Saturday, May 31, 2014

NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI HIỆN ĐẠI - PHẦN CUỐI

Tỳ kheo Thích Tâm Quang trích dịch
VI. TIẾN SĨ RAYMOND A. MOODY
Ca Sĩ Elvis Presley, một nghệ sĩ siêu đẳng Hoa Kỳ chết ngày 16 Tháng 8 Năm 1977 tại nhà riêng ở Graceland, Memphis, Tennessee, Hoa Kỳ đã khiến hàng triệu người trên thế giới bòng hoàng xúc động. Ảnh hưởng tâm linh của Elvis đối với quảng đại quần chúng Hoa Kỳ rất rộng lớn Tiến Sĩ Raymond A. Moody đã bỏ ra trên 9 năm để sưu tầm, điều tra, nghiên cứu và viết cuốn sách "Elvis Presley After Death "( Elvis Presley Sau Khi Chết)
Tiến Sĩ Raymond A. Moody Jr. tốt nghiệp Ðại Học Ðường Virginia với văn bằng B.A., M.A., và Ph. D. (Tiến Sĩ). Sau khi dạy triết cho Ðại Học Ðường East Carolina, ông lại tốt nghiệp Y khoa Bác Sĩ Ðại Học Ðường Georgia vào năm 1976 và là Bác Sĩ Nội Trú của Y Khoa Ðại Học Ðường Virginia. Ông đã xuất bản những cuốn sách nổi tiếng như Life After Life, Reflections on Life After Life, có cả hàng triệu độc giả trên thế giới. Chúng tôi xin trích dịch một vài chuyện có thật trong cuốn Elvis Presley After Death do nhà Xuất Bản Peach Tree phát hành năm 1987.
-ooOoo-
-28-
JEREMY MORGAN, HIỆN THÂN CỦA ELVIS
Tác Giả: Raymond A. Moody
Vào mùa đông năm 1985, tôi đến thăm Nancy Morgan và Jeremy, con trai nàng tại căn nhà nhỏ của nàng tại miền đồng quê Oregon Lúc đó nàng 33 tuổi và Jeremy thì 6 tuổi rưỡi. Hai tuần lễ trước đây, Nancy gọi điện thoại báo cho tôi biết nàng có nhiều chứng nghiệm bất thường với Elvis. Nàng không chịu tiết lộ bằng điện thoại và nghĩ là tôi nên đến gặp nàng thì thuận tiện hơn cho việc nghiên cứu của tôi. Nàng mời tôi đến nhà và tôi nhận lời.
Tôi tới nơi Nancy và Jeremy ra cửa chào tôi và dẫn tôi vào phòng khách. Tôi nhận thấy có mấy bức tranh của Elvis treo trên tường. Lò sưởi xây bằng loại gạch cổ khá đẹp với cái hầm đựng củi. Nancy, người dáng cao, tóc nâu duyên dáng, với cặp mắt xanh, tươi cười cho tôi biết nàng đã ly dị chồng từ khi Jeremy chưa sanh ra đời và chồng nàng là một dân chài. Nàng không nghe tin tức gì về người chồng từ khi ly dị và nàng nuôi Jeremy một mình. Nàng cho biết nàng là người ái mộ Elvis từ lâu. Nàng có rất nhiều dĩa nhạc của Elvis và xem tất cả các phim do Anh đóng.
Ðến đây nàng đi ngay vào vấn đề, nàng tuyên bố với một một luận điệu rất thành thực và cả quyết là Jeremy Morgan, con nàng là hiện thân của Elvis. Tôi đang ngồi tại ghế sô-pha và ngạc nhiên sao nàng có thể đi đến một kết luận lạ kỳ như vậy, nàng nói nhanh và mạnh dạn.
" Khi Elvis chết, tôi cảm thấy như mất đi một người bạn thân nhất. Tôi lấy Willie, chồng tôi ngay khi học hết trung học, ngoài việc Elvis chết, tôi chống đối chồng tôi suốt cả năm 1977. Khi Elvis chết tôi quá thất vọng và lâm bệnh. Tôi tưởng tôi sẽ chết.
Willie và tôi bắt đầu đến gặp vị mục sư của chúng tôi vào tháng 10 năm 1977. Chúng tôi đến gặp vị mục sư hai lần mỗi tuần để nói về chuyện hôn nhân của chúng tôi. Vào mùa Giáng Sinh năm đó, tôi có đi lại với chồng tôi và tôi mang thai. Tôi nới với Willie, chồng tôi, anh hết sức giận giữ. Anh la tôi và bảo tôi không cẩn thận và cho là lỗi tại tôi. Tuy nhiên anh cũng ở với tôi thêm vài tháng và sau đó anh bỏ đi và từ đó tôi không còn nghe tin gì về anh nữa. Người anh em họ của anh cho tôi biết anh đi biển làm nghề chài lưới.
Tôi nhớ thương Elvis hơn là tôi nhớ thương chồng tôi. Trong khi mang thai, nhiều đêm không ngủ tôi đã khóc vì nhớ thương Elvis. Tôi khóc lóc: "Elvis bây giờ Anh ở đâu, sao Anh nỡ bỏ mẹ con tôi?" Nhiều đêm tôi mơ thấy Anh. Một đêm tôi mơ thấy Anh, khi tỉnh dậy tôi tưởng Elvis vẫn ở trong phòng ngủ với tôi.
Trong lúc mang thai Jeremy không có gì xảy ra để tôi tin đứa nhỏ trong bông tôi là Elvis cả. Một lần tôi nghĩ là sau khi sanh, tôi sẽ đặt tên đứa nhỏ là Elvis, nhưng tôi lại nghĩ: "Không,tôi không tài nào chịu đúng được mỗi khi gọi con tôi lại nghĩ là Anh đã chết."
Tôi được biết là tôi sẽ sanh ngày 12 tháng Tám,nhưng tôi tưởng rằng tôi sẽ sanh vào ngày 16 tháng Tám tức đúng một năm sau khi Anh chết. Ðến ngày 12, tôi vẫn chưa sanh, tôi yên chí sẽ sanh vào ngày 16. Ngày 16, vẫn chưa sanh. Ðến ngày 18, tôi đau bông, em tôi và chồng nó chở tôi đi bệnh viện đêm đó và tôi sanh lúc 7 giờ 30 chiều tức một năm 2 ngày sau khi Elvis chết.
Khi sanh Jeremy sanh tôi chưa bao giờ có ý nghĩ Jeremy là Elvis. Jeremy là một đứa trẻ ngoan thực sự tinh khôn. Nó ngủ nhiều. Không có vấn đề gì khó khăn với nó. Nó thích chơi với đồ chơi của nó trong nôi. Tôi thường nói chuyện với nó trong khi tôi ủi đồ. Tôi thường vặn nhạc Elvis cho nó nghe và nó thích lắm, thường nhảy cỡn lên, khi nghe nhạc và mỉm cười.
Giáo Phái Baptist (Tẩy-Lễ) của một nhà thì đã dậy dỗ tôi. Mẹ tôi nói nhiều về truyền thống và tôi được rửa tội thánh thần khi lên 14 tuổi. Luân hồi không bao giờ được dạy hay nói đến trong nhà thì và tôi cũng không bao giờ tin tưởng hãy nghĩ về luân hồi cả.
Khi tôi biết Jeremy là hiện thân của Elvis là lúc Jeremy gần 18 tháng. Một hôm tôi đang chơi với nó, tôi nhìn thấy có cái gì trong cặp mắt nó. Ðúng là cặp mắt của Elvis. Tôi nghĩ: "Phải chăng Jeremy là hiện thân của Elvis và Elvis đã trở lại?" Tôi bòng hoàng, và tôi không biết tại sao. Jeremy lúc nào cũng thích nhạc Elvis. Mắt nó giống như Elvis. Tôi nghĩ rất nhiều đến Elvis trong lúc mang thai và một đêm tôi có cảm giác Elvis ở trong phòng tôi.
Rồi tôi nhìn thẳng vào mắt Jeremy và hỏi: "Jeremy, có phải con là Elvis không?" Nó cười, tôi chắc chắn nó hiểu tôi nói gì. Nó trả lời "Ờ hử" gật đầu. Tôi xúc động những muốn kể cho mọi người cùng biết, song tôi bỏ ý định ấy vì nghĩ là khi tôi nói ra chắc mọi người cho tôi là mất trí. Tôi chỉ kể cho người duy nhất là em gái tôi nghe mà thôi. Tối hôm đó tôi với Jeremy đến nhà cô em gái. Chúng tôi ngồi trong nhà bếp. Tôi hỏi em tôi: "Ruth à, em có thấy Jeremy có gì đặc biệt không?"
Em tôi trả lời: "Em không biết, nhưng đôi khi em thấy Jeremy giống như Elvis, có thể Elvis tái sanh thành Jeremy."
Tôi thở dài nhẹ nhỏm khi nghe em tôi nói. Em tôi cũng thấy giống như tôi. Em tôi còn cho biết có một tối em tôi và chồng nó giữ Jeremy giúp tôi vì tôi đi vắng, Jeremy nói:
"Elvis thích đậu phọng và chuối." Chính chúng tôi đã không biết điều đó cho đến vài tháng sau chúng tôi mới khám phá ra sự thật này. Elvis thích đậu phọng và bánh kẹp chuối thực. Tôi đọc được tin này vài tháng sau buổi tối trong bếp nhà cô em gái tôi. Tại sao Jeremy lại biết về Elvis trong khi chúng tôi lại không biết?"
Từ đó về sau trong thâm tâm, tôi lúc nào cũng nghĩ Jeremy chính là Elvis. Tôi biết Jeremy cũng sẽ làm một cái gì nổi bật trong đời nó. Nó có thể không phải là một ca sĩ, nhưng sẽ được nổi tiếng và sẽ được người đời ngưỡng mộ. Chắc ông không tin, nhưng sự thật sẽ như vậy, rồi cả thế giới sẽ thấy điều đó.
Năm vừa qua tôi đến gặp một nhà siêu linh học. Bà này chưa hề biết gì về tôi mà tôi cũng không để lộ chút nào cho bà ta biết. Bà ta nắm tay tôi và nói nhiều điều mà chỉ mình tôi biết. Ðiều cuối cùng của bà ta nói ra là bảo tôi có một đứa con trai, đứa trẻ này thật đặc biệt, kiếp trước là một người nổi tiếng. Bà nói hàng triệu người đã yêu mến người này và thằng nhỏ này cũng sẽ trở nên lừng lẫy.
Tôi không nói cho bà ta biết nhưng tôi biết bà ta muốn nói về chuyện gì. Tôi không kể cho bà ta biết Jeremy chính là hiện thân của Elvis.
Vì thế tôi cố gắng hết sức mình để cung cấp cho Jeremy những gì cần. Một ngày nào đó Jeremy sẽ trở nên một nhân vật quan trọng và được dân chúng mến mộ."
Khi Nancy chấm dứt câu chuyện của nàng, nàng đứng dậy và đi xuống bếp. Một lát sau nàng trở lại với một khay đầy bánh mì kẹp. Trong khi ba chúng tôi ăn, tôi nói chuyện với Jeremy. Tôi muốn biết phản ứng của em. Tôi hỏi:
"Này Jeremy, em nghĩ thế nào về câu chuyện của mẹ em kể cho tôi nghe? Em có nghĩ em là Elvis không?" Tôi phải nhận là tôi thật kỳ cục khi đặt câu hỏi này cho một em nhỏ mới 6 tuổi.
Jeremy không chút ngặp ngừng trả lời:
"Vâng", tôi chính là Elvis. Tôi chết rồi nhưng tôi đã trở lại.'
Tôi hỏi: "Em tin tưởng điều này bao lâu rồi?" Em nhớ lúc nào là lúc đầu tiên khi em nghĩ như vậy?"
"Lúc nào tôi cũng biết tôi là Elvis ngay từ khi mới sanh". Em bảo đảm với tôi không chớp mắt.
"Tôi trở lại để được ở bên mẹ tôi. Mẹ tôi đau khổ vì tôi, cho nên tôi đã trở về sống với mẹ tôi."
Không thể nào nhầm lẫn, Jeremy đã nói bằng một giọng giống như giọng của Elvis. Cách phát âm, nhấn mạnh,chuyển giọng - tất cả đều như hệt Elvis kẻ cả cái giọng nhừa nhựa của vị danh ca này. Tôi suy gẫm không thể nghi ngờ gì, Mẹ em đã dạy con học được tất cả giọng nói của Elvis từ khi em còn đang nằm trong nôi.
Tôi hỏi em rằng khi lớn lên em muốn làm gì.
Em trả lời: "Tôi chưa biết,cũng có thể là một nhạc sĩ, một diễn viên trên truyền hình, cũng có thể là một phi công."
Trong khi nói chuyện với em, dần dần tôi thấy hình như em đã có thể bình tĩnh giữ được sự cảm xúc của em. Em thông minh trên mức trung bình, em học khá. Không một người bạn hay một thầy giáo nào biết được sự bí mật lý lịch của em khi tôi hỏi em cho tôi biết. Mẹ em đã dặn dò em không nói cho ai hay.
Tôi nghĩ hẳn là Nancy đã dạy cho em thâm nhập và khuyến khích em với cách giáo dục em bằng nhạc, cá tính, đời sống của Elvis. Trong gia đình không có người cha, Nancy đã tạo ra "một người cha giả tưởng" cho con dưới hình thức một việc ngông cuồng hoàn chỉnh. Việc này đưa đến kết quả là cho cho Jeremy thấy hình ảnh một người đàn ông gương mẫu - người này chính là Elvis.
Khi tôi sửa soạn ra về, Nancy nói nàng muốn cho tôi xem một việc nữa.
"Hãy xem đây!" Nàng vừa nói vừa ra hiệu cho Jeremy và ngay tức khắc Jeremy thi hành vai trò của mình. Tôi thích thú chăm chú theo dõi Jeremy; nó bắt đầu hát bản "Don't Be Cruel" (Xin Ðừng Ðộc Ác) bắt trước y hệt như Elvis từ giọng hát, điệu bộ, cách đi vòng trong một màn trình diễn gần như hoản hảo về động tác và kiểu mẫu của người mẹ anh hững.
Khi màn trình diễn chấm dứt, tôi cảm ơn hai mẹ con nàng về sự khả ái và lòng hiếu khách trong buổi tối không bao giờ quên được này. Tôi ra về, lòng bâng khuâng suy nghĩ không biết rồi đây họ sẽ ra sao?
-ooOoo-
-29-
JACK MATHEW GẬP THẦN HỒN ELVIS PRESLEY TRÊN ÐƯỜNG MEMPHIS
Tác Giả: Raymond A. Moody
Ðầu tiên tôi được nghe Bill Grady, viên quản lý một cơ sở buôn bán phụ tùng xe hơi tại một thành phố nhỏ ở Alabama kể về cuộc gặp gỡ rất ngộ nghĩnh của Jack Matthew và Elvis Presley. Tôi đến đấy để thuyết giảng và tôi cũng có cho biết là tôi chú trọng đến vấn đề thời sự đó trong dịp này. Sau đó Bill Grady đến và sẵn sàng cho tôi biết một chuyện vô cùng lý thú. Bill nói có quen một tài xế lái xe vận tải cỡ lớn tên là Jack Mathew. Jack nói là ông ta thấy Elvis Presley trên xa lộ sau khi Elvis đã chết và còn chở Ca Sĩ này nữa. Bill hỏi tôi có muốn nói chuyện với Jack không, Jack ở cách xa đây chừng khoảng 8 dậm tại một thành phố ở Alabama. Tôi trả lời tôi rất muốn gặp Jack, và Bill mời tôi ghé qua cửa hàng của anh sáng hôm sau để biết địa chỉ của Jack, cửa hàng của anh có hồ sơ ghi địa chỉ của Jack.
Tôi đến cửa tiệm Bill lối 9 giờ sáng. Bill nhìn tôi mỉm cười, anh đứng sau cái quầy hàng bằng gỗ cây sồi và đưa tôi một mảnh giấy có ghi địa chỉ và số điện thoại của Jack Matthew. Bill mời tôi ngồi nói chuyện chơi một lát và uống cà phê.
Trong lúc chúng tôi uống cà phê và trò chuyện, Bill cho tôi biết không biết Jack Matthew có chịu tiếp tôi không vì Jack là một người sống cô đơn, thầm kín. Anh cũng cho tôi biết sức khoẻ của Jack không được tốt, Jack đau bao tử và phổi vì uống rượu và hút thuốc - biết rõ Jack qua Bill, tôi có thể nói chuyện với Jack dễ dàng hơn.
Khi trở về nhà, tôi liên lạc với Jack bằng điện thoại ngay. Bốn tuần qua dù cố gắng điện thoại gặp Jack nhưng vẫn thất vọng không thể nào gặp được Jack. Tôi có vài lần dặn dò bà mẹ của Jack nhưng vẫn không được hồi âm. Cuối cùng tôi đành bỏ qua chuyện Jack và cho là Jack không muốn tiếp chuyện tôi.
Một buổi sáng vào khoảng 8 giờ, tôi đang ngồi tại văn phòng thì điện thoại reo. Một giọng nói khàn khàn như người ngái ngủ vang lên: "Bác Sĩ Moody phải không, tôi là Jack Matthew". Hết sức thích thú, tôi cho Jack biết là tôi là một bác sĩ tâm trí, tôi rất chú trọng đến câu chuyện lạ lùng của Jack và Elvis mà tôi đã được nghe qua do Bill Grady kể lại. Tôi đề nghị được gặp Jack để tôi biết rõ ràng hơn. Jack hỏi tôi nghĩ sao về chuyện này, liệu tôi có gán cho Jack là một "Thằng Ðiên" hay "Thằng Sạo" chăng. Tôi trả lời là trong công cuộc khảo cứu của tôi tôi đã gặp rất nhiều người tâm lý bình thường cho tôi biết những chuyện thật khó tin về Elvis Presley và cảm nghĩ của tôi là tôi không có ý kiến "đúng hay sai" về những chuyện đó, nhưng tôi dám chắc họ là những người rất thành thực với tôi.
Jack tán thành và anh hẹn sẽ nói chuyện với tôi trong một ngày gần đây.
Ba tuần lễ sau, tôi lại nhận được điện thoại của Jack. Anh báo cho tôi biết hai ngày nữa anh sẽ đến Tennessee. Anh muốn tôi đến gặp Anh tại một trạm xe vận tải gần thành phố. Anh sẽ đến đó vào khoảng 5 giờ chiều hoặc muộn hơn. Tôi nói tôi sẽ đến đó gặp anh và báo anh biết anh sẽ nhận ra tôi là tôi sẽ mặc một áo ấm mầu nâu và đeo một máy thâu băng.
Vào đúng ngày hẹn tôi đến trạm xe vận tải vào khoảng 4 giờ 15 chiều; 5 già, 6 giờ rồi 7 giờ cũng vẫn chưa thấy Jack đến. Tôi định ra về thì vào khoảng 8 giờ kém 20, tôi thấy một người tài xế xe vận tải, cao, gầy, tóc hoa râm, bước vào cửa chính và đang nhớn nhác nhìn quanh. Thấy tôi anh cúi đầu chào và bước tới. Anh mặc quần Jeans xanh, áo sơ mi Flannel sọc xanh, và đi đôi giầy òng cao bồi. Cánh tay phải vắt chiếc áo dạ ngắn sọc đỏ. Có lẽ đã hai ngày anh chưa cạo râu.
