Giáo Sư, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường |
LỜI DỊCH GIẢ
Cuốn
tự truyện Kẻ bị rút phép thông công được cụ Nguyễn Mạnh Tường hoàn tất
năm 1991 viết bằng tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Anh năm 2008 [*]. Đã gần hai
mươi năm trôi qua, nhiều người trong nước vẫn chưa có dịp đọc tác phẩm này, lý
do đơn giản là chưa ai dịch nó ra tiếng Việt và phổ biến. Tôi mạnh dạn trong khả
năng giới hạn của mình cố gắng dịch cuốn sách, không biết có lột được hết những
ý của cụ Tường một cách chính xác hay không, nên rất mong người đọc chỉ cho những
chỗ dịch chưa được thoát. Mong muốn lớn nhất của người dịch là bản dịch này sẽ
được hai giới quan tâm:
-
Thứ nhất là nhân dân Việt Nam hiểu rõ cụ Nguyễn Mạnh Tường là một người con tài
ba, chí tình yêu nước thương dân, cả đời hy sinh cho Dân Tộc, đã bị đoạ đầy hơn
ba mươi năm chỉ vì đã dám nêu lên những sai lầm của đảng Cộng Sản đặc biệt là
trong vụ Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng ở miền Bắc trong những năm 1954 – 56 và
đã dám cổ vũ, chứ chưa nói đến đấu tranh, cho dân chủ.
-
Thứ hai là những người cộng sản Việt Nam, những người vẫn còn lấy lời thề vì
dân vì nước làm trọng. Họ nên đọc và nghiền ngẫm những gì mà giáo sư Nguyễn Mạnh
Tường đã viết. Rất nhiều điều vẫn còn là sự thật, rất nhiều điều giáo sư NMT đã
báo động từ những năm đầu giành Độc Lập hiện nay vẫn đang tiếp tục xảy ra và
còn trầm trọng hơn.
Vì
trung chính, yêu nước thương dân, dám phê phán lãnh đạo mà giáo sư NMT và vợ
con phải chịu nhiều đau khổ bởi sự tàn bạo của những người cộng sản.
Người
cộng sản hô hào giải phóng “nô lệ thế gian” nhưng hơn ai hết, những người cộng
sản Việt Nam chính là những người nô lệ tự nguyện, nô lệ được trùm che dưới hai
chữ “anh em” với Tàu, Liên Xô. Anh bảo em nghe, nghe đến độ thằng anh bảo gì
làm nấy, kể cả việc mất đất, mất đảo, nhận cả một đội quân thứ 5 của Tàu vào
cao nguyên, và nhiều nơi khác. Họ đã bị cái vòng kim cô 16 chữ vàng cộng thêm
vàng thật chúng cho mang về đầy túi, để rồi họ làm tất cả để vừa lòng người
anh, kẻ thù truyền kiếp.
Cuối
cuốn tự truyện, giáo sư đã đặt hai câu hỏi cho người cộng sản Việt Nam:
1.
Vì sao các ông lại sợ hãi dân chủ?
2.
Giữa quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Tổ Quốc, các ông chọn phía nào?
Những
người cộng sản thuộc thế hệ Điện Biên đã ra đi kháng chiến, một lòng vì Tổ Quốc
Việt Nam thân yêu mà hy sinh cả cuộc đời để đánh đuổi Thực Dân Pháp giành lại Độc
Lập cho dân tộc. Thế hệ trong sáng đó nay không còn mấy người. Rất mong, tuy
không nhiều hy vọng, là những con em, những kẻ kế thừa của những người cộng sản
Điện Biên kia nhớ đến cha ông mà giữ mình sao cho xứng đáng. Rất mong những người
lãnh đạo chóp bu ngày nay còn biết giữ mình trước hai chữ Chiêu Thống, dấn thân
vào con đường “dân bầu, dân biết, dân làm, dân kiểm tra”. Dù ai có nói đông
tây, dù đa nguyên đa đảng, nếu các anh làm được những chuyện tốt lành cho dân tộc,
dân sẽ bầu cho các anh. Nếu các anh cứ tiếp tục tham lam, tham quyền cố vị, dùng
bạo lực đàn áp nhân dân, các anh là những người biện chứng chắc phải hiểu chuyện
gì sẽ xảy ra.
Người
dịch: Nguyễn Quốc Vĩ
Paris ngày 23 tháng 11 năm 2009
________________
[*]
Bản dịch tiếng Anh của Gs. Phó Bá Long hoàn tất năm 2008, nhưng hiện chưa ấn
hành và phổ biến rộng.
NGUYỄN MẠNH TƯỜNG - HÀ NỘI 1954-1991: BẢN ÁN
CHO MỘT TRÍ THỨC
“Bản thảo cuốn sách này đã được soạn và đánh máy trong một tình
thế lén lút và bị cô lập. Vì vậy tôi khiêm tốn gửi lời xin lỗi về những lỗi lầm
hay sai trật đến những ai quan tâm đến những suy tư và những bài viết của tôi,
và mong muốn cuốn sách này sẽ được phát hành ở Pháp” Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường
13 Tháng 5 năm 1991
Vài
tháng sau trận Điện Biên Phủ, tôi được lệnh tập trung lên trình diện tại Chiến
Khu Việt Bắc. Tôi nghĩ đây cũng là lần tập trung để học chính trị như những lần
trước. Cấp lãnh đạo luôn rất quan tâm đến việc giáo dục quần chúng và truyền
giảng cho giới trí thức những ý niệm về chủ nghĩa Maxist-Leninist mà họ tự cho
rằng chỉ họ mới là những người duy nhất hiểu biết nó. Bằng con bài chủ của
mình, những hiểu biết dó, họ cho rằng có thể áp đặt được sự nể trọng họ lên
giới trí thức, và cùng lúc, họ có thể thanh toán được nỗi mặc cảm tự ty của
mình. Đúng là ngây thơ, nhưng tất cả các ngài đều mang bệnh ngây thơ ấy. Vì
thế, tôi đành phải tự chèo chống lấy mình cho qua những giờ dài đăng đẳng để
khỏi nghe vài diễn giả cà lăm lải nhải. Họ không thể nào ngăn được tôi trốn
trong một góc khuất, ngáp dài nếu không ngủ hay mơ về bất cứ điều nào mà tôi
thích. Nhưng cái chiến thắng vang dội vừa mới đây lại mang đến cho tôi những xì
xầm to nhỏ. Sự tiên liệu của tôi đã thành sự thật khi thấy cả ngàn cán bộ thuộc
đủ các ngành đang tập trung ở Tân Trào. Sau rốt, chúng tôi biết chúng tôi sắp
được học “chính trị” – đây là một cụm từ linh thiêng, ở Việt Nam, mọi chuyện
đều là “chính trị”- để tổ chức buổi lễ Chính Phủ Kháng Chiến tiến vào tiếp thu
Hà Nội. Quân đội Thực Dân phải ra đi và bàn giao lại tất cả các cơ quan công
quyền bao gồm cả nhà cửa, thiết bị dụng cụ và cả những người Việt đang làm việc
nơi đây.
Buổi
học tập là để biết phải có thái độ gì đối với những công nhân viên đã được chỉ
định để bàn giao cơ quan mà trước đây họ làm việc trong thời kỳ Pháp thuộc.
Những mật báo viên của chúng tôi đã lập những hồ sơ những người chủ chốt của cơ
quan, hồ sơ lý lịch, gia cảnh, thái độ đối với Kháng Chiến, cảm tình đối với
xếp trên người Pháp của họ và nước Pháp, cũng như khát vọng và khả năng của họ.
Những thông tin đó rất quý giá và nó giúp chúng tôi đánh giá mức độ tin cậy đối
với từng người, sự hỗ trợ của mỗi người có thể có cho chúng tôi và những kỳ
vọng mà chúng tôi có thể chờ đợi từ mỗi người của họ. Như vậy chúng tôi không
phải quá mạo hiểm đi vào một vùng xa lạ, có thể vấp khựng trước những chướng
ngại vật hay trượt ngã vào những cạm bẫy bất ngờ.
Câu
hỏi nhạy cảm là làm sao tìm ra một thái độ cư xử với những người mà tình cảm được
che giấu sau bức màn của lễ độ và của nụ cười? Người của Kháng Chiến phải tự
mình hết sức cẩn trọng trong lời nói, cách nhìn, cử chỉ để tránh ám chỉ dù nhẹ
nhàng nhất đến sự khinh thường hay chiếu cố riêng đối với từng nhân viên dưới
quyền.
Nếu
các cấp lãnh đạo cấp cao thấm nhuần và luyện tập bản thân về ý này, thì rủi
thay, đám tôi tớ tuỳ tùng không hề bỏ lỡ một cơ hội nào để phô trương sự ngạo
mạn một cách lố bịch và đầy tai hại. Chúng nó tự ca tụng và phô trương là đã
chịu nhiều gian khổ và bệnh tật trong những năm bí mật kháng chiến, nay chúng
đòi phải được trả công bởi những kẻ không “may mắn” được tham gia Kháng Chiến.
Tai hại gây nên bởi loại người thiếu thận trọng đó thật lớn lao. Hố ngăn cách
hai nhóm người trong xã hội càng đào sâu hơn nữa. Trong số những người bất mãn,
có những người bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản của Đất Nước và lòng yêu
nước, mang những của cải làm quà cho những Đất Nước nhận dung dưỡng và cho họ
những cơ hội thích hợp với khát vọng và ước mơ của họ. Những người khác thì đã
nức hận thù chống cộng, luôn tìm cơ hội để phát tiết nỗi oán giận, thành lập
những tổ chức bí mật, thiết lập quan hệ với kẻ thù của chúng ta ở nước ngoài,
nhận tiền và chỉ đạo và ngay cả những trợ giúp quân sự với mục đích gây rối
loạn, gây biến động nổi dậy, và nếu được là một cuộc đảo chính. Đại bộ phận dân
chúng thì trì trệ trong sự dửng dưng, chọn thái độ chờ xem, chẳng màng suy nghĩ
hay kêu gọi những mong đợi của họ về chuyện thay đổi chế độ; họ giữ im lặng,
quan sát, nghe ngóng và không làm một hành động hay đưa ra một thái độ nhiệt
tình nào trong công việc giao cho họ. Bất cứ công việc nào mà con tim không có,
thiếu niềm vui, vắng nhiệt tình, thì nó không thể cho ra kết quả hữu hiệu, ít
nhất cũng là việc chính quyền kháng chiến, mặc dù những tuyên ngôn, mà hoá ra
như những lời khoác lác làm trò cười cho thiên hạ, đã không cung cấp nổi cho
công nhân viên những nhu cầu tối thiểu của đời sống hàng ngày. Những công chức
được trả lương hậu hĩnh dưới thời chính quyền Thực Dân trước đây được tiếp tục
hưởng lương như thế trong một thời gian. Nhưng một vài “tâm hồn cao quí” trong
bọn họ, được sự “chỉ đạo” đúng đắn và bài bản của “lãnh đạo”, không biết dưới
sự đe doạ hay được lời hứa thưởng công, đã đưa ra kiến nghị cùng bình đẳng
lương bổng, nhưng không phải bình đẳng theo hướng nâng lương lên cao mà cùng
giảm lương về mức thấp. Để thuyết phục các đồng nghiệp chấp nhận ăn miếng bánh
thanh bạch, những tác giả của kiến nghị “công bằng lương bổng” kéo nhau rỉ tai
là “Trong những năm kháng chiến, chúng mình chưa bao giờ bị đói, lạnh, nguy
hiểm đến tính mạng; chúng mình sống no đủ hạnh phúc thoải mái với gia đình. Như
vậy, chuyện từ bỏ những đặc quyền và giảm bớt lợi tức của chúng ta cho bằng các
bạn đồng nghiệp phía kháng chiến có phải là một việc làm có tình có lý hay
không? Như vậy chúng ta đã có một hành động công bằng; chúng ta cho thấy khả
năng chấp nhận hy sinh và sẽ không bao giờ thành đối tượng bị khinh miệt bởi
người khác; chúng ta mang lại sự đoàn kết trong cộng đồng công nhân viên nhà
nước, và bình đẳng giữa người này người khác. Chúng ta cùng cực khổ cáng đáng
việc xây dựng lại Đất Nước nhé!”. Nhiều người đã rùng mình ớn lạnh khi nghe
những lời rủ rỉ phát sinh từ cấp cao nào đó truyền xuống mà thấy miệng đắng như
vừa nuốt nguyên túi mật không tên. Đó là mùi vị của khốn cùng mà tất cả công
nhân viên nhà nước đang cúi mình gánh chịu.
Về
phía dân chúng, đối với chúng tôi họ dành trong lòng một sự tò mò nhưng thân
thiện. Họ và chúng tôi cùng dòng máu đang chảy trong huyết quản, cùng một quá
khứ đầy tự hào và tủi nhục. Điện Biên Phủ đã tràn ngập con tim của mọi người
với cùng độ nức lòng và cùng tầng nhiệt huyết. Nhưng, dù thế nào, kháng chiến
vẫn là một thế giới riêng, người đi kháng chiến cũng là những con người thường
nhưng với những tập quán thói quen có thể làm ngạc nhiên thế giới văn minh.
