TÁC GIẢ:
OSHO
CÂU TRUYỆN
THIỀN SỐ 1: KHÔNG NƯỚC KHÔNG TRĂNG
"Ni Cô Chiyono đã tu học nhiều năm, nhưng vẫn chưa đạt được
gì cả. Một đêm, cô quãy đôi thùng xuống suối múc nước. Khi cô gánh nước trở về
tu viện, cô vừa đi vừa ngắm ánh trăng soi rọi xuống mặt nước trong thùng. Bất
thình lình, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống.
Nước đổ
ào ra, bóng trăng tan biến - không còn - và Chiyono hoát nhiên giác ngộ. Cô đã
viết bài thơ:
"Bằng cách này hay cách khác, tôi đã kềm giữ đôi thùng nước,
Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy
Bất chợt, giây đứt thùng văng,
Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước,
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì".
Giác ngộ không hẹn mà đến, thật bất ngờ, thật đột ngột. Không có
sự tuần tự tiến trình tìm tới sự Giác Ngộ, bởi vì sự tuần tự thuộc về trí óc,
và Giác Ngộ không phải là sản phẩm của trí óc. Giác Ngộ vượt qua hàng rào tư
duy và nhận thức lô gích của trí óc. Vì thế, chúng ta không thể tiến dần về
Giác Ngộ, mà đơn thuần chúng ta nhảy một bước vọt vào trong Giác Ngộ. Chúng ta
không đi từng bước từng bước; không, không có những từng bước đó. Một là chúng
ta đại ngộ, hai là không. Không có sự chứng đắc từng phần, từng mảnh. Chân Lý
là Chân Lý hoàn toàn, là viên mãn, tròn đầy. Chứng đắc là chứng đắc toàn diện.
Hãy nhớ kỹ một điều cơ bản là:" trí óc không thể nào suy lường hiểu thấu
được Chân Lý. Trí óc có thể làm công việc phân tích, suy luận, cân nhắc, v.v...
những gì chúng ta có thể chia chẻ ra được. Trí óc có thể hiểu tất cả những gì
mà chúng ta đem ra cân đong, đo lường, tính đếm. Vì thế, nếu chúng ta nghe theo
trí óc, chúng ta không bao giờ đạt tới Chân Lý viên mãn được.
Đó chính là điều mà ni cô Chiyono đã sai lầm. Chiyono đã tu học,
đã tư duy nhiều năm và đã bao năm trôi qua, cô vẫn chưa gặt hái được điều gì.
Không có một sự cố gì xảy ra cho cô cả.
Trí óc con người có thể nghiên cứu về Thượng Đế, về Giác Ngộ, về
Tuyệt Đối. Nó cũng có thể lừa bịp chúng ta là tất cả mọi sự việc trên đời này đều
đã được giải thích tường tận, đã cho ra một đáp số trọn vẹn rồi. Ngay cả khi
chúng ta nói chúng ta đã hiểu rõ ràng tất cả "về" Thượng Đế, về Chân
Lý, về Phật, về Chúa, chúng ta đã tự lừa dối mình vậy.
Trí thức viên mãn là trí thức không phải "về" một cái
gì. Khi chúng ta nói "về", thí dụ như tôi suy nghĩ "về"
anh, suy nghĩ "về" cuộc đời, suy nghĩ "về" tình yêu, v.v...
chúng ta đã tự đặt mình trong thế nhị nguyên đối đãi. Vì có cái này nên có cái
kia, vì có anh nên có tôi, vì có đối tượng nên có người suy nghĩ; chúng ta đang
xoay vòng theo một vòng tròn như con kiến bò theo miệng chén; chúng ta không
bao giờ nhảy vào được bên trong vòng tròn đó. Vì thế, khi một người nào đó nói
rằng:" tôi đã hiểu được chân lý, tôi đã hiểu được "Thượng Đế", hắn
ta thực ra chẳng hiểu được một tí gì cả.
