Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức
không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta
Bà đem về tịnh độ.
Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một
đại kiếp gọi là Thiện Trì. Khi ấy tại cõi Tản Đề Lam thế giới có vua Chuyển
Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông
Thắng Thần Châu, hai là Nam Thiện Bộ Châu, ba là Tây Ngưu Hoá Châu, và bốn là Bắc
Cu Lô Châu. Tiếng nhân hiền đồn dậy bốn phương, đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ,
nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng ái kính.
Vua ấy có nhiều người con và có một vị đại thần tên là Bảo Hải.
Con dòng Phạm Chí, rất tinh thông về nghề xem thiên văn.
Ông Bảo Hải lại có một người con trai tướng tốt lạ thường, từ dưới
chân lên đến trên đầu đều có ba mươi hai dấu tốt.
Khi con ông mới sanh ra, thì có các hàng khách tôn quý đem nhiều
đồ lễ vật đến dâng cho, nhân vậy mà đặt tên là Bảo Tạng.
Lúc khôn lớn, thì Bảo Tạng xem biết việc đời là thống khổ, thân
mạng lại vô thường, tự nhiên sanh lòng chán ngán, bỏ cuộc vinh hoa, liền xuất
gia tu hành, chẳng đặng bao lâu mà đã thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai, đủ
các đạo pháp nhiệm mầu, thần thông rộng lớn. Khi thành Phật rồi, thì Ngài dạo
khắp các nơi mà hóa độ chúng sanh, có nhiều hàng đệ tử đã chứng đặng quả Thanh
Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, nên nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng hoan nghinh.
Có một bữa ăn, vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng cùng đại
chúng đến giảng đạo tại vườn Diêm Phù, gần bên thành, thì tự nghĩ rằng:
"Nay ta muốn đến chỗ Phật, đặng xem coi giảng đạo lý gì mà
thiên hạ tín ngưỡng đông như thế!"
Nghĩ như vậy rồi, vua cùng các vị vương tử, đại thần và quyến
thuộc bèn đến vườn Diêm Phù lễ Phật vừa xong, liền đi chung quanh ba vòng, rồi
ngồi bên ngài mà nghe pháp.
Vua Vô Tránh Niệm xem thấy đức Bảo Tạng Như Lai khoanh chân ngồi
trên bảo tọa có hình con sư tử, rất bực trang nghiêm, đủ tướng tốt đẹp, chung
quanh thân ngài có ánh sáng nhiều sắc chói lòa.
Còn trong pháp hội thì thấy: nào là những người đã xuất gia làm
đệ tử của Phật, cạo tóc, đắp y; nào là những hàng vương tử, đại thần mặc đồ anh
lạc; nào là cung nga mỹ nữ dung mạo tốt xinh; nào là sĩ, nông, công, thương, áo
xiêm chỉnh đốn, kẻ thì chấp tay ngồi im lặng, người thì quỳ gối thưa hỏi, xem bộ
ai nấy cũng chăm ngó Phật mà nghe pháp cả.
Vua Vô Tránh Niệm quan sát khắp đủ mọi lẽ, bèn ngắm nhìn thân
mình, rồi trở lại ngó Phật, mắt sửng không nháy, lòng thiệt hoan nghênh, cái
tâm niệm tín ngưỡng tự nhiên phát lộ, liền đảnh lễ ngài và đi xung quanh ba
vòng, rồi cũng ngồi xuống một bên ngài mà chăm nghe lời giảng dạy.
Vua nghe đức Bảo Tạng Như Lai diễn đủ các pháp, thì lòng đã mở
thông, căn thân thanh tịnh, rõ đường giải khổ, biết sự làm lành, liền quỳ xuống
chấp tay mà thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi muốn sắm đủ những đồ ăn
uống, áo chăn, mền nệm, và thuốc men, đặng dâng cúng cho ngài và đại chúng luôn
trọng ba tháng ở đây mà giảng đạo, xin ngài từ bi ái nạp."
Vua Vô Tránh Niệm thấy Phật nhận lời, liền trở về truyền lịnh sắm
sửa đủ mọi lễ, cứ đúng buổi mà dâng cúng không hề trễ nãi.
Vua lại khuyên bảo các vị vương tử, đại thần, quyến thuộc và
nhân dân rằng: "Các ngươi có biết hay không? Nay trẫm đã mở lòng bố thí,
kính thỉnh đức Bảo Tạng Như Lai và đại chúng đến mà cúng dường trọn ba tháng.
Những đồ báu trọng ngon đẹp của trẫm thọ dụng bấy lâu nay đều đem dâng cúng tất
cả. Các ngươi cũng thể theo ý trẫm xả bớt huyễn tài mà cúng Phật, Tăng, đặng cầu
phước báu."
Cả thảy đều vâng lời vua khuyên, hết lòng sắm sửa lễ vật mà dâng
cúng Phật.
Có một hôm, quan đại thần Bảo Hải, là phụ thân của đức Bảo Tạng
Như Lai, nằm chiêm bao thấy vua Vô Tránh Niệm làm sự bố thí lớn, mà việc cầu
phước báu thì nhỏ. Sự ao ước của vua còn thuộc về phước hữu lậu trong cõi nhân
thiên, chưa thoát ra khỏi luân hồi sanh tử.
Vậy nên quan đại thần chẳng đặng vui lòng, vì ý của ông muốn làm
sao cho vua phát tâm cầu quả Bồ Đề, tu thành Phật đạo mà cứu vớt mọi loài chúng
sanh, chớ không muốn cho vua cầu phước báu nhỏ nhen như hàng tiểu dân vậy.
Quan đại thần suy nghĩ như vậy, bèn đến chỗ Phật Bảo Tạng Như
Lai tỏ điềm chiêm bao ấy, và tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng: "Muôn tâu Đại
Vương! Xin suy nghĩ đến việc này. Về sự sanh tử luân hồi phải bỏ thân này mang
lốt khác, nên khó đặng thân người. Nay Đại Vương đã cảm lấy phước báu làm đặng
vương thân, thiệt là quí báu biết dường nào! Các đức Phật tùy cơ duyên của
chúng sanh cảm triệu mà ứng hiện ra đời, cũng như bông hoa ưu đàm ứng thời mà nở,
thiệt là ít có! Nay Đại Vương gặp Phật xuất thế, thì phần hân hạnh biết bao! Dứt
trừ lòng dục vọng, làm mọi sự phước duyên, cũng là việc khó mà Đại Vương làm đặng
như vậy, thiệt là ít ai bì đặng!
Xin Đại Vương thứ lỗi cho ngu thần hỏi lời này: Ngày nay Đại
Vương cúng dường Phật, Tăng, dùng phước duyên đó mà cầu nguyện những việc chi,
xin cho ngu thần rõ.
Nếu Đại Vương muốn cầu sanh về cõi trời mà làm một vị thiên tử
hưởng sự phước thọ hay là muốn cầu sanh về cõi nhân gian làm vua Chuyển Luân,
thống lãnh bốn châu thiên hạ như ngày nay vậy, thì cũng còn ở trong khổ ải, chớ
chưa ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Thưa Đại Vương! Hai sự phước báu tôi đã trần tấu đó đều là tướng
vô định, đều là sự vô thường, thí như cơn gió thổi, dường tợ đám mây tan, có chắc
chắn lâu dài chi đâu mà phải cầu nguyện!
Nếu sanh về cõi trời, khi hưởng sự khoái lạc mà có tạo ác nghiệp,
thì cũng phải đoạ vào địa ngục, đặng chịu khổ. Còn như sanh về cõi nhân gian,
thì lại chiu mọi sự khổ não phần thì oán cừu gặp gỡ, phần thì ân ái chia lìa,
cái khổ trạng ấy không thể kể xiết.
Vì Đại Vương nhờ nhân duyên tu phước đời trước, nên mới hưởng đặng
sự tôn vinh như vầy. Nếu nay Đại Vương giữ gìn giới luật, thì sẽ đặng phước báu
lớn hơn nữa, còn như tu học chánh pháp, thì sẽ thành chủng trí.
Vậy xin Đại Vương nên phát tâm cầu đạo vô thượng bồ đề, chớ đừng
cầu nguyện những việc phước nhỏ nhen như hạng người thường kia vậy."
Vua Vô Tránh Niệm nghe quan đại thần Bảo Hải khuyến thỉnh như thế,
thì tâm lượng tự nhiên mở rộng, liền đáp rằng: "Trẫm chẳng cầu những việc
như khanh nói đó đâu! Trẫm muốn trãi khắp trong đường sanh tử, làm sự bố thí,
trì giới, hầu nghe những pháp mầu nhiệm, tu hạnh bồ tát và cứu vớt chúng sanh,
do nhân duyên ấy mà phát tâm bồ đề."
Đại thần Bảo Hải lại nói rằng: "Bồ Đề là một đạo rất trong
sạch sáng suốt, rất ngay thẳng chính đáng, rất trang nghiêm tốt đẹp, rất rộng lớn
cao sâu, khắp cả hư không, trùm cả sa giới, rất có oai thần mảnh lực.
Vả lại đạo Bồ Đề là hạnh bố thí, sẽ đặng giàu sang, là hạnh trì
giới, sẽ đặng thanh tịnh, là hạnh nhẫn nhục, sẽ đặng vô ngã, là hạnh tinh tấn,
sẽ đặng bất thối, là hạnh thiền định, sẽ đặng vắng lặng, là hạnh bát nhã, sẽ đặng
sáng suốt.
Tu được như vậy mới đến chỗ an lạc và mới chứng đặng quả niết
bàn. Vậy xin Đại Vương nên phát tâm mà cầu đạo ấy."
Vua Vô Tránh Niệm đáp rằng: "Này khanh! Đương thời trung kiếp,
mỗi người sống lâu chỉ có tám vạn tuổi mà thôi! Nay đức Bảo Tạng Như Lai ứng hiện
ra đời mà giáo hóa chúng sanh, hoặc có kẻ chứng pháp tam muội, hoặc có người đặng
bậc bồ tát, hoặc đặng thọ ký làm Phật, hoặc đặng quả báo nơi cõi nhân thiên.
Trong hàng chúng sanh có một người nào không trồng căn lành mà đức Như Lai chẳng
nói pháp đoạn khổ.
Tuy ngài là phước điền của chúng sanh, song những người không có
căn lành thì ngài không có thể hóa độ cho dứt đặng mọi sự khổ não.
Nay Trẫm phát bồ đề tâm, tu bồ tát hạnh, học đạo đại thừa, chứng
pháp môn rất mầu nhiệm, chuyên làm Phật sự mà giáo hóa chúng sanh. Trẫm muốn cầu
làm sao cho khi thành đạo bồ đề, thì thế giới đặng trang nghiêm thanh tịnh,
chúng sanh không còn có một chút khổ gì. Nếu đặng như vậy thì Trẫm sẽ chứng đạo
vô thượng chánh đẳng chánh giác."
Vua Vô Tránh Niệm nói như vậy rồi, bèn đi với quan đại thần Bảo
Hải đến chỗ đức Bảo Tạng Như Lai, thấy ngài đương nhập định, lại dùng phép thần
thông biến hóa và phóng hòa quang sáng suốt, hiện cả mười phương thế giới của
chư Phật ra trước mặt cho chúng hội xem: hoặc có cõi Phật đã niết bàn rồi, hoặc
có cõi Phật đương niết bàn, hoặc có các cõi vị bồ tát mới ngồi nơi đạo trang dưới
cây bồ đề, đương hàng phục chúng ma, hoặc có cõi Phật mới thành đạo và mới nói
pháp, hoặc có cõi Phật thành đạo đã lâu, đương còn nói pháp, hoặc có thế giới
toàn là các bậc bồ tát, hoặc có thế giới toàn là những hàng thanh văn và duyên
giác, hoặc có thế giới không có Phật,bBồ tát, thanh văn và duyên giác chi hết,
hoặc có thế giới đủ năm món ác trược, hoặc có thế giới đủ các thứ trang nghiêm,
hoặc có thế giới bèn dơ nhớp, hoặc có thế giới tốt đẹp lạ thường, hoặc có thế
giới mà nhân dân sống lâu vô cùng, hoặc có thế giới mà nhân dân thọ mạng ngắn
ngủi, hoặc có thế giới thường bị tai nạn thủy hoả, hoặc có thế giới hằng bị tai
nạn gió bão, hoặc có thế giới gần thành tựu, hoặc có thế giới đã thành tựu rồi.
Đại thần Bảo Hải thấy vậy, bèn tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng:
"Nay Đại Vương nhờ sức oai thần của đức Như Lai mà đặng thấy các thế giới,
vậy Đại Vương phát bồ đề tâm muốn cầu lấy thế giới nào."
Vua chấp tay mà thưa với đức Bảo Tạng Như Lai rằng: "Bạch đức
Thế Tôn! Chẳng biết các vị bồ tát tu hạnh gì mà chiếm đặng cõi Phật tốt đẹp
trang nghiêm, tu nghiệp gì mà chiếm đặng thế giới xấu xa ác trược.
Do nghiệp gì mà đặng thọ mạng lâu dài, tạo nghiệp gì mà thọ số
ngắn ngủi? Xin ngài chỉ dạy hco tôi biết mà tu học."
Đức Bảo Tạng Như Lai nói rằng: "Vì bởi các vị Bồ Tát có sức
thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới thanh tịnh, không có các điều ác trược, nên sau
khi thành đạo được về ở cõi ấy rất trang nghiêm.
Còn các vị Bồ Tát nào do sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới ngũ
trược đủ sự phiền não, nên sau khi thành đạo về ở cõi ấy."
Vua Vô Tránh Niệm lễ Phật rồi lui trở về trong cung, một mình ngồi
im lìm mà suy nghĩ đến sự thệ nguyện của mình, mong cầu cho đặng cõi cực kỳ tốt
đẹp, đặng tiếp dẫn chúng sanh.
Suy nghĩ rồi vua bèn trở lại lễ Phật mà thưa rằng: "Bạch đức
Thế Tôn! Vì tôi muốn chứng đạo bồ đề, nên đem công đức cúng dường ngài và đại
chúng trong ba tháng mà cầu đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm.
Bạch đức Thế Tôn!
1. Nay tôi nguyện trong khi tôi thành Phật, làm sao đặng một thế
giới đủ sự vui đẹp, hình dạng nhân dân trong cõi ấy toàn là sức vàng và không
có những đường địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh xen ở chung lộn. Hết thảy chúng
sanh nơi cõi ấy chẳng khi nào còn phải thối chuyển mà đọa vào trong ba đường dữ
đó nữa, và người nào cũng đủ sáu phép thần thông và căn thân tốt đẹp.
2. Tôi nguyện tất cả chúng sanh được về cõi ấy, đều thành đàn
ông tươi tốt vô cùng, không còn thọ báo sắc thân đàn bà và cũng chẳng cần có
danh hiệu của người đàn bà nữa. Hết thảy chúng sanh khi được về đó, thần thức đầu
thai trong bông sen, lúc bông nở ra thì căn thân xinh tốt, thọ mạng lâu dài,
không kể xiết đặng.