Khi tới gần bàn tôi ngồi. anh nói vời tôi: "Xin lỗi Bác Sĩ Moody, tôi đến trễ. Dọc đường cách dây độ 100 dậm, xe tôi bị hư, trời lại mưa to quá ". Tôi nhìn qua cửa sổ, trời đang mưa như trút nước đã hơn một tiếng đồng hồ.
Jack ngồi xuống và chúng tôi gọi cơm chiều. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Ðầu tiên Jack cho tôi biết là anh đã cai rượu và anh dã phải vào nhà thương cả thảy 3 lần. Hiện giờ anh đã bỏ được rượu khoảng gần một năm nay. Tôi thầm nghĩ, đôi mắt sâu thẵm và chan chứa tình cảm chứng tỏ anh là người ghiền rượu.
Sau khi dùng cơm xong, anh bật lửa châm thuốc hút. Tôi đề nghị anh nói chuyện về việc chứng nghiệm với Elvis Presley.
"Trở lại vào Năm 1980, ngày đó là ngày 20 tháng Chạp, tôi nhớ rõ vì ngày đó là ngày tôi giao động mà còn vì ngày đó xảy ra trước hai ngày sinh nhật của mẹ tôi ( Ngày 22 tháng Chạp là ngày sinh nhật của mẹ tôi). Thật khẩn trương làm sao vì tôi phải trở về nhà tại Alabama cho kịp sinh nhật của mẹ tôi. Từ miền cực Tây tôi phải chuyên chở và giao hàng tại Memphis. Tôi lo sợ chẳng may dọc đường xe bị hư thì tôi không kịp về dự lễ sinh nhật của bà. Tôi dự định xuống hàng tại Memphis hôm 21 và trở về ngay đêm đó. Tất cả gia đình tôi đều về nhà dự lễ sinh nhật của bà và ở lại cho đến ngày Giáng Sinh.
Tôi rất lo lắng cho mẹ tôi vì bà bị bệnh tim vừa nằm 2 tháng bệnh viện để điều trị. Tôi sợ có thể đây là lần sinh nhật cuối cùng của bà. Tôi đang ở với bà. Tôi có lấy vợ được 5 năm và vợ tôi đã bỏ tôi vào năm 1978; từ đó tôi vẫn sống với bà.
Ðêm ấy tôi lên đường. Trời tối đen như mực. Lúc đó vào khoảng 9 giờ 30, tôi đến cách Memphis chừng một trăm dậm về phía tây. Tôi biết rõ con đường này và dự trữ đến Memphis vào đêm ấy. Bấy giờ, có điều là lạ là tôi rất ít khi cho người đi đường quá giang. Cách nay khoảng sáu năm có lần tôi cho một gã quá giang ở Nevada, tự nhiên gã này nổi khùng chửi mắng tôi. Gã đâm tôi nhưng tôi đánh bật được con dao khỏi tay gã và xô gã xuống lề đường.
Tôi là một tài xế xe vận tải độc lập nhưng kể từ dạo đó tôi không cho ai quá giang nữa. Thời buổi này, ông không thể ngừng xe dọc đường cho khách quá giang.
Nhưng đêm 20 tháng Chạp lại khác hẳn. Tôi dừng xe lại đổ thêm xăng. Tôi cảm thấy bồn chồn nên xuống xe và đi bộ vòng quanh để lấy lại sự thư thái. Tôi uống hết hai ly cà phê. Chung quanh trạm xăng đèn pha chiếu sáng rúc, nhưng bên kia đường và phía cánh đồng thì tối om. Phía đường bên kia có nhiều bụi cây, một vùng toàn cây. Nhìn về phía ấy tôi thấy một ánh sáng. Không phải ánh sáng của một cây đèn bấm mà giống như một vầng ánh sáng phát ra từ những lùm cây. Tôi nghĩ ngợi. Lúc đầu tôi tưởng là đám mây sáng qua các cành cây, nhưng tôi quả không biết ánh sáng trên từ đâu phát ra. Tôi đứng bên đường và đăm đăm nhìn chùm ánh sáng mờ mờ. Rồi bỗng nhiên tôi thấy một người đi đằng trước ánh sáng này. Anh ta đi dọc theo con đường về phía xa lộ. Anh ta mặc áo khoác, tay cặp một gói đồ.
Tôi cho là Anh đang đi dọc con đường và bước qua vùng ánh sáng, nhưng ngay lúc ấy tôi thấy Anh ta đang đi trên đường. Có thể Anh từ rừng cây bước ra, Thực tôi không biết Anh từ đâu tới. Tôi vừa đoán có lẽ Anh đang đi dọc con đường trước khi tôi thấy Anh nhưng tôi không biết thật.
Thoạt đầu tiên tôi không nhìn thấy chân Anh. Anh đang đi đằng sau vài lùm cây thấp nên tôi chỉ trông thấy phần trên từ hỏng lên tới đầu mà thôi. Hình như Anh nhìn thấy tôi, tiến tới và băng qua đường. Giờ này không có xe cộ gì cả.
Tôi đến ngay bên Anh và hỏi: "Anh đi đâu?". Trong lòng tôi cảm thấy thương hại Anh. Tại sao, tôi không biết. Anh có vẻ lo âu. Tôi nghĩ là Anh không nghe câu hỏi của tôi vì tôi nói hơi nhỏ nên Anh không trả lời. Tôi lại nói to hơn: "Anh đi đâu?"
Lần này Anh nhìn tôi và nói: "Memphis"
Tôi hỏi: "Ði nghỉ lễ ở Memphis à?"
Anh trả lời: "Vâng tôi đi về nhà thăm cha mẹ tôi".
Anh nói giọng Tennessee rất trầm. Tôi không thấy rõ mặt Anh vì Anh đội một cái mũ lớn, cũng có thể là loại mũ trùm đầu. Tôi không hiểu tại sao Anh lại ở trên con đường cách xa Memphis cả trăm dậm, nên tôi hỏi:
"Anh đi bằng gì?"
Anh trả lời: "Tôi ra xa lộ để xin quá giang."
Rồi Anh tiếp tục đi cho đến khi khuất dạng. Tôi trở về trạm xăng, lên xe quay trở về xa lộ. Từ trạm xăng ra xa lộ chừng nửa dậm, nhưng mới đi chừng khoảng một phần tư dậm, tôi đã thấy Anh đang đi bên lề đường bên trái, tay cắp gói đồ.
Không suy nghĩ tôi ngừng xe ngay bên cạnh Anh. Tôi quay kính xe xuống, thò đầu ra ngoài nói với Anh: "Tôi đi Memphis đây, tôi cho Anh quá giang".
Anh cảm ơn tôi, băng qua đường và trèo lên xe. Tôi chạy ra xa lộ, thẳng đường đi Memphis. Nhìn Anh vừa lên xe, tôi có thể nói Anh là người lịch lãm. Anh gọi tôi là "Ngài", vậy "Thưa Ngài' hoặc "Thưa Ngài không". Tôi nghĩ Anh hẳn phải được giáo dục kỹ lưởng.
Tôi thật là quá mệt trên suốt quãng đường còn lại đi Memphis nhưng nhờ có cà phê mà tôi còn tỉnh táo. Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, tôi không nhớ hết, nhưng tôi còn nhớ có nói đến âm nhạc mà cả Anh và tôi cùng thích. Anh cho tôi biết Anh đang mong mái gặp cha mẹ Anh. Tôi nói là Anh nghĩ đến mẹ Anh cũng như tôi nghĩ đến mẹ tôi. Cha mẹ là những người gần gủi thực sự. Anh nói với tôi Anh có mấy món quà biếu cha mẹ Anh trong gới đồ Anh đang mang theo. Anh cũng kể với tôi có một thời gian Anh làm tài xế xe vận tải và Anh biết nhiều loại xe. Anh còn nói Anh có vài chiếc Cadillacs, nhưng tôi không tin. Tôi nghĩ Anh chỉ là một gã nghèo khổ, muốn làm cho ra vẻ, nhưng tôi không nói với Anh điều đó. Tôi nghĩ thật là chuyện khó tin, một người có mấy chiếc Cadillacs lại phải xin quá giang xe giữa đường như thế này.
Chúng tôi rất tương đắc. Tôi cho Anh biết là tôi ghiền rượu. Anh tỏ vẻ thông cảm và cho tôi biết Anh cũng nghiện ma túy, thuốc ngủ, nên rất hiểu tôi. Lúc này trong xe rất tối nên tôi không thấy rõ mặt Anh. Tôi không thể nói Anh bao nhiêu tuổi. Tôi nghĩ Anh chừng 30 hay 35, cũng có thể trẻ hơn.
Còn chừng ít dậm nữa là tới Memphis, những ngọn đèn hai bên đường giúp tôi nhìn thấy Anh rõ hơn. Tôi trông Anh rất quen thuộc. Chắc chắn truớc đây tôi đã gặp Anh. Tôi hỏi Anh muốn xuống đâu. Anh cho tôi địa chỉ, đó là Ðại Lộ Elvis Presley. Anh bảo Anh xuống gần đây cũng được. Vì muốn biết Anh là ai nên tôi tự giới thiệu: "Tôi là Jack Matthew". Tôi nhìn Anh khoảng một giây.
Lúc tôi vừa nhìn Anh thì Anh quay lại nhìn thẳng vào mặt tôi và nói: "Thưa Ngài tôi là Elvis Presley".
Tôi lạnh cũng và cứng đơ. Mồ hôi vã trên trán và lòng bàn tay... tôi không thể nói được. Tôi lắp bắp hình như câu: "Anh nói chơi đó chứ!". Còn độ một dậm nữa, tôi sợ quá và không nói nên lời. Tôi không biết sao tôi còn có thể lái xe được trong tình trạng này.
Ðúng là Elvis Presley, hay hồn ma Anh. Trông Anh vẫn giống như xưa, như những ngày vui của Anh. Chân tôi run rẩy trong đôi giầy ống.
Cuối cùng Anh nói Anh muốn xuống xe và tôi đã ngừng lại để Anh xuống. Tôi đã gặp hồn ma! Tim tôi đập thình thịch.
Tôi chưa bao giờ đến Graceland cả nhưng hai tuần sau đó, tôi mạnh dạn trở lại Memphis và chạy qua Graceland. Thật là gần chỗ tôi đã ngừng xe để Anh xuống.
Ðó là câu chuyện của tôi. Tôi không uống rượu hôm xảy ra chuyện đó. Tôi đã bỏ được rượu khoảng một tuần trước khi chuyện đó xảy ra. Tôi thề tôi không uống một giọt rượu nào đêm đó cả. Tôi cũng không dùng một loại thuốc nào đêm đó. "
Sau khi Jack kể xong chuyện, tôi đã mất cả tiếng đồng hồ để cật vấn. Tôi muốn biết anh có phải là người ái mộ Elvis trước đêm 20 Tháng 12 Năm 1980 không. Anh trả lời Anh có ái mộ Elvis nhưng anh thích loại nhạc dân ca hơn là kích động nhạc. Những ca sĩ thần tượng của anh là Willie Nelson và Waylon Jennings.
Tôi nhận thấy Elvis và Jack có vài điểm tương đồng về cá tính trong đời sống. Thứ nhất là Elvis và Jack cũng gần gủi thương yêu mẹ. Cả hai dều lái xe vận tải và đều thích xe; cả hai cũng ly dị và vương mắc chất độc (rượu, ma túy). Một điểm nữa là Jack gặp sự xuất hiện của Elvis trên con đường hoang vắng, sự lo âu của Elvis cũng như sự băn khoăn lo lắng của Jack trước khi gặp, là làm sao về nhà kịp để đoàn tụ với gia đình.
Sau khi nghe tôi trình bầy, Jack rất ngạc nhiên về những sự trùng hợp và tương đồng tôi nêu lên mà anh không nghĩ tới. Anh hỏi tôi xem có phải vì nguyên do tâm lý hay bệnh hoạn mà chuyện xảy ra đêm đó.
"Thú thật tôi không biết, Jack à. Nếu anh muốn biết tôi giải thích, tôi sẽ nói anh nghe. Như anh biết tôi đang thử không chấp nhận chứng nghiệm của anh, tôi chỉ nói sự giải thích có thể có được chứ không phải là đúng hẳn."
Anh dục tôi: "Cứ nói đi"
Ðầu óc tôi quay trở về lúc tôi học y khoa trong thời gian nội trú và thực hành về trường họp người nghiền rượu bất thình lình bỏ rượu như Jack nói với tôi anh đã chấm dứt không uống độ một tuần trước khi câu chuyện kỳ lạ xảy ra trên đường Memphis. Tôi bắt đầu chậm rãi nói với người tài xế xe vận tải đang ngồi trước mặt tôi.
"Jack, anh có bao giờ nghe thấy chứng bệnh mê sảng động kinh không?"
- "Có, họ nói với tôi rằng mỗi lần tôi đi chữa bệnh ghiền rượu tại bệnh viện có thể nhìn thấy các con chuột mầu hồng sau khi bỏ được rượu. Riêng tôi chẳng bao giờ thấy, nhưng người bạn cùng chữa trị với tôi nói cho tôi biết là có thấy".
Tôi nói cho anh biết có trường hợp ít ngày sau khi ngừng rượu, người ghiền thấy những ảo ảnh linh hoạt. Người đó nhìn thấy những vật mà thật ra không có. Người đó đổ mồ hôi, giao động và run rẩy. Những người bị mê sảng động kinh thường mất ngủ, mệt mỏi và luôn luôn sợ hãi.
Jack rất chú ý đến điều tôi nói. Tôi ngưng một chút nhìn anh, anh uống một ngụm cà phê và hít một hơi thuốc lá.
"Vài triệu chứng của bệnh mê sảng động kinh đã xảy ra với anh đêm đó". Tôi tiếp tục:
"Anh nói với tôi anh sợ sệt khi anh ngừng tại trạm xăng. Rõ ràng anh mệt mỏi và đi tản bộ chung quanh để chấn tĩnh. Sau này anh nói anh bị ra mồ hôi và lạnh cứng vì sợ hãi. Tất cả những việc đó xảy ra một tuần sau khi anh ngưng uống rượu".
Tôi ngừng lại và thấy anh trầm ngâm nhìn ra phía xa. Trông anh như mất trí. Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau. Tôi bắt đầu suy nghĩ liệu một người bị mê sảng động kinh có thể lái được một xe vận tải lớn đi hàng trăm dậm mà không hề hấn gì như trường hợp của Jack không.
Thật là ngoài tầm tay, tôi tự hỏi có thể như vậy được không và óc tôi liên tưởng đến một việc đã xảy ra cách đây mấy năm cho chính tôi.Một đêm tôi đang làm việc trong phòng cấp cứu thì có một người, cũng là tài xế xe vận tải, bị bệnh mê sảng động kinh trầm trọng đến. Anh này là người ghiền rượu, anh nói với tôi anh lái xe xuyên bang, đột nhiên thấy nhiều ảo ảnh. Anh bắt đầu thấy các xác chết và những con vật kỳ quái to lớn nằm dài trên mặt đường. Tuy nhiên anh vẫn điều khiển được cái xe về nhà, vào bệnh viện thành phố sau một cuộc hành trình dài. Tôi đã tìm đuọc câu trả lời: "Có thể một người sau khi cai rượu bị ảo ảnh vẫn có thể lái một xe lớn trên xa lộ.
Jack làm tôi tỉnh mộng: những lời anh nói khiến tôi giựt mình trở về thực tại, tôi đang ở trong một quán ăn của một trạm xe vận tải miền đồng quê Tennessee.
"Bác Sĩ Moody, tất cả những gì ông nói đều đúng cả." Jack nói. "Thật đúng tôi hết sức bị giao động đêm đó. Tôi quên không nói cho ông biết. Bây giờ tôi mới nhớ lại, đêm đó, tôi mất bình tĩnh vô cùng."
"Tốt, sự kiện anh giao động hiển nhiên hơn là việc anh ngưng uống rượu. Có thể việc anh nhìn thấy Elvis là một ảo ảnh nếu anh bị chứng mê sảng động kinh."
"Vậy, có thể là tất cả chỉ trong tưởng tượng mà thôi." Jack hỏi.
"Ai biết được, có thể một phần là sự thật mà cũng có thể một phần là ảo ảnh.Có thể là có một người đã quá giang xe anh, đi xe cùng anh 100 dậm, và phần cuối anh đã ảo ảnh người này là Elvis Presley như trong giấc mơ". Tôi trả lời anh.
Trông anh do dự. "Tôi không biết Bác Sĩ à" anh nói.
"Tôi cũng không biết, Jack ạ"
Cả hai chung tôi đều cười.
Lúc này trời đã khuya. Jack muốn lên đường đi một quãng rồi mới nghỉ. Trời mưa cũng đã tạnh. Tôi tiễn đưa anh ra xe của anh, chúng tôi bắt tay từ giã, anh leo lên xe. Anh quay kính xuống, nhìn tôi, miệng cười toe toét. Tiếng động cơ bắt đầu nổ và rú lên.
"Suy nghĩ, tất cả mọi thứ là do tôi uống rượu", Anh cao giọng nói để át tiếng nổ của động cơ.
"Vâng có thể là đúng, mà chuyện kia cũng có thể là đúng"
"Cái gì, Bác Sĩ Moody?" Anh hỏi lại.
"Có thể là anh đã thực sự nhìn thấy hồn ma của Elvis Presley" Tôi nói thật to cho anh nghe.
Cả hai chúng tôi đều cười rộ, và tôi đứng nhìn theo chiếc xe vận tải cồng kềnh của anh, với đèn nhấp nháy, kéo đi vào miền núi lạnh lẽo của Tennessee trong đêm khuya.
CHIẾC ÁO CHOÀNG BỊ ÁM ẢNH BỞI THẦN HỒN ELVIS
Tác Giả: Raymond A. Moody
Vào Năm 1975 khi Elvis Presley cho cô chiếc áo choàng, Janice McMichael không bao giờ nghĩ nó sẽ là vật lưu niệm. Giờ đây chiếc áo hình như có một đời sống riêng tư, đôi khi cô lo lắng có nên giữ hay không. Tôi (Raymond A. Moody) nói chuyện với Janice tại Hoa Thịnh Ðốn vào mùa hè năm 1986. Lúc đó Cô 39 tuổi và là một thiếu phụ tóc vàng duyên dáng đang làm thư ký cho một trường đại học. Trước khi bắt đầu vào đời cô có biết Elvis.
"Tôi có đi theo Elvis trong những năm đầu của thập niên 70. Về phần Anh không có gì quan trọng, về phần tôi có những ngông cuồng cá nhân: Tôi đang thử làm thương mại trong thị trường ca nhạc thời gian này. Tôi là một diễn viên xinh đẹp,tài giỏi, nhưng tôi nhận thấy dù có tài năng cũng khó để có thể biểu diễn kiếm tiền. Tôi người Ohio bỏ nhà năm 21 tuổi đi California tìm việc với ước vọng trá thành một diễn viên. Thật may mắn nên tôi đã được tuyển chọn trong vài màn trình diễn. Tuy nhiên vẫn không đủ sống với nghề này.