Phật Tánh, Chân Lý, Thượng Đế, Chúa v.v... là trung tâm điểm;
không phải là chu vi, ngoại giới, không phải là cái bên ngoài. Chúng ta phải thể
nhập vào Chân Lý, chúng ta với Phật, với Chúa là một; đó là con đường duy nhất,
không có con đường nào khác.
Đó là lý do Chúa Giê Su đã nói :" Chúa là Tình Yêu - Tình
Yêu viết hoa - chứ không phải là sự ái nhiễm của nam nữ. Bạn không định nghĩa
được Tình Yêu, bởi vì bạn chưa hội nhập được vào tình yêu; bạn chưa là một với
tình yêu. Bạn có thể là một nhà nghiên cứu, một nhà tâm lý, bạn có thể trở
thành một học giả vĩ đại, nhưng bạn chưa bao giờ thể nhập vào Tình Yêu, vào
Chân Lý Tuyệt Đối.
Tình Yêu chỉ thực sự hiện diện khi bạn trở thành tình yêu. Ngay
cả khi người yêu bạn biến mất đi, tình yêu vẫn còn đó, bởi vì tình yêu đơn thuần
là tình yêu, không có chủ thể, không có đối tượng. Cả hai chữ "chủ thể"
và "đối tượng" đều là cái bên ngoài, là đối đãi. "Có cái này nên
có cái kia", "vì có anh nên tôi có mặt"; nếu còn có sự đối đãi,
thì bạn đang đánh mất thực tại.
Khi hai tình nhân đứng bên nhau, cả hai đều vắng bóng. Chỉ có
Tình Yêu hiện diện, chỉ có giai điệu Tình Yêu phát ra tiết tấu. Tình Yêu có mặt
khi bản ngã con người vắng bóng; Tri Thức có mặt khi đầu óc con người chứa đầy
ý niệm. Tri Thức thì thuộc về bản ngã, về cái tôi, và cái tôi đó không thể nào
xâm nhập được vào trung tâm điểm cả; nó chỉ là chu vi, là vòng tròn ngoại giới.
Với cái Tôi đầy ắp những quan niệm, Kinh Thánh, Kinh Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư hay
Kinh Koran, bạn mãi mãi là một kẻ xa lạ.
"Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm... "
Ni cô đó đã tu học nhiều năm hay nhiều kiếp rồi. Bạn cũng đã tu
học nhiều năm hay nhiều kiếp rồi. Bạn đang chạy trên một vòng tròn. Bạn tưởng rằng
bạn đã tới đích, nhưng không, bạn đang di chuyển trên một vòng tròn lập đi lập
lại. Vòng tròn đó, người tín đồ Ấn độ giáo gọi là "Samsara", có nghĩa
là bánh xe, là vòng tròn. Bạn di chuyển, di chuyển mãi và không bao giờ tới
đích cả. Bạn không bao giờ thấy được cái vòng tròn đó vì bạn chỉ biết một phần
của vòng tròn đó mà thôi. Nó mãi mãi là một con đường, một con đường vô tận. Đó
là những gì đã xẩy ra cho bao kiếp nhân sinh.
"Chiyono đã tu tập và tu tập, nhưng vẫn chưa đạt được chân
lý". Vì sao? Không phải vì chân lý, giác ngộ khó khăn, hóc buá, mà chính
vì khi bạn nỗ lực tìm hiểu nghiên cứu chân lý, bạn đã đi lạc hướng rồi. Bạn đã
đi trật đường rầy rồi. Điều đó cũng giống như khi một người nào đó muốn đi vào
căn phòng lại đâm đầu vào bức tường vậy. Vào căn phòng không phải khó, nhưng phải
vào qua cánh cửa, chứ không phải qua bức tường. Nhiều người, rất nhiều người,
khi họ bắt đầu cuộc hành trình, họ bắt đầu bằng học hỏi, nghiên cứu, bằng kiến
thức, thông tin, triết lý, hệ thống hay lý thuyết. Họ bắt đầu từ "cái... về
một cái... gì đó" cho nên họ đã va mặt vào bức tường vậy.
