Hòa thượng K.Sri Dhammananada
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang dịch
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang dịch
Lời Người Dịch
Thời đại của chúng ta hiện nay là một thời đại
khoa học, các tôn giáo đều được phê phán dưới lăng kính khoa học. Những nhà trí
thức, các khoa học gia, các nhà bác học, các học giả, các nhà văn, các nhà
chính trị gia lừng danh trên thế giới không ngớt ca tụng Phật giáo và bày tỏ
lòng ngưỡng mộ Ðức Phật. đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại,
một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng
những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằng và Chân lý. Giáo lý của Ngài
từ trên 2500 năm đem ánh sáng giác ngộ cho nhân loại, giải thoát xiềng xích
gông cùm nô lệ, mang an lạc và hạnh phúc cho con người.
Nhận thấy quyển sách này của Ðại lão Hòa thượng
Tiến sĩ K. Sri Dhammananda, một bậc chân tu thạc học, là một công trình sưu tầm
công phu và giá trị nên chúng tôi không quản tài hèn đức mọn cố gắng dịch ra
Việt ngữ với hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào kho tàng văn hóa Phật giáo Việt
nam tại hải ngoại.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ chư Tôn đức đã
khích lệ, góp nhiều ý kiến bổ ích. Ðặc biệt các Ðạo hữu, Bác sĩ Ðặng Hữu Phước,
Viên Minh Phạm Ðình Khoát, Minh Hỷ Phan Duyệt, Quảng Lâm Châu Ngọc Tòng, Quảng
Hải Ngô Thanh Hùng, Diệu Chơn Lương Thị Mai, Diệu Hỷ Nguyễn Cung Thị Hỷ và Lý
Kim Vân đã góp phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này
lên ngôi Tam Bảo và nguyện cầu hồng ân chư Phật thùy từ gia hộ quý vị cùng bửu
quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Sau cùng chúng tôi kính mong chư Tôn, thiền
đức, pháp hữu ân nhân, các bậc thức giả cao minh vui lòng bổ chính cho những
sai lầm thiếu sót, để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Hoa kỳ, Mùa Vu Lan 2538-1994
THÍCH TÂM QUANG.
THÍCH TÂM QUANG.
Ðại Lão Hòa thượng Tiến sĩ K.Sri Dhammananda,
năm nay tuy đã 75 tuổi, Trưởng lão Tăng già Mã Lai Á, vẫn tích cực hoạt động;
Ngài phục vụ Phật giáo Mã Lai trên 42 năm trong các chức vụ như một vị lãnh đạo
tinh thần, một học giả, một cố vấn và một thiện hữu.
Ngài sanh ngày 18 tháng 3 năm 1919 trong gia
đình Ông K.A. Garmage, làng Kirinde, Matara phía nam Sri Lanka (Tích lan). Ngài
được đặt tên là Martin và là người con lớn nhất trong gia đình gồm có ba anh em
và ba chị em.
Ngài khởi đầu việc học hành theo nền giáo dục
thế tục tại một trường của chánh phủ tại Kirinde khi Ngài được 7 tuổi. Tuy còn
nhỏ mà Ngài đã phát triển mối quan tâm đặc biệt đến Phật giáo. Ngài đã gia nhập
các hoạt động và tổ chức được thiết lập trên các nguyên tắt và đạo đức Phật
giáo. Ngài cũng có một người cậu làm Sư trưởng tại ngôi chùa địa phương. Người
cậu này đã cùng với bà mẹ tận tâm của Ngài hướng dẫn tinh thần Ngài trong lúc
thiếu thời. Do đó ý nghĩ trở thành một tu sĩ đã nhen nhúm trong đầu óc Ngài.
Khi Ngài 12 tuổi, Ngài thọ giới Sa di với Hòa
thượng K. Dhammananda Maha Thera tại ngôi chùa Kirinde và được pháp danh là
"Dhammananda" có nghĩa là "NGƯỜI CHỨNG NGHIỆM HẠNH PHÚC QUA PHẬT
PHÁP" (Pháp Lạc). Sau đó Ngài tiếp tục chương trình tu học 10 năm trước
khi thọ đại giới tỳ kheo vào năm 1940.
Sau 10 năm tu học chuyên về giáo lý của đức
Phật tại các tu viện Sri Dhammarana Privena, Ratmalama, Vidyăardhana, tại
Colombo, Vidyalankara Pirivena tại Peliyagoda, Kelaniya, một đại học Phật giáo
rất có uy tín, năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn bằng ngôn ngữ học, Triết lý và
Kinh điển Pàli.
Năn 1949, Ngài tốt nghiệp cao học triết lý Ấn
Ðộ sau bốn năm học tập tại đại học Ấn Ba La Nại (Bénares). Trong số các giáo sư
nổi tiếng tại đại học này có cố Tiến sĩ S Radgakrisnan, vị Tổng thống đầu tiên
của Cộng hòa Ấn là giáo sư của Ngài.
Ðược huấn luyện và giáo dục, thấu triệt giáo lý
Phật đà, Ngài trở về Tích Lan đem thực dụng kiến thức uyên thâm của Ngài. Tại
Kotawila, Ngài thiết lập viện "Sudharma" huấn luyện giáo dục, an ninh
xã hội, và nhu cầu tôn giáo cho quần chúng. Ngài cũng phát hành tam cá nguyệt
tạp chí bằng tiếng Tích lan (Singhalese).
Năm 1952, trong số 400 các Tu sĩ trẻ tại
Viyalanka Pirivina, Ngài được tuyển chọn đi phục vụ Mã Lai Á vì nơi đây cần một
nhà hoằng pháp Giáo lý Phật đà. Vào thập niện 50 và 60. Phật giáo bị coi rẻ bởi
giới trí thức người Hoa có học vấn tại Mã Lai vì lẽ những phương pháp thực hành
do những người được gọi là Phật tử chỉ đang áp dụng trên cơ bản đều dựa theo
các nghi thức cổ truyền và các hình thức lễ lượt khác. Hình như không một ai
chú ý đến ý nghĩa đích thực của việc thực hành mà một người phật tử cần phải áp
dụng. Bởi vậy, với quảng đại quần chúng có giáo dục tại nơi đây coi Phật giáo
không có gì hơn chỉ là một bao bì chứa đựng dị đoan.
Nhờ sự cố gắng hoằng pháp của Ngài, nhiều người
Hoa trong nước nhận thức được giáo lý chân thật của đức Phật. Hội Truyền bá
Giáo lý Phật đà được thiết lập và Ngài không ngừng ra sức viết các bài vở, xuất
bản các loại sách đủ cở về mọi phương diện của Phật giáo đem lợi ích cho người
phật tử Mã Lai.
Hội Truyền giáo, là bộ phận hướng đạo được
thiết lập, chịu trách nhiệm việc phổ biến tất cả bài vở của Ngài. Kết quả, Ngài
nhận được rất nhiều thư của người Hoa trẻ có học thức, rành Anh ngữ trên khắp
cả Mã Lai tán dương Ngài vì đây là lần đầu tiên trong đời họ đã hiểu được nghiêm
chỉnh giáo lý Phật đà. Rồi Ngài khai sáng tờ báo "Tiếng nói của Phật
giáo" cho đến bây giờ vẫn đều đặn xuất bản một năm hai kỳ bởi Hội Truyền
Giáo. Ngài là tác giả của những cuốn sách rất phổ thông như "Người Phật tử
tin gì?", "Làm thế nào để sống khỏi sợ hãi và lo lắng",
"Hạnh phúc lứa đôi", "Nhân loại tiến về đâu" và "Thiền
định con đường duy nhất". Tuy không là một nhà thuyết giáo hùng biện nhưng
Ngài đã thành công cảm hóa tư tưởng của thanh niên và giáo dục họ với một lối
trình bày Giáo pháp của đức Phật một cách rõ ràng, đơn giản và khoa học.
Vào năm 1970 và năm 1975, trong chuyến du hành
thuyết giảng về đạo Phật và triết lý Phật giáo trên thế giới, Ngài thuyết giảng
tại đại học Lancaster, đại học Hull, đại học Manchester, đại học Oxford tại Anh
Quốc, đại học Dharma Realm và Ðông phương tại Hoa kỳ.