Vào đầu năm 1970 một người bạn đã giới thiệu tôi với Elvis Presley Anh thật tử tế dễ mến. Khi tổ chức một bửa tiệc, Anh không yên lòng nếu chưa gặp mặt tất cả mọi người, Anh thường trò chuyện hỏi về quê quán và đời sống cuả từng người. Anh thật là dịu dàng. Tôi không biết phải nói gì thêm nữa về Anh. Tôi không nhớ rõ đã gặp anh bao nhiêu lần; có thể là 5 hay 6 lần. Tôi không bao giờ gặp Anh trong chương trình bình thường. Có thể nói rằng tôi là người tình đặc biệt của Anh, nhưng thực ra không phải thế.
Thời kỳ tôi biết Anh, Anh rất sợ chết. Anh có vẻ không được khoẻ. Nhưng cá tính hiền hòa của Anh vẫn chói sáng. Tôi và Anh nói nhiều đến sự chết chóc. Anh muốn biết ý tưởng của tôi về cái chết. Tôi nhớ đã nghĩ:
"Anh là người giàu có trên thế giới nhưng muốn một thứ, mà tiền không thể mua được. Anh muốn biết về sự chết." Ðó cũng là điều tôi quan tâm, vì thế chúng tôi trò chuyện. Lần cuối cùng tôi gặp Anh khoảng vài năm trước khi Anh chết. Tôi không nhớ rõ năm nào, tôi nghĩ là năm 1975. Sau khi gặp Anh tôi ra về. Trời lạnh và mưa. Tôi không mặc áo ấm vì tôi đến bằng máy bay từ miền Nam California ấm áp. Elvis choàng cho tôi chiếc áo khoác mầu nâu nhạt của Anh. Tôi nhận thấy việc tặng đồ đối với Anh gần như tự động. Hầu như Anh không bao giờ để ý đến.
Trước khi quen Elvis tôi rất dè dặt. Khi gặp Anh, tôi nhận thấy nhược điểm này. Anh có lối cư xử làm người ta thấy dễ chịu. Cách ăn nói của Anh cũng vậy. Elvis làm tôi không còn dè dặt, chiếc áo là món quà đặc biệt với tôi, gợi cho tôi nhớ lại lời cổ nhân nói bè bạn có thể cởi áo cho nhau. Tôi mua một cái túi nhựa để treo áo này trong tủ áo. Từ khi có chiếc áo tôi đã đổi chỗ ở ba lần và mỗi lần dãn nhà, chiếc áo đều được tôi đem theo về chỗ ở mới.
Cái chết của Elvis như cả tấn gạch đè nặng lên tôi. Tôi được tin này sau hôm Anh chết. Tôi ở nhà cả ngày hôm đó viết thư và nghe nhạc của Anh. Buổi sáng khi đồng hồ báo thức vừa ngừng reo, tôi mới nghe tin loan báo Anh chết hôm qua. Thật là kỳ dị, trước đây hai ba ngày tôi thoáng có ý nghĩ là tôi đến gặp Elvis. Tôi biết Anh không được khoẻ. Ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi Anh không sống mọi được và tôi nên lại thăm Anh. Ðúng là điều kỳ quặc tôi sợ Anh chết hai ngày trước khi Anh chết? Elvis chết làm tôi ngơ ngẩn.
Tôi bị giao động. Thỉnh thoảng đôi tay tôi như run lên. Tôi lo lắng về sức khoẻ của tôi, tôi sợ hãi cái chết suốt trong sáu tháng trời. Elvis hình như bất tử. Anh là người chết đầu tiên mà tôi biết. Bà nội, Bà ngoại tôi vẫn còn sống. Tôi không được biết ông ngoại ông nội tôi vì các cô mất trước khi tôi ra chào đời. Elvis là người thứ nhất tôi biết rõ là chết. Trong khoảng sáu tháng tôi sợ cái chết đến hết hồn.
Trong thời gian này chiếc áo choàng ít được tôi dùng đến. Chỉ một tuần chiếc áo đã hai lần rơi xuống sàn tủ trong lúc tôi đi làm. Chưa bao giờ áo này rơi như vậy thế mà chiếc áo rơi hai lần trong một tuần. Tôi không thể biết rõ thời gian là bao lâu sau khi Elvis chết. Có lẽ chừng một tháng nhưng chắc chắn không quá hai tháng. Lần đầu thấy chiếc áo rơi, tôi có cảm giác sợ sệt. Thành thật mà nói tôi đã tự hỏi có phải Elvis từ bên kia thế giới đang cố làm tôi chú ý đến không. Sau lần thứ hai tôi lấy túi nhựa ra và treo áo vào tủ.
Tôi nhớ rõ là vào tháng 11, cái áo thực sự hoạt động. Áo rơi khỏi mắc 3 lần thượng tuần tháng 11, một lần tôi nhìn thấy áo đang rơi, lúc đó tôi đúng cách độ 5 feet. Lần này là ban ngày. Tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao cái áo có thể rơi như thế. Thật là kỳ dị.
Không mấy người biết nguyên nhân nào tôi có cái áo kể cả mẹ tôi và em gái tôi. Tôi hiểu là nếu có người biết xuất xứ của chiếc áo thể nào họ cũng đánh cắp, tôi chắc chắn như vậy. Tôi biết có một người khoe trong quán rượu là ông ta có một tập dĩa gốc của Elvis với nhãn hiệu mặt trời. Không đầy một tuần lễ sau, nhà ông bị đột nhập và tập dĩa bị mất trộm. Bạn không thể để cho người ngoài biết bạn có những vật lưu niệm của Elvis, nếu bạn muốn giữ.
Trong túi bên phải của chiếc áo còn sót lại vài mảnh khăn giấy lau mặt và một đồng xu. Tôi bật cười - một đồng xu trong túi áo của một ông triệu phú! Khăn giấy và đồng xu vẫn còn nguyên trong túi. Tôi chưa bao giờ lấy ra.
Tôi bị khủng hoảng tinh thần từ khi Elvis chết nên tôi đã tìm một người đến ở chung. Người này tên Mary, quê ở Oklahoma. Mary đến đây để làm việc cho chánh phủ. Tôi sợ hãi có người xâm nhập vào phòng tôi và thấy tôi có một mình nên tôi đã để Mary ở chung và chia bớt tiền nhà với tôi. Ðây là lần duy nhất tôi cảm thấy sợ hãi sự cô đơn khoảng 6 tháng sau khi Elvis chết.
Mary dời tới tháng Giêng. Tháng 11, chiếc áo như biết hoạt động, rơi 3 lần. Ngày 20 tháng 11 tôi tỉnh dậy giữa đêm khuya. Cái đèn ngủ ở ngoài hành lang phía ngoài phòng ngủ chiếu ánh sáng thẳng vào cái tủ đóng chìm trong tường để treo quần áo. Tủ này có hai cánh của kéo, một cánh thì được kéo hết về một phía, phía tủ mở là phía treo chiếc áo. Tôi không biết sao tôi lại thức giấc giữa đêm khuya và nhìn về phía cái tủ. Tôi cố tập trung đôi mắt nhìn vào cái tủ vì tôi không tin cái gì mà tôi đang thấy. Cái tay áo của chiếc áo choàng chuyển động, tay áo co lên rồi duỗi xuống. Ðó là tay áo phải. Tôi biết rõ là tay phải theo cách treo của áo. Tôi hoảng vía. Tôi cố cử động mà không nổi. Tôi như bị tê liệt. Tôi không biết là bao lâu. Có thể 10 phút, cũng có thể 30 phút. Thỉnh thoảng cái tay áo co lên từ từ rồi lại buông xuống. Buổi sáng, thức dậy tôi thấy chiếc áo vẫn còn treo trên mắc. Lần này chiếc áo không rơi. Tôi chưa bao giờ thấy chiếc áo chuyển động như lần đó cả.
Tôi cũng chưa bao giờ kể cho Mary biết chuyện về chiếc áo. Vào tháng Hai một người đàn bà đến ở một căn phòng dưới hành lang của chung cư. Tôi có biết bà ta. Tên Bà là Alice. Bà là người rất chú trọng đến siêu linh. Bà ta đã đưa tôi đến dự một cuộc hội về siêu linh tại Hoa Thịnh Ðốn. Một hôm, ngồi uống trà với bà tại căn phòng của bà tôi đã kể câu chuyện chiếc áo cho bà nghe nhưng tôi chỉ nói áo này là do một người bạn có tặng tôi. Tôi không nói áo này của ai cả. Bà lên căn phòng tôi và nhìn xung quanh. Bà bảo tôi bà có thể đoán về chiếc áo này. Bà nới áo này của một người đàn ông tinh thần rất cao nhưng chết yểu. Tôi rất ngạc nhiên và nói là bà bà đoán trúng. Bà nói bà nghe thấy nhạc rất hay chung quanh chiếc áo. Tôi thì không nghe thấy gì cả, chắc chắn như vậy, nhưng bà ta nói đúng là nhạc này của người đàn ông chết yểu.
Sau đó một chuyện kỳ lạ nữa lại xảy ra với chiếc áo. Vào cuối tháng Hai, tôi đẩy chiếc áo qua một bên để có thể mắc thêm quần áo. Khi tôi cầm nơi cổ áo tôi thấy cổ áo ướt, cổ áo bị ướt cả. Không có lý cái áo choàng này chung quanh lại bị ướt. Tôi lo sợ. Mary không thích Hoa Thịnh Ðốn nên dời đi vào đầu tháng Ba. Tôi lại sống một mình, lại càng thêm lo lắng, tôi sợ cái chết, tôi vẫn sợ chiếc áo.
Ngày 21 tháng Ba, một giấc mộng đến với tôi. Tôi mơ thấy tôi và Elvis đi qua những lùm cây. Ðây là đồng quê, một miền rất đẹp. Chung quanh là những dẫy núi cao xanh thẳm. Trời xanh trong tuyệt đẹp. Tôi có thể nhìn thấy các con chim đủ mầu sắc như mầu sắc của các cầu vồng bay lượn chung quanh. Chúng tôi tản bộ trên một con đường nhỏ. Chung quanh chúng tôi đủ mọi loại hoa đẹp muôn mầu sắc đang đua ní. Elvis cầm tay tôi và chúng tôi đi sát bên nhau. Giấc mơ này giống như thật. Khi tôi tỉnh dậy tôi liền ghi lại tất cả. Chúng tôi đi qua một cái cầu đá bắc qua con suối nhỏ. Elvis nói chuyện với tôi. Tôi đã ghi lại tất cả những gì Anh nói. Chúng tôi ngồi trên cầu đá. Anh cầm tay tôi và siết chặt tôi vào lòng Anh. Anh nói:
"Janice à, em có vẻ ngần ngại, phải không em? Em còn nhớ không chúng ta đã cùng nhau trò chuyện nhiều lần về cái chết. Chúng ta có muốn cùng nhau chung sống sau khi chết không. Anh cố gắng nói em biết qua chiếc áo choàng, em yêu dấu nhưng em quá sợ hãi. Việc không thành. Anh muốn nói cho em biết chúng ta sẽ sống cùng nhau sau khi chết. Thôi em đi và sống nhé."
Anh ôm tôi thật chặt và nói câu từ giã. Rồi Anh mỉm cười, nụ cười thật dịu dàng vốn dĩ của Anh và cởi chiếc áo choàng Anh đang mặc trong giấc mộng và đắp lên mình tôi. Cái áo này làm bằng một loại vải giống như lụa. Áo mầu vàng thật đẹp. Ðến đây giấc mộng chấm dứt. Tôi tỉnh dậy và lập tức viết ngay tất cả xuống giấy.
Từ ngày 21 tháng Ba năm 1978, tôi không còn nghĩ đến cái chết nữa. Giấc mộng đã làm tôi khoẻ hơn. Chiếc áo choàng vẫn trong tủ áo. Tôi không còn sợ nó nữa. Tôi sẽ giữ nó mọi mọi. Elvis Presley lúc nào cũng ở trong thâm tâm tôi."
Vì tôi chỉ ở Hoa Thịnh Ðốn có hai ngày để dự một cuộc hội nghị về nghề nghiệp, tôi không có đủ thì giờ để đến phòng Janice xem chiếc áo. Tôi cảm ơn cô đã cho tôi chia sẻ chứng nghiệm riêng tư của cô. Tôi chưa bao giờ được nghe những chuyện như thế trước đây.
Tôi cũng nói cho Janice biết chứng nghiệm mà cô nằm trên giường không cục cựa được trong khi nhìn thấy cái áo chuyển động gợi cho tôi trường hợp y khoa rất hiếm gọi là "tê-liệt trong khi ngủ". Hiện tượng này rất là hiếm, người trong trường hợp này là người nhậy cảm đang trong tính trạng lo âu, đang bị đè nén đúng như tình trạng của Janice. Những người bị bệnh này lúc thức dậy rất tỉnh táo; tuy nhiên vẫn thấy bắp thịt như tê liệt và cảm thấy lo âu và sợ sệt. Ðôi khi tình trạng này cũng liên hệ đến cái gọi là "thùy miên mộng ảo", những hình ảnh sống động hiện ra trên thế giới như thật. Có lẽ việc xảy ra cho cô đêm đó có thể là một giai đoạn của bệnh "tê-liệt trong khi ngủ" với những hình ảnh sống động của chiếc áo - hậu quả là một giấc mộng trong khi thức. Tôi không có luận giải về chiếc áo rơi, tuy nhiên tôi bình luận là rõ ràng giấc mộng đưa đến quyết định trong việc tiếc thương Elvis mà cô đang trải qua trong thời gian ấy.
Janice là một thiếu phụ trẻ, thông minh, và tự tin.
Chứng nghiệm quả không còn nghi ngờ gì nữa đã khiến Janice thành một người hạnh phúc hơn. Nàng cả quyết là nàng hàm ơn nhiều tình bạn mà Elvis Presley đã dành cho nàng.
-ooOoo-
-31-
NHỜ ELVIS PRESLEY, TÌM THẤY ÐỨA CON BỎ NHÀ RA ÐI
Tác Giả: Raymond A. Moody
Harold Welch là cảnh sát viên của một thành phố nhỏ tại Georgia có hơn 15 năm. Anh là người to lớn lực lưỡng có vẻ bướng bỉnh. Anh thường nói anh rất hãnh diện được là con trai của một công nhân hãng dệt. Anh là người lịch lãm, ăn nói mềm mỏng khó có thể hình dung nơi anh một chứng nghiệm kỳ lạ về siêu linh. Khi kể lại chuyện kỳ lạ của mình, anh rất trung thực, mô tả các biến chuyển chính xác, không thêm bớt mầu mè và rất ít giải thích. Anh nói chuyện với tôi trong một phòng khách nhỏ, không có cửa sổ của một tòa nhà gạch vừa dùng làm Tòa Thị Sảnh, vừa dùng làm Trạm Cảnh Sát.
"Chuyện xảy ra chắc chắn vào tháng Ba Năm 1982. Thằng con trai út tên Tony của tôi đã gây cho tôi ít nhiều rắc rối. Nó giao du với bọn côn đồ và cả bọn đã bị bắt trong một cửa tiệm dưới phố. Có người tin cho vợ chồng tôi biết nó hút cần sa. Tôi thì chưa bao giờ gặp. Trước mặt các con tôi đã thề là sẽ thẳng tay trừng trị nếu bắt gặp đứa nào phạm tội ma túy và tôi còn muốn pháp luật cứng rắn với nó như với bất cứ ai khác.
Tony là một đứa trẻ chưa bao giờ phạm lỗi lầm nào cả. Nó là một đứa bộ tốt nhưng lại giao du với bọn xấu. Ðôi khi nó không về nhà. Có một thời gian, chúng tôi không thể nào kiểm soát nổi nó. Tới đầu tháng Hai Năm 1982, chúng tôi thật sự phải đương đầu với nó. Nó đang học cấp II, Trung Học. Ðiểm học tập của nó xuống thấp dưới hẳn cái khả năng của nó. Năm đó vợ tôi giải phẫu lưng và nằm điều trị tại bệnh viện 1 tháng, sau đó phải tĩnh dưỡng ở nhà thêm một thời gian nữa. Cứ mỗi tuần trong nhà lại xảy ra một hai lần cãi vã đôi khi hòa lẫn nước mắt về điểm học tập, về sự say sưa và về đám bạn bè của nó. Ngày 3 hay ngày 4 Tháng Hai, nó đi chơi đến 3 giờ sáng mới về và say rượu. Vợ chồng tôi lo sợ đi tìm nó khắp nơi, suốt hai tiếng đồng hồ mà không thấy nó. Khi nó về, tôi nổi nóng, chửi mắng nó thậm tệ, lẽ ra tôi không nên nặng lời như vậy. Bất cứ người cha nào cũng phải làm như tôi thôi.
Bốn năm ngày sau, nó không nói với chúng tôi một lời. Hễ ở nhà là vào phòng riêng nghe nhạc. Tony rất thích Elvis Presley và các nhạc sĩ dân ca. Nó không thích loại kích động nhạc giật gân như phần đông thanh niên thời nay. Lúc nào nó cũng chỉ Elvis. Phòng nó treo đầy những bảng quảng cáo Elvis. Tôi cũng muốn như vậy; thà vậy còn hơn là nghe các băng nhạc cuồng tấu nặng mùi ma túy.
Tony biết tất cả về Elvis. Tôi thì không. Lần gần gủi nhất với Elvis là khi tôi được gọi đến để tăng cường an ninh cho cuộc trình diễn của Anh tại một thành phố gần đây. Tôi không bao giờ tìm cách đến gần Anh và cũng chưa gặp Anh bao giờ.
Tony có ý định đến California để đóng phim. Nó đã dành dụm được số tiền trên hai nghìn đồng. Một tuần lễ sau ngày tôi nổi cơn thịnh né, Tony bỏ nhà ra đi không nói một lời. Nó đi biệt tăm.
Tôi đã ở trong nghề cảnh sát 20 năm. Tôi biết các bậc cha mẹ không thể làm gì hơn được gặp trường hợp như Tony của tôi. Vợ tôi đau buồn khóc suốt hai tuần lễ. Còn tôi thì hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Tôi nghiện thuốc lá từ năm 12 tuổi nhưng tôi đã bỏ vì tôi bị sưng phổi trầm trọng và khó thở. Khi Tony bỏ nhà đi, tôi hút trở lại 3 gói một ngày.
Tôi chắc chắn Tony đi California. Tôi cũng biết những đứa trẻ lang thang nơi đó khó mà có cơ hội. Tôi hiểu rằng nếu nó ở đấy lâu, tiền sẽ hết, nó sẽ sa vào chỗ xấu xa. Ðứa con trai lớn của tôi tên Harold Jr làm ở Nha Cảnh Sát Atlanta, có nhiều kinh nghiệm tìm những trẻ mất tích. Tôi và Harold Jr quyết định đi Los Angeles để kiếm Tony.