"Hãy là Chân Lý, hãy là Tình Yêu". Nếu bạn muốn biết
Tình Yêu. Nếu bạn muốn biết Thượng Đế, hãy thiền định. Nếu bạn muốn thể nhập
vào vô tận, hãy lắng lòng cầu nguyện. Phải tự chính mình là Chân Lý, là Tình
Yêu; chứ không phải là người đang cầu nguyện, không phải là người đang thu góp
lại những gì người khác nhả ra và nhai lại. Hãy buông bỏ tất cả chữ nghĩa, kinh
điển. Chúng nó chỉ là những hàng rào, những bức tường ngăn cản bạn nhảy vọt vào
Bản Thể Tuyệt Đối. Cánh cửa Chân Lý sẽ không bao giờ mở ra nếu bạn ôm đồm một mớ
Kinh Thánh, Kinh Vệ Đà, Kinh Koran, v.v... cũng như ni cô Chiyono đã tu học nhiều
năm nhưng vẫn chưa đạt được gì.
Giác Ngộ là gì? Đó chính là sự tỉnh giác "Ta là Ai?. Giác
Ngộ không có gì liên quan với thế giới bên ngoài. Giác Ngộ không có gì liên
quan đến những gì người ta nói về nó. Những gì người ta nói đều lạc hướng hay
chỉ diễn tả được một phần của Giác Ngộ. "Bạn đang có mặt tại đây, ngay
phút giây này". Tại sao bạn phải đi tìm cầu nơi Kinh Thánh hay Kinh Vệ Đà?
Hãy nhắm mắt lại và bạn đang ở đây, trong niềm hoan lạc thiêng liêng vô tận.
Hãy nhắm mắt lại và cánh cửa đã mở. Bạn đang có mặt tại đây, ngay phút giây
này. Không cần phải hỏi ai hết, không cần một tấm bản đồ chỉ dẫn. Trong thế giới
nội tại, không có bản đồ, không cần có bản đồ, bỏi vì bạn không đi về một hướng
vô định.
Bạn đang có sẵn trong tâm một "nẻo về của ý".
Thực ra, bạn cũng không di chuyển gì cả. Bạn đang ở đây; bạn là
mục đích. Bạn không phải là kẻ tìm kiếm. Bạn chính là "Giác Ngộ"; bạn
chính là "Giải Thoát"; bạn chính là "Chân Lý". Khi bạn chạy
rong tìm kiếm cái bên ngoài, bạn là kẻ vô minh. Khi bạn quay ngược về bên trong
mình, bạn chính là sự Giác Ngộ. Điều khác biệt duy nhất chính là sự chú tâm, sự
quay ngược về.
Trong Kinh Thánh, danh từ "cải hoá" rất đẹp rất hay;
nhưng nhiều người vì đã hiểu sai nên đã sử dụng nó không đúng. Sự "cải
hoá" không có nghĩa là thay đổi một người Ấn Độ giáo thành một tín đồ
Thiên Chúa, cũng không phải biến một người Công Giáo thành một tín đồ Ấn Độ
giáo. "Cải Hóa" có nghĩa là quay lại. "Cải Hóa" có nghĩa là
quay về nguồn, quay về bên trong, quay về tâm linh.
Tâm thức của bạn như một dòng sông, có thể trôi về hai phiá, bên
ngoài hay bên trong; chỉ có hai phiá mà thôi, định hướng cho một dòng sông tâm
thức. Nếu tâm thức bạn quay ra bên ngoài thì nó sẽ trôi qua nhiều đời, nhiều kiếp,
và sẽ không bao giờ đạt tới mục đích; bởi vì mục đích chính là cội nguồn mà bạn
đã quay đi, bỏ lại sau lưng. Cội nguồn đó không phải trước mặt, không phải là
nơi mà bạn sẽ hướng tìm tới. Cội nguồn chính là nơi mà bạn đã quay lưng. Nếu bạn
có thể quay ngược về điểm đầu tiên mà bạn đã xuất phát, bạn đã tìm thấy cội nguồn
tâm linh rồi vậy.
Đó, đó là vì sao mà Chiyono đã tu học nhiều năm mà vẫn chưa đạt
được gì, bởi vì cô đã chạy về phía trước tìm chân lý.