3. Tôi nguyện cõi ấy đặng trang nghiêm, cảnh vật thiệt xinh đẹp,
không có mọi sự nhiễm trược, hằng có hoa tốt hương thơm mùi bay các hướng.
4. Tôi nguyện cho chúng sanh trong cõi ấy, ai nấy cũng đều đặng
bao mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thông, trong giây phút dạo khắp các cõi
Phật trong mười phương, đặng cúng dường và nghe pháp, rồi trở về cũng chưa trễ
buổi ăn.
5. Tôi nguyện nhân dân trong cõi ấy đều đặng mọi sự thọ dụng tự
nhiên, đúng giờ ăn thì có đủ các món ngon vật lạ hiện ra trước mắt, còn muốn bận
đồ gì thì có áo xiêm tốt đẹp hiện ra bên mình, không cần phải sắm sửa như trong
cõi nhân gian nầy.
6. Tôi phát nguyện cầu đặng cõi Phật như vậy, đặng từ rày về
sau, đời đời kiếp kiếp, thường tu hạnh bồ tát, làm sự hi hữu mà tạo thành cõi Tịnh
Độ, đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây bồ đề mà thành quả chánh giác,
phóng hào quang soi các thế giới cho các đức Phật đều xem thấy, đặng khen ngợi
danh hiệu của tôi.
7. Tôi nguyện khi thành Phật rồi, những loài chúng sanh ở trong
thế giới khác, đã có tu tập thiện căn, hể nghe danh hiệu tôi mà muốn sanh về
cõi tôi, đến khi lâm chung đặng vãng sanh, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch,
tội chê bai các pháp đại thừa và phá hư chánh pháp mà thôi.
8. Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, mà có chúng sanh ở các thế
giới đã phát bồ đề tâm, tu bồ tát đạo, muốn sanh về cõi tôi, thì đến khi mạng
chung, tôi và đệ tử tôi đều hiện thân đến trước mặt người ấy đặng tiếp dẫn.
9. Tôi nguyện khi tôi nhập diệt, trải vô số kiếp về sau những
người nữ nhân ở trong các thế giới nghe danh hiệu tôi mà chăm lòng vui mến và
phát bồ đề tâm, cho đến lúc thành Phật, cứ cảm báo đặng làm thân đàn ông hoài,
chớ không khi nào còn mang lấy thân đàn bà nữa.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi nguyện đặng cõi Phật như vậy, chúng sanh
như vậy, mọi sự thanh tịnh trang nghiêm như vậy, thì tôi mới chịu thành Phật."
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe vua Vô Tránh Niệm nguyện mấy lời ấy rồi
khen rằng; "Hay thay! Hay thay! Đại Vương phát nguyện sâu lớn, muốn cõi
thanh tịnh. Kìa Đại Vương hãy xem qua hướng Tây, cách trăm ngàn muôn ức cõi Phật
có một thế giới gọi là Tôn Thiện Vô Cấu, giáo chủ cõi ấy hiệu là Tôn Âm Vương
Như Lai, hiện nay đương vì các bậc bồ tát mà giảng dạy pháp đại thừa, giáo hóa
các người thượng căn, chứ không diễn thuyết mấy pháp quyền tiểu.
Trong cõi ấy cũng không có chúng sanh căn trí tiểu thừa và cũng
không có một người nữ nhân. Nhưng y báo (cảnh vật) và chánh báo (căn thân) của
Phật Tôn Âm Vương Như Lai thiệt thanh tịnh trang nghiêm, rất xứng hiệp với chỗ
cầu nguyện của Đại Vương đó! Vì Đại Vương có thệ nguyện muốn cõi thanh tịnh,
nên nay ta đổi hiệu Đại Vương là Vô Lượng Thanh Tịnh.
Khi Vô Lượng Thanh Tịnh mãn một trung kiếp, thì đức Phật Tôn Âm
Vương Như Lai nhập niết bàn, chánh pháp truyền bá đặng mười trung kiếp. Đến khi
diệt độ, trải qua sáu mươi trung kiếp, thì cõi Tôn Thiện Vô Cấu đổi tên lại là
Di Lâu Quang Minh, có đức Phật hiệu là Bất Khả Tư Nghị Công Đức Vương Như Lai, ứng
hiện ra đời mà hóa đạo chúng sanh. Sau khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn rồi, trải
vô số hằng sa kiếp và vô lượng Phật diệt độ, thì cõi Di Lâu Quang Minh đổi tên
lại là An Lạc, đến thời kỳ Vô Lượng Thanh Tịnh chứng quả về cõi đó mà thành Phật
thì hiệu là A Di Đà Như Lai (Vô Lượng Thọ), sống lâu vô cùng, tiếp dẫn vô lượng
chúng sanh trong các thế giới về đó, rồi giáo hóa cho thành Phật đạo tất cả."
Vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng Như Lai thọ ký như vậy liền
thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu lòng thệ nguyện của tôi quả đặng y như lời
thọ ký của ngài, thì tôi kính lễ xin nhờ ngài dùng phép thần thông làm cho các
đức Phật ở trong hằng sa thế giới cũng thọ ký cho tôi như ngài nữa."
Vua Vô Tránh Niệm thưa rồi, đương cúi đầu lễ, tức thì mười
phương thế giới thảy đều vang động.
Vua ở trong pháp hội nghe chư Phật đều thọ ký cũng như lời đức
Phật Bảo Tạng đã nói trên đó, thì rất đỗi vui mừng, liền chấp tay đảnh lễ, rồi
ngồi nghe Phật Bảo Tạng thọ ký cho các vị bồ tát khác.
Từ đó về sau, vua Vô Tránh Niệm mạng chung thọ sanh ra các đời
khác, kiếp nào cũng giữ lời bổn nguyện, tu hạnh bồ tát cứu độ chúng sanh, trải
vô lượng kiếp quả mãn công viên hiện thành chánh giác, đến nay đã mười đại kiếp
rồi, ngài ở cõi Cực Lạc thế giới bên Tây phương, đương giảng dạy các pháp đại
thừa và hằng tiếp dẫn chúng sanh đem về cõi ấy.
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Địa Tạng Bồ Tát
Nam mô Di Lặc Bồ Tát
Nam mô Đức Chuẩn Đề Bồ Tát
SỰ TÍCH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp
ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử.
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng ra
đời.
Vua thấy nhân tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày
càng đông, bèn suy nghĩ rằng:
"Nếu đạo Phật không phải chân chánh, thì đâu có lẻ người ta
sùng bái khắp xứ như vậy!"
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng
tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy.
Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết lòng tin kính,
sắm đủ các món ngon quý và đem những đồ trân trọng của mình mà dâng cúng cho Phật
và đại chúng trong ba tháng, không trễ nãi bữa nào và cũng không món gì kém thiếu.
Quan đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy vậy
khuyên rằng: "Điện Hạ đã sẵn lòng tu phước mà cúng Phật, cúng tăng, vậy
xin Điện Hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về đạo vô thượng bồ đề, chớ nên cầu
sự phước báu trên cõi trời Đao Lợi hay là cõi trời Phạm Thiên làm chi.
Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhân dân vui sướng,
căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu đài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ
y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái
lạc, không có sự khổ như cõi nhân gian.
Cái phước báu trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế, nhưng còn
thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự vô thường, thật
là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực gì cầm lại đặng, hết
vui thì xảy ra buồn, hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn
năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ kia.
Nếu Điện Hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không thoát khỏi ải sanh tử
luân hồi, nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại.
Chi bằng Điền Hạ đem công đức đó mà cầu món phước báo vô lậu,
không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng, hưởng sự
an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về đạo bồ đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng
cứu độ chúng sanh khỏi sông mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức
lợi tha lại đầy đủ nữa."
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng:
"Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục chịu sự khổ cực; còn kẻ
nhân gian và người thiên thượng thì đủ điều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao,
không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ
quả báo mà đoạ vào ba đường dữ là: địa ngục, ngạ quả, và súc sanh."
Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: "Bởi chúng sanh
ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhân quân tử, khuyên việc lánh dữ
làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp những kẻ tàn ác tiểu nhân
cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những điều bất thiện, và lại phá hư chánh
pháp, khinh pháp đại thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến, vì vậy mới
che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì, nên phải chịu nổi đày đọa."
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: "Nay
tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện đem tất cả
các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đã từng
tu tập pháp mầu mà hồi hướng về đạo vô thượng bồ đề.
Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh bồ tát, làm những
việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở
trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa đâu, mà có
xưng niệm danh hiệu tôi, tức thời tôi dùng phép thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng
phép thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng
tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui. Nếu chẳng đặng như lời thề đó
thì tôi không thành Phật.
Thưa đức Thế Tôn! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát lòng đại
nguyện, tu học về pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyện
khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu
là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập
niết bàn, chánh pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc
chánh pháp gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi chứng đạo bồ đề.
Xin đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và tôi cũng hết lòng
yêu cầu các đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười phương đều thọ ký
cho tôi như vậy nữa."
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ ký Bất Huyến
Thái Tử rằng: "Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi thiên thượng nhân gian
và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn đoạn
trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng
sự an vui.
Vì ngươi có lòng soi xét những loại yêu cầu của loài hữu tình
trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay ta đặt hiệu là: Quán Thế Âm.
Trong khi ngươi tu hạnh bồ tát, thì giáo hóa cả vô lượng chúng
sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự.
Sau khi A Di Đà Như Lai nhập niết bàn rồi, thì cõi Cực Lạc lại đổi
tên là: Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu, y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội
phần.
Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra đủ
thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa kim cang ở dưới cây bồ đề mà chứng
ngôi chánh giác hiệu là: Biến Xuất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như
Lai, phước tròn hạnh đủ, muôn sự vẻ vang, đạo pháp cao siêu, thần thông rộng lớn,
rất tôn rất quý, không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do
tha kiếp, rồi khi diệt độ thì chánh pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba ức
kiếp nữa."
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui mừng
mà thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn
mãn như lời ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao! Nay tôi lạy ngài xin làm
thế nào cho các đức Phật hiện ở hằng sa thế giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến
cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng
sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên
đời."
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu lễ Phật, tức thì
các thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã, ai ai
nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, làm cho các điều dục vọng bổng nhiên tiêu tan cả.
Khi ấy, thoạt nghe các đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký
cho Quán Thế Âm rằng: "Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cõi Tán Đề Lam
thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh, có con của vua
Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và đại chúng
trong ba tháng, do công đức đó, nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là:
Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhất
Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu."
Bất Huyến Thái Tử khi đặng chư Phật thọ ký rồi, thì lòng rất vui
mừng.
Đến khi mạng chung, thì ngài thọ sanh ra các đời khác, trải kiếp
nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo bồ đề, làm hạnh
bồ tát, chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh, không có khi nào mà
ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện.
Hiện nay Quán Thế Âm đã chứng được bậc đẳng giác bồ tát, ở cõi Cực
Lạc mà hầu hạ đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương
đem về cõi ấy.
Đến sau, đức Phật A Di Đà nhập niết bàn rồi, thì ngài kế ngôi Phật
vị mà giáo hóa chúng sanh.
SỰ TÍCH ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
Đức Đại Thế Chí Bồ Tát khi chưa xuất gia học đạo, thì ngài chính
là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử.
Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo
Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng.
Quan đại thần là Bảo Hải thấy vậy, bèn khuyến thỉnh rằng:
"Thưa Điện Hạ! Trong sự tu phước có hai thứ: một là tu phước hữu lậu, hai
là tu phước vô lậu.
Song phước hữu lậu dầu có to tát thế nào, thì chỗ cảm báo cũng
chỉ ở trong cõi nhân thiên, hưởng phần khoái lạc mà thôi, chớ không thoát khỏi
luân hồi sanh tử.
Còn như phước vô lậu, thì chỗ kết quả ở ngoài ba cõi bốn dòng,
kiếp kiếp đời đời tiêu diêu tự tại.
Vậy xin Điện Hạ nên vì tất cả chúng sanh mà cầu đặng nhất thiết
trí, đem công đức ấy hồi hướng về đạo vô thượng bồ đề, thì sự phước báu không
khi nào cùng tận, mà lại đặng viên mãn cái tâm nguyện nữa."
Ma Ni Thái Tử nghe quan đại thần khuyên nói rành rẽ như thế, liền
chấp tay thưa với Phật Bảo Tạng rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi xin đem
công đức cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của
tôi đã từng làm, như là:
Ba nghiệp của thân:
Không sát hại chúng sanh,
Không trộm cắp của người và
Không tà dâm.
Bốn nghiệp của miệng:
Không nói láo xược
Không nói thêu dệt
Không nói hai lưỡi
Không nói độc dữ thô tục
Ba nghiệp của ý:
Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục
Không hờn giận oán cừu
Không si mê ám muội.
Cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về đạo vô
thượng chánh đẳng chánh giác và cầu đặng một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ,
như cõi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai, mà
ngài đã thọ ký cho huynh trưởng tôi đó vậy.
Khi đức Phật ấy thành đạo, trước hết tôi ra khuyến thỉnh ngài,
nói đủ pháp Tam Thừa liễu nghĩa mà hóa độ chúng sanh.
Trong khi đó, tôi cũng còn tu bồ tát đạo, làm việc Phật sự, dạy
dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình, mà cầu mau đặng
hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện.
Đến chừng Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang
Vương Như Lai diệt độ rồi, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền chánh pháp
mà hóa độ chúng sanh.
Những sự trang nghiêm đẹp đẽ trong quốc độ tôi, cùng là thời kỳ
diệt độ và kiếp sơ trụ thế của chánh pháp tôi, đều nguyện y như công cuộc ứng
hóa của Đức Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai vậy."
Phật Bảo Tạng nghe mấy lời của Ni Ma Thái Tử nguyện, liền thọ ký
rằng: "Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang
nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, ngươi sẽ được hoàn mãn các sự
cầu nguyện ấy.
Vì ngươi có lòng mong cầu một thế giới rất đẹp rất lớn như thế,
nên ta đặt hiệu cho ngươi là: Đắc Đại Thế, tức là Đại Thế Chí Bồ Tát.
Sau khi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương
Như Lai nhập Niết Bàn rồi, ngươi bổ xứ làm Phật, hiệu là: Thiện Trụ Trân Bảo
Như Lai, kế tiếp ra đời mà hóa độ mọi loài hàm thức."
Ni Ma Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi liền thưa rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Nếu sự nguyện cầu của tôi quả đặng như lời ngài thọ ký
đó, tôi xin kính lễ ngài và nhờ ngài làm sao cho các thế giới đều vang động và ở
giữa hư không có rải xuống nhiều thứ hoa thơm đẹp, lại có các đức Phật ở các thế
giới mười phương cũng đều thọ ký cho tôi như vậy nữa."