Tony bỏ đi Ngày 11 Tháng Hai. Ngày 3 Tháng Ba tôi và Harold Jr đáp máy bay xuống Los Angeles. Trong thời gian này, Bác Sĩ cho vợ tôi uống thuốc ngủ vì vợ tôi quá lo lắng cho Tony mà mất ngủ. Cứ mỗi lần điện thoại reo là vợ tôi lại khổ sở. Cuối cùng tôi phải ngủ ngoài phòng khách và mang theo cái điện thoại để vợ tôi có thể ngủ. Tôi ngủ trên cái ghế sự pha để trả lời điện thoại cho dễ. Phần lớn là các điện thoại gọi đến cho các đứa khác đang còn ở chung với chúng tôi. Tôi rất mong Tony gọi về.
Vào đêm ngày 1 Tháng Ba, tôi đang ngủ trên sự pha trong phòng khách thì nằm mơ thấy Elvis Presley. Trong giấc mộng, Elvis vào văn phòng tôi. Anh nói Anh biết vài tin tức về Tony. Tôi nhớ Anh nói: "Thưa ông, tôi lo lắng cho Tony, Tony rất ái mộ tôi. Tony đang ở Los Angeles, tôi không thể đến với nó được". Elvis mặc quần áo thường, khoác ngoài cái áo choàng mỏng của cảnh sát. Elvis cho tôi xem cái thẻ. Tôi có treo một tấm bản đồ thành phố trên tường ngay sau bàn giấy, nhưng trong giấc mộng thì lại là tấm bản đồ thành phố Los Angeles. Anh chỉ cho tôi vài con đường nhưng chưa bao giờ tôi tới Los Angeles nên khó mà nhớ được tên các con đường đó. Cố gắng hết sức tôi cũng không thể nhớ tên một con đường nào.
Elvis đành chịu. Anh bắt đầu nói với tôi: "Hãy nhìn, Tony đang ở trong một cái nhà có phòng cho thuê". Rồi Anh chỉ cho tôi quang cảnh. Một đường phố ngắn có một nhà thuốc tây ở góc đường và trước mặt là một tiệm ăn nhỏ. Ðột nhiên tôi và Elvis ở ngay trên con đường phố đó và đi bộ xuống, Mọi thứ như mờ mịt, tôi không nhìn rõ mấy. Elvis cố gắng chỉ cho tôi để tôi có thể nhận được. Elvis nắm cánh tay tôi và lay tôi. Anh nói: "Nhìn đây ông, ông phải nhìn kỹ. Rất là quan trọng đấy ông". Anh chỉ tôi một căn nhà có, một căn nhà tồi tệ. Elvis nói: "Ông à, con ông đang ghiền ma túy đấy, ông phải giúp đỡ nó". Tôi có thể nói là Elvis cố gắng chỉ cho tôi cái nhà có. Ðó là một căn nhà hai tầng. Tôi thấy một con mèo trên thềm đang cố vào nhà. Hình như con mèo của căn nhà ấy. Con mèo mầu vàng có sọc.
Elvis cố gắng chỉ cho tôi tên con đường nhưng tôi không tài nào nhớ được. Elvis vẫn giống như trong hình. Trong giấc mộng tôi thấy Anh cao chừng khoảng 6 feet và chừng 30 tuổi. Tôi thấy Anh rõ ràng nhưng chung quanh Anh thì mờ ảo. Tôi cố tập trung nhận diện căn nhà nhưng tôi chỉ thấy qua làn sương mù. Tôi cảm ơn Anh vì sự quan tâm của Anh.
Tôi tỉnh dậy, đầu đau và tai ù. Bấy giờ ông có thể nghĩ tôi là người mất trí. nhưng tôi, tỉnh dậy, tôi biết tôi sẽ tìm được Tony. Giấc mộng vẫn ám ảnh tôi cả ngày hôm sau. Ðiều tôi ngạc nhiên là tấm thẻ cảnh sát. Tôi vẫn biết Anh rất thích giúp đỡ an ninh cảnh sát. Trước kia, chưa bao giờ tôi nằm mơ thấy Elvis. Giấc mộng hầu như thật.
Harold Jr và tôi đáp máy bay xuống Los Angeles ngày 3 Tháng Ba. Chúng tôi bắt tay vào việc ngay. Tôi liên lạc với các nhân viên an ninh cảnh sát địa phương. Họ sẵn sàng cộng tác. Tôi nới chuyện với một chuyên viên về vụ này. Ông ta chỉ cho tôi những địa điểm mà các em thường tụ tập. Chúng tôi đưa hình của Tony, Chúng tôi gặp một số người tại các chỗ này xong không một ai nhớ là đã nhìn thấy Tony.
Harold Jr thuê một chiếc xe hơi. Chúng tôi đến tất cả những nơi do chuyên viên cho biết. Ngày 9 tháng 3 tôi đang lái xe, chợt nhìn thấy một tiệm bán thuốc tây và trước mặt có một quán nhỏ bán bánh mờ thịt nướng y như tôi đã trông thấy trong giấc mộng. Bây giờ chắc Bác Sĩ nghĩ: "ông này mất trí rồi" phải không, Bác Sĩ Moody? Không đâu! khi nhìn thấy tiệm thuốc và quán ăn tôi tự nói: "Ðúng là con đường Elvis chỉ cho tôi trong giấc mộng". Lúc này là 2 giờ chiều.
Tôi quay sang nói với Harold Jr: "Con à, chúng ta sẽ tìm thấy Tony tại chỗ này." Harold Jr chắc nghĩ rằng ông già này bí mật. Tôi dừng xe sát lề đường ngay trước cửa hiệu thuốc. Tôi sang phía phải con đường và đi xuống chừng nửa quãng tôi nhìn thấy ba căn nhà 2 tầng có. Con đường này trông rất quen thuộc. Bây giờ tôi không biết nói với ông thế nào nhưng đúng là con đường mà tôi và Elvis cùng đi trong giấc mộng.
Tôi không biết trong giấc mộng Elvis chỉ cho tôi căn nhà nào. Tôi nhớ phần rõ nhất là cái cửa chính và mấy bậc thềm. Tôi lại gần nhìn kỹ hơn thì thấy một căn nhà có cửa và bậc thềm giống như trong mộng. Tôi liền đi tới nhà này và gõ cửa. Một bà già chống gậy ra mở. Tôi nhận thấy cửa trước có kính và phần trên có màn trắng giống như tê mỏng che bên trong cửa kính. Những màn này được ngăn ra giống như những màn tôi nhìn thấy trong giấc mộng.
Tim tôi đập mạnh như muốn ra khỏi lồng ngực khi bà cô mở cửa. Bà cô nhìn tôi. Hình như bà cô sợ hãi. Có lẽ bà cô tưởng tôi là người điên chăng. Bà cô hỏi: "Cái gì! Tôi có thể giúp gì cho ông?" Tôi hỏi: "Thưa Cô, Tony Welch có ở đây không?" Bà cô trả lời:
"Có".
Tôi nói với Bà tôi là cha y, y đã bỏ nhà đi. Tôi phải gặp ngay y. Bà cô chỉ cho tôi phòng của Tony trên lầu trông ra cầu thang. Ðến đây Harold Jr ngơ ngác như trong sương mù. Tôi không nói cho Harold Jr biết giấc mộng. Harold Jr có vẻ bối rối và theo chân tôi lên cầu thang.
Khi tôi lên đến phòng Tony, tôi gõ của. Tôi nghe thấy y nói "Xin cứ vào". Tôi mở của bước và o. Thằng nhỏ đang nằm dài trên giường đọc tạp chí. Tôi nhìn thẳng vào mặt y và mỉm cười. Mặt y trắng bệch như tấm vải trải giường. Nó nói "Thưa Ba, Ba làm sao mà tìm được con thế?" Nó òa khóc và nhảy đến tôi.
Tôi đứng đấy ôm choàng thằng nhỏ lối một phút. Tôi cũng khóc. Nó nói: "Thưa Ba, con muốn trở về nhà."
Chúng tôi xếp đồ dùng cho nó. Tôi trả tiền nhà cho bà cô. Khi chúng tôi sắp sửa bước ra tôi hỏi bà cô: "Thưa cô, cô có nuôi mèo không?" Bà cô trả lời "Không, tôi không nuôi mèo." Tôi hỏi bà cô cô có thấy một con mèo vàng có sọc ở lối xóm không. Tôi muốn biết về con mèo mà tôi trông thấy trong giấc mộng. Tôi chắc chắn con mèo đó ở đâu đây. Bà cô trả lời bà cô không thấy con mèo nào như vậy. Bà cô không hỏi tôi tại sao tôi muốn biết. Nhưng theo hành động của tôi và lối nhìn của Harold Jr chắc bà cô tưởng chúng tôi thuộc loại điên khùng.
Trên xe về khách sạn, Harold Jr và Tony không hỏi tôi sao tôi lại biết. Tôi không bao giờ kể cho chúng hay. Thực ra tôi cũng cảm thấy khó nói với các con tôi là Elvis chỉ đường cho tôi trong giấc mộng. Tôi giữ kín trong lòng. Harold cho rằng tôi tìm được là do tin tức của một cảnh sát viên thuộc Nha Cảnh Sát Los Angeles, và tôi cũng không muốn phổ biến nguyên do tôi đã thành công. Tôi không nói về Elvis, những gì Anh đã đến với tôi.
Ðêm đó tại khách sạn, tôi và Tony suy nghĩ về sự may mắn. Tony nói: "Thưa Ba, có một điều rất ngộ, con đã nằm mơ thấy Elvis hai lần. Trong cả hai giấc mộng Elvis bảo con là Ba sẽ đến đón con về. Anh cũng nói Anh lo lắng cho con và Anh sẽ giải quyết được."
Tôi bằt đầu khóc khi nghe thấy vậy, nhưng tôi vẫn chưa nói cho con tôi về giấc mộng. Tôi vẫn chưa nói đến Anh, nhưng tôi đã thấy thần kinh căng thẳng. Tôi sẽ nói về Anh một ngày gần đây.
Quả là đúng như trong giấc mộng Elvis nói Tony ghiền ma túy. Chúng tôi đã cố gắng cho Tony bỏ ma túy. Tony đã vượt qua, và rất khoẻ mạnh. Mọi việc đều tốt đẹp.
Tôi không hiểu sao tôi lại nằm mộng như vậy. Trước đây cũng như sau đó không bao giờ có những giấc mơ như thế nữa. Tôi đâu phải là người không biết suy nghĩ. Tôi phải đứng trên cương vị việc là m. Tôi chưa bao giờ dính dáng tới những chuyện siêu linh. Vài năm trước đây. tại một thành phố gần đây, có một vụ giết người rất sôi nổi. Ðủ loại giấy tờ. Họ đã mang các nhà siêu linh đến để giúp đỡ. Tôi tự nghĩ đó chỉ là lường gạt.
Bây giờ tôi không biết nghĩ sao. Với tôi hình như Elvis Presley lo âu cho con tôi nên Anh đã đến bằng giấc mộng để giúp đỡ tôi. Tôi không biết nghĩ gì hơn nữa."
Câu chuyện của Harold Welch là một câu chuyện khó khăn trở ngại nhất mà tôi gặp phải. Nếu những dữ kiện mà ông nhớ lại đúng như ông trình bầy, câu chuyện như thách đố sự giải thích tầm thường. Harold là một người thành thực đáng tin cẩn, có lý trí, không phải loại người có khuynh hướng ngông cuồng.
Chính giấc mộng là động lực tâm lý quan trọng. Theo cách mà Harold mô tả Elvis trong giấc mộng, Elvis xuất hiện lo âu cho Tony cũng như Harold trong lúc nằm mộng là một sĩ quan cảnh sát lo âu cho nghề nghiệp của mình. Sự khó khăn do Evis ám chỉ trong giấc mộng là làm sao báo cho Tony biết sự trở ngại của Harold trong việc liên lạc với con.
Tuy nhiên, điều huyền bí là chốn xảy ra trong giấc mộng đã biến thành sự thực ăn sâu vào trí nhớ của Harold. Giống như Harold, tôi cũng khó biết phải nghĩ gì!
-ooOoo-
-32-
HILDA WEAVER, NHÀ TÂM LÝ HỌC THẤY THẦN HỒN ELVIS PRESLEY
Tác Giả: Raymond A. Moody
Hilda Weaver là một nữ Bác Sĩ Tâm Lý Ðiều Dưỡng 30 tuổi, còn độc thân. Trong thị xã, Cô được mọi tầng lớp dân chúng và các đồng nghiệp quý trọng. Cô đã từng nói cô thuộc loại người "bảo thủ" và không mấy để ý đến các hiện tượng siêu nhiên cho đến khi cô đã tự mình chứng nghiệm. Khi Elvis chết được gần 3 tháng, lúc đó cô 28 tuổi Elvis đến thăm cô, thuyết phục cô.
Sau đây là lời cô thuật lại:
"Khi tôi khoảng 10 hay 12 tuổi tôi có gặp Elvis một lần. Tôi nói "gặp" chứ đúng ra lúc ấy Anh đi bên cạnh tôi. Anh nhìn vào mặt tôi và nói: "Chào Em Cưng". Tôi nhớ tôi thật là cảm động. Một em bộ nít như tôi mà tự nhiên được một người đàn ông có cả nửa số phụ nữ trên thế giới ái mộ âu yếm nói chuyện. Ôi thật là cảm động biết chừng nào! Lẽ đương nhiên tôi nghĩ ngay đến việc lấy Anh. (Thật tức cười) Thật là một ý tưởng ngộ nghĩnh! Tôi nhớ mãi tới mấy tháng sau đó và đúng ra cả năm sau không chừng. Có lẽ tôi đã hơi lập dị. Tôi nghĩ "Khi tôi lớn Elvis có thể cưới tôi, Anh có thể mang tôi theo Anh và chúng tôi sẽ sống bên nhau hạnh phúc suốt đời. (Thật tức cười) Cuộc hành trình thú vị biết bao! Chuyện này đã làm cho tôi khúc khích cười thầm cho đến cả đến bây giờ mỗi lần tôi nhớ lại.
Tôi chỉ gặp Elvis một lần duy nhất đó. Thực thà mà nói, trước khi xảy ra việc trên tôi cũng chưa hẳn là người thực sự ái mộ Anh. Tôi chỉ mới xem 1, 2 cuốn phim Anh đóng. Tôi có vài dĩa hát của Anh - như Ông (Raymond A. Moody) thấy - chừng nửa tá tập nhạc của Anh. Tôi không bị Elvis ám ảnh như những người con gái đồng lứa tuổi. Tôi thuộc loại người đứng đắn, chỉ biết có học; Ông có thể hỏi bạn hữu của tôi. Họ sẽ cho Ông biết là tôi đứng đắn hay không. Ðời tôi chỉ có học đường và sách vở.
Thế cho nên tôi vô cùng kinh ngạc khi Elvis đến thăm tôi. Bây giờ Ông thấy việc này như từ trên trời rơi xuống, tuyệt đối không có liên quan gì đến ma quỷ hay thần giao cách cảm. Không, bao giờ tôi cũng có thành kiến thiển cận về trí óc của con người. Tôi nghĩ rằng những chuyện như vậy là do tưởng tượng hay kỷ thị ám thị mà thôi. Ðó là lý do khiến không bao giờ tôi kể lại chuyện đó cho các bạn đồng nghiệp nghe cũng như tôi không bao giờ muốn nói cả. Mọi người sẽ coi tôi giống như tôi coi các người khác - các bệnh nhân của tôi đã từng kể cho tôi nghe những loại chứng nghiệm tương tự như vậy.
Rồi việc xảy đến làm tôi cứng họng. Vào buổi chiều tôi đang làm việc trong phòng, tôi viết bài cho một tờ báo chuyên môn. Bài đó cuối cùng đã được đăng. Tốt hơn tôi không cho ông biết bài gì và tờ báo nào bái vì nếu mọi người tìm ra, họ sẽ sợ hãi và chống đối. Họ sẽ không ngạc nhiên khi biết điều gì xảy đến khi tôi đang viết bài này.
Bấy giờ, tôi đang trong phòng làm việc, ngày 17 Tháng 11 Năm 1977. Tôi biết đúng là ngày đó vì sau khi Elvis Presley ra về tôi lấy bút xanh ghi ngày vào cuốn lịch để bàn với chữ "EP (Elvis Presley) bất ngờ đến thăm" Hiện nay tôi vẫn còn giữ cuốn lịch đó.
Cắm cúi viết trong phòng làm việc, ngẩng lên tôi chợt thấy Elvis Presley đang ngồi trước mặt tôi trên chiếc ghế bành da mà bệnh nhân của tôi thường ngồi. Thật là sửng sốt biết làm gì đây trong trường hợp này. Tôi nhận ra Anh và cảm thấy bầu không khí chung quanh tràn ngặp yêu thương, hình như Anh có ý nghĩ không mấy tốt đẹp về tôi. Thật là ngạc nhiên. Tôi nhớ lại lúc đó tôi là người hạnh phúc nhất trên đời. Là một nhà tâm lý giỏi, khôn ngoan, không gì ràng buộc lại giàu có và sống trên mảnh đất đẹp nhất của trái đất.
Bởi vậy tôi có thể nói rằng Elvis nhận thấy có cái gì không ổn trong đời sống của tôi, cái đó mà chính tôi cũng không biết nên Anh đang thử giúp đỡ tôi. Chúng tôi đến với nhau, tuy đột ngột nhưng đầy nhiệt tình. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó tôi thật vụng về. Thông thường với các bệnh nhân mới tới, tôi hay hỏi câu: "Tôi có thể giúp đỡ gì cho ông (hay bà) đây?" Nhưng khi đối diện với gương mặt đôn hậu, hào phóng của Elvis presley, tôi lại hỏi: "Anh có thể giúp đỡ gì cho tôi đây?"
Anh mỉm cười, hớn hí, và chắc chắn rất hài lòng. Nhìn gần trông Anh rất trẻ chỉ trạc tuổi tôi vào lúc đó. Anh có vẻ sung sướng.
Ðến lúc này thì khả năng phê phán của tôi chợt đến và tôi ngưng ngay sự phân tích. Tôi nghĩ điều này: "Có thể xảy ra? Có thực điều này thật đang xảy ra sao?" Dù vậy khả năng phê phán của tôi chưa lén xén. Tôi vẫn dùng khả năng này từ hồi nào đến giờ rất hiệu quả. Nói đúng ra tôi biết có hơi lợi dụng. Thật điên rồ khi dùng khả năng phán xét để ngờ vực sự thực mà tôi đang nhìn thấy trước mắt. Tôi thực đang nhìn thấy mà. Tôi thấy Elvis Presley, Anh mặc bộ đồ mầu xanh với các tua rũ xuống trông hấp dẫn nhưng tôi không chú ý mấy về y phục. Ðiều tôi muốn nhấn mạnh là tôi đang nhìn thấy Anh, hơn nữa là đang cùng Anh hòa hợp, đang cùng Anh tác động, và đang có với Anh một sự thân ái, một tình bằng hữu. Tôi cảm thấy tôi như một học sinh, một em gái, một người bạn, tất cả trong cùng một lúc.
