Thích Thiện Siêu
Đạo
Phật như một vườn hoa, mà người xuất gia là người giữ gìn, chăm sóc, cần phải
biết rõ từng bông hoa... Người xuất gia là chủ vườn, chứ không phải là người
ngoại cuộc, chỉ cỡi ngựa xem hoa đã vội phê phán bình phẩm đủ cách. Phật tử
chúng ta là những người giữ gìn gia tài Phật pháp, phải có thái độ như thế nào
đối với những người cỡi ngựa xem hoa đó? Không lẽ chỉ hùa theo sự khen chê của
họ?
Mặc
dù biết Phật pháp mênh mông, cũng không ngoài một vị giải thoát cho nên dù chỉ
học một câu kinh, tu hành một pháp môn cho thấu đáo cũng có thể hưởng được
hương vị giải thoát mà không cần uống hết cả biển giáo lý. Nhưng điều cốt yếu
là phải thực hành chứ không phải nói suông mà hiểu đạo được.
Đạo
là con đường, nhưng đi trên con đường đạo không như đi trên đường cái. Đường
cái dễ đi, dễ đến, có khoảng cách rõ rệt, bao nhiêu cây số là bấy nhiêu thời
gian tương ứng, có điểm khởi hành, có điểm đến hẳn hoi. Nhưng đường đạo thì
không như thế. Khi bắt đầu tu gọi là khởi điểm, mà khởi điểm này cũng ở tại
Tâm. Tu hành gọi là đi, cũng chỉ trong một Tâm ấy mà khi đạt đến đích giác ngộ,
thì cũng ở một Tâm ấy chứ đâu khác.
Thế
mà tại sao đi mãi vẫn không đến? Đó chính là vì cái Ta cứ ngăn chận làm cho trễ
nãi, biếng nhác, sa ngã, bước được một bước thì bị lục căn lục trần xen vào kéo
lui ba bước. Muốn tinh tấn tu hành nhưng cái ngã nó xen vào và bảo: Để ta ăn
cái đã, để ta ngủ cái đã, để ta coi cái đã, để ta nghe cái đã. Cái ngã chấp đó
càng bành trướng càng gây tai họa. Ngã chấp của ta càng to càng dễ gây đụng
chạm với cái ngã của người khác. Người khác cũng bồi bổ cái ngã của họ nên lại
va chạm với ta. Ví như có một ngôi nhà rộng thênh thang mười người ở không
khắp, thế mà một khi những người ở trong đó để cái Ta nổi lên thì sẽ va chạm
nhau đến nỗi rốt cuộc mỗi người đi mỗi ngả, khi còn một người mà vẫn thấy chật.
Đó là vì ngã chấp. Tôi lấy ví dụ để minh họa vấn đề ngã chấp này:
Ngày
xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng gõ cửa Thượng Đế,
Thượng Đế hỏi:
-- Ai đó?
-- Tôi, Linh hồn đáp.
-- Ai đó?
-- Tôi, Linh hồn đáp.
Thượng
Đế hỏi:
-- Tôi là ai?
-- Tôi là tôi.
-- Tôi là ai?
-- Tôi là tôi.
Thượng
Đế bảo:
-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.
-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.
Linh
hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa, sau đó lên trời gõ
cửa lại.
Thượng
Đế hỏi: -- Ai đó?
Đáp: -- Tôi.
-- Tôi là ai?
-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.
Đáp: -- Tôi.
-- Tôi là ai?
-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.
Khi
ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào.
Thí
dụ trên cho ta thấy, một ngàn năm trước tôi là tôi - còn ngã chấp, thì không
vào thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, mới vào được, vì hết ngã
chấp. Vì ta với mình tuy hai mà một. Niết bàn là cái tuyệt đối không dung ngã.
Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng
nên rất khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa
Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà
hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm
về tôi, về ta, cũng không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa
Niết bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn chứ không phải
đòi hỏi có cái ta để vào Niết bàn.
Một
hôm có người đến hỏi Thiền sư Duy Khoang: "Đạo ở đâu?" Sư đáp:
"Đạo ở trước mắt" - "Sao tôi không thấy?", người ấy hỏi.
Ngài đáp: "Vì ngươi đang bận nghĩ tới mình ta cho nên không thấy"
-" còn Hòa Thượng có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Hễ
còn bận nghĩ tới ta, ngươi thì đều không thấy" - "Khi không còn bận
nghĩ tới ta, ngươi nữa thì có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp:
"Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi, thì bấy giờ ai hỏi
đạo ở tại đâu?"