Người ta có thể nhìn chúng tôi như những kẻ man rợ vì không biết dùng lược và
nước hoa để chải đầu hay xài xà phòng tắm để săn sóc làn da; man rợ vì không
biết cầm dao nĩa thế nào cho đúng cách; nhưng cũng có người vừa to mắt ngạc
nhiên vừa trao tặng chúng tôi một bó hoa; có người chờ xem hành động và lời nói
của chúng tôi để xem có thể dành cho chúng tôi mối cảm tình nào đó hay chỉ
thuần là một nỗi nể nang sợ hãi, nếu chưa muốn nói đến một sự lãnh đạm xa cách.
Khó
khăn lớn nhất của chúng tôi là việc tiếp cận giới trí thức Hà Nội, nhất là khi
họ đã được cảnh báo về chủ nghĩa Cộng Sản. Việc họ bỏ nước ra đi sẽ gây thiệt
hại đáng kể cho Đất Nước bị mất đi những chất xám mà sau đó chính những nước
ngoài là người hưởng dụng. Đó là lãnh vực mà ta cần phải tránh những sai lầm
ngớ ngẩn do những người được giáo dục đúc khuôn từ Đảng là thủ phạm, bởi vì họ
đầy tự mãn, đầy kiêu căng, bởi vì họ không có trình độ về lãnh vực trí thức và
xã hội.
Nhưng,
theo đánh giá của cấp Lãnh Đạo, điều tệ hại nhất là điều đe doạ đến tính trong
sáng của cán bộ kháng chiến đã hơn mười năm nay được Đảng giáo dục. Khi đến với
kháng chiến, toàn bộ hay ít nhất là gần như toàn bộ cán bộ là đã có những vết
nhơ của tư sản, của thế giới phản động. Những vết nhơ đã làm hoen ố tâm hồn
nhiều hơn là thể xác, làm biến chất con người, làm sai lạc quan điểm và làm méo
mó tư duy của họ. Phải cần nhiều năm miệt mài học chủ nghĩa Lenin, hàng năm
theo những lớp học chính trị, những buổi phê bình và tự phê bình, những ngày lao
động chân tay, trải nghiệm gian khổ để chữa sạch những vết thương mưng mủ, để
chữa trị khỏi những tật bệnh nếu không phải là để cho một sự trinh nguyên cho
thể xác, thì cũng để đạt đến sự chân thành biến thành những kẻ dễ bảo cho lãnh
đạo.
Ngày
nay họ lại phải trở về với chính nơi độc nhiễm mà họ trước đây sinh sống, Đảng
đã bắt chước Trung Quốc tìm cách cho họ tránh những “viên đạn bọc đường” bằng
cách trang bị cho họ những bao ngừa thai để tránh những mầm SIDA chính trị, một
bệnh truyền nhiễm chết người, y chang như trang bị cho người để chống SIDA ở
đời thường. Cái gì đã quyến rũ các ông quan kháng chiến một khi họ trở về Thủ
Đô? Một bữa ăn thịnh soạn có champagne, rượu Tây, thuốc lá Anh, những điệu
valse ẻo lả, những ánh mắt đưa tình và những nụ cười mời mọc của những nàng
tiên kiều diễm là quá đủ để kéo tên “man rợ” ra khỏi rừng rú ném hắn vào đám
yêu tinh và làm hắn phải “bán linh hồn cho quỉ dữ”… Nhưng làm sao sự khôn ngoan
và những tiên liệu của Đảng lại có thể ngăn được những đợt thuỷ triều của ham
muốn đã nhiều năm bị đè nén và đang đến lúc nổ tung? Trong những năm 1989-1990,
cả nước bàng hoàng thất vọng và kinh hoàng trước tội ác của những đảng viên
biến chất, nhiều quan chức cao cấp của Đảng và của Nhà Nước đã hành xử như
những băng đảng trộm cướp, đã nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ để thoả mãn ham
muốn đê tiện của mình. Chưa bao giờ, dù dưới bất cứ chế độ nào, một vụ tai
tiếng như thế lại có thể xảy ra, và Đảng phải đỏ mặt vì xấu hổ và đen như nhuộm
bùn. Viên đạn bọc đường quả thật đã chơi trội việc giáo dục chính trị.
Ngày
10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào
Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi.
Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai
bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. Tất cả
hai bên nhà phố đều trang trí và niềm vui không tả trên ánh mắt của từng người
dân. Từng chặp, đoàn quân phải ngừng lại để nhận những vòng hoa của từng đoàn
thiếu nữ mang tặng. Sự nồng nhiệt của dân chúng đã lên đến cao độ, thật chân
thành và nồng hậu. Kể cả những người mà con tim còn đang nhịp nhẹ những tiếc
nuối với người chủ hôm qua, tất cả đều chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc găp gỡ dễ
thương bằng sự rộng rãi và lịch sự, họ vỗ tay hoan hô những người đã làm nên
chiến thắng Điện Biên Phủ: chiến công của họ khơi động lại niềm hãnh diện của
người dân Việt và phục hồi lại danh tiếng cho nước nhà.
Trong
hai tuần đầu, tất cả cán bộ đều được lệnh không ra khỏi nơi đang cư ngụ. Chúng
tôi không biết được lý do tại sao. Có phải đây là vì vấn đề an ninh? Không kể
những viên đạn bọc đường mà mọi người cho rằng có thể phá vỡ sự trong sáng của
những con người kháng chiến sau nhiều năm được cải tạo, thì có phải chăng vì sợ
súng đạn của những kẻ quá khích hay gián điệp có thể mang đến những cái chết vô
nghĩa cho những người mà Đảng đã mất hàng chục năm để đào tạo và đã biến họ
thành những người Cộng Sản trung kiên? Hay đã có những ý nghĩ kỳ quặc đang manh
nha trong đầu của vài lãnh đạo đang nắm quyền và họ chỉ muốn thuộc quyền tuân
phục một cách mù quáng? Mặc kệ lý do gì! Có chuyện lo bảo vệ an toàn hay chỉ là
một nhắc nhở là chúng tôi chỉ là những con chốt tầm thường trong tay của những
người lãnh đạo, chúng tôi đều cúi đầu phục tùng cho bạo chúa phán lệnh lúc nào
phải hành động y những con rô bốt mà chẳng biết bận tâm suy nghĩ tại sao. Trong
khi chúng tôi có thể về thăm nhà ở Hà Nội để có chỗ nơi ăn ở đàng hoàng, giường
êm nệm ấm thì chúng tôi phải nằm trên sàn trần, cuốn mình trong những tấm chiếu
không khác gì những tử tù đang chớ ngày đút đầu vào máy chém… Chúng tôi tiếp
tục sống đời kham khổ kỷ luật như những người Spartan như những năm bí mật
kháng chiến; khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi lại xếp hàng rửa bát bên vòi nước.
Thật ra đâu cần thiết phải đối xử bất nhân kéo dài thêm hai tuần xa cách cho
những người đi kháng chiến đã hơn mười năm chưa gặp lại gia đình? Chỉ còn thêm
vài trăm bước đường nữa là mọi người trở về đã có thể ôm lại cha mẹ anh em và
trao cho nhau những giọt nước mắt mừng tủi sau những năm xa cách mà tưởng như
thiên thu. Có phải chăng người Cộng Sản là những anh hùng mà mắt đã không còn
lệ, mà trong tim tình cảm gia đình đã biến mất, linh hồn đã bị huỷ diệt bởi một
niềm tin điên cuồng vào một học thuyết chủ nghĩa hay một tôn giáo?
Về
phần mình, một mặt lòng tôi rộn rã vui sướng được đặt chân trở lại thành phố
nơi tôi sinh ra, nơi mà những kỷ niệm đầy nhớ mong đã bám chặt lấy tôi suốt
những năm xa cách; một mặt khác, lòng tôi lại héo buồn vì không được quay về
nhà trong giờ phút đầu tiên để gặp lại cha mẹ già đang khắc khoải chờ mong gặp
lại đứa con trai lớn đang ra vào hiểm nguy mà không cần tranh cãi chi đến đến
chuyện nó ra đi là có cần thiết hay chính đáng không.
Điều
không vui của tôi kết thúc khi tôi được phân công về nhận trường Luật. Ngay sau
khi buổi lễ bàn giao chấm dứt là tôi chạy bay về nhà gặp lại mẹ cha chảy những
giòng nước mắt khi thấy con mình còn sống trở về.
Ngày
kế, tôi tập họp toàn thể nhân viên trong phòng giám đốc, một căn phòng lớn mênh
mông ở phía phải đầu trên cái thang lầu to tướng, đối diện với cái giảng đường
to mà hơn mười năm trước tôi vẫn hay đứng giảng bài cho sinh viên hay thuyết
trình trong những buổi hội nghị cho mọi người.
Tất
cả ban giảng huấn đều biến mất ngoại trừ ông Đào Bá Cường, tất cả đã chọn con
đường ra nước ngoài hay quay ra hành nghề luật sư. Tôi chỉ còn lại ba cô thư ký
và một lái xe hãnh diện là đã giấu và giữ lại được một chiếc xe thoát khỏi tay
cảnh sát của Thực Dân. Trong khi chờ đợi quyết định tổ chức lại hay giải tán
trường Luật, chúng tôi chẳng có nhiều việc để làm, nhất là sau khi đã xếp lại
thứ tự cho Thư Viện, xếp vào kệ bộ sách Luật Dalloz-Sirey toàn tập mà khối
lượng sách đã từng nhiều lần làm tròn xoe mắt của dân không chuyên ngành. [1]
Tôi
đã phải mất công kéo giờ có mặt của các cô thư ký xuống hai giờ mỗi ngày, bởi
“tập thể” – tên mới mà những người cộng sản dùng – không thể ngồi đó lâu hơn vì
chả lẽ cứ ngồi đó mà ngáp và không làm gì cả cho hết ngày? Vì vậy, để tránh
khỏi sinh ra ức chế vì cả ngày không việc gì làm, những ngưởi cộng tác với tôi
yêu cầu tôi khai tâm cho họ về chủ nghĩa Maxist. Không có gì làm họ khó chịu
bằng phải nghe những điều đần độn về chủ nghĩa Maxist vả những cái ngạo mạn chỉ
đáng cho cái tát vào mặt. Tôi bảo đảm cho những người nghe là nhiều kẻ nói về
Marx nhưng chưa lần nào đọc về Marx, hoặc nếu có cơ may đọc được vài đoạn trong
cuốn Tư Bản Luận thì họ cũng chả hiểu chi. Chứng cớ là những người Marxist dày
dạn đã phạm những sai lầm ghê gớm gây khổ đau cho dân tộc, kéo theo sự nghi ngờ
về sự hiểu biết của họ về cái học thuyết mà họ đang theo.
Khi
mà tôi không có một mảnh bằng hay đạt một trình độ nào về học thuyết Marxist,
tôi cảm thấy không thoải mái khi can thiệp vào lãnh vực chuyên môn của các Tiến
Sĩ về chủ nghĩa Marx. Tôi cố gắng giới hạn trong việc thoả mãn trí tò mò của
mấy người cộng tác. Tôi trình bày vấn đề bằng cách đặt ra những câu hỏi mà họ
có thể dễ dàng trả lời. Nhờ đó qua cách gợi ý tôi đã chuyền cho họ một chút
hiểu biết về chủ nghĩa Maxist qua hơn mười năm trong kháng chiến. Tôi nói rõ
ràng với họ là hiểu biết về chủ nghĩa Marx của tôi chỉ là một tẹo nhưng cũng đủ
để lật mặt nạ những kẻ dốt hay nói chữ như Trissolin [2] hay tháo gỡ những sai
lầm do những người Marxist có bằng cấp.
Thời
gian trôi qua. Đảng vẫn chần chừ trì hoãn quyết định đóng hay mở Trường Luật.
Tôi hiểu những ngập ngừng này. Trong nhiều năm làm việc ở các cấp Toà Án và làm
luật sư chỉ định của Chính Quyền, và nhờ việc phải theo dõi tiếp xúc thường
xuyên với những cán bộ có trách nhiệm, tôi có dịp quan sát thấy sau cung mê
tiềm thức của họ là một sự hãi sợ tột đỉnh về Luật Pháp. Xưa kia, trong thời
hoạt động bí mật, những người đi làm cách mạng đã có những ngày đen tối với chế
độ xử án của Thực Dân và những quan toà của nó. Vì vậy, họ kết bè với nhau với
những ngày hy sinh và cực khổ trong hệ thống xét xử mà họ cho rằng đó là công
cụ kềm kẹp trong tay của bọn tư bản. Tuy nhiên nếu họ chịu đào sâu tìm hiểu về
hệ thống pháp lý và các bộ Luật của Liên Xô, thì họ sẽ thấy những công cụ trấn
áp quần chúng lao động cũng hoàn toàn có thể biến thành những phương tiện bảo
vệ Nhà Nước và Cách Mạng chống lại giới tư sản phản động. Họ chỉ cần thay người
và mục tiêu.
Nhưng
theo tôi, người cộng sản ghét pháp luật có một lý do sâu xa hơn. Có nhiều quan
điểm thật khác nhau giữa những con người làm chính trị và những con người chăm
lo Luật Pháp, họ khác nhau về thói quen tâm lý và khác nhau cả về tư duy.