Do những thành quả của các hoạt động hoằng pháp
và giáo dục của Ngài, Ngài được suy tôn "Tăng thống" Giáo hội Siam
Maha Nikaya, Malưatta, tại Mã lai năm 1965 và được tặng cấp bằng Tiến sĩ Danh
dự của các đại học Dhama Realm, đại học Ðông Phương (Hoa kỳ), đại học Nalanda,
đại học Ba-lã-nại (Beneres - Ấn Ðộ ) và đại học Pàli của Tích lan. Ngài cũng
được ân thưởng tước vị Hoàng gia Johan Setia Mahkota bởi Hoàng đế Mã lai.
Kết quả tốt đẹp của Hòa thượng trong việc phục
vụ cho cộng đồng Phật giáo không những chỉ trong phạm vi của Mã lai mà cũng cho
tất cả thế giới bởi những ai cảm nhận được sự nhiệt thành không chút vị kỷ vủa
Ngài để hoằng dương Phật pháp.
Lý do đó khiến người ta đã ủng hộ và ngưỡng mộ
Ngài không riêng từ một cộng đồng mà từ nhiều cộng đồng. Ngài có, như đức Phật
mô tả, Bảy đức cao quý của một đại nhân trong kinh Sakha Sutta (A.N. 4:31):
Ngài là người đáng yêu, được kính trọng, học thức, là một cố vấn, một người
nhẫn nại chịu nghe, thâm trầm trong đàm luận và không bao giờ cổ xúy một cách
vô căn cứ.
Benny
Liow Woon Khin
Kuala Lumpur, Malaysia,
18 tháng 3 năm 1994.
Kuala Lumpur, Malaysia,
18 tháng 3 năm 1994.
VỀ
VIỆC XUẤT BẢN CUỐN SÁCH
Ðạo Phật là một tôn giáo vĩ đại đã giác ngộ
nhân loại từ 25 thế kỷ qua, giải thoát con người khỏi tất cả những xiềng xích
nô lệ, các thực hành theo mê tín dị đoan. Ðạo Phật là một tôn giáo khoa học,
ngày nay tất cả các nhà văn hóa trí thức trên thế giới dù có hay không liên hệ
gì đến Phật giáo đều tôn kính đức Phật Cồ Ðàm trong khi những nhà khai sáng các
tôn giáo khác chỉ được các tín đồ của mình tôn kính mà thôi. Không phải chỉ
những người thuộc một số tôn giáo mà ngay cả những người được gọi là tự do tư
tưởng cũng rất kính trọng Ðấng Giác Ngộ Tối Cao Ðộc Nhất trên hoàn vũ này. Nhìn
từ quan điểm lịch sử, chưa từng có một vị Ðạo sư nào mà phát triển tinh thần tự
do tôn giáo đến cực điểm cũng như lòng tin thích đáng đối với nhân loại như đức
Phật. Trước khi đức Phật giáng thế, tôn giáo chỉ do một số giáo phái trong xã
hội độc quyền nắm giữ. Ðức Phật là một vị Thầy trong lịch sử không phân biệt,
mở cửa tôn giáo cho từng cá nhân cũng như cho tất cả mọi người trong xã hội.
Ðức Phật khuyên các đệ tử Ngài trau dồi học hỏi
và mở mang sức mạnh tiềm ẩn nơi con người và tự chính nơi mình biểu dương được
cách thức sử dụng hữu hiệu nhất sức mạnh ý chí và trí thông minh của mình không
cần phải làm tôi mọi cho một chúng sanh nào đó để tìm hạnh phúc trường cửu mà
Ngài tuyên bố cho thế giới biết qua kinh nghiệm bản thân Ngài chứ không phải
qua các lý thuyết hay qua các tín ngưỡng hay phong tục tập quán. Giáo lý đức
Phật là để cho con người ứng dụng thực tiển mà không cần một nhãn hiệu nào.
Trong việc sưu tập cuốn sách này, tôi đã chọn
lọc một số các lời phát biểu của các nhân vật nổi tiếng, triết gia, học giả, sử
gia, văn hào, khoa học gia, các hàng giáo phẩm, các nhà cách mạng xã hội và các
chính khách danh tiếng trong thế giới tiên tiến, tất cả đều là các nhà trí thức
đứng hàng đầu. Trong số này đa số không phải là người Phật giáo mà là những nhà
tự do tư tưởng. Theo họ, Phật giáo là một tôn giáo thực tế nhất, hợp lý nhất,
triển khai rất khoa học, phục vụ hữu hiệu nhân loại nếu những người theo đạo
Phật thực hành nghiêm chỉnh tôn giáo này.
Lý do trên đã cho tôi niềm vui lớn lao trong
việc trình bày các đoạn văn trích dẫn từ các sách và báo chí. Dù có một số
người cho rằng Ðạo Phật đứng đầu trong lãnh vực tôn giáo nhưng việc sưu tập các
đoạn văn này, không có ý muốn làm giảm niềm tin nơi các tôn giáo khác và việc
xuất bản cuốn sách này cũng không phải để trình bày quan điểm Phật giáo đứng
hàng đầu mà trái lại chỉ để phản ảnh tầm nhìn vô tư của một số các nhà trí
thức.
Tất cả những lời chú thích về các lời phát biểu
trong sách này đều do nơi người sưu tập.
K. Sri
Dhammananda
25.11.1992 - P.L. 2536.
25.11.1992 - P.L. 2536.
Phần I
[01]
ÐỨC
PHẬT
ÐỨC PHẬT VĨ ÐẠI.
Nếu nói đến trí tuệ và đức hạnh thì tôi không
thể nào nghĩ rằng Chúa Christ ở một vị thế cao bằng một số nhân vật khác mà
lịch sử đã ghi nhận. Tôi nghĩ rằng tôi phải đặt đức Phật trên Chúa về những
phương diện đó.
- Bertrand Russell
"Tại sao tôi không theo Thiên Chúa Giáo"
"Tại sao tôi không theo Thiên Chúa Giáo"
HIỆN THÂN CỦA ÐỨC HẠNH
Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh
mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã
chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông
thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản
của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến.
- Giáo sư Max Miller,
Học giả người Ðức.
CÂY NHÂN LOẠI THĂNG HOA.
Ðây hoa nở trên cây nhân loại
Ðã bừng nở qua nhiều vạn kỷ
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương.
Ðã bừng nở qua nhiều vạn kỷ
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương.
- Sir Edwin Arnold ,
"Ánh Sáng Á Ðông"
ÐỨC PHẬT GẦN GŨI CHÚNG TA HƠN.
Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản,
chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống
chứ không phải là thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi
bức thông điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của
chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ,
bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng ích kỷ có ba
dạng: - Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham vọng muốn bất tử; -
Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên
thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình.
Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại
nhân. Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã
dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với
chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng
suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với
vấn đề trường tồn b?t tử của kiếp nhân sinh.
- H.G. Wells
NGƯỜI CAO QUÍ NHẤT CỦA NHÂN LOẠI
Nếu bạn muốn thấy người cao quí nhất của loài
người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin; chính là Ngài
đó, siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người.
- Abdul Atahiya, một
thi nhân Hồi Giáo.
PHƯƠNG PHÁP CỦA ÐỨC PHẬT.
Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó
phải được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức
Phật.
- Tổng thống Nehru
MỘT NGƯỜI MẤT TRÍ VÀ MỘT NGƯỜI BÌNH THƯỜNG
Sự khác biệt giữa đức Phật và một người bình
thường giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất trí.
- Một Văn Hào.
TÔN KÍNH ÐỨC PHẬT.
Không khó khăn gì khi chọn lựa đức Phật là một
người được tôn sùng trong số những người vĩ đ?i của nhân loại.
- Giáo
sư Saunders , Tổng Thư ký Văn hóa Y.M.C.A
India, Burma, Ceylon.
India, Burma, Ceylon.
THÔNG ÐIỆP CỦA ÐỨC PHẬT.
Ðức Phật vĩ đại hơn tất cả các lý thuyết và tín
điều, thông điệp bất diệt của Ngài đã làm rung động nhân loại qua nhiều thời
đại. Có lẽ không một thời điểm nào trong lịch sử quá khứ mà thông điệp hòa bình
của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân loại đang đau khổ và cuồng loạn như hiện
nay.
