Saturday, May 31, 2014

NGHỆ THUẬT TẠO HẠNH PHÚC THE ART OF HAPPINESS - Phần Cuối

Tác Giả: ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA và Bác Sĩ HOWARD C. CUTLER
Dịch Giả: Tỳ kheo THÍCH TÂM QUANG

PHẦN IV

VƯỢT QUA CÁC CHƯỚNG NGẠI
(tiếp theo)


CHƯƠNG 14

ĐỐI TRỊ VỚI LO ÂU VÀ XÂY DỰNG LÒNG TỰ TRỌNG

Người ta đánh giá rằng trong một đời người, ít nhất một phần tư người Mỹ bị suy nhược bởi lo ấu hay lo lắng đủ nghiêm trọng theo tiêu chuẩn chẩn bệnh y tế về chứng lo ấu. Nhưng ngay cả những người chưa bao giờ bị chứng bệnh lo ấu hay tình trạng bất lực trước lo ấu vào lúc này hay lúc khác, sẽ trải qua nhiều mức độ phiền muộn và lo ấu thái quá mà không đáp ứng được mục đích hữu ích nào cả và chẳng tác dụng gì cả ngoài việc xói mòn hạnh phúc và ngăn cản khả năng đạt mục tiêu.
Bộ não con người được trang bị với một hệ thống phức tạp dành để ghi nhận những cảm xúc sợ sệt và lo lắng. Hệ thống này đáp ứng một chức năng quan trọng - nó huy động chúng ta phản ứng với nguy hiểm bằng cách phát động hàng loạt những phản ứng sinh lý và sinh hóa. Khía cạnh thích ứng cho lo lắng là làm cho chúng ta biết trước nguy hiểm và có hành động phòng ngừa. Cho nên, một số loại sợ hãi, và mức lo ấu nào đó có thể là lành mạnh. Tuy nhiên, cảm xúc sợ hãi và lo ậu có thể dai dẳng và thậm chí leo thang khi không có đe dọa đích thực, và khi những cảm xúc này phát triển không cân xứng với bất cứ nguy hiểm thực sự nào, chúng trở thành thích ứng sai. Lo ấu và lo lắng thái quá giống như giận dữ và sân hận có thể có những tác động tàn phá đến tâm và thân, trở thành nguồn khổ đau nhiều về xúc cảm và cả đến bệnh về thể chất.

Về mặt tinh thần lo ấu kinh niên có thể làmsuy yếu phán xét, tăng tính dễ nổi cáu, và cản trở toàn bộ tính hiệu quả của ta. Nó cũng dẫn đến những vấn đề về thể chất gồm có giảm chức năng miễn dịch, bệnh tim, rối loạn ruột dạ dày, mệt mỏi, cơ bắp căng thẳng và đau đớn. Những rối loạn của lo ấu chẳng hạn, cho thấy đã gây còi cọc cho sự phát triển của các thiếu nữ..
Trong việc tìm các chiến lược đối trị với lo ấu, trước hết chúng ta phải công nhận rằng như Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ vạch ra, có nhiều nhân tố góp phần làm tăng thêm sự lo ấu. Trong một vài trường hợp, có thể là một thành tố sinh học mạnh mẽ. Một số người dễ bị thương tổn thần kinh khi trải qua trạng thái lo nghĩ và lo ấu. Các nhà khoa học gia mới khám phá ra, "gien" (di truyền) liên quan đến những người hay lo lắng và suy nghĩ tiêu cực. Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp về độc tố lo lắng đều do nguyên nhân di truyền, mà hầu như chắc chắn là học tập và tình huống cũng đóng một vai trò lớn trong nguyên nhân gây bệnh.
Nhưng dù cho sự lo ấu của chúng ta chủ yếu là bẩm sinh thể chất hay tâm lý đi nữa, thì tin vui là chúng ta vẫn có cách để chữa trị. Trong những trường hợp lo ấu trầm trọng, thuốc men có thể là một phần hữu dụng trong chế độ điều trị. Nhưng hầu hết trong chúng ta phiền muộn bởi lo nghĩ và lo ấu dai dẳng hàng ngày sẽ không cần can thiệp bằng thuốc. Những chuyên viên về điều trị lo ấu nhận thấy phương pháp giải quyết đa diện là tốt nhất. Trước hết nó gồm có việc loại bỏ việc xem tình trạng sức khỏe cơ bản có phải là nguyên nhân gây ra lo ấu. Tác động cải thiện bằng cách ăn uống cho thích hợp và tập luyện cũng rất kiến hiệu. Và, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhân mạnh, trau dồi tình thương và tăng cường quan hệ với người khác cũng thúc đẩy tinh thần phân khởi và chống lại được trạng thái lo ấu.
Tuy nhiên trong công việc tìm kiếm những chiến lược thực tiễn để khắc phục lo ấu, một kỹ thuật nổi bật là có hiệu quả đặc biệt: can thiệp bằng nhận thức. Đó là một trong những phương pháp chính mà Đức Đạt Lai Lạt Ma áp dụng để khắc phục phiền muộn và lo ấu hàng ngày. Áp dụng cùng một phương pháp để chế ngự giận dữ và sân hận, kỹ thuật này đòi hỏi tích cực không chấp nhận những ý nghĩ phát sanh lo ấu và thay thế chúng bằng ý nghĩ và thái độ tích cực và hợp lý.
Vì lo ấu lan tràn trong văn hóa của chúng ta, tôi hăm hở nêu đề tài này ra với Đức Đạt Lai Lạt Ma để xem Ngài đối trị nó ra sao. Lịch trình của Ngài vào ngày đó rất bận nên tôi cảm thấy sự lo lắng của chính tôi cũng tăng lên, trước cuộc phỏng vấn, tôi được người thư ký của Ngài báo phải rút ngắn cuộc nói chuyện ngày hôm nay. Cảm thấy bị áp lực vì thời giờ và lo không thể nói hết những đề tài mong muốn,, tôi ngồi nhanh xuống và bắt dầu trở lại xu hướng lúc hỏi lúc không để cố lấy ra được những câu trả lời đơn giản của Ngài.
"Ngài biết, sợ hãi và lo ấu là chướng ngại chính trong việc hoàn thành mục tiêu của chúng ta,liệu chúng là mục tiêu bên ngoài hay là sự tiến triển bên trong. Trong khoa tâm thần chúng tôi có nhiều phương pháp giải quyết vấn đề này, nhưng tôi vẫn muốn biết quan điểm của Ngài, cách tốt nhất để khắc phục sợ hãi và lo ấu là gì ?
Không đồng ý việc quá đơn giản hóa vấn đề theo ý tôi, Ngài trả lời bằng phương pháp rất đặc trưng.
"Khi đối trị với sợ hãi, trước nhất chúng ta cần phải biết có nhiều loại lo sợ. Có những loại sợ rất chính đáng, căn cứ vào những lý do hợp lý, thí dụ như sợ bạo lực, sợ đổ máu. Chúng ta có thể thấy những điều ấy rất là xấu. Rồi có những sự lo sợ về những hậu quả tiêu cực xẩy ra sau này từ những hành động tiêu cực của ta, sợ khổ sở, sợ những cảm xúc tiêu cực như sân hận. Tôi nghĩ đó là những loại sợ hãi đứng đắn, những loại sợ hãi này đưa chúng ta vào chánh đạo, giúp chúng ta tiến tới thành người có lòng tốt." Ngài ngừng lại suy nghĩ và trầm ngâm: "Mặc dù trong một ý nghĩa nào đó đây là những loại lo sợ, tôi nghĩ có khác biệt giữa sự lo sợ những điều ấy và sự tìm hiểu của tâm về tính chất phá hoại của những điều ấy".
Ngài ngừng lại hồi lâu, và có vẻ cân nhắc, trong khi tôi lén nhìn vào đồng hồ đeo tay. Rõ ràng là Ngài không cảm thấy thì giờ đã hết như tôi. Cuối cùng Ngài tục nói một cách thong thả.
"Mặt khác có những loại sợ hãi do chính tinh thần chúng ta tạo nên. Những loại lo sợ này hoàn toàn dựa trên hình chiếu tinh thần. Thí dụ như có nhiều cái sợ hãi rất con nít; Ngài cười, "như khi còn nhỏ, đi qua chỗ tối, nhất là các phòng tối trong điện Potola thì thấy sợ [*] -- cái sợ này hoàn toàn do tưởng tượng. Hay khi còn nhỏ những người quét tước và trông nom tôi thường khuyến cáo tôi có con chim cú hay bắt trẻ con ăn thịt", Đức Đạt Lai Lạt Ma cười to hơn nữa ."Và tôi tin là họ đã nói thật".
[*] Potola là cung điện mùa đông truyền thống của Đức Đạt Lai Lạt Ma, biểu tượng của di sản lịch sử và tôn giáo Tây Tạng. Dược Vua Tây Tạng là Song-Tsen Gampo xấy dựng vào thế kỷ thứ 7, sau này bị phá hủy và không được xây dựng lại đến tận thế kỷ thứ 17 của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Công trình hiện thời đứng uy nghiêm với chiều cao 440 feettren đỉnh "Đồi Đỏ ở Lhasa. Dài hơn 1/4 dặm, có trên 1000 phòng, lễ đường, và phòng nhỏ.
Ngài tiếp tục, " Có những loại lo sợ khác căn cứ vào tưởng tượng, Thí dụ nếu bạn có những cảm tưởng tiêu cực do tình trạng tinh thần, rồi bạn suy bụng ta ra bụng người, thấy người này có vẻ tiêu cực và thù nghịch. Kết quả, bạn cảm thấy sợ hãi. Loại sợ hãi này, tôi nghĩ liên quan đến sân hận và hầu như dẫn đến sự sáng tạo tinh thần. Cho nên, đối trị lo sợ trước hết bạn cần phải sử dụng khả năng suy luận và cố gắng khám phá xem có cơ sở vững vàng nào để bạn sợ không"
Tôi hỏi, "Vậy thì, thay vì quá lo sợ, hay tập trung lo sợ vào một cá nhân hay tình huống, nhiều người trong chúng tôi bị khó chịu nhiều hơn là những lo lắng lan truyền đang diễn ra về nhiều vấn đề hàng ngày. Vậy Ngài có gợi ý gì về cách giải quyết chúng không?"
Gật đầu Ngài đáp, "Một trong những cách giải quyết mà chính tôi thấy rất hữu hiệu để giảm bớt loại lo lắng này là trau dồi tư tưởng: nếu thấy tình huống hay khó khăn có thể sửa chữa được thì không cần phải lo lắng. Nói một cách khác, nếu có giải pháp hay có lối thoát khỏi khó khăn, thì ta không cần để nó áp đảo. Hành động thích hợp là tìm ra giải pháp. Sáng suốt hơn là tập trung năng lực tìm giải pháp hơn là lo lắng về vấn đề. Còn nếu không có cách giải quyết nào thoát ra khỏi khó khăn, thì cũng không có lý do gì phải lo, vì dù sao đi nữa ta cũng đâu làm được điều gì hơn. Trong trường hợp đó, nếu bạn chấp nhận sự thật càng sớm thì bạn càng cảm thấy dễ chịu hơn. Dĩ nhiên công thức này ngụ ý, ta nên trực tiếp đương đầu với vấn đề. Nếu không bạn sẽ không thể thấy liệu có cách nào để giải quyết không."
"Còn như đã nghĩ như vậy mà vẫn không làm dịu bớt được sự lo lắng thì ta phải làm sao?"
"Vậy thì bạn phải suy nghĩ về những ý nghĩ này một chút nữa và phải củng cố những ý nghĩ này. Hãy liên tục tự nhắc nhở mình. Dù sao tôi nghĩ rằng phương pháp này có thể giúp giảm lo lắng, nhưng không phải lúc nào nó cũng có kết quả. Nếu bạn đang đối phó với sự lo lắng đang diễn ra, tôi nghĩ bạn cần phải xét đến vấn đề một cách cụ thể. Có nhiều loại lo lắng và nguyên nhân khác nhau. Thí dụ như có những loại lo lắng và bối rối có thể vì lý do sinh học; như có người bị mồ hôi ướt lòng bàn tay mà hệ thống y khoa Tây Tạng cho đó là sự mất quân bình tinh vi về mức độ sinh lực. Có vài loại lo lắng giống như suy nhược, có thể có nguồn gốc sinh học, và đối với những loại này, cách điều trị y tế có thể có ích cho loại này. Do đó, để đương đầu với lo lắng một cách có hiệu quả, bạn cần xem xét về kiểu loại và nguyên nhân.
Giống như sợ sệt, lo lắng có nhiều loại khác nhau. Thí dụ như loại lo lắng mà tôi cho là thông thường bao gồm sự lo sợ tỏ ra khờ dại truớc mặt người khác hay sợ người khác nghĩ xấu về mình."
Tôi ngắt lời: "Ngài có bao giờ sợ hay lo lắng như thế không?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma cười phá lên và không hề do dự, trả lời: "Có chứ"
"Xin Ngài cho một thí dụ"
Ngài nghĩ một chút rồi nói: "Thí dụ như năm 1954, ở Trung Quốc, vào ngày đầu tiên gặp Chủ Tịch Mao Trạch Đông, và trong một dịp khác gặp Chu Ân Lai. Lúc ấy tôi không biết hết mọi nghi thức và tập quán ngoại giao. Thủ tục thông thường của cuộc gặp là bắt đầu bằng vài câu xã giao rồi mới đi vào phần thảo luận công việc. Nhưng lúc đó, tôi bối rối đến nỗi mới ngồi xuống đã nhảy ngay vào công việc! Đức Đạt Lai Lạt Ma cười khi nhớ lại chuyện này."Tôi còn nhớ là sau đó, người phiên dịch của tôi, một người cộng sản Tây Tạng, rất đáng tin cậy và là người bạn tốt, đã nhìn tôi cười và chế nhạo tôi về chuyện ấy.
"Tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ, trước buổi thuyết giảng hay nói chuyện trước công chúng, tôi vẫn cảm thấy hơi lo, cho nên những phụ tá của tôi hay nói, "Nếu vậy tại sao Ngài lại nhận lời mời thuyết giảng.?" Ngài lại cười.
Tôi hỏi: "Vậy bản thân Ngài, Ngài làm sao để đối phó với loại lo lắng này?"