Chính
trị là một lãnh vực mà mọi biên giới đều mờ nhạt mà một người có thể vượt ngang
qua không chiếu khán và thường khi không biết luôn cả việc có biên giới hay
không. Đó là một vùng đất đầy những đồi cát mà gió có thể làm biến dạng tuỳ
thích, có những đầm lầy cần phải tránh để khỏi một cái chết bị ngập lún. Đây là
nơi mà sự nhập nhằng là kẻ chiến thắng. Cái không chính xác về hành động và
ngôn ngữ đã tạo cơ hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn lẫn
nhau. Kẻ phải phiêu lưu vào đó phải tránh chuyện logic, sự sáng sủa và chính
xác, chỉ phải nghĩ đến những việc ở thời hiện tại mà quên đi những gì liên hệ
đến quá khứ hay tương lai, phải gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức hay tình cảm và
trên hết thảy, phải hành xử với một thái độ cơ hội chủ nghĩa sắc bén và linh
động.
Vùng
đất của Luật Pháp, ngược lại, được bao bọc bởi núi và sông như những đường ranh
giới tự nhiên. Ở đây chỉ có cái chặt chẽ của hình học, của logic thuần lý, sự
chính xác của phép tính theo tinh thần Descartes và của một sự rõ ràng minh
bạch. Giữa sự hợp pháp và bất hợp pháp là một đường phân rõ ràng như giữa trắng
và đen. Ngôn ngữ của Luật thể hiện những ý niệm, ý kiến, định nghĩa từng nội
dung và không chấp nhận những vùng khuất trượt lướt chung quanh, những lập lờ
chữ nghĩa, những giải thích đầy phù phép và lừa gạt đưa ra. Những tranh luận về
Luật kéo theo những đụng độ về ý kiến nhưng phần thắng luôn đến từ những lý
luận đặt cơ sở trên nguyên tắc của Luật Pháp, trong những bài viết không còn
những từ ngữ rỗng tuếch và còn tranh chấp đúng sai trong cái sự thanh thản của
biện chứng, dưới ánh nắng lạnh lùng của lý trí.
Vì
thế, sự đối kháng giữa chính trị và luật pháp là không thể nào giải quyết được.
Trong khi nhà chính trị muốn khẳng định chủ nghĩa duy ý chí thì nhà Luật học
lại chiếm ưu thế về sự hợp lý. Một phe thì luôn đặt vấn đề một cách cụ thể,
phân tích từng yếu tố của sự việc, xem xét những tương quan và những tác động
qua lại, tìm chọn tất cả những giải pháp để rốt cuộc chọn lấy giải pháp tối ưu
và có lợi nhất, và dùng tất cả quyền hành trong tay để thực hiện nó. Loại người
đó không hề bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc, nghĩa vụ hay niềm tin nào. Họ
tự do như những con ngựa hoang trên cánh đồng cỏ mênh mông, tàn phá như những
cơn bảo hung tàn đang giật tung những mái ngói và nhận chìm những con tàu chìm
sâu vào lòng biển khơi. Dựa vào hoàn cảnh thuận lợi, nhà chính trị đã chơi xả
láng con chủ bài của mình và biểu thị một lòng ham muốn vô giới hạn. Nhưng cơ
hội của họ lại va chạm đến tính cứng nhắc của hệ thống tư pháp và những qui
điều trong Luật. Vì thế họ muốn quét bỏ hệ thống tư pháp và nhảy xổm lên trên
Luật Pháp; nhưng dầu thế nào họ cũng đã có một nền tư pháp đang ngủ yên và quên
lãng trong Kháng Chiến, nơi mà chính phủ chỉ nói chuyện với cỏ cây thú rừng khi
mà những người theo kháng chiến với tấm lòng yêu nước và chỉ lo thi hành bổn
phận, không dám quấy rầy giấc ngủ của lãnh đạo.
Nhưng
tất cả đều trở nên xáo trộn sau ngày trở về Hà Nội. Ở đây là thái độ một thành
phố thu mình không còn nhộn nhịp và ngay sự yên tĩnh cũng gây khó chịu cho
chính quyền mới. Thái độ như thế biểu dương một tinh thần tôn trọng Luật Lệ.
Bất cứ khi nào quyền lợi của họ bị xâm phạm, lập tức người dân đến gõ cửa Luật
Sư và Luật Sư Đoàn như những thành trì của công bằng và Công Lý. Để chứng tỏ
thiện chí, chính quyền cộng sản đã không thấy gì trở ngại để giữ lại Luật Sư
Đoàn khi mà những Thẩm Phán xử án đã được thay thế bằng những người do Đảng đào
tạo và giáo dục, và chính những người này là những người quyết định kết quả của
mọi vụ án. Sau ngày tiến vào Hà Nội, trong khi những chuyện có tính nội bộ như
thế có thể giải quyết dễ dàng, thì ngoài những nước anh em, Việt Nam còn phải
nối quan hệ với các nước tư bản. Những nước này là những nước thượng tôn Pháp
Luật và chỉ chịu ký kết những hiệp định phù hợp với khung pháp lý. Bên cạnh đó,
những định chế quốc tế hay những tổ chức nghiên cứu rất kỷ về Việt Nam, họ có
khả năng giúp Việt Nam hưởng những trợ giúp của họ và đồng thời cũng quy trách
được nếu Việt Nam phạm những sai lầm. Bằng con đường quốc tế, những quy điều
của Luật đã mạnh mẽ đi vào Việt Nam và nhà cầm quyền bắt buộc phải quan tâm đến.
Sau
Điện Biên Phủ, ai cũng biết rằng Hiệp Định (Genève) chia đôi Việt Nam ra thành
hai phần: phía Bắc do Nhà Nước Cộng Sản nắm, phía Nam do chính quyền thân Mỹ
Ngô Đình Diệm nắm. Mặc dù rất đúng Luật về mặt hình thức, Hiệp Định Genève đã
xâm phạm quyền của một dân tộc từ ngàn xưa đã luôn luôn sống trên một Đất Nước
duy nhất. Từ rất sớm, khởi nghĩa vũ trang đã được tổ chức trên cả vùng chống
lại nhà cầm quyền, khởi đầu cho những bước thống nhất Đất Nước. Để phản công,
nhà cầm quyền phía Nam đã bắt cầm tù một số trí thức như Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ
và giáo sư Phạm Huy Thông, kết án họ là những người cầm đầu cuộc nổi dậy, và
tiến hành việc đàn áp đẫm máu những người mà họ cho rằng nuôi dưỡng những
khuynh hướng nhằm thống nhất Tổ Quốc.
Chính
nghĩa thống nhất Đất Nước phải được biện hộ trước diễn đàn quốc tế; dư luận
quốc tế phải được thông tỏ chuyện gì đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Năm 1956,
Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập hội nghị thế giới ở Thủ Đô Bruxelle của Bỉ.
Trước cơ hội thật lớn lao đó, nhà cầm quyền (phía Bắc) liền tổ chức một đoàn
đại diện để đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị là Chủ
Tịch Luật Sư Đoàn và là Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tôi được giao phó
làm trường đoàn, cùng với Luật Sư người Công Giáo Nguyễn Huy Mân là Hội Thẩm,
đồng thời là Chủ Tịch Toà Án Quân Sự và cũng là một quan chức cao cấp của Đảng.
Nhiệm vụ của chúng tôi là làm sao được Hội Nghị đưa ra nghị quyết ủng hộ Dân
Tộc quyền đấu tranh để thống nhất Đất Nước.
Khi
chiếc máy bay Sabrina (Tây Ban Nha) đáp xuống phi trường cũng vừa lúc hoàng
hôn. Một thư ký Hôi Nghị đón và đưa chúng tôi về khách sạn. Sau khi tắm rửa và
thay quần áo, chúng tôi xuống phòng ăn rộng mênh mông và lộng lẫy sáng chói.
Tất cả những chiếc bàn tròn được phủ những chiếc khăn không một vết nhơ trang
trí với những bình hoa đều có khách ngồi. Chúng tôi là những kẻ đến sau cùng để
chiếm cái bàn duy nhất còn lại. Sau bữa ăn, chúng tôi vào phòng khách và được
một đoàn tiến gần tiếp cận: đó là đoàn của Bắc Triều Tiên. Chúng tôi làm quen thật
nhanh chóng, hai đất nước chúng tôi có số phận giống nhau.
Đoàn
chúng tôi chia nhau mỗi người đi gặp một đoàn bạn để tranh thủ cảm tình cho
chính nghĩa của mình. Cá nhân tôi, tôi đã tìm gặp ông Chủ Tịch Luật Sư Đoàn
Bruxelles và thảo luận với Chủ Tịch Đoàn của Đại Hội nhằm đưa vào nghị trình
vấn đề của chúng tôi. Họ từ chối một cách rất lễ độ là chương trình đã đầy
không còn thời gian trống, và hơn nữa Hội Nghị đã định cho mình sứ mạng gìn giữ
Hoà Bình và không ủng hộ bất cứ một cuộc khởi nghĩa võ trang nào, dù là có
chính nghĩa. Tôi vẫn không mất can đảm, vẫn tiếp tục tranh thủ những trưởng
đoàn các nước, những người mà tôi cho rằng là có trình độ trí thức cao, những
người mà tôi cho rằng có một ảnh hưởng nhất định, là việc đưa vấn đề cực kỳ
thiết thân của chúng tôi vào nghị trình là một việc cần thiết. Những cố gắng ấy
cuối cùng cũng được đền đáp bằng một thành công thật may mắn: vấn đề của Việt
Nam được đưa vào nghị trình nhưng được sắp vào lúc cuối cùng của Hội Nghị.
Chúng tôi thật nản lòng. Kinh nghiệm những hôi nghị quốc tế như thế này, càng
lúc vào phút cuối, phần lớn các đoàn là đã tranh thủ lo vé máy bay, sửa soạn
hành lý đề đi về. Quả thật chúng tôi thật nặng lòng và buồn phiền chờ buổi kết
thúc hội nghị. Chắc chúng tôi tham dự Hội Nghị lần này là mất công toi. Chúng
tôi phải ăn nói ra sao với lãnh đạo đây?
Một
bất ngờ đã xảy ra. Sau khi bài tham luận chót được đọc thì đoàn Việt Nam được
mời lên điễn đàn. Chúng tôi thật tình không chờ đợi một cử chỉ lịch sự như thế
vào lúc chót. Tôi liền lên bục ngay sau khi Chủ Toạ Đoàn loan báo hội nghị được
kéo dài thêm mười lăm phút. Lòng tôi thật vui sường và tim tôi đập loạn xạ…
Bằng giọng nói đầy xúc cảm, tôi bắt đầu trình bày luận đề.
Đấu
tranh, dù là có vũ trang, với mục tiêu loại bỏ sai quấy hay trừ bỏ bất công,
đàn áp, hành động man rợ, hay để loại bỏ những chướng ngại ngăn cản sự tiến bộ
của hoà bình là cái mở đầu, là giai đoạn đầu tiên cho một ngày kiến tạo và gìn
giữ hoà bình. Danh ngôn của Hy Lạp đã nói muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến
tranh. Phải chăng là không có mâu thuẫn giữa chiến tranh và hoà bình, khi mà
chiến tranh xâm lược đã giết chết hoà bình, mặt khác, chiến tranh có chính
nghĩa là để giành được hoà bình, gìn giữ và bảo vệ nó. Chỉ có kẻ ngây thơ và
trẻ con mới tin rằng chiến tranh là đối ngược với hoà bình, là hai mặt đối
kháng lẫn nhau không thể nhân nhượng như thể giữa đêm và ngày. Ai có thể chấp
nhận một quan điểm mơ hồ như thế? Tôi đã mang hết những lý lẽ tình cảm, chủng
tộc, lịch sử, ngôn ngữ, kinh tế và xã hội để vận động cho chính nghĩa của Dân
Tộc Việt Nam.
Trong
phần kết, tôi trình bày với người nghe bằng những ý như sau: “Thưa các bạn Ba
Lan và Hung Gia Lợi, mới ngày hôm qua, các bạn đã đau khổ nhìn quê hương bị
chia năm xẻ bảy; thưa các bạn người Hàn và người Đức, các bạn cũng đau đớn chịu
nỗi bất hạnh như thế. Nhưng các bạn may mắn hơn chúng tôi là không phải thấy
với chính mắt mình những nét mặt đau đớn, được nghe tận tai tiếng thét của
những người, có cùng dòng máu chảy trong huyết quản, có con tim cùng chia sẽ
những buồn vui với bạn, phải quằn mình đau đớn dưới bàn tay của những kẻ đao
phủ.”
“Tôi
không biết, trong số những người đang nghe tôi ngày hôm nay, có ai đã, vì bó
buộc của nghề nghiệp, phải tận mắt chứng kiến cảnh thân chủ của mình bị hành
hình. Đó là thời Thực Dân chiếm đóng. Toà Án Hà Nội đã chỉ định tôi làm Luật Sư
bào chữa cho một tên cướp biển người Hoa bị án tử hình, ngưởi này ở vịnh Hạ
Long đã giết hơn mười hành khách trên một chiếc tàu. Tôi được chỉ định bào chữa
cho hắn và phải có mặt khi hắn bị hành hình. Bản mặt hung ác của nó không làm
ai cảm tình, nhưng ánh mắt cuối cùng khi hắn đút đầu vào máy chém làm tôi thấy
tôi nghiệp. Tôi nhìn nơi khác khi lưỡi dao rớt xuống cắt gọn ngang cổ hắn. Một
dòng máu phụt ra, cái đầu rớt một bên, cái thân một bên rớt vào cái hòm với đầy
mạt cưa”.