- Tổng thống Nehru
CÂU TRẢ LỜI "KHÔNG" CỦA ÐỨC PHẬT.
Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một
hạt nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời
"không"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử
thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta
hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không".
Ðức Phật cũng đã giải đáp như vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con
người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu
trả lời quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18.
- J.Robert Oppenheimer
CHÚNG TA CẢM KÍCH BỞI TINH THẦN HỢP LÝ CỦA
NGÀI.
Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của đức
Phật, chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của
Ngài ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét
sạch tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh
của nhân loại.
- Tiến Sĩ
S.Radhakrisnan
"Ðức Phật Cồ Ðàm"
"Ðức Phật Cồ Ðàm"
TINH THẦN TRẦM TĨNH VÀ LÒNG TỪ TÂM.
Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp
gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng
từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy
nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại.
- Moni Bagghee,
"Ðức Phật Của Chúng Ta"
"Ðức Phật Của Chúng Ta"
TRIẾT LÝ SIÊU PHÀM.
Ðức Phật là nhà tiên phong thương yêu nhân
loại, và là một triết gia siêu phàm trong nhân phẩm dũng cảm và sáng chói. Ngài
có những điều mà chưa ai có thể quên được là Ngài thuyết pháp trong hăng say và
nhiệt tình về nguồn kiến thức. Vĩ đại hơn, trí tuệ của Ngài chính là đài gương
soi sáng.
- Moni Bagghee,
"Ðức Phật Của Chúng Ta".
"Ðức Phật Của Chúng Ta".
NGÀI KHÔNG NÓI VỀ TỘI LỖI.
Sự thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu
tất cả sinh vật đã được dạy dỗ bởi đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ
nói đến vô minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm.
- Tiến Sĩ Radhakrisnan
"Ðức Phật Cồ Ðàm"
"Ðức Phật Cồ Ðàm"
ÐỨC PHẬT GIỐNG NHƯ MỘT THẦY THUỐC.
Ðức Phật giống như một lương y. Một bác sĩ phải
biết chẩn đoán các loại bệnh tật, nguyên nhân, thuốc giải độc và phương pháp
chữa trị, phải biết áp dụng phương thức cho thích hợp, cho nên đức Phật đã dạy
Tứ Diệu Ðế (Bốn sự thật) chỉ rõ sự hiện hữu của đau khổ (Khổ đế), nguyên nhân
của đau khổ (Tập đế), diệt trừ khổ não để được an lạc (Diệt đế) và con đường
đưa đến diệt tận khổ đau (Ðạo đế).
- Tiến Sĩ Edward Conze,
"Phật giáo".
ÐỨC PHẬT CỦA TOÀN THỂ NHÂN LOẠI.
Ðức Phật không phải là của riêng người Phật tử,
Ngài là của toàn thể nhân loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi
người. Tất cả các tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư
tưởng hay của Ngài.
- Một học giả Hồi Giáo.
MỘT NGƯỜI CHA KHÔN NGOAN.
Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang
vui chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các
con ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn.
- Giáo sư Lakshimi
Narasu,
"Tinh Hoa Của Phật giáo"
"Tinh Hoa Của Phật giáo"
ÐỨC PHẬT LÀ MỘT CON ÐƯỜNG.
Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni
gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân
lý và là Lẽ sống.
- Giám mục Milman.
MỘT VẦNG THÁI DƯƠNG RỰC RỠ.
Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và
bạo lực, thông diệp của đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ
không bao giờ thông diệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế
giới bom nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm
sanh khí và chân lý của thông diệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông diệp bất
diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh
sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản đương đầu cả đến với
những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến
khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp).
- Tổng thống Nehru
CON NGƯỜI VĨ ÐẠI CHƯA TỪNG CÓ.
Ðây là giáo lý mà chúng ta có thể tin theo.
Không nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng ta có
thể tìm một vị giáo chủ chói sáng như thế ! Trong hàng loạt các vì sao,
Ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất.
Một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn
hóa đã tuyên bố về Ngài "Con Người Vĩ Ðại Nhất Chưa Từng Có". Ánh hào
quang của vị Thầy vĩ đại này soi sáng cái thế giới đau khổ và tối tăm, giống
như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại.
- Một Văn Hào Âu Châu.
[02]
PHẬT
GIÁO
GIÁO LÝ CĂN BẢN CỦA ÐỨC PHẬT.
Lịch thiệp, thanh tịnh, từ bi, xuyên qua sự
giải thoát khỏi lòng ích kỷ tham dục, đó là giáo lý căn bản của tôn giáo vĩ đại
Á đông của đạo Phật.
- E. A. Burtt,
"Ðức Phật Từ Bi"
MỘT CÂY CẦU ÐƯỢC XÂY TOÀN HẢO.
Giáo pháp của đức Phật giống như một cây cầu
được xây toàn hảo bằng thép linh động, gió và nước không làm hư được, tự nó
thích ứng phù hợp trong mọi trạng huống thay đổi, nhưng đồng thời cũng làm vững
chắc thêm cầu và mở con đường an lạc vĩnh cữu, đến Niết bàn.
- Phra Khantipalo,
"Ðộ lượng"
THỨC TỈNH TRÁI TIM NHÂN LOẠI.
Chắc chắn từ miền Ðông Phương huyền bí, nơi đất
mẹ mầu mỡ của tôn giáo, cho chúng ta sự khám phá trung thực nơi Phật giáo từ
khi tôn giáo này cho chúng ta biết nền đạo đức huy hoàng và sự thanh khiết tiềm
ẩn sâu xa trong bản tính tự nhiên của con người không cần đến một thần linh nào
khác mà bản tính này vốn tiềm ẩn trong tâm của con người và thức tỉnh họ biến
thành cuộc sống vinh quang.
- Charles T. Gorham.
KHÔNG CÓ GÌ VƯỢT QUA ÐƯỢC PHẬT GIÁO.
Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã
quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không
một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt,
Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc
đời tôi theo con đường đó.
- Giáo sư Rhys Davids .
PHẬT GIÁO KHÔNG DẪN DẮT CHÚNG TA TỚI MỘT THIÊN
ÐƯỜNG RỒ DẠI.
Phật giáo rất thực tế, vì Phật giáo lấy quan
điểm thực tế đối với cuộc đời và thế giới. Phật giáo không sai lầm lôi kéo
chúng ta đến sống trong một thiên đường rồ dại, Phật giáo cũng không đe đọa và
hành hạ chúng ta bằng tất cả những loại sợ hãi giả tưởng và các mặc cảm tội
lỗi. Phật giáo kêu gọi chúng ta nên chính xác và khách quan nhận những gì thế
giới chung quanh chúng ta, và chỉ cho ta con đường đi tới tự do toàn hảo, hòa
bình, an lành và hạnh phúc.
- Thượng Tọa Tiến Sĩ
W.Rahula
SỨ MẠNG CỦA ÐỨC PHẬT.
Sứ mạng của đức Phật quả là độc đáo riêng biệt,
vì thế cho nên sứ mạng này đứng biệt lập khác hẳn các tôn giáo khác trên thế
giới. Sứ mạng của Ngài là mang lý tưởng của những con chim đang bay trong không
trung về gần với trái đất, bởi lẽ thực phẩm để nuôi sống chúng thuộc về trái
đất.
- Hazrat Inayat Khan,
" Thông Ðiệp Sufi"
" Thông Ðiệp Sufi"
MỘT TÔN GIÁO VŨ TRỤ.
Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo chung cho
cả vũ trụ. Tôn giáo đó vượt ra ngoài ý tưởng một đấng Thiêng Liêng nào đó, các
tín điều và lý thuyết. Tôn giáo đó bao trùm cả thiên nhiên và tinh thần, phải
căn cứ vào ý niệm đạo giáo phát sanh từ những thực nghiệm của mọi vật, thiên
nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng được
các điều đó.
- Albert Einstein
PHẬT GIÁO VẪN GIỮ NGUYÊN KHÔNG BỊ ẢNH HƯỞNG
Lý thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay
không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức,
vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến
thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma)
cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương
diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư
tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ
định của tư tưởng.