Với giọng nói bình thản, Ngài nhỏ nhẹ: "Tôi không biết" .. Ngài ngập ngừng, và chúng tôi ngồi lặng thinh một lúc lâu, và một lần nữa, Ngài có vẻ cân nhắc và ngẫm nghĩ thận trọng. Cuối cùng, Ngài nói: "Tôi nghĩ rằng có một động cơ thích hợp và thành thật là những điều chủ yếu để chế ngự những loại sợ hãi và lo lắng này. Do đó, nếu tôi lo lắng trước buổi nói chuyện thì tôi sẽ tự nhắc nhở mình lý do chính yếu, mục đích của buổi giảng, là ít ra cũng trình bày được một vài lợi ích cho người khác chứ không phải là khoe kiến thức của mình. Vậy thì cái gì tôi biết, tôi sẽ giải thích. Còn những gì tôi không hiểu rõ ràng - thì đâu có hề gì; tôi chỉ cần nói "cái này khó đối với tôi". Không có lý do gì phải dấu diếm hay giả vờ. Từ quan điểm này với động cơ đó tôi không phải lo lắng về điệu bộ ngờ nghệch hay quan tâm đến chuyện người khác nghĩ gì về tôi. Do đó tôi thấy rằng động cơ thành thật là một loại thuốc giải để giảm bớt sợ hãi và lo lắng."
Vậy đôi khi sự lo lắng còn hơn là sợ cái vẻ khờ dại trước mặt người khác. Còn hơn cả sợ thất bại, cảm tưởng kém cỏi..." Tôi suy nghĩ một lúc để xem bộc lộ được bao nhiêu ý riêng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma chăm chú lắng nghe, gật đầu im lặng trong khi tôi nói, tôi không biết chắc Ngài nghĩ gì. Có thể đó là thái độ đồng tình, nhưng trước khi hiểu được, tôi đã chuyển việc thảo luận những vấn đề chung sang khẩn khoản xin lời khuyên của Ngài về cách đối phó với sợ hãi và lo lắng của chính tôi.
"Tôi không biết sao... đối với bệnh nhân có khi tôi thấy thật khó điều trị... những trường hợp không thể nào chẩn đoán được rõ ràng, như là suy nhược thần kinh hay những bệnh dễ trị khác. Có những bệnh nhân bị rối loạn tính cách nghiêm trọng như những người không chữa được bằng thuốc hay không có tiến triển nhiều với tâm lý trị liệu dù tôi đã hết sức cố gắng. Đôi khi tôi không biết làm gì với những người này, làm sao để giúp đỡ họ. Hình như tôi không thể nắm được chuyện gì xẩy ra cho họ. Việc này làm tôi tê liệt, phần nào bất lực." Tôi than phiền: "Tôi cảm thấy bất tài, và điều này thực sự gây ra một loại lo lắng nào đó",
Ngài lắng nghe tôi một cách nghiêm trang rồi hỏi với giọng thân mật: "Có phải ông nói rằng ông có thể giúp cho bẩy mươi phần trăm bệnh nhân của ông?"
Tôi trả lời: "Ít nhất là như vậy"
Vỗ nhẹ vào tay tôi, Ngài nói: "Vậy tôi nghĩ không có vấn đề gì ở đây. Nếu ông chỉ có thể giúp cho ba mươi phần trăm bệnh nhân, thì tôi khuyên ông nên nghĩ đến việc đổi sang nghề khác. Nhưng tôi nghĩ ông làm tốt lắm. Người ta cũng thường đến nhờ tôi giúp đỡ. Có nhiều người tìm kiếm phép mầu, hay phép lạ vân vân... và tôi không thể nào giúp hết mọi người. Nhưng tôi nghĩ vấn đề chính là động cơ thúc đẩy - có một động cơ thực sự trong việc giúp người. Rồi thì hãy cố làm hết sức của mình và không phải lo lắng gì nữa.
Về trường hợp của tôi, dĩ nhiên cũng có những tình thế dễ bị tổn thương hay nghiêm trọng, và một trách nhiệm nặng nề. Tôi nghĩ điều tồi tệ nhất là khi người ta đặt quá nhiều tin tưởng vào tôi trong những trường hợp ngoài khả năng của tôi. Trong trường hợp này, đôi khi tôi đấm ra lo lắng. Một lần nữa, chúng tôi quay trở lại ý nghĩa quan trọng của sự động cơ. Rồi tôi có gắng nhắc nhở mình trong chừng mực liên quan đến động cơ, hãy thành thật và cố gắng hết sức mình. Bằng động cơ thành thực, động cơ từ bi, cho dù tôi có gây lỗi lầm, hay thất bại thì cũng không có lý do gì để hối tiếc. Tôi đã cố hết sức làm tốt phần của tôi. Rồi, bạn sẽ thấy, nếu tôi thất bại, đó là vì tình thế vượt quá những cố gắng hết sức của tôi. Vậy động cơ thúc đẩy thành thật đó loại bỏ sợ hãi và cho bạn lòng tự tin. Mặt khác, nếu động cơ thầm kín là để lường gạt người ta, khi thất bại, bạn thực sự trở nên bối rối. Nhưng nếu bạn trau dồi động cơ từ bi, nếu bạn có thất bại, bạn không hối tiếc.
"Cho nên, nói đi nói lại, tôi nghĩ động cơ thích hợp có thể là cái bảo vệ, che chở cho bạn chống lại những cảm nghĩ sợ hãi và lo lắng. Động cơ quan trọng như vậy. Thực ra tất cả hành động của con người có thể được nhìn thấy bằng hoạt động, và động lực đằng sau tất cả những hành động là động cơ của ta. Nếu bạn phát triển một động cơ trong sáng và thành thật, nếu bạn được thúc đẩy bởi mong muốn giúp đỡ trên cơ sở của lòng nhân ái, từ bi và tôn trọng, thì bạn có thể thi hành bất cứ công việc gì, trong bất cứ lãnh vực nào, và hoạt động một cách hữu hiệu hơn với ít sợ hãi và lo lắng hơn, không sợ hãi gì về điều người ta nghĩ về bạn hay liêu cuối cùng bạn có đạt được mục tiêu hay không. Cho dù bạn không đạt được mục tiêu, bạn vẫn cảm thấy hài lòng vì bạn đã hết sức cố gắng. Nhưng bằng một động cơ xấu, người ta có thể khen bạn, hay bạn có thể đạt được mục tiêu, nhưng bạn vẫn không cảm thấy vui".
Trong việc bàn luận thuốc giải bệnh lo lắng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra hai phương cách trị liệu, mỗi phương cách tốt ở một mức độ. Cách thứ nhất liên quan đến việc tranh đấu tích cực chống lại sự tư lự và lo lắng kinh niên bằng cách áp dụng tư duy đề kháng: hãy nhắc nhở mình, nếu có cách giải quyết vấn đề thì không cần phải lo. Nếu không có cách giải quyết, thì cũng không có lý do gì phải lo.
Phương thuốc giải thứ hai là phương pháp trị liệu có tính cách bao quát hơn. Nó liên quan đến việc biến đổi động cơ tiềm ẩn của ta. Có một sự trái ngược đáng lưu ý giữa cách giải quyết về động cơ thúc đẩy con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma với tâm lý học Tây Phương Như đã thảo luận trước đây, các nhà nghiên cứu chuyện về động cơ thúc đẩy con người đã điều tra về những động cơ bình thường của con người, nhìn vào cả hai nhu cầu bẩm sinh và nhu cầu do biết được. Ở mức độ này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắm vào sự phát triển và sử dụng lòng ham học được để nâng cao "nhiệt tình và quyết tâm" của ta. Trong một số khía cạnh, nó giống như quan điểm của nhiều "chuyên gia về động cơ " truyền thống Tây Phương, tìm cách đẩy mạnh tinh thần hăng hái và quyết tâm đạt mục đích. Nhưng điều khác biệt là Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm cách xấy dựng quyết tâm và niềm say mê làm những hành động thiện nhiều hơn nữa, và loại bỏ những nét tinh thần tiêu cực hơn là nhân mạnh vào sự đạt được những thành công vật chất, tiền bạc hay quyền thế. Và có lẽ sự khác biệt nổi bật nhất là trong khi "những phát ngôn viên về động cơ" bận bịu thổi phồng lên ngọn lửa của những động cơ hiện có về những thành công vật chất, và những lý thuyết gia Tây Phương bận tâm đến việc phân loại những động cơ tiêu chuẩn của con người, thì mối quan tâm hàng đầu về động cơ con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nằm trong việc uốn nắn và thay đổi động cơ tiềm ẩn thành động cơ của từ bi và nhân ái.
Trong hệ thống huân luyện tâm và đạt hạnh phúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma, càng được thúc đẩy bởi lòng vị tha, thì càng ít sợ trước những hoàn cảnh thậm chí cực kỳ lo ấu dằn vặt. Nhưng có một ít cách có thể áp dụng như nguyên tắc này ngay cả khi động cơ thúc đẩy của bạn không hoàn toàn do lòng vị tha.Đứng xa ra và xem xét và chỉ cần chắc chắn là bạn không có ý hại người và động cơ thúc đẩy của bạn thành thực có thể giúp bạn giảm thiểu lo ấu trong hoàn cảnh bình thường hàng ngày.
Không bao lâu sau lần đàm thoại trên với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi ăn trưa cùng với một nhóm người gồm có một thanh niên trẻ mà tôi tôi chưa gặp trước đây, một sinh viên của một trường đại học địa phương. Trong bữa ăn này, có người hỏi tôi về đợt đàm luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma tiến triển ra sao và tôi có kể lại cuộc đàm thoại về việc khắc phục lo lắng. Sau khi im lặng nghe tôi miêu tả khái niệm về "động cơ thành thực là một thuốc giải cho bệnh lo lắng", người sinh viên giãi bày là anh thường khổ tâm vì nhút nhát và rất lo lắng trong giao tiếp xã hội. Suy nghĩ về cách áp dụng kỹ thuật này để vượt qua sự lo lắng của mình, người học sinh này thì thầm "Tốt tất cả điều đó rất hay. Nhưng tôi nghĩ rằng phần khó khăn thường là phải có động cơ cao thượng về nhân ái và từ bi.
"Tôi nghĩ điều đó rất đúng", Tôi phải thừa nhận.
Cấu chuyện chuyển qua những đề tài khác, và chúng tôi chấm dứt bữa ăn trưa. Tuần lễ sau đó tôi tình cờ lại gặp người sinh viên này cũng tại quán ăn này.
Lại gần tôi một cách niềm nở, anh ta nói, " ông có nhớ bữa trước chúng ta có nói về động cơ thúc đẩy và lo lắng? Tôi có đem thực hành và nó thực sự hữu hiệu! Có một thiếu nữ làm việc trong tiệm bán đồ tại khu bán hàng mà tôi đã gặp cô rất nhiều lần, lúc nào tôi cũng định mời cô đi chơi, vì quá e thẹn và lo lắng sợ cô từ chối nên không bao giờ dám hỏi cô. Vậy mà, hôm nọ, tôi đến gặp cô, nhưng lần này tôi bắt đầu nghĩ đến động cơ thúc đẩy đã mời cô đi chơi. Đương nhiên động cơ thúc đẩy là muốn hẹn hò với cô. Nhưng đằng sau đó chính là lòng mong ước của tôi có thể tìm thấy một người mà tôi thương yêu và người ấy cũng yêu tôi. Khi tôi nghĩ như vậy, tôi nhận thấy không có gì sai trái trong việc này, và động cơ thúc đẩy của tôi thành thực. Tôi không muốn làm hại cô hay chính tôi, mà chỉ mong những điều tốt lành. Ghi nhớ điều này trong tâm và tự nhắc nhở một đôi lần không hiểu sao nó có vẻ có ích khiến cho tôi đã có can đảm bắt chuyện với cô. Tim tôi đập mạnh, nhưng tôi cảm thấy tuyệt vời vì đã có thể can đảm để nói chuyện với cô"
Tôi nói, "Tôi rất vui được biết việc đó" "Rồi chuyện ra sao nữa?
"À thì ra cô ấy đã có bạn trai chính thức rồi. Tôi hơi thất vọng một chút nhưng không sao. Tôi cảm thấy vui vì đã có thể vượt qua được sự rụt rè e thẹn của tôi. Và việc này làm cho tôi hiểu rằng nếu tôi chắc chắn không có gì sai trái trong động cơ thức đẩy của tôi, và ghi nhớ điều này trong tâm, nó sẽ giúp tôi lần sau ở trong hoàn cảnh như vậy."
THÀNH THẬT LÀ THUỐC GIẢI ĐỘC CHO TỰ TI VÀ TỰ TÔN
Ý thức lành mạnh của tự tin là một nhân tố chủ yếu trong việc đạt mục tiêu của chúng ta. Điều này rất đúng dù mục tiêu của chúng ta là đạt được bằng cấp đại học, thành công trong công việc làm ăn, có quan hệ mỹ mãn, hay rèn luyện tâm trí để được hạnh phúc hơn. Thiếu tự tin cản trở những cố gắng tiến tới, đối đầu với thử thách và cả đến phải chấp nhận may rủi khi cần thiết để theo đuổi mục tiêu của chúng ta. Quá tự tincó thể ngang bằng với nguy hiểm. Những người khổ vì có ý nghĩ thổi phồng thái
quá khả năng và thành quả của mình luôn luôn bị ngã lòng, thất vọng, và nóng giận khi xâm nhập thực tế vàthiên hạ không chấp nhận giá trịcủa cách nhìn lý tưởng hóa về mình của những người ấy. Và họ lúc nào cũng gần như sắp bị đắm chìm trong suy nhược khi không thể sống theo hình ảnh lý tưởng của mình. Thêm vào đó, tính phô trương của những cá nhân này thường dẫn đến cảm giác có quyền hành hồ như hách dịch khiến họ cách biệt với những người khác và cản họ trong những mối quan hệ thoải mái về tình cảm.
Cuối cùng, đánh giá quá cao khả năng của mình có thể dẫn đến những hiểm họa. Như viên thanh tra Dirty Harry Callahan, trong tâm trạng bình thản, nói cho chúng ta biết trong phim Magnum Force (trong khi theo dõi tên vô lại quá tự tin nên đã tự hại mình), " Mỗi một người phải biết giới hạn của mình".
Trong truyền thống tâm lý trị liệu ở Phương Tây, các nhà lý luận gia đã gắn cả tự ti và tự tôn với những xáo trộn trong hình ảnh bản thân của con người và tìm nguyên nhân của những xáo trộn này trong cách nuôi dưỡng đứa trẻ lúc còn bé. Nhiều lý luận gia coi tự ti và tự tôn như hai mặt của một đồng tiền, quan niệm việc thổi phòng hình ảnh bản thân là sự phòng thủ vô thức chống lại cái bất an nằm ở dưới và những cảm nghĩ tiêu cực về mình. Những bác sĩ chuyên khoa phân tích tâm lý đã đặc biệt trình bầy những lý thuyết phức tạp về sự nhận định sai lạc bản thân mình xảy ra như thế nào. Họ giải thích hình ảnh bản thân mình ra sao khi người ta tiếp thu thông tin phản hồi từ môi trường. Họ cũng mô tả làm thế nào mà con người phát triển khái niệm mình là ai bằng cách kết hợp những thông điệp rõ rệt hay ngấm ngầm về mình từ cha mẹ họ và làm thế nào mà những sự xáo trộn có thể xẩy ra khi những tương tác lúc nhỏ với những người chăm sóc không được lành mạnh và không biết cách nuôi nâng.
