bày trước
chúng ta. Những giai đoạn sinh trưởng và phát triển cao hơn tùy thuộc vào những
giá trị tiềm ẩn hướng dẫn chúng ta. Hệ thống giá trị cung cấp sự tiếp tục và gắn
bó với nhau cho đời sống của chúng ta, và do đó chúng ta có thể đánh giá những
kinh nghiệm của mình. Hệ thống giá trị có thể giúp chúng ta quyết định mục tiêu
nào thực sự đáng giá và những theo đuổi nào là vô nghĩa.
Cấu hỏi là làm sao ta có thể kiên trì trước sau như một và duy
trì toàn bộ giá trị tiềm ẩn mà vẫn giữ được linh hoạt. Đức Đạt Lai Lạt Ma dường
như đã đạt được điều đó trước nhất bằng cách rút gọn hệ thống niềm tin thành một
ít nhân tố căn bản: 1) Tôi là một con người, 2) Tôi muốn có hạnh phúc không muốn
khổ đau, 3) Những người khác, cũng giống như tôi, muốn được hạnh phúc và không
muốn đau khổ. Nhân mạnh về những vấn đề chung mà Ngài chia sẻ với người khác chứ
không phải những khác biệt, dẫn đến cảm tưởng liên hệ tới tất cả mọi người, và
dẫn dắt Ngài tin vào từ bi và vị tha. Sử dụng cùng một cách giải quyết vấn đề
này, có thể được bổ ích rất nhiều mà chỉ cần bỏ thì giờ suy nghĩ hệ thống giá
trị của chính chúng ta và rút gọn chúng thành yếu tố căn bản. Chính khả năng
rút gọn hệ thống giá trị của chúng ta thành những yếu tố căn bản nhất, và hướng
điểm thuận lợi ấy, cho chúng ta sự tự do và linh hoạt lớn nhất để đối trị lại
hàng loạt vấn đề mà ta phải đương đầu hàng ngày.
TÂM SỰ QUÂN BÌNH
Phát triển cách giải quyết linh hoạt vào cách sống không những
là phương tiện giúp cho chúng ta đối phó với những vấn đề hàng ngày - mà còn trở
thành nền tảng cho yếu tố chủ chốt của một đời sống hạnh phúc: sự quân
bình.
Vào một buổi sáng ngồi thoải mái trên một cái ghế, Đức Đạt Lai Lạt
Ma giải thích giá trị của một đời sống quân bình.
"Cách vào đời quân bình và khéo léo, cẩn thận tránh cực
đoan, trở thành một nhân tố rất quan trọng trong việc điều khiển cuộc sống hàng
ngày của con người. Chẳng hạn, khi trồng một cấy non hay một loại cấy nào đó,
chính giai đoạn đầu bạn phải hết sức khéo léo và nhẹ nhàng. Ẩm quá nhiều ẩm ướt
sẽ làm chết cấy, quá nhiều ánh nắng cũng phá hoại cấy Quá ít cũng phá hoại cấy.
Cho nên điều cần thiết là bạn phải có một môi trường quân bình thì cấy non mới
lớn mạnh. Hay, để cơ thể lực, quá nhiều hay quá ít bất cứ một thứ gì cũng có thể
gây hậu quả tiêu cực. Chẳng hạn, quá nhiều chất đạm tôi nghĩ cũng không tốt,
quá ít cũng không tốt.
"Phương cách uyển chuyển và khéo léo, cẩn thận tránh cực
đoan, áp dụng cho sự phát triển tinh thần đúng mức cũng như cảm xúc. Chẳng hạn,
nếu chúng ta thấy mình trở nên cao ngạo, vênh váo ta đây quan trọng căn cứ vào
những thành tựu hay đức tính có thật hoặc tưởng là thật của mình, thì thuốc giải
độc là suy nghĩ nhiều hơn nữa về vấn đề và khổ đau của mình, trầm ngâm về khía
cạnh bất toại nguyện của cuộc sống. Điều này sẽ giúp cho bạn hạ thấp mức độ cao
ngạo của tâm, đưa bạn trở lại thực tại nhiều hơn nữa. Trái lại nếu bạn thấy suy
ngẫm về bản chất bất toại nguyện của cuộc sống, khổ đau và đau đớn vân vân...,
làm cho bạn không thể chịu đựng nổi bởi toàn bộ sự việc, thì lại có sự nguy hiểm
đi vào cực đoan khác. Trong trường hợp này bạn có thể trở nên hoàn toàn nản
chí, bát lực, chán chường và nghĩ rằng: "ôi, tôi không thể làm gì được,
tôi vô giá trị. Cho nên trong những hoàn cảnh như vậy, điều quan trọng là bạn
có thể nâng cao tâm bằng cách nghĩ đến những thành quả của bạn, những tiến bộ
mà bạn đã đạt được từ hồi nào đến giờ, và những đức tính tích cực khác để bạn
có thể nâng cao tinh thần thoát khỏi tình trạng nản chí hay mất tinh thần. Vậy
điều cần thiết nơi đây hồ như là cách thức giải quyết thật quân bình và khéo
léo.
"Không những cách giải quyết này hữu ích cho sức khỏe thể
chất và cảm xúc, mà nó còn áp dụng cho sự phát triển tinh thần của con người,
Vì chẳng hạn, truyền thống Phật Giáo có nhiều kỹ thuật và cách tu tập khác
nhau. Nhưng rất quan trọng là phải thật khéo léo trong việc đem áp dụng những kỹ
thuật khác nhau, và không đi đến cực đoan. Ta cũng cần phải có một cách giải
quyết quân bình và khéo léo. Khi tu tập Phật Giáo, rất quan trọng là phải có một
cách giải quyết phối hợp, kết hợp cả nghiên cứu và học hỏi với thực hành về tư
duy sâu lắng và thiền định. Điều này rất quan trọng để không có sự bất quân
bình nào giữa kiến thức trí tuệ hay lý thuyết và thực hành thực tiễn. Nếu
không, sẽ có một nguy cơ quá nặng suy nghĩ bằng trí óc sẽ hủy hoại sự tu tập về
suy tư nhiều hơn. Nhưng nếu quá nặng vào sự tu tập mà không có nghiên cứu sẽ hủy
hoại sự hiểu biết. Cho nên phải có sự quân bình...
Sau một hồi suy nghĩ, Ngài nói thêm, " Ví vậy nói một cách
khác trong việc thực hành Pháp, sự tu tập tinh thần, ở một ý nghĩa nào đó giống
bộ ổn áp. Chức năng của bộ ổn áp là để ngăn ngừa đột biến điện áp giữ cho bạn
nguồn điện ổn định và liên tục."