- Franci Story,
"Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"
"Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"
MỘT TÔN GIÁO HOAN HỶ
Phật giáo hoàn toàn chống hẳn lại sự u sầu,
phiền muộn, dằn vật, thái độ buồn bã, tất cả những điều này được coi như làm
trở ngại việc hiểu rõ chân lý. Mặt khác, việc đáng lưu ý ở đây rằng, hoan hỷ là
một trong "Bảy Yếu Tố Giác Ngộ", những đức tính cần thiết phải được
trau dồi để tiến tới Niết bàn.
- Thượng tọa Tiến Sĩ
W.Rahula
MỘT THÁCH THỨC VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC.
Phật giáo như chúng ta đang thấy, những gì đã
được ghi chép sưu tập lại rất là thực tế, không phải là một hệ thống giả thuyết
của thời đại sơ khai, về phương diện nầy Phật giáo dám thách thức với các tôn
giáo khác.
- Giám Mục Gore,
"Ðức Phật và Chúa Christ"
"Ðức Phật và Chúa Christ"
KHÔNG CÓ SỰ GIẢ ÐỊNH TRONG PHẬT GIÁO
Ðiểm vinh quang trong Phật giáo là Phật giáo
lấy trí tuệ làm yếu tố cốt lõi của sự cứu rỗi. Trong Phật giáo, đạo đức (Giới)
và trí tuệ không thể tách rời nhau. Giới hình thành nền tảng của đời sống cao
thượng, tri thức và trí tuệ là những yếu tố kiện toàn nó. Không quán triệt về
luật nhơn quả và duyên sinh (Pratyasamutpada), thì không thể gọi là đạo đức
chơn chánh, người gọi là đạo đức chơn chánh thì phải có được một nội quán và tri
thức cần thiết nầy. Về lãnh vực nầy đạo Phật khác hẳn với các tôn giáo khác.
Các tôn giáo thuộc nhất thần giáo khởi đầu với một số lý thuyết giả định và khi
những giả định này mâu thuẩn với sự tiến bộ của tri thức loài người, thì gia
tăng thêm phiền muộn. Ðạo Phật được thiết lập trên một tảng đá vững chắc của
các sự thật, chính vì thế không bao giờ xa rời ánh sáng của tri thức.
- Giáo sư Lakhami
Narasu,
"Tinh Hoa Phật giáo".
"Tinh Hoa Phật giáo".
ÐỨC PHẬT NHÌN XA HƠN CÁC NHÀ DUY TÂM HIỆN ÐẠI.
Ðức Cồ Ðàm bác bỏ hoàn toàn cả đến cái bóng của
sự hiện hữu trường cữu bằng một sức mạnh siêu hình hữu ích lớn lao cho những
sinh viên triết học và thấy rằng điều đó chỉ thỏa mãn một nữa trong lập luận về
duy tâm nổi tiếng của Giám mục Berkeley. Thật là một dấu hiệu đáng kể về các
lời đồn đại tế nhị của người Ấn về đức Cồ Ðàm đã có cái nhìn sâu xa hơn nhà duy
tâm hiện đại vĩ đại nhất. Khuynh hướng về một tư tưởng giác ngộ ngày nay trên
khắp thế giới không nghiêng về thần học, nhưng nghiêng về triết học và tâm lý
học. Học thuyết nhị nguyên luận đang trở nên nguy hiểm.
Nguyên tắc căn bản của sự tiến hóa và nhất
nguyên luận đã được chấp nhận bởi các nhà tư tưởng.
- Giáo Sư Huxley ,
"Tiến Hóa Ðạo Ðức"
"Tiến Hóa Ðạo Ðức"
CÁCH MẠNG VỀ TÔN GIÁO.
Hai mươi lăm thế kỷ qua, Ấn Ðộ mục kích một
cuộc cách mạng về tri thức và về tôn giáo lên đến cao độ đã lật đổ chủ nghĩa
độc thần, các nhà tu ích kỷ và thiết lập một tôn giáo hòa hợp, một hệ thống ánh
sáng và tư tưởng được gọi là Giáo pháp (Dhamma), một Triết học Tôn giáo.
- Anagarika Dharmapala,
"Cái Nợ Của Thế Giới Ðối Với Ðức Phật".
"Cái Nợ Của Thế Giới Ðối Với Ðức Phật".
KẾ HOẠCH ÐỂ SỐNG.
Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt
được lợi lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở
đấy kiến thức và thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu
nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe.
- Một Văn Hào Tây
Phương".
HÃY ÐẾN VÀ THẤY.
Phật giáo luôn luôn là vấn đề của biết và thấy
chứ không phải là để tin suông. Giáo lý của đức Phật được gọi là Ehi- Passiko,
mời bạn đến để thấy không phải đến để tin theo.
- Hòa thượng Tọa Tiến
sĩ W. Rahula ,
"Ðức Phật Dạy Gì"
"Ðức Phật Dạy Gì"
TÔN GIÁO CỦA CON NGƯỜI
Phật giáo sẽ trường tồn như mặt trời, mặt trăng
và loài người hiện hữu trên mặt đất; do đó, Phật giáo là tôn giáo của con
người, của nhân loại cũng như của tất cả.
- Bandaranaike, Cựu Thủ
Tướng Sri Lanka.
NGƯỜI PHẬT TỬ KHÔNG LÀ NÔ LỆ CHO BẤT CỨ AI.
Người Phật tử không nô lệ cho sách vở hay bất
cứ ai. Người đó cũng không hy sinh tự do tư tưởng của mình để trở thành một đệ
tử của đức Phật. Người đó có thể luyện tập ý chí tự do c?a mình và mở mang kiến
thức cho đến khi tự mình đạt được Phật quả, vì tất cả mọi người đều có khả năng
thành Phật.
- Hòa thượng Narada
Maha Thera,
"Phật giáo Là Gì"
"Phật giáo Là Gì"
SỐNG THEO NGUYÊN LÝ
Phật giáo dạy đời sống không bằng luật lệ mà
bằng nguyên lý một đời sống cao đẹp; và chính vì thế Phật giáo là một tôn giáo
khoan dung, một hệ thống nhân từ nhất dưới ánh mặt trời.
- Giáo Sĩ Joseph Wain
PHẬT GIÁO VẪN TỒN TẠI.
Phật giáo vẫn tồn tại như hồi nào, cả đến khi
nếu phải chứng minh là đức Phật chưa bao giờ đã sống cả.
- Christmas Humphreys,
"Phật giáo".
NHỮNG VẤN ÐỀ HIỆN ÐẠI
Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai
ngàn năm trăm trước đây, người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận
về những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này
từ lâu và đã tìm thấy câu trả lời.
- Tiến Sĩ Graham Howe
HUẤN LUYỆN TINH THẦN
Chúng ta nghe thấy rất nhiều ngày nay về sức
mạnh tinh thần. Phật giáo là một hệ thống huấn luyện tinh thần toàn hảo và hữu
hiệu đã được trình bày trước thế giới.
@TGIA PHAI = - Dudley Wright
THẾ HỆ MỚI
Ðức Phật sáng tạo một thế hệ mới, một thế hệ
anh hùng đạo đức, một thế hệ cứu độ lao động, một thế hệ Phật.
- Manmatha Nath Sastri
TRUYỀN GIÁO ÐẦU TIÊN.
Phật giáo là tôn giáo truyến giáo đầu tiên
trong lịch sử nhân loại với một thông điệp quốc tế là cứu độ tất cả nhân loại.
Ðức Phật, sau khi giác ngộ, gửi 61 đệ tử đi mọi hướng với nhiệm vụ truyền đạt
giáo pháp đem hạnh phúc và an lạc cho loài người.
- Tiến sĩ K.N.
Jayatilleke,
"Phật giáo Và Hòa Bình"
"Phật giáo Và Hòa Bình"
KHÔNG BẮT BUỘC THEO ÐẠO
Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình
thức nào - hoặc ép buộc ý tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc
bằng bất cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng
lợi để gia nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo
Phật không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa.
- Tiến sĩ G. P.
Malasekara.