Khi những xáo trộn về hình ảnh bản thân đủ trầm trọng để gây ra những vấn đề thật sự trong đời sống, nhiều người quay về với tâm lý trị liệu. Những bác sĩ tâm lý huân luyện về nhận thức tập trung giúp bệnh nhân giành được sự hiểu biết về những kiểu bất thường trong quan hệ lúc thơ ấu là nguyên nhân của vấn đề và cung cấp cho họ cách phản ứng thích hợp và trong môi trường điều trị mà bệnh nhân có thể từ từ khôi phục lại và sửa chữa hình ảnh bản thân tiêu cực của mình. Mặt khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại tập trung vào "nhổ mũi tên ra" thay vì tốn thì giờ xem ai bắn. Thay vì thắc mắc tại sao người ta lại tự ti và tự tôn, Ngài đưa ra một phương pháp đánh thẳng vào những trạng thái tâm tiêu cực.
Trong những thập niên gần đây, tính chất của cái ngã (cái tôi) đã là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong lãnh vực tâm lý học. Trong "thập niên của tôi", trong những năm 80, có hàng ngàn bài viết mỗi năm khám phá những vấn đề về tự ti và tự tôn. Nghĩ đến đó trong đầu, tôi đã đem ra hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma.
"Trong một buổi thảo luận của chúng ta, Ngài có nói khiêm tốn là một nét tích cực, và nó liên quan ra sao tới việc tu dưỡng tính kiên nhẫn và khoan dung. Trong khoa tâm lý Tây Phương và văn hóa của chúng tôi nói chung, dường như khiêm cung không được chú ý tới để phát triển những đức tính như mức tự trọng và tự tin cao. Thật ra ở Phương Tây, người ta đặt quá nhiều tầm quan trọng vào những thuộc tính này. Tôi chỉ thắc mắc - Vậy chứ Ngài có cảm thấy đôi khi người Tây Phương có khuynh hướng nhân mạnh quá mức vào tự tin, phần nào quá ham mê hay quá say mê?
"Không hẳn vậy" Ngài trả lời, mặc dù đề tài này có thể là khá phức tạp. Thí dụ, những bậc chân tu là những người đã phát nguyện hay phát triển quyết tâm loại bỏ tất cả những trạng thái tiêu cực của tâm hầu mang lại hạnh phúc tối thượng cho tất cả chúng sinh. Họ có tầm nhìn xa và khát vọng. Điều này cần có ý thức cảm giác tự tin to lớn. Và sự tự tin này rất quan trọng vì nó cho bạn gan dạ giúp bạn đạt được mục tiêu vĩ đại. Về một ý nghĩa nào đó, điều này dường như có vẻ là kiêu ngạo, mặc dù không phải trong phương cách tiêu cực. Nó căn cứ vào những lý do có cơ sở Cho nên, ở đây, tôi có thể coi họ là rất can đảm- Tôi có thể coi họ là những anh hùng".
"Vậy đối với vị đại đạo sư, cái vẻ kiêu ngạo bề ngoài chính ra hồ như là loại tự tin và lòng can đảm". Tôi chấp nhận. Nhưng đối với những người bình thường, trong những hoàn cảnh hàng ngày, lại là điều ngược lại - một số người có vẻ như rất tự tin và tự trọng nhưng thật ra họ chỉ là những người rất kiêu ngạo. Tôi hiểu rằng theo Phật Giáo, kiêu ngạo được xếp loại là một trong những xúc cảm cơ bản gây ra đau khổ. Thật vậy, tôi biết điều đó theo một hệ thống phân loại, họ liệt kê bảy loại kiêu ngạo khác nhau. Vậy tránh hay khắc phục kiêu ngạo được coi như rất quan trọng. Nhưng cũng như vậy khi có ý thực mạnh về tự tin. Đôi khi dường như giữa chúng chỉ có một ranh giới rất nhỏ.
"Làm sao Ngài có thể phân biệt được chúng để trau dồi cái này và giảm thiểu cái kia?"
Ngài thừa nhận, "Đôi khi thật là khó phân biệt giữa tự tin và kiêu ngạo, có lẽ chỉ có một cách là xem liệu nó có cơ sở hay không. Người có thể ý thức thấy mình hơn hẳn ai đó rất có cơ sở hoặc rất đứng đắn, điều đó có thể chứng minh được và điều đó có thể có cơ sở vững chắc. Và cũng có thể đó là ý thức cái ta được thổi phồng hoàn toàn vô căn cứ, thì đó lại là kiêu ngạo. Vấy nói theo tình trạng hiện tượng, chúng có vẻ giống nhau. "Nhưng một người kiêu ngạo luôn luôn cảm thấy mình có một cơ sở vững vàng về .."
Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận, "Phải, phải"
Tôi lại hỏi, "Vậy làm sao Ngài có thể phân biệt được?"
"Tôi nghĩ đôi khi chúng ta chỉ có thể phán xét bằng hồi tưởng hoặc bởi cá nhân đó hoặc từ cái nhìn của người thứ ba. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại rồi nói đùa, " Có thể người ấy phải ra tòa án để tìm ra có phải đó là trường hợp tự cao hay kiêu ngạo không! Ngài cười.
Ngài tiếp, "Muốn phân biệt tính tự cao tự đại và lòng tự tin đứng đắn, ta có thể nghĩ đến hậu quả về thái độ của người đó - tự phụ và kiêu ngạo thường dẫn đến những hậu quả tiêu cực trong khi lòng tự tin lành mạnh đem đến những hậu quả tích cực hơn nhiều. Do đó khi đề cập về tự tin, bạn cần nhìn xem cái gì là ý nghĩa tiềm ẩn của "cái tôi". Theo tôi ta có thể chia thành hai loại. Ý thức về bản thân hay "cái tôi" chỉ quan tâm đến đáp ứng quyền lợi bản thân, đến ham muốn ích kỷ của chính mình, và hoàn toàn không đếm xỉa đến phúc lợi của người khác. Một kiểu cái tôi khác hay ý thức về bản thân dựa vào mối quan tâm chân thành vì người khác và khao khát được giúp ích. Để thực hiện ước muốn giúp ích, ta cần có ý thức mạnh về bản thân, ý thức tự tin. Loại tự tin này dẫn đến những kết quả tích cực."
Tôi nhận xét, "Trước đây Ngài có đề cập đến cách giảm bớt kiêu ngạo hay hãnh diện, nếu thừa nhận kiêu ngạo là xấu và mong muốn khắc phục nó thì phải suy ngẫm về nỗi đau khổ của con người - suy nghĩ đến tất cả các cách mà bạn bị hay dễ bị đau khổ và vân vân... Ngoài cách suy ngẫm về nỗi đau khổ của con người, còn có những kỹ thuật nào khác hay thuốc giải độc đối với kiêu ngạo nữa không?
Ngài nói, "Có một cách giải độc là nghĩ đến tính đa dạng của việc rèn luyện trí óc mà bạn có thể không biết. Thí dụ như trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có rất nhiều môn học. Vậy nghĩ xem biết bao nhiêu lãnh vực mà bạn không biết, nghĩ như vậy bạn sẽ khắc phục được tính kiêu ngạo.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại và nghĩ rằng đó là tất cả những gì Ngài muốn nói về đề tài này, tôi nhìn vào quyển sổ ghi chép rồi chuyển sang đề tài mới. Đột nhiên Ngài lại nói với giọng đầy suy tư, "Bạn biết không, chúng ta đang nói về việc phát triển lòng tự tin lành mạnh.. Tôi nghĩ rằng sự thành thật và tự tin có liên hệ chặt chẽ với nhau". Tôi hỏi, "Ý Ngài muốn nói về thành thực với chính mình về khả năng của chính mình, hay ý Ngài muốn nói thành thật với người khác?"
Ngài trả lời, "Cả hai, bạn càng thành thật, càng cởi mở thì bạn càng ít sợ, vì không có lo lắng gì khi phơi bầy hay bộc lộ với người khác. Do đó tôi nghĩ càng thành thật lại càng tự tin".
Tôi nói, "Tôi muốn biết thêm một chút về sự đối trị với vấn đề tự tin của chính bản thân Ngài? Ngài nói dường như nhiều người đến yêu cầu Ngài làm phép lạ. Dường như họ đã đặt nhiều áp lực cho Ngài và có nhiều mong muốn nơi Ngài. Cho dù Ngài có một động cơ căn bản chính đáng, việc này không làm cho Ngài cảm thấy thiếu tin tưởng về khả năng của Ngài hay sao?"
"Ở đây, tôi nghĩ rằng bạn nên nhớ khi nói đến 'thiếu lòng tin' hay có 'lòng tin' liên quan đến một hành động đặc biệt nào đó hay có thể là bất cứ cái gì. Để nói rằng bạn thiếu lòng tin trong việc gì đó, có nghĩa là hồ như bạn tin mình có thể làm được., nghĩa là nói chung trong phạm vi của bạn. Và rồi tuy nằm trong khả năng của bạn, bạn lại không thể làm, bạn bắt đầu cảm thấy, "Ồ, có lẽ tôi không đủ sức hay tài giỏi để làm việc đó hay cái gì đó theo hướng ấy ". Tuy nhiên với tôi, tôi biết tôi không làm được phép lạ - điều đó không dẫn đến mất lòng tin vì ngay từ đầu, tôi không bao giờ tin rằng tôi có khả năng này. Tôi không cho rằng tự mình có thể hoàn thành những nhiệm vụ như những Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ - mình có thể biết mọi thứ có thể làm đúng bất cứ điều gì và bất cứ lúc nào. Do đó, khi người ta đến với tôi để xin chữa bệnh hay thi triển phép lạ hay những thứ như vậy, thay vì làm cho tôi thiếu lòng tin thì tôi chỉ cảm thấy lúng túng mà thôi.
"Tôi nghĩ rằng, nói chung, thành thật với mình và người về những điều mình có thể làm hay không thể làm được, có thể chống lại cảm nghĩ thiếu lòng tin".
Nhưng, thí dụ, hiện nay trong việc đối phó với Trung Quốc, đôi khi tôi cảm thấy thiếu tự tin. Nhưng tôi luôn luôn tham khảo tình thế với các quan chức và trong một số trường hợp với những người không phải là quan chức. Tôi hỏi ý kiến và bàn thảo với bạn tôi. Vì nhiều quyết định được thực hiện trên cơ sở thảo luận với nhiều người khác nhau không hấp tấp vội vàng, nên bất cứ quyết định nào đã được tiến hành, làm cho tôi đủ tin, không có lý do hối tiếc trong việc đã làm.
Không sợ hãi và đánh giá mình một cách thành thật có thể là một vũ khí mạnh mẽ chống lại sự tự ngờ vực và thiếu tự tin. Đức Đạt Lai Lạt Ma tin rằng loại thành thật này có thể làm thuốc giải độc cho những tâm trạng tiêu cực đã được thực sự xác nhận bởi một số những nghiên cứu gần đây cho thấy rõ ràng là những người có quan điểm thực tế và đứng đắn về mình có khuynh hướng cầu thị và có lòng tin hơn những người ít tự biết về mình hoặc biết không đúng về mình.
Qua nhiều năm, tôi thường được chứng kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma minh họa lòng tự tin bắt nguồn từ tính thành thật và ngay thẳng về khả năng của một người. Thật quá kinh ngạc khi lần đầu tiên nghe Ngài nói một cách đơn giản, "Tôi không biết" trước một số đông cử tọa để trả lời một câu hỏi. Không giống như những điều tôi thường thấy ở những giảng viên đại học hay ở những người cho mình là có thẩm quyền, Ngài đã nhận là mình thiếu kiến thức mà không hề lúng túng, không cần nói rõ hơn về những lời phát biểu hay giả vờ mình biết đây bằng cách nói quanh co.
Thực tế hình như Ngài rất thích thú trước câu hỏi khó khăn mà không có câu trả lời và thường hay nói đùa về việc này. Thí dụ như, vào một buổi chiều ở Tuscon, Ngài đang bình luận về một câu kệ của Shantideva trong cuốn"Hướng dẫn về Lối Sống của Bồ Tát" có lý luận rất phức tạp. Sau một lúc cố gắng, Ngài thấy lộn xộn, bèn phá lên cười và nói rằng: "Tôi thấy lộn xộn! tốt hơn là bỏ lại, không bàn luận nữa. Bây giờ đến bài kệ tiếp..." Để đáp lại tiếng cười tán thưởng từ phía khán giả, Ngài con cười lớn hơn nữa và nói rằng, " Có một cách diễn đạt gần giống điều này. Cách diễn đạt đó giống như người già ăn uống - người già thì răng long - Cho nên cái gì mềm thì ăn, còn cái gì cứng thì bỏ". Vẫn còn cười Ngài tiếp tục, " Vậy ngày hôm nay chúng ta bỏ cái đó lại". Ngài chẳng bao giờ nao núng vào lúc ấy nhờ lòng tin tuyệt đối của mình.
NGHĨ VỀ TIỀM NANG CỦA CHÚNG TA NHƯ THUỐC GIẢI CHO SỰ THÙ HẬN BẢN THÂN
Trong chuyến đi Ấn Độ vào năm 1991, hai năm trước chuyến viếng thăm Arizona của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi có được gặp Ngài một lần tại tư gia ở Dharamsala. Tuần lễ ấy Ngài có buổi họp hàng ngày với một nhóm các khoa học gia, thầy thuốc, bác sĩ tâm lý, và giảng viên về thiền xuất xắc Tây Phương để tìm cách khám phá mối liên hệ giữa cơ thể và tinh thần và tìm hiểu sự liên quan giữa kinh nghiệm xúc cảm và sức khỏe của cơ thể. Tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma vào buổi xế chiều, sau một trong những cuộc gặp gỡ với các khoa học gia. Vào cuối buổi phỏng vấn, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi, "Ông biết tuần này tôi đang gặp gỡ các khoa học gia?"
"Vâng tôi có biết..." "Có điều này tôi thấy rất ngạc nhiên. Đó là khái niệm 'thù ghét bản thân mình'! ông có thấy quen thuộc với khái niệm này không?"
"Rất quen; khá nhiều bệnh nhân của tôi đau khổ về chứng này".
"Khi họ nói về điều này, mới đầu tôi không chắc có hiểu đúng hay không."