Tôi xen vào ." Ngài nhân mạnh đến sự quan trọng của việc
tránh cực đoan, nhưng nếu không đi đến cực đoan thì cái gì có thể làm cho cuộc
sống trở nên lý thú và có hương vị? Bằng cách tránh mọi cực đoan trong cuộc sống,
bao giờ cũng chọn con đường "trung đạo" phải chăng chỉ dẫn đến một cuộc
sống vô vị tẻ nhạt"
Lắc đầu Ngài trả lời "không", "tôi nghĩ bạn cần
phải hiểu nguồn gốc hay cơ sở của sự hành xử cực đoan. Hãy lấy thí dụ theo đuổi
của cải vật chất-nhà cửa, đồ đạc, quần áo vân vân... Một mặt, nghèo khó có thể
được xem là cực đoan và chúng ta có quyền tranh đấu để vượt qua điều đó, như vậy
sẽ bảo đảm sự đầy đủ vật chất của chúng ta. Mặt khác, quá xa hoa, theo đuổi của
cải quá mức là một cực đoan khác. Mục đích chủ yếu của chúng ta trong việc tìm
cầu nhiều của cải hơn là cảm giác thỏa mãn, cảm giác hạnh phúc. Nhưng chính là
cơ sở việc tìm cầu nhiều hơn nữa là cảm tưởng không đầy đủ, cảm tưởng chưa vừa
lòng. Cảm tưởng chưa vừa lòng, muốn có nhiều, nhiều hơn nữa, không phát xuất từ
niềm khao khát vốn có về các đồ vật mà chúng ta tìm kiếm mà còn từ tình trạng
tinh thần của chúng ta.
"Cho nên tôi nghĩ rằng khuynh hướng đi đến cực đoan thường
được kích thích bởi cảm tưởng chưa vừa lòng tiềm ẩn. Và đương nhiên có những yếu
tố khác nữa dẫn đến cực đoan. Nhưng tôi nghĩ rằng quan trọng là phải công nhận
điều đó trong khi đi đến cực đoan dường như hấp dẫn hay hứng thú trên bề mặt,
thực ra nó có thể có hại. Có nhiều thí dụ về nguy cơ đi đến cực đoan của hành xử
cực đoan. Tôi nghĩ rằng bằng cách quan sát những tình huống này, bạn sẽ có thể
thấy những hậu quả của việc đi đến cực đoan, là bạn, chính bạn cuối cùng sẽ đau
khổ. Thí dụ, ở thế gian này, nếu chúng ta đánh cá quá mức, không để ý gì đến hậu
quả về lâu dài, không có tinh thần trách nhiệm, rồi thì dẫn đến kiệt quệ số lượng
cá. Hay cách hành xử về nhục dục. Đương nhiên có ham muốn tình dục về sinh học
để sinh sản và vân vân..., và sự thỏa mãn đạt được từ hoạt động tình dục. Nhưng
nếu hành vi tình dục trở nên cực đoan, không có trách nhiệm thích đáng, nó sẽ dẫn
đến nhiều vấn đề, lạm dụng, như lạm dụng tình dục và loạn luân."
"Ngài nói thêm vào cảm tưởng chưa vừa lòng, có thể có nhiều
nhân tố khác dẫn đến cực đoan..." "Đúng, tất nhiên rồi" Ngài gật
đầu.
"Ngài có thể cho một thí dụ?"
"Tôi nghĩ tư tưởng hẹp hòi có thể là một nhân tố khác dẫn đến
cực đoan"
"Tư tưởng hẹp hòi trong ý nghĩa nào?
"Thí dụ đánh cá quá mức có thể dẫn đến làm kiệt quệ số lượng
cá, có thể, chẳng hạn là một ví dụ về suy nghĩ hẹp hòi, trong ý nghĩa này ta chỉ
nhìn vào tương lai trước mắt mà không lưu ý gì đến bức tranh rộng lớn hơn. Nơi
đây ta có thể sử dụng giáo dục và kiến thức để mở rộng tầm nhìn của một người để
họ trở nên ít hẹp hòi hơn về quan điểm của mình.
Đức Đạt Lai Lạt Ma lấy sâu chuỗi của Ngài từ bàn kế bên, lần
tràng giữa hai bàn tay khi Ngài vừa lặng lẽ ngẫm nghĩ về vấn đề đang thảo luận.
Lướt nhìn vào sâu chuỗi rồi đột nhiên Ngài tiếp tục, " Tôi nghĩ có nhiều
cách mà thái độ tâm địa hẹp hòi dẫn đến suy nghĩ cực đoan. Nó sinh ra vấn đề.
Chẳng hạn, Tây Tạng là một quốc gia Phật Giáo từ nhiều thế kỷ. Đương nhiên điều
đó dẫn đến cảm nghĩ của người Tây Tạng về Phật Giáo là một tôn giáo tốt nhất, và
có khuynh hướng nghĩ rằng có lẽ tốt nhất là tất cả nhân loại trở thành Phật Tử.
Ý tưởng ai cũng trở thành Phật Tử hoàn toàn là cực đoan. Và loại suy nghĩ cực
đoan này gây ra vấn đề. Nhưng nay, chúng tôi bỏ Tây Tạng ra đi, chúng tôi có dịp
tiếp xúc với các truyền thống tôn giáo khác và học hỏi về chúng. Điều này đưa đến
gần gũi hơn trong thực tại- hiểu rằng giữa nhân loại có nhiều khuynh hướng tinh
thần khác nhau. Thậm chí nếu chúng ta cố gắng làm cho toàn thể thế giới thành
Phật Giáo là điều không thực tế. Nhờ sự tiếp cận với truyền thống khác, bạn nhận
thức được những điều tích cực của họ. Nay, khi đối đầu với tôn giáo khác, trước
tiên cảm nghĩ tích cực, cảm nghĩ thoải mái sẽ phát sinh. Chúng ta sẽ cảm thấy nếu
người đó thấy truyền thống khác, thích hợp hơn, hữu hiệu hơn, thế thì điều đó
là tốt! Cũng giống như đi vào một tiệm ăn- chúng ta có thể ngồi vào bàn rồi gọi
các món ăn hợp với khẩu vị của chúng ta. Chúng ta có thể ăn những món ăn khác,
nhưng không ai tranh luận về việc này cả!
"Cho nên, tôi nghĩ bằng cách chủ ý mở rộng tầm nhìn của
chúng ta, chúng ta thường có thể khắc phục được loại suy nghĩ cực đoan dẫn đến
hậu quả tiêu cực."
Bằng ý kiến này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đeo chuỗi tràng hạt vào cổ
tay, thân mật vỗ vai tôi, và đứng lên chấm dứt cuộc thảo luận.