SỰ KIỆN TỐI HẬU CỦA HIỆN THỰC
Ðây, việc cần thiết là lưu ý đến một đặc tính
duy nhất của đạo Phật nghĩa là, Phật giáo là một tôn giáo duy nhất, bậc thầy
của tôn giáo, mà kết quả là một triết lý thích hợp nói cho chúng ta biết về
những sự kiện tối hậu của hiện hữu và hiện thật. Ðạo Phật là con đường của sự
sống xuất phát từ việc chấp nhận quan điểm của đời sống và xem sự sống là hiện
thật. Triết lý của đức Phật không phải là không kể đến tính chất của kiến thức.
- Tiến Sĩ
K.N.Jayatilleke,
"Phật giáo và Hòa Bình"
"Phật giáo và Hòa Bình"
KHÔNG CUỒNG TÍN.
Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận
là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá
nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức
mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì
sao? Ðức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết
định nếu muốn theo tôn giáo này.
- Giáo Sư Lakshmi
Nasaru,
"Tinh Hoa của Phật giáo"
"Tinh Hoa của Phật giáo"
PHẬT GIÁO VÀ CÁC NIỀM TIN KHÁC
Phật giáo giống như lòng bàn tay, các tôn giáo
khác như các ngón tay.
- The Great Khan Mongka
PHẬT GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO BUỒN TẺ.
Một số người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo
tối tăm buồn tẻ. Không đúng như vậy, tôn giáo này làm các tín đồ hăng hái và
vui tươi. Khi chúng ta đọc những chuyện sanh ra đời của các Bồ tát, các đức
Phật tương lai, chúng ta hiểu Ngài đã tu tập hạnh Nhẫn nhục Ba la mật. Ðức hạnh
này giúp chúng ta cảm thấy vui lòng cả đến lúc chúng ta đang gặp nhiều khó khăn
trở ngại hay hoan hỷ trong các niềm an lạc khác.
- Thượng Tọa
Gnanatiloka,
một học giả Phật giáo người Ðức.
một học giả Phật giáo người Ðức.
PHẬT GIÁO VÀ AN SINH XÃ HỘI.
Những ai nghĩ rằng Phật giáo chỉ chú trọng đến
lý tưởng cao thượng, đạo đức uyên thâm và tư tưởng triết lý, và không lưu ý đến
xã hội kinh tế an lạc của con người, là nhầm lẫn. Ðức Phật chú trọng đến hạnh
phúc của con người. Với Ngài, hạnh phúc không thể có được nếu không có một đời
sống trong sạch căn cứ vào những nguyên tắc đạo đức và tinh thần. Nhưng Ngài
biết là thực hành một cuộc sống như vậy khó khăn trong những điều kiện vật chất
và xã hội không tốt đẹp.
Phật giáo không coi an lạc vật chất là cứu
cánh; đó chỉ là một phương tiện để đi đến cứu cánh, một cứu cánh cao cả và cao
thượng hơn. Nhưng đó cũng là một phương tiện cần thiết, cần thiết trong việc
hoàn tất mục tiêu cho hạnh phúc của con người. Cho nên Phật giáo công nhận sự
cần thiết của một số điều kiện vật chất tối thiểu để đem lại thành công cho
tinh thần - cả đến một vị tu sĩ tham thiền ở một nơi hẻo lánh.
- Hòa thượng Tiến sĩ
W.Rahula ,
"Ðức Phật Dạy gì"
"Ðức Phật Dạy gì"
TẤM GƯƠNG TỪ ASOKA (A DỤC VƯƠNG)
Quay về Phật giáo, bạn sẽ đọc thấy Asoka (A Dục
Vương) không những thuyết giảng đạo đức cao thượng mà đã sử dụng quyền uy của
một đế vương trong một phương pháp làm các bậc đế vương hiện đại của các niềm
tin khác phải hổ thẹn.
- Geoffrey Mortiner,
một nhà văn Tây Phương.
một nhà văn Tây Phương.
NHỮNG NGUYÊN TẮC KHÔNG THAY ÐỔI.
Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay
hiện tại, vì Phật giáo bắt nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị
sửa đổi.
- Gertrude Garatt
DHAMMA (GIÁO PHÁP) LÀ QUY LUẬT.
Tất cả lời dạy của đức Phật có thể được tóm tắt
trong một chữ "Dhamma" (Pháp). Quy luật này là chơn thật, không những
hiện hữu trong tâm con người mà còn tồn tại trong vũ trụ. Tất cả trong vũ trụ
đều là sự hiển lộ của Dhamma. Quy luật của tự nhiên mà các nhà khoa học hiện
đại đã khám phá ra đều là biểu hiện của Dhamma. Khi mặt trăng mọc và lặn, đó là
vì pháp, cũng do qui luật (Dhamma), vì Dhamma là cái quy luật đang tồn tại
trong vũ trụ và tác động mọi chuyện theo nhiều cách khác nhau mà đã được nghiên
cứu qua các ngành vật lý, hóa học, động vật học, thực vật học và thiên văn học.
Dhamma hiện hữu trong vũ trụ cũng như Dhamma hiện hữu trong tâm con người. Nếu
con người sống đúng với pháp thì sẽ giải thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết
bàn.
- Thượng Tọa A. Mahinda
SỰ NGƯỢC ÐÃI
Trong những tôn giáo vĩ đại của lịch sử, tôi
thích Phật giáo, nhất là những dạng thức thuở ban đầu, vì tôn giáo này có ít
yếu tố ngược đãi nhất.
- Bertrand Russell
TÁN THƯỞNG PHẬT GIÁO
Mặc dù người ta có thể được thu hút từ nguyên
thủy bởi sự khoáng đạt của tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá
trị thực sự của Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này
không qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác.
- Tiến Sĩ Edward Conze,
Một học Giả Phật giáo Tây Phương.
Một học Giả Phật giáo Tây Phương.
KIẾN THỨC LÀ CHÌA KHÓA ÐỂ TIẾN TỚI CON ÐƯỜNG
CAO ÐẸP HƠN.
Không có những thú vui nhục dục, cuộc sống có
thể chịu đựng được không? Không tin tưởng vào bất tử, con người có thể có đạo
đức không? Không sùng bái một thần linh con người có thể tiến tới điều chánh
đáng không? Ðược, đức Phật trả lời, cứu cánh có thể đạt được bởi kiến thức; một
mình kiến thức là chìa khóa để tiến tới con đường cao đẹp hơn, con đường mà
trong đời sống đáng theo đuổi; kiến thức đem lại an tĩnh và hòa bình cho đời
sống giúp cho con người không xao xuyến đối với những cơn bão tố của thế giới
đầy biến động.
- Giáo Sư Karl Pearson
MAY MẮN THAY NGƯỜI PHẬT TỬ.
Những tín đồ khiêm tốn của đức Phật may mắn
biết là nhường nào, họ đã không thừa hưởng lối ngụy biện của sự không sai lầm ở
bất cứ một cuốn sách nào ngay từ lúc bắt đầu.
- Thượng Tọa Giáo Sư
Ananda Kaushalyayana
PHẬT GIÁO VÀ NGHI LỄ
Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi.
Một hành động được thực thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để
không còn là một nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng
thực ra không phải như vậy.
- Tiến sĩ
W.F.Jayasuriya,
"Tâm lý và Triết lý Phật giáo"
"Tâm lý và Triết lý Phật giáo"
VỊ CỨU THẾ.
Nếu đức Phật được gọi là vị Cứu thế, đó chỉ có
nghĩa là Ngài đã khám phá ra và chỉ cho nhân loại biết con đường Giải thoát:
Niết bàn. Nhưng chúng ta phải tự mình bước trên con đường này.
- Hòa thượng Tiến sĩ W.
Rahula ,
"Ðức Phật Dạy gì"
"Ðức Phật Dạy gì"
KHÔNG CÓ ÁP LỰC
Tự mình bắt ép mình tin hay chấp nhận một việc
mà không hiểu thấu thì đó là hình thái chính trị chứ không phải hình thái của
tâm linh hay trí tuệ.
- Hòa thượng Tiến sĩ W.
Rahula ,
"Ðức Phật Dạy gì"
"Ðức Phật Dạy gì"
KÍNH TRỌNG CÁC TÔN GIÁO KHÁC.