Anh bắt đầu trò chuyện với tôi, Anh nói "Missy, Cô có hài lòng với cuộc sống của Cô không?" Khi tôi còn nhỏ, một số người thân trong gia đình gọi tôi là Missy, nhưng từ nhiều năm qua, từ khi tôi ra khỏi trường Ðại Học, không còn ai gọi tôi bằng cái tên này nữa. Câu hỏi này giáng vào tôi theo tục ngữ như cả một tấn gạch nặng. Câu hỏi như vào thẳng tim tôi, tôi trả lời: "Anh là nhà tâm lý giỏi hơn tôi, tuy chẳng bao giờ Anh đến trường." Vừa nói xong, tôi cảm thấy bối rối và hổ thẹn vì mới gặp Anh lại hạ Anh. Nhưng Anh mỉm cười và câu trả lời của Anh làm bầu không khí đang lúng túng trở thành ấm cúng và thuận hòa ngay. Anh nói: "Tôi đã theo học một nhà trường tốt nhất ". Theo cách Anh nói, tôi nhận là Anh có lý. Sau cùng Anh đã chết để về nơi Thiên Cảnh! Cái gì đã làm tôi nghĩ tôi là người tài giỏi, phải chăng mảnh giấy treo trên tường kia? Tôi hiểu rằng cấp bằng Tiến Sĩ của tôi không còn nghĩa lý. Tôi không thể núp sau văn bằng đó nữa. Trước đây đối với bất cứ ai ngồi tại cái ghế này, thì tôi là Tiến Sĩ, xử dụng văn bằng này để đối phó. Nhưng giờ đây với một người đã chết và người nay đang hỏi tôi điều gì đó trong lòng tôi mà chính tôi không biết.
Tôi trả lời Elvis: "Hài lòng với cuộc sống của tôi à? Ồ! Anh biết rõ về tôi, chính tôi không biết điều đó, tôi không biết đối phó phải không Anh?" Anh yên lặng làm thinh và hiền từ nhìn thẳng vào mật tôi.
Tôi bắt đầu thổn thức. Anh hiểu ngay và nói: "Hilda à, Cô phải mở rộng bối cảnh mà Cô đang làm trong đời sống của Cô". Rồi chúng tôi trò chuyện một lúc hết chuyện riêng tư lại đến những chuyện vớ vẩn mà từ trước tới nay tôi chưa hề hé môi cho ai biết cả. Sau khi chấm dứt câu chuyện tôi hiểu tầm đa hiệu của tư tưởng và trí tuệ con người nếu biết áp dụng, tôi sẽ đem lợi ích đến cho nhiều người khác; tôi phải hiểu tư tưởng và trí tuệ trong tôi và biết khai thác triệt để tối đa.
Khi tất cả mọi vấn đề đã ăn sâu vào tâm khảm tôi là lúc Anh phải ra đi, tôi biết là tôi không bao giờ gặp lại Anh nữa vì tôi đang sống ở trần gian. Và tôi cũng chuẩn bị kỹ càng để tiễn Anh đi, điều mà tôi không làm trong khi Anh còn sống - đó là tự mình cái mở nhiều hơn nữa cho chính mình cũng như cho những người khác. Mặt khác tôi hãy còn chưa bộc lộ được hết lòng thương yêu của tôi đối với Anh, và tôi không thể để Anh ra đi một mình. Ðến lúc này tôi nhớ đến một chuyện làm tôi bối rối. Vài ngay sau khi Elvis chết, tôi đọc trên một tờ báo có tin hai phụ nữ trẻ đến chia buồn, đang đứng quanh nhà Elvis, bị xe đụng chết. Tôi xúc động nhiều vì cái chết của hai người đàn bà còn quá trẻ. Khi Elvis từ giã, tôi đem chuyện này nói với Anh và tôi cũng lo lắng phản ứng của Anh hay được Anh có buồn rầu không. Anh trả lời: "Tôi cũng rất buồn về chuyện này. Tôi có mặt ở đó để chào họ và sống với họ khi họ về Thiên Cảnh". Sau đó tôi hết lo lắng, thêm lần nữa Elvis đã làm cho tôi cảm động với sự hiền từ của Anh. Tôi liền cúi đầu, chắp hai tay như cầu nguyện.
Khi tôi ngẩng đầu lên thì Anh không còn nữa. Từ đó tôi không bao giờ nhìn thấy Anh và cũng chẳng bao giờ nằm mơ thấy Anh cả.
Trên đây là chứng nghiệm của tôi. Không có thông điệp vũ trụ, không có sự thực uyên thâm, không có giấy tờ ghi lại. Tất cả đều riêng tư - rất đầm ấm và riêng tư. Từ đó tôi trở nên sung mãn nghị lực. Tôi thương tất cả mọi người. Ông biết không dù đời có sao đi nữa thì tất cả chúng ta vẫn cần hợp quần. Chúng tôi còn có rất nhiều thứ mà không có trong sách vở. Không một người bệnh nào hay một đồng nghiệp nào của tôi biết tôi có kinh nghiệm này với Elvis Presley. Mà cũng không ai có thể biết được - vì là rất riêng tư như ông đã biết. Cái mà tôi hy vọng là họ nhìn thấy hậu quả nơi tôi. Hậu quả đã giúp tôi cởi mở, đã làm cho tôi có lại cuộc đời hoạt động. Việc này đã làm cho tôi có được các điều tốt đẹp đó. Sau khi Hilda mô tả chứng nghiệm của Cô, Tôi và Cô đã có một cuộc bàn luận khá lâu. Tôi bầy tỏ ý kiến riêng của tôi. Một số đặc tính đến với Cô rất phù hợp, chứng nghiệm đã thức tỉnh tư tưởng thầm kín của Cô, và thật là rõ ràng Cô cần có một số tình cảm thiết yếu mà từ lâu Cô không để ý tới. Ðầu tiên, phần Cô, Cô đã không bộc lộ thương tiếc Elvis Presley. Ðáng lẽ Cô cần bộc lộ tình cảm ngay từ khi Elvis chứng tỏ trìu mến với Cô lúc Cô còn nhỏ. Chứng nghiệm với Elvis tại Văn Phòng của Cô có thể giải thích là sự biểu lộ lòng thương tiếc của Cô với Elvis.
Thứ nữa là Cô bầy tỏ lòng tiếc thương và sự bối rối về thảm kịch của hai người đàn bà trẻ bị xe đụng chết tại Graceland. Sự xuất hiện của Elvis tại văn phòng đã an ủi Cô phần nào.
Ðiều thứ ba Cô nhận xét là Cô giữ tâm tư thầm kín về mọi mặt của cuộc đời. Ðược biết với các nhà tâm linh học, một người chối bỏ trạng huống của chính mình, giữ tâm tư thầm kín, thì trạng huống đó ít nhiều cũng vẫn còn giữ trong tư tưởng của người ấy. Trạng huống đó có thể biến thành những giấc mơ như thật, cũng có thể là những hình thái của các sự khó khăn hoặc là những khuôn mẫu trong việc giao tế thí dụ như đàn ông cứng rắn lạnh lùng cưới phụ nữ sôi nổi nhậy cảm như để bổ khuyết cho nhau khiến cho đời sống được điều hòa. Tôi nghĩ có lẽ Hilda đã nén tinh thần đau xót nổi dậy trong ảo ảnh của Elvis, người đã khen ngợi Cô nên hậu quả là làm Cô thức tỉnh cái quan niệm thiển cận của mình.
Cuối cùng trước cái ngày định mệnh ấy, Hilda lúc nào cũng sống với sự suy nghĩ khắc khổ. Cô đã từ bỏ các lạc thú bình thường của cuộc đời, Cô rất ít khi vui. Ở mức độ nào đó Cô phải khao khát thú vui. Mặt khác Elvis Presley là một người nổi tiếng về ăn chơi, mê phim ảnh, trượt tuyết, cưỡi ngõạ và những trò chơi giả tưởng. Với một số người, Elvis Presley là hình ảnh của một người yêu đời. Thật là hợp lý,hình ảnh của Elvis nổi lên từ đầu óc khép kín của Hilda, để bầy tỏ cho Cô biết Cô cần có thú vui cho cuộc đời. Và như thế Cô bắt đầu cho phép mình được hưởng các thú vui sau khi trò chuyện với Elvis.
Hilda ngồi bình tĩnh, mỉm cười hoan lạc trong khi tôi tóm tắt lại những sự giải thích có thể có được. Khi tôi nói xong, tôi nhận thấy - gần như tự động - Hilda thở ra một hơi dài nhẹ nhỏm. Từ từ rồi mọi sự như qua đi, Hình như Cô đang đắm mình trong tình trạng nghỉ ngơi thoải mái và nhìn thẳng và mắt tôi. Tôi có cảm nghĩ Cô đang xâm nhập tôi. Như thể Cô đang đặt Cô trong hoàn cảnh của tôi. Rồi Cô trở lại bình thường và nhận xét câu trả lời của tôi về câu chuyện. Lời phê phán của Cô thật là khôn ngoan, hiểu biết và lanh lợi, tôi xin ghi nguyên văn:
"Raymond, Ông đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu các chứng nghiệm bất thường của một số người, nhưng chính Ông thì chưa có. Ðó là một thất bại. Hãy xem tôi. Tôi không bao giờ lưu ý đến việc đó mà nó lại đến với tôi. Hình như Ông xem có vẻ thèm thuồng và giận tôi. Ông cần phải tìm kiếm chính nơi Ông để tìm được nguồn cội. Ông sợ hãi đề cập đến những chuyện đó theo qui ước thông thường vì nghĩ rằng chuyện đó không thể xảy ra được. Ông cần phải cởi mở những phần khác của tư tưởng ông. Ông sẽ vui hơn khi làm như vậy."
Tôi ngạc nhiên và cảm động về nhận xét của Cô. Rõ ràng là Cô đã hòa nhập vào lời nói và sắc diện của tôi mà chính tôi cũng không để ý đến. Dù gì khi Cô nhận xét về cảm nghĩ day dứt hay khao khát của tôi trong cuộc phỏng vấn với Cô là đúng.
Cuộc đàm thoại với Hilda cũng làm cho tôi lưu ý đến cái giới hạn trong phương pháp giải thích vấn đề siêu linh nếu đơn thuần dựa trên tính chất tâm lý của người có chứng nghiệm.Cũng có thể rằng trong một vài trường hợp chứng tỏ trạng huống của chứng nghiệm đã đưa đến sự đối nghịch không giải quyết được trong tư tưởng của người chứng nghiệm. Trong một vài trạng huống đem tâm lý mà giải thích của một chứng nghiệm bất thường có thể bắt nguồn từ những đối nghịch bất thường của tư tưởng người giải thích. Vì vậy nên nếu chối bỏ chứng nghiệm của một ngườì khác vì cho rằng nó phản ảnh những bối rối về tâm linh, dường như người đó bắt buộc cũng chối bỏ dự định của mình để giải thích chứng nghiệm nếu sự giải thích ấy phản ảnh bối rối tâm linh của chính mình.
VII. TIẾN SĨ HANS HOLZER
Tiến Sĩ Hans Holzer là một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên khảo cứu và điều tra những vô siêu nhiên. Ông tốt nghiệp Ðại Học Ðường Columbia, Ðại Học Ðường Vienna, Ðại Học London College of Applied Science (Anh). Ông là giáo sư đã dạy tám năm tại Viện Kỹ Thuật Nữu Uớc. Ông đã được liệt kê trong cuốn "Who's Who In America". Ông đã hướng dẫn độc giả qua các tác phẩm của Ông bằng những tài liệu dẫn chứng xác thực cho rằng chết chưa phải là hết mà đời sống còn tiếp tục qua một hình thức khác, đó là luân hồi.
Tiến Sĩ là tác giả của hơn 80 cuốn sách như Ghost Hunter, Where The Ghosts Are, Best True Stories, Life Beyong Life vân vân... Ông cũng thường xuyên viết các bài khảo luận đăng trên báo chí thế giới như National Examiner vân vân...
Chúng tôi xin trích dịch một câu chuyện luân hồi trong cuốn Life After Life của Ông do nhà Xuất Bản Parker Publishing Co phát hành Năm 1985.
-ooOoo-
-33-
PAMELA WOLLENBERG - MỘT THIẾU NỮ HOA KỲ LÀ HIỆN THÂN
CỦA MỘT CÔ GÁI TÔ CÁCH LAN (ANH)
Tác giả: Hans Holzer
Sáng nay, một buổi sáng mát mẻ của Tháng 10 Năm 1967. trứêc đống thư mà độc giả trong và ngoài nước gửi tới đã mấy tuần qua (mỗi tuần tôi nhận 300 đến 400 bức) nhưng tôi chưa kịp đọc. Tôi cảm thấy cần giải quyết cho xong. Tôi cố lựa ra những thư nào khẩn cấp để trả lời ngay. Không biết sao tay tôi nhặt lá thư gửi từ Harvey Illinois. Lá thư này cũng giống như các lá thư khác không có gì đặc biệt nhưng tôi lại mở ra ngay đọc. Tôi đọc đến 3 lần rồi, tôi tự nhò mãnh lực nào đã thúc đẩy tôi bóc lá thư này trong khi hàng trăm thư khác còn nằm trên bàn giấy của tôi sáng hôm đó.
Lá thư như sau:
"Kính gửi Ông Hans Holzer,
"Tôi viết cho Ông bức thư này về một kinh nghiệm bản thân của tôi, có thể kinh nghiệm này không có ý nghĩa gì. Tôi đã nhìn thấy cả thảy 3 lần một người con gái Tô Cách Lan đứng dưới chân giường tôi. Tôi không biết cô ta thực sự có nói chuyện với tôi không, nhưng sau khi nhìn cô tôi còn nhớ mọi những chữ sau "Castle","Perch" hay "Purth", Ruthvin", "Gowrye", "Sixteen" và "Towers", và một tiếng gì nữa như "Burn Night. Tôi chưa kể chuyện này với ai cả vì có lẽ họ sẽ chẳng tin.
Nếu ông tìm thấy điều gì qua sự việc trên, ông vui lòng cho tôi biết, tôi vô cùng cảm kích.
Chân Thành,
Pamela Wollenberg
Bức thư ngắn gọn trên đã làm cho tôi bối rối vì những chữ mà cô đề cập trong thư chẳng giúp tôi hiểu điều gì. Thư không giống như loại thư kể chuyện ma quỷ, tâm lý hay những chuyện lạ lùng xảy ra trong phòng ốc. Nó cũng chẳng giống một giấc mơ bình thường, Cô Wollenberg lại cũng không nói rõ những danh từ đó có phải là địa danh hay không.
Bức thư quả đã gợi trí tò mò của tôi nên tôi viết thư trả lời cô ngay và đề nghị cô cho biết thêm chi tiết về cô gái, hoặc có ai là nhân chứng cho cái kinh nghiệm mà cô kể trong thư.
Cô trả lời tôi ngay như sau:
"Tôi không có nhân chứng vì ngoài tôi không ai thấy cô gái Tô Cách Lan này. Cô gái có mái tóc mầu đỏ, ăn mặc sang trọng, choàng chiếc áo dài trắng viền vàng. Ðêm hôm nọ tôi lại thấy cô. Hình như cô nói với tôi chữ "Handsel". Cô có vẻ bị lạc đường, cô vẫn nói chữ "Ruthven", "Gowrie", Sixteen hundred", "Two towers". Cô cũng nói "Glamis-Angus". Cô còn nói "Tôi nhảy". Tôi không tin là tôi có liên quan đến Tô Cách Lan, nhưng cũng có thể vì phía bên mẹ tôi đều là người Anh cả, còn phía cha tôi là người Ðức. Tôi không biết tôi có thần giao cách cảm hay không nhưng hình như tôi nhìn thấy vài việc trong quá khứ. Tôi hy vọng thư này sẽ giúp được ông.
Chân Thành,
Pamela Wollenberg
Sau khi nhận được bức thư thứ hai, tôi quyết định đi Tô Cách Lan để tìm hiểu vụ này. Tôi có quen vài sử gia Anh Quốc, tôi nghĩ là họ có thể làm sáng tỏ được các chữ bí ẩn của hai lá thư trên.
Sau lá thư thứ hai, tôi không còn liên lạc với cô cho đến khi tôi đến Tô Cách Lan vào mùa hè năm 1969. Tôi mang theo hai lá thư, mặc dù tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Một người bạn thân của tôi là nhà văn Elizabeth Byrd, tác giả cuốn Immortal Queen (Lịch Sử Hoàng Hậu Mary của Anh Quốc) đang cư ngụ tại Highlands. Tôi hy vọng Bà Elizabeth Byrd có thể giúp tôi, nhưng sau khi xem xong hai lá thư, Bà đã không giúp được gì cho tôi cả, tuy nhiên Bà có hứa sẽ lưu ý đến việc này. Chúng tôi được mời đến nhà của ông bà Maurice Simpson để dùng bửa cơm trưa. Ðây là một tòa lâu đài ở phía đông bắc Tô Cách Lan gọi là Muchalls. Ông Bà Simpson mời chúng tôi tới lâu đài có mục đích cho tôi thăm một căn phòng có ma. Nhưng rút cục chẳng có phòng nào có ma tại lâu đài này cả. Tuy nhiên ông bà Simpson là người khả ái và hiếu khách nên chúng tôi rất vui thích. Tình cì tôi đưa Ông Bà xem hai lá thư của cô Pamela Wollenberg và hỏi họ xem có ý kiến gì về chuyện này không. Không ngờ ông Simpson tỏ vẻ chú ý đến câu chuyện và ông cho biết ông có được nghe một huyền thoại về "Cái Nhảy Của Một Trinh Nữ" xảy ra tại một lâu đài ở Tô Cách Lan.
"Quả thật có chuyện này sao?". Tôi tự hỏi và càng quan tâm hơn nữa. Số phận đã đưa đẩy chúng tôi tới Muchalls chẳng phải vì căn phòng có ma mà vì ông bà Simpson là cây đuốc soi dẫn dắt chúng tôi tìm hiểu cái bí ẩn của hai lá thư từ Harvey Illinois.
Ông Simpson nói: "Tôi có cuốn sách nói về các toà lâu đài của Tô Cách Lan, để tôi đi tìm". Vài phút sau Ông hớn hở trở lại trong tay cầm cuốn sách nhỏ và mỏng. Cuốn sách có tựa đề "Huntingtower Castle" (Lâu Ðài Huntingtower do ông J.S. Richardson viết). Ông Richardson là một cựu thanh tra về các lâu đài cổ của Tô Cách Lan, Lâu Ðài Huntingtower lúc này được đặt dưới quyền giám sát của Bộ Công Chánh Xây Cất. Trong khi lật các trang của cuốn sách nhỏ này, tôi cảm thấy tôi có thể khám phá được giấc mộng kỳ lạ của cô Pamela Wollenberg.
Lâu đài Huntingtower chính là lâu đài Ruthven có, tên này được đặt từ đầu thế kỷ thứ 13. Nam Tước Ruthven III và IV đã dính líu vào vô ám sát Rizzio, một người được Hoàng Hậu Mary sủng ái. Sau đó, người cha là Nam Tước Ruthven III chết, còn người con là Nam Tước Ruthven IV bỏ trốn. Sau đó Hoàng Gia đã ân xá cho phép Nam Tước Ruthven IV được trở về. Nam Tước Ruthven IV tên là William được Vua James phong là Bá Tước Gowrie I vào năm 1581. Vì Vua James còn nhỏ nên các triều thần của Vua thực hiện việc phong tước.