Còn một điều này nữa tôi muốn nói với bạn: "Đừng tìm kiếm
Chân Lý trong kinh điển". Kinh điển chỉ là những xác chết, những thây mạ Đời
sống là một đòng linh động, phát triển. Đi hỏi những xác chết về sự sống thì thực
đáng buồn cười thay, phải không? (ghi chú của người dịch: Câu nói này có nghĩa
là chúng ta không nên chấp trước vào văn tự chữ nghĩa, dù đó là kinh điển, mà
hãy thực nghiệm tâm linh để thể chứng; Sự và Lý phải đi đôi, viên dung với nhau
thì mới có thể đạt được giác ngộ; nếu chấp vào một bên thì sẽ rơi vào kiến chấp,
sơ cứng tâm linh). Thần Krishna hay Chúa Giê Su cũng không thể giúp gì cho bạn
- trừ phi chính bạn là Krishna hay Chúa Giê Sụ Nếu bạn nghĩ rằng bạn sẽ tìm thấy
câu trả lời trong kinh điển thì bạn đã sai lầm lớn rồi vậy. Câu trả lời sẽ
không bao giờ tìm thấy đâu, bạn ạ. Đó là lý do vì sao các triết gia, các học giả
cứ lẩn quẩn, loanh quanh với mớ chủ nghĩa, lý thuyết, hệ thống v.v... Họ đã lạc
hướng quá xa rồi.
Không, không có ai trả lời bạn được đâu. Đừng đi đến bất cứ ai để
mong được câu trả lời về giác ngộ, giải thoát. Nếu bạn tìm đến vị đạo sư thì tất
cả những gì ông ta làm là giúp bạn tìm ra chính bạn, tìm ra con người thật của
bạn. Không có một vị đạo sư nào giúp bạn có câu trả lời sẵn; không có ai cho bạn
cái chìa khóa đâu. Vị đạo sư chỉ giúp bạn quay về bên trong, nhìn vào bên trong
bạn. Tất cả là ở đó; kho tàng là ở đó; chìa khóa là ở đó - bên trong con người
bạn.
"Chiyono quãy đôi thùng cũ đầy nước... "
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng gánh cái đầu óc cũ kỹ đầy ắp những
học thuyết, quan niệm, chủ nghĩa của chúng ta ngày nay qua ngày khác. Cái đầu
óc đó đã cũ kỹ rồi, đã sơ cứng rồi, đã chết rồi.
Các thiền sư đã nói: "Qúa khứ không truy tìm, tương lai
chưa kịp đến, an trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời". Thực tại là
đây, bạn đang có mặt tại đây - nhưng giữa bạn và thực tại là bức màn tri thức.
Những gì bạn thấy, bạn thấy qua bức màn tri thức đó. Những gì bạn nghe, bạn
nghe qua bức màn tri thức đó. Chúa Giê Su đã nói với các tông đồ rằng: "Nếu
các người có tai để nghe, hãy nghe tạ Nếu các người có mắt để nhìn, hãy thấy
ta". Nhưng chúa Giê Su đã biết là các tông đồ đã mù và đã điếc rồi vậy.
Những gì bạn nghe qua tri thức, những gì bạn thấy qua tri thức,
những gì bạn thấy qua tri thức đã bị tri thức tô mầu, thay đổi hay pha trộn.
Tri thức đã đánh lừa bạn, đã đưa bạn vào vùng ảo giác, mê hồn trận.