Ta không nên chỉ tôn vinh tôn giáo riêng của
mình và chỉ trích các tôn giáo của người khác. Ta nên kính trọng tôn giáo của
những người khác vì lý do này hay lý do nọ. Làm như vậy, ta đã giúp đỡ tôn giáo
chính mình phát triển và cũng là giúp ích tôn giáo khác. Hành động ngược lại là
chính ta đã đào huyệt cho tôn giáo mình và cũng làm hại tôn giáo khác. Bất cứ
ai vinh danh tôn giáo mình và chỉ trích tôn giáo khác, tưởng lầm như vậy là
sùng bái tôn giáo mình "tán dương tôn giáo mình". Nhưng ngược lại,
chính là đã làm tổn thương nghiêm trọng tôn giáo mình. Nên hòa thuận thì tốt
hơn: Hãy lắng nghe tất cả, sẳn sàng nghe với thiện chí những học thuyết của các
tôn giáo khác.
- Hoàng đế Asoka (A Dục
Vương)
NIỀM HÃNH DIỆN THẬT SỰ
Tôn giáo của sự sống được phán xét không phải
chỉ thuần bằng những sự thật được tuyên cáo nhưng cũng chính bằng sự thay đổi
mà tôn giáo này đã đem lại cho cuộc sống của tín đồ. Cho đến nay, theo kinh
nghiệm, Phật giáo có một kỷ lục về thành tựu mà chúng ta có thể lấy đó là một
niềm hãnh diện thật sự.
- D.
Valisinha, Tổng Thư Ký, Hội Maha Bodhi,
"Con đường sống của người Phật tử"
"Con đường sống của người Phật tử"
VÔ THỨC
Cũng có thể nói rằng Ấn độ đã khám phá ra vô
thức sớm hơn những nhà tâm lý học Tây phương. Theo họ, vô thức gồm có tất cả
những cảm tưởng nằm trong cá nhân được di sản từ kiếp trước. Kỹ thuật thiền
định Phật giáo chú trọng đến sức mạnh tiềm ẩn, là sự khai phóng đầu tiên của
tâm lý phân tích học hiện đại, cũng như của sự huấn luyện tinh thần tự sinh
v.v...
- Giáo sư Von
Glasenapp,
Một học giả Ðức.
Một học giả Ðức.
PHÂN TÍCH HỢP LÝ
Phật giáo là một tôn giáo vĩ đại duy nhất của
thế giới, một cách ý thức và chân thực tôn giáo này dựa trên căn bản một hệ
thống phân tích hợp lý những khó khăn của đời sống và cách thức giải quyết khó
khăn ấy.
- Moni Bagghee
"Ðức Phật của Chúng ta"
"Ðức Phật của Chúng ta"
KẺ THÙ CỦA TÔN GIÁO.
Có rất ít cái mà ta gọi là tín điều trong giáo
lý của đức Phật, một quan điểm rộng rãi thật hiếm hoi và cũng không mấy phổ
thông trong thời đại chúng ta, Ngài từ chối việc dấu giếm các lời bình phẩm.
Ðối với Ngài, thiếu độ lượng khoan dung là kẻ thù lớn nhất của tôn giáo.
- Tiến Sĩ S.
Radhakrishnan ,
"Ðức Phật Cồ Ðàm"
"Ðức Phật Cồ Ðàm"
ÓC MÔN PHÁI
Hầu hết các tân tín đồ của các giáo phái khác
bị kiểm soát bởi các Trưởng giáo của họ và bị cấm không được đọc các thánh
kinh, chủ nghĩa, tạp chí, các loại sách bỏ túi hay học thuyết của tôn giáo
khác. Việc này rất hiếm thấy trong Phật giáo.
- Phra Khantipalo,
"Ðộ lượng"
"Ðộ lượng"
NĂM GIỚI
Năm giới này cho thấy năm hướng chính mà người
Phật tử tự mình kiểm soát để tri hành. Ðó là: giới thứ nhất răn người phật tử
kiềm chế nóng giận; giới thứ hai kiềm chế tham đắm vật chất; giới thứ ba, kiềm
chế nhục dục; giới thứ tư, kiềm chế sự khiếp nhược và ác ý (nguyên nhân không
chân thật) và giới thứ năm; kiềm chế lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn.
-
Edmond Holmes,
"Tín điều của đức Phật"
"Tín điều của đức Phật"
NGƯỜI ÐẠT ÐƯỢC THẮNG LỢI VĨ ÐẠI
Một trong những nhà học giả đầu tiên khởi công
dịch văn chương Pali sang Anh ngữ, là con một giáo sĩ nỗi tiếng. Mục đích của
ông ta khi làm công việc này muốn để chứng tỏ Cơ đốc giáo vượt trên Phật giáo.
Ông ta đã thất bại trong nhiệm vụ này nhưng lại đạt được một thắng lợi vĩ đại
hơn nhiệm vụ ông ta mong muốn: Ông ta trở thành một phật tử. Chúng ta không bao
giờ quên được cái cơ duyên đã thúc đẩy ông ta thực hiện ý định đồng thời mang
Giáo pháp quý giá (Dhamma) đến cho hàng ngàn độc giả Tây phương. Tên của học
giả vĩ đại này là Tiến Sĩ Rhys Davids.
- Thượng tọa A.Mahinda,
"Blue Print of Happiness "
"Blue Print of Happiness "
VẬN MỆNH NHÂN LOẠI
Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận
mệnh nhân loại vẫn còn tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây
phương và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được
phục hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của
vận mệnh nhân loại.
- H.G.Well
HỆ THỐNG NGHỊ VIỆN VAY MƯỢN TỪ PHẬT GIÁO
Có thể chắc chắn là khuynh hướng về một chính
phủ tự trị biểu lộ bởi những hình thức đa dạng của sự hợp tác nhận được từ sự
thúc đẩy của Phật giáo về sự bác bỏ quyền hành của giới chức thầy tu và xa hơn
nữa chủ thuyết bình đẳng của Phật giáo minh chứng bằng sự loại bỏ giai cấp đặc
quyền. Quả nhiên về các sách Phật giáo, chúng ta phải thừa nhận đường lối trong
những vụ điển hình lúc sơ khai về các cơ cấu đại diện tự quản trị được điều
động. Có thể là một ngạc nhiên cho nhiều người biết rằng trong các cuộc hội
nghị của Phật giáo từ trên 2500 năm qua người ta đã thấy những hoạt động giống
như ngày nay chúng ta thực thi tại nghị trường.
Thẩm quyền trong hội nghị được bảo vệ bằng cách
bổ nhiệm một giới chức đặc biệt. Viện trưởng đầu tiên trong Hạ nghị viện của
chúng ta. Một giới chức thứ hai được bổ nhiệm để kiểm soát khi túc số cần thiết
được bảo đảm, theo kiểu Nghị viện Chief Whip trong hệ thống của chúng ta. Một
nhân viên phụ trách điều động dưới hình thức biểu quyết sau khi vấn đề được
mang ra thảo luận. Trong một vài trường hợp vấn đề chỉ phải làm một lần, và đến
ba lần trong các trường hợp khác, thủ tục tại Nghị viện đòi hỏi dự án phải được
đọc lần thứ ba trước khi dự án này thành luật. Nếu cuộc thảo luận có những
quyết định bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín.
- Hầu Tước của Zetland,
nguyên phó vương Ấn Ðộ,
"Legacy of India
"Legacy of India
Phần II
[03]
LUÂN
LÝ
DÂN CHỦ
Phật giáo hoạt động dân chủ, Phật giáo gìn giữ
dân chủ trong tôn giáo, dân chủ trong xã hội và dân chủ trong chính trị.
- Tiến Sĩ Ambedkar
CON NGƯỜI ÐẠO ÐỨC KỲ TÀI
Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những
chân lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn
độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng
thấy có trên hoàn vũ.
- Albert Schweizer,
một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương
một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương
VĂN HÓA THẾ GIỚI.
Phật giáo đã mang lại sự tiến bộ cho thế giới
văn minh và văn hóa chính đáng nhiều hơn bất cứ ảnh hưởng nào khác trong tiến
trình nhân loại.