Một năm sau đó vị Bá Tước mới này đã trả ơn bằng một lối đặc biệt. Ông đã cùng với mấy cộng sự viên bắt vị Vua trẻ, giam vào lâu đài Ruthven gần một năm. Lý do hoàn toàn có tính cách chính trị. Gowrie và các cộng sự của ông không đồng ý để Bá Tước Arran và Công Tước Lennox cầm đầu chính phủ ở Tô Cách Lan. Sau khi đã đoạt được uy quyền của hai nhà quý phái này, Bá Tước Gowrie cùng các cộng sự viên của ông đã uy hiếp vị Vua trẻ phải ký vào bản tuyên cáo kết tội chính phủ cũ. Nhưng vị Vua trẻ tuổi này phản kháng, Glamis, một trong những người giam bắt nhà Vua đã tuyên bố như sau: "Thà là để đứa trẻ khóc còn hơn là để người già phải khóc". Vua James không bao giờ quên được câu này.
Việc bắt giam Vua của Nam Tước Ruthven là một biến cố trọng đại trong lịch sử của Tô Cách Lan. Biến cố này rát là quan trọng đối với những nhà chuyên môn khảo sát về lịch sử Tô Cách Lan trong thời gian sôi động này.
Khi được trả tự do, Vua James lại trở về chịu ảnh hưởng của Bá Tước Arran cho nên việc bắt giam nhà Vua tại Lâu Ðài Ruthven không thay đổi được Tô Cách Lan mà làm cho nhà Vua trở thành thù hận với người mà chính nhà Vua đã phong tước, đó là Bá Tước Gowrie I.
Ban đầu, nhà Vua đã tỏ ra một thái độ khoan dung, tha thứ cho tất cả những ai dã dính líu đến việc bắt giam nhà Vua và đã ra một tuyên cáo ân xá tất cả những người này. Nhưng hai năm sau, Bá Tước Gowrie được lệnh phải rời khỏi xứ. Trong khi nghỉ ngơi tại Dundee, Bá Tước Gowrie đã bị bắt bởi William Stewart, đầy ra đảo Leith rồi bị giam tại Biệt Ðiện Hoàng Gia tại Holyrood. Ở đây, Bá Tước Gowrie bị Tòa Án kết tội vì âm mưu chiếm lâu đài Stirling và bị chém đầu tại Stirling vào Ngày 4 Tháng 5 Năm 1585. Lâu đài của Bá Tước Gowrie bị Hoàng Gia tịch thu.
Một năm sau, lâu đài và chức tước của Bá Tước Gowrie I được trao lại cho người con là James; Bá Tước James chết ít lâu sau đó và người em tên John là người kế vị thứ Ba và cũng là người cuối cùng dòng dõi Bá Tước Gowrie. Những người thuộc dòng dõi Bá Tước Gowrie, trong lúc đương thời, được nổi tiếng về gọi hồn và ma thuật.
Ðương nhiên Vua James đâu đã chịu ngưng báo thù, Bá Tước Gowrie cuối cùng, cùng với người em là Alexander Ruthven đã bị nhà Vua ra lệnh giết chết tại căn nhà của họ tại Thành Phố Perth vào năm 1600. Lý do là họ có ý định tạo phản nhà Vua, nhưng thực ra vụ này không có bằng cớ. Không có chi tiết nào được nói đến trong vô "Bá Tước Gowrie Tạo Phản", tuy nhiên các báo cáo đương thời nói rằng trong giây lưng của viên Bá Tước, người ta tìm thấy có vài tờ giấy ghi những câu thần chú mà chỉ người tinh thông về ma thuật mới có thể đọc nổi.
Xác chết của hai anh em dòng dõi Gowrie được mang về Edinburgh và bản cáo trạng về tội tạo phản đã được phổ biến trước công chúng.
Chưa hài lòng với cuộc hành hình hai người cuối cùng của giòng họ Ruthven, Vua còn ra lệnh đem hai xác chết ra treo trước công chúng, rồi đem dìm xuống nước, và đem phanh thây ra từng mảnh bỏ rải rác tại nhiều nơi. Theo tín ngưỡng thời bấy giờ hành hạ người chết như vậy là cốt để cho linh hồn tội nhân không được yên ổn.
Ðầu thế kỷ thứ 17 là một giai đoạn khó khăn trong Lịch Sử Tô Cách Lan. Mọi người nghi kÿ lẫn nhau, tình hình chính trị thật sôi báng. Sự chia rẽ về tôn giáo không được giải quyết, Tô Cách Lan bị hai Giáo Phái Tin Lành và Cơ Ðốc xâu xé. Nhà Vua vẫn còn bực bội vì hận thù. Nghị Viện năm 1600 đã hủy bỏ danh tánh Ruthven, lâu đài Gowrie đổi tên là Huntingtower và thuộc về Hoàng Gia Anh. Cuối cùng đến năm 1643, lâu đài Huntingtower được chuyển cho William Murray, từ đó người ta chỉ còn biết đến lâu đài Huntingtower mà thôi.
Muốn hiểu rõ lâu đài Ruthven và mối tương quan của các danh tánh Ruthven, Gowrie, cần phải có một kiến thức sâu rộng, một khả năng đặc biệt của sử gia Tô Cách Lan. Thế nhưng một thiếu nữ chưa bao giờ rời khỏi Illinois (Hoa Kỳ) chỉ trong một thoáng đã có thể nói đến nào Ruthven, nào Gowrie, nào năm 1600 và nào hai tháp canh. Cô còn nói đến Glamis (vị chủ mưu trong việc giam nhà Vua) và Angus không ngờ có mối quan hệ giữa Glamis ở quận Angus với gia đình Gowrie. Sao cô có thể biết thành phố Perth mà cô đề cập đến trong lá thư đầu chính là nơi Bá Tước Gowrie bị giết?
Cô Pamela Wollenberg còn viết: "Tôi Nhảy". Cuốn lâu đài Huntingtower đã cho tôi hiểu được về câu nói bí mật này:
"Một ái nữ của Bá Tước Gowrie đang yêu một thanh niên thuộc giai cấp thấp hơn nên không đuọc gia đình chấp thuận. Khi thanh niên đến thăm cô, anh phải ở trong một tháp canh khác biệt lập hẳn với tháp canh của cô. Một đêm nọ cô lén sang thăm người yêu trước khi các cửa nẻo bị đóng. Một con hầu báo cho Bá Tước phu nhân biết chuyện này, nó thiển nghĩ nếu Bà đột nhập, bắt gặp sẽ làm họ kinh ngạc và cắt đứt mối tình ngang trái. Thiếu nữ rất thính tai, nghe bước chân Mẹ đã chạy lên bờ thành tháp canh, nhảy qua cái hào rộng 9 feet 4 inches (3 mét), sâu 60 feet (18 mét) và may mắn sang được tháp bên kia; cô lẻn lên giường nằm. Thấy cô ở đó mẹ cô rất kinh ngạc, Bà xin lỗi đã ngờ vực cô. Cô con gái trinh trắng không tái diễn trò này nữa nhưng đêm hôm sau, cô trốn theo người yêu. Cái thành tích hiếm có này được gọi là "Cái Nhảy Của Người Trinh Nữ"; cô đã nhảy qua khoảng cách giữa hai tháp canh cách biệt hẳn nhau".
Ðọc xong cuốn sách, chúng tôi đều im lặng, cảm thấy tin tức trong cuốn sách thật là quan trọng. Vấn đề còn lại là tìm hiểu âm mưu tạo phản của giòng họ Gowrie cũng như tên người con gái. Vậy cần phải có một cuộc điều tra mới. Tôi nghĩ đến cô Pamela Wollenberg vì chính cô đã cho những bằng chứng cụ thể lúc sơ khởi và rất có thể qua cô tôi tìm được câu trả lời. Tôi quyết định không kể cho Pamela Wollenberg biết cuộc điều tra của tôi và tôi thu xếp gặp cô sớm để thực hiện cuộc thí nghiệm bằng thôi miên. Tôi không biết tí nào về Pamela Wollenberg, cô bao nhiêu tuổi và tình trạng gia đình ra sao nhưng tôi hy vọng cô không có lý do từ chối lời đề nghị của tôi.
Tại Muchalls bửa cơm tối hôm ấy có sự hiện diện của Ông Bà Alastair Knight. Bà Alanna Knight là một nhà tâm linh học uyên bác. Bà đã viết nhiều truyện về lịch sử. Bà hứa sẽ giúp tôi tìm hiểu trường hợp khác thường này. Thêm vào đó Bà Elizabeth Byrd còn giành được sự tình nguyện trợ giúp của Sử Gia Carson Ritchie. Sử Gia Ritchie cho biết muốn tìm tên những người con gái thời đó rất khó vì người ta không khai sanh cho con gái chỉ trừ có hoàng tộc mà thôi.
Ðược sự giúp đỡ của cả một đội quân hùng hậu trên đây, tôi tin chắc có thể tìm ra bí mật về giấc mơ của cô Pamela Wollenberg. Ông Bà Knight quyết định sẽ đến lâu đài Gowrie.
Còn 2 từ ngữ trong ảo mộng của Cô Pamela Wollenberg chưa cắt nghĩa được. Trước tiên là chữ "Burn night", chữ thứ hai là "Handsel"; từ ngữ này hoàn toàn xa lạ với tôi. Làm sao tôi có thể tìm được nghĩa của cái chữ lạ hoắc này?
Mấy năm trước đây Bà Elizabeth Byrd có giới thiệu tôi với Bà Margaret Widdemer. Bà này là người đọc rộng, có một tủ sách quý. Bà Elizabeth Byrd khuyên tôi nên hỏi ý kiến của Bà Widdemer.
Bà Widemer viết cho tôi: "Theo tự điển Tô Cách Lan, tôi có thể giải nghĩa chữ "Handsel" có nghĩa là quà mừng nhân dịp khai trương, một tặng vật, ngày thứ hai, một đồng tiền để trong túi áo choàng mới hay Tương tự. "Handsel" có nghĩa là khánh thành, khai mạc, quà mừng. Tôi cảm thấy hân hoan khi hiểu nghĩa chữ "Handsel". Theo Bà Widdemer: "Với tôi chữ này có nghĩa món tiền kiếm được hoặc một vật gì đó được ngã giá, tiền hay không phải tiền. Có thể cô gái tóc đỏ mà ông nói đó đã hứa theo người yêu nếu như cô nhảy thoát". Nghĩa chữ "Handsel" là như vậy.
Mặc dầu tôi chưa gặp mặt Pamela Wollenberg nhưng các mảnh của trò chơi ghép hình đã được sắp đúng chỗ. Ông Bà Knight sắp sẵn đi thăm lâu đài Gowrie. Ông Knight là một nhà Ðịa Dõ Học. Ngày 6 tháng 8, họ bắt đầu lên đường xem chuyến đi như một công tác thường lệ của ông Knight. Ông Bà dự định đến thăm lâu đài Scone nhưng không tìm ra đường đành đi thăm một người bà con ở Dundee. Ông Bà tính đi đường tắt nhưng bị lạc. Còn đang lúng túng thì Ông Bà nhìn thấy tấm bảng: "Lâu Ðài Huntingtower 2 dậm". Ông Bà Knight đã sẵn có ý định đến thăm lâu đài Gowrie nhân ngày kỷ niệm 2 vị Bá Tước cuối cùng của giòng họ Gowrie bị hành quyết.
Mặc dầu tôi đã từng mục kích Bà Knight dùng giác quan thứ 6 có kết quả nhưng bây giờ Bà lại không cần đến khả năng siêu linh. Hình như Bà có thể nhìn thấu màn thời gian, làm sống lại các biến cố đã qua. Ðến lâu đài, Bà có cảm giác quen thuộc lạ thường. Vừa đặt chân vào lâu đài Huntingtower, Bà đã cam đoan là trước đây Bà đã từng ở. Chồng Bà xác nhận ông bà chưa bao giờ ở trong lâu đài này, thế mà Bà Knight biết được lối vào.
"Ðây là phòng ngủ, giường ngủ ở đằng kia". Bà vừa nói vừa chỉ. Bà đi hết phòng này sang phòng khác vừa đi vừa hát nho nhỏ. Cậu con trai Christopher hỏi Bà: "Mẹ đang hát bài gì vậy?" Bà không trả lời con nhưng bài đó có nhịp điệu giống bài ca do tôi sáng tác với nhan đề: "Nàng Trinh Nữ Trên Ðồng Cỏ". Bà chưa bao giờ được nghe hay thấy bản nhạc này. Bà chỉ biết là tôi có sáng tác bài hát liên quan đến Tô Cách Lan mà thôi. Lúc đi ngang qua người quản thủ lâu đài, Bà Knight đã hỏi ngay về cánh đồng Ruthven làm như có được ghi trên bản đồ. Theo lời chỉ dẫn của người quản thủ, đi dọc theo vài con đường đẹp quanh co hình như rất quen thuộc với Bà, Bà đã tới bãi cỏ dễ dàng. Những cảm giác khi trước mờ ảo lúc này trở nên rõ ràng với Bà.
Khi sắp sửa soạn rời khỏi lâu đài, ông Knight lo lắng sợ bị lạc nữa, nhưng Bà Knight đã khẳng định: "Ði thêm khoảng 20 thước, có cái cầu đá có ở bên phải dẫn đến con đường cái". Quả đúng như vậy, trên đường về Bà Knight không quên được những biến chuyển trong giờ phút cuối cùng.
Vừa tới lâu đài, Bà Knight vội vàng bà lên bờ thành dốc. Bà ngồi đó, trên bờ thành, cách mặt đất khoảng 60 feet (18 thước) Hai ngọn tháp cổ đã tùng cách biệt hẳn nhau ngày xưa thì bây giờ được nối với nhau bởi phần giữa. Ỏ đầu thế kỷ thứ 17, giữa hai tháp canh có một hào sâu 9 feet (3 mét). Muốn nhảy từ ngọn tháp bên phải cao hơn tháp bên trái một tầng, phải nhảy qua một cái hào. Thành tháp 2 bên đều có gì, có trụ nhô ra, gối lên nhau, nhảy qua không phải dễ dàng và có thể ngã xuống mái nhà. Quả là dóng cảm phi thường mới dám nhảy qua. Sau cùng Bà Alanna Knight rời tháp canh và trở vào bên trong lâu đài.
Trong phòng ngủ, Bà có cảm tưởng như nhìn thấy cô gái tóc đỏ vàng, da xanh xao hơn là ngăm ngăm và mặt lốm đốm tàn nhang. Nói theo lối mới, Bà Alanna Knight nhận xét - Cô có vẻ tinh nghịch, lém lỉnh hơn là hiền lành, "một loại con gái dám làm bất cứ chuyện gì". Bà cảm thấy cô là "người lãnh đạo đàn ông chứ không phải một nhi nữ tầm thường". Bà nói: "Tôi nghĩ cô là người vui vẻ, cười nhiều, bị chống đối bởi gia đình. Tôi cảm thấy thế kỷ thứ 16 không thích hợp với cô - cô đã sanh nhầm thế kỷ - cô sẽ hạnh phúc hơn ở thời đại này vì cô khao khát bình đẳng với nam giới, thèm muốn ra xã hội đấu tranh. Có thể tên cô là Margaret hay Isabelle, hay cả hai đấy, những tên rất Tô Cách Lan. Sự thực cảm nghĩ này không lấy gì làm hứng thú lắm. Tôi hy vọng sẽ có ngày nào đó ông biết được câu trả lời".
Tôi hỏi Bà Alanna Knight bài hát "Cô Trinh Nữ Trên Ðồng Cỏ" (The Maid Of The Meadow) mà Bà nhớ và cảm nghĩ đối với bản nhạc này. Bà cho biết Bà không phải là nhạc sĩ nên đã nhờ một người bạn tên Ann Brand ghi lại cho Bà. Tôi thích thú xem bản nhạc. Thật là lạ, có bốn nhịp giống như hệt trong bản trường canh do tôi sáng tác năm 1953 mà Bà Knight cũng như người bạn của Bà không biết. Chắc chắn đó không phải một bà hát toàn vẹn chỉ đơn thuần có một đoạn nhưng sự giống nhau thì nổi bật.
Bà Knight cho biết thêm "Tiến Sĩ Ritchie đã tìm được lai lịch của một cô gái dòng dõi Ruthven trong cuốn lịch sử Tô Cách Lan của Robertson xuất bản năm 1759. Theo ông Bá Tước Gowrie có người con gái tên là Beatrix. Lẽ dĩ nhiên Bá Tước có thể có nhiều chị hay con gái nhưng cuốn lịch sử chỉ ghi tên Beatrix mà thôi. Trong lúc này Bà Elizabeth Byrd cũng hứa cố gắng cho tôi biết tin tức thâu lượm được ở Edinburgh."
Trong khi mọi hoạt động đang ráo riết sôi nổi bên kia bờ Ðại Dương thì tôi đi Chicago để gặp Pamela Wollenberg. Cô Pamela Wollenberg đồng ý đến khách sạn Knickerbocker gặp tôi và cũng bằng lòng cho tôi thực hiện thôi miên để thí nghiệm. Tôi cho cô biết tôi đã tìm thấy vài bằng chứng về giấc mộng của cô nhưng không nói gì thêm.
Ngày 17 Tháng 10 Năm 1969 Cô Pamela Wollenberg đến khách sạn. Cô vừa bước vào phòng, tôi có hơi ngạc nhiên vì cô không giống như tôi tưởng. Thay vì một người bất bình thường, lãng mạn, tuổi tác khó đoán, tôi thấy cô rất trẻ khoảng 20, 21, hoạt bát, thực tế có vẻ không thích khoa học huyền bí. Tôi muốn được phỏng vấn cô trước khi thôi miên. Cô đồng ý. Tôi tiến hành ngay.
"Pamela" - Tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn -"Cô sanh tại đâu?"
"Tại Chicago Heights"
"Cha cô làm gì?"
"Cha tôi đã chết. Hồi còn sống ông làm trong xưởng chế tạo đầu máy xe lửa còn mẹ tôi là một công nhân trong bệnh viện kiểm soát sự dinh dưỡng".
"Gốc gác của cô thế nào?"
"Gia đình bên cha tôi là người Black Forest, Ðức Quốc, còn gia đình bên mẹ tôi là người Anh Quốc".
"Mẹ cô sanh tại đây phải không?"
"Phải".
"Tổ tiên cô có ai là người Tô Cách Lan không?"
"Theo tôi biết thì không".
"Cô có bao nhiêu anh chị em?"
"Tôi có hai chị và một người anh, những người này cùng mẹ khác cha".
"Gia đình cô theo đạo gì?"
"Cha tôi theo Lutheran, mẹ tôi theo Baptist".
"Còn cô?"
"Tôi theo đạo Mormon".
"Cô đã 21 tuổi, vậy cô đi làm chưa?"