Ngài cười và nói, "Tôi nghĩ : -'dĩ nhiên chúng ta yêu chính mình! Sao lại có người ghét bản thân mình?' Mặc dù tôi nghĩ rằng mình hiểu tinh thần hoạt động như thế nào, nhưng ý nghĩ ghét mình quả thật hoàn toàn mới đối với tôi. Lý do tại sao tôi không thể tin được vì người Phật Tử tu tập chăm chỉ cố gắng khắc phục thái độ cho mình là trung tâm, tư tưởng và động cơ ích kỷ. Từ quan điểm này, tôi nghĩ chúng ta thương yêu trìu mến bản thân mình quá nhiều. Vậy nghĩ đến khả năng không thương yêu chính mình mà lại còn ghét chính mình, thì quả thật không thể tin được. Là bác sĩ tâm lý ông có thể nào giải thích về khái niệm này, tại sao nó lại xẩy ra?"
Tôi diễn tả ngắn gọn cho Ngài nghe quan niệm tâm lý về vấn đề thù ghét bản thân nẩy sanh ra sao. Tôi giải thích hình ảnh bản thân chúng ta được hình thành bởi cha mẹ và cách nuôi dưỡng như thế nào; chúng ta đã tập nhiễm những thông điệp ẩn tàng về mình từ cha mẹ trong khi lớn lên và phát triển ra sao, và tôi phác qua hoàn cảnh đặc biệt tạo nên hình ảnh bản thân tiêu cực. Tôi đi vào chi tiết những nhân tố làm tăng sự thù hận chính mình, như cách hành xử của chúng ta không xứng đáng hình ảnh lý tưởng về bản thân và miêu tả một vài khía cạnh mà hận thù bản thân được nặng thêm vì văn hóa, đặc biệt ở một số phụ nữ và dân tộc thiểu số. Trong khi tôi bàn luận về những điều này, Đức Đat Lai Lạt Ma tiếp tục gật đầu suy tư với vẻ mặt khó hiểu như thể Ngài vẫn thấy khó hiểu khái niệm mới lạ lùng này.
Groucho Marx có lần châm biếm, "Tôi không bao giờ gia nhập bất cứ câu lạc bộ nào mà có tôi là thành viên". Để mở rộng loại quan niệm bản thân tiêu cực này thành nhận xét về bản chất con người, Mark Twain nói, " Thực ra trong thấm tâm, chẳng có ai tôn trọng mình tý nào ". Và lấy quan điểm bi quan về con người này và hợp nó thành lý thuyết tâm lý của mình, nhà tâm lý học nhân văn Carl Rogers, đã từng nói, "Hầu hết con người đều coi thường bản thân mình, cho mình là vô giá trị và không đáng yêu thương".
Có một khái niệm rất phổ biến trong xã hội chúng ta, được chia sẻ bởi hầu hết các bác sĩ tâm lý đương đại là thù hận bản thân đang lan tràn trong văn hóa Tây Phương. Trong khi điều này chắc chắn đang tồn tại thì may thay nó không lan tràn như nhiều người tin tưởng. Chắc chắn nó là vấn đề chung trong số những người cần được chữa trị, nhưng đôi khi các bác sĩ tâm lý ở phòng khám lại có một cái nhìn lệch lạc, có khuynh hướng dựa trên nhận xét tổng quát về bản chất con người áp dụng cho một số ít người bước vào văn phòng của họ. Hầu hết các dữ kiện đều dựa trên thí nghiệm, tuy nhiên xác minh được sự việc có thật là người ta có khuynh hướng (hay ít ra cũng muốn) nhìn mình trong ánh sáng đẹp đẽ, tự đánh giá mình "trên trung bình" trong hầu hết các cuộc thăm dò ý kiến về những đức tính chủ quan và đáng có về mặt xã hội.
Như vậy, mặc dầu thù hận bản thân có thể không phổ biến như người ta tưởng, nó vẫn là một chướng ngại lớn cho nhiều người. Tôi ngạc nhiên trước phản ứng của Đức Đạt Lai Lạt Ma về khái niệm thù hận bản thân. Chỉ cần phản ứng đầu tiên của Ngài thôi cũng đủ thấy rõ ràng và chữa bệnh.
Có hai điểm liên quan đến phản ứng đáng lưu ý của Ngài bảo đảm cho sự phân tích. Điểm thứ nhất thật đơn giản là Ngài không quen với sự tồn tại của thù hận bản thân. Mặc nhiên công nhận ngầm thù hận là một vấn đề lan tràn của con người dẫn đến cảm giác ân tượng rằng đó là một đặc tính thấm căn cố đế trong tâm trí con người. Nhưng sự thực không ai nghe thấy có trong mọi nền văn hóa, trong trường hợp này là văn hóa Tây Tạng, đã mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta đây chính là tình trạng rối loạn tinh thần, giống như tất cả những tình trạng tinh thần tiêu cực khác mà chúng ta đã thảo luận, nó không phải là phần nội tại trong tâm trí con người. Nó không phải là điều ta có từ lúc sinh ra, không phải là điều mà ta bị dồn cho, cũng không phải là đặc điểm không thể tẩy xóa được khỏi bản tính của chúng ta. Ta có thể loại bỏ nó được. Chỉ nhận thức này thôi có thể làm yếu đi sức mạnh của nó, cho chúng ta hy vọng, và gia tăng quyết tâm loại trừ nó.
Điểm thứ hai liên quan đến phản ứng đầu tiên của Đức Đạt Lai Lạt Ma là câu trả lời của Ngài: "Ghét mình ư? Dĩ nhiên chúng ta yêu bản thân mình". Đối với một số người bị bị khổ vì hận thù bản thân hay biết ai đó có chứng bệnh giống như vậy, thì câu trả lời này thoạt đầu nghe có vẻ ngấy thơ lạ thường. Nhưng khi xét kỹ, ta thấy có một sự thật sâu sắc trong câu trả lời của Ngài. Tình thương yêu rất khó định nghĩa, và có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng có một định nghĩa có lẽ là loại tình yêu trong sáng, được tán dương nhiều nhất, đó là ước mong dứt khoát, tuyệt đối và hoàn toàn vì hạnh phúc của một người khác. Đó là sự mong muốn chân thành vì người khác được hạnh phúc dù rằng có làm thương tổn chúng ta hay dù ta có thích người đó hay không thích. Từ tận đáy lòng, chắc chắn là mọi người chúng ta đều mong được hạnh phúc. Vậy nếu định nghĩa về tình thương yêu dựa trên sự mong ước chân chính vì hạnh phúc cho người thì đúng là mỗi chúng ta đều mong ước yêu thương cho chính mình. Trong khi điều trị, đôi khi tôi gặp những trường hợp thù ghét bản thân cực đoan đến nỗi họ tái diễn có ý định tự tử. Nhưng ngay cả trong trường hợp cực đoan nhất, ý tưởng quyên sinh chủ yếu là dựa trên mong ước cá nhân (dù là ý nghĩ méo mó hay lầm lạc) để giải thoát mình khỏi đau khổ chứ không phải gây ra đau khổ.
Vậy có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi tới cái đích trong niềm tin của Ngài là tất cả chúng ta đều tiềm ẩn lòng thương yêu chính mình, và ý tưởng này gợi ý một loại thuốc giải độc cực mạnh cho sự thù hận bản thân: Chúng ta có thể chống lại tư tưởng khinh miệt bản thân bằng cách nhắc nhở mình dù chúng ta không thích một số tính nết của mình nhiều đến thế nào đi nữa, thì bên dưới điều đó tất cả chúng ta đều mong mình được hạnh phúc, và đó là loại tình yêu sâu sắc.
Trong cuộc viếng thăm Dharamsala kế đó, tôi trở lại vấn đề thù hận bản thân với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đến lúc đó thì Ngài đã quen thuộc với khái niệm này và bắt đầu triển khai phương pháp để chiến đấu với nó.
Ngài giải thích, "Theo quan điểm Phật Giáo, ở trong tình trạng thất vọng một tình trạng chán nản hồ như được coi là cực đoan rõ ràng là một chướng ngại để thực hiện những bước đi cần thiết nhằm hoàn tất mục tiêu. Trạng thái thù hận bản thân còn cực đoan hơn chán nản nhiều, và nó có thể vô cùng nguy hiểm. Với những ai tu tập Phật Giáo, thuốc giải độc cho thù hận bản thân có thể là suy nghĩ việc có thật là tất cả chúng sinh kể cả chính mình, đều có Phật tính - hạt giống hay tiềm năng vươn tới sự viên mãn, sự giác ngộ hoàn toàn cho dù hoàn cảnh hiện tại có yếu kém, nghèo nàn hay thiếu thốn. Vậy những người tu tập Phật Giáo đau khổ vì thù hận bản thân hay ghê tởm bản thân, nên tránh suy ngẫm về bản chất đau khổ của cuộc sống hay bản chất bất toại nguyện tiềm ẩn trong cuộc sống, và thay vì làm như vậy họ nên tập trung nhiều hơn nữa vào những khía cạnh tích cực của cuộc sống, như hiểu rõ về tiềm năng to lớn nằm trong bản thân của mỗi con người. Và bằng cách suy nghĩ về những cơ hội và tiềm năng này, họ có thể gia tăng cảm giác giá trị và lòng tự tin vào chính mình.
Nêu lên câu hỏi thông thường từ cái nhìn của một người không phải là Phật Tử, tôi hỏi, "Vậy thì cái gì có thể là thuốc giải độc cho một người chưa bao giờ biết đến khái niệm Phật Tính hay một người không phải là Phật Tử?"
"Một điểm chung mà ta có thể vạch ra cho những người đó là chúng ta có phước được làm người với trí thông minh tuyệt vời. Trên hết, tất cả mọi người có khả năng quyết tâm và hướng ý thức quyết tâm vào bất cứ chiều hướng nào mình muốn. Không có gì ngờ vực về điều đó cả. Cho nên là giữ được ý thức về những tiềm năng này và luôn luôn nhắc nhở mình cho đến khi ý thức này trở thành một phần trong thói quen nhận thức về chúng sinh - gồm cả chính mình - thì điều này sẽ giúp họ giảm thiểu cảm nghĩ chán nản, bất lực và tự khinh miệt mình". Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một chút rồi tiếp tục với giọng như thăm dò nói lên Ngài đang tích cực tìm kiếm và tiếp tục tiến trình khám phá.
"Tôi nghĩ rằng chỗ này có một phần nào giống với cách chúng tôi trị bệnh. Khi bác sĩ trị bệnh cho bệnh nhân, không những họ cho bệnh nhân uống thuốc kháng sinh trong những trường hợp đặc biệt, mà họ còn phải chắc chắn rằng với tình trạng sức khỏe của bệnh nhân như vậy có thể uống được thuốc kháng sinh và chịu đựng được thuốc này. Vậy muốn bảo đảm như vậy, bác sĩ phải chắc chắn rằng bệnh nhân đủ dinh dưỡng và đôi khi còn cho uống thêm sinh tố hay thuốc bồi dưỡng cơ thể. Nếu bệnh nhân có sức khỏe tiềm ẩn trong thân, thì có tiềm năng hay khả năng trong thân thể để hồi phục nhờ thuốc men. Tương tự như vậy, nếu chúng ta biết và duy trì ý thức là chúng ta có món quà tuyệt vời của trí thông minh và khả năng phát triển quyết tâm và sử dụng chúng một cách tích cực, trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta có sức khỏe tinh thần tiềm ẩn. Sức mạnh tiềm ẩn đến từ sự nhận thức chúng ta có tiềm năng vĩ đại.của con người Sự nhận thức này hồ như có thể thực hiện vai trò của một cơ cấu gắn liền nhằm đối trị với bất cứ khó khăn nào, dù tình trạng phải đương đầu ra sao, không mất hy vọng hay chìm đắm trong thù hận bản thân. Tự nhắc mình những phẩm tính cao quý mà ta chia sẻ với tất cả chúng sinh làm mất tác dụng của việc cứ nghĩ cho rằng mình xấu hay không xứng đáng. Nhiều người Tây Tạng thực hành điều này trong việc hành thiền thường nhật. Có lẽ đó là lý do tại sao thù hận bản thân không bao giờ có trong nền văn hóa Tây Tạng.
PHẦN V
TÓM TẮT
CÁC SUY TƯ VỀ CÁCH SỐNG CUỘC ĐỜI TINH THẦN
-ooOoo-
CHƯƠNG 15
NHỮNG GIÁ TRỊ TINH THẦN CĂN BẢN
Nghệ thuật tạo hạnh phúc có nhiều thành tố. Như chúng ta đã thấy, nó bắt đầu bằng phát triển sự hiểu biết về nguồn gốc đích thực của hạnh phúc và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên trong đời sống chúng ta căn cứ trên sự trau dồi những nguồn gốc ấy. Nó liên quan đến kỷ luật nội tâm, một tiến trình diệt trừ dần dần những trạng thái tinh thần tiêu cực và thay thế chúng bằng trạng thái tinh thần tích cực, xấy dựng như hảo tâm, khoan dung và tha thứ. Trong việc nhận dạng những nhân tố dẫn đến cuộc đời đầy đủ và mãn nguyện, chúng tôi kết thúc bằng một cuộc thảo luận về thành tố sau cùng - tinh thần.
Có một khuynh hướng tự nhiên kết hợp tinh thần với tôn giáo. Phương pháp đạt hạnh phúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được hình thành qua nhiều năm huân luyện nghiêm khắc với tư cách là nhà sư Phật Giáo được thọ giới. Ngài cũng được coi là một học giả Phật Giáo uyên bác. Tuy nhiên, đối với nhiều người không phải là Ngài đã nắm được nhiều vấn đề triết lý phức tạp có sức hấp dẫn, mà chính là ở nơi Ngài, con người nhiệt tình, vui tính, với phương pháp giải quyết thực tế về đời sống. Trong quá trình đàm luận với Ngài, thực ra, tính nhân đạo căn bản của Ngài dường như còn quan trọng hơn cả vai trò chính của Ngài là một nhà sư Phật Giáo. Mặc dầu đầu Ngài cạo trọc và quần áo nấu sồng, mặc dầu địa vị của Ngài là một trong những nhân vật tôn giáo lỗi lạc nhất thế giới, không khí trong những buổi thảo luận vẫn chỉ là con người này chuyện với người khác, bàn luận đến những vấn đề mà tất cả chúng ta đều chia sẻ.
Để giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa thực sự của tinh thần, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu bằng cách phân biệt tinh thần và tôn giáo:
"Tôi tin rằng điều thiết yếu là đánh giá cao tiềm năng của con người và công nhận tầm quan trọng của sự biến đổi nội tâm. Điều này có thể đạt được qua cái gọi là tiến trình phát triển tinh thần. Đôi khi tôi gọi nó là phương diện tinh thần trong cuộc đời của chúng ta.