- H.G. Wells
[04]
ÐỘ
LƯỢNG - HÒA BÌNH - TÌNH THƯƠNG
ÐỂ ÐẠT ÐƯỢC HÒA BÌNH
Câu hỏi tự nó nêu lên là thông điệp vĩ đại của
đức Phật có thể áp dụng được bao xa trên thế giới ngày nay? Có lẽ có thể áp
dụng được, có lẽ cũng không thể áp dụng được; nhưng nếu chúng ta theo đúng
những nguyên tắc do đức Phật đề ra, rồi chúng ta sẽ đạt được hòa bình và an lạc
cho thế giới.
- Tổng thống Nehru
TRÍ TUỆ LÀ THANH GƯƠM CÒN VÔ MINH LÀ KẺ THÙ
Chưa có một trang lịch sử nào của Phật giáo bị
xóa nhạt bởi ánh sáng của ngọn lửa của tòa án dị giáo hay bị bôi đen bởi làn
khói dị giáo hay các nơi thị tứ vô tín ngưỡng bốc cháy, hay bị nhuộm đỏ với máu
của các nạn nhân vô tội vì hận thù tôn giáo. Phật giáo chỉ dùng một thanh gươm,
đó là gươm Trí tuệ và chỉ thừa nhận kẻ thù, đó là Vô minh. Ðó là chứng tích của
lịch sử không thể chối cãi được.
- Giáo
sư Bapat
"2500 Năm của Phật giáo"
"2500 Năm của Phật giáo"
KHÔNG MỘT LỜI THÔ BẠO
Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ
nơi đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên
môi đức Phật kể cả trong lúc tình cờ.
- Tiến Sĩ S.
Radhakrishnan
TẬP LUYỆN TRÍ TUỆ VÀ TỪ BI
Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành,
ngồi khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ
như trả lời: "Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện
tập trí tuệ và từ bi".
- Anatole France
KHÔNG CÓ NGƯỢC ÐÃI
Với tôi, không có một tài liệu nào trong tất cả
lịch sử dài đằng đẳng của Phật giáo qua nhiều thế kỷ mà các tín đồ Phật giáo
tuy trong thời gian dài tột bực như vậy mà có một sự ngược đãi nào của người
phật tử đối với những người có niềm tin khác.
- Giáo sư Rhys Davids
[05]
VỊ TRÍ
CỦA CON NGƯỜI TRONG PHẬT GIÁO
CON NGƯỜI TẠO LUẬT CHO THIÊN NHIÊN
Luật trong khoa học là một sản phẩm cần thiết
cho nhân loại và không có nghĩa xa con người còn có ý nghĩa nhiều hơn trong lập
luận cho thiên nhiên hơn là ngược lại thiên nhiên tạo luật cho con người.
- Giáo Sư Karl Pearson
CON NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ MỘT SẢN PHẨM LÀM SẴN
Con người ngày nay là kết quả của việc lập đi
lập lại cả triệu triệu lần tư tưởng và hành động. Con người hình thành và vẫn
tiếp tục hình thành như vậy. Cá tính của con người được tiền định bởi sự chọn
lựa của chính mình, tư tưởng, hành động do mình chọn lựa bằng thói quen.
- Hòa thượng Piyadassi
CON NGƯỜI CÓ THỂ TỰ LẬP
Phật giáo giúp con người có thể tự lập và khích
lệ lòng tự tin và nghị lực.
-Hòa thượng Narada Maha
Thera,
"Phật giáo yếu lược"
"Phật giáo yếu lược"
CON NGƯỜI CÓ THỂ THOÁT KHỎI SỰ HỦY DIỆT.
Con người vĩ đại hơn sức mạnh mù quáng của
thiên nhiên vì lẽ cả đến khi nghĩ rằng con người bị hủy diệt bởi những sức mạnh
ấy, con người vẫn giữ được cao cả hơn bằng sự hiểu biết các sức mạnh ấy. Lại
nữa, Phật giáo mang sự thật xa hơn nữa: Phật giáo cho thấy bằng phương thức
hiểu biết, con người cũng có thể kiểm soát được mọi trạng huống của mình. Con
người có thể ngưng, thoát khỏi bị nghiền nát bởi sức mạnh thiên nhiên và sử
dụng những luật của sức mạnh thiên nhiên để tự mình đứng lên chống đỡ.
- Pascal
[06]
LINH
HỒN
TIN TƯỞNG VÀO LINH HỒN LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA TẤT
CẢ MỌI PHIỀN NÃO.
Phật giáo đ?ng duy nhất trong lịch sử tư tưởng
nhân loại bác bỏ sự hiện hữu của cái gọi là linh hồn, bản ngã, hay Atman. Theo
giáo lý của đức Phật, quan niệm bản ngã là một tín ngưỡng ảo tưởng sai lầm
không đi đôi với thực tế và tạo ra tư tưởng có hại, cho là "ta" hay
"của ta" như tham đắm ích kỷ, dục vọng, luyến ái, thù hận, ác ý, tự
kiêu, ngạo mạn, vị kỷ và các tật đố hoen ố khác, nhơ bẩn và rắc rối. Ðó là nguồn
gốc của các phiền não trên thế giới từ những mâu thuẫn cá nhân đến chiến tranh
giữa các nước. Tóm lại, vì quan điểm sai lầm nầy mà tất cả những tội lỗi trên
thế giới đã xảy ra.
- Hòa thượng Tiến sĩ W.
Rahula ,
"Ðức Phật dạy gì"
"Ðức Phật dạy gì"
ÐỜI SỐNG SAU CÁI CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HUYỀN BÍ.
Sự khác biệt của tử và sanh chỉ là giây phút
cuối cùng của tư tưởng: lúc tư tưởng cuối cùng của đời sống này tạo thành điều
kiện cho tư tưởng đầu tiên trong cái gọi là đời sống kế tiếp, mà nói cho đúng
ra, chỉ là sự tiếp nối một loạt như vậy. Trong chính đời sống của nó, cũng vậy,
giây phút tối hậu của tư tưởng tạo điều kiện cho tư tưởng kế tiếp. Cho nên từ
quan điểm của người phật tử, câu hỏi về đời sống sau khi chết không phải là một
huyền bí to lớn, và người phật tử không bao giờ lo lắng về vấn đề này.
- Hòa thượng Tiến Sĩ W.
Rahula ,
"Ðức Phật dạy gì"
"Ðức Phật dạy gì"
[07]
PHẬT
GIÁO VÀ KHOA HỌC
PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC HIỆN ÐẠI.
"Tôi đã thường nói, và tôi sẽ nói mãi, nói
nữa Phật giáo và khoa học hiện đại có quan hệ tinh thần khăng khít."
- Sir Edwin Arnold
PHẬT GIÁO ÐƯƠNG ÐẦU VỚI KHOA HỌC.
Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu với
nhu cầu khoa học hiện đại thì tôn giáo đó phải là Phật giáo.
- Albert Einstein
MỘT TINH THẦN KHOA HỌC.
Phật giáo, ngược lại, là một hệ thống tư tưởng,
một tôn giáo, một tinh thần khoa học, một lối sống hữu lý, thực dụng và bao
quát. Trong 2500 năm Phật giáo đã thỏa mãn nhu cầu tinh thần của gần một phần
ba nhân loại. Tôn giáo này lôi cuốn Tây phương, nhấn mạnh về lòng tự tin đi đôi
với độ lượng về một số quan điểm khác, bao gồm khoa học, tôn giáo, triết học,
tâm lý học, đạo đức và mỹ thuật, nhắm vào riêng con người là kẻ sáng tạo ra
chính đời nay của mình và cũng chính mình là người phác họa ra số mạng của
mình.
- Christmas humpreys
KHOA HỌC CHẤM DỨT CHỖ PHẬT GIÁO BẮT ÐẦU
Khoa học không thể đưa ra sự đoan quyết. Nhưng
Phật giáo có thể đương đầu với sự thách thức của nguyên tử nên kiến thức siêu
phàm của Phật giáo bắt đầu là chỗ kết thúc của khoa học. Như vậy đủ rõ ràng cho
bất cứ ai nghiên cứu Phật giáo. Vì vậy, qua Thiền định Phật giáo, những phần tử
cấu tạo nguyên tử đã được nhìn và cảm thấy, sự phiền muộn, hay bất toại nguyện
(hay Dukkha, Khổ) "Hiện ra hay mất đi" (tùy theo nguyên nhân) do
chính chúng tạo ra với cái mà chúng ta gọi là "linh hồn" hay "atma"
ảo tưởng của Sakkayaditthi nói đến trong giáo lý của đức Phật.