"Tôi đã đi làm tại bệnh viện, đã đi học y tá, và bây giờ công việc của tôi là trông nom một người đàn bà; bà ta bị bệnh. Khi nào có đủ tiền tôi muốn đi học lại".
"Trường học của cô ra sao, cô học trường công?"
"Tôi học ở Glenwood, ngoại ô Chicago Heights còn sau thì ở Harvey, nơi tôi đang cư ngụ".
"Cô có bao giờ mường tượng đến hay có các ảo giác về những nơi cô bao giờ thăm viếng không?"
"Tôi đã nhìn thấy người, tôi thề là tôi đã nhìn thấy trước đây ở một nơi nào đó và không thể nào có chuyện đó dược".
"Cô có ở Âu Châu bao giờ chưa?"
"Chưa".
"Cô có bao giờ ao ước đi Âu Châu không?"
"Ồ, có tôi thích Âu Châu. Tôi muốn xem các lâu đài".
"Lần đầu tiên ý nghĩ này đến với cô vào lúc nào?"
"Khoảng 3 năm nay, lúc tôi 18 tuổi.."Tôi vẫn nhớ tôi có một lâu đài, lâu đài lớn sơn mầu trắng và có các tháp canh".
"Có bao nhiêu tháp canh?"
"Lối 2 hay 3 cái, giống như một tảng đá như quả núi hoặc cái gì đó".
"Cô thường đọc sách gì?"
"Tôi thích loại sách bí ẩn".
"Cô có đọc truyện về lịch sử không?"
"Sách về lịch sử tôi không thích mấy, chỉ có một lần, tôi đọc lịch sử Waterloo".
"Cô thích loại âm nhạc nào?"
"Nhạc cổ điển và dân ca, không phải những bản dân ca ông nghe bây giờ. Tôi muốn nói dân ca Âu Châu như Anh Quốc".
"Có bao giờ cô thấy bản nhạc đặc biệt trong trí nhớ của cô không?"
"Thỉnh thoảng tôi có nghe thấy tiếng kèn của mục sư Tô Cách lan ".
"Và lúc nào cô nghe thấy?"
"Thường thường vào ban đêm, khi tôi sắp sửa ngủ".
"Ðã bao lâu cô nghe tiếng kèn này?"
"Có thể nói là một năm rưỡi hay hai năm".
"Có bao giờ cô thấy lạ lắm ở chung quanh cô không?"
"Tôi có thể nói như vầy: Tôi nghĩ là tôi không thuộc về hiện tại, chung quanh đây".
"Cô có thể cho tôi biết cô cảm thấy như thế bắt đầu từ khi nào?"
"Chừng độ 3 năm vừa qua, thực sự tôi cảm thấy tôi không quen người nào ở đây mà hình như tôi quen một số người ở những nơi khác trên thế giới".
"Ở đâu?"
"Tôi nghĩ rằng quần đảo Anh Quốc quyến rũ tôi hơn là Âu Châu. Ðúng quần đảo Anh Quốc đã quyến rũ tôi".
"Có bao giờ cô cảm thấy có lẽ lúc cô bị mệt mỏi khi nhìn vào trong gương, hay khi đi tản bộ, cô tự nhận thấy cô khác với cô trong hiện tại, có cái gì đã làm thay đổi trong cô, thay đổi cá tính, tính nết hay bộ mặt?"
"Ðúng, có một lần tôi nhớ rất rõ ràng vì lần đó tôi đã giựt mình. Người con gái mà tôi nói trong giấc mơ với mái tóc đỏ, một hôm nhìn vào gương, tôi không hiểu tại sao như chính tôi là cô gái đó hay là tôi đã nhìn thấy cô ta ở đó".
"Cô thấy hồi nào?"
"Ðộ chín tháng nay".
"Chỉ có một lần duy nhất cô cảm thấy như thế à?"
"Tôi cảm thấy như có người nào đó ở trong tôi".
"Cô cảm thấy như vậy từ bao lâu?"
""Cách đây hai hay ba năm".
"Có cái gì làm cho cô sợ hãi không?"
"Không. Tôi không thấy thế".
"Nào bây giờ chúng ta nói chuyện về những giấc mơ nhé!"
"Giấc mơ đầu tiên tôi thấy cách đây hai năm. Những giấc mơ này thỉnh thoảng lại đến với tôi. Tôi nhìn thấy thiếu nữ với mái tóc đỏ. Cô mặc một cái áo choàng dài trắng, có viền vàng. Cô ta đang đi nhưng có vẻ rụt rè.Cũng ở trong giấc mộng đó, tôi nhìn thấy hai tháp canh và tôi nghe thấy cô ta nói "Handsel", rồi Glamis, Angus, Ruthven, Gowrie và một lần cô nói "Tôi nhảy". Có lần trông cô rất bình thản, nhưng cũng có lần trông cô rất giận dữ".
"Cô thiếu nữ đó chúng bao nhiêu tuổi?"
"Chừng độ 20 tuổi".
"Thấp hay cao?"
"Thấp và hơi nhỏ".
"Ðẹp hay xấu, có gì đặc biệt không?"
"Không có gì đặc biệt cả, nhưng làn tóc đỏ của cô rất là đẹp".
"Tóc dài hay tóc ngắn?"
"Tóc dài, rất nhiều".
"Giấc mơ đến không chừng hay vào giờ nhất định?"
"Tôi có thể nói hầu hết đều cùng một giờ, ngoại trừ những lần cô ta giận dữ".
"Cô nằm mơ như vậy cả thảy bao nhiêu lần?"
"Năm hay sáu lần".
"Lần cuối cùng vào bao giờ?"
"Lần cuối cùng tôi nghĩ vào tháng 7".
"Năm nay?"
"Vâng".
"Lúc cô ta đang tức giận?"
"Rất tức giận".
"Những giấc mơ như vậy kéo dài suốt đêm, hay chỉ trong chốc lát?"
"Rất là nhanh, tôi muốn nói: khi tôi vừa thấy cô, cô muốn nói điều gì rồi đi ngay".
"Tại sao cô nhớ rõ ràng giấc mơ này như vậy, Cô nhớ được tất cả các giấc mộng này sao?"
"Về thiếu nữ đó tôi nhớ rất rõ ràng, ông có thể cho tôi là nằm mơ, nhưng thực ra tôi chưa ngủ".
"Việc xảy ra đầu hôm, giữa đêm hay cuối đêm?
"Lối chừng 11 giờ rưỡi, hoặc trước 2 hay 2 giờ rưỡi khuya".
"Ngoài các giấc mơ như vậy cô có cảm giác như có ai chung quanh cô không? Tôi muốn nói khi cô tỉnh dậy".
"Tôi không biết có phải thiếu nữ ấy không, nhưng tôi cảm thấy như có ai ở cạnh tôi khi có mình tôi ở nhà".
"Khi cô liên lạc với tôi, cô có nghĩ rằng đã có ai đó thúc đẩy cô làm chuyện này không?"
"Tôi cảm thấy tôi phải viết thư cho ông trong khi không có lý do".
"Ðối với riêng cô, việc này có ý nghĩa gì không?"
"Chỉ có một điều tôi hằng nghĩ đến là chữ "Handsel cho tôi". Tôi nghĩ rằng "cho tôi" phải có nghĩa là vật gì đó. Có thể "Handsel" nghĩa là đến với tôi nhưng sao cô ta lại muốn tôi đến với cô ấy?"
"Có gì đặc biệt, chẳng hạn như quần áo, vật dụng, âm nhạc, thói quen, câu nói, hay bất cứ thứ gì khác hẳn với bản tính của cô, nhất là từ khi cô 18 tuổi tới nay, cô hãy cho tôi biết?"
"Tôi thích nấu bất cứ món nào đến từ quần đảo Anh Quốc. Tôi có 3 cuốn sách dạy cách nấu những món ăn Anh. Còn về quần áo tôi thích mặc theo kiểu cổ hơn".
"Cô có bạn trai nào gốc Anh Cát Lợi hoặc Tô Cách Lan không? Tôi muốn nói quê hương của họ."
"Không".
"Có khi nào cô đọc sách nói về Anh Quốc trong phạm vi lịch sử, quá trình, hay địa dư không?"
"Có một lần tôi đọc sách nói đến tháp canh ở Luân Ðôn và nói về hoàng gia, chỉ có vậy thôi".
"Theo nhận xét của cô, cô có thấy những hiện tượng đã xảy ra trong đời cô có nghĩa lý gì không?"
"Tôi không rõ, trừ khi có người nào nói cho tôi biết. Tôi cảm thấy tôi quen thiếu nữ đó. Tôi không biết tại sao tôi lại quen cô ta nhưng tôi cảm thấy tôi quen cô ấy"
"Giấc mơ đầu chỉ là cảnh thoát khỏi sự buồn chán, không nói lên điều gì phải không?"
"Lần thứ nhất tôi không quan tâm mấy, cho là mộng mị, nhưng giấc mơ cứ tái diễn, và mỗi lần như vậy tôi cảm thấy thân thiết với cô ta hơn".
"Bây giờ cô đã sẵn sàng để tôi thôi miên chưa?"
"Tôi đã sẵn sàng".
Vài phút sau, Pamela đã ở trong tình trạng hôn mê thư giãn, và phục tùng mệnh lệnh của tôi.
"Cô hãy quay về 100 năm, 200 năm, 300 năm cho đến khi nào cô nhìn thấy cô gái có mái tóc đỏ".
Một lúc sau Pamela bắt đầu nói:
"Ruthven", giọng nói của cô thật bình thản.
Tôi bắt đầu hỏi:
"Cô sống trong đó phải không?"
"Tôi sống ở đó".
"Cha cô là ai?"
"Cha tôi không có ở đó".
"Có người nào ở đó với cô không?"
"Có mẹ tôi".
"Tên mẹ cô là gì?"
"Tôi không biết, tôi không nói".
"Tại sao?"
"Bởi vì họ đang âm mưu chống lại chúng tôi nên tôi không thể nói ra được."
"Cô đang ở năm nào?"
"Năm 1600"
"Năm 1600 nào?"
"Ðúng là năm 1600".
"Quê hương cô ở đâu?"
"Tô Cách Lan".
"Tại sao cô lại có vẻ lo sợ?"
"Chúng tôi sắp sửa phải rời nơi đây".
"Tại sao?"
"Họ sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi không đi khỏi chỗ này".
"Ai định giết cô?"
"Tôi không biết, cha tôi chỉ cho biết 'các người ấy'".
"Cô phải làm gì?"
"Tôi không biết, mẹ tôi đang sửa soạn hành lý".
"Cô đi đâu?"
"Ði Glamis".
"Tại sao lại đến đó?"
"Có Hoàng Gia ở đó".
"Họ sẽ giúp cô sao?"
"Tôi không biết".
"Cô hãy tả căn nhà của cô đi!".
"Nhà làm bằng đá".
"Gọi là gì?"
"Breasten".
"Nhà được kiến trúc như thế nào?"
"Có hai tháp canh, có vườn hoa".
"Cô có lên tháp canh chơi không?"
"Tôi thường chơi trên đó".
"Cô chơi gì?
"Tôi hay chơi với những chiếc chén kiểu nhỏ Trung Hoa".
"Lúc bấy giờ cô bao nhiêu tuổi?"
"Bốn hay năm tuổi".
"Bây giờ cô bao nhiêu tuổi?"
"Bây giờ tôi 22 tuổi".
"Cô còn độc thân hay đã lập gia đình?"
"Còn độc thân".
"Cô có quen biết người đàn ông nào mà cô định lấy làm chồng không?"
"Có".
"Tên anh ta là gì?"
"Tôi không nói".
"Tại sao?"
"Coi như tôi không gặp anh ta".
"Tại sao?"
"Gia đình tôi không cho phép".
"Tên anh ta là gì?"
"Mẹ tôi bảo nếu tôi nói, tôi sẽ bị trừng phạt"
"Vậy cô phải làm gì? Sau này cô có gặp anh ta không?"
"Có".
"Ở đâu?"
"Ở Loch Catherine".
"Có xa không?"
"Không xa lắm".
"Anh có khi nào đến lâu đài không?"
"Có".
"Ở đâu, chỗ nào của lâu đài?"
"Trong dẫy hành lang chính".
"Không bao giờ ở trên lầu?"
"Chỉ có một lần thôi, vì không được phép."
"Anh ta có lên tháp canh lần nào không?"
"Chỉ có một lần vì mẹ tôi không biết".
"Cô làm gì?"
"Chúng tôi nói chuyện".
"Sau đó cô lấy anh ta không?"
"Không thể"'
"Vì sao?"
"Vi gia đình cấm tôi lấy anh ta và bắt tôi phải lấy người khác''
"Tại sao gia đình lại muốn cô lấy người khác?"
"Vì ông này giàu có".
"Người yêu của cô không giàu có à?"
"Phải, không được giàu"
"Tại sao cô phải nói chuyện theo cách này? Cô có liên hệ thế nào với cô ta (Pamela)? Cô là cô ta, hay cô nói qua cô ta?"
"Tôi là cô ta."
"Vậy thì trong thời gian chưa phải là cô ta (Pamela), cô ở đâu? cô có là người nào khác không?
"Không, tôi bị gió cuốn".
"Cô chết ra làm sao?"
"Tôi nhảy từ tháp canh".
"Có phải cô bị chết trong khi nhảy?"
"Ðúng, tôi chết sau đó".
"Cô định nhảy đi đâu?"
"Tôi định nhảy qua một tháp canh khác".
"Có được không?"
"Không".
"Cô bị ngã xuống đâu?"
"Ngay trước cửa".
"Có phải đây là lần đầu cô nhảy từ tháp canh này qua tháp canh kia không?"
"Không".
"Cô đã có nhảy rồi à?"
"Phải".
"Thế cô nhảy được à?"
"Phải".
"Và lần này cô nhảy qua không được nên bị chết phải không? Cô bao nhiêu tuổi lúc ấy?"
"22 tuổi".
"Ðó là tai nạn hay là cô muốn nhảy?"
"Tôi muốn".
"Có phải cô không được vui không?"
"Ðúng".
"Khi cô chết sự việc tiếp diễn như thế nào?"
"Chẳng thấy gì cả".
"Sau khi cô ngã, chuyện gì xảy đến với cô? cô nhìn thấy gì?"
"Tôi ở trong gió".
"Cô tự nhìn thấy mình sao?"
"Phải".
"Rồi cô đi đâu?"
"Không đi đâu cả".
"Thế cô có nhìn thấy ai không?"
"Không".
"Thế cô ở ngoài hay cô trở vào lâu đài?"
"Tôi có trở về lâu đài một lần".
"Cô có nhìn thấy ai không?"
"Không".
"Rồi tiếp tục chuyện gì xảy ra cho cô? Cô sống ở đâu?"
"Tôi lại bị cuốn lần nữa".
"Sau đó rồi cô nhớ gì nữa?"
"Tôi nhìn thấy người".
"Các người nào?"
"Những người ngộ nghĩnh đang đi vòng quanh".
"Họ cũng chết rồi phải không?"
"Không".
"Rồi cô ở đâu?"
"Tôi ở trong một thành phố".
"Cô nhập vào một người nào khác phải không?"
"Không".
"Cô vẫn là cô à?"
"Phải".
"Cô nói thành phố nào?"
"Tôi không biết".
"Có phải những người đó ăn mặc giống như thời mà cô biết phải không?"
"Không".
"Còn cô, cô vẫn mặc theo thời của cô phải không?"
"Phải, tôi có thể nhìn thấy cái áo choàng của tôi".
"Những người nhìn tức cười đó có thấy cô không?"
"Không, họ đi bên cạnh tôi".
"Rồi tiếp tục cô nhớ những gì nữa?"
"Tôi muốn người nào đó đưa tôi trở về".
"Vè đâu?"
"Về Ruthven".
"Cô có tìm được ai không?"
"Có, Pamela".
"Làm sao Pamela có thể đem cô trở về được?"
"Cô ấy sẽ mang tôi trở về".
"Tại sao cô lại nhập vào Pamela, chính cô chọn Pamela à?"
"Vâng, dường như cô ấy có thể trở về".
"Ai là người nói với cô về Pamela, bằng cách nào cô đã tìm ra Pamela?"
"Tôi tìm thấy cô ta khi tôi vào nhà".
"Nhà nào?"
"Nhà của cô ấy".
"Ðiều gì khiến cho cô tin là Pamela có thể làm được?"
"Cô ta sẽ cảm thấy hối hận và đưa tôi trở về".
"Có phải cô đã ở trong cô ấy phải không? Ở trong thân hình cô ấy phải không?"
"Phải, tôi cùng cô ấy trở về".
"Ai gửi cô đến với cô ta?"
"Không có ai cả".
"Rồi tại sao cô tìm ra cô ta (Pamela)?"
"Tôi cũng không biết nữa".
"Cô có nói chuyện với người nào không? Và có nhờ người ta giúp đỡ không?"
"Không ai có thể nghe tôi được mặc dầu họ vẫn đi bên cạnh tôi".
"Có ai nói rằng: "Cô phải trở về dương thế " hay tương tự như vậy không?"
"Không".
"Cô có nhớ cô tái sanh như một đứa nhỏ không?"
"Không".
"Cô có thấy cô nghĩ gì sau khi cô thấy Pamela không?"
"Cô ta cũng giống như mọi người khác".
"Giống ai, giống cô phải không?"
"Không".
"Vậy thì thì theo cô, Pamela giống ai?"
"Cô ấy trông giống một người trong bọn Mc Gibbon"
"Giống ai trong bọn Mc Gibbon?"
"Cô ta giống Catherine".
"Catherine của bọn Mc Gibbon, vậy theo cô, Catherine là ai?"
"Tôi không biết rành về Catherine, tôi chỉ gặp Catherine ở Angus thôi".
"Tại sao cô đi Angus?"
"Vì chúng tôi phải đi Glamis".
"Cô có đi ngang Angus không?"
"Không vì Glamis nằm trong Angus".
"Catherine làm gì ở Glamis?"
"Cô ấy sống ở đó".
"Cô ấy làm gì ở đó?"
"Cô ấy là một tỳ nữ".
"Nữ tỳ của ai?"
"Nữ tỳ trong lâu đài của Hoàng Gia".
"Pamela gợi cho cô nhớ lại cô ấy phải không?"
"Ðúng".
"Có phải định mệnh đã trói buộc cô vào Pamela không?"
"Vâng, tôi phải trở về".
"Ðể làm gì?"
"Tôi cần kiếm một vật".
"Kiếm cái gì?"
"Cái nhẫn".
"Ai là người cho cô cái nhẫn?"
"Tôi không nói".
"Cái nhẫn đó thế nào?"
"Cái nhẫn đó tròn bằng cẩm thạch".
"Có khắc gì trên chiếc nhẫn đó không?"
"Không".
"Tại sao việc kiếm cái nhẫn lại quan trọng như thế?"
"Vì là cái nhẫn người đó cho tôi".
"Người đó là ai?"
"Tôi sẽ bị trừng phạt nếu tôi nói ra".
"Cô không bị trừng phạt đâu, tôi lấy danh dự mà nói như vậy, cho tôi biết tên người đó đi, rồi tôi sẽ giúp cô được".