-ooOoo-
CHƯƠNG 11
TÌM Ý NGHĨA TRONG ĐAU ĐỚN VÀ KHỔ ĐAU
Victor Frankl, một thầy thuốc trị bệnh tâm thần người Do Thái bị
cầm tù bởi Phát xít trong Đệ Nhị Thế Chiến, một lần đã nói ." Con người sẵn
sàng và sẵn lòng gánh vác ngay bất cứ khổ đau nào miễn là nó thấy có ý nghĩa
" Frankl sử dụng sự tàn bạo và vô nhân đạo của Phát Xít mà ông trải qua
trong những trại tập trung để hiểu thấu đáo cách con người có thể sống sót được
trước những hành động tàn ác. Quan sát kỹ những người còn sống sót và những
không thoát được, ông xác định là sự sinh tồn không căn cứ vào tuổi trẻ hay sức
khỏe thể chất, mà là sức mạnh bắt nguồn từ mục đích, sự khám phá ra ý nghĩa đời
sống và kinh nghiệm của mình.
Tìm ra ý nghĩa trong khổ đau là một phương pháp có sức mạnh giúp
ta đối đầu ngay cả trong thời gian gat go nhất trong đời sống chúng ta. Nhưng
tìm ra ý nghĩa trong cái khổ đau của chúng ta không phải là một việc dễ dàng.
Khổ đau dường như thường xẩy ra tình cờ vô nghĩa, và không phân biệt, không có
chút ý nghĩa gì cả, chứ còn nói gì đến ý nghĩa chủ định hay tích cực. Và trong
khi chúng ta đang đau đớn và khổ đau, tất cả năng lực của chúng ta đều tập
trung vào việc thoát khỏi chúng. Trong những lúc khủng hoảng và bi thảm nhất,
dường như không thể suy nghĩ về bất cứ ý nghĩa khả dĩ nào đàng sau cái khổ đau
của chúng ta. Vào những lúc chúng ta hầu như không làm gì được ngoài chịu đựng.
Thấy khổ đau vô nghĩa và bất công là lẽ tư nhiên, và thắc mắc, "Tại sao lại
là tôi? Tuy vậy, may là những lúc tương đối thanh nhàn, những khoảng thời gian
trước hoặc sau khi chịu đựng khổ đau dữ dội chúng ta có thể ngẫm nghĩ về khổ
đau, tìm cách phát triển sự hiểu biết về ý nghĩa của nó. Thì giờ và nỗ lực,
chúng ta bỏ vào việc tìm kiếm ý nghĩa trong khổ đau chúng ta sẽ được đền bù to
lớn cho những lúc những điều tồi tệ bắt đầu gây khổ đau. Nhưng muốn thu hoạch
những phần thưởng ấy, chúng ta phải bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa khi mọi sự diễn ra
tốt đẹp. Một cấy có rễ sâu vẫn đứng vững dù bão lớn, nhưng cấy không thể phát
triển kịp rễ khi bão xuất hiện ở chân trời.
Vậy nên chúng ta bắt đầu sự tìm kiếm ý nghĩa của khổ đau ở đâu.
Có nhiều người, bắt đầu bắt đầu tìm kiếm bằng truyền thống tôn giáo của họ. Mặc
dầu những tôn giáo khác nhau có thể có những cách hiểu khác nhau về ý nghĩa và
mục đích của khổ đau của con người, nhưng mỗi tôn giáo trên thế giới lại đưa ra
những chiến lược phản ứng với khổ đau căn cú vào niềm tin cơ bản của nó Thí dụ,
theo kiểu Phật Giáo và Ấn Độ Giáo, khổ đau là kết quả của hành động tiêu cực
trong quá khứ, và được coi như chất xúc tác cho việc tìm kiếm giải thoát tinh
thần.
Trong truyền thống Do Thái Giáo - Ky Tô Giáo, vũ trụ được tạo ra
bởi Thượng Đế nhân từ và công bằng, và mặc dầu ý định chính của Ngài, có thể có
lúc huyền bí và không thể giải đoán được, nhưng đức tin và lòng tin vào vào ý định
của Thượng Đế, cho phép chúng ta chịu được khổ đau dễ dàng, tin rằng như Talmud
nói "mọi thứ đều do Thượng Đế tạo ra, và Ngài tạo ra vì sự toàn thiện"."Cuộc
sống có thể vẫn còn đau khổ, nhưng nó giống như người đàn bà lúc sinh đẻ, chúng
ta tin là sự đau đớn có giá trị hơn bởi điều thiện tối hậu mà nó sản sinh ra.
Thách thức những truyền thống này nằm trong sự việc là nó không giống như sự
sinh đẻ, điều thiện tối hậu thường không được tiết lộ cho chúng ta. Tuy nhiên
những ai có đức tin mãnh liệt vào Thượng Đế, giữ vững được niềm tin vào mục
đích tối hậu của Thượng Đế vì sự khổ đau của chúng ta, như lời nhà hiền triết của
một giáo phái Do Thái khuyên nhủ."Khi đau đớn, không nên nói, "Điều
đó thật là xấu! Điều đó thật là xấu!" Thượng Đế không áp đặt lên con người
điều gì xấu cả. Nhưng đúng ra có thể nói, "Điều đó thật cay đắng! Điều đó
thật cay đắng! Trong một số thuốc, có những thứ làm bằng cỏ đắng." Cho
nên, theo cách nhìn của Do Thái Giáo - Ky Tô Giáo, khổ đau có thể phục vụ nhiều
mục đích, nó có thể thử thách và có khả năng củng cố đức tin, nó có thể mang
chúng ta tới gần Thượng Đế hơn trong một cách rất cơ bản và sâu sắc, hoăc nó có
thể nới lỏng những ràng buộc vào thế giới vật chất và làm cho chúng ta gắn bó với
Thượng Đế như nơi nương tựa của chúng ta.
Trong khi truyền thống tôn giáo của mình có thể cung cấp một số
trợ giúp có giá trị trong việc tìm kiếm ý nghĩa, ngay cả những người không đồng
ý về cách nhìn việc đời một cách tôn giáo, nhờ vào sự suy ngẫm thận trọng cũng
có thể tìm ra ý nghĩa và giá trị đàng sau khổ đau của họ. Mặc dù tính khó chịu
chung, chắc chắn khổ đau của chúng ta vẫn có thể thử thách, củng cố và làm sâu
thêm kinh nghiệm cuộc đời. Tiến Sĩ Martin Luther King, Jr. có lần đã nói,
"Cái gì không hủy diệt tôi sẽ làm cho tôi mạnh hơn." Và trong khi
chùn lại trước khổ đau là tự nhiên thì khổ đau lại có thể thách thức chúng ta
và có khi làm lộ rõ điều tốt nhất trong chúng ta. Trong cuốn Người Thứ Ba, tác
giả Graham Green nhận xét, "Tại Ý 30 năm duới thời Borgias, người ta đã trải
qua chiến tranh, khủng bố, giết chóc, và máu đổ - nhưng họ cũng sản sinh ra
Michelangelo, Leonardo de Vinci, và thời Phục Hưng. Tại Thụy Sĩ, họ sống trong
tình huynh đệ, năm trăm năm dân chủ và hòa bình, nhưng họ đã tạo được gì? Cái đồng
hổ cúc cu!."