“Thưa
các bạn, cái máy chém đó, có từ thế kỷ trước. Nó chẳng những được dùng để chém
đầu những kẻ phạm tội ác, mà còn dùng để chém đầu những người con yêu nước đang
đấu tranh để thống nhất Tổ Quốc, để khủng bố dân lành và để trấn áp lòng yêu
nước của họ.”
“Và
cầu Hiền Lương với tên gọi mang âm hưởng tử tế như thế lại là cây cầu chia cắt
Việt Nam thành hai miền, phải chăng đó là lưỡi dao nhọn đâm thẳng vào da thịt
của người dân, chia tách gia đình ở hai bên bờ không thể nhìn nhau với con mắt
đầy lệ. Giòng sông không còn là nước chảy mà mang trong lòng nó những giòng
nước mắt của phân ly, những giòng máu của những người can đảm vượt sông để rồi
ngã xuống bởi những viên đạn bắn từ những con Tàu tuần cao tốc.
Các
bạn đồng nghiệp thân mến, trong suốt thời gian hành nghề, chúng ta ít nhất đã
một lần chứng kiến cảnh chia tay của một cặp vợ chồng. Trong buổi hoà giải đầu
tiên ở Toà, chắc các bạn đã không bao giờ quên nét căng thẳng của hai cha mẹ,
và hơn thế nữa ánh mắt sợ hãi và đầy nước mắt của những đứa con hết nhìn cha
rồi lại nhìn mẹ, hết nhìn mẹ rồi lại nhìn cha, chúng cảm thấy đau đớn trước
thảm cảnh chia lìa của mẹ cha, trước sự sụp đổ của hạnh phúc gia đình, bi kịch
của một sự đau khổ đã quét đi một gia đình mà chỉ mới hôm trước đây chung sức
xây đắp một gia đình đầy ắp tiếng cười vui, nhưng ngày mai đây, mỗi người sẽ
ngồi khóc trầm lặng trong một góc của mình trước nỗi bất hạnh không thể nào cứu
vãn. Làm thế nào người thầy cãi chúng ta lại có thể dửng dưng trước một gia
đình tan vỡ, nhất là khi cái gánh nặng buồn đau lại đổ trên vai của những đứa
con?”
“Hơn
thế nữa, các đồng nghiệp thân mến, không phải chỉ có một gia đình bị tan vỡ mà
hàng triệu gia đình đang kêu than và khổ não. Vĩ tuyến 17 không chỉ là một
đường biên vô hình hay một đường chia tự nhiên của địa hình, mà là một làn sóng
phóng đi những tiếng kêu van, trách móc và than khóc của hàng triệu người bị
buộc phải xa lìa nhau mà không hề biết tại sao, sự tàn ác của những người đã
bắt họ phải chịu đọa đầy vì cách chia và cô quạnh. Làn sóng đó cũng phát đi
những tiếng uất hờn và hận thù của hàng chục ngàn người con yêu nước đã phải
chết gục dưới làn đạn hay máy chém, duy nhất chỉ vì họ muốn sống trong một đất
nước thống nhất, cho họ và cho người khác!”
“Tôi
vừa phát âm lên một từ ngữ thiêng liêng: Hoà Bình. Chúng ta tập trung với nhau
ngày hôm nay ở đây là để gìn giữ Luật Pháp và Hoà Bình. Nhưng ở Hội nghị này,
người ta đã nhân danh Hoà Bình đó để từ chối ghi chuyện của Việt Nam vào chương
trình nghị sự. Một vài đồng nghiệp, chắc chắn là rất thiện chí, lại quan tâm
đến chữ nghĩa hơn là ý nghĩa sâu thẳm của hai chữ Hoà Bình, đã cho rằng mọi đấu
tranh có vũ trang không thể được Hội Nghị ủng hộ vì chúng ta phải bảo vệ Hoà
Bình. May mắn thay họ đã nghĩ lại đúng lúc và lương tri đã thắng: chúng tôi đã
đứng đây, trên diễn đàn này để mong mọi người quan tâm sâu sắc và ủng hộ những
cố gắng của Việt Nam chúng tôi nhằm kiến tạo Hoà Bình và thống nhất lại Tổ
Quốc.”
“Chúng
tôi thấu hiểu rõ ràng rằng, qua quá nhiều hy sinh mất mát trong Thế Chiến Thứ II,
chịu đựng tàn phá cùa bom nguyên tử, sống những ngày như sắp tận thế, nhân loại
trở nên tê liệt vì sợ hải, lại càng cảm thấy nhu cầu khẩn thiết được sống trong
Hoà Binh và lại càng muốn gìn giữ nó! Nhưng sợ hãi đã trờ thành nổi ám ảnh, mâu
thuẫn giữa Chiến Tranh và Hoà Bình đã được đơn giản hoá, bình dân hoá và càng
trở nên mù mờ, từ đó cái định kiến Chiến Tranh và Hoà Bình là hai mặt đối kháng
lại càng được củng cố. Cách suy nghĩ đó đã cản trở lối suy nghĩ biện chứng cho
thấy quan hệ qua lại hai chiều của chúng. Người bình dân thường hay bám vào vào
những suy nghĩ hời hợt của vấn đế, họ cũng thường hay lập nên những rào ngăn
không thể vượt giữa ngôn từ, chữ này chối bỏ chữ kia. Bổn phận của chúng ta là
phải vượt qua cách suy nghĩ chỉ nặng phần ngữ âm và cú pháp, để đào sâu từng ý
nghĩa sinh động trong nội dung từng câu chữ, nhận thức chúng qua thực tế cụ thể
và sinh động. Chúng tôi lúc nảy có nói đến câu danh ngôn Hy Lạp “Si vis pacem,
para bellum” [Muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh], chúng ta không nên
hiểu nó như cái gì gây hại, mà phải hiểu là không có lằn ranh giữa chiến tranh
và hoà bình.”
“Chúng
ta nhớ rằng năm 1938, ông Neville Chamberlain đã ký kết Hiệp Uớc Munich và
tuyên bố rằng hoà bình đã được cứu vản! Sai lầm: hiệp ước đó chỉ là là một báo
trước cho cuộc chiến xảy ra một năm sau đó! Ngược lại, một cuộc chiến với chính
nghĩa và hợp pháp chống lại kẻ xâm lăng dành lại độc lập cho Tổ Quốc và tự do
cho Nhân Dân, chấm dứt sự chia cắt hai miền, biến nước mắt vì khổ đau thành
nước mắt của mừng vui là có phải chăng là một cuộc chiến báo hiệu cho một nền
hoà bình công bằng, vững bền và thật sự, nó đoàn tụ những gia đình ly tán, chấm
dứt việc khóc than của những kẻ vô tội, làm những nụ cười khô héo nở hoa trở
lại trên môi, mang lại hạnh phúc và hy vọng cho trái tim, tìm được niềm vui của
cuộc sống, được tái sinh trở lại như một con người. Trong ngôn ngữ của nhân
loại, hay ít nhất là của chúng tôi, cuộc chiến đó tên gọi là Hoà Bình.”
“Không
phải bổn phận của chúng ta, những Luật Sư Dân Chủ, là làm dễ dàng cho việc
thiết lập nền hoà bình như thế trên thế giới bằng cách ủng hộ những cuộc đấu
tranh để có một kết thúc thực mỹ mãn. Cho phép tôi được nêu vấn đề để mong quí
vị quan tâm. Tôi hy vọng rằng khát vọng của dân tộc tôi sẽ không bị biến thành
thất vọng và tôi hy vọng nhận được những giúp đỡ động viên của quí vị để giúp
dân tộc tôi cống hiến nhiều hơn nữa”.
Những
cố gắng đã mang lại thành công mỹ mãn và chúng tôi đã đạt được những gì mà dân
tộc mong đợi.
Trên
đường về nước chúng tôi đã được đoàn Sec mời ghé thủ đô Prague để dự vài buổi
làm việc chung. Chúng tôi nhận lời.
(Còn
tiếp)
Nguyễn
Mạnh Tường
Nguyễn
Quốc Vĩ chuyển ngữ
Đối thoại với Luật Sư người Séc
Tiếng
Pháp được dùng trong buổi thảo luận với Luật Sư đoàn, và vấn đề được bàn là một
quan tâm rất lớn của giới Luật gia ở các nước Cộng Sản. Các bạn chủ nhà bắt đầu
cuộc thảo luận.
-
Trong một nước mà sự phân quyền được áp dụng, thông qua tổ chức các Toà Án,
quyền Tư Pháp thi hành Luật và chế tài những kẻ phạm pháp. Nhưng muốn những
sinh hoạt Tư Pháp được vận hành tốt và Luật Pháp được áp dụng, giới Luật gia
phải hành nghề với tất cả lương tâm và trách nhiệm, vì thế bản thân họ không
thể tự đứng ra bảo vệ quyền lợi riêng của mình mà phải nhờ đến sự can thiệp của
Hiệp Hội Luật Sư, nhất là vào những khi họ bị chính quyền tăng cường áp bức
trong một bối cảnh xã hội phức tạp, hay những khi xảy ra xung đột giữa các hội
viên với nhau. Vấn đề nêu ra là để thấy là: chúng ta có cần một sự cho phép của
những giới chức chính trị để được hành nghề Luật Sư hay không?
-
Tôi đang ở vị thế mà tôi có thể thoả mãn sự tò mò của các bạn. Ở Pháp, năm 1931,
khi tôi tuyên lời thề trước Toà Phá Án ở Monpellier, họ không hề đòi hỏi bất cứ
hình thái cho phép nào. Để hành xử một nghề tự do, chuyện xin phép một thẩm
quyền nào đó là một điều đáng nực cười vì nó đã đánh mất quyền tự do của người
này. Ngay cả chuyện quốc tịch cũng không là vấn đề, ít ra là cho những người là
công dân của Pháp. Chỉ có hai đòi hỏi duy nhất: một là phải tốt nghiệp một
Trường Luật, để nói rằng là đã có một trình độ hiểu biết Luật Pháp tối thiểu và
điều thứ hai là chưa một lần mắc tội hình, một lần nữa để nói rằng mình có một
đạo đức tốt.
-
Rất có lý. Nhưng tại sao ở những nước Cộng Sản, nhà lãnh đạo chính trị cho rằng
họ phải nắm Hiệp Hội Luật Sư và cho rằng chúng ta, những người hành nghề phải
tuỳ thuộc nơi họ?
-
Điều đó có thể giải thích được. Ở một nước Cộng Sản, Đảng tuyệt đối độc quyền
chính trị, nắm giữ mọi quyền hành; theo chủ nghĩa Cộng Sản giai cấp nắm quyền
không bao giờ san sẻ quyền lực cho bất cứ ai khác. Để mãi mãi nắm quyền, hưởng
mọi đặc quyền, kéo dài đến vô tận, khai thác đến tột cùng của chiều sâu; nói
một cách gãy gọn, đây là một chế độ chuyên chế ở ba chiều không gian, một chế
độ chuyên quyền gần như tuyệt đối, gian xảo nhất, cứng rắn nhất trên thế giới
và trong lịch sử nhân loại. Dưới một chế độ như thế, quyền tự do là một lầm
lẫn, một loại bệnh hoạn cần phải loại bỏ trong dân chúng. Vì vậy, không bao giờ
có bất cứ loại ngành nghề nào là nghề tự do, không có nghề Luật Sư, không có
nghề Bác Sĩ mà chỉ có những người là nhân viên làm việc và ăn lương của Nhà
Nước, phải nhanh chóng thi hành lệnh của họ. Khi mà Đảng và những người chóp bu
không thể có mặt ở mọi lúc mọi nơi để hành xử quyền tuyệt đối của mình, họ bắt
buộc phải nhờ vả đến những người có khả năng, mà khả năng nếu có, chỉ là khả
năng tuân chỉ người chủ của mình một cách mù quáng và tự động. Hậu quả là những
người nắm giữ quyền hành từ cao đến thấp đều làm việc không với kiến thức hay
khả năng cần thiết mà bằng sự thiếu sót về văn hoá và sự ngu dốt! Ở vài nước,
Bộ Trưởng Giáo Dục chưa hề qua hết lớp Trung Học Phổ Thông, Bộ Trưởng và Thứ
Trưởng Bộ Tư Pháp chưa hề học qua Trường Luật. Trong những hoàn cảnh đó, một
Luật Sư Đoàn chân chính làm sao có thể hoạt động được? Bị lệ thuộc hoàn toàn
vào nhà cầm quyền, Luật Sư Đoàn không thể sinh hoạt theo như truyền thống được.
-
Chuyện xảy ra như thế nào?