"Có hai mức độ tinh thần. Một mức độ tinh thần liên quan đến niềm tin tôn giáo của chúng ta. Trên thế giới này, có quá nhiều người khác nhau, có quá nhiều tâm tính khác nhau. Có năm tỷ người, và trong một khía cạnh nào đó, tôi nghĩ rằng cần phải có năm tỷ tôn giáo khác nhau, vì có có nhiều tâm tính quá lớn như vậy. Tôi nghĩ rằng mỗi cá nhân nên dân thân vào một con đường tinh thần phù hợp nhất với tâm tính, khuynh hướng tự nhiên, tính khí, niềm tin, gia đình và bối cảnh văn hóa của mình.
"Thí dụ là một nhà sư Phật Giáo, tôi thấy Phật Giáo thích hợp nhất với tôi. Cho nên, đối với tôi, tôi thấy Phật Giáo là tốt nhất. Nhưng điều đó không có nghĩa là Phật Giáo tốt nhất cho tất cả mọi người. Điều đó thật rõ ràng. Điều đó thật chắc chắn. Nếu tôi tin là Phật Giáo tốt nhất cho tất cả mọi người, thì quả là dại dột, vì con người khác nhau có tâm tính khác nhau. Cho nên, nhiều người khác nhau cần nhiều tôn giáo khác nhau. Mục đích của tôn giáo là đem lợi ích cho con người, và tôi nghĩ rằng nếu chúng ta chỉ có một tôn giáo, sau một thời gian tôn giáo đó sẽ không còn giúp ích cho nhiều người. Chẳng hạn nếu chúng ta có một nhà hàng ăn, và ta chỉ bán có một món ăn- ngày này qua ngày khác, cho mỗi bữa ăn - nhà hàng đó sẽ không còn bao nhiêu khách sau một thời gian. Người ta cần và thích nhiều loại thức ăn khác nhau vì có quá nhiều khẩu vị khác nhau. Cũng như vậy, tôn giáo có nghĩa là nuôi dưỡng tinh thần con người. Và tôi nghĩ rằng chúng ta cần ca ngợi sự đa dạng trong tôn giáo và phát triển sự đánh giá cao hết sức sư đa dạng của tôn giáo. Cho nên số người thấy Do Thái Giáo, Cơ Đốc Giáo, hay truyền thống Hồi Giáo thích hợp hơn với họ. Cho nên, chúng ta phải tôn trọng và đánh giá cao giá trị của tất cả những truyền thống tôn giáo lớn khác nhau trên thế giới.
"Tất cả những tôn giáo này có thể góp phần hữu hiệu cho lợi ích nhân loại. Tất cả những tôn giáo đó đều được lập ra để làm cho một cá nhân hạnh phúc hơn, và thế giới tốt đẹp hơn. Tuy nhiên để tôn giáo có một tác động làm thế giới tốt đẹp hơn, tôi nghĩ điều quan trọng là cá nhân ấy phải được hành trì chân thành giáo lý của tôn giáo ấy. Ta phải hòa nhập giáo lý vào đời sống bất kỳ ở đâu, do đó ta có thể dùng những giáo lý ấy làm nguồn sức mạnh nội tâm. Và ta phải đạt được sự hiểu biết sâu xa về lý tưởng tôn giáo, không phải chỉ ở mức độ trí tuệ mà còn là cảm nghĩ sâu xa khiến chúng trở thành phần kinh nghiệm nội tâm của ta.
"Tôi tin rằng ta có thể trau dồi sự tôn trọng sâu xa đối với tất cả những truyền thống tôn giáo khác nhau. Một lý do phải tôn trọng các truyền thống tôn giáo khác là vì tất cả những truyền thống ấy đều đưa ra một khuôn khổ đạo đức chi phối cách hành xử của ta và có những hiệu quả tích cực. Chẳng hạn như trong truyền thống Cơ Đốc Giáo, niềm tin vào Thượng Đế có thể cung cấp một khuôn khổ đạo đức chặt chẽ và rõ ràng chi phối cách hành xử và lối sống của ta - và nó có thể là một phương pháp mạnh mẽ vì có một sự mật thiết nào đó được tạo ra trong sự liên hệ của ta với Thượng Đế, và cách bày tỏ tình thương yêu của ta với Thượng Đế, người đã tạo ra bạn, là chứng tỏ tình thương và tình thương với đồng loại.
"Tôi tin rằng có nhiều lý do tương tự để kính trọng các truyền thống tôn giáo khác. Tất cả những tôn giáo lớn, đương nhiên, đã cung cấp lợi ích to lớn cho hàng triệu con người qua nhiều thế kỷ trong quá khứ. Và ngay cả trong lúc này, hàng triệu người vẫn được lợi ích, hồ như được truyền cảm hứng, từ những truyền thống tôn giáo khác nhau này. Thật là rõ ràng. Và trong tương lai, cũng vậy, những truyền thống tôn giáo khác nhau ấy, sẽ đem cảm hứng cho hàng triệu người của thế hệ sắp tới. Đó là một sự thật. Vậy cho nên, thật quan trọng, là phải hiểu thực tế đó và tôn trọng các truyền thống khác.
"Tôi nghĩ rằng cách tăng cường sự tương kính lẫn nhau là nhờ sự tiếp xúc gần gũi hơn giữa những người có tín ngưỡng khác nhau. - sự tiếp xúc trực tiếp. Tôi đã cố gắng trong ít năm vừa qua để gặp gỡ và đối thoại, chẳng hạn, với cộng đồng Cơ Đốc và Do Thái, và tôi nghĩ rằng một số kết quả tích cực thực sự đã bắt nguồn từ việc này. Do sự tiếp xúc gần gũi này, chúng ta có thể học hỏi được về những đóng góp hữu ích mà những tôn giáo ấy đã đem cho nhân loại và tìm ra những khía cạnh hữu ích của những truyền thống khác để chúng ta có thể học hỏi. Chúng ta còn có thể khám phá ra phương pháp và kỹ thuật mà ta có thể đem áp dụng trong sự tu tập của chúng ta.
"Vậy,điều thiết yếu là phát triển mối liên hệ gần gũi giữa những tôn giáo khác nhau, nhờ đó chúng ta có thể làm được một cố gắng chung vì lợi ích của nhân loại. Có quá nhiều điều chia rẽ nhân loại, có quá nhiều vấn đề trên thế giới. Tôn giáo phải là phương cách chữa trị giúp giảm xung đột và khổ đau trên thế giới, chứ không phải một nguồn gốc khác gây xung đột.
"Chúng ta thường được nghe nói tất cả mọi người đều bình đẳng. Theo điều này chúng ta muốn nói là mọi người rõ ràng đều ham muốn hạnh phúc. Ai cũng có quyền làm một người hạnh phúc. Và ai cũng có quyền khắc phục khổ đau. Vậy nếu ai nhận được hạnh phúc hay được lợi ích từ một truyền thống tôn giáo riêng biệt nào đó, điều quan trọng là phải tôn trọng quyền lợi của người khác; bởi vậy, chúng ta phải học cách tôn trọng tất cả những truyền thống tôn giáo lớn này. Điều đó thật rõ ràng."
Trong tuần lễ đàm thoại với Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Tuscon, tinh thần tôn trọng lẫn nhau có ý nghĩa hơn cả điều mong mỏi. Người ta thấy có những người thuộc nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau trong số thính giả, kể cả một đại diện có hạng của tăng lữ Cơ Đốc. Mặc dù những khác biệt về truyền thống, nhưng bầu không khí an bình và hòa hợp bao trùm căn phòng. Ai cũng thấy điều này. Có một tinh thần trao đổi, không có một chút hiếu kỳ nào trong số những người không phải là Phật Tử hiện diện về sự tu tập hàng ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng cũng do hiếu kỳ thúc đẩy một thính giả hỏi:
"Liệu có phải một người Phật Tử, hay một người của truyền thống khác, tu tập, như cầu nguyện dường như phải được nhân mạnh phải không. Tại sao cầu nguyện lại quan trọng cho đời sống tinh thần?
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: "Cầu nguyện là sự nhắc nhở, đơn giản hàng ngày về phép tắc đã được giữ vững và niềm tin. Chính bản thân tôi, tụng đi tụng lại một số câu kệ Phật Giáo vào mỗi buổi sáng. Những câu kệ này giống như cầu nguyện, nhưng thực ra là những lời nhắc nhở. Nhắc nhở cách nói với người khác, cách đối xử với người khác, cách đương đầu với các vấn đề hàng ngày, những điều giống như vậy. Cho nên, về tổng thể sự tu tập của tôi liên quan đến nhắc nhở - quán chiếu tầm quan trọng của từ bi, tha thứ, tất cả những điều này. Và dĩ nhiên nó bao gồm một số hành thiền Phật Giáo về bản chất của thực tế, và cũng một số về quán tưởng. Vậy, trong sự tu tập hàng ngày của tôi, trong việc cầu nguyện hàng ngày của tôi, nếu tôi có thì giờ rảnh rỗi, phải mất đến bốn giờ. Kể cũng khá dài."
Ý nghĩ bỏ bốn giờ một ngày để cầu nguyện khiến một thính giả khác hỏi, "Tôi là một người mẹ phải đi làm lại có con nhỏ, có rất ít thì giờ rảnh. Đối với một người thực sự quá bận rộn, làm sao có thể có thì giờ để cầu nguyện và hành thiền?"
"Ngay cả trường hợp của tôi, nếu muốn than phiền, tôi luôn luôn có thể than phiền không có thì giờ." Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận định."Tôi rất bận. Tuy nhiên nếu bạn cố gắng, bạn có thể luôn luôn tìm được thì giờ, thí dụ vào buổi sáng sớm. Rồi tôi nghĩ bạn có thì giờ vào cuối tuần. Bạn có thể hy sinh một số vui chơi," Ngài cười.
"Cho nên, tôi nghĩ ít nhất có nửa giờ mỗi ngày. Hay nếu bạn cố gắng, chịu khó, có lẽ bạn có thể tìm được, ba mươi phút vào buổi sáng, và ba mươi phút vào buổi tối. Nếu bạn thực sự nghĩ đến việc này, bạn có thể tìm ra được cách có thì giờ.
"Tuy nhiên nếu bạn nghiêm túc nghĩ đến ý nghĩa thực sự của sự tu tập tinh thần, việc này sẽ liên quan đến việc phát triển và rèn luyện trạng thái tinh thần, thái độ, tâm lý, cảm xúc và sức khỏe. Bạn không nên giới hạn sự hiểu biết sự tu tập tinh thần vào một số hoạt động thể chất hay bằng lời, giống như đọc thuộc lòng lời cầu nguyện hay tụng niệm. Nếu sự hiểu biết về sự tu tập tinh thần bị giới hạn vào những hoạt động như thế, thì, dĩ nhiên, bạn cần có một số thì giờ nhất định, một số thì giờ rành riêng cho việc tu tập - vì bạn không thể đi làm các công việc vặt hàng ngày như nấu ăn vân vân...trong khi tụng chú. Làm như vậy có thể làm phiền người chung quanh. Tuy nhiên nếu bạn hiểu tu tập tinh thần theo đúng nghĩa của nó, bạn có thể sử dụng tất cả 24 giờ một ngày cho việc tu tập. Tính chất tinh thần thực sự là thái độ tinh thần mà bạn có thể tu tập bất cứ lúc nào. Thí dụ nếu bạn thấy mình đang ở trong tình trạng cảm thấy muốn xúc phạmi một người nào đó, thì ngay lập tức bạn phải thận trọng và kiềm chế không làm điều đó. Tương tự như vậy, nếu bạn gặp phải tình huống có thể mất bình tĩnh, ngay lập tức bạn lưu tâm và nói, "Không, điều này không phải là cách thích hợp!". Đó mới thật là tu tập tinh thần. Khi đã sáng tỏ, bạn sẽ luôn luôn có thì giờ. "Việc này nhắc tôi nhớ đến một trong những bậc thầy Kadama Tây Tạng, Potowa, nói rằng đối với một người hành thiền đã đạt được trình độ ổn định nội tâm và nhận thức, thì mỗi biến chuyển, mỗi trải nghiệm xẩy ra hồ như là một lời dạy. Đó là kinh nghiệm học hỏi. Tôi nghĩ điều này thật đúng.
Vậy nên, từ cách nhìn này, cả đến khi bạn rơi vào, chẳng hạn, những cảnh hỗn loạn của bạo lực và tình dục, giống như trên truyền hình và phim ảnh, bạn vẫn có thể nhìn chúng bằng sự cảnh giác về những hậu quả có hại dẫn tới cực đoan. Rồi, thay vì bị áp đảo hoàn toàn bởi cảnh đó, đúng hơn là bạn có thể dùng những cảnh ấy làm dấu hiệu báo cho biết tính chất gây hư hại của những cảm xúc tiêu cực không kiểm soát được - do đó bạn có thể học được những bài học.
Nhưng học những bài học từ việc chiếu lại những phim The A-Team hay Melrose Place lại là một chuyện khác. Tuy nhiên, là người hành trì Phật Pháp, chế độ tinh thần riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma chắc chắn bao gồm những nét độc đáo của Phật đạo. Chẳng hạn, mô tả về sự tu tập hàng ngày của Ngài, Ngài kể nó bao gồm cả việc hành thiền Phật giáo về bản chất của thực tế, cũng như về một số tu tập về quán tưởng. Trong bối cảnh của buổi thảo luận này, khi Ngài tình cờ nói đến những sự tu tập ấy, trong nhiều năm qua, tôi đã có dịp nghe thấy Ngài bàn thảo những đề tài ấy rất chi tiết -- những bài nói chuyện của Ngài gồm có những bài thảo luận hết sức phức tạp mà tôi chưa từng được nghe qua về bất cứ về chủ đề nào. Những bài nói chuyện của Ngài về bản chất thực tế tràn đầy những lập luận và phân tích triết lý khó hiểu; sự diễn tả về quán tưởng mật điển rất phức tạp khó hiểu và tinh vi- thiền định và quán tưởng mà mục tiêu dường như được xấy dựng trong trí tưởng tượng của con người, hồ như là bản đồ vũ trụ vẽ bằng tay. Ngài đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu và tu tập thiền định Phật giáo này. Nhớ tới điều đó, biết khả năng nỗ lực phi thường của Ngài, nên tôi hỏi :
"Xin Ngài miêu tả lợi ích thực tế hay tác động của sự tu tập tinh thần trong cuộc sống hàng ngày của Ngài?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma im lặng hồi lâu rồi thong thả trả lời: "Mặc dầu kinh nghiệm của riêng tôi có thể là rất ít ỏi, nhưng một điều mà tôi có thể nói chắc chắn là tôi cảm thấy do tu tập Phật Giáo, tôi cảm thấy tâm tôi trở nên bình tĩnh hơn nhiều. Đó là điều rõ ràng. Mặc dầu sự thay đổi xẩy ra dần dần, có lẽ từng phân một, " Ngài cười, "Tôi nghĩ rằng đã có sự thay đổi trong thái độ của tôi đối với bản thân và những người khác. Mặc dầu rất khó mà vạch ra những nguyên nhân chính của sự thay đổi, nhưng tôi nghĩ rằng do ảnh hưởng của sự nhận thức, không phải là nhận thức đầy đủ, mà là cảm nghĩ hay ý thức về bản chất cơ bản ẩn tàng của thực tế, và cũng do suy ngẫm về những chủ đề như vô thường, bản chất khổ đau của chúng ta, và giá trị của từ bi và vị tha.