Ni Ma Thái Tử thưa rồi, vừa cúi lạy Phật, tức thì các thế giới
mười phương, cả núi sông, cây cối, và những vật có hình chất, đều rung động ra
thành tiếng vang rền khắp cả, còn giữa hư không lại có các thứ bông rất thơm
tho và tốt đẹp rơi xuống như mưa.
Các đức Phật ở mười phương đều đồng tình thọ ký rằng: "Tại
cõi Tán Đề Lam, có người đệ tử của Phật Bảo Tạng Như Lai tên là Ni Ma, con thứ
hai của Vua Vô Tránh Niệm, có phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trọn ba
tháng, đem công đức ấy mà hồi hướng về đạo vô thượng bồ đề và nguyện đặng ở cõi
thế giới trang nghiêm.
Vì vậy nên trải qua hằng sa kiếp, người ấy sẽ bổ xứ thành Phật,
sau khi đức Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai đã nhập
Niết Bàn."
Ni Ma Thái Tử nhờ Phật Bảo Tạng và các đức Phật mười phương thọ
ký rồi, lòng vui mừng, hằng chăm tu tập công hạnh vô lậu mà cầu cho mau thỏa
mãn những điều tâm nguyện.
Từ đó về sau, Ni Ma Thái Tử mạng chung rồi đầu thai ra thân
khác, đời khác, kiếp nào cũng hằng giữ bổn nguyện, quyết chí tu hành, học đạo đại
thừa, làm hạnh bồ tát, mở mang trí huệ cho chúng sanh và làm những sự nhiễu
ích, đặng dìu dắt các loài ra khỏi sông mê mà bước lên đường giác.
Hiện nay ngài Đại Thế Chí đương làm một vị đẳng giác bồ tát, hầu
gần bên đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ đương Phật hóa, tiếp dẫn chúng
sanh, chờ đến thời kỳ quả mãn công viên mới bổ xứ làm Phật.
Sự tích đức Văn Thù Sư Lợi
Đức Văn Thù Sư Lợi khi chưa thành đạo thì ngài là con thứ ba của
vua Vô Tránh Niệm, tên là Vương Chúng Thái Tử.
Nhờ phụ vương khuyên bảo, nên ngài phát tâm cúng dường Phật Bảo
Tạng và tăng chúng trọn ba tháng.
Lúc ấy, có quan đại thần là Bảo Hải thấy vậy thì khuyên rằng:
"Nay Điện Hạ đã có lòng làm sự phước đức, tạo nghiệp thanh tịnh, nên vì hết
thảy chúng sanh mà cầu đặng các món trí huệ, và đem công đức ấy hồi hướng về đạo
vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì tốt hơn là mong cầu mọi sự phước báu nhỏ
nhen."
Vương Chúng Thái Tử nghe quan đại thần khuyến như vậy, thì liền
chấp tay mà thưa với Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Công đức tôi cúng dường
Phật tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng
về đạo vô thượng bồ đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh bồ tát, đặng hóa độ
chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả.
1. Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới
trong mười phương đều phát tâm cầu đạo vô thượng chánh giác, giữ gìn tâm bồ đề
cho bền chắc, và khuyến hóa theo môn lục độ là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, trí huệ. Tôi nguyện giáo hóa vô số chúng sanh ở các thế
giới đều đặng thành Phật thuyết phát trước tôi, và trong khi thuyết pháp, làm
sao cho tôi đều xem thấy tất cả.
2. Tôi nguyện trong khi tu bồ tát đạo, làm đặng vô lượng việc Phật,
và sanh ra đời nào cũng tu theo đạo ấy cả.
Bao nhiêu chúng sanh của tôi dạy dỗ đều đặng thanh tịnh, như các
người đã có tu phép thiền định ở cõi phạm thiên, tâm ý không còn điên đảo. Nếu
đặng các kẻ chúng sanh như vậy sanh về cõi tôi, thì khi ấy tôi mới thành đạo.
3. Tôi nguyện đem các món hạnh nguyện mà cầu đặng cõi Phật trang
nghiêm và nguyện hết thảy các cõi Phật đều hiệp chung lại thành một thế giới của
tôi.
4. Đường giới hạn xung quanh trong cõi ấy đều dùng những chất:
Vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu và mã não, mà xây đắp cho cao
lên đến cõi phạm thiên, còn mặt đất thì toàn là ngọc lưu ly tất cả.
5. Trong cõi ấy không có các món đất, cát, bụi bặm, chông gai,
dơ dáy, và không có những sự cảm xúc, thô ác, và xấu xa, cũng không có những
người đàn bà và tên hiệu của người đàn bà.
6. Hết thảy chúng sanh đều hóa sanh, chớ không phải bào thai
trong bụng mẹ như các cõi khác, và hằng tu tập các pháp thiền định, vui đẹp tự
nhiên, chớ không cần phải ăn uống những đồ vật chất.
7. Trong cõi tôi không có người tiểu thừa, thanh văn và duyên
giác. Thảy đều là các bậc bồ tát, căn tánh cao thượng, tâm trí sáng suốt, người
nào cũng đã xa lìa mọi sự tham lam, hờn giận, ngu si, và đã tu đặng các môn phạm
hạnh cả.
8. Trong khi chúng sanh sanh về cõi tôi, thì tự nhiên đủ tướng mạo
tỳ kheo, đều có cạo tóc và đắp y một cách chỉnh đốn cả.
9. Chúng sanh trong cõi tôi muốn ăn, thì tự nhiên có bình bát thất
bảo cầm ở nơi tay và đủ các món đồ ăn ngon đẹp đầy bát. Khi ấy lại nghĩ rằng:
Chúng ta chớ nên dùng những đồ này, nguyện đem bố thí, trước hết dâng cúng cho
các đức Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, và Duyên Giác, sau nữa thì chúng sanh nghèo
hèn và các loài ngạ quỷ đói khát đều dùng no đủ. Còn phần chúng ta thì nên tu
pháp thiền định, hưởng sự vui đẹp tức là món ăn.
10. Mọi người suy nghĩ như vậy, liền đặng pháp tam muội, gọi là
Bất Khả Tư Nghị Hạnh, có sức thần thông, dạo đi tự tại, không có sự gì ngăn ngại
tất cả. Độ trong giây phút, mọi người đạo dạo khắp thế giới mà cúng dường Phật,
bố thí và diễn thuyết các pháp cho chúng sanh nghe rồi trở về nước thì vừa đúng
bữa ăn.
11. Tôi nguyện trong thế giới của tôi không có tám món chướng nạn
và các sự khổ não, và cũng không có những người phá hư giới luật.
12. Tôi nguyện trong thế giới ấy có nhiều món châu báu rất lạ
lùng và không cần gì phải dùng đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Các vị bồ
tát tự nhiên xung quanh thân thể có hào quang sáng chói, soi khắp các nơi, thường
chiếu luôn không có ngày đêm, chỉ xem lúc nào bông nở thì cho là ban ngày, lúc
nào bông xếp lại cho là ban đêm mà thôi. Còn khí hậu thường điều hòa, không
nóng quá cũng không lạnh quá.
13. Nếu các vị bồ tát nào bổ xứ làm Phật các cõi khác, thì trước
hết ở nơi cõi tôi, rồi đến cung trời Đâu Suất, sau mới giáng sinh đến cõi ấy.
14. Tôi nguyện hóa độ chúng sanh đều thành Phật hết rồi, tôi mới
hiện lên trên hư không mà nhập diệt.
15. Trong lúc tôi nhập diệt, thì có nhiều món âm nhạc tự nhiên
kêu vang đủ pháp mầu nhiệm và các vị bồ tát nghe đều tỏ đặng các lẽ huyền diệu.
16. Thưa đức Thế Tôn! Tôi nguyện khi làm bồ tát mà dạo trong các
cõi Phật, xem thấy những thức trang nghiêm, những châu báu, những hình trạng,
những xứ sở, và những hạnh nguyện của chư Phật, thì tôi đều cầu đặng thành tựu
tất cả.
17. Tôi nguyện các vị đẳng giác bồ tát đều ở trong cõi tôi mà đợi
đến thời kỳ bổ xứ làm Phật, chớ không thọ sanh các cõi nào khác nữa. Nếu các vị
nào muốn đến cõi khác thành Phật mà hoá độ chúng sanh, thì tùy theo ý nguyện.
18. Thưa đức Thế Tôn! Trong khi tôi tu đạo bồ tát, nguyện đặng
cõi Phật rất tốt đẹp nhiệm mầu. Các vị bồ tát phát bồ đề tâm, tu bồ tát hạnh,
mà đặng bậc bổ xứ thành Phật, đều sanh về trong cõi tôi cả.
19. Thưa đức Thế Tôn! Tôi nguyện đặng như vậy, tôi mới thành Phật,
và nguyện ngồi khoanh chân trên tọa kim cang ở dưới cây bồ đề, trong giây lát
chứng thành chánh giác.
20. Khi thành Phật rồi, tôi biến hoá ra các vị hóa Phật và các vị
bồ tát, nhiều như số các sông Hằng, đặng dạo các thế giới mà hóa độ chúng sanh,
giảng dạy các pháp nhiệm mầu và khiến cho hết thảy nghe pháp rồi đều phát bồ đề
tâm, cho đến khi thành đạo cũng không đổi dời tâm trí.
21. Khi tôi thành Phật rồi, chúng sanh ở trong các cõi nếu thấy
đặng tướng tốt của tôi, hằng in nhớ trong tâm luôn luôn, cho đến khi thành đạo
cũng không quên.
22. Tôi nguyện chúng sanh trong cõi tôi, người nào cũng đủ căn
thân toàn vẹn, không hư thiếu món gì. Nếu các vị bồ tát muốn xem thấy tướng
tôi, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, thì đều thấy đặng cả. Khi thấy rồi,
liền phát bồ đề tâm, và lại trong lúc thấy tôi, những sự hoài nghi về đạo pháp
tự nhiên hiểu biết đặng cả, không cần đợi tôi giải thuyết nữa.
23. Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, thì tôi đặng thọ mạng vô
cùng vô tận, không kể xiết. Còn các vị bồ tát trong cõi tôi cũng đặng sống lâu
như vậy.
24. Trong lúc tôi thành Phật, có vô số bồ tát đủ tướng mạo tỳ
kheo, người nào cũng cạo đầu, đắp y, cho đến khi nhập niết bàn thì những tóc
không khi nào để mọc dài, và những y cũng không khi nào đổi bận như đồ người thế
tục."
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện rồi, liền thọ ký cho
Vương Chúng Thái Tử rằng: "Hay thay! Hay thay! Ngươi là người đại trượng
phu, trí tuệ sáng suốt, tỏ biết mọi lẻ, phát nguyện rất lớn và rất khó khăn,
làm những việc công đức rất rộng sâu, không thể nghĩ bàn đặng. Chính ngươi là bậc
trí huệ nhiệm mầu, mới làm đặng mọi sự như vậy.
Bởi ngươi vì hết thảy chúng sanh mà phát thệ nguyện rất nặng lớn
và cầu đặng cõi Phật rất trang nghiêm như thế, nên ta đặt hiệu cho ngươi là:
Văn Thù Sư Lợi. Trải vô lượng hằng sa số kiếp về sau, ngươi sẽ thành Phật hiệu
là: Phổ Hiền Như Lai ở thế giới rất đẹp đẽ, tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chi,
thuộc về bên phương Nam.
Tất cả mọi sự trang nghiêm của ngươi ước ao thảy đều thỏa mãn.
Này Văn Thù Sư Lợi, từ rày sắp về sau, trải hằng sa kiếp, ngươi
tu bồ tát đạo, trồng các căn lành, và tâm trí thanh tịnh. Ngươi hằng vì chúng
sanh mà giáo hóa cho chúng nó đều dẹp trừ được các món tâm bịnh, vậy nên chúng
nó đều xưng ngươi là một ông thầy thuốc hay, có một món thuốc thần để chữa lành
được bịnh phiền não."
Vương Chúng Thái Tử thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu sự thệ
nguyện của tôi đặng như lời ngài thọ ký đó, thì tôi xin cả thế giới đều vang động
và các đức Phật mười phương đều thọ ký cho tôi nữa."
Vương Chúng Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu lễ Phật, tự nhiên giữa
hư không có các thứ tiếng âm nhạc vang rền diễn ra các pháp mầu nhiệm, và có
các thứ bông tươi tốt thơm tho rải xuống như mưa.
Các vị bồ tát ở các thế giới khác xem thấy như vậy, liền hỏi các
đức Phật rằng: "Do nhân duyên gì mà có điềm lành như thế?"
Các đức Phật nói rằng: "Nay chư Phật ở mười phương đều thọ
ký cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sau sẽ thành Phật, nên hiện ra điềm lành ấy."
Vương Chúng Thái Tử thấy vậy, lòng rất vui mừng, liền đảnh lễ Phật,
rồi ngồi nghe thuyết pháp.
Từ đó về sau, Vương Chúng Thái Tử mạng chung, sanh ra các thân
khác và đời khác, kiếp nào cũng giữ gìn bản thệ, quyết chí tu hành, học đạo đại
thừa, làm hạnh bồ tát, hóa độ chúng sanh đều thành Phật đạo, mà cầu cho thỏa
mãn những sự cầu nguyện của mình.
Sự tích đức Phổ Hiền Như Lai
Khi đức Phổ Hiền Bồ Tát chưa xuất gia học đạo, còn làm con thứ
tư của vua Vô Tránh Niệm, tên là Năng Đà Nô.
Nhờ phụ vương khuyên bảo, nên thái tử mới phát tâm cúng dường Phật
Bảo Tạng và chúng sanh trong ba tháng.
Lúc ấy có quan đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: "Nay
Điện Hạ có lòng làm đặng món công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về đạo
vô thượng bồ đề, mà cầu đặng thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi
cõi nhân thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử."
Năng Đà Nô Thái Tử nghe quan đại thần khuyên bảo như vậy, liền
thưa với Phật Bảo Tạng rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng
dường ngài và đại chúng trong ba tháng, xin hồi hướng về đạo vô thượng chánh
giác, nguyện phát tâm bồ đề, tu hạnh bồ tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh, đặng
thành Phật đạo, và nguyện đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu
những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của đức Phổ Hiền
Như Lai vậy."
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng Đà Nô Thái Tử phát nguyện như thế,
liền thọ ký rằng: "Hay thay! Hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn
độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật đạo. Trong khi tu Bồ Tát đạo, dùng trí
kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt
hiệu ngươi là: Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trải hằng sa kiếp làm nhiều
công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyến ở phương Đông mà thành Phật,
hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu
nguyện thảy đều thỏa mãn."
Khi đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có
nhiều vị thiên tử ở các cõi trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và
đồng thanh khen ngợi.