Trong khi thỉnh thoảng, khổ đau có thể làm cho ta cứng rắn, thêm
sức mạnh, nhưng có những lúc nó có thể có tác dụng hoạt động ngược lại - làm
chúng ta mềm lòng, làm chúng ta nhạy cảm và nhẹ nhàng hơn. Chỗ yếu mà ta cảm thấy
giữa cơn khổ đau có thể khai tâm chúng ta, và làm đằm thắm thêm sự liên hệ của
chúng ta với người khác. Thi sĩ Willian Wordsworth, đã từng viết, " Nỗi
đau buồn sâu xa đã nhân tính hóa linh hồn tôi". Minh họa hiệu quả cải hóa
của khổ đau, một người quen là Robert, hiện ra trong đầu óc tôi. Robert là quản
trị trưởng một công ty rất thành công. Mấy năm vừa qua ông gặp phải thất bại do
tài chánh nghiêm trọng khiến ông bị nản lòng trầm trọng không buồn cất nhắc
chân tay. Chúng tôi gặp nhau vào ngày ông đã ngã lòng. Tôi biết bao giờ Robert
cũng là con người kiểu mẫu về lòng tin và tính hăng hái, và tôi hoảng sợ thấy
ông quá chán nản. Với giọng nói buồn bã nặng nề, Robert kể lại, "Đấy là việc
tệ nhất tôi chưa bao giờ cảm thấy trong đời tôi. Dường như đúng là tôi không thể
tống khứ nó đi. Tôi đã không biết rằng điều đó còn có thể làm cho tôi không chịu
đựng nổi, cảm thấy vô vọng, và không tự chủ được." Sau khi thảo luận những
khó khăn của ông một lúc, tôi giới thiệu ông đến một đồng nghiệp để chữa trị bệnh
suy nhược.
Ít tuần lễ sau, tôi tình cờ gặp Karen, vợ của Robert và hỏi xbà
về tình trạng của ông ra sao."Chồng tôi khá hơn nhiều lắm, cảm ơn nhiều. Vị
bác sĩ tâm thần mà ông giới thiệu đã cho chồng tôi uống một loại thuốc chống
suy nhược rất có hiệu quả. Đương nhiên chúng tôi vẫn cần phải một thời gian nữa
mới có thể giải quyết được những khó khăn trong công việc, nhưng chồng tôi cảm
thấy khá hơn trước nhiều, và chúng tôi sắp sửa được ổn định..."
"Tôi thực sự rất mừng được tin này".
Karen ngập ngừng một lúc rổi giãi bầy, "Ông biết không tôi
rất ghét phải nhìn cảnh chồng tôi chịu đựng sự buồn phiền đó. Nhưng về một
phương diện nào đó, tôi nghĩ rằng đó cũng là một phước lành. Một đêm, trong cơn
chán nản ông ấy bắt đầu khóc ròng. ông ấy không thể nín được. Cuối cùng tôi chỉ
con biết giữ ông ấy trong vòng tay tôi hàng giờ trong khi ông ấy khóc, cho đến
ông ấy thiếp đi.Trong hai mươi ba năm chung sống, đây là lần đầu việc như thế xẩy
ra, và nói thực tôi chưa bao giờ cảm thấy khăng khít với ông ấy đến thế trong đời
tôi. Cho dù sự buồn nản của ông ấy nay đã bớt đi, mọi việc đều khác hẳn xưa. Một
điều gì đó vừa mới được mở ra... và cảm nghĩ khăng khít vẫn còn đó. Việc ông áy
chịu đựng khó khăn và chúng tôi cả hai cùng nhau chịu đựng đã thay đổi mối quan
hệ giữa chúng tôi, làm cho chúng tôi càng khăng khít hơn."
Trong khi tìm kiếm những khía cạnh mà sự khổ đau của cá nhân có
thể có ý nghĩa, một lần nữa chúng ta trở lại với Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài đã
minh họa cách sử dũng khổ đau rất thực tiễn trong khung cảnh Đạo Phật.
Trong việc tu tập Phật Giáo, bạn có thể sử dụng khổ đau của
chính bạn trong một cách chính thức để nâng cao lòng từ bi của bạn - bằng cách
dùng nó làm cơ hội để tu tập theo Pháp Tong-Len- Đấy là Pháp quán chiếu của Đại
Thừa Phật Giáo bằng tinh thần hình dung đến nỗi đau đớn và khổ đau của các người
khác, và lần lượt cho họ tất cả tiềm lực, sức khỏe, của cải vân vân của bạn..
Tôi sẽ chỉ cách tu tập chi tiết hơn sau này. Vậy thực hiện pháp tu tập này khi
bạn bị bệnh, đau đớn hay khổ đau, bạn có thể dùng điều đó làm cơ hội để suy gẫm."Cầu
mong sự đau khổ của tôi có thể thay thế nỗi đau khổ của tất cả những chúng sinh
khác. Bằng cách kinh nghiệm điều này, cầu mong tôi có thể cứu được những chúng
sanh đang bị đau khổ tương tự". Cho nên bạn sử dụng đau khổ của bạn như một
cơ hội để tập chịu khổ đau thay cho người khác.
"Ở đây tôi phải nói rõ một điều. Chẳng hạn, nếu bạn bệnh,
và bạn thực hành kỹ thuật này, suy nghĩ, "Cầu mong cho bệnh tật của tôi
thay thế cho những người đang bị bệnh tương tự", và bạn hình dung bạn chịu
đựng bệnh và khổ đau của họ và cho họ sức khỏe của bạn. Tôi không có ý nói là bạn
không lưu tâm đến bệnh của bạn. Khi đối phó với bệnh tật, trước tiên quan trọng
là bạn phải có những biện pháp đề phòng ngừa để khỏi bị bệnh giống như áp dụng
tất cả nhũng biện pháp phòng ngừa chẳng hạn như ăn theo chế độ hay bất cứ biện
pháp nào. Và khi bạn bệnh điều quan trọng là không nên coi thường sự cần thiết
dùng thuốc đúng cách và tất cả những phương pháp thông thường khác.
"Tuy nhiên, một khi bạn bệnh, những cách tu tập như Pháp
Tong-Len chẳng hạn, có thể có tác động rất quan trọng đến cách bạn phải phản ứng
trước tình hình bệnh tật bằng thái độ tinh thần của bạn. Thay vì than van về
tình cảnh của bạn, cảm thấy đáng thương cho chính mình, và quá bị lo ấu và buồn
phiền, thực ra bạn có thể tự cứu mình ra khỏi việc tăng thêm đau đớn và khổ đau
tinh thần bằng cách áp dụng một thái độ đứng đắn Thực hành thiền định Tong-Len,
hay "cho và nhận", không phải lúc nào cũng có thể giảm bớt đau đớn thể
xác hay dẫn đến lành bệnh, nhưng điều mà nó có thể làm được là bảo vệ bạn khỏi
tăng thêm đau đớn tâm lý, khổ đau, và nỗi thống khổ. Bạn có thể nghĩ rằng,
"Cầu mong cho tôi bằng sự kinh qua đau đớn và nỗi khổ đau này, có thể giúp
đõ được những người khác và cứu được những người đang phải chịu đựng như tôi!