-
Bước đầu, nhà cầm quyền chọn một số người để đưa vào Luật Sư Đoàn: đa số là
những nhân viên hưu trí với một lương hưu chết đói và một vài người trẻ tốt
nghiệp ở những nơi gọi là trường Luật do một số biết nói chuẩn tiếng Nga và đã
học được một vài điều bóng bẩy của Hệ Thống Tư Pháp Liên Xô. Đám người này là
những đầy tớ ngoan ngoãn cho Nhà Nước. Cùng lúc ấy, những người đau khổ để lộ
một vài ý muốn độc lập thì bị loại ngay tức khắc khỏi Luật Sư Đoàn và bị mất
phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả thu nhập. Chỉ nội bao nhiêu đó cũng đủ
làm cho họ trở nên cam tâm thuần phục.
Hơn
nữa, cái tên là “kẻ bảo vệ nhân dân” gán cho họ cũng để nhắc nhở là họ không
phải là những Luật Gia với những kiến thức về Luật đang hành nghề tự do, họ
không có quyền hay có những phương tiện vật chất, để mở văn phòng tư. Họ là
thành phần của một đoàn thể có một văn phòng là nơi làm việc và tiếp thân chủ.
Thiên hạ bu những người cố vấn ấy như những con ruồi bu một tảng đường. Giá phí
được định bởi Nhà Nước. Lối tổ chức này nhằm thoả mãn hai yêu cầu: thứ nhất,
nguyên tắc làm việc tập thể được áp dụng như bất cứ nơi nào. Thứ hai, việc tập
thể hoá là có lợi cho Nhà Nước; họ đưa người của họ và chỉ định Thủ Lãnh Luật
Sư Đoàn, dĩ nhiên người này là một quan chức, hoàn toàn không biết chi về Luật
nhưng lại là một tay cự phách trong việc điều hành, nhất là điều hành quân đội.
-
Tại sao Đảng lại than van về Luật Sư Đoàn?
-
Thứ nhất, bất cứ nhà cầm quyền nào cũng bị điều kiện hoá bởi khuynh hướng
chuyên quyền. Nhưng người Cộng Sản lại bị chuyện này hơn ai hết. Để áp đặt
quyền thống trị mà họ rất biết đây là vấn đề hết sức tế nhị, chính quyền cộng
sản đã sáng tạo ra muôn vàn thủ đoạn bằng cách đưa nhiều người ngoài vào tổ
chức, có khi số người ấy lại nhiều hơn là người của chính tổ chức. Bằng cách
trộn lẫn người trong người ngoài như thế trong một tổ chức quần chúng, Đảng
kiểm soát họ dễ dàng hơn, hiệu quả hơn và gặt hái thành quả của một khối nhân
sự mà trong đó có tay sai của mình. Những tay sai như Angus và Ceberus. Bên
cạnh đó, bằng cách cấm cản người của họ dùng lý trí và ngôn từ, Đảng đã hạ họ
xuống hàng động vật, nhồi nhét họ những phản xạ để biến họ thành những người
máy. Chẳng phải không có lý do mà bà phù thuỷ Circé đã biến tù nhân của bà ta
thành những con heo được phú cho tài năng duy nhất là biết nhảy qua chiếc máng
ăn khi nhận hiệu lệnh. Tất cả các tay nắm quyền đều chung mơ ước là có được
chiếc đũa thần của thầy phù thuỷ.
Nhưng,
nếu Đảng áp dụng biện pháp khắt khe trên giới Luật gia, trước hết là vì họ là
người trí thức và là đối tượng ghét hận của những kẻ chuyên quyền, vì Luật gia
là người có cái đầu để suy nghĩ và có cái mồm để nói, hai thuộc tính gây ác cảm
nơi kẻ cầm quyền, làm phức tạp cho công việc và gây xáo trộn cho kế hoạch của
họ. Hơn nữa, trong giới trí thức, giới Luật gia lại càng nổi trội với kiến thức
về Luật, thông thạo, thường nắm vững những hội nghị và những cuộc phê bình, và
còn hơn nữa là họ có ý thức về tư cách, danh dự và trách nhiệm. Họ tự mình đặt
vào vị thế tương phản với những con người máy khúm núm nịnh bợ với những kẻ
chuyên quyền. Từ đó, trong khi tác nghiệp bảo vệ quyền lợi thân chủ trước các
cấp Toà Hình Sự, rất thường khi, họ trở nên có thái độ khinh thường, ngay cả
láo xược trong những lúc kình chống lại hệ thống Pháp lý của công quyền hay các
cấp lãnh đạo chính trị. Đối với quần chúng, trong khi những nhà “bào chữa nhân
dân” luôn vạn lần cúi đầu, thì giới Luật gia đứng thẳng trên tầm vóc của mình,
gây sự chú ý và vì thế đã trở nên đối tượng bị ghét hận của giới cầm quyền. Họ
theo mẫu mực của La Bruyère và chấp nhận đứng về phía của Nhân Dân.
-
Có thể nói là giới Luật Sư là một thành phần riêng của thế giới người trí thức?
-
Thượng Đế lại phò trợ cho họ! Họ nắm những khuyết điểm của người Luật Sư là những
người không chịu hy sinh, không nghĩa danh liệt sĩ, càng không muốn việc thay
đổi chính quyền và thường là những kẻ cơ hội chủ nghĩa. Nhưng là người trí
thức, họ lại là những người dân đầy tính dân chủ chảy trong dòng máu. Tôi nghĩ
rằng tôi có thể khẳng định rằng Luật Sư Đoàn là một tiêu chuẩn của nền Dân Chủ,
rằng ở nước nào tiêu chuẩn đó thắng thế và có một Luật Sư Đoàn chân chính hoạt
động, nơi đó nền Dân Chủ chiến thắng.
-
Bạn hãy cho chúng tôi biết nơi nào có một thể chế như thế?
-
Rất dễ hiểu. Trong khi tác nghiệp, và có được quyền tự do ngôn luận, tức là tự
do tư tưởng, người Luật Sư sẽ phản đối nạn chuyên quyền của nhà chức trách, sự
bất công của hệ thống pháp chế. Bất cứ chế độ chuyên chế nào cũng không chấp
nhập quyền lực của họ bị đặt vấn đề, chấp nhận những cái điên rồ của nền pháp
lý của họ bị bóc trần. Chỉ có ở những nước Dân Chủ, người dân mới có thể thấy
cảnh đó.
-
Nhưng vần đề là làm sao một Luật Sư Đoàn với ý thức trách nhiệm của mình, gồng
mình can đảm để thực thi Dân Chủ đồng thời làm cho guồng máy chạy?
-
Đây là một câu hỏi chính đáng! Luật Sư Đoàn chỉ có thể hoàn thành một cách có
hiệu năng vai trò của mình càng nhiều càng tốt, duy nhất là phải có một nền Tư
Pháp độc lập ghi rõ trong Hiến Pháp và Luật Sư Đoàn tự mình phải ý thức được trách
nhiệm của mình. Toà Án phải là nơi dũng cảm cũng như là nơi của chính trực và
liêm khiết, là nơi luôn luôn có quyết tâm mãnh liệt trong việc áp dụng Luật và
Công Lý mà không dính đến những hệ luận về bổng lộc hay lợi ích cá nhân do tham
nhũng đưa đến. Toà Án và Luật Sư Đoàn, với danh dự và phẩm giá như là hai đức
hạnh đương nhiên, là hai cột trụ của một nền Dân Chủ.
Toà
Án và Luật Sư Đoàn liên kết với nhau trong cùng một cái nhìn về những ràng buộc
của nghề nghiệp, cùng một niềm tôn trọng với Luật Pháp và Công Lý.
-
Nhưng ngành Tư Pháp chỉ chăm lo việc áp dụng Luật và trừng phạt kẻ phạm pháp.
Nó chỉ tiêu biểu cho khoảng một phần ba của một nền Dân Chủ.
-
Vả lại, tự bản thân, nó bảo vệ cho nền Dân Chủ nằm trong một cấu trúc mà nó
tham gia. Nền Dân Chủ mà “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân” tự nó là
tập trung trong tay ngành Lập Pháp nơi làm ra Luật ; và ngành Hành Pháp sẽ lo
áp dụng Luật. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi cả hai đều cùng cho rằng mình có
quyền, với những đặc quyền riêng, được đứng trên Luật Pháp. Nguyên tắc cơ bản
của một nền Dân Chủ là mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật. Hệ quả là ba
ngành cùng tồn tại trong một tương quan “cân bằng và tự kiểm soát lẫn nhau”, tự
cô lập mình trong một cách nào đó khỏi phải đi trật đường, rơi vào xa cách và
vào cảnh bên lề, để giữ gìn cho một chính quyền vì dân và do dân.
Như
thế, việc chia ra làm ba ngành (Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp) đã ngăn chận
những kẻ độc tài có cơ hội tập trung mọi quyền lực trong tay một người. Nguy cơ
tổn hại về kinh tế, xã hội từ những thảm hoạ gây nên bởi sự độc quyền về chính
trị, nói một cách chính xác, bởi những tay chóp bu, có thể được tránh khỏi hay
có thể giảm đến mức tối thiểu.
Giới
Luật Gia Séc rất kinh hoàng khi biết về sự can thiệp của chính trị và của những
kẻ độc quyền vào lãnh vực Luật Pháp, về việc Đảng nắm hết chính quyền, cám ơn
chúng tôi đã giúp xua tan những khổ tâm của họ. Trước đó họ thấy những tác hại
nhưng không làm sao tìm ra nguyên nhân, lý do là họ sống trong một thế giới
bưng bít, không hề nhận được một thông tin gì từ thế giới bên ngoài, mà chỉ
thấy một dân chúng quỳ lạy suy tôn thần tượng và đồng ca những bài kinh cầu để
vinh danh chủ nhân của họ. Họ thấy những tác hại một cách mập mờ rối rắm, nhưng
lại không làm sao tìm ra giải pháp cho vấn đề. Ít ra, giờ đây họ đã thấy một
chút đại cương về toa thuốc của cơn bệnh đang tàn phá đất nước mà họ là những
người đang chứng kiến. Chúng tôi đã mở mắt và mang cho họ nét đại cương của một
nền Dân Chủ. Chúng tôi đã đốt ngọn nến tò mò của tri thức, họ sẽ tự tìm thấy
những kiến thức với những tìm tòi nghiên cứu. Khi chúng tôi lên đường, trong
lòng chúng tôi mong mỏi rồi đây họ và nhân dân của họ sẽ được hưởng ánh sáng
ban mai của nền Dân Chủ đang chói sáng về phía chân trời.
Đối thoại với Luật Sư Liên Xô
Ghé
Moscova trên đường về, chúng tôi được đoàn Luật Sư Dân Chủ của Liên Xô đón. Tôi
là trưởng đoàn nên được đưa vào khách sạn Metropole, đối diện với nhạc viện
Bolchoï. Căn phòng dành cho tôi được trang hoàng lộng lẫy với những đồ xưa quý
giá. Những ngọn đèn pha lê chiếu hắt trên những bàn ghế lộng lẫy thời Sa Hoàng,
nhưng phòng tắm lại chiếu rực với những trang bị hiện đại. Một chiếc xe hiệu
Zim Zis được dành riêng cho tôi sử dụng; tôi có thể ngả mình nằm dài trên chiếc
ghế phía sau, tha hồ mà êm ái. Nhưng tôi cũng cảm thấy chiếc xe được lái tới
120 km một giờ dù rằng người tài xế tỏ ra rất kinh nghiệm và hoàn toàn làm chủ
tay lái của mình. Nhưng, hắn thường nực mùi vodka….
Chúng
tôi trở nên tò mò và ao ước được nghe những thông tin về những vấn đề quan trọng.
Nhưng chúng tôi đành phải kềm chế sự tò mò vì lẽ chúng tôi biết rằng trong thế
giới cộng sản, thật không đúng cách khi đặt những câu hỏi mà người đối thoại
cảm thấy rất ngại ngùng khi trả lời. Luật im lặng được áp đặt cho họ cũng như
cho chúng tôi. Vì thế, như thường lệ, chúng tôi tránh đặt câu hỏi, tự giới hạn
mình vào việc nghe những báo cáo đọc đã được đọc đi đọc lại nhiều lần, những
báo cáo chắc chắn đã được chỉnh sửa bởi những “người trách nhiệm” của Đảng. Ai
cũng có thể nhận biết trước màu sắc, giọng điệu và nội dung của nó. Sau màn tố
cáo chế độ Tư Bản thối nát là phần ca tụng những thành quả của chế độ Cộng Sản
và, đặc biệt là phần một trăm phần trăm hoàn thành kế hoạch hằng năm và sau hết
là phần vinh danh Đảng và các lãnh đạo. Nhưng lần này, phía chủ nhà Liên Xô đã
phá lệ. Thứ nhất, không có màn báo cáo thành tích của Luật Sư Đoàn. Sau đó là
họ đề nghị trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Hết sức kinh ngạc, chúng tôi
tưởng như đã nhảy văng khỏi ghế ngồi. Đây là lần đầu tiên mà hai cụm từ Trách Nhiệm
và Nhà Nước được gắn kề, trách nhiệm của Nhà Nước đã được nêu lên. Chúng tôi tự
hỏi phải chăng những ý kiến của Đại Hội lần thứ XX của Đảng Bolchevik đang nhập
cuộc và phải chăng ảnh hưởng của Khrushchev đang thắng thế trên đất nước Liên
Xô. Mặc kệ, chúng tôi thật vui sướng khi được cùng các đồng nghiệp Liên Xô bắt
đầu chung những điều tốt như thế. Không còn gì hấp dẫn hơn là được lướt đi trên
con đường không giống ai và có vẻ dị hợm, con đường mà chỉ vài năm trước đây đã
có thể đưa chúng tôi trực chỉ lên máy chém hay đi tù ở Siberia!