Năng Đà Nô Thái Tử thưa với Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu
những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên đặng như lời ngài thọ ký, nay tôi
kính lễ ngài và chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt
rất thơm, mùi bay khắp trong các cõi, và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục,
ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi thiên thượng nhân gian, đương mắc
phải nghiệp báo gì, nếu ngửi đặng món hương thơm ấy, tức thì đều đặng rảnh khổ
và lại hưởng sự an vui."
Năng Đà Nô Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu mà lễ Phật, thì trong
các thế giới mười phương tự nhiên có mười hương thơm bay khắp cả. Lúc đó mọi
loài chúng sanh ngửi đặng mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các bệnh phiền não thảy
đều tiêu trừ. Năng Đà Nô Thái Tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng,
bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi xuống nghe ngài thuyết pháp.
Năng Đà Nô Thái Tử nhờ công đức đó, nên sau khi mạng chung, sanh
ra các thân khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhớ lời thệ nguyện mà chăm làm
các việc Phật sự và hóa độ chúng sanh, đặng cầu cho mau viên mãn những sự của
mình đã ao ước.
Bởi ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy, nên nay đã thành Phật,
ở cõi Bất Huyến, và hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh.
SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
Đức Địa Tạng Bồ Tát là một vị đã chứng bậc đẳng giác trải đến vô
lượng a tăng kỳ kiếp rồi.
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu ngài chưa độ hết chúng sanh,
thì ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì
ngài thề không chịu thành Phật.
Do cái bổn nguyện ấy, nên ngài phân thân nhiều phen, đặng độ
thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp
rồi, mà ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy.
Còn như nói đến tiền thân của ngài từ khi chưa chứng quả vị, có
kiếp ngài làm con gái, có kiếp thì ngài làm con trai, và cũng có kiếp ngài làm
vua nữa.
Nay y theo Kinh Địa Tạng của Phật Thích Ca nói tại cung trời Đao
Lợi rất có chứng cớ rõ ràng, mà lược điển một sự tích, khi ngài làm con gái
dòng Bà la môn như dưới này.
Hồi đời quá khứ, tại kiếp bất khả tư nghị a tăng kỳ, có đức Phật
Giác Hoa Định Tự Tại Vương ra đời.
Sau Phật ấy nhập diệt rồi, đến thời kỳ tượng pháp thì ngài Địa Tạng
lúc ấy chưa chứng vị Bồ Tát, sanh làm con gái dòng Bà la môn.
Vì nàng có túc phước rất nhiều, nên hết thảy mỗi người trong
hàng thân thích đều tôn trọng cung kính, cho đến khi đi đứng nằm ngồi, cũng đều
có hàng chư thiên ủng hộ.
Ngặt vì thân mẫu của nàng tín theo ngoại đạo, nên thường đem
lòng tà niệm mà khinh khi Tam Bảo, đã không tin nhân quả nghiệp báo, mà lại còn
chê bai chánh pháp nữa.
Khi đó nàng đã biết mẹ mình không tin Phật pháp, thế nào đến khi
thác rồi cũng phải trầm luân nơi khổ ải, nên nàng mới hết lòng khuyên can, sớm
tối kiếm nhiều lời, phương tiện mà giảng nói, muốn làm sao cho mẹ mình tín ngưỡng
theo chánh giáo, thì mới đành lòng.
Song khuyên thì khuyên, can thì can, mà thân mẫu của nàng ác
nghiệp đã dẫy đầy và tín tâm lại cạn cợt, nên chẳng có chút gì tin theo.
Ôi chẳng bao lâu bà đã nhuốm bệnh trầm kha, bổng chốc hóa ra người
thiên cổ. Vì lúc sanh tiền ác nghiệp đã thành thục, nên chi thần hồn phải theo
nghiệp quả mà đoạ lạc vào vô gián địa ngục.
Còn phần nàng, một nỗi thì thương mẹ cách biệt, dậm đất kêu trời,
một nổi thì sợ mẹ trầm luân, kinh hồn hãi vía, ngổn ngang trăm mối bên lòng, ăn
không ngon, nằm không ngủ, đêm ngày than khóc, ngàn thảm muôn sầu. Tưởng trong
cảnh huống ấy, nếu có phương gì mà cứu mẹ được, dầu thịt nát xương mòn nàng
cũng không hề tiếc, huống chi nói đến sự gì. Khi ấy nàng mới bán hết những đồ
quý báu đem đến chùa Phật mà dâng cúng.
Lúc nàng vào chùa lễ lạy, xem thấy hình tượng của đức Giác Hoa Định
Tự Tại Vương Như Lai sơn vẻ trang hoàng, oai dung nghiêm chỉnh, dường như một vị
Phật sống thì trong lòng nàng lại bội phần kính ngưỡng.
Nàng lễ bái rồi tự nghĩ rằng: "Phật là bậc đại giác, đủ trí
sáng suốt và hiểu thấu các lẽ, nếu được Phật còn tại thế, thì trong lúc mẹ ta
chết rồi, thì có phạm tội gì và sanh về đường nào, ắt nhờ Phật từ bi chỉ bảo
cho ta biết đặng, có đến nổi đâu mà thảm như thế này!"
Nàng nghĩ như vậy rồi, cứ đứng nhìn sửng tượng Phật mà khóc,
không chịu bước ra, dường có vẻ muốn tỏ lòng cầu khẩn với Phật mà mong Phật chỉ
bảo chỗ thọ khổ của mẹ mình và nhờ ơn cứu độ.
Vừa một chập lâu, thoạt nghe giữa thinh không có tiếng gọi rằng:
"Nàng thánh nữ kia! Thôi đừng buồn rầu khóc lóc nữa, để ta chỉ chỗ thác
sanh của mẹ ngươi cho ngươi biết."
Nàng nghe nói như vậy, liền chấp tay ngửa mặt lên hư không mà bạch
rằng: "Từ khi mẹ tôi mất đến nay, ngày đêm thương nhớ, không biết hỏi han
ai cho rõ chỗ thác sanh của mẹ tôi, nay không biết đức thánh thần chi mà có
lòng đoái thương đến tôi như vậy."
Lúc nàng nói vừa rồi, giữa thanh không lại có tiếng trả lời rằng:
"Ta đây là Giác Hoa Địanh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi cúng dường lễ bái
đó! Vì thấy ngươi có lòng thương nhớ mẹ rất tha thiết, thiệt là chí hiếu hơn hạng
chúng sanh thường tình, nên ta đến đây mà chỉ bảo."
Nàng nghe mấy lời Phật nói như thế, thì lòng thiết tha muốn biết
rõ tin của mẹ thác sanh về chỗ nào, nên không kể đến thân mình, liền gieo mình
xuống đất, tay chân bủn rủn, chết điếng một hồi.
May đâu có những người ở hai bên xúm lại đỡ dậy, nên nàng mới hồi
tỉnh lại, rồi bạch với giữa thanh không rằng: "Cúi xin Phật đem lòng từ bi
thương xót mà chỉ dùm chỗ thác sanh của mẹ tôi cho mau, chứ tôi đây hình mòn
tâm khổ chẳng bao lâu phải chết."
Khi ấy đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mới nói với nàng rằng:
"Ngươi cúng dường và lễ bái xong rồi, mau mau sớm trở về nhà, ngồi ngay thẳng
và yên lặng mà nghĩ danh hiệu của ta, tự nhiên biết được xứ sở của mẹ ngươi
thác sanh."
Nàng lễ Phật vừa xong, liền trở về nhà cứ y theo lời Phật dạy,
nàng ngồi yên lặng một chỗ, niệm danh hiệu của Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Như Lai một ngày một đêm. Thình lình nàng thần mộng đi đến một chỗ bờ biển kia,
nước cuồn cuộn sôi trào, ba đào sóng bủa, lại thấy nhiều giống ác thú, cả mình
bằng sắt, nhảy nhót bơi chạy trên mặt biển, không biết là bao nhiêu, lại thấy
những đàn ông và đàn bà, kể hơn trăm ngàn, lặn xuống trồi lên ở trên ấy, thảy đều
bị những thú dữ kia dành giựt bấu xé mà ăn thịt.
Còn quỉ dạ xoa thì hình thù khác nhau, hoặc có thứ nhiều tay nhiều
chân, hoặc có thú nhiều con mắt nhiều đầu, hoặc có thứ nanh bén nhọn như gươm mọc
ló ra ngoài miệng, thảy đều áp lại lùa đuổi những bọn tội nhân đến gần cho thú
dữ kia ăn thịt. Thiệt cái thảm trạng ấy không dám xem cho lâu!
Nhưng nàng nhờ có sức niệm Phật, nên tâm vẫn thanh tịnh, tự
nhiên không có chút lo sợ hãi cả. Xảy ra đâu có một quỷ vương, tên là Vô Độc,
thấy hình tướng nàng chẳng phải người phàm, oai nghi không giống kẻ tục, bèn đến
trước mặt nàng cúi đầu nghinh tiếp mà bạch rằng; "Dám hỏi đức Bồ Tát vì
duyên cớ chi mà đi tới đây?"
Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: "Chỗ này kêu là xứ gì?"
Quỷ Vô Độc đáp rằng: "Đây là biển nghiệp thứ nhất, về phía
Tây núi Thiết Vi."
Nàng nghe nói liền bảo rằng: "Ta nghe trong núi Thiết Vi có
địa ngục ở chính giữa, việc ấy quả như vậy hay không?"
Quỷ Vô Độc đáp rằng: "Thiệt có địa ngục, chớ không phải huyễn
hoặc đâu!"
Nàng nghe rồi bèn khởi lòng kính nghi mà hỏi nữa rằng: "Địa
ngục là nơi để giam nhốt những người có tội, còn ta đây có lòng kính ngôi Tam Bảo,
mà duyên cớ gì cũng đi đến chỗ ấy như vậy?"
Quỷ Vô Độc đáp rằng: "Phàm người đi đến đây có hai cách: Một
là có oai đức thần thông, đến cứu độ cho mấy người tội khổ, hay là đến chơi cho
biết, hai là mấy người tội ác đã thành thục, phải đi tới đây mà chịu khổ. Nếu
trừ hai lẽ ấy ra, thì không thể đến đây được."
Nàng lại hỏi nữa rằng: "Nước biển này duyên cớ sao mà lại
sôi trào lên hoài, còn ở trong thì có nhiều tội nhân lặn lên hụp xuống, lại bị
các loài thú dữ xâu xé ăn thịt như thế!"
Quỷ Vô Độc đáp rằng: "Đây là chỗ nhốt những kẻ chúng sanh tạo
ác ở cõi Diêm Phù Đề, nên khi chết rồi, trải qua 49 ngày, không ai kế tự, lo
làm việc công đức đặng cứu vớt vong linh bị khốn nạn. Còn những người đã chết
đó, lúc sanh tiền lại không có chút mảy gì là điều phước thiện, vì vậy nên cứ
theo bổn nghiệp của mình mà chiêu cảm lấy cái khổ báo ở nơi địa ngục tự nhiên
trước hết phải đọa tới đây.
Ở bên phía Đông biển này, cách chừng mười vạn do tuần lại có một
cái biển nữa, sự đày đọa của chúng sanh bị vào đó còn khổ hơn đây đến bội phần.
Còn bên mé Đông biển kia, lại có một cái biển khác, sự thảm trạng thống thiết
không thể kể xiết!
Những hạng người thọ khổ là do bình nhật ở thế gian tạo những
nghiệp ác mà phải cảm lấy sự tội báo như vậy, nên ba cái biển đó đều gọi là biển
nghiệp."
Nàng lại hỏi quỷ Vô Độc rằng: "Sao đây chỉ thấy có biển
nghiệp mà thôi, còn địa ngục lại ở chỗ nào đâu?"
Quỷ Vô Độc đáp rằng: "Ở giữa ba cái biển ấy là chỗ địa ngục.
Nếu kể số riêng ra thì nhiều đến trăm ngàn mà sự thọ khổ đều mỗi mỗi khác nhau,
như nói về phần ngục lớn thì có 18 chỗ, còn nói về phần ngục trung thì có năm
trăm chỗ và lại có ngàn trăm chỗ ngục nhỏ nữa. Sự khổ độc trong mấy chỗ ngục đó
không biết bao nhiêu mà kể cho xiết đặng!"
Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: "Mẹ ta khi chết đến nay tuy
chưa bao lâu mà chẳng biết thần hồn đã đi đến chỗ nào?"
Quỷ vương lại hỏi nàng rằng: "Chẳng hay mẹ của Bồ tát, lúc
sanh tiền làm những nghiệp gì, xin tỏ cho tôi rõ."
Nàng đáp rằng: "Mẹ ta trước bị nhiễm theo tà kiến, chê bai
ngôi Tam Bảo, gửi lòng không thường, lập tánh không định, dẫu có nghe lời
khuyên can mà tạm tín, rồi cũng trở lại hủy báng nữa. Nay chết tuy chưa bao
lâu, ắt có lẽ theo ác nghiệp ấy mà đoạ vào khổ thú, nên ta muốn tìm cho biết chỗ
sanh xứ của mẹ ta, nhưng không hiểu ở nơi nào."
Quỷ Vô Độc hỏi rằng: "Vậy chớ mẹ của Bồ tát tên họ là
chi?"
Nàng đáp rằng: "Cha tên là Thi La Thiện Hiện, còn mẹ hiệu
là Duyệt Đề Lợi, đều là dòng dõi Bà la môn cả."
Quỷ Vô Độc nghe rồi, lật đật chấp tay mà bạch với nàng rằng:
"Xin thánh giả trở về bổn xứ, chẳng nên thương nhớ lịnh thân mẫu mà buồn rầu
làm cho hao mòn quý thể. Số là Duyệt Đề Lợi đã khỏi sự khổ ở chốn địa ngục này
mà sanh lên cõi trời cách nay đã ba ngày rồi. Nguyên bà nhờ có người con hết
lòng thảo thuận, lập đàn tràng tu phước và cúng dường nơi tháp tự của đức Giác
Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, nên mới cảm đến Phật Thánh mà được sanh về cõi
trời như vậy.
Chẳng những thân mẫu của Bồ tát nhờ phước đó mà thoát khỏi chỗ
Vô Gián địa ngục, đặng sanh lên cõi trời mà thôi, cho đến những người đồng thọ
tội ở đó cũng nhờ duyên phước ấy mà đều đặng an vui mà đồng sanh về cõi thiên
đàng trong ngày đó nữa."
Quỷ vương nói rồi, liền chấp tay tỏ vẻ cung kính mà xin lui.