Khổ đau của bạn sẽ có một ý nghĩa mới vì nó được sử dụng làm cơ
sở cho việc tu tập tôn giáo hay tinh thần.Và trên cả điều ấy, cũng có thể trong
trường hợp của một số cá nhân tu tập kỹ thuật này, thay vì lo ấu và buồn phiền
bởi việc đã kinh qua, cá nhân đó có thể nhìn thấy điều đó là một đặc quyền. Cá
nhân ấy có thể nhận thấy điều đó là một cơ hội, và thực ra, vui vẻ vì kinh nghiệm
đặc biệt này làm cho họ phong phú hơn."
"Ngài nói rằng khổ đau có thể được sử dụng trong việc tu tập
Pháp Tong-Len. Trước đó Ngài đã bàn về việc chủ định suy tưởng về bản chất khổ
đau có thể rất có ích để ngăn ngừa chúng ta khỏi bị choáng ngộp khi những hoàn
cảnh khó khăn phát sinh.. có ý nghĩa là phát triển sự chấp nhận khổ đau là một
phần tất yếu của cuộc sống..."
"Điều đó rất đúng" Ngài gật đầu.
"Khổ đau có thể được xem là có ý nghĩa ở những khía cạnh
khác không, hay ít nhất là sự suy ngẫm về khổ đau có một số giá trị thực tiễn
không?" "Có chứ" Ngài trả lời, "nhất định có. Tôi nghĩ rằng
lúc đầu chúng ta có nói trong khuôn khổ Đạo Phật, suy nghĩ về khổ đau có tầm
quan trọng thật lớn lao vì lẽ nhận thức được bản chất của khổ đau, bạn sẽ phát
triển được quyết tâm lớn hơn để chấm dứt nguyên nhân của khổ đau, và những hành
vi bất thiện dẫn đến khổ đau. Và nó sẽ tăng thêm sự hăng hái trong việc đi vào
thực hiện những hành động và hành vi thiện dẫn đến hạnh phúc và niềm vui."
"Ngài có nhìn thấy lợi ích nào về việc suy ngẫm về khổ đau
cho những người không phải là Phật Tử không?
"Có chứ, tôi nghĩ rằng nó có một số giá trị thực tiễn trong
một số hoàn cảnh. Chẳng hạn, suy ngẫm vể khổ đau của bạn, có thể làm giảm bớt
tính cao ngạo của bạn, cảm nghĩ tự cao tự đại. Đương nhiên", Ngài cười
thành thật, "điều này có thể được coi như không có lợi ích thực tiễn hay
là một lý do có sức thuyết phục cho những ai không nhìn nhận sự cao ngạo hay sự
hãnh diện là một sự sai lầm."
Tỏ ra nghiêm trang hơn, Đức Đạt Lai Lạt Ma thêm vào, "Nhưng
dầu sao tôi nghĩ rằng có một khía cạnh có tầm quan trọng sống còn về kinh nghiệm
khổ đau của chúng ta. Khi bạn có ý thức về đau đớn và khổ đau của bạn, nó giúp
bạn phát triển khả năng dũng cảm, khả năng này giúp bạn hiểu và thông cảm với cảm
tưởng và đau khổ của người khác. Điều này nâng cao khả năng từ bi của bạn đối với
người khác. Cho nên nó là phương tiện giúp chúng ta liên hệ với người khác, nó
có thể được coi như có giá trị.
"Cho nên, Đức Đạt Lai Lạt Ma kết luận, "nhìn vào khổ
đau bằng những khía cạnh đó, thái độ của chúng ta có thể thay đổi, khổ đau của
chúng ta có thể không phải là không có giá trị và tồi tệ như chúng ta nghĩ".
ĐỐI TRỊ VỚI ĐAU ĐỚN THỂ XÁC
Bằng cách suy ngẫm khổ đau trong những lúc êm ả của đời sống
chúng ta, khi mọi sự đều tương đối ổn định và trôi chảy, chúng ta thường có thể
khám phá ra giá trị sâu xa về ý nghĩa của khổ đau. Tuy nhiên đôi khi chúng ta
phải đương đầu với những loại khổ đau dường như không mục đích, không có đặc
tính đền bù lại tí nào cả. Cái đau đớn và khổ sở về thể xác dường như thường
thuộc loại này. Nhưng có một sự khác biệt giữa đau đớn thể xác, một tiến trình
sinh lý, và khổ đau, sự phản ứng tinh thần và xúc cảm với sự đau đớn. Cho nên
câu hỏi được nêu lên. Tìm ra mục đích và ý nghĩa ẩn sau cái đau đớn có thể thay
đổi thái độ chúng ta về việc ấy không? Và thay đổi thái độ có thể giảm bớt mức
độ khổ đau khi thể xác của chúng ta bị thương tổn không?
Trong cuốn sách Đau Đớn: Món quà tặng mà không ai muốn, Tiến
Sĩ Paul Brand khảo sát mục đích và giá trị của đau đớn thể xác. Tiến Sĩ Brand một
bác sĩ giải phẫu chuyên về tay và và là chuyên gia bệnh phong hủi nổi tiếng
trên thế giới, sống quãng đời niên thiếu của ông tại Ấn Độ, với tư cách là con
một nhà truyền giáo, nói chung quanh ông toàn là những người sống trong những
hoàn cảnh hết sức là cơ cực và đau khổ. Nhận thấy nỗi đau đớn thể xác dường như
hoàn toàn là bình thường và được chịu đựng dễ dàng hơn ở Tây Phương, Tiến Sĩ Brand
chú trọng đến cơ chế đau đớn trong cơ thể con người. Cuối cùng ông bắt đầu làm
việc với các bệnh nhân bị bệnh hủi tại Ấn Độ và có một khám phá khác thường.