Người
chủ nhà Liên Xô đón tôi với nụ cười.
-
Tôi thấy trong mắt của bạn chói sáng một sự ngạc nhiên. Vâng, rất đúng như thế:
chúng ta sẽ trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Khi Stalin còn sống, đây là
một chuyện cấm kỵ và người ta có thể bị nguy hiểm dù chỉ ám chỉ nhẹ nhàng đến
nó: Nhà Nước không bao giờ chịu trách nhiệm về chuyện gì… Bây giờ thì chúng tôi
bớt bị trói buộc và có thể, trong vòng giới Luật Gia, có thể bàn cãi khá nhiều
vấn đề!
-
Chúng tôi chúc mừng ông và rất vui vì điều ấy. Có thể nào, trong thời gian sắp
tới, chúng tôi có thể được tự do và hoàn toàn được tự do phát ngôn trong những
buổi thảo luận của chúng ta?
-
Ngay cả ngày hôm nay, chúng ta được ở trong phòng riêng vắng những đôi tai bí
mật muốn nghe những gì chúng ta nói, chúng ta thật có toàn quyền nói những suy
nghĩ của chúng ta.
-
Thật là một thời kỳ lạ, một thế giới kỳ lạ! Những Luật Gia lại cư xử như những
kẻ âm mưu đang giấu mình khỏi cặp mắt của công an và gián điệp. Nhưng họ đang
âm mưu vì Pháp Luật và Công Lý. Có những yếu tố giảm án nếu họ bị bắt và truy
tố trước Toà Án.
-
Hay đó lại là yếu tố tăng tội khi gặp phải ông quan toà cộng sản hề khoan
nhượng và ai cũng rõ sự không khoan nhượng đó đã cấu thành từ sự khiếp sợ của
họ đối với Luật Pháp và Công Lý.
-
Bây giờ chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề đấy. Nếu một nhà nước cộng sản,
cũng như trong thời kỳ quân chủ tuyệt đối, đều cho rằng họ không chịu trách
nhiệm về bất cứ hoạt động của họ, thì việc của chúng ta còn lại là tập trung
vào trọng tâm của vấn đề. Con người tự phân biệt mình với thú vật và cho rằng
mình cao hơn thú vật là nhờ ở những đức tính mà chỉ con người mới có. Nhưng
lương tâm, tư cách và danh dự lại liên hệ đến đạo đức và dính líu đến mỗi cá
nhân. Mỗi người càng có nhiều đạo đức thì càng được nhiều người kính nể. Thiên
Đường là nơi thiêng liêng nhưng nơi ấy thì con người không được mời đến. Trong
đời sống xã hội, nơi mà người chung đụng với người, nơi mà những quan hệ xã hội
được hình thành và tổ chức, mỗi người phải chịu trách nhiệm về suy nghĩ và lời
nói của mình, phải giữ gìn cho chính bản thân, trong nghĩa là không gây tác hại
về quyền lợi vật chất, thể chất cũng như tinh thần cho người chung quanh. Trật
tự xã hội chỉ có thể được duy trì nếu mà bất cứ vụ phạm luật hay làm thiệt hại
cho tài sản người khác đều phải bị trừng phạt và bồi thường. Như thế trong một
thế giới văn minh, chính là cá nhân và những trách nhiệm của cá nhân là nền
tảng để xây dựng xã hội.
Cái
nguy hiểm thường trực treo trên đầu nhiều nhà nước trên thế giới là những kẻ
bạo quyền luôn đặt mình trên nhân dân của họ, tự cho mình những đặc quyền do sự
độc quyền mà họ nắm, tự cho mình trên cả Luật Pháp và tỏ ra vô trách nhiệm. Nói
như thế là để nói rằng những ý tưởng và hành động của họ phải được thảo luận và
phê bình, những lỗi lầm của họ phải bị trừng phạt.
-
Kẻ độc tài xem ra giống như vợ của Caesar: tuy không có chi để nghi ngờ, thế mà
Messalina lại phải lang thang suốt đêm khắp thành Roma! Dĩ nhiên, không có tên
độc tài nào lại chối bỏ những trách nhiệm mà hắn biết rõ là chỉ là những trách
nhiệm của trẻ con hay của những người điên hay mất trí. Những khi đó, ngay đối
với những chuyện không được ai nói đến, cũng không có nghĩa là không có chuyện
gì xảy ra. Với một xuất thân ngu dốt, không văn hoá kẻ chuyên quyền không hề ý
thức được những gì bất bình thường đang xảy ra. Để giành mọi đặc quyền cho
mình, họ đưa ra luận điệu ưu việt: họ tán tụng đã liên hệ được với những người
ngoài hành tinh, họ là “con của Trời”, họ là “người đã được chọn” hay tự cho
mình là chính là Quốc Gia. Louis VIV đã tuyên bố “Quốc Gia chính là ta”. Bốn
thế kỷ sau, trong một buổi nhận huy chương cao quý của dân tộc, De Gaulle đã
tuyên bố “Quốc Gia không tự mình gắn huy chương cho mình”!
-
Bằng cách chiếm hữu, một cách không tốn kém và cũng chẳng có chứng cớ chi, một
gốc gác siêu phàm, một thực thể vô hình, bằng cách cho mình là Quốc Gia, kẻ
chuyên quyền tự cho mình đứng trên dân chúng, và vì thế được miễn trách mọi
trách nhiệm. Kẻ chuyên quyền cộng sản hãnh diện là những người duy vật vô thần thì
không kêu rằng họ có nguồn gốc siêu phàm. Họ cũng chẳng cho rằng họ là Quốc
Gia. Chỉ có lực lượng nhân dân đưa họ lên đỉnh của quyền lực.
Rất
thú vị nếu chúng ta cùng nhau phân tích tiến trình này, nó không giống như tiến
trình nắm chính quyền như thời quân chủ chuyên chế.
-
Vào thế kỷ 17, ở Pháp, do sự chia rẽ của giai cấp phong kiến và đồng thời cũng
nhờ sự tham lam kinh hoàng của giai cấp tư sản đồng minh, nền quân chủ đã thắng
phong kiến một cách khó khăn (phong kiến vẫn chưa thừa nhận sự thất bại), quyền
lực như tù trên Trời rơi xuống. Biểu tượng “vua-mặt trời” chỉ là để chỉ sự khao
khát của Triều Đình chứ không có nghĩa là Thiên Đàng hay Ý Trời. Vua Louis XIV
tuyên bố “Quốc Gia là ta!” Nhưng, khi ông ta tự nhận mình là Quốc Gia thì ông
ta không hề nhận là có trách nhiệm với nhân dân. La Bruyère và Fenneton tố cáo
dân chúng nghèo khổ kinh hoàng nhưng nhà vua không hề cảm thấy có trách nhiệm
cho hoàn cảnh đang xảy ra. Câu nói lịch sử mà ông ta nói là chỉ để giữ một ý
đơn giản là ông ta sẽ dùng quyền hành mình để đập tan mọi mầm mống phiến loạn,
tiêu diệt mọi mầm bệnh truyền nhiểm gây chia rẽ và làm tan rả sự thống nhất còn
đang dao động của Đất Nước. Việc lên ngôi của vua Louis XIV được quy định bởi
Luật của Triều Đình, nhưng cuộc xung đột chính trị với giai cấp phong kiến mà
ông ta tiến hành lại được sự ủng hộ của nhân dân, của giới tài phiệt, giới tư
sản trí thức và giới tư sản nghị viện. Nếu ông ta không phải là nạn nhân của
những điều ngớ ngẫn vô ích của chính ông ta, nếu ông ta có những cái nhìn chính
xác và gẫy gọn về những quyền lợi hiện tại và tương lai, ông ta đã phải dựa vào
dân thì nước Pháp đã tránh được một cuộc Cách Mạng.
Đối
với những gì liên quan đến Liên Xô, nhân dân đã thoát những ngày gian khổ vào
cuối triều Louis XIV. Liên Xô đã hưởng vinh quang và sự vĩ đại của một cường
quốc. Nhưng chỉ có Thượng Đế mới biết giá phải trả là bao nhiêu cho việc này?
Sau cái chết của Staline, nhờ những hớ hênh ít nhiều được dàn dựng, và cũng nhờ
những lời kêu than vì đau đớn, tiếng gầm uất hận của hàng ngàn hàng vạn gia
đình, khắp miền Đất Nước, có con có chồng bị giết, bị tra tấn đến chết trong
những trại, những lao tù ở Siberia, sự thật về Stalin đã được mọi người biết.
Chính quyền cách mạng, vừa mới được xây dựng, còn đang chao đảo, và kẻ thù,
trong và ngoài nước, chỉ mong nó chết đi. Cần thiết phải có một người với nắm
tay sắt để lèo lái những bước đi, để sống còn và phát triển. Kết quả đã vượt
qua những hy vọng. Từ một nước yếu kém, kinh tế yếu kém, chúng ta đã thành một
sức mạnh quân sự đủ sức đánh bại quân phát xít Hitler và trở thành một trong
những nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Stalin xứng đáng được dân chúng tôn sùng vì
đã được sống những giờ phút vinh quang của Lịch Sử Liên Xô. Bất hạnh thay, ông
ta cũng phạm những tội ác kinh hoàng mà hồ sơ chồng chất năm này qua năm nọ.
Tiến
trình nắm chính quyền của những kẻ chuyên quyền cộng sản ở Việt Nam lại là một
tiến trình bình thường. Vô số quần chúng ở nông thôn, được kích động bởi một số
người, vỡ oà ra hiểu rõ nỗi thống khổ của mình: bị bóc lột bởi phong kiến, bị
đàn áp bởi thực dân… Ngày 19 tháng 8 năm 1945, dựa vào thế thuận lợi lịch sử
của tình hình thế giới, mặt khác trận đói kinh hoàng đã giết hàng triệu sinh
mạng, những người kích động dân chúng còn sống sót nổi dậy và tiêu diệt kẻ thù,
chiến đấu mãnh liệt để chiếm lấy thức ăn và áo mặc. Mục tiêu rất đơn giản và rõ
ràng, nhưng bọn chuyên quyền đã thất bại và không đạt được mục tiêu tưởng chừng
như ít ỏi đó. Mặc dầu vậy, khẩu hiệu “Cơm ăn, áo mặc” cũng đủ biến giai cấp
nông dân thành kẻ cuồng tín và biến họ thành những kẻ đi theo cách mạng. Vì
thế, cách mạng thành công là nhờ lực lượng quần chúng. Nhưng phe cách mạng cảm
thấy cần chính thức hoá sự thành công của mình bằng một cuộc bầu cử Quốc Hội.
Không thành vấn đề nếu mà tuyệt đại đa số các đại biểu là thất học, không hề
hiểu ý nghĩa của lá phiếu mà họ được mời tham gia. Họ đến tham gia Quốc Hội
theo tiếng gọi của một đợt tuyên truyền rất chuyên nghiệp và đến bỏ phiếu thế
thôi. Thủ tục hình thức Luật định đã được cứu vãn, nền “Dân Chủ” đã thành hình và
những người làm Cách Mạng hả hê vì đã kết dính sự hợp nhất của họ với nhân dân.
-
Còn có những gì cần khác hơn?
-
Vẻ bề ngoài như thế là đủ. Nhưng có kẻ còn muốn vượt qua vẻ bề ngoài để cố gắng
nắm cái thực tiễn. Dù không biết đọc, biết viết, nhưng người ta đã bỏ phiếu và
diễn tả rõ ràng ước muốn của mình. Đây là chỗ hiểu lầm, mà như một số người đã
nói, mà thảm cảnh bắt nguồn. Người Cộng Sản tưởng rằng đã chiếm được trái tim
của nhân dân. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng mà dù sớm hay muộn họ phải dứt bỏ. Lý
do hay nhất là, vào những năm 1945-46, có một số người mà con số không quá mười
đầu ngón tay, từ Liên Xô hay Trung Quốc quay về nước với một mớ mơ hồ và không
rõ ràng về chủ nghĩa Cộng Sản.
-
Nhưng người dân đã dùng lá phiếu để bầu cho ai?
-
Người ta sẽ trả lời cho bạn là họ bầu cho ông Hồ Chí Minh, họ không bầu cho con
người cộng sản đang giấu mặt kín bưng trong cuộc chơi và con người đó không hề
đả động gì đến việc đấu tranh giai cấp, nhưng, với dáng dấp một nhà nho truyền
thống, với chùm râu không thể thiếu, ông ta chỉ có một câu nói trên cửa miệng:
“Đoàn kết, đại đoàn kết”, có nghĩa như ông ta đang đặt mình là người đối lập
với đấu tranh giai cấp. Một vài lão thành cộng sản đã xì xầm là ông ta đã từng
tự phê bình trước mặt Stalin! Trong bất cứ chuyện gì, tên Hồ Chí Minh đã trở
thành bùa chú để chống tai ương và mang lại hạnh phúc. Tệ sùng bái cá nhân đã
thành hình, ông ta đã được thần tượng hoá, tên ông ta được dùng khắp nơi, quyền
lực của ông được xử dụng để đưa nhân dân vào thế là người có lỗi càng nhiều
càng tốt [*]. Vì vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh chỉ toả ra một ý nghĩa dân tộc và
không cộng sản, trong khi Đảng, cố tình hay vô ý, kéo cả tấm chăn về phía mình
và chiếm hưởng tất cả niềm tin của nhân dân.