Còn nàng thì trong lúc ấy, dường như chiêm bao tỉnh giấc, mới rõ
biết việc này là nhờ Phật lực làm cho thân mình được đi tới chỗ thác sanh của mẹ
như vậy. Nên nàng cảm ơn Phật, lập tức đến trước bổn tượng của đức Giác Hoa Định
Tự Tại Vương Như Lai mà phát lời thệ nguyện lớn rằng: "Nay tôi nguyện cho
đến kiếp vị lai nếu có chúng sanh nào tạo tội mà chịu khổ ở nơi địa ngục, bất
luận là kẻ thân thuộc hay người cừu oán, tội lập ra nhiều pháp môn phương tiện
mà cứu độ cho đều được phân giải thoát tất cả."
Hồi đời quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có đức Phật Thanh Tịnh
Liên Hoa Mục ra đời.
Sau Phật diệt rồi, đến thời kỳ tượng pháp, thì ngài Địa Tạng
chưa chứng vị Bồ Tát, sanh làm người con gái tên là Quang Mục.
Khi mẹ nàng từ trần, thì nàng ngày đêm lo sợ, không biết mẹ có
thoát khỏi tội khổ hay không.
Có một bửa kia, nàng gặp một thầy Tỳ kheo đương khất thực, mà thầy
ấy chính là một vị La hán đi giáo hóa chúng sanh. Nàng bèn sắm đủ các món đồ ăn
ngon quý, rồi mời vị La hán ấy vào nhà mà cúng dường.
Khi ngài thọ thực rồi, bèn hỏi rằng: "Ngươi muốn cầu nguyện
việc chi hay không?"
Nàng thưa rằng: "Bạch ngài! Bởi vì ngày mẹ tôi mất đến nay,
tôi buồn rầu thương nhớ bội phần, nghĩ đến ơn nhũ bộ, đức sanh thành, thì ngàn
kiếp muôn đời tôi cũng không quên đặng, nên tôi nguyện làm việc tư phước này đặng
cầu siêu vong linh cho mẹ tôi nơi chín suối. Nhưng bổn phận tôi là người phàm mắt
thịt, không biết mẹ tôi thác sanh về chỗ nào. Vậy xin ngài từ bi chỉ bảo cho
tôi biết."
Vị La hán thấy nàng Quang Mục tuổi nhỏ mà có lòng hiếu đạo như vậy,
bèn nhập định thấy mẹ nàng bị đoạ vào chỗ ác thú mà chịu nhiều nỗi thống khổ rất
nặng nề.
Khi ngài xuất định rồi, liền hỏi nàng rằng: "Vậy chớ lúc
còn sanh tiền ở trên dương thế, mẹ ngươi làm những việc chi, đến nỗi nay lại bị
hiện báo ngay ở chỗ ác thú mà chịu hình phạt lớn lao như thế?"
Nàng nghe nói khôn xiết nổi buồn rầu, liền khóc òa một hồi rồi
thưa rằng: "Bạch ngài! Số là bình nhật sở hảo của mẹ tôi chỉ thích ăn loài
cá trạch, mà lại còn ưa ăn những trứng của nó, hoặc chiên xào, hoặc nấu nướng,
không biết ngàn vạn nào mà kể xiết. Thường cái nghiệp sát sanh của mẹ tôi đó
cũng đã quá nặng, vậy xin ngài đem lòng từ bi thương xót đến kẻ thơ ấu này làm
thế nào cứu vớt mẹ tôi đặng thoát khỏi nơi khổ thú, thì ơn đức ấy vô lượng vô
biên."
Vị La hán thấy tấm lòng chân thiệt của nàng yêu cầu khẩn thiết
như vậy, liền dùng cơ phương tiện mà khuyên nhủ nàng rằng: "Ngươi nên chí
thành xưng niệm danh hiệu của Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, và phát tâm đắp vẻ
sơn thếp hình tượng của Phật mà thờ, thì ngày sau nhờ cái công đức đó mà kẻ còn
sống đặng thêm sự lợi ích, và người mất rồi lại khỏi sự khổ nạn, hai đàng đều
nhờ phần phước báu tất cả."
Khi nàng Quang Mục nghe lời của vị La hán nói trên, nàng dẫu bỏ
thân mạng cũng không tiếc, huống chi là sự gì. Nên nàng liền bán hết thảy những
đồ nữ trang và có bao nhiêu tiền của cũng đem ra mướn thợ tạo tượng Phật Thanh
Tịnh Liên Hoa Mục và mua vàng sơn thếp mà cúng dường như tỏ dấu yêu cầu đến Phật,
đặng nhờ ớn cứu độ cho từ thân.
Có một đêm kia, ước chừng lúc canh ba, nàng vừa mơ màng giấc điệp,
bỗng thấy thân Phật hiện ra sắc vàng rực rỡ, lại có hào quang sáng chói mà tỏ
cho nàng biết rằng: "Mẹ ngươi chẳng bao lâu rồi cũng thác sanh vào nhà
ngươi, hể vừa biết sự đói lạnh thì nói liền, khi đó ngươi sẽ rõ."
Nàng Quang Mục tỉnh giấc dậy, thì biết là điềm linh ứng của Phật
mách bảo, nhưng chưa hiểu cách thác sanh làm sao, nên luống những ưu sầu mà
trông đợi.
Cách ít lâu, người tớ gái của nàng sanh được một đứa con, chưa đầy
ba ngày mà đã biết nói.
Có một bửa nọ, đứa nhỏ thấy nàng Quang Mục liền cúi đầu mà khóc
lóc rất thảm thiết, rồi nói rằng; "Đường sanh nẻo tử, mối nghiệp dây
duyên, nếu đã tạo tọi thì tất phải chịu lấy quả báo, chớ không thể tránh được.
Ta đây vốn thiệt là mẹ ngươi khi trước. Từ lúc vĩnh biệt đến nay, ta bị đoạ vào
địa ngục, chịu nỗi đắng cay, may nhờ phước lực của ngươi, nên ta mới được đầu
thai lên đây. Nhưng vì tội báo còn nặng nên ta phải sanh làm thân hèn hạ như thế
này. Đã vậy mà lại không thọ, ta chỉ sống được mười ba tuổi mà thôi, rồi lại phải
chết vì bị đoạ vào ác đạo nữa. Bây giờ ngươi nghĩ có cách gì làm cho ta ngày
sau thoát khổ ấy đặng hay không?
Nàng nghe nói đầu đuôi tự sự, hiệp với lời của Phật mách bảo
trong điềm chiêm bao, thì biết là thiệt mẹ của mình, nàng động mối thương tâm,
tơ sầu vấn vít, giọt lệ chứa chan, mà thưa với đứa nhỏ ấy rằng: "Nếu quả
là mẹ tôi, thì chắc biết đặng những sự tội lỗi lúc sanh tiền làm hạnh nghiệp gì
mà phải đoạ vào ác đạo như vậy? Xin tỏ hết cho tôi làm tin."
Đức nhỏ bèn nói rằng: "Bởi ta ngày trước phạm vào hai nghiệp
tội: một là sát sanh và hai là hay mắng người, nên phải đoạ vào địa ngục mà chịu
nổi khổ báo như vậy. Nếu không nhờ phước lực của ngươi niệm Phật và đắp vẻ hình
tượng của ngài mà thờ, đặng cầu cứu vớt cho ta, thì tưởng không phương gì mà ta
mong phần giải thoát cho đặng."
Nàng lại hỏi nữa rằng: "Vậy chớ những sự tội báo ở nơi địa
ngục ra thế nào?"
Đứa nhỏ nói rằng: "Ôi sự thống khổ ấy không nỡ nói ra, mà
đã nói thì cũng không biết chừng nào cho hết chuyện."
Nàng nghe mấy lời ấy liền khóc òa, rồi ngửa mặt lên hư không mà
bạch rằng: "Tôi nguyện với chư Phật xin đem lòng đại bi mà cứu cho mẹ tôi
đời đời khỏi đoạ vào địa ngục, và từ nay cho mẹ tôi khỏi phạm tội nặng mà sa
vào đường ác đạo khác nữa."
Nàng bèn ra quỳ trước bàn thờ đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục mà
nguyện rằng: "Nay tôi vái cùng mười phương chư Phật, xin từ bi thương xót
mà chứng minh cho mấy lời thệ nguyện của tôi ở giữa này. Nếu mẹ tôi đời đời lìa
khỏi ba đường dữ cùng khỏi làm người hèn hẹ, và đến kiếp nào kiếp nấy cũng khỏi
đầu thai làm thân con gái nữa, thì từ đó tôi đối trước tượng Phật Thanh Tịnh
Liên Hoa Mục đây cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ thế giới nào có
chúng sanh bị các tội khổ ở trong địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, thì tôi thệ
nguyện ra sức cứu vớt cả thảy khỏi sự thống khổ nơi ba đường ấy và chừng người
nào người nấy đều đặng thành Phật tất cả, tôi mới chịu chứng bậc chánh
giác."
Khi nàng phát thệ nguyện vừa rồi, bỗng nghe giữa hư không có tiếng
nói rằng: "Nàng Quang Mục! Ngươi có lòng từ bi lân mẫn rất lớn, biết vì mẹ
mà phát lời đại nguyện như thế, nay ta là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, chờ mẹ ngươi
mãn đến khi 13 tuổi, được thác sanh làm người Phạm Chí, hưởnng thọ đến trăm tuổi,
rồi sau lại được sanh về cõi Vô Ưu, hết sự lo phiền, đủ điều khoái lạc, lại sống
lâu đến đời đời kiếp kiếp, và sau được thành Phật quả mà cứu độ tất cả chúng
sanh ở cõi nhân gian và thiên thượng, nhiều như số cát sông Hằng."
Nàng nghe đủ mọi điều tiên chúc của Phật tỏ bày, thì lấy làm vui
mừng khôn xiết, liền lễ lạy mà cảm ơn đức ngài.
Từ đó về sau nàng nuôi dưỡng và săn sóc đức con nít ấy kỹ càng
và khi đến 13 tuổi nó chết, nàng thương xót và chôn cất một cách tử tế như mẹ vậy.
Trước đời quá khứ vô lượng a tăng kỳ na do tha bất khả thuyết kiếp,
thì đức Nhất Thiết Thí Thành Tựu Như Lai và ngài Địa Tạng Bồ Tát đều chưa xuất
gia tu hành. Hai người đồng làm vua lân bang với nhau trong một thời kỳ.
Khi ấy, hai vị quốc vương kết nghĩa làm bạn và giao hảo với nhau
một cách rất thân thiết, đều phát tâm làm mười điều lành, muốn trên thì quần thần
được hưởng cuộc sống hạnh phúc vô vi, dưới thì bá tánh được an cư lạc nghiệp,
và sau nữa tất cả chúng sanh đều gội ơn giáo hóa, cảm đức nhân từ, mà bỏ dữ làm
lành, đặng mọi phần lợi ích.
Song nhân dân trong các nước lân bang, phần nhiều hay làm điều
ác nghiệp, như là tham lam, nóng giận, ngu si, tà kiến, nói thì ngoa ngôn ác ngữ,
mắng rủa lẫn nhau, không kính Phật trọng Tăng, chẳng trì giới sát, tật đố mấy
người lương thiện, mưu hại những kẻ trung thành, chẳng có chút gì là lòng nhân
đức cả.
Đã vậy mà hễ có xảy ra những tai bệnh gì, thì cứ rước bóng rước
chàng, vái ma vái quỷ, đem thân mạng mà cầu cứu với bọn tà sư ngoại đạo, sát hại
vật mà cúng tế luôn luôn, tạo tác không biết bao nhiêu là tội nghiệp. Hai vị quốc
vương thấy nhân dân ở các nước lân bang cứ chuộng sự tà mà làm việc chẳng lành
như vậy, động lòng thương xót, mới bàn luận cùng nhau tìm phương tiện gì, đặng
hóa độ cho những kẻ ấy khỏi bị cái ác nghiệp thọ báo, trầm luân nơi biển khổ về
sau.
Lúc bàn luận xong rồi, một vị phát nguyện rằng: "Nay tôi
nguyện xuất gia cầu đạo Bồ Đề cho đặng mau thành chánh giác mà hóa độ tất cả
chúng sanh đều được vào cõi niết bàn, thì lòng tôi mới lấy làm thỏa mãn."
Còn một vị, thì phát nguyện rằng: "Nay tôi nguyện xuất gia
tu hạnh Bồ Tát, nếu tôi không độ những loài chúng sanh bị tội khổ được mọi điều
an lạc và chứng quả bồ đề, thì tôi chưa chịu thành Phật."
Trong hai vị quốc vương đồng thời phát nguyện như đã nói trên,
thì phát nguyện sớm thành Phật mà hóa độ chúng sanh, tức là ngài Nhất Thiết Trí
Thành Tựu Như Lai. Còn vị phát nguyện độ hết chúng sanh rồi sau sẽ thành Phật,
tức là ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Vì lời thệ nguyện của đức Địa Tạng như vậy, nên đã trải vô số kiếp
mà ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát. Thiệt tấm lòng độ sanh của ngài to lớn biết
là dường nào!
Hồi đời quá khứ, thuộc về kiếp bất khả thuyết, thì tiền thân của
đức Địa Tạng Bồ Tát lại sanh làm ông đại trưởng giả, rất hào tộc và có đức độ.
Đương thời kỳ ấy, có đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn
Hạnh Như Lai ra đời.
Một bữa kia, ông trưởng giả tình cờ gặp vị Phật ấy, thân tướng tốt
đẹp, ngàn phước trang nghiêm, thiệt là tuyệt thắng trên đời, xưa nay chưa thấy.
Ông càng xem lại càng thương và càng kính, làm cho ông sanh lòng hân hạnh bội
phần.
Ông bèn lại gần, cúi đầu chấp tay mà thưa rằng: "Bạch Thế
Tôn! Tôi trộm thấy cái dung quang của ngài rất đoan trang nghiêm nghị và viên
mãn trăm phần, càng ngó lại càng tươi, càng nhìn lại càng đẹp, thiệt là chẳng
ai có cái báo thân như thế! Nhưng tôi tự nghĩ rằng nếu được quả tốt, ắt có nhân
lành, vậy chẳng rõ mấy kiếp trước, ngài làm những hạnh nguyện gì mà ngày nay cảm
được thân tướng tốt đẹp như thế!
Xin ngài từ bi giảng nói cho tôi biết, chứ tôi đây cũng lấy làm
ước ao sao cho được cái tướng hảo ấy."
Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai thấy ông trưởng giả có
lòng ước sự làm lành, nên ngài liền bảo rằng: "Nếu ngươi muốn được kim
thân diệu tướng như ta đây, thì phải phát tâm tu hành, trải vô lượng kiếp cầu đạo
Bồ Đề và một lòng tinh tấn mà hóa độ tất cả những loài chúng sanh thọ khổ cho
thoát khỏi đường tội báo và được phần khoái lạc tiêu diêu, do cái duyên phước ấy
mà ngày sau sẽ cảm đặng tướng hả như ta đây, chớ không khó gì."