ông khám phá ra những tàn phá của bệnh phong hủi và những biến dạng khủng khiếp
không phải là do tổ chức bệnh này trực tiếp gây ra sự thối rữa thịt mà đúng hơn
là bệnh này gây mất cảm giác đau đớn ở các chi. Không có sự bảo vệ của đau đớn,
những người bị bệnh phong hủi thiếu hệ thống báo cho họ biết về tổn hại. Như thế,
Tiến sĩ Brand theo dõi thấy những bệnh nhân này đi hay chạy bằng chi không có
da thịt hoặc trơ xương ra, việc này gây nên sự tàn phá không ngừng. Không đau đớn,
đôi khi họ đưa tay vào lửa để tìm lại cái gì đó. ông nhận thấy họ hoàn toàn thản
nhiên đối với sư tự hủy hoại. Trong cuốn sách của ông, ông kể lại hết chuyện
này đến chuyện khác về những hậu quả tai hại về cuộc sống mà không có cảm giác
đau đớn- về những thương tích tái diễn, những trường hợp chuột gặm ngón tay và
ngón chân trong khi người bệnh vẫn ngủ yên. Sau cả một đời làm việc với những
người bệnh đau khổ do đau đớn và những người bệnh khổ đau do thiếu đau đớn, Tiến
Sĩ Brand dần dần tiến tới quan niệm về đau đớn không phải là kẻ thù chung như
người Phương Tây nhìn nhận mà là một hệ thống sinh học tinh vi, khác thường và
thông minh báo cho chúng ta biết sự tổn hại của cơ thể và nhờ đó bảo vệ chúng
ta. Nhưng tại sao kinh qua khổ đau lại khó chịu quá như vậy? ông kết luận chính
sự khó chịu của đau đớn, một phần là do ta ghét, là những gì làm cho nó trở
thành hiệu quả trong việc bảo vệ chúng ta và báo cho chúng ta biết về nguy hiểm
và thương tích. Đặc tính khó chịu của đau đớn buộc toàn bộ tổ chức con người
chăm lo vào vấn đề. Mặc dù cơ thể có những hành động phản ứng tự động làm thành
lớp bảo vệ bên ngoài và mau chóng đưa chúng ta thoát khỏi đau đớn, nhưng chính
cảm giác khó chịu đã kích động và bắt buộc toàn thể cơ thể tham gia hành động.
Nó cũng cất giữ kinh nghiệm vào ký ức và dùng để bảo vệ chúng ta trong tương
lai.
Cũng vậy, tìm hiểu ý nghĩa trong sự khổ đau của chúng ta có thể
giúp chúng ta đối phó với các vấn đề trong cuộc sống. Tiến Sĩ Brand tin rằng hiểu
biết mục đích của sự đau đớn thể chất có thể làm nhẹ bớt khổ đau khi đau đớn
phát sinh. Theo lý thuyết này, ông đưa ra khái niệm về "bảo toàn đau đớn".
ông tin rằng chúng ta có thể chuẩn bị trước cho cơn đau đớn, trong khi mạnh khỏe,
bằng cách thấu triệt lý do mà chúng ta đau đớn, và dành thì giờ để suy ngẫm đời
sống sẽ ra sao nếu không có đau đớn. Tuy nhiên vì cơn đau đớn dữ dội có thể phá
tan tính khách quan, chúng ta phải suy ngẫm về những thứ đó trước khi cơn đau đớn
tân công. Nhưng nếu chúng ta bắt đầu nghĩ về đau đớn là tiếng nói mà thân xác bạn
dưa ra về một vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với bạn, cách hữu hiệu nhất
để lưu ý bạn, thì thái độ về đau đớn của bạn sẽ bắt đầu thay đổi. Và khi thái độ
về đau đớn thay đổi, sự khổ đau của chúng ta sẽ giảm bớt. Như Tiến Sĩ Brand
tuyên bố, "tôi tin rằng chúng ta trau dồi thái độ này trước có thể quyết định
khổ đau sẽ ảnh hưởng như thế nào khi nó tân công chúng ta." ông tin tưởng
rằng thậm chí chúng ta có thể phát triển lòng biết ơn trong việc đối đầu với
đau đớn. Chúng ta có thể không may phải trải qua đau đớn, nhưng chúng ta có thể
biết ơn về hệ thống nhận thức đau đớn.
Chắc chắn thái độ và quan điểm tinh thần có thể ảnh hưởng mạnh mẽ
đến mức độ khổ đau khi chúng ta đau đớn về thể xác. Chẳng hạn, xin nói đến hai
người, một công nhân xấy dựng nhà cửa và một người chơi đàn dương cầm hòa tấu,
cùng bị thương nơi ngón tay. Trong khi mức đau đớn thể xác của cả hai đều giống
nhau, người công nhân xấy dựng có thể là đau ít và thực ra có thể vui vẻ nếu vết
thương dẫn đến một tháng nghỉ có lương mà người công nhân này cần đến, trong
lúc cũng vẫn vết thương ấy đưa đến kết quả làm cho người chơi đàn dương cầm đau
nhiều hơn vì người này quan niệm sự chơi đàn của mình là nguồn vui hàng đầu
trong cuộc sống.
Thái độ tinh thần của chúng ta ảnh hưởng đến khả năng trong việc
nhận thức và chịu đựng đớn đau là một khái niệm không bị hạn chế trước những
tình huống lý thuyết như thế này, nó đã được chứng minh bởi nhiều công trình
nghiên cứu khoa học và thử nghiệm. Các nhà nghiên cứu vấn đềt này bắt đầu bằng
cách lần tìm đường đi của đau đớn được nhận thức như thế nào và trải qua đau đớn
ra sao. Đau đớn bắt đầu bằng một tín hiệu thuộc cảm giác - báo động được phát
ra khi đầu dấy thần kinh bị kích thích bởi một thứ gì đó cảm thấy là nguy hiểm.
Hàng triệu tín hiệu được gửi đi qua tủy sống đến gốc bộ não. Những tín hiệu này
được chọn lọc và một thông điệp được gửi lên khu vực cao hơn của bộ não báo sự
đau đớn. Rồi bộ não phân loại những thông điệp đã được thẩm tra trước và quyết
định phản ứng. Chính ở giai đọan này tâm có thể ân định giá trị và tầm quan trọng
của đau đớn và tăng cường hay sửa đổi sự nhận thức về dau đớn của chúng ta,
chúng ta biến đau đớn thành khổ tâm. Để cho giảm bớt khổ đau của đau đớn, chúng
ta cần phân biệt rõ nỗi đau của đau đớn mà chúng ta tạo ra bởi những ý nghĩ về
đau đớn. Sợ hãi, nóng giận, tội lỗi, cô đơn, vàbất lực đều là những phản ứng
tinh thần và cảm xúc có thể làm tăng thêm đau đớn. Cho nên, trong việc phát triển
một phương pháp giải quyết đau đớn, đương nhiên chúng ta có thể hoạt động ở mức
độ thấp trong nhận thức đau đớn, dùng những phương tiện của y khoa hiện đại như
thuốc men và các liệu pháp khác, nhưng chúng ta cũng có thể hoạt động ở mức độ
cao bằng cách sửa đổi tầm nhìn và thái độ của chúng ta.