"Cho nên, ngay cả khi nghĩ đến những người Trung hoa cộng sản đã gây thảm họa lớn cho một số dân Tây Tạng - do sự tu tập Phật giáo của tôi, tôi thấy lòng thương cảm ngay cả đến những kẻ gây đau khổ, vì tôi hiểu rằng, kẻ gây đau khổ thực ra bị bắt buộc bởi snhững thế lực tiêu cực khác. Vì những điều này và những lời nguyện và cam kết Bồ Tát của tôi, cho dù là kẻ phạm tội độc ác, tôi hoàn toàn không cảm thấy hay nghĩ rằng vì những sự độc ác của chúng, chúng sẽ phải chịu những điều tiêu cực hay không được nếm mùi giấy phút hạnh phúc. Lời nguyện Bồ tát giúp tôi phát triển thái độ này, nó rất hữu ích, cho nên tự nhiên tôi yêu thích lời nguyện này. (Trong lời Bồ Tát nguyện, người tu tập tinh thần xác định lòng mong ước trở thành Bồ Tát. Bồ Tát, dịch nghĩa đen là "người chiến sĩ tỉnh thức", là một người với lòng thương yêu và từ bi, đã đạt được Bồ Tát quả, đặc điểm của trạng thái tinh thần này là khát vọng tự ý và chân chính để đạt giác ngộ hoàn toàn hầu đem lợi ích cho tất cả chúng sinh).
"Điều này làm tôi nhớ tới một vị đại sư hành trì tụng niệm tại Tu Viện Namgyal. Là một tù nhân chính trị, ông bị cầm tù trong những nhà tù và trại lao động Trung Hoa hai mươi năm. Một lần tôi hỏi ông về hoàn cảnh khó khăn nhất mà ông phải đương đầu khi ở trong tù. Rất ngạc nhiên khi nghe ông nói là sự nguy hiểm nhất mà ông cảm thấy là mất lòng từ bi với người Trung Hoa!
"Có rất nhiều câu chuyện như vậy. Thí dụ, ba ngày trước đây, tôi gặp một nhà sư đã sống nhiều năm trong nhà tù Trung Quốc. ông cho tôi biết ông 24 tuổi vào năm 1959, năm có cuộc nổi dậy của người Tây Tạng. Vào lúc đó ông gia nhập lực lượng Tây Tạng tại Norbulinga. ông bị người Trung Quốc bắt và bỏ tù cùng với ba anh em, ba anh em bị giết tại đó. Hai người anh em khác của ông cũng bị giết.. Rồi cha mẹ ông cũng bị chết tại trại lao động. Nhưng ông nói với tôi rằng khi ông ở trong tù, ông suy nghĩ về đời ông và đến lúc đó ông kết luận rằng dù ông có dành cả cuộc đời để làm tu sĩ tại Tu Viện Drepung, cho đến lúc bây giờ, ông cảm thấy ông không phải là một nhà sư tốt. ông cảm thấy ông là một nhà sư ngu dại. Vào lúc đó ông nguyện, vì ở trong tù, ông phải cố gắng làm một nhà sư chân chính. Do hành trì Phật Pháp, vì sự rèn luyện tâm, ông đã có thể duy trì được tinh thần vui vẻ dù thể xác đau đớn. Cả khi ông bị tra tân và bị đánh đập tàn nhẫn, ông đã có thể qua khỏi và vẫn cảm thấy hạnh phúc bằng cách xem nó như là sự tẩy sạch nghiệp tiêu cực trong quá khứ. "Cho nên là qua những thí dụ này, ta có thể thực sự đánh giá cao giá trị của việc đưa tu tập tinh thần vào đời sống hàng ngày ".
Vì vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thêm vào chất liệu cuối cùng của một đời sống hạnh phúc - phương diện tinh thần. Qua giáo lý của Đức Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều người khác đã tìm ra được một cấu trúc có ý nghĩa giúp họ chịu đựng và vượt qua đau đớn và khổ đau đôi khi gặp phải trong cuộc đời. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma gợi ý, mỗi truyền thống tôn giáo lớn trên thế giới đều có cơ hội để giúp đỡ ta giành được một cuộc hạnh phúc hơn. Sức mạnh của niềm tin,được tạo ra trên qui mô rộng lớn của những truyền thống tôn giáo này, đã gắn bó trong đời sống của hàng triệu người. Niềm tin đạo lý sâu xa đó giúp đỡ vô số người qua được những lúc khó khăn. Đôi khi nó tác động một cách lặng lẽ không đáng kể, đôi khi trong những biến chuyển sâu xa. Mỗi người chúng ta, vào một lúc nào đó trong cuộc đời, hẵn đã chứng kiến sức mạnh đó tác động nơi người thân, bạn bè, hay người quen thuộc. Đôi khi, những thí dụ về sức mạnh bền bỉ về niềm tin được tìm thấy ngay trên trang đầu. Thí dụ nhiều người rất quen thuộc với thử thách của Terry Anderson, một người bình thường đột nhiên bị bắt cóc trên đường phố tại Beirut vào một buổi sáng năm 1985. ông bị chụp bằng một cái mền, bị đẩy vào một xe hơi và trong bảy năm tiếp theo ông bị giam làm con tin của nhóm Hezbollah, một nhóm Hồi giáo cực đoan. Cho đến năm 1991, ông bị giam tại một xà lim nhỏ dưới tầng hầm ẩm ướt bẩn thỉu, bị bịt mặt và xiềng xích trong một thời gian dài, chịu đựng những trận đánh đập thường xuyên và những điều kiện khắc nghiệt. Cuối cùng ông được tha, thế giới biết đến ông và thấy ông quá sung sướng được trở về với gia đình và cuộc đời của ông nhưng đáng ngạc nhiên là gần như không cay đắng và thù hận đối với những người đã bắt ông. Khi những phóng viên hỏi ông về nguồn gốc sức mạnh phi thường của ông, ông nhận ra là niềm tin và cầu nguyện là những nhân tố quan trọng giúp ông chịu đựng sự thử thách.
Thế giới đầy những thí dụ như vậy về các khía cạnh mà niềm tin đạo lý đã tạo ra sự giúp đỡ cụ thể trong những lúc khó khăn. Và những cuộc thăm dò rộng lớn mới đây dường như xác nhận sự thực là niềm tin đạo lý đó có thể đóng góp thiết thực cho một đời sống hạnh phúc hơn. Những nhà nghiên cứu độc lập và những tổ chức thăm dò dư luận (như cơ quan Gallup) tiến hành khảo sát thấy rằng những người có tôn giáo thuật lại cảm tưởng hạnh phúc và thỏa mãn với đời sống nhiều hơn là những người không tôn giáo. Những cuộc nghiên cứu đã thấy rằng không những niềm tin là nhà tiên tri tự thuật cảm tưởng hạnh phúc, mà một niềm tin tôn giáo mạnh mẽ cũng xuất hiện để giúp cá nhân đương đầu một cách hữu hiệu hơn với những vấn đề như tuổi già, hay những khủng hoảng cá nhân và những biến chuyển bi đát. Hơn nữa, thống kê cho thấy những gia đình của những người có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ có tỷ lệ thấp về những người phạm pháp, rượu chè, ma túy, và hôn nhân thất bại. Thấm chí có bằng chứng cho thấy niềm tin có lợi ích cho sức khỏe con người - ngay cả những người bệnh nặng. Thực ra đúng là có đến hàng trăm nghiên cứu khoa học và nghiên cứu dịch tễ, xác minh mối liên hệ giữa niềm tin tôn giáo mạnh mẽ, tỷ lệ tử vong thấp, và sức khỏe tốt hơn. Trong một cuộc nghiên cứu, những phụ nữ già có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ sau khi bị giải phẫu hông có thể đi bộ xa hơn các phụ nữ ít tin vào tôn giáo, và họ ít phiền muộn sau khi bị giải phẫu. Một cuộc nghiên cứu của Ronna Casar Harris và Mary Amanda Dew tại Đại Học Y Khoa Pittsburg cho thấy những bệnh nhân thay tim có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ gặp ít khó khăn hơn đối với chế độ y tế hậu phẫu và biểu hiện sức khỏe thể chất và tinh thần tốt hơn. Trong một cuộc nghiên cứu khác do Bác sĩ Thomas Oxamn và những cộng sự của ông tại Trường Y Dartmouth tiến hành, người ta thấy những bệnh nhân trên năm mươi tuổi trải qua giải phẫu tim mở động mạch vành hay van tim, và nương tựa vào niềm tin tôn giáo, sống sót nhiều gấp ba lần những người không tôn giáo.
Những lợi ích của một niềm tin tôn giáo mạnh mẽ trở thành sản phẩm trực tiếp của những học thuyết đặc biệt và những tín ngưỡng của một truyền thống riêng biệt. Nhiều Phật tử, chẳng hạn, có thể chịu đựng đau khổ do tin tưởng vững chắc vào học thuyết về Nghiệp. Tương tự như vậy, những người có niềm tin không lay chuyển vào Thượng Đế, thường có thể đứng vững trước những khó khăn dữ dội vì họ tin vào Thượng Đế toàn trí toàn năng và thương yêu - một Thượng Đế mà kế hoạch của Ngài có thể là mù mịt đối với chúng ta vào hiện tại, nhưng Thượng Đế trong trí tuệ của Ngài, cuối cùng sẽ cho thấy tình thương yêu của Ngài với chúng ta. Với niềm tin vào giáo lý trong Kinh Thánh, họ có thể thấy thoải mái trong thi thơ như Romans 8:28: "Tất cả mọi sự cùng nhau làm điều thiện cho chúng là thương yêu Thượng Đế, cho chúng được kêu gọi theo mục đích của Ngài".
Mặc dù một số phúc báo của niềm tin có thể căn cứ trên những học thuyết riêng tư liên quan đến một truyền thống tôn giáo riêng biệt, nhưng có những đặc trưng làm nên sức mạnh khác của đời sống tinh thần rất phổ biến trong tất cả tôn giáo. Tham gia vào bất cứ tôn giáo nào cũng có thể tạo ra một cảm giác về quan hệ bổn phận cộng đồng và sự quan tâm lẫn nhau với những người cùng nhau tu tập. Nó đem lại một khuôn khổ có ý nghĩa trong đó người này có thể quan hệ và liên kết với những người khác. Và nó cũng có thể cho người ta một cảm nghĩ chấp nhận. Giữ vững niềm tin tôn giáo có thể cho ta ý thức sâu sắc về mục đích, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Những đức tin này sẽ cho ta hy vọng trước nghịch cảnh, khổ đau và cái chết. Chúng giúp ta tiếp nhận một cách nhìn bất biến cho phép ta vượt ra khỏi chính mình khi bị áp đảo bởi những khó khăn trong đời sống hàng ngày. Mặc dù tất cả những lợi ích tiềm tàng này sẵn sàng cho những ai thực hành giáo lý của một tôn giáo đã chính thức hóa, nhưng rõ ràng là chỉ có niềm tin tôn giáo không thôi thì không bảo đảm được hạnh phúc và an ổn. Thí dụ vào lúc Terry Anderson bị cùm trong xà lim biểu lộ những thuộc tính tốt đẹp nhất của niềm tin tôn giáo, thì bên ngoài xà lim bạo lực hận thù dữ dội hoành hành cho thấy những thuộc tính xấu xa nhất của niềm tin tôn giáo. Đã nhiều năm tại Lebanon, nhiều giáo phái Đạo Hồi đã ở trong tình trạng chiến tranh với tín đồ Cơ Đốc và Do Thái giáo, bị kích thích bởi bạo lực hận thù từ mọi phía, dần dần sự tàn bạo không tả xiết trên danh nghĩa tôn giáo. Đó là chuyện xưa, chuyện mà ta thường được nghe kể qua lịch sử và cũng thường được nhắc lại trong thế giới hiện đại.
Vì tiềm lực gây chia rẽ và hận thù này, người ta dễ dàng mất niềm tin vào những thể chế tôn giáo. Điều này dẫn đến một số nhân vật tôn giáo như Đức Đạt Lai Lạt Ma cố gắng lọc ra những yếu tố về đời sống tinh thần có thể áp dụng cho bất cứ một cá nhân nào muốn nâng cao hạnh phúc của mình, dù ở bất cứ truyền thống tôn giáo hay có tin vào tôn giáo hay không.
Bởi vậy, bằng một giọng nói quả quyết, Đức Đạt Lai Lạt Ma kết luận cuộc bàn luận bằng tầm nhìn rộng vào một đời sống tinh thần thực sự: "Vậy, nói đến việc bầy tỏ phương diện tinh thần trong đời sống của chúng ta, chúng ta phải nhận biết đức tin tôn giáo là một bình diện tinh thần. Vì, về tôn giáo, nếu chúng ta tin vào bất cứ một tôn giáo nào thì điều đó là tốt. Nhưng cả khi không có đức tin tôn giáo, chúng ta vẫn có thể xoay xở. Trong một vài trường hợp chúng ta có thể xoay xở tốt hơn. Nhưng đó là quyền của một cá nhân, nếu chúng ta muốn tin, tốt! Nếu không tin, cũng được. Nhưng có một bình diện tinh thần khác. Đó là cái mà tôi gọi là tính tinh thần căn bản - những đức tính căn bản làm người như lòng tốt, hảo tâm, từ bi, quan tâm. Dù chúng ta có đức tin hay không có đức tin, loại tinh thần này vẫn là thiết yếu. Cá nhân tôi coi bình diện tinh thần thứ hai này quan trọng hơn bình diện thứ nhất, vì dù cho một tôn giáo đặc biệt có tuyệt vời đến đâu đi nữa, thì tôn giáo đó vẫn chỉ được chấp nhận bởi một số chúng sinh giới hạn, chỉ một phần của nhân loại. Nhưng chừng nào chúng ta còn là con người, là thành viên của gia đình nhân loại, tất cả chúng ta đều cần phải có những giá trị tinh thần căn bản ấy. Không có những giá trị này, cuộc sống con người sẽ khó khăn, rất vô vị. Kết quả là không một ai trong chúng ta có thể có hạnh phúc, toàn thể gia đình chúng ta sẽ đau khổ và, cuối cùng, xã hội sẽ có nhiều khó khăn. Cho nên, điều trở nên rõ ràng là tu dưỡng những loại giá trị tinh thần căn bản trở nên quan trọng.