Ông trưởng giả nghe Phật dạy bảo như vậy, liền quỳ xuống trước mặt
ngài mà phát nguyện rằng: "Tôi nguyện từ nay cho đến đời vị lai, không biết
bao nhiêu kiếp số về sau, nếu có chúng sanh nào ở trong sáu đường, bị thống khổ
về sự tội báo, thì tôi dùng đủ phương tiện mà độ cho được giải thoát tất cả, chừng
đó tôi mới chứng Phật quả."
Vì trong kiếp làm trưởng giả nói trên, đức Địa Tạng có phát lời
đại nguyện như vậy, nên từ đấy đến nay, trải đã trăm ngàn vạn ức na do tha,
không biết bao nhiêu kiếp số rồi, mà ngài hãy còn làm một vị Bồ Tát.
Xem đó thì biết cái thệ nguyện lợi tha của ngài là vô cùng vô tận,
và cái công đức cứu khổ của ngài thiệt là vô lượng vô biên.
Trong truyện Thần Tăng có nói rằng: Sau khi Phật Thích Ca nhập
diệt 1,508 năm, nhằm đời nhà Tấn, niên hiệu Vĩnh Huy, năm thứ tư, thì đức Địa Tạng
Bồ Tát giáng sanh tại nhà vua nước Tân La. Ngài tục tánh là Kim, tên là Kiều
Giác.
Khi được 24 tuổi, ngài xuất gia tu hành có dắt theo một con chó
trắng, kêu là con Thiện Thinh (Thiện Thinh là con chó biết nghe tiếng người)
qua tỉnh Giang Nam, huyện Thanh Dương, về phía Đông phủ Trì Châu. Ngài lên trên
đỉnh núi Cửu Hoa ngồi thiên định trọn 75 năm.
Đến đời nhà Đường niên hiệu Khai Nguyên, năm thứ 16, tối 30
tháng 7, ngài chứng thành đạo quả. Lúc ấy ngài đã được 99 tuổi, mà cũng còn ở
trong động núi Cửu Hoa.
Thuở đó, có một vị cát lão là ông Mẫn Công, sẵn lòng từ thiện,
hay làm những sự phước thiện, hay làm những sự phước duyên. Trong nhà ông thường
năm, mỗi khi trai tăng là 100 vị, mà ông chỉ thỉnh 99 vị, còn một vị để dành thỉnh
ngài cho đủ số.
Có một bữa kia, ngài xin ông Mẫn Công một chỗ đất, ước vừa trải
đủ cái y cà sa của ngài mà thôi.
Khi ông bằng lòng cho, thì ngài lấy y trải ra, trùm hết cả khoảng
đất tại cạnh núi.
Ông Mẫn Công thấy sự thần kỳ như vậy, biết là một vị thánh tăng,
nên lại càng bội phần hoan hỉ mà nguyện cúng hết đất ấy, còn người con ông thì
xin xuất gia theo ngài.
Ít lâu ông cũng đi tu, trở lại đầu cơ với con, tức là thầy Đạo
Minh Hòa Thượng.
Sau ngài lại thiền định 20 năm nữa, đến đời nhà Đường, niên hiệu
Chí Đức thứ hai, bữa 30 tháng 7, ngài nhập diệt.
Vì có sự tích của ngài chuyển thế như vậy, nên người đời sau tạo
tượng mà thờ ngài, bên tả có thầy Đạo Minh, còn bên hữu có tượng ông Mẫn Công đứng
hầu, và mỗi năm đến ngày 30 tháng 7, ai cũng làm lễ kỷ niệm ngài là do tích đó.
SỰ TÍCH DI LẶC BỒ TÁT
Đức Di Lặc là một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp (Bốn vị Phật
trong Hiền kiếp đã ra đời, kể ra sau đây: 1. Đức Cấu Lưu Tôn, 2. Đức Câu Na
Hàm, 3. Đức Ca Diếp, 4. Đức Thích Ca Mâu Ni) để nối ngôi Phật Thích Ca, ra đời
mà giáo hóa chúng sanh.
Nhưng số kiếp chưa đến, ngài còn ở trên cung trời Đâu Suất, thường
hay hóa thân trong mười phương thế giới mà thuyết pháp độ sanh.
Khi ngài ứng tích tại Song Lâm, thì tên của ngài là: Phó Đại Sĩ,
và lúc ngài hóa thân ở Nhạc Lâm, thì hiệu của ngài là Bố Đại Hòa Thượng.
Công việc hành tàng bước đường lai khứ trong hai khoảng chuyển
sanh ấy, nào là lời phương tiện quyền xảo, nào là lời vi diệu pháp âm, làm cho
người đời đều tỉnh giấc mộng mà quy đầu về chánh giáo.
Nay xin lược thuật sự tích lúc ngài hóa thân làm vị Bố Đại Hoà
Thượng ra sau đây cho quý vị độc giả xem.
Đương thời kỳ nước Lương thuộc về đời Ngũ Quý, ngài ứng tích ở
nơi Châu Minh, tại huyện Phụng Hóa, thân hình khác hơn người thế tục, trán thì
nhăn, bụng thì lớn, và hình vóc mập mạp.
Lúc đó không ai biết tên họ của ngài, chỉ thấy ngài thường mang
theo một cái túi vải mà thôi, nên mọi người kêu là Bố Đại Hòa Thượng.
Tánh ngài hay khôi hài và chỗ ăn và nằm ngày đêm không có nhất định,
mà ngài đi đâu rồi cũng thấy trở về chùa Nhạc Lâm mà trú ngụ.
Mỗi khi đi đường, ngài thường cầm gậy tích trượng và mang cái
túi bằng vải, không khi nào rời hai vật ấy ra khỏi mình, lại có 18 đứa con nít
(là lục căn, lục trần, và lục thức) nhỏ thường đeo đuổi theo một bên mà diễu cợt
làm cho ngài tức cười mãi mãi. Thường khi ngài đi vào chốn thôn quê hay là nơi
đồng ruộng, hễ ai cho những vật gì, khi ngài ăn xong, còn dư lại bao nhiêu đều
bỏ vào túi.
Lúc đi tới nơi chợ quán, thì ngài ngồi xuống, mở túi lấy những đồ
ăn dư đưa lên, kêu mấy người đứng xung quanh mà nói rằng: "Các ngươi xem
cói đó là cái gì?" Ngài nói rồi một giây lâu bỏ đồ ấy vô túi mà mang đi.
Còn có khi ngài gặp thầy sa môn đi ngang qua, ngài ở sau vỗ lưng một cái, làm
cho thầy sa môn giật mình, ngó lại mà hỏi rằng: "Hòa thượng làm cái gì vậy?"
Ngài liền giơ tay nói: "Ngươi cho ta xin một đồng tiền."
Thầy sa môn thấy vậy, bèn nói rằng: "Nếu tôi hỏi một điều
mà hòa thượng nói đặng, thì tôi cho."
Ngài liền để cái túi xuống, chấp tay đứng một bên, rồi lấy túi
mang trở lại mà lật đật quày quả đi liền. Một bửa kia, ngài đi vào trong đám
đông người, có một ông tăng hỏi ngài rằng: "Hòa thượng ở trong đám đông
người làm chi đó?"
Ngài trả lời rằng: "Ta đương đợi một người đến."
Ông tăng hỏi: "Hòa thượng đợi ai?"
Ngài bèn thò tay vào túi lấy một trái quít đưa cho ông tăng.
Ông vừa giơ tay ra lấy trái quít, ngài liền thục tay lại mà nói
rằng: "Ngươi chẳng phải người ấy."
Lại có một bửa, ông tăng chợt thấy ngài đứng bên đường gần chợ,
bèn hỏi rằng: "Hòa thượng ở đây làm chi?"
Ngài liền đáp rằng: "Ta đi hóa duyên."
Ông tăng thấy vậy mới nói rằng: "Hóa duyên ở đâu nơi ngã tư
như vậy?"
Ngài trả lời: "Ngã tư chính là chỗ ta muốn hóa duyên."
Ông tăng vừa muốn hỏi chuyện nữa, thì ngài liền mang cái túi vải
rồi cười ngất mà đi một hơi.
Có một khi ông Bạch Lộc Hòa Thượng gặp ngài, liền hỏi rằng:
"Thế nào gọi là: cái túi vải?"
Ngài nghe hỏi liền để túi xuống, rồi khoanh tay mà đứng.
Ông Bạch Lộc Hoà Thượng lại hỏi rằng: "Công việc của cái
túi vải ra làm sao?"
Ngài liền mang túi mà đi, không trả lờ chi hết.
Có một bửa kia, ông Bảo Phước Hòa Thượng gặp ngài hỏi rằng:
"Thưa ngài! Duyên cớ tại sao mà xưa đức Tổ Sư ở bên Tây phương qua đây là
có ý gì?"
Ngài nghe hỏi liền để cái túi vải xuống, rồi đứng tự nhiên.
Ông Bảo Phước Hòa Thượng lại hỏi nữa rằng: "Chỉ như vậy,
hay là còn có cái gì nữa hay không?"
Ngài nghe hỏi như thế, bèn lấy túi vải mang trở lại mà đi, không
hề trả lời.
Từ đó về sau, hễ ngài đi đến đâu, thì người ta tranh nhau mà chận
đón và níu kéo, đặng mời ngài vào nhà, chớ không cho đi luôn. Bởi vậy cho nên
trong các quán rượu và tiệm cơm, người người tha hồ ăn uống no say, không có
chút gì nhàm chán, vì ngài vào đâu thì buôn bán đắt đến bội phần.
Lúc nào gặp trời mưa, thì tản sáng ngài ngủ dậy mang guốc cáo
gót, đi ra nằm ngửa trên cái cầu to, co chân lại dựng hai bắp vế lên, thì ngày ấy
nắng. Còn khi nào trời nắng, mà ngài mang đôi dép cỏ đi ra ngoài đường, ngày ấy
trời lại mưa.
Thường bửa ngài hay tới nhà một nông phu kia mà ăn cơm. Có một
hôm người vợ tên ấy thấy vậy nổi giận mà rầy rằng: "Đương lúc lo việc ruộng
nương rộn ràng không xiết, mình có công đâu mà nuôi lão Hòa Thượng điên đó
hoài."
Ngài nghe nói mấy lời ấy, liền đem cơm đổ dưới gốc cây dâu ở bên
nhà rồi bỏ đi.
Cơm ấy tự nhiên hoàn lại trong nồi của người nông phu. Hai vợ chồng
thấy vậy rất kinh, bèn cùng nhau đi kiếm ngài, rồi lạy lục mà xin sám hối.
Có một khi, đương buổi mùa hạ, khí trời nóng nực, ngài cởi quần
áo để trên bờ mà xuống khe tắm.
Lũ trẻ khuấy chơi, bèn lén lại lấy cả quần áo. Đương lúc tắm,
ngài thấy vậy thì lật đật để mình trần truồng mà rượt theo bọn con nít. Mấy người
ở trên bờ xúm nhau lén coi, thì thấy âm tàng của ngài như trẻ nhỏ vậy.
Gần chỗ đó có tên Lục Sanh, nghề vẽ rất tinh xảo. Người ấy thấy
ngài, bèn vẽ một bức tượng y hệt mà dán tại chùa, nơi vách nhà Đông.
Bửa nọ ngài đi ngang qua bên vách, thấy tượng ấy liền khạc nhổ rồi
bỏ đi.
Khi ngài ở tại xứ Mân Trung, có một người cư sĩ họ Trần, thấy
ngài làm nhiều việc kỳ thần, nên đãi ngài rất cẩn trọng.
Lúc ngài từ giã ông Trần cư sĩ mà đi qua xứ Lưỡng Chiết, ông muốn
rõ tên họ ngài, bèn hỏi rằng: "Thưa Hòa Thượng! Xin cho tôi biết họ ngài
là chi, sanh năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, và xuất gia đã bao lâu rồi."
Ngài đáp rằng: "Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ rằng ta chính là họ
Lý, sanh ngày mùng tám tháng hai. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải này mà để độ đời
đó thôi. Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết."
Ông Trần cư sĩ nghe noi như vậy, bèn thưa rằng: "Hoà Thượng
đi đâu, nếu có ai hỏi việc chi thì ngài trả lời làm sao cho hợp lý, chớ tùy thuận
theo người thì không khỏi bàng nhân dị nghị tiếng thị phi."
Ngài bèn đáp một bài kệ rằng:
Ghét thương phải quấy biết bao là,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục,
Bửa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm lòng này không quái ngại,
Tự nhiên chứng đặng Lục ba la
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng: "Bạch Hòa Thượng! Ngài có pháp
hiệu hay không?"
Ngài liền đọc bài kệ mà đáp rằng:
Ta có cái túi vải,
Rỗng rang không quái ngại;
Thâu vào Quan tự tại.
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng: "Hòa thượng đi đây có đem đồ hành
lý hay không?"
Ngài đáp bài kệ:
Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa;
Mắt xanh xem người thế,
Mây trắng hỏi đường qua.
Ông Trần cư sĩ thưa: "Đệ tử rất ngu, biết làm sao cho đặng
thấy tánh Phật."
Ngài bèn đáp bài kệ:
Phật tức tâm, tâm ấy là Phật, mười phương thế giới là linh vật;
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu;
Cả thảy chẳng bằng tâm chân thật.
Ông Trần cư sĩ thưa rằng: "Hòa Thượng đi lần này nên ở nơi
chùa, chớ đừng ở nhà thế gian."
Ngài bèn đáp bài kệ rằng:
Ta có nhà Tam Bảo,
Trong vốn không sắc tướng;
Chẳng cao cũng chẳng đê,
Không ngăn và không chướng;
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng;
Người trí biết rõ ràng,
Ngàn đời không tạo đặng;
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường.
Ông Trần cư sĩ nghe bài kệ lấy làm lạ, liền đảnh lễ ngài mà thưa
rằng: "Xin Hòa Thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với tôi, đặng tỏ
dấu đệ tử hết lòng cung kính, xin ngài từ bi mà hạ cố."
Đêm ấy ngài ở lại nhà Trần cư sĩ. Đến khi đi, thì ngài viết một
bài kệ dán nơi cửa.
Ta có một thân Phật,
Có ai đặng tướng tất;
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc;
Chẳng có chút đất bùn,
Không phải màu thể sắc;
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm, trộm chẳng mất;
Thể tướng vốn tự nhiên,
Thanh tịnh trong vặc vặc;
Tuy là có một thân,
Phân đến ngàn trăm ức.
Khi ngài đi đến quận Tứ Minh, ngài thường giao du với ông Tưởng
Tôn Bá một cách rất thân mật, ngài có khuyên bảo ông mỗi ngày trì niệm câu chú:
Ma ha bát nhã ba la mật đa. Vì vậy người ta đều kêu ông Tưởng Tôn Bá là Ma Ha
cư sĩ.