Nhiều nhà nghiên cứu đã quan sát vai trò của tâm trong việc nhận
thức đau đớn. Pavlov đã huân luyện chó để khắc phục bản năng đau đớn bằng cách
kết hợp giật điện với phần thưởng thực phẩm. Nhà nghiên cứu Ronald Melzak dùng
những thí nghiệm của Pavlov đi xa hon nữa. ông nuôi những con chó sục nhỏ
terrier xứ â Cốt trong chuồng có nệm để chúng khỏi phải bị đụng chạm và cào bới
bình thường trong lúc lớn. Những con chó này không biết phản ứng đau đớn căn bản,
chúng không biết phản ứng, chẳng hạn khi chân chúng bị một cái kim đấm vào,
trái với những con được nuôi nâng bình thường kêu ré lên khi bị kim đấm. Trên
cơ sở thử nghiệm như vậy, ông kết luận nhiêu cái mà ta gọi là đau đớn, kể cả những
phản ứng cảm xúc khó chịu, do học được chứ không phải do bản năng. Những cuộc
thí nghiệm khác với con người, liên quan đến thôi miên và thuốc trân yên cũng
đã chứng minh trong nhiều trường hợp, những chức năng cao hơn của bộ não có thể
bác bỏ những tín hiệu đau đớn từ những giai đoạn thấp hơn trên đường đi của đau
đớn. Điều này cho thấy tâm luôn quyết định ra sao, nhận thức đau đớn ra sao và
giúp giải thích những khám phá rất kỳ thú của các nhà điều tra nghiên cứu như
Tiến Sĩ Richard Stenback, và Bernard Tursky của Đai Học Y Khoa Harvard (và sau
này được tái xác nhận trong việc nghiên cứu của Tiến Sĩ Maryann Bates và những
người khác khi họ lưu ý rằng có những khác biệt rất có ý nghĩa giữa những nhóm
sắc tộc khác nhau về khả năng nhận thức và chịu đựng đau đớn)
Cho nên dường như là thái độ của chúng ta về đau đớn có thể ảnh
hưởng đến mức độ mà chúng ta chịu đựng là sự xác nhận không chỉ căn cứ vào ức
đoán triết lý mà còn được chúng minh bởi chứng cớ khoa học. Và nếu cuộc điều
tra nghiên cứu của ta về ý nghĩa và giá trị của đau đớn đưa đến sự thay đổi
thái độ về đau đớn thì nỗ lực của chúng ta không phải là phí phạm. Trong khi
tìm cách để khám phá ra mục đích tiềm ẩn của đau đớn., Tiến Sĩ Brand đã nói
thêm một nhận xét quan trọng có sức hấp dẫn. ông miêu tả nhiều báo cáo về những
bệnh nhân bị bệnh hủi nói rằng, "Đương nhiên, tôi có thể nhìn thấy tay
tôi, chân tôi, nhưng không biết làm sao chúng không cảm thấy là một phần của
tôi. Cảm thấy như thể chúng chỉ là dụng cụ". Như vậy, đau đớn không những
cảnh báo và che chở chúng ta, mà nó còn hợp nhất chúng ta. Không có cảm giác
đau đớn ở tay hay chân, các bộ phận này dường như không còn thuộc về thân thể của
chúng ta nữa.
Cũng giống như vậy, cái đau thể xác hợp nhất cảm giác có một
thân thể, chúng ta có thể hình dung kinh nghiệm chung về khổ đau có chức năng
là một lực để thống nhất và nó liên kết chúng ta với người khác. Có lẽ đó là ý
nghĩa tối hậu đằng sau khổ đau của chúng ta. Chính khổ đau là yếu tố căn bản
nhất mà ta chia sẻ với người khác, nhân tố hợp nhất chúng ta với tất cả sinh vật
sống.
Chúng tôi kết luận cuộc đàm đạo về cái khổ đau của con người với
chỉ dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về Pháp Tong- Len, phương pháp được nói đến ở cuộc
đàm thoại trước. Như Ngài giảng, mục đích của sự quán chiếu trong thiền định là
để củng cố lòng từ bi của mình. Nhưng nó cũng có thể được coi như một công cụ
có sức mạnh trong việc giúp biến đổi sự đau khổ cá nhân. Khi trải qua bất cứ dạng
thức khổ đau hay khó khăn nào, ta cần phải sử dụng cách tu tập này để nâng cao
lòng từ bi bằng cách mường tượng mình đang cứu giúp những người khác cũng đang
chịu những khổ đau tương tự, bằng cách thấu thập và hòa tan những khổ đau của họ
vào chính mình- hồ như thay họ khổ đau.
Đức Đạt Lai Lạt Ma trình bày chỉ dẫn này trước một số đông đảo cử
tọa vào một buổi chiều tháng Chín đặc biệt nóng bức này tại Tuscon.
Các máy điều hòa không khí trong giảng đường đang vật lộn với
nhiệt độ đang lên của sa mạc bên ngoài, cuối cùng bị khuất phục bởi cộng thêm sức
nóng phát ra từ một ngàn sáu trăm người. Nhiệt độ trong phòng bắt đầu lên cao,
tạo ra một mức độ khó chịu chung rất thích hợp cho việc tập thiền định về khổ
đau.
HÀNH TRÌ PHÁP TONG-LEN
"Chiều hôm nay, chúng ta sẽ thiền định về cách tập luyện
Tong-Len, tức "Cho và Nhận". Sự tập luyện này có nghĩa là huân luyện
tâm, củng cố khả năng tự nhiên và sức mạnh của từ bi. Điều này có thể đạt được
do Thiền Định Tong- Len giúp ta phản ứng lại tính ích kỷ của chúng ta. Nó tăng
cường năng lực và sức mạnh của tâm bằng cách nâng cao lòng can đảm của chúng ta
để có thể tđón nhận đau khổ của những người khác.
"Bắt đầu bài tập này, trước tiên hãy quán tưởng một bên của
bạn là một nhóm người cực kỳ cần dược giúp đỡ, những người không may đang khổ
đau, những người đang trong hoàn cảnh nghèo khổ, khó khăn, và đau đớn. Quán tưởng
thật rõ nhóm người này ở một bên trong tâm bạn. Rồi, ở bên kia, quán tưởng
chính bạn là hiện thân của người chỉ biết mình, có thái độ ích kỷ thường tình,
lãnh đạm trước phúc lợi và nhu cầu của người khác. Rồi giữa nhóm người đau khổ
và sự đại diện ích kỷ của bạn, hãy nhìn vào chính mình đứng giữa, với tư cách
là người quan sát vô tư.
"Kế tiếp, nhận để ý xem tự nhiên ngả về bên nào. Có phải bạn
ngả nhiều về một cá nhân, hiện thân của ích kỷ? Hay những cảm tưởng thông cảm của
bạn hướng về những người yếu thế đang cần sự giúp đỡ? Nếu bạn nhìn một cách
khách quan, bạn sẽ nhận thấy phúc lợi cho nhóm người hay một số đông người quan
trọng hơn cho một cá nhân .