"Trong khi tìm cách trau dồi những giá trị tinh thần căn bản này, tôi nghĩ chúng ta cần phải nhớ rằng trong số năm tỷ người trên hành tinh này, có lẽ một hay hai tỷ người rất thành thực, thực sự tin tuởng vào tôn giáo. Dĩ nhiên, khi tôi đề cập đến những người tin tưởng thành thật, tôi không bao gồm những người, thí dụ, chỉ nói, "Tôi là người Cơ Đốc" chủ yếu là vì gia đình của họ gốc là Cơ Đốc Giáo, nhưng hàng ngày không mấy lưu ý đến niềm tin Cơ Đốc Giáo hay tích cực tu tập tôn giáo này. Vậy, ngoại trừ những người này, tôi tin là có lẽ chỉ có khoảng một tỷ người thành khẩn tu tập tôn giáo của mình. Có nghĩa là bốn tỷ, đa số người trên trái đất này đều là những người không tín ngưỡng. Cho nên chúng ta vẫn phải tìmra cách để cải thiện đời sống cho đa số người này, bốn tỷ người chưa tham gia vào một tôn giáo nào - cách giúp họ trở thành người tốt, người có đạo đức mà không có tôn giáo gì. Nơi đây tôi nghĩ giáo dục là chủ yếu - làm cho con người thấm nhuần tinh thần rằng từ bi, hảo tâm, vân vân... là những đức tính căn bản tốt của con người, không phải chỉ là nội dung của đề tài tôn giáo. Tôi nghĩ trước đây chúng ta đã nói nhiều đến tầm quan trọng hàng đầu của con người là nồng nhiệt, lòng thương yêu, và từ bi về sức khỏe, hạnh phúc, và tâm an lạc trong con người. Đấy là một vấn đề rất thực tiễn, không phải là lý thuyết tôn giáo hay suy đoán triết lý. Nó là một vấn đề then chốt. Và tôi nghĩ rằng thực ra đó là cốt lõi của tất cả những giáo lý của những truyền thống khác nhau. Nhưng nó vẫn rất quan trọng cho những ai không muốn đi theo một tôn giáo đặc biệt nào cả. Với những người này, tôi nghĩ chúng ta có thể giáo dục họ, và làm cho họ lnhận thức rằng không theo một tôn giáo nào cũng không sao nhưng phải là một người tốt, một con người có ý thức, có tinh thần trách nhiệm và tận tụy vì thế giới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
"Thông thường, có thể biểu thị lối sống đạo lý riêng hay tinh thần qua những phương tiện bên ngoài, như mặc thứ quần áo nào đó, có điện thờ, hay một cái bàn thờ trong nhà, hay tụng niệm vân vân... Có những cách biểu lộ chúng ở bên ngoài. Tuy nhiên, những sự thực hành hay những hoạt động này chỉ là thứ yếu để hành một lối sống tinh thần đích thực, căn cứ vào những giá trị tinh thần căn bản, vì rất có thể tất cả những hoạt động tôn giáo bên ngoài vẫn còn chấp nhận người ta nuôi dưỡng trạng thái tinh thần tiêu cực. Nhưng tính tinh thần thực sự phải biểu thị kết quả làm cho người ta bình tĩnh hơn, hạnh phúc hơn, và an bình hơn.
"Tất cả những trạng thái đạo đức của tâm - từ bi, khoan dung, tha thứ, quan tâm, và vân vân... - những đức tính tinh thần này là Pháp đích thực, hay những đức tính tinh thần đích thực, vì tất cả những đức tính tinh thần nội tâm này không thể cùng tồn tại với những ý nghĩ xấu xa hay trạng thái tâm tiêu cực.
"Cho nên rèn luyện hay tiến hành một phương pháp dẫn đến kỷ luật tinh thần trong tâm trí con người là cốt lõi của đời sống đạo lý, kỷ luật tinh thần có mục đích trau dồi những trạng thái tinh thần tích cực. Như vậy, liệu ta có một cuộc đời tinh thần hay không còn tùy thuộc vào việc liệu ta có thành công trong việc đạt được trạng thái tâm đã được chế ngự và chuyển trạng thái tâm ấy vào hành động hàng ngày của ta."
Đức Đạt Lai Lạt Ma sắp sửa phải dự buổi tiếp tân để tỏ lòng trân trọng với một nhóm người hảo tâm, ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp của người Tây Tạng. Bên ngoài phòng tiếp tân, một nhóm đông người tụ tập để đón chào Ngài. Vào lúc Ngài đến, số người trở nên rất đông. Trong số những người này, tôi thấy một người đàn ông mà tôi đã gặp đôi lần trong tuần. Không rõ ông ta bao nhiêu tuổi, nhưng tôi đoán ông ta khoảng 25, có lẽ trên 30 tuổi, cao và mảnh khảnh. Bề ngoài xốc xếch của ông, khiến tôi chú ý đến vẻ mặt của ông, một vẻ mặt mà tôi thường thấy trong số những bệnh nhân của tôi - lo lắng, hết sức chán nản, đau đớn. Và tôi nghĩ tôi để ý thấy hệ thống cơ chung quanh miệng ông giật nhẹ liên tục, chứng bệnh "Tardive dyskenesia", tôi lặng lẽ chẩn đoán, một chứng bệnh thần kinh gây ra bởi thường xuyên dùng thuốc an thần."Tội cho y", tôi nghĩ vào lúc đó nhưng rồi cũng quên ngay ông ta.
Khi Đức Đạt lai Lạt Ma tới, đám đông chen lân tới phía trước để đón chào Ngài. Nhân viên an ninh hầu hết là người tình nguyện cố sức ngăn chặn đám đông và mở con đường đi vào phòng tiếp tân. Người đàn ông trẻ tuổi mà tôi nhìn thấy trước đó, bnấy giờ với vẻ mặt có phần bối rối, bị đám đông xô đẩy tới rìa khoảng trống do đội an ninh phụ trách. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đang tiến vào phòng tiếp tân,Ngài để ý tới người đàn ông đã vượt qua hàng rào an ninh và Ngài đã dừng lại để nói chuyện với ông ta. Thoạt tiên ông ta hoảng hốt rồi nói nhanh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài trả lời ông ta mấy câu. Tôi không thể nghe họ nói gì, nhưng nhìn thấy khi ông ta nói ông ta bắt đầu có vẻ bồn chồn hơn. Người đàn ông này đang nói điều gì đó, nhưng thay vì trả lời, Đức Đạt Lai Lạt Ma cầm lấy tay ông ta, vỗ nhẹ vào bàn tay, đứng yên hồi lâu rồi lặng lẽ gật đầu. Ngài nắm tay người đàn ông thật chặt, nhìn thẳng vào mắt ông ta, như thể Ngài không lưu tâm gì đến đám đông chung quanh. Vẻ mặt bồn chồn và đau đớn đột nhiên biến mất trên gương mặt của ông ta và nước mắt tuôn rơi trên gò má. Dẫu rằng nụ cười xuất hiện và từ từ lan tỏa trên khuôn vẫn còn nhạt nhò nhưng có,vẻ thoải mái và sung sướng đã hiện ra nơi khóe mắt.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhân mạnh nhiều lần, kỷ luật tinh thần là cơ sở của đời sống tinh thần. Nó là phương pháp cơ bảnđể đạt hạnh phúc. Trong suốt cuốn sách này, Ngài giải thích cách nhìn của Ngài rằng kỷ luật tinh thần liên quan đến việc tranh đấu với những trạng thái tinh thần tiêu cực như giận dữ, thù hận, tham lan và trau dồi những trạng thái tích cực như hảo tâm, từ bi, và khoan dung. Ngài cũng vạch rõ rằng cuộc sống hạnh phúc phải xấy dựng trên nền tảng của một trạng thái tâm an ổn Tu tập kỷ luật tinh thần có thể bao gồm các kỹ thuật hành thiền chính thống làm cho tâm ổn định và đạt được trạng thái bình tĩnh. Hầu hết những truyền thống tinh thần đều đưa ra cách tu tập àm cho tâmlắng xuống, giúp chúng ta tiếp xúc nhiều hơn với bản chất tinh thần sâu hơn. Ở phần kết luận trong loạt nói chuyện với công chúng tại Tuscon, Ngài đã trình bày những chỉ dẫn về thiền hành để giúp chúng ta bắt đầu lắng đọng vọng tưởng, quan sát bản chất tiềm ẩn của tâm, và do đó phát triển "tâm tĩnh lặng".
Nhìn khắp phòng họp, Ngài bắt đầu nói bằng cung cách tiêu biểu của Ngài thay vì nói với đám đông, dường như Ngài đang đang tự mình hướng dẫn từng người một trong số khán giả. Có lúc Ngài yên lặng tập trung, có lúc Ngài rất sôi nổi, nhịp nhàng trình bày chỉ dẫn của Ngài bằng những cái gật đầu thật tinh tế, những điệu bộ bằng tay và những động tác đu đưa nhẹ nhàng.
THIỀN ĐỊNH VÀ BẢN CHẤT CỦA TÂM
Ngài bắt đầu, "Mục đích bài tập này là bắt đầu xác nhận và có cảm giác về bản chất của tâm, ít nhất ở mức độ bình thường. Nói chung khi chúng ta nói đến "tâm", chúng ta đang nói đến một khái niệm trừu tượng. Không có một kinh nghiệm trực tiếp về tâm, thí dụ, nếu chúng ta được yêu cầu nhận dạng tâm, chúng ta bắt buộc chỉ vào bộ não. Hoặc, nếu chúng ta được yêu cầu định nghĩa tâm, chúng ta có thể nói đó là khả năng "biết", "hiểu được" và "nhận thức được". Nhưng không trực tiếp nắm được tâm do thiền tập, những định nghĩa ấy chỉ là lời nói suông. Điều quan trọng là có thể nhận dạng tâm qua kinh nghiệm trực tiếp, chứ không phải là một khái niệm trừu tượng. Vậy nên, mục đích bài tập này là nhằm trực tiếp cảm thấy hay nắm được bản chất thông thường của tâm, để khi bạn nói tâm có những đặc tính "trong sáng "và "nhận thức được", bạn có thể nhận dạng được nó do kinh nghiệm chứ không phải chỉ là khái niệm trừu tượng.
"Bài tập này giúp bạn chú ý ngưng những vọng tưởng và dần dần giữ được tình trạng ấy càng ngày càng lâu hơn. Khi thực hành bài tập này, cuối cùng bạn sẽ thấy một cảm giác như không có gì ở đó, một cảm nghĩ trống rỗng. Nhưng nếu bạn đi xa hơn, cuối cùng bạn sẽ nhận ra bản chất tiềm ẩn của tâm, những đặc tính "trong sáng " và nhận biết được". Nó cũng giống như ly thủy tinh đầy nước. Nếu nước trong, bạn có thể nhìn thấy đáy ly, tuy bạn vẫn công nhận có nước tại đây. Vậy, hôm nay chúng ta thiền định về khái niệm không. Đấy không phải là trạng thái vô tri vô giác đơn thuần hay trạng thái tâm trống rỗng. Đúng hơn là cái mà bạn phải làm trước nhất, là quyết tâm rằng, "tôi sẽ duy trì trạng thái không vọng tưởng". Cách bạn phải làm như thế này:
"Nói chung tâm chúng ta chủ yếu hướng về những đối tượng bên ngoài. Sự lưu ý của chúng ta theo cảm giác kinh nghiệm. Phần lớn nó duy trì ở mức cảm giác và nhận thức. Nói một cách khác, thông thường ý thức của chúng ta hướng vào những kinh nghiệm cảm giác thể chất và khái niệm tinh thần. Nhưng trong bài tập này, điều mà bạn nên làm là kéo tâm bạn vào bên trong, đừng để nó đuổi theo hay chú ý đến đối tượng cảm giác. Đồng thời đừng để nó bị rút hoàn toàn đến mức độ vô tri vô giác hay thiếu chú tâm, Bạn phải duy trì trạng thái tỉnh táo và chú tâm thật đất đủ và rồi cố tìm hiểu trạng thái ý thức tự nhiên của bạn - một trạng thái mà ý thức của bạn không bị đau đớn bởi những ý nghĩ về quá khứ, những sự việc đã xẩy ra, những kỷ niệm và ký ức, và cũng không bị đau đớn về những ý nghĩ về tương lai, giống như kế hoạch tương lai, những mong đợi, sợ hãi, hay hy vọng. Mà đúng hơn là cố gắng duy trì trong trạng thái tự nhiên và vô tư.
"Điều này đôi chút giốn như một dòng sông đang chảy siết mà bạn không thể nhìn được lòng sông rõ ràng. Tuy nhiên, nếu bằng cách nào đó bạn có thể làm cho nó ngưng chảy từ cả hai chiều từ phía nguồn chảy vào và chảy ra, thì bạn có thể làm cho nước đứng yên. Việc đó làm cho bạn có thể nhìn thấy đáy sông rõ ràng. Tương tự như vậy, nếu bạn có thể ngưng tâm lại không cho nó đuổi theo những đối tượng cảm giác và nghĩ về quá khứ và vị lai vân vân..., cũng như khi bạn có thể giải thóat tâm bạn khỏi bị " trống rỗng" hoàn toàn, thì bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy bên dưới cái hỗn loạn của tiến trình tư tưởng. Có một sự trầm lặng bên dưới, một sự trong sáng ở bên dưới của tâm. Bạn nên cố gắng quan sát và chứng nghiệm điều này.
"Điều này có thể là rất khó ở giai đoạn đầu, chúng ta hãy bắt đầu ngay từ bài giảng này. Ở giai đoạn đầu khi bắt đầu trải nghiệm trạng thái tự nhiên tiềm ẩn của thức, bạn có thể trải nghiệm nó dưới hình thức của một loại "vắng mặt" nào đó. Điều này xẩy ra vì chúng ta quá quen biết tâm chúng ta bằng đối tượng bên ngoài, chúng ta có hay nhìn thế giới bằng quan niệm, hình ảnh và vân vân ...Vậy khi bạn rút tâm ra khỏi những đối tượng bên ngoài, gần như thể là bạn không thể nhận ra tâm của bạn. Hồ như vắng mặt, hồ như trống rỗng. Tuy nhiên khi bạn tiến bộ dần và quen đi với việc ấy, bạn bắt đầu đánh giá cao và nhận thức được trạng thái tự nhiên của tâm. "Nhiều kinh nghiệm thiền định thực sâu xa đạt được trên cơ sở của loại tâm trầm tĩnh này... Đức Đạt Lai Lạt Ma cười nói, "tôi phải nhắc nhở loại thiền này, vì không có đối tượng đặc biệt để tập trung vào, nên có nguy cơ buồn ngủ.