"Tôi không thể tìm được người đó. Tôi chỉ muốn lấy lại cái nhẫn mà thôi".
"Cô hãy gọi tên anh ta đi, anh ta sẽ đến với cô".
"Tôi sẽ bị trừng phạt. Tôi sẽ ra đi"
"Cô đi đâu?"
"Ðến Loch Catherine, tôi cảm thấy hạnh phúc ở đó".
"Với ai?"
"Anh ấy muốn đưa tôi tới đó. Chúng tôi sẽ tính đến chuyện ra đi".
"Cô dự định đi đâu nếu có thể đi được?"
"Ði khỏi Perth".
"Ði khỏi Perth rồi về đâu?"
"Anh ấy thích đến Luân Ðôn".
"Anh ta làm nghề gì?'
"Anh muốn trở thành một kiến-trúc-sư".
"Anh ta có đi học chưa?"
"Có học sơ sơ thôi vì không được phép".
"Anh ta không thuộc dòng dõi quý tộc?"
"Anh cũng thuộc dòng dõi quý tộc nhưng cha anh không muốn anh làm nghề đó".
"Tại sao cô chỉ nhập vào Pamela lúc 18 tuổi, tại sao cô không nhập vào sớm hơn?"
"Vì ở tuổi này cô ấy mới trưởng thành và có thể ra đi".
"Cô có thể giúp cô ta tới đó không? Tại sao cô phải tìm đến tôi?"
"Vì có thể ông giúp cô ấy được".
"Cô muốn tôi phải làm gì?'
"Tôi muốn trở về".
"Nếu tôi hứa giúp cô trở về, cô sẽ cho tôi biết tên người bạn trai của cô nhé!"
"Tôi có thể trở về à?"
"Tôi sẽ cố gắng tìm cách để cô trở về, phải tôi đã có liên lạc với nơi đó và biết cô nói thật".
"Pamela sẽ đưa tôi về à?"
"Tôi sẽ cố gắng để Pamela đua cô trở về trong vòng một năm".
"Tôi phải đợi lâu quá".
"Cô đã đợi bao lâu rồi?"
"Cả hàng trăm năm rồi"
"Vậy cô cố gắng chờ thêm một năm nữa đi, thời gian đã trôi qua, có lẽ cái nhẫn cũng không còn ở chỗ có nữa rồi làm sao đây?"
"Tôi sẽ tìm và tìm cho bằng thấy".
""Bây giờ cô có sung sướng được nhập trong thể xác của Pamela không? Cô có được Pamela ưng thuận không? Cô có thích là cô ấy không?"
"Chỉ với mục đích được trở về mà thôi".
"Tôi hãy còn tò mò muốn biết tại sao lại như thế, và bằng cách nào cô đã tìm ra cô ấy (Pamela) ở đây. Cô có biết cô đang ở nuớc nào không?"
"Không".
"Cô nghĩ rằng cô đang ở đâu? Cô có biết tên của nước mà cô đang ở không? Không phải là Tô Cách Lan đâu".
"Tôi không phải ở trong quần đảo đâu".
"Không, cô có biết từ khi cô còn sống cho đến nay, một thời gian dài đã trôi qua, cô có bao nhiêu lâu rồi không?"
"Hàng trăm năm".
"Cô có thể cho tôi biết tên người trẻ tuổi ấy không?"
"Tôi không tìm thấy anh ấy, ông cũng không thể mang anh ấy trở lại đượcc".
"Cô hãy kể cho tôi biết cái âm mưu đã làm cô sợ hãi? Ai đã nhúng tay vào vụ này?"
"Cha tôi chỉ cho biết họ là những người chống lại cha tôi".
"Ai?"
"Tôi chỉ biết cha tôi là Gowrie thôi".
""Cha cô ở cấp bậc nào?"
"Tôi không rõ, khi họ đến tôi phải vào tháp canh".
"Và khi gọi cô, họ gọi thế nào?"
"Tôi muốn cha tôi trở lại".
"Tôi sẽ giúp cô. Cô có thể nói cho tôi biết tên cô được không, tên thật của cô đó?"
"Tôi phải tìm trong cuốn Thánh Kinh".
"Cô đi tìm trong cuốn Thánh Kinh đi và nói cho tôi biết Thánh Kinh viết gì?"
"Không, tôi phải đi gặp ông ta ".
"Cô sẽ gặp ông ta, nếu như ông ta bằng lòng để cô gặp ông ta"
"Không, tôi muốn gặp Peter".
"Peter, ông hãy đến với cô đi. Nếu ông đã tái sanh, nói cho cô ấy biết, hiện giờ ông ở đâu để rồi cô ấy có thể đến với ông được. Ông hãy nói như thế này: Tôi, nói tên ông, muốn gặp cô. Rồi ông đó sẽ đến với cô."
"Chúng tôi không thể nói cho ai biết được ".
"Chỉ có tôi và cô là hai người biết mà thôi".
"Không, khi chúng tôi rời lâu đài, mẹ tôi nói "không" ".
"Nói tên cô đi?"
"Không, tôi sẽ bị đánh".
"Những người hầu gọi tên cô thế nào?"
"Họ thường gọi tên tôi là Ruthven".
"Nhưng khi cô có mặt tại đây, họ gọi cô thế nào?"
"Họ thường chỉ gọi tôi bằng chữ 'Thưa Cô' ".
"Cô nào? Tên thánh của cô là gì?"
"Tôi không thể nói được".
"Nhưng cô biết phải không?"
"Phải".
"Chữ đầu tiên của tên cô là gì? Cô hãy đánh vần chữ đầu tiên tên cô đi?"
"Tôi sẽ bị trừng phạt".
"Cô đâu có bị trừng phạt khi nói tên của mình. "Cô muốn tìm cái nhẫn phải không? Còn tìm cái gì nữa không?"
"Không".
"Nếu tôi hỏi cô một câu, cô có hứa là trả lời tôi thành thực không?"
"Ðược".
"Cô có phải là Beatrix không?"
"Tôi không nói được".
"Cô phải nói phải hay không phải".
"Tôi sẽ bị trừng phạt".
"Cô sẽ không bị trừng phạt vì cô có nói tên cho tôi biết đâu? Cô chỉ trả lời đúng hay sai mà thôi. Nếu cô nói là đúng, đó là sự thật, mà nếu cô nói là sai thì cũng là sự thật vậy, còn như nếu cô không nói sự thực thì chính cô đã bội thệ và cô sẽ bị đọa xuống địa ngục. Cho nên tốt hơn là cô nên nói sự thực. Lần này là lần thứ ba cũng là lần cuối cùng tôi hỏi có phải cô là Beatrix không?"
"Phải".
"Bây giờ tôi để cô đi và tôi sẽ để ý đến chuyện đó càng sớm càng tốt để cô có thể trở về nhìn thấy nơi mà cô ưa thích"
"Vâng".
"Chúc cô lên đường bình an".
Sau khi Pamela tỉnh dậy, Pamela không nhớ một tý gì về cuộc thôi miên này. Tôi hỏi Pamela vì đâu mà lại đặt tên là Pamela.
"Mẹ tôi không muốn tôi có một tên trùng với bất cứ người nào trong gia đình. Mẹ tôi xem báo, thấy có một cô gái tên là Pamela sắp thành hôn, nên mẹ tôi đã lấy tên này để đặt cho tôi".
"Bây giờ tôi đọc vài cái tên phụ nữ, cái tên nào thấy quen quen hoặc cần chú ý, thì Pamela cho tôi biết".
""Dorothy hay Dorothea?"
""Bà ngoại của tôi tên là Dorothy".
"Cô có thích tên này không?"
"Cũng được".
"Thế nào về tên Barbara?"
"Không".
"Thế nào về Beatrix?"
"Tên này rất dẹp, tôi thích tên này".
"Cô thích tên này hơn tất cả tên khác phải không?"
"Phải, nếu mọi người tôi là Bea, tôi cũng không cần để ý đến cách gọi này."
Những gì tôi thâu lượm được qua cuộc thôi miên thật là kỳ thú. Bây giờ tôi hiểu chữ "Handsel" là cái nhẫn. Với thiếu nữ, cái nhẫn này rất quý vì là của người yêu tặng cho cô. Tôi biết rằng cô ta không chịu nói tên, nên cách tốt nhất là nêu một vài tên. Mặc dầu tôi không coi việc tìm tên như là kết quả của một bằng chứng, nhưng qua nội dung của cuộc điều tra, cô ấy đã tỏ ra phản ứng với cái tên Beatrix hơn là các tên khác trong khi tôi nói với cùng một âm điệu.
Một lúc sau, Pamela ngồi dậy và cùng uống cà phê với tôi. Ðến đây tôi liền bóc cái thư mới nhất của Bà Elizabeth Byrd, nhận được ngày hôm qua ở Nữu Uớc. Kèm theo bản tin của nhà Quý Tộc Lyon Of Scotland chuyên phụ trách các đơn đòi tiền bồi hoàn các vũ khí của các gia đình quý tộc. Bản tin như sau:
"Người con gái có mệnh danh "Cái Nhảy Của Người Trinh Nù" tại Huntingtower tên là Dorothea. Cô này lấy ông John Vemyss ngày 8 tháng 6 năm 1609 tại Pittencrieff. Dorothea là người con thứ 13 song chưa phải là con Út, còn về tin tức của Barbara, người con thứ 14 là đứa con út trong gia đình có thể tìm thấy tại trang 266 và 267 trong cuốn "Four Of the Scots Peerage".
Báo cáo của Nhà Quý Tộc Lyon of Scotland đương nhiên là không đầy đủ chi tiết về những cô con gái của Bá Tước Gowrie. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Theo như "Cô" Gowrie nói đến cái nhảy của thiếu nữ có phải chính Pamela là thiếu nữ đã nhảy cái nhảy nổi tiếng đó không? Cũng có thể là một người con gái khác đã bị suy nhược và bị rớt trong khi đó có một thiếu nữ khác nữa đã nhảy thành công.
Sau khi kiểm soát lại các dữ kiện mà người con gái giòng họ Gowrie nói cho tôi tại Chicago thì là người đã bị ngã chết tại bờ thành lâu đài Gowrie không phải là cô gái đã nhảy thành công để đi tìm tình yêu, cho nên bằng chứng ở chỗ này có phần không rõ ràng. Trong cuốn The Fortified House In Scotland (Những Thành Quách của Tô Cách Lan) của Nigel Tranter có nói đến những bức tường thành, đến những lâu đài mà không nói đến huyền thoại về cái nhảy của một thiếu nữ; do đó tôi nghĩ rằng "Cái Nhảy của Người Trinh Nù" đã không được mấy phổ thông.
Trước khi chia tay Pamela, tôi nói cô hãy lưu ý đến tất cả các việc xảy ra sau cuộc thí nghiệm thôi miên và yêu cầu cô cố gắng ghi nhớ sau này sợ rằng có thể cuộc thôi miên có hậu quả làm trí nhớ bị kích động.
Bốn ngày sau tôi có nhận được một lá thư của Pamela. Bấy giờ tôi có nói cho cô biết là những ký ức của cô về Tô Cách Lan đã được các nhà chuyên viên xác nhận là đúng, và kiếp trước cô là một trong những người con gái của Bá Tước Gowrie. Vì vậy những sự cô đã biết không còn giá trị thực tiễn nữa. Thư của cô như sau:
"Tôi không biết sự việc này có giá trị hay không, nhưng tôi cảm thấy cần phải cho ông biết. Vào khoảng 2 giờ 30 sáng, tôi tỉnh dậy vì một giấc mơ, giấc mơ như thật đối với tôi. Trong giấc mơ tôi thấy tôi đang cuỡi ngựa đi đến một nơi mà tôi không biết nhưng cảm thấy quen quen. Cho ngựa chạy chừng 40 dậm, tôi dừng lại buộc ngựa vào một cái cây. Tôi bắt đầu đi bộ, hình như đây là một thung lũng nhưng có nhiều cây. Tôi nhìn thấy núi bao quanh. Trong lúc tôi đi bộ, có nhiều gai hay cái gì đó nhọn đã đâm vào chân tôi. Tôi lại gần một con sông và bắt đầu chạy. Rồi tôi thấy tôi nằm trên giường. Ðiều làm tôi sợ là chân tôi hầu như bị báng rất đau đớn. Sau đó tôi tỉnh dậy vì những tiếng kêu than khủng khiếp mà tôi nghĩ là các tiếng động này có thể làm cho cả lối xóm thức dậy.
Có hai chữ đã in sâu vào tâm trí tôi. Một chữ là Dab hay là Daba. Tôi không biết chữ này từ đâu đến, nhưng hình như chữ này làm cho tôi khó chịu. Còn chữ thứ hai là "Beitris", chữ này tôi thấy rất rõ trên trần nhà đêm qua khi các đèn trong phòng đã tắt cả. Tôi không hiểu các việc trên có nghĩa gì không, song tôi cứ viết thư cho ông"
Tôi cũng không hiểu những chữ trên đây nên tôi đã nhờ Bà Elizabeth Byrd tìm hộ trong cuốn tự điển Jamison's English-Scottish. Dadown có nghĩa là rơi xuống rất mạnh với tiếng dộng. Có thể là ám chỉ cái ngã tàn khốc của người con gái nhảy từ bờ tường lâu đài Gowrie nhưng cũng có chữ Dablet có nghĩa là con quỷ hay con yêu tinh nhỏ. Không biết có phải là Bà Alanna Knight đã mô tả người thiếu nữ này khi Bà nhìn thấy trong ảo giác không?
Ðầu tháng 11, Pamela lại thấy một giấc mơ khác nữa. Hình ảnh trong giấc mơ thấy hai lần đã in sâu vào trí nhớ của cô và cô hơi lo lắng về lời dặn dò như sau:
"Ngươi sẽ bị chết bởi Newa Vleen", cô gái nói trong giấc mơ. Pamela tự hỏi ai sẽ chết - cô gái có mái tóc đỏ hay là chính cô - và Newa Vleen có nghĩa gì?
Ngày 30 Tháng 4 Năm 1972, tôi nhận được một lá thư của Bà A. McDougall, Bà này sống tại Perth, Tô Cách Lan đã soi sáng cho những lời khai của Pamela:
"Người ái nữ đề cập chính là ái nữ của Bá Tước Ruthven IV được phong hiệu Bá Tước Gowrie sau khi ông cùng với Nam Tước Lindsay tháp tùng Hoàng Hậu Mary tới Loch Leven và đã lấy danh nghĩa của Hoàng Hậu thành lập một uỷ ban để lật đổ chính phủ.
Người thiếu nữ trẻ tuổi đã làm bước nhảy nổi tiếng thời ấy, bỏ gia đình, đi theo người yêu là Ðịa Chủ James Vemyss tại Pittencrieff là nơi tiếp cận với Loch Katrine ở Trossachs.
Chữ Newavleen có nguồn gốc từ chữ Jacobite mà bây giờ gọi là Gaelic. Tôi đã tra cứu trong sách vở và đi đến kết luận là Tô Cách Lan không có địa danh Newav. Nieve rất có thể đọc là Newav ở Tô Cách Lan có nghĩa là nắm tay. Linn nghĩa là chỗ thắt lại của giòng nước lỡ hay một thác nước và được đọc là Leen. Ðó là nghĩa chữ Newavleen.
Còn về câu trích dẫn "Thà là để trẻ khóc còn hơn là để người già phải khóc", đó là câu tuyên bố của một lãnh chúa ở Glamis trước mặt Vua James VI, câu này nổi tiếng trong Lịch Sử Tô Cách Lan vì Nam Tước Ruthven nổi lên tấn công bất ngờ.
Bá Tước Gowrie cùng một số hầu tước đã sắp xếp một kế hoạch để giải thoát Vua James VI - khi nhà Vua còn nhỏ tuổi - ra khỏi đám cận thần vô dụng. Sau cuộc đi săn ở Athol trên đường về, nhà Vua bị bắt đưa về lâu đài Ruthven. Lúc sắp sửa khởi hành, nhà Vua bị những nhà Quý tộc chận đường trình lên một bản kiến nghị bầy tỏ lòng phẫn uất của họ. Nhà Vua đã cố tự mình giải thoát khỏi sự câu thúc của họ rồi bật khóc. Vị lãnh chúa Glamis (cầm đầu cuộc bắt giữ nhà Vua) đã nhận xét là "Thà để trẻ con khóc còn hơn là để người già phải khóc". Các nhà quý phái đã mang nhà Vua đi nhưng nhà Vua trốn thoát và lại tìm về với Bá Tước Arran. Mặc dầu nhà Vua có thông qua một đạo luật ân xá cho những nhà quý phái dính líu đến việc bắt giam nhà Vua, nhưng sau đó trong một phiên tòa trá hình tại Stirling, Vua đã kết tội âm mưu làm phản, đã lên án tử hình Bá Tước Gowrie.
Ngày 21 Tháng Ba Năm 1970, Pamela báo cáo một "bộc phát bất ngờ" về cô gái Tô Cách Lan.
Cô thiếu nữ này lại nói nữa. Tôi muốn cho ông biết vài tên mà tôi không biết là chính cô thiếu nữ ấy nói ra hay tự tôi đã tưởng tượng.
Những tên này là: Lord Patrick, Bá Tước William, Bá Tước Hom. Rồi Saint John's Stone và Black Pike có nghĩa gì không? Và thiếu nữ đó cũng nói về làm một cái gì vinh danh cho Hoàng Hậu.
Với Pamela cho đến nay, tôi chưa hề cho cô biết về tiền thân của cô ngoại trừ các việc có liên quan đến Tô Cách Lan mà thôi, cho nên tôi rất thích thú với tin tức này. Tôi đã liên lạc với các bạn tôi ở Aberdeen để sưu tra.
Sử Gia C.I.A. Ritchie, trong một bức thư đề ngày 14 Tháng 4 năm 1970 đã báo cho Bà Elizabeth như sau:
Bá Tước William có lẽ là Bá Tước William of Douglas bị Vua James giết chết. Bá Tước Hom là Bá Tước Hume hay Home. Bá Tước đầu tiên giòng họ Home 1566-1619. Nam Tước Patrick tức Nam Tước Gowrie III là phụ thân của Bá Tước Gowrie. Saint John's Stone tức St Johnstone, địa danh của Perth.
Alanna Knight và chồng Bà đã khám phá ra tên Thị Xã của Perth là St John's Town, thị xã này cách xa Hintingtower 2 dậm. Qua Tiến Sĩ Margaret Steward, nhà khảo cổ sống tại Perth, Ông Bà Knight cũng khám phá ra chữ "Black Pike" có thể là chữ "Black Park", một miếng đất có tòa lâu đài cổ ở cách Huntingtower chừng 4 dậm về phía bắc.
Không phải để nhấn mạnh quan điểm của tôi, nhưng làm sao một người con gái 20 tuổi với trình độ học vấn trung học, một công nhân bệnh viện ở Illinois, Hoa Kỳ lại có thể biết được rõ ràng từng chi tiết của một nơi hẻo lánh nhỏ bé tại Tô Cách Lan trừ phi chính cô đã sống tại đó trước kia?
-HẾT-
 


No comments:

Post a Comment