Có một ngày nọ, ông Ma Ha cư sĩ cùng ngài đồng tắm dưới khe Trường
Đinh. Khi ngài đưa lưng bảo ông Ma Ha kỳ dùm, thì ông thấy nơi lưng ngài có bốn
con mắt rực rỡ chói lòa, bèn lấy làm kinh dị vô cùng. Ông liền đảnh lễ ngài mà
nói rằng: "Hòa Thượng quả là một vị Phật tái thế!"
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng: "Ngươi chớ nói tiết lộ.
Ta cùng ngươi ở với nhau đã ba bốn năm nay, vốn là có nhân duyên rất lớn, rồi
đây ta sẽ từ biệt ngươi mà đi. Vậy ngươi chớ buồn rầu thương nhớ."
Ngài nói rồi, bèn về nhà ông Ma Ha cư sĩ mà hỏi rằng: "Ý
ngươi có muốn giàu sang hay không?"
Ông Ma Ha cư sĩ thưa rằng: "Sự giàu sang như lùm mây nổi,
như giấc chiêm bao, có cái gì là bền chắc chắn đâu, nên tôi nguyện làm sao cho
con cháu tôi đời đời được miên viễn mà thôi."
Ngài bèn lấy cái túi của ngài thọc tay vào móc ra một cái túi nhỏ,
một cái hộp, và một sợi dây, liền đưa cho ông Ma Ha cư sĩ mà nói rằng: "Ta
cho ngươi mấy vật này mà từ biệt. Song ta căn dặn ngươi phải giữ gìn cho kỹ
càng mà làm biểu tín những việc hậu vận của nhà ngươi."
Ông Ma Ha cư sĩ vâng lãnh mấy món ấy mà chẳng rõ được là ý gì.
Cách vài bữa sau ngài trở lại nhà ông mà hỏi rằng: "Nhà ngươi có hiểu được
ý ta hay không?"
Ông thưa rằng: "Thưa ngài, đệ tử thiệt chẳng rõ."
Ngài nói rằng: "Đó là ta muốn con cháu nhà ngươi ngày sau
cũng như mấy vật của ta cho đó vậy."
Nói rồi ngài bèn từ giã mà đi liền.
Đến sau, quả nhiên con cháu của ông Ma Ha cư sĩ được vinh hoa
phú quý, hưởng lộc nước đời đời. Đó là mấy vật của ngài cho có hiệu nghiệm như
vậy.
Nhằm ngày mùng 3 tháng 3, năm thứ ba, niên hiệu Trịnh Minh, ngài
không tật bệnh gì cả, ngồi trên bàn thạch, gần nơi mái chùa Nhạc Lâm mà nhập diệt.
Nhắc lại khi ngài chưa nhập diệt, có ông Trấn Đình trưởng thấy
ngài hay khôi hài không lo sự gì cả, nên mỗi lần gặp ngài thì buông lời cấu nhục
rồi giựt cái túi vải mà đốt.
Hễ bửa nay đốt rồi, thì qua ngày sau ông Trấn Đình trưởng cũng
thấy ngài mang cái túi ấy như cũ. Ông nổi giận đốt cháy rụi luôn đến ba lần,
cũng vẫn thấy ngài còn mang cái túi vải đó.
Từ đó về sau, ông Trấn Đình trưởng lấy làm lạ, nên đem lòng khâm
phục ngài, không dám khinh dễ nữa.
Khi ngài nhập diệt, thì ông Trấn Đình trương lo mua quan quách
mà tẩm liệm thi hài, là cố ý chuộc lỗi của ông ngày trước. Nhưng đến chừng đi
chôn, thì người khiêng rất đông, mà cái quan tài lên không nổi.
Trong bọn ấy có một người họ Đồng, ngày thường tỏ lòng tôn kính
ngài một cách rất trọng hậu, nên thấy việc linh hiển như vậy, liền vội vã mua
cái quan tài khác, rồi liệm thi hài của ngài lại. Đến khi khiêng đi, thì số người
cũng bấy nhiêu đó, mà khiêng nhẹ phơi phới như bông. Ai nấy thấy vậy cũng đều
kinh sợ và cung kính.
Lúc đó các người trong quận thiết lập ra một hội rất lớn, xây
tháp cho ngài ở nơi núi Phong Sơn. Núi ấy toàn là đá lởm chởm, hòn cao, hòn thấp,
trong mấy hang đá đều là chỗ di tích của ngài còn lưu truyền lại, nào là chỗ để
tích trượng, nào là chỗ để bình bát, v.v...
Những chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ lớn, chỗ nhỏ, hình tượng giống như
cái bình bát, đều có nước đầy hoài, dẫu cho trời đại hạn đi nữa, thì cũng chẳng
có lúc nào khô kiệt.
Thiệt là nhiều việc anh linh hiển hách vô cùng!
Hồi đời lục Triều, đức Di Lặc lại ứng tích làm phó đại sĩ ở tại
chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.
Khi ngài ra mắt Lương Võ Đế, vua liền hỏi ngài rằng: "Xin Đại
Sĩ cắt nghĩa cho quả nhân nghe làm sao kêu là Đạo?"
Ngài liền bạch rằng: "Tâm thiệt là đạo. Tôi xin chứng nghiệm
như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.
Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc ban đầu chưa
khởi niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng suốt hiện buổi
nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái Hư, cái tịnh quang ấy
muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải thánh mà cũng chẳng phải
phàm, không thúc phược mà cũng không giải thoát.
Đó là tâm thể rất mầu nhiệm và rất vắng lặng. Ngoài cái tâm
không có đạo gì riêng khác, và ngoài đạo cũng không có tâm nào phân biệt nữa,
vì thế cho nên mới gọi Tâm là đạo."
Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng: "Vậy chớ Đại Sĩ có tôn ai làm
thầy hay không?"
Ngài bạch rằng: "Thầy thì không có ai là thầy của bần đạo,
còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn ai, đến việc tùng sự, thì cũng không có
tùng sự với người nào cả."
Vua Võ Đế nghe ngài nói như vậy, thì biết là một vị Bồ Tát lâm
phàm, nên càng tôn trọng ngài một cách rất đặc biệt.
Đoạn ngài lại thưa với vua rằng: "Bệ Hạ ngày nay mà đặng hưởng
điều tôn vinh như vậy, nguyên nhân cũng là một vị Bồ Tát hạ trần mà cứu thế.
Vậy xin Bệ Hạ phải mở thông ý địa, nên tự lượng nơi mình, tâm để
cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm vật gì, lấy đó làm căn bản, cần nhất phải dùng
chỗ hư linh làm cơ sở, lấy sự vô tướng làm nguyên nhân, nguyện vọng chí thành cầu
cho đạt tới chỗ Niết Bàn mà làm cực quả.
Nếu Bệ Hạ thi thố những phương pháp trị quốc, thì phải dùng
chánh pháp mà sửa trị trong thế gian, và thi hành những điều nhân đức, đặng làm
cho lê dân cảm hóa.
Trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ
cưu lòng gian nịnh, còn ngoài thì thi nhân chánh đến kẻ quan quả, cô độc, bỏ những
hình phạt trừng trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm minh trật tự. Nếu
Bệ Hạ trị vì trong thiên hạ, thi nhân bố đức được như thế, thì kẻ xe người gần
đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua phải dứt, mà trong đội
ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà an hưởng cuộc thái bình. Nếu
chánh sách thi thố được công hiệu như thế, thì Bệ Hạ thiên cơ đã thần diệu, lại
còn nối ngôi quốc tổ được lâu dài nữa. Đó là bần đạo hy vọng sao cho Bệ Hạ được
như vậy."
Có một ngày kia, ông Lưu Trung Thừa ngồi tại chỗ trạm dịch với
ngài, thoạt thấy có Thánh giá vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm lễ, còn ngài
ngồi yên lặng một chỗ.
Khi Thánh giá quá khỏi rồi, ông Lưu Trung Thừa bèn hỏi ngài rằng:
"Theo ý tôi tưởng, ngài chẳng chịu làm tôi với Thiên tử, không muốn làm bạn
với Chư hầu, cớ sao mà lại ngã mạn như vậy, xin ngài nói cho tôi rõ."
Ngài liền đáp rằng: "Để bần đạo giải cho ông rõ. Phàm việc
kính mà biểu lộ ra hình tướng, thì không có tánh kính, còn bề ngoài chẳng cử động
sự kính về lễ nghe tham bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kính vô giá. Bần đạo
thấy Thánh giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động. Hễ pháp địa
rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng an nhẫn,
tức là không có kính, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy đó."
Ông Lưu Trung Thừa nghe ngài nói như thế, thì rất kính phục.
Vua Lương Võ Đế biết ngài là một vị Bồ Tát tái lai, nên thiết lập
một chỗ pháp hội rất nghiêm trang, rồi thỉnh ngài lên diễn kinh cho bá tánh
nghe.
Khi trần thiết xong rồi, ngài lên ngồi trên pháp tòa, lẳng lặng
làm thinh được giây phút, chớ không nói một lời chi cả.
Trong đám người đến nghe kinh đó, có một vị Thái tử thấy vậy mới
hỏi ngài rằng: "Thưa ngài! Đáng lẽ chỗ chư thiên nhân cưu hội đây, ngài phải
giảng giải cho mọi người rõ thấu lẽ chân chánh của Phật, đặng nhờ đó mà tu học
mới phải, cớ sao ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại vội xuống
pháp tọa như vậy."
Ngài liền trả lời rằng: "Phàm việc gì nói hay là nín, đều
thuộc về Phật sự cả. Như thế có phải làm đúng theo Phật lý hay không? Vậy mà
ông còn buộc tôi nói năng làm chi nữa."
Thái tử nghe mấy lời bèn làm thinh, trong lòng càng khâm phục
ngài vô cùng.
Cách ít lâu, ngài ra mắt vua, rồi quỳ xuống mà tâu rằng:
"Muôn tâu Bệ Hạ! Bần đạo có như ý bửu châu và thanh tịnh giải thoát, chiếu
diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu Bệ Hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ
chứng đến quả Bồ Đề. Vả lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không,
phàm vật gì thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế. Các việc trong thế gian đều
là bức tranh huyễn hoá, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như trăm sông
tuy phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về biển.
Pháp thế gian và phát xuất thế gian cũng chẳng qua là ý chân
như. Vì lý chân như thiệt không có sanh và không có diệt, nên không có Niết
Bàn, tam thế cũng bình đẳng, mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần thanh tịnh
bình đẳng ấy làm sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng lên bờ giác
ngạn.
Nếu chỗ sắp đặt phương pháp đặng như thế, thì cuộc trị bình
trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới trang nghiêm. Đó là Bệ Hạ dùng diệu pháp mà
tế độ nơi đời, được như vậy thì khác nào như một vị Từ Bi Vương tái thế."
Vua Lương Võ Đế nghe mấy lời của ngài biện giải, càng thêm tôn
sùng kính trọng hơn nữa.
Khi ngài ở tại chùa Song Lâm, thấy kinh tạng chứa đầy, ngài biểu
mấy đạo chúng đem từng cuốn mà tả ra. Bổn ý của ngài muốn khiến cho kẻ sơ địa
phàm phu nhờ công đức chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chân của Phật.
Bởi vậy trong thiên hạ, duy có chỗ Song Lâm, thì Thiên Long thường
ủng hộ, nên kinh tạng được toàn bổn mà lưu truyền đời sau.
Thoạt một ngày kia, có một làn định quang kim túc của đức Thích
Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương Đông bay đến mà nhớm nơi mình của ngài.
Bỗng nhiên có tiếng xướng rằng: "Phó Đại Sĩ xuất hiện ra
đây, là thay thế cho đức Thích Ca mà thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long Hoa thắng
hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện từ mẫn của đức Văn Thù và xiển dương huệ tập phổ
thế của đức Quán Âm."
Rõ ràng ngài cũng như bậc y vương, đại thí những lương phương diệu
tể mà điều trị tất cả bịnh vô minh phiền não. Thiệt là ngài có công phu rất lớn
mà nhiều phương pháp khởi tử siêu sanh.
Có một bữa kia, khí trời nóng nực, ngài ra ngoài gành biển mà
hóng mát, dòm thấy dưới mé có một vùng quanh co theo bờ, và dân cư tại đó chỉ
làm được ruộng muối mà thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển tràn lên
lênh láng, không thể nào mà ngăn cản cho đặng.
Ngài thấy vậy, liền nói với những người bổn xứ rằng: "Bần đạo
muốn làm sao cho chỗ này thành ra ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng nhờ đó
mà an cư lạc nghiệp."
Dân chúng nghe mấy lời ấy, đều cười rộ lên mà nói rằng:
"Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay thiền biển mà ai làm thành ruộng cho đặng
bao giờ?"
Ngài thấy dân chúng không đem lòng tin, liền lấy bao đựng cát
đem chất xây giáp vòng như vách luỹ mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.
Lạ thay! Trọn một vùng bờ đê của ngài làm đó, cách ít lâu cứng
cũng như đá vậy, ngăn được ngọn nước thủy triều ngoài biển, không thế nào chảy
vô được nữa, nhưng hồi ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa khi trời hạn và
nước lụt.
Đến sau, nội trong khu đất ấy đều thành ra ruộng cả, ước chừng
hơn hai ngày mẫu, thường năm cày cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong xứ mỗi
năm gặt lúa rồi, trích ra một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các chùa
lân cận, mua chim cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.
Hiện nay mấy cái bờ bằng cát của ngài làm đó hằng bền chắc,
không có hư rã chút nào.
Thiệt là linh cảm thay chỗ di tích của bậc Đại Thánh ngày xưa!
Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển ấy đều được phong y túc thực luôn luôn, cùng
nhau lập chùa thờ ngài và truy tặng ruộng ấy là Phước Điền.
Sau ngài qua phía Nam núi Phong Sơn mà chỉ điểm những chỗ ẩn
tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất thiên
nhiên và nét xuân quang bốn mùa đều xuất sắc.
Bữa nọ, ngài đi chơi tới xứ Bắc thượng, chợt thấy một người
đương sửa soạn làm thịt loài súc.
Ngài lật đật chạy lại can rằng: "Bần đạo xin tỏ cho nhà
ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên nhân cũng là người thế gian, chớ không
phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả như vậy.
Thoảng như mình là điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang, thì cũng
còn có ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó
tránh khỏi luân hồi khổ thú.
Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân
từ mà dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham
sống sợ chết như ta vậy.
Những người có nhân hằng lấy con mắt từ mà quán xét, xem vạn vật
với ta đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhân ái được
như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại nhiều kiếp
được trường thọ là khác nữa."
Người ấy nghe ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân
không dám sát sanh loài động vật nữa.
Lại có một khi, ngài đương đi ngoài đường, tình cờ gặp một người
nông phu vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.
Ngài đi hối hả lại can rằng: "Phàm ở đời, có nhân thì có quả,
không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có
ngày chúng nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng
kiếm với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi
vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng."