-Egerton
C Baptist,
"Khoa học Tối thượng của đức Phật"
"Khoa học Tối thượng của đức Phật"
NHÂN QUẢ THAY VÌ THƯỞNG PHẠT
Theo đức Phật, thế giới không phải được cấu tạo
như người ta tưởng. Người phật tử tin tưởng hợp lý vào nghiệp (Kamma), nghiệp
tự tác động và nói lên nhân và quả thay vì thưởng phạt.
- Một Văn Hào.
[08]
NIẾT
BÀN LÀ GÌ?
SỰ GIẢI THOÁT KHÔNG CẦN ÐẾN THƯỢNG ÐẾ
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật
tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong
đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay
thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã
nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự
cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không xâm
nhập trong đời sống của Ngài được.
- Giáo Sư Eliot ,
"Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"
"Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"
ÐỨC PHẬT VÀ SỰ GIẢI THOÁT.
Ðức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài
dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải
thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải
giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những
lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình.
- Tiến Sĩ Oldenburg,
Một học giả Ðức.
Một học giả Ðức.
[09]
ÐỨC
TIN
ÐỨC PHẬT KHÔNG ÐÒI HỎI PHẢI TIN
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối
cao, Ngài cũng có biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả
kiến thức của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ
ràng và độc lập không liên can gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi
đây lại còn cho thấy một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ
ràng và hiển nhiên để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, đức Phật
không đòi hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức.
-
George Grimm,
"Giáo Lý của đức Phật"
"Giáo Lý của đức Phật"
[10]
PHẬT
GIÁO VÀ CÁC TÔN GIÁO KHÁC
HẬU PHẬT GIÁO: ẤN ÐỘ GIÁO
Phật giáo gây ảnh hưởng, cải tiến, biến đổi và
làm sung mãn lại Ấn độ giáo trong nhiều đường lối và kinh thánh của Ấn độ giáo.
Các đường lối của Ấn độ giáo được coi là hậu Phật giáo. Tiền giả thuyết về
triết lý Ấn độ trong giáo lý Karma (Nghiệp) và tái sanh vào cùng với hệ thống
Tiền Phật giáo đã đạt đến mức phát triển tối đa từ văn hóa Phật giáo và đã được
thiết lập trên căn bản triết lý.
- Tiến Sĩ S. N.
Dasgupta
ÐẠO ÐỨC PHỔ QUÁT
Trước khi Phật giáo ra đời, không có một tôn
giáo nào của Ấn độ được nói đến là đã có thể thiết lập một hệ thống đạo đức và
tôn giáo được phổ biến rộng rãi có giá trị cho tất cả.
- Tiến Sĩ S.N. Dasgupta
PHẬT GIÁO LÀ PHẬT GIÁO
Phật giáo và Jainism chắc chắn không phải là Ấn
độ giáo (Hindu) và cũng không phải là Vedic Dharma (Vệ đà). Ðúng vậy, Phật giáo
phát sinh tại Ấn độ và là một phần trong toàn bộ đời sống văn hóa và triết học
của Ấn. Tín đồ đạo Phật hay Jaina là trăm phần trăm sản phẩm tư tưởng và văn
hóa Ấn. Ấn độ giáo (Hindu) dù được tin tưởng cũng không được xem như là toàn bộ
đời sống văn hóa và triết học của Ấn độ. Thật là hoàn toàn nhầm lẫn khi cho
rằng văn hóa Ấn là văn hóa Ấn độ giáo (Hindu).
- Tổng
thống Nehru ,
"Khám phá Ấn độ"
"Khám phá Ấn độ"
MÓN NỢ ÐỜI ÐỜI ÐỐI VỚI ÐỨC PHẬT
Với ý kiến thận trọng của tôi, phần giáo lý chủ
yếu của đức Phật hiện nay hình thành một phần của toàn bộ Ấn độ giáo (Hindu).
Ngày nay người Ấn độ giáo (Hindu) tại Ấn không thể tìm được dấu vết của đạo
mình; và đi sau sự cải tổ to lớn của đức Phật Cồ Ðàm đã ảnh hưởng Ấn độ giáo.
Bởi sự hy sinh vô biên, bởi sự từ bỏ phi thường (thế tục), bởi sự thanh tịnh
không tỳ vết trong cuộc đời của Ngài, Ngài đã để lại một ấn tượng không thể nào
quên được cho Ấn độ giáo và Ấn độ giáo nhớ ơn đời đời vị thầy vĩ đại này.
- Mohandas Gandhi ,
"Maha Bodhi"
"Maha Bodhi"
TÔN GIÁO CÓ ƯU THẾ.
Một hệ thống không biết đến Thượng đế theo lối
Tây phương; một hệ thống chối bỏ linh hồn của con người; một hệ thống coi đức
tin bất tử là sai lầm; một hệ thống không nhận sự hữu hiệu nào của cầu nguyện
và hy sinh, một hệ thống khuyên con người không trông cậy vào đâu cả mà trông
vào những cố gắng của chính mình để giải thoát; một hệ thống mà thanh tịnh
nguyên thủy của nó không biết gì về lời nguyện, phục tùng và chưa bao giờ tìm
sự giúp đỡ của bàn tay thế tục, đã được truyền bá nhanh chóng đáng kể trên thế
giới từ thời thượng cổ cho tới bây giờ; một hệ thống dù có pha tạp những dị
đoan ép buộc, vẫn là một tín điều ưu việt của phần lớn nhân loại.
- T.H.Huxley
QUAN NIỆM PHẬT GIÁO VỀ TỘI LỖI
Quan niệm về tội lỗi của Phật giáo khác hẳn với
người Cơ đốc giáo. Với tín đồ Phật giáo, tội lỗi chỉ là vô minh hay ngu si. Một
người hung ác là một người ngu si. Kẻ phạm tội không cần đến trừng phạt mà cần
được giáo hóa nhiều. Người đó không phải bị coi là "Vi phạm mạng lịnh của
Thượng đế" hay như một kẻ phải cầu xin lòng lân mẫn, tha thứ của Thượng
đế. Tốt hơn và cần thiết hơn cho người bạn phạm tội kia biết lẽ phải của con
người. Người phật tử không tin là người phạm tội có thể thoát được hậu quả bởi
tội lỗi gây ra bằng cách van vái cầu nguyện với Thượng Ðế.
-John
Walters,
"Tinh thần không bị giao động"
"Tinh thần không bị giao động"
THẦN LINH CẦN SỰ GIẢI THOÁT.
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đức Phật
khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không
nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần
linh. Với tất cả tài hùng biện trong lệnh truyền của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có
lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải thoát
cho mình họ.
- Giáo Sư Rhys Dadis
[11]
THẾ
GIỚI VÀ VŨ TRỤ
THẾ GIỚI KHÔNG TOÀN BÍCH
Ðức Phật không giận hờn với thế gian. Ngài nghĩ
là thế gian không phải là độc ác, bất trị mà là vô thường và mê muội. Ngài
phiền não đôi chút về những người không nghe theo Ngài nhưng Ngài cũng không
biểu lộ tinh thần khó chịu.
- Giáo sư Elliot ,
"Phật giáo và Ấn độ giáo"
"Phật giáo và Ấn độ giáo"
MỘT TRẬN CHIẾN VĨ ÐẠI
Toàn thể vũ trụ là một chiến trường rộng lớn.
Chiến trận khắp nơi. Thế giới không có gì ngoài cuộc đấu tranh vô vọng chống
lại các vi trùng của các bệnh khủng khiếp, giữa phân tử chống lại phân tử, giữa
nguyên tử chống lại nguyên tử, giữa điện tử chống lại điện tử. Tư tưởng cũng là
bãi chiến trường. Các hình thức (sắc), âm thanh, vị giác... là kết quả sự phản
công và giao chiến. Chính sự hiện hữu của chiến tranh cho thấy có một trạng
thái Hòa bình Toàn hảo. Ðó gọi là Nibbana (Niết bàn).
-Hòa thượng Narada Maha
Thera,
"Lý tưởng Bồ Tát"
"Lý tưởng Bồ Tát"
No comments:
Post a Comment