-
Đây là một sự lập lờ đánh lận con đen nhưng nó bi thảm ở chỗ nào?
-
Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối mình, nghĩ rằng mình có thể đưa ra
những đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ
quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những
chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa Đất Nước vào sự nghèo túng và đưa nhân
dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng
nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông
lơi Luật Pháp, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải
Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của
người dân. Vì vậy, vấn đề quan tâm là trách nhiệm của Nhà Nước và chính xác
hơn, là trách nhiệm của bọn chuyên quyền đã thống trị nó.
-
Một nghiên cứu về những kẻ chuyên chế trên thế giới trong lịch sử và qua thời
gian đã cho thấy chúng có những nét chung không thay đổi mà chúng ta cần phải
nhớ đến. Thứ nhất, ngay cả trong thời kỳ xưa kia của nền quân chủ chuyên chính,
vai trò của nhân dân luôn luôn là quyết định, dù rằng họ không đóng vai nổi bật
trên chính trường. Mọi cuộc đảo chánh, mọi cuộc Cách Mạng chỉ có thể thành công
nếu được nhân dân đồng tình ủng hộ. Chủ nghĩa Marx nói đúng khi cho rằng lịch
sử là do quần chúng làm nên. Những học thuyết chủ nghĩa, những lý thuyết đều
phát nguồn từ bộ óc của cá nhân, nhưng hành động, muốn có hiệu quả, lại phải
tuỳ thuộc vào khả năng và sức năng động của quần chúng. Chủ nghĩa Marx đã dạy
điều như thế nhưng những tay chuyên quyền lại hay quên hay không để ý đến.
Những tay chuyên quyền khi đã đạt địa vị thì quay lưng và tự cô lập mình và xa
rời quần chúng, không còn lắng nghe tiếng nói hay lời than phiền, ước vọng của
nhân dân. Chúng gây hại cho nhân dân, chúng bịt tai thành điếc nên không còn
nghe lời than van hay đòi hỏi của nhân dân, và như thế họ đã tự giết cả chính
mình.
Vì
thế, cần phải biết rằng có một ràng buộc qua lại giữa kẻ nắm quyền và nhân dân.
Một khi được nhân dân đưa lên đỉnh cao của quyền lực, kẻ nắm quyền phải có
trách nhiệm lo cho quyền lợi của nhân dân, và trong mức có thể, họ phải làm
tăng trưởng quyền lợi của nhân dân theo số lượng và chất lượng. Một thoả thuận
hai bên giữa những kẻ nắm quyền và nhân dân, dù không bằng văn bản hay lời nói,
nhưng dưới dạng hiểu ngầm, căn cứ trên những truyền thống lịch sử hay xã hội.
Ngay khi những kẻ chuyên quyền vi phạm bổn phận của mình, gây hại cho quần
chúng thì lập tức quần chúng được qưyền huỷ bỏ những ràng buộc về phần họ; kẻ
chuyên quyền sẽ bị nhân dân trừng phạt và có thể bị nhân dân áp đặt án tử hình.
-
Hơn thế nữa, trong suốt thời gian nắm quyền, bất kể kẻ cầm quyền nào cũng thực
hiện những chuyện tốt lẫn chuyện xấu. Nhưng dù đã thực hiện được nhiều chuyện
tốt cho dân chúng họ vẫn không thể được miễn trách cho những chuyện xấu mà họ
đã gây ra. Chỉ có nhân dân mới có cái quyền tối thượng đưa ra phán xét là giữa
cái tốt và cái xấu cái nào nặng hơn cái nào. Nếu cái tốt thắng, thì cán cân
nghiêng về phía kẻ nắm quyền, và họ sẽ được dân chúng biết ơn một cách chân
thành, họ sẽ được đưa vào vinh quang của Lịch Sử mà con cháu đời sau sẽ luôn
nhớ! Nhưng nếu cán cân nghiêng sâu về phía xấu, trong cuộc đời của họ, họ sẽ bị
hạ bệ vứt đi, và sau khi chết, tên họ sẽ bị nguyền rủa muôn đời.
-
Trường hợp của Stalin là môt ví dụ điển hình. Ông ta đã thực hiện được một số
lớn chuyện tốt nhưng đồng thời cũng làm một số lớn chuyện xấu. Nhưng không có
ai dám chỉ trích những việc xấu mà Stalin đã làm vì cái nguy hiểm kèm theo rất
cao. Cái tệ hại nhất là hồi ấy người đời tranh nhau ca tụng Stalin! Bây giờ thì
công lý đã có cơ hội để vận hành những nguyên tắc mà dân chúng đã xây dựng qua những
tháng ngày sống trong đắng cay và đau đớn. Từ nay trở đi, không có kẻ cầm quyền
nào có thể đòi hỏi là những chuyện tốt họ đã làm có thể làm tan biến trách
nhiệm về những tội ác mà họ đã để lại nỗi kinh hoàng trong tâm trí của người
dân lương thiện. Đó là những trách nhiệm có tính hình sự. Có những tình huống
làm nặng thêm hay làm giảm nhẹ tội, nhưng dứt khoát là không có chuyện miễn
tội.
-
Đây không phải là chuyện xử tội kẻ cầm quyền, mà là chuyện những con người phải
trả lời về những tội ác mà họ đã làm. Nhưng, khi mà những sai lầm, hư hại phát
xuất từ một chính sách hay đường lối chính trị, sự tàn phá có thể là gây ra
trên bình diện rộng lớn và tan thương, trách nhiệm của kẻ cầm quyền vẫn được
coi là chính trị… Không có gì đáng ngạc nhiên: trong bậc thang giá trị của con
người, mạng sống là luôn luôn cao hơn những của cải vật chất mà họ nắm trong
tay. Mặc dù vậy, đã có những người bị mất mạng vì sự cẩu thả, vô ý hay có khi
vì chủ ý xấu của người hay một cơ quan của Nhà Nước. Dĩ nhiên, nếu người phạm
tội một cách có ý thức, người này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi
của họ trước Pháp Luật, nhưng rất nhiều khi họ không có tiền để bồi thường
những thiệt hại cho nạn nhân hay trả tiền cho thân nhân của người bị chết. Nhà
Nước phải chịu trách nhiệm một cách gián tiếp, dựa trên tính liên đới giữa kẻ
phạm tội là người đã hành động trong khuôn khổ trách nhiệm được nhà nước giao
phó. Nếu không, đó là một trách nhiệm tập thể của chính quyền đã gây ra thiệt
hại trong khi thi hành một công việc mà Nhà Nước hay kẻ cầm quyền trao cho, đã
vô tình gây thiệt hại vật chất cho một hay nhiều công dân, nhà nước phải bồi
thường những thiệt hại do nhân viên của mình gây ra. Ở Pháp, nguyên tắc trách
nhiệm hành chánh của Nhà Nước và của tập thể công nhân viên nhà nước là được
công nhận. Có nhiều cấp Toà Án hành chánh mà cao nhất là Hội Đồng Quốc gia
(Conseil d’Etat) mà quyền cao nhất là có thể huỷ bỏ một phần hay toàn diện
những quyết định hành chánh nếu những quyết định này gây ra thiệt hại vật chất
cho công dân. Rủi thay, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không lầm khi phải khằng định rằng
ở các nước Cộng Sản, Nhà Nước chối bỏ việc chịu trách nhiệm hành chánh, không hề
tổ chức những Toà Án Hành Chánh có quyền xét xử Nhà Nước và những đơn vị hành
chánh thuộc quyền của Nhà Nước. Vì thế có những vùng rộng lớn mà nhà cầm quyền
hành xử như vợ của Caesar – theo ý thích và không sợ ai phán xét. Các cấp cầm
quyền cấp dưới và dưới nữa lợi dụng tình hình này ra sức áp bức và khai thác
nhân dân là những người mà họ tiếp xúc hàng ngày.
Nếu
lãnh vực vô trách nhiệm chính trị càng lớn hơn thì hậu quả lại càng không thể
đo lường và sửa chửa được. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng và con
người lãnh đạo Đảng chính là người đang nắm trọn quyền lực. Nhân dân không là
gì hết, tiếng nói của họ đã bị bịt kín. Tất cả những bộ phận của Nhà Nước là
gồm những con người của Đảng hay những người toàn tâm toàn ý với Đảng; tất cả
cái giống người này chỉ có cái lưỡi gỗ và cái lưng cong cúi luồn với chủ. Trong
những điều kiện như thế, làm sao có được những tiếng nói dấy lên để đòi truất
phế và thay những kẻ bạo quyền, hay ít ra là để đưa ra những đề nghị, những ý
kiến để làm đứng lại cái xe đang lao mình với tốc độ kinh hoàng về phía hố sâu
của sự xấu? Mọi chuyện được quyết định từ hậu cung của Đảng, nơi Thần Bí nhất
của Thiên Cung, bao quanh bởi một vòng thành kín bưng như Vạn Lý Trường Thành
bên Trung Quốc!
Người
ta không thể nói chuyện về trách nhiệm, về Luật Pháp đối với chuyện một con cọp
đang sẵn sàng ăn tươi con mồi trước mặt. Chưa bao giờ trong lịch sử con người
mà lưỡi tầm sét của Thần Zeus - tức cái búa của Thiên Lôi - cùng với cây gậy
thần của Circé lại nằm cả trong tay của một người, làm thành một bộ máy thống
trị và áp bức cực kỳ hoàn hảo, một bộ máy chuyên dùng khủng bố làm chất nhờn
bôi trơn những trục máy! Hơn nữa, ít nhất là cho tới ngày hôm nay, chưa có một
tên bạo quyền cộng sản nào đã bị nhân dân xét xử và kết án. Chúng nó chỉ chết trên
giường. Nếu tiếng nói nghe được ngoài hành lang của phòng xác, thì không phải
là tiếng nói để vinh danh mà là tiếng nói dành nhau xé cái xác lạnh lẽo kia, và
có thêm chăng là những tiếng hét xem ai là kẻ sẽ thay thế vào chức của hắn.
Phân
tích của chúng tôi đưa đến kết luận là bạo quyền không bao giờ chịu trách nhiệm
về những hoạt động của họ trong cả ba ngành Hành Pháp, Tư Pháp và Lập Pháp.
Phải hiểu rằng tình trạng vô trách nhiệm của những người chủ nắm quyền là do,
trước nhất là những thủ đoạn tinh vi để kềm kẹp và áp bức của họ, thứ hai cũng
phải kể đến tình trạng ù lì của dân chúng. Khi tiếng nói bị ếm nhẹm thì trong
lòng trở nên sôi sục uất hận, nhưng dù thế, chưa có một ai dám chịu trách nhiệm
với quê cha đất tổ mà giương cao ngọn cờ khởi nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, người
phương Đông đã quen sống trong một nồi hơi ép mà kẻ cầm quyền nắm giữ sức nóng
và sức ép, đã thành công biến nhân dân thành những kẻ không còn nghị lực, trở
thành lãnh đạm và dững dưng trước mọi thứ và mọi người. Tinh thần trách nhiệm
là một thiếu sót lớn nhất trong quần chúng. Giới quan chức làm gương, lạm dụng
quyền hành, phù phiếm, ăn cắp của công, tham nhũng và lạm quyền. Mẫu mực của
quan chức này lại được các thuộc cấp noi theo. Trong các bệnh viện, có người bị
chết chỉ vì không có tiền hối lộ cho những người được trả tiển và lẽ ra là phải
có bổn phận lo cho bệnh nhân. Trong các kỳ thi và thi tuyển, đề thi được bán
cho bất cứ ai chịu trả tiền. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Tinh thần vô trách
nhiệm như ngọn gió thổi trên toàn đất nước và kỷ lục của sự phạm pháp và sự vô
liêm sĩ luôn luôn bị phá. Sự vô đạo đức cười nhạo sư vô tội và lương thiện.
Sự
vô trách nhiệm của giới cầm quyền, trong mọi lãnh vực chính trị lẫn hành chính,
không phải là điều bất thường. Nó tròng lên xã hội vòng vương miện của sự dơ
bẩn.
-
Chúng tôi đồng ý với bạn. Nhưng từ đó bạn muốn đi tới đâu?
-
Chúng tôi muốn nhấn mạnh là ác quyền không thể thắng mãi mãi. Chúng tôi không
muốn mình là kẻ thầy bói hay nhà tiên tri. Nhưng cuộc đời đã dạy chúng tôi một
bài học biện chứng: cùng tắc biến – từ cái xấu cái tốt sẽ đến. Bất cứ khi nào
cái xấu đã đến tột cùng của nó thì tự nó sẽ làm phát sinh ra giải pháp trị bệnh
cho nó.
-
Bạn hãy giải thích thêm để cho chúng tôi có lý do để hy vọng.