"Sau đó, tập trung chú ý vào những người túng thiếu và thất
vọng. Hướng tất cả năng lực tích cực của bạn vào họ trong ý nghĩ cho họ sự
thành công, niềm an ủi, các đức hạnh của bạn. Sau khi đã làm như vậy rồi, quán
tưởng chính bạn nhận khổ đau, khó khăn và tất những tính tiêu cực của họ.
"Thí dụ, bạn có thể quán tưởng đến một em bé ngấy thơ đang
bị chết đói tại Somalia và cảm thấy bạn phải phản ứng tự nhiên như thế nào trước
cảnh này. Trong trường hợp này, khi bạn chứng nghiệm cảm nghĩ đồng cảm sâu xa
trước sự khổ đau của cá nhân ấy, điều đó không còn căn cứ vào những sự cân nhắc
như "Anh ta là người thân của tôi" hay "Chị ấy là bạn
tôi".Thậm chí bạn chưa từng biết người ấy. Nhưng thực tế là người kia là một
con người như bạn, và chính bạn là một con người cho phép khả năng đồng cảm tự
nhiên xuất hiện và khiến cho bạn chìa tay ra. Cho nên bạn có thể quán tưởng cái
gì đó giống như thể để suy nghĩ, " Đứa trẻ đó không có khả năng cứu mình
thoát khỏi tình trạng khó khăn hay gian khổ hiện tại. Rồi, trong ý nghĩ bạn
lãnh tất cả những khổ đau của nghèo khó, chết đói, cảm giác mất mát, và bằng
tinh thần bạn cho đứa trẻ khả năng, của cải, và thành công của bạn. Cho nên, nhờ
tập loại quán tưởng " Cho và Nhận" này, bạn có thể huân luyện tâm bạn.
"Khi bắt tay vào việc tu tập này, đôi khi rất hữu ích là bắt đầu tưởng tượng
đến sự đau khổ sắp đến của chính bạn, và với thái độ từ bi, bạn lãnh sự khổ đau
tương lai của chính mình ngay bây giờ, với sự mong muốn thành thực thoát khỏi tất
cả sự khổ đau tương lai. Sau khi thực hành tới mức phát sanh của tâm trạng từ
bi đối với chính bạn, bạn có thể mở rộng tiến trình này bao gồm việc lãnh lấy
những đau khổ của người khác.
"Khi bạn quán tưởng chính bạn lãnh, rất hữu ích nếu quán tưởng
đến những khổ đau, khó khăn, những khó khăn trong dạng độc tố, vũ khí nguy hiểm,
hay những con vật ghê gớm- những thứ khi nhìn thấy chúng thường làm cho bạn
rùng mình. Cho nên, quán tưởng đau khổ bằng những hình thức này, chúng sẽ thấm
thẳng vào tâm bạn.
"Mục đích quán tưởng những dạng tiêu cực và đáng sợ hãi này
nhập vào tâm bạn là để tiêu diệt thái độ quen thói ích kỷ lúc nào cũng hiện hữu
tại đó. Tuy nhiên với những ai có thể có những khó khăn với hình ảnh của chính
mình, ghét mình, hay giận mình, hay đánh giá thấp mình, thì điều quan trọng là
xét đoán xem sự tu tập đặc biệt này có thích hợp hay không thích hợp. Có thể là
không thích hợp. Tu tập Pháp Tong-Len có thể trở nên rất hùng mạnh nếu bạn phối
hợp 'Cho và Nhận' với một hơi thở, đó là tưởng tượng 'nhận' khi hít vào và
'cho' khi thở ra. Khi bạn làm được việc quán tưởng này hữu hiệu, nó sẽ làm cho
bạn cảm thấy một chút khó chịu. Dấu hiệu này cho thấy bạn đang đánh trúng mục
tiêu - thái độ ích kỷ của mình là trung tâm mà chúng ta thường có. Giờ đây
chúng ta bắt đầu thiền ".
Ở cuối lời chỉ dẫn của Ngài trong việc thực hành Pháp Tong-Len,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra một điểm quan trọng. Không có bài tập đặc biệt nào có
thể đáp ứng hay thích hợp cho tất cả mọi người. Trong cuộc hành trình huân luyện
tinh thần của chúng ta, điều quan trọng là mỗi chúng ta quyết định cách tu tập
riêng thích hợp với chúng ta Đôi khi sự tu tập đầu tiên không lôi cuốn chúng
ta, và trước khi nó nó có hiệu quả, chúng ta cần phải hiểu biết nó hơn nữa. Chắc
chắn điều đó đúng với tôi khi tôi theo chỉ dẫn của Ngài để thực hành pháp
Tong-Len vào buổi chiều hôm đó. Tôi cảm thấy có một ít khó khăn - một cảm giác
phản kháng- mặc dù tôi không thể xác định lúc bây giờ. Sau đó, vào buổi tối,
tôi nghĩ đến lời chỉ dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma và hiểu rằng cảm giác phản
kháng của tôi đã phát triển ngay từ lúc đầu Ngài chỉ dẫn đến chỗ Ngài kết luận
một nhóm người quan trọng hơn một cá nhân. Đó là một khái niệm mà tôi đã nghe
trước đây, ấy là chân lý của Thần Lửa do ông Spock đưa ra trong Star Trek (cuốn
phim Hành trình của các vì sao. Nhu cầu của nhiều người quan trọng hơn nhu
cầu của một người. Nhưng có một điểm gắn liền với lập luận này. Trước khi đem
trình bày với Đức Đạt Lai Lạt Ma, có lẽ không muốn gây ân tượng là "chỉ vì
bản thân", tôi thăm dò một người bạn đã học Phật từ lâu. Tôi nói:
"Có một điều làm tôi khó chịu." có ý kiến cho rằng nhu
cầu của một nhóm đông không quan trọng hơn nhu cầu của một người chỉ có nghĩa
trong lý thuyết, nhưng trong đời sống hàng ngày chúng ta không tác động qua lại
với số đông người. Có lúc chúng ta tác động qua lạivới một người, với nhiều người
cùng một lúc. Nay, ở mức độ từng người, tại sao nhu cầu của cá nhân ấy lại quan
trọng hơn nhu cầu của tôi? Tôi cũng là một người... Chúng ta bình đẳng cơ
mà..."
Bạn tôi suy nghĩ một lúc."Đúng đây, nhưng tôi nghĩ rằng bạn
nên cố gắng coi mỗi cá nhân thực sự bình đẳng với chính bạn- không có gì quan
trọng hơn mà cũng chẳng quan trọng hơn- tôi nghĩ rằng như vậy cũng đủ để bạn bắt
đầu".
Tôi đã không bao giờ còn đưa vấn đề này ra với Đức Đạt Lai Lạt
Ma.
No comments:
Post a Comment