Người nông phu nghe ngài nói như thế, liền cúi đầu đảnh lễ và
nguyện trọn đời không dám tái phạm nữa.
Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một ông sa di hỏi
ngài rằng: "Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của
mình?"
Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: "Tâm là vật gì đâu mà ông
phải tìm cho uổng công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó
ra thì không thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên
mới thành ra vọng niệm như vậy. Nếu nhất chân của ta đặng yên tịnh rồi, thì
toàn thể như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ rệt. Chừng
đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng, thì có vật
chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục."
Ông sa di nghe ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính
vô cùng, rồi đảnh lễ mà từ giã.
Cách ít lâu ngài đi chơi, chợt thấy một ông sa môn còn nhiễm
theo tục trần, cứ khu trục trong trường mộng ảo.
Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ rằng: "Bần đạo coi ông vốn thiệt
là Phật. Lẽ nào ông tự độ lấy mình, đặng mong có ngày chứng đặng quả vô sanh
pháp nhẫn, cớ sao ông lại còn yểm trợ theo thói phàm tình, đành che lấp bổn lai
diện mục như vậy.
Bây giờ ông phải bỏ các duyên cấu trược, mà giũ sạch những thói
tà phong, gắng sức công phu mà suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có ngày sẽ đạt
tới chỗ diệu minh chân tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn thủy toàn
chung rồi, sẽ đặng vô ngại viên thông.
Bần đạo ao ước làm sao cho ông được như thế, thì có khác nào một
vị La hán xuất trần, nếu chẳng vậy thì cũng là một vị Khuất sát trượng phu. Chớ
cách hành động như ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà lại uổng công xuất
thế học đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường lục đạo, biết chừng
nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay không?"
Ông sa môn nhờ ngài điểm hóa, nên liền tỏ ngộ lý chân thừa. Từ
đó về sau, ông càng lo tu học, không còn nhiễm nữa.
Thiệt cách phô tế của ngài không khác nào một ông lương y, đã điều
trị không biết bao nhiêu là chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một hột minh châu
có thể chỉ sắt hóa nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người phàm trở nên bậc
thánh.
Bởi vậy cho nên ngài thường dùng những phương pháp thiền định rất
giản dị mà độ thoát tất cả chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn dụ người đời
ra khỏi nhà lửa đường mờ.
Ngài lại chẳng nên sự cấu nhục của thế tình, cứ xen lẫn trong chốn
trần lao, mà thi hành những sự lợi ích cho hạng người còn sống say thác ngủ. Vì
vậy cho nên trong tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên giác đạo tràng của
ngài thế thác cả.
Còn đối với thập loại chúng sanh, thì ngài càng đem lòng quyến
luyến như con một cha, như người một nhà, không phân biệt nhân ngã, và không biện
luận Bắc Nam, vì tất cả chúng sanh thảy đều đủ chân như diệu tánh như ngài vậy,
nhưng vị bị màn vô minh che lấp, nên phải trì trục tròng vòng khổ hải sầu thành
đó thôi.
Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: "Muôn tượng chỉ
bao la, song một mảy trần chẳng lập, nhất chân trong pháp giới, trăm hạnh đều
phân vân. Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như chí lý, cho nên động tịnh đều
là pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chân, thì sẽ có ngày mau lên bờ bỉ
ngạn."
Đó là lời pháp ngữ của ngài phát ra những lý mầu nhiệm của thiền
gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa,
trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn
trí. Thiệt công phu của ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời cũng
vô cùng vô tận
Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì, niên hiệu
Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng 3 tháng 3, ngài đối trước chúng nhân mà nói
rằng: "Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái Di Lặc
mà cúng dường cho đại chúng."
Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng
thấy ngài ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai
nấy thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.
Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của
ngài, rồi làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là:
Định Ứng Tháp.
Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trải mấy phen tang thương biến
đổi, mà công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi,
bốn mùa người đàn việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai
nghiêm.
Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi
vô hạn đối với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng
tích nơi đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người
đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa dòng
khổ hải.
Thiệt công đức của ngài không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết
đặng.
Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền của ngài còn
lưu trụ các điện đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.
Chẳng những mười phương đảnh lễ tôn sùng ngài mà thôi, cho đến
sáu chữ "Nam Mô Di Lặc Tôn Phật" thì người thường một lòng trì niệm,
chẳng có chút nào biến đổi cả.
Nói tóm lại, đức Di Lặc còn nhiều số kiếp nữa mới xuất hiện ra đời
để nối ngôi cho đức Thích Ca mà làm một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, đặng đại
chuyển pháp luân mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.
Nhưng ngặt vì chúng sanh chưa rõ lẽ thiện chân, cứ vọng tưởng những
việc huyễn hoặc, mà đành chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự mình chuốc lấy nẻo
luân hồi.
Chớ chư Phật tuy đã nhập diệt rồi, song Tam Bảo còn lưu trụ khắp
cõi nhân gian, nếu ai hết lòng tinh tấn vui theo mà thọ trì, thì cũng như Phật
đương trụ thế vậy.
Tiếc thay! Người đời trí cạn chướng sâu và tội nhiều phước ít,
cho nên đối diện ngôi Tam Bảo coi như cách xa ngàn dặm.
Vì nguyên nhân của chúng sanh như thế, nên bất đắc dĩ ngài mới ứng
tích nhiều thời kỳ, đặng hóa độ các kẻ phàm loại trong nhân gian đó thôi.
0O0
SỰ TÍCH ĐỨC CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT
Đức Chuẩn Đề vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu.
Ngài thường thuyết kinh Đà La Ni, nguyện cầu cho tất cả trong thế
gian và xuất thế gian đều thành tựu những sự nghiệp tu tập.
Vì tấm lòng từ bi vô hạn của ngài với quần sanh như mẹ thương
yêu đám con khờ, nên kêu là Phật Mẫu.
Ngài thường diễn nói rằng: "Chân như thiệt và tánh chân thường
của tất cả chúng sanh xưa nay đều sẵn có trong bản giác chư Phật vậy, nên trong
đó gồm đủ các đức dụng khắp cõi hà sa.
Nhưng ngặt vì cứ hủy báng chánh pháp, chẳng tin lời của Phật, tự
mình tổn cho mình, nên phải trầm luân đoạ lạc, dẫu cho ngàn vị Phật ra đời cũng
khó mà cứu chữa đặng."
Ngài thấy vậy nên mới sanh lòng từ mẫn, lập pháp môn phương tiện
mà điều phục các việc trần cấu của người sơ cơ nhập đạo, và muốn đồng với chư
Phật một nguồn giác, để dứt chỗ vọng mà quy về nơi chân.
Nay xin tuyên dương bửu tượng của đức Chuẩn Để ra đây, đặng cho
những người mộ đạo chiêm ngưỡng và lễ bái, thì được phước vô lượng vô biên.
Bửu tượng của ngài có nhiều vẻ quang minh tốt đẹp, đều chiếu diệu
cả mình, còn thân tướng thì sắc vàng mà có lằn điển quang trắng.
Ngài chỉ ngồi kiết già, trên thì đắp y, còn dưới thì mặc xiêm đều
trọn một sắc trắng mà có bông, lại có đeo chuỗi anh lạc và trên ngực có hiện ra
một chữ vạn.
Còn hai cườm tay có đeo hai chiếc bằng ốc trắng, hai bên cánh
tay trỏ có xuyến thất châu coi rất xinh lịch, lại hai trái tai có được ngọc bửu
đương và trong các ngón tay đều có đeo vòng nhỏ.
Trên đầu thì đội mão hoa quang, trên mão ấy có hóa hiện ra 5 vị
Như Lai.
Nơi mặt ngài có 3 con mắt, trong mỗi con mắt ấy coi rất sắc sảo,
dường như chăm chỉ ngó các chúng sanh mà có ý sanh lòng từ mẫn vậy.
Toàn thân của ngài có mười tám cánh tay, mỗi bên chín cánh.
Hai bàn tay ở trên hết thì kiết ấn Chuẩn Đề, như tướng đương lúc
thuyết pháp.
Tay trái thứ hai cầm lá phướn như ý, còn tay mặt kiết ấn thí vô
uý.
Tay trái thứ ba cầm một bông sen đỏ, còn tay mặt cầm cây gươm.
Tay trái thứ tư cầm một bình nước, còn tay mặt cầm một xâu chuỗi
Ni ma bửu châu.
Tay trái thứ năm cầm một sợi dây kim cang, còn tay mặt cầm một
trái la ca quả.
Tay trái thứ sáu cầm một cái bánh xa luân, còn tay mặt cầm một
cái búa.
Tay trái thứ bảy cầm cái pháp loa, còn tay mặt cầm cái thiết
câu.
Tay trái thứ tám cầm một cái bình như ý, còn tay mặt cầm một cái
chày kim cang.
Tay trái thứ chín cầm một cuốn kinh Bát Nhã Ba La Mật, còn tay mặt
cầm một xâu chuỗi dài.
Ngài ngồi trên tòa sen, dưới có hai vị Long Vương ủng hộ. Đó là
bửu tượng của ngài đại lược như vậy, nếu ai có lòng trì niệm, muốn chiến vọng
mà quán tưởng, thì vọng niệm chẳng sanh mà chân tâm hiển hiện.
Nếu công phu thuần thục lâu rồi, chẳng có chút gì gián đoạn, thì
sẽ đặng phước quả rất rộng lớn, có ngày đạt tới nơi cực quả Bồ Đề nữa.
Song đương thời kỳ mạt pháp, những người sơ cơ hành giả, tam
nghiệp chưa thuần, chẳng hay làm theo phương pháp chư quán, nên tâm sanh biếng
nhác, thì tự nhiên phải mất hẳn hột giống bồ đề.
Nếu ai nương theo kinh pháp của ngài mà thọ trì, thì mau đặng chỗ
linh nghiệm.
Đương lúc quán tưởng thần chú của ngài, thì cần nhất phải tương
phù, thì nẻo sanh tử nào mà ra chẳng khỏi, chỗ niết bàn nào mà chứng chẳng đặng!
Vậy nên phải ân cần chuyên chú mà tu tập theo yếu pháp của ngài,
thì sẽ thấy rõ các việc hiệu quả.
Nghĩ coi, từ đời vô thủy trải vô lượng số kiếp nhẫn nay, chúng
sanh chỉ bị màn vô minh che lấp, mắt chánh nhãn phải lu mờ, rồi vọng tâm phấn
khởi, thường tạo nghiệp đa đoan, cho nên phải bị luân hồi trong vòng lục đạo và
đọa lạc vào nẻo tam đồ.
Ai là người có chí nguyện muốn ra khỏi cái nạn khổ ấy, đặng mau
đến chỗ diệu quả vô thượng bồ đề, thì phải nhất tâm chân thật đến trước thánh
tượng, mà đứng cho ngay và chấp tay đảnh lễ, chí tâm quán tưởng tôn dung của
ngài và chuyên niệm thập phương Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, thi thể của ta như
hư không, chẳng có chỗ nào là chỗ chướng ngại, và tánh lại thường trụ, đoạn trừ
đặng các tướng qua lại động tịnh. Hễ có cảm thì có ứng là lẽ tất nhiên như vậy.
Bởi vì ngài thường mẫn niệm các chúng sanh trong đời vị lai, phước
căn thiển bạc và ác nghiệp dãy đầy, nên mới lập ra một pháp môn quán tưởng có
chín chữ Phạm là: "Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha."
Nếu vẽ chín chữ ấy thành như cái mặt "Viên minh bố liệc phạm
thơ đồ" rồi mỗi đêm thường quán tưởng, thì các tội đều tiêu diệt và sẽ được
tăng ít phước điền nữa.
Chí như người tại gia hay là người xuất gia mà tu tâjp theo hạnh
chân ngôn nơi trên đây, và tụng trì chú Đà La Ni cho đủ chín mươi muôn biến, dẫu
cho vô lượng kiếp đến nay có tạo những tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng, phải
mắc vào ngũ vô gián tội đi nữa, thì cũng thảy đều tiêu diệt tất cả.
Chú Đà La Ni chép y dưới đây:
Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt
tha: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha.
Nếu trì tụng được như vậy, thì đến ngày thọ chung đặng thác sanh
vào chỗ thiện duyên và hưởng nhiều sự khoái lạc nữa.
Nói về phần hiệu quả của những người tại gia, tu theo pháp tam
quy ngũ giới, một lòng kiên cố, chẳng có chút nào thối chuyển, mà lại có lòng
xu hướng và trì tụng chú Đà La Ni, thì kiếp sau sẽ sanh về cõi trời, hưởng phước
đức đời đời, hay là sanh trong cõi nhana gian, hoặc làm vị quốc vương, hoặc làm
bậc công hầu... thường gần gũi với các vị thánh hiền mà chư thiên hay ái kính,
thường hết lòng ủng hộ gia trì, chẳng khi nào bị đọa vào đường ác thú.
Còn nếu những người ấy ra kinh doanh trong trường thế cuộc, thì
không có tai hại gì, cho đến nghi dung cũng đoan chánh, lời nói rất ôn hòa, tâm
không phiền não, an nhàn tự tại, lui tới thong dung, hưởng phước một đời, rất
nên mỹ mãn.
Nói về phần hiệu quả của các vị xuất gia, nếu giới cấm đã hoàn
toàn, công hạnh đã thuần phục, mỗi ngày ba thời tụng niệm, rồi y theo giáo pháp
của đức Chuẩn Đề mà tu hành, và chí nguyện cầu đến chỗ tất địa xuất thế gian của
chư Phật, thì tự nhiên tâm không sát ngại, tánh lại viên minh, một màu thanh tịnh,
không còn trước nhiễm nơi cảnh hữu vi, chỉ thấy định huệ hiện tiền.
Chừng đó sẽ chứng đặng quả địa Ba La Mật rất viên mãn, rồi có
ngày sẽ chứng đến quả vô thượng chánh đẳng Bồ đề.
Thoảng như quán tưởng thấu đáo tới chỗ thâm lý, thì đương lúc hiện
tại cũng chứng được Phật quả đại thừa.
Có phải là pháp môn của đức Chuẩn Đề rất vi diệu và rất thuần
túy hay không?
Tuy chân ngôn từ ngữ như vậy, chớ toàn thị là vô tướng pháp giới,
mà lục độ và vạn hạnh cũng là từ trong pháp giới lưu bố ra.
Nói tóm lại, đức Chuẩn Đề Phật Mẫu là một vị pháp thân Bồ tát ở
cõi trang nghiêm thế giới, không có giáng sanh nơi cõi nhân gian. Song giáo
pháp của ngài rất bí mật mà nay được rõ biết đây, là nhờ đức Thích Ca giải rõ
chỗ lý địa và hình tướng, nên người sau mới biết công đức và họa bửu tượng mà
thờ như vậy.
No comments:
Post a Comment