-
Không có gì là ma thuật ở đây. Các nhà cách mạng Việt Nam hô hào thúc đẩy nhân
dân đứng lên tham gia kháng chiến vì đã làm cho họ thấy xấu hổ là đã không làm
gì. Con giun sẽ quằn mình nếu bị ai giày xéo lên nó. Cho đến lúc nào con người,
ngay cả kẻ hèn hạ nhất, vẫn còn tiếp tục còn chấp nhận bị phong kiến bóc lột và
Thực Dân đàn áp?
Những
tiếng nói hô hào như thế quở phạt những người đang trùm chăn trong sự thờ ơ,
hèn nhát. Hãy để lúc “chín muồi” đến. Như trận đói năm nào làm vương vãi những
xác người chết đói đen kịn trên ruộng vườn và trên những con đường làng. Tất cả
sự khốn cùng và sự chết đang ép lên những con người còn trơ xương thì họ sẽ đem
hết sức tàn mà tấn công tận sào huyệt của phong kiến và thực dân. Cách Mạng đã
ghi nhận một bàn thắng không thể chối cãi được.
Tới
đây, chúng ta có thể tựởng tượng rằng, sau một vài nhượng bộ, kẻ cầm quyền vẫn
tiếp tục bám víu vào độc quyền chính trị và tiếp tục vô trách nhiệm, tiếp tục
tự cô lập mình với quần chúng, đẩy sự khốn cùng lên đến tột đỉnh! Sẽ có lúc mà
hàng triệu người sẽ không chịu ngồi đó khoanh tay mà cùng nhau tiến lên chống
lại bạo quyền và độc tài. Chúng ta hãy nhớ rằng chính nhân dân là kẻ làm nên
lịch sử, đưa lên kẻ cầm quyền và cũng chính nhân dân là kẻ sẽ hạ bệ kẻ cầm
quyền đó. Khi mà Đảng không còn làm bổn phận của mình là làm cho dân, họ sẽ
được đưa trở về vị trí ngày xưa bởi dân, những người đang lấy lại trong tay số
mệnh của chính mình. Khế ước ngầm giữa nhân dân và kẻ cầm quyền từ nay xem như
bị cắt đứt. Sự “đúng” đã chiến thắng không màu mè hoa ngữ hay bàn cải dài dòng
vô ích… Sau chế độ bạo quyền, một chính quyền chân chính sẽ bắt đầu một ngày
mới.
-
Tuyệt! Đây là ý kiến nằm trong logic và chuẩn mực. Theo chúng tôi, vần đề có
thể được nhìn dưới một góc cạnh khác. Cái góc nhìn của Luật nó có cái lý của
nó. Nhưng cái nhìn của xã hội nó cũng không thể bị từ bỏ được. Như bạn đã biết,
ở nhiều nước, nhiều chính thể giá trị đạo đức được nâng lên chin tầng mây. Đối
với chủ nghĩa Tư Bản thối nát và đang dẫy chết với giới cầm quyền đầy tham
nhũng, người làm Cách Mạng tự cho mình là hiện thân cho sự thiêng liêng, trong
sáng trong suy nghĩ, tâm hồn không chút vẩn đục, cao cả trong đạo đức và nếp
sống. Khuôn mặt tiêu biểu nhất cho con Tàu Cộng Sản là một Hồ Chí Minh huyền
thoại với hai mảnh áo quần bằng Kaki bạc mầu và đôi xăng đan làm bằng lốp xe
cũ. Thật vậy, giới vô sản đã tìm cách liên kết giai cấp nông dân vào chung mục
đích, họ đã chơi cuộc chơi một cách công bằng ngay thẳng và đã đạt được hậu
thuẫn của những người cùng chia sẻ điều kiện sống và cùng có chung niềm khát
vọng. Đối với những kẻ làm ăn đủ sống, Hồ Chí Minh với chòm râu của một nhà nho
truyền thống đã làm say mê họ và làm họ đi theo. Vì thế với cuộc tổng nổi dậy
của mọi tầng lớp nhân dân, trong một khí thế hồ hởi mà Cách Mạng đã tiến hành
cuộc đấu tranh và đạt được thắng lợi.
Trong
thời kỳ quá độ, những bộ óc biết suy nghĩ bắt đầu nhận chân rằng những người
làm cách mạng mà tình yêu tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng đáng được đề cao, lại
không có đủ văn hoá và khả năng để đưa dân tộc lên một số phận cao đẹp hơn!
Những thiệt hại to lớn do những lỗi lầm của họ gây ra đã làm người dân nghi ngờ
về khả năng trí tuệ của họ, dù không bị huen ố, nhưng niềm tin của nhân dân về
họ cũng đã bị giảm sút, niềm tin mà họ cần có để nâng cao tinh thần chiến đấu.
Rủi thay, vì tình trạng không ai chịu trách nhiệm như thế đã mở cửa cho bao
nhiêu vi phạm và tội ác; những quan chức của Đảng, với những chữ ký sinh ra
vàng, đã để cho mình bị tiêm nhiểm những con vi trùng của tiền của, để tự mình
ngày càng chìm sâu trong vũng lầy của tội ác. Những kẻ thuộc quyền, được khuyến
khích bởi sự “bất bị quy trách” của xếp mình, trở nên những kẻ đồng loả, tập
họp nhau thành băng thành nhóm. Thời sẽ đến khi mà Đảng vẫn còn tiếp diễn những
ung nhọt như thế: họ sẽ không còn niềm tin yêu của nhân dân, niềm tin mà họ đã
mất cả một thời gian dài mới có được. Đã thiếu văn hoá và khả năng, nay lại mất
cả niềm tin yêu của dân là cái cơ sở lớn nhất để họ nắm quyền, một quyền lực mà
họ có được là nhờ tư cách đạo đức và cũng sẽ mất nó vì nếu họ thành kẻ ác vô
nhân. Khi họ trơ mình trước quần chúng như một người đàn bà đĩ thoã nghèo nàn
và trần truồng, tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng
có thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ vẫn phải
chịu trách nhiệm đối với những kẻ này, bởi những hành động của những người thứ
ba, làm tan rả Đảng vì uy tín Đảng đã bị tan biến bởi những ngọn gió đầy cay
đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy
Đảng còn che đậy chúng dưới thảm dày để giữ được mầu trắng của sự trong trắng!
Nhưng một khi tai tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa thì
Đảng sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống xuống
cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày với những vụ
kiện mà uy tín của Đảng sẽ bị mãi mãi mất và thanh danh của Đảng bị huỷ diệt,
từ cấp cao đến cấp hạng bét. Bất cứ chọn cách nào, Đảng cũng sẽ thất bại trên
hai chuyện uy tín và thanh danh. Chính trị rồi đây sẽ nhường bước cho đạo đức,
đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật Pháp để chấm dứt một quá khứ đau
khổ mở đầu cho một kỷ nguyên mà ánh sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ
chiếu rọi với việc tái lập nền Công Lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của
Nhà Nước và những ai đại diện nó.
Dĩ
nhiên, chuyên đó không phải là chuyên xảy ra ngày mai. Nhưng nó đáng cho chúng
ta mong đợi!
Hãy
cho chúng tôi được hy vọng những gì sẽ xảy ra như bạn nói là sự thật. Hãy cho
chúng ta được quyền hy vọng ngày mà chúng ta ăn mừng được thấy lý lẽ và công
bằng trở lại ở những nước cộng sản là một ngày không xa lắm!
Khi
chia tay, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối, nhìn trong mắt nhau và có cảm nghĩ
rằng chúng tôi đã cùng chia nhau chung một ý nghĩ. Những suy nghĩ chung với
những cảm xúc chia sẽ giống nhau: “Chúng tôi, những người trí thức, một đám
người đang bị tất cả những ngươi cầm quyền nguyền rủa, và đặt biệt là những tay
chuyên quyền cộng sản. Họ là những người tuyệt vời kỷ luật, và chúng ta là
những kẻ mà trong người đã có giòng máu vô kỷ luật đang sôi sục. Họ là những kẻ
vui sướng khi nhìn những kẻ cúi đầu tuân phục, hít thở những khói nhang của a
dua nịnh bợ, làm những trò ảo thuật, dựng nên những tấn tuồng vĩ đại trên sân
khấu. Là những người cứng đầu cứng cổ, chúng ta ngẫng mặt hiên ngang, nhin
thẳng vào phía trước với cặp mắt biết quan sát và một bộ óc biết phê phán. Thay
vì thốt ra những điều ngu dốt để làm người ta thoả mãn, chúng tôi chọn một sự
im lặng đầy trách móc. Chúng ta đã thấy rất rõ cặp mắt của nhà ảo thuật, thấy
cái đạo đức của chủ nghĩa hình thức, thấy con dao nhọn dấu dưới tay áo khi
chúng vừa lễ độ than mật cúi xuống. Phải công nhận là chúng ta là những người
bất trị. Hơn thế nữa, chúng ta không thể biết mình sẽ ở đâu và ngày mai mình sẽ
trở thành cái gì!”
Ánh
mắt chúng tôi tràn đầy những cảm thông cho nhau. Chúng tôi biết rằng mọi người
đã hiểu nhau.
Hai
đoàn chúng tôi cùng đồng ý gửi một ý kiến chung đến hai Đảng Cộng Sản Liên Xô
và Việt Nam:
“Cho
phép chúng tôi được gửi đến quý ông bà những ước vọng và đề nghị của chúng tôi.
Quyền lực được giao phó cho quý vị không được dùng để đàn áp, trù dập hay đoạ
đầy bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền lợi và bổn phận, bất cứ ai lên tiếng nói
đến quyền hành và trách nhiệm. Nếu quý vị muốn các tầng lớp nhân dân mà quý vị
đang quản lý tôn trọng trật tự và sống trong pháp luật, về phía quý vị, quý vị
phải có bổn phận chăm lo cuộc sống đầy đủ của nhân dân và luôn luôn bảo đảm họ
được hạnh phúc. Nếu được như thế, quý vị sẽ được nhân dân vinh danh trong hàng
trăm năm và quý vị sẽ được nhân dân mãi mãi biết ơn!
Nhưng
nếu cứ vướng mãi với những hành động dại dột, mất trí hay điên khùng, quý vị sẽ
đưa dân tộc vào nghèo đói và đau khổ, tiếp tục làm những chuyện chuyên quyền,
phạm luật và vô nhân đạo thì quý vị sẽ không kéo dài lâu! Ngay sau khi quý vị
chết, nhân dân cũng tiếp tục nguyền rủa, đào mồ và quăng cái xác thối rửa của
quý vị cho sài lang và diều hâu cắn xé! Tên tuổi của quý vị sẽ bị đóng ghi
trong Lịch Sử và sẽ bị khinh bỉ trong hàng trăm năm sau.
Ngày
xưa, ở thành phố Roma, một tướng soái thắng trận đang nhận lãnh những vinh
quang của ngày chiến thắng. Để tránh bớt cho vì tướng bị những tung hô nhiểm
độc, lợi dụng lúc đang gần bên xe trận của ông tướng, một tên nô lệ nói nhỏ với
ông rằng “Ngài nên nhớ ngài cũng là một con người”. Cũng như thế, Luật Pháp
cững đang nói nhỏ với kẻ cầm quyền “Bổn phận của các ông là phục vụ chứ không
phải là nô lệ hoá nhân dân”.
Trở
về Hà Nội, chúng tôi được khen ngợi nồng nhiệt bởi đã mang lại những thành quả
bất ngờ mà chúng tôi gặt hái được ở Hội Nghị ở Bruxelles. Một buổi chiêu đãi để
vinh danh chúng tôi được Bộ Ngoại Giao tổ chức.
Trong
những buổi như thế, chúng tôi nhận được tin hai lãnh đạo của Phong Trào Gìn Giữ
Hoà Bình Saigon-Chợ Lớn ở miền Nam đã bị bắt giữ: Luật Sư Nguyễn Hửu Thọ và
giáo sư Phạm Huy Thông. Cha đẻ của giáo sư Thông chỉ định tôi là luật sư để bào
chữa cho con ông. Bộ Ngoại Giao và Chủ Tịch Toà Án Tối Cao khuyến khích tôi
nhận lãnh sứ mệnh này. Tôi đánh một điện tín vào Toà Án Saigon thông báo họ là
tôi sẽ là luật sư bào chữa cho ông Thông và yêu cầu họ cho biết ngày giờ xử của
vụ án. Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã không cho phép tôi vào Saigon. May
thay, tôi cũng không có gì để tiếp tục, vụ án cũng không bao giờ được xử vì hai
kẻ tội nhân đã vượt ngục an toàn.
(Còn
tiếp)
Nguyễn
Mạnh Tường
Nguyễn
Quốc Vĩ chuyển ngữ
_____________________________
[*] Vào cuối đời được đưa vào sống trong căn nhà sàn cạnh vườn Bách Thảo hay sau khi chết được đưa vào Lăng giam xác vào lồng kiếng, Hồ Chí Minh vẫn được dùng như di vật linh thiêng trưng bày cho dân chúng tôn sùng, để thoả mãn sự tò mò của những kẻ hành hương, họ vẫn không ngừng khai thác cái hào quang của ông ta để áp đặt lên dân chúng những điều mà chính Hồ Chí Minh cũng lấy đó làm phiền. (N.D.)
No comments:
Post a Comment