"Vậy, nay chúng ta hãy thiền tập ...
"Để bắt đầu, chúng ta hãy hít thở ba lần, và chỉ tập trung chú ý vào hơi thở. Chỉ ý thức về hít vào, thở ra, hít vào thở ra ba lần. Rồi bắt đầu thiền."
Đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ kính ra, để tay trên đùi, và ngồi bất động trong thiền định. Một sự im lặng hoàn toàn tràn ngập khắp phòng, một ngàn năm trăm người quay vào nội tâm, quay vào cái cô tịch của một ngàn năm trăm thế giới riêng tư, tìm cách lắng đọng vọng tưởng và có lẽ thoáng thấy bản chất thực sự của tâm họ. Sau năm phút sự im lặng bị rạn ra nhưng chưa vỡ hẳn, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu tụng nhẹ nhàng, giọng của Ngài trầm trầm và du dương, êm đềm đưa người nghe ra khỏi thiền định.
Vào lúc kết thúc buổi giảng, như thường lệ, Đức Đạt Lai Lạt Ma chắp tay, cúi đầu chào khán giả với lòng thương yêu và kính trọng, Ngài đứng dạy, đi qua đám đông vấy quanh. Hai tay vẫn chắp vào nhau, Ngài tiếp tục cúi chào khi rời khỏi phòng. Khi đi qua đám đông Ngài cúi đầu thấp đến nỗi người đứng xa vài bước cũng không thể nhìn thấy Ngài. Ngài hình như biến đi trong cái biển đầu người. Tuy nhiên từ đàng xa, người ta vẫn có thể phát hiện đường đi của Ngài, do sự chuyển động tinh tế của đám đông khi Ngài đi qua. Như thể là Ngài không còn là một đối tượng có thể nhìn thấy, mà hoàn toàn trở thành cảm thấy sự hiện diện .
-ooOoo-
LỜI CÁM ƠN
Cuốn sách này không thể có được nếu không có sự cố gắng và hảo tâm của nhiều người. Trước nhất, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn chân thành của tôi đến Đức Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn, với lòng tri ân sâu xa của tôi Vê lòng hảo tâm, độ lượng, nguồn cảm hứng và tình hữu nghị vô bờ bến của Ngài. Và đối với cha mẹ tôi, James và Bettie Cutlere, với kỷ niệm thương yêu, đã cho tôi nền móng của con đường đi đến hạnh phúc trong cuộc đời.
Những lời cảm ơn chân thành của tôi đến nhiều người khác:
Đến Tiến Sĩ Thupten Jinpa vì tình hữu nghị của ông, sự giúp đỡ của ông trong việc biên tập các phần của sách này, và với vai trò chủ yếu của ông là làm phiên dịch trong những buổi thuyết pháp của Đức Đat Lai Lạt Ma với công chúng, và trong những cuộc đàm thoại riêng tư với ông. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến Lobsang Jordhen, Thượng Tọa Lhakdor, đã làm thông dịch viên trong một số các cuộc đàm thoại của tôi với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ấn Độ.
Xin gửi lời cảm ơn tới Geyche Tethong, Rinchen Dharlo, và Dawa Tsering, vì sự ủng hộ và giúp đõ trên nhiều phương diện qua nhiều năm. Xin gửi lời cảm ơn đến nhiều người đã làm việc hăng say để bảo đảm rằng cuộc viếng thăm của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một kinh nghiệm bổ ích cho rất nhiều người; đến Claude d'Estree, Ken Bacher và ban giám đốc và nhân viên của Arizona Teachings Inc., đến Peggy Hitchcock và ban giám đốc của Arizona Friends of Tibet, đến Tiến Sĩ Pam Wilson và những người đã tổ chức buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Đại Học Arizona và hàng tá người tình nguyện với những cố gắng không mệt mỏi nhân danh tất cả những người đã tham gia vào những buổi giảng tại Arizona.
Xin gửi lời cảm ơn đến những nhân viên đặc biệt của tôi, Sharon Friedman và Ralph Vicinanza, và những nhân viên tuyệt vời của họ, vì những khuyến khích, tận tình, giúp đỡ trong nhiều khía cạnh của chương trình này, và công việc khó khăn vượt ngoài bổn phận. Tôi đặc biệt chịu ơn họ.
Xin gửi lời cảm ơn đến những người đđưa ra sự giúp đỡ vô giá trong việc biên tập, sự sáng suốt, và chuyên môn, cùng sự hỗ trợ cá nhân trong tiến trình soạn thảo dài: Ruth Hapgood với những cố gắng tài ba trong việc biên tập bản thảo lúc đầu, Barbara Gates và Tiến Sĩ Ronna Kabatznick vì những sự giúp đỡ không thể thiếu của họ khi vất vả đọc nhiều tài liệu, tập trung và sắp xếp tài liệu thành một câu trúc mạch lạc, và tới người biên tập tài ba của tôi tại Riverhead, Amy Hertz, vì sự tin tưởng vào kế hoạch và giúp tôi trình bày cuốn sách. Và cũng xin gửi lời cảm ơn đến Jennifer Kepo và những nhân viên ân hành làm việc hăng say và toàn thể nhân viên của Riverhead Books. Tôi cũng xin chuyển lời cảm ơn nồng nhiệt tới những người đã giúp tôi ghi lại những bài nói chuyện trước công chúng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Arizona, và đã đánh máy những phần đầu của bản thảo.
Để kết thúc, xin gửi những lời cảm ơn sâu xa của tôi đến:
- Những giáo sư của tôi,
- Gia đình tôi và nhiều bạn hữu đã làm cho đời tôi phong phú trong nhiều phương diện.
- Đến Gina Beckwith Eckel, Tiến Sĩ David Weiss và Daphne Arkeson, Tiến Sĩ Gillian Hamilton, Helen Mitsios, David Greenwalt, Dale Brozosky, Kristi Ingham Espinasse, Tiến Sĩ David Klebanoff, Henrietta Bernstein, Tom Minor, Ellen Wyatt Gothe, Tiến Sĩ Gail McDonald, Larry Cutler, Randy Cutler, Lori Waren, và lời cảm ơn đặc biệt và cảm niệm sâu xa đến Candee và Scott Bierley
- Các bạn hữu khác mà tôi đã không ghi tên tại đây, nhưng vẫn giữ luôn luôn trong tâm lòng thương yêu, tri ân, và kính trọng với những bạn này.
-- HẾT --


Vài nét về Dịch giả, Thượng tọa Thích Tâm Quang
THÂN THẾ
Thượng tọa có thế danh là Nguyễn Hữu Vũ, pháp danh Minh Phát, và pháp tự là Thích Tâm Quang, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông thứ 45. Ngài sinh năm Giáp Tý (1924), nguyên quán ở Quận Hoàn Long, Hà Nội, là con trai trưởng trong một gia đình có sáu anh chị em, gồm ba trai ba gái.
http://buddhanet.net/budsas/uni/u-nthp/nthp-tamquang.jpgSinh trưởng trong một gia đình nề nếp theo đạo Phật, ngay từ thuở bé đã theo bố mẹ đi chùa lễ bái cúng Phật thường xuyên vào những ngày Rằm và mồng Một mỗi tháng. Lớn lên, Ngài theo học chương trình Pháp văn nên rất thông thạo tiếng Pháp.
Ngài cùng gia đình di cư vào miền Nam năm 1955; tham gia quân đội, phục vụ Cục Mãi Dịch và là sĩ quan đại diện Phật Giáo của Cục này. Năm 1965, giải ngũ với cấp bậc Đại Úy. Sau đó, Ngài làm việc cho một cơ quan Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Nhờ đó, Ngài được trau dồi thêm khả năng phiên dịch Anh ngữ.
Năm 1975, Ngài cùng gia đình sang định cư tại Hoa Kỳ, ở Quận hạt Fresno, Tiểu bang California. Vừa đến Fresno là Ngài được nhận vào làm việc với cơ quan tài chánh quận này cho đến ngày về hưu trí năm 1987.
Nhờ duyên lành, Ngài được gặp Hòa thượng Thích Đức Niệm năm 1979, và được Hòa thượng dìu dắt học Phật và làm Phật sự tại đây. Sau thời gian tu tập và làm Phật sự gần một năm, Hòa thượng Thích Đức Niệm nhận thấy Thượng tọa đã có cơ duyên với Phật Pháp nên hướng dẫn cho quy y Tam Bảo, với pháp danh là Minh Phát.
CÔNG TÁC PHẬT SỰ
Nhờ có tâm thành với Phật Pháp, lại được sự dìu dắt ân cần của Hòa thượng Bổn Sư, nên Ngài đã cùng với một số Phật tử tại quận hạt Fresno mua được một ngôi nhà cũ nhỏ để cải gia vi tự với tên là Chùa Tam Bảo. Khi còn là Phật tử tại gia, Ngài rất cần mẫn và nhiệt thành với Phật sự trong cương vị Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam vùng Central Valley, California. Vì không có trụ trì nên ban ngày thì đi làm, tối về ngủ luôn tại chùa, lo kinh kệ và hương đèn sớm hôm cúng Phật như một vị hộ tự. Người Việt định cư tại đấy đều mến mộ. Nhờ đó, ngôi chùa Tam Bảo ngày càng vững mạnh thêm.
Sau khi nghĩ hưu, Ngài đích thân đến Phật Học Viện Quốc Tế, đảnh lễ Hòa thượng Bổn Sư và xin được xuất gia đầu Phật. Tháng Sáu năm 1988, bổn sư nhận thấy có khả năng kham lãnh giới pháp nên cho phép đăng đàn thọ giới Cụ túc và Bồ Tát giới cùng một lần. Hòa thượng Thích Đức Niệm làm Đàn Đầu truyền giới, Hòa thượng Thích Trí Chơn làm Yết Ma A xa lê sư, và Thượng tọa Thích Tín Nghĩa làm Giáo Thọ A xà lê sư. Sau khi đắc giới, bổn sư cho trở lại Chùa Tam Bảo, vừa để trông coi ngôi già lam vừa cấm túc ba tháng tụng kinh và lạy Hồng Danh Bảo Sám. Mãn hạ, lại trở lại Phật Học Viện để đảnh lễ Bổn Sư và Đại Chúng là đã làm tròn bổn phận một phần nào trong sự bái sám theo sự chỉ dẫn của bổn sư.
Kể từ khi phát tâm xuất gia, cầu thọ giới pháp, Ngài không lúc nào là không để tâm cho Phật Pháp, từ những việc của Chùa Tam Bảo, Fresno, cho đến những đóng góp khiêm tốn theo hạnh nguyện của Thượng tọa với Giáo Hội.http://buddhanet.net/budsas/uni/u-nthp/nthp-tambao.jpg
Đầu năm 1995, Thượng tọa phát động xây cất chùa mới. Ngôi chùa Tam Bảo thật sự đã hình thành. Chùa Tam Bảo mới nầy được xây cất tuy không to lớn đồ sộ nguy nga, nhưng khang trang và đẹp đẽ, hợp pháp nơi xứ người, với những nét đặc thù văn hóa Việt Nam và Phật Giáo. Trong khuôn viên chùa, còn có Ngôi Bảo Tháp bảy tầng để thờ xá lợi Phật và Đài Quán Thế Âm lộ thiên.
Ngôi già lam này không những chỉ đáp ứng cho nhu cầu Phật Sự tại địa phương mà còn là một di tích lịch sử quý giá về việc hoằng pháp lợi sanh trong tương lai cho đàn hậu tấn ở xứ người. Đây là một thành quả đáng kể và xứng đáng với hạnh nguyện xuất gia của Thầy Tâm Quang.
HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA
Song song với công tác Phật Sự, như lo xây cất Ngôi Bảo Điện, Tháp thờ Xá Lợi, Đài Quán Âm Lộ Thiên, v.v..., Thượng tọa còn dấn thân vào công tác Phật Sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ. Ngoài nhiệm vụ Phụ Tá Đặc Biệt của Hòa thượng Thích Đức Niệm, Chánh Văn Phòng Hội Đồng Đại Diện, Thượng tọa Tâm Quang còn dành ra một số thời gian rất lớn cho các hoạt động văn hóa, nhất là về mặt dịch thuật kinh sách. Ngài chú tâm vào công tác dịch thuật những tác phẩm nổi tiếng của các bậc cao tăng chơn tu. Đa phần những dịch phẩm đều có dạng song ngữ Anh-Việt.
Phần chuyển ngữ từ Anh Văn sang Việt Văn:
* Ba Ngàn Năm Một Kiếp Luân Hồi
* Những Chuyên Luân Hồi Hiện Đại
* Người Chết Vẫn Sống
Phần Song Ngữ Anh-Việt:
* Nền Tảng Của Đạo Phật
* Hạnh Phúc Lứa Đôi
* Làm Sao Khỏi Sợ Hãi và Lo Lắng
* Đạo Phật và Đời Sống Hiện Đại
* Làm Sao Thực Hành Lời Phật Dạy
* Chết Có Thật Đáng Sợ Không
* Vì Sao Tin Phật, 3 tập
* Khoa Học Dưới Lăng Kính Phật Giáo
* Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo, 3 tập
* Cây Giác Ngộ, 3 tập
* Nghệ Thật Tạo Hạnh Phúc, 2 tập.
Với hạnh nguyện, sự tu tập hành trì giới luật, và công tác Phật sự đã và đang đóng góp, vào tháng 9 năm 1998, Ngài được bổn sư tấn phong lên hàng Thượng Tọa trong Đại Hội Thường Niên Năm Thứ Hai, nhiệm Kỳ Hai, tại Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại. Thượng tọa đã được chư tôn giáo phẩm tán dương và hoan hỷ. Theo lời của Thượng tọa Thích Tín Nghĩa:
-- "Thượng tọa Thích Tâm Quang, xứng đáng có một chỗ đứng trong hàng ngũ Tăng Già tại Hải ngoại, đặc biệt là phần kiến tạo Ngôi Già Lam Tam Bảo tại Quận Hạt Fresno, Tiểu Bang California cũng như phần đóng góp tích cực về Văn Hóa Phật Giáo qua những dịch phẩm vô cùng quý giá để lại cho đời và đạo.
Tôi, Tỳ Kheo Thích Tín Nghĩa, đã từng hướng dẫn Thượng tọa trong thời gian chưa xuất gia khi còn là một cư sĩ thuần cẩn trong cương vị Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam Vùng Central Valley California và Chùa Tam Bảo, xin có đôi lời chúc mừng và tán dương Thượng tọa Thích Tâm Quang."

No comments:

Post a Comment