Giả
sử lúc đó người ấy hỏi ngài Niết bàn ở tại đâu thì chắc Ngài cũng đáp tương tự
như thế, và câu đáp cuối cùng hẵn là: "Khi không còn có tâm phân biệt bận
nghĩ tơi ta, ngươi thì bây giờ ai hỏi Niết bàn ở tại đâu? Sao tôi không vào
được? Vì đã không còn tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì tức lúc ấy tâm
thanh tịnh không còn vọng tưởng tham ái, tức là Niết bàn đó rồi, chứ có phải ở
đâu xa mà phải tìm kiếm?"
Vậy
cho nên cần phải biết: Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham, sân, si do ngã chấp
gây nên. Vô ngã là Niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ phút đó là
Niết bàn. Cho nên chúng ta thấy Niết bàn vừa là cái chung, vừa là cái riêng.
Cái chung là ai cũng tu được, vào được. Cái riêng là chỉ ai tu người ấy đắc.
Đức Phật, Ngài không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ dạy cho ta con
đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy:
"Ai
còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi,
ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến,
thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an
thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai
không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời
không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ
đau". (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65, 1982)
Vậy
thì nói Phật độ chúng sanh là gì? Ở đây chúng ta cần phân biệt chữ
"độ" và chữ "cứu rỗi". Chữ "cứu rỗi" thì chỉ cần
đức tin, tin có một đấng tối cao, đấng ấy sẽ rước ta vào cõi phúc lạc của Ngài
ở một nơi nào đó, nếu ta đầy đủ lòng tin. Trái lại chữ "độ", nghĩa là
vượt qua, có nghĩa là làm cho chúng sanh thấy rõ rằng: chính vì bản ngã mà nổi
chìm trong biển phiền não sanh tử. Vậy chỉ cần trừ cái ngã chấp thì phiền não
không còn đất đứng. Khi phiền não đã trừ thì kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc
cũng dứt mà vượt qua bờ giác. Khi phiền não chấm dứt thì dù bất cứ đang ở đâu,
bất cứ giờ phút nào cũng là Niết bàn, không cần phải cất bước đi đến một nơi
nào cả để tìm cõi Niết bàn. Bởi thế đức Phật dạy luôn luôn quán vô ngã, bốn
đại, năm uẩn tạo nên thân này đều là những thứ do duyên ở ngoài kết hợp lại mà
thành chứ cái thân "đồng nhứt" với cái ngã thì không thực có.
Đức
Phật được tôn xưng là đấng Pháp vương vì Ngài tự tại với tất cả các pháp, vào
tất cả thời, xứ. Dù ở đâu Ngài cũng không bị dính mắc vào sáu trần, không bị
chúng lôi kéo. Nên chúng ta phải biết, nếu chúng ta đối với một việc gì trong
một thời gian nào đó mà được tự tại, không bị nó lôi kéo, chi phối, thì ta cũng
đáng được gọi là vua của pháp đó, nhưng chỉ đối với một việc đó, trong một thời
gian đó mà thôi, còn ở giờ khác, đối với việc khác, thì ta lại bị ràng buộc,
cho nên ta không được như Phật xưng là Đấng Pháp Vương đối với toàn diện các
pháp và tất cả các thời, xứ.
Muốn
được như Phật phải quán vô ngã luôn luôn. Quán vô ngã thì tất cả cái gọi là:
phải, trái, được, thua ở đời đều là một cái duyên cho ta tu, hoặc trở thành
bình thường không có gì bận tâm cả. Quán vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân
thể cho rắn chắc. Khi chưa rắc chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác động bên
ngoài. Người tu vô ngã cũng vậy, khi chưa thuần thục còn nhiều ngã chấp thì dễ
đau khổ trước một lời nói độc. Nếu khi ngã chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau
khổ sơ sơ và cuối cùng thì không còn ngã chấp thì cũng không còn chút đau khổ
nữa. Nên kinh Pháp Cú nói:
Như
ngọn núi kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không giao động. (Pháp Cú câu 81)
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không giao động. (Pháp Cú câu 81)
Kết
luận: Cái Trí ở đây chính là cái trí thấy lý vô ngã vậy.
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
No comments:
Post a Comment