Chúng ta không thể nào đổi mới được với tri thức. Đừng tự lừa dối
mình hay người qua lớp vỏ tri thức. Vì thế, nếu bạn muốn làm một cuộc cách mạng
tư tưởng, trước hết phải nhìn lại rõ mình. Những người Cộng Sản không thể nào
làm cách mạng được, vì họ không bao giờ định tâm thiền định. Chủ nghĩa Công Sản
mà họ đang tôn thờ đó là sản phẩm của tri thức. Họ không tin vào bất cứ một đấng
thần linh nào, họ tin vào Karl Marx hay họ tin vào Mao trạch Đông (bản sao cuối
cùng của Marx); nhưng họ tin. Những người Cộng Sản hay những tín đồ Ấn Độ giáo,
Công giáo và Hồi giáo thực giống nhau, bởi vì những người này đều nhắm mắt tin
theo những chủ nghĩa, giáo điều hay hệ thống thiết lập trên nền tảng không vững
chắc của tư duy và khái luận. Vì thế, trên thế gian này, chỉ có tôn giáo nào
dám lật đổ mọi giáo điều cũ rích, hệ thống tư duy sai lạc để đưa con người quay
trở về với bản thể, chân như, giác ngộ; tôn giáo đó mới thực sự làm cuộc cách mạng
vĩ đại nhất; tôn giáo đó mới có thể làm một cuộc cách mạng chính xác, đúng đắn
và toàn diện nhất. Một khi bạn phá vỡ được thành trì kiến chấp, giáo điều, hệ
thống, buông xả được tri thức, bản ngã, thì lúc đó, bạn sẽ nhìn vạn vật vạn sự
trên cõi đời này khác hơn, xuyên suốt hơn, mới mẻ hơn. Vạn vật sẽ trở nên tươi
thắm, linh động. Bạn sẽ trở thành trẻ thơ trở lại. Mắt bạn ngây thơ hơn, trong
sáng hơn, vô tư hơn. Bạn sẽ nhìn vạn vật không xuyên qua một bức màn che phủ
nào. Cây cối xanh tươi và tiếng chim hót du dương trên cành cây kia sẽ là điệu
nhạc đời muôn thưở.
Cảm giác khinh an đó rất khác với cảm giác mê ly của những người
say ma túy. Aldous Huslley (một triết gia, tiểu thuyết gia, phê bình gia, nghị
luận gia người Anh) đã sai lầm khi sử dụng ma túy, tưởng rằng sẽ tìm được cảm
giác khinh an thoát tục. Thế hệ trẻ bây giờ nghiện cần sa ma túy cũng vì tưởng
rằng sẽ tìm được an nhiên giải thoát cho những bế tắc khủng hoảng tâm linh. Dược
tánh trong cần sa á phiện là độc dược. Nó làm tê liệt trung khu não bộ, và gây
ra những ảo giác mờ mịt, khoái cảm bệnh hoạn cho người sử dụng nó. Hệ thần kinh
của người sử dụng ma túy không còn hoạt động nhạy bén được nữa, và dần dần nếu
còn dùng ma túy nhiều thì độc tố trong người càng tăng, mức độ khoái cảm càng bị
kích thích cao. Ma túy đã đẩy trí óc qua một bên và chiếm chỗ, và những gì người
sử dụng ma túy thấy và cảm giác họ kinh qua đều sai lạc và bệnh hoạn.
Tri thức con người cũng độc hại như ma túy vậy. Nó ngăn che
không cho chúng ta nhìn rõ lại chính mình. Nó cũng tạo ra những ảo giác mê lầm,
đưa đến bệnh Ngã - Kiến chấp cho chúng ta.
Chỉ có Thiền Định mới có thể giết chết bịnh Ngã - Kiến chấp đó.
Chỉ có Thiền Định mới là liều thuốc giải độc tố tri thức của con người. Thiền định
giúp người ta khai phóng mắt trí tuệ. Thiền định có nghĩa là nhìn - nhìn sâu
vào bên trong.
Danh từ "Darshan" trong Ấn Độ giáo có nghĩa là
"Nhìn" (looking at) - vì thế, tín đồ Ấn Độ giáo định nghĩa "Thiền"
là "Nhìn" - nhìn sâu vào bên trong ta để tìm ra con người thật của
chính mình.
Bạn hãy thử làm một thí nghiệm nhỏ này. Bạn vào phòng, đóng cửa
lại, và bắt đầu lấy giấy bút viết ra tất cả những ý tưởng nào chợt đến, chợt
đi, chợt thoáng qua trong đầu óc bạn. Hãy viết tất cả, bất cứ một ý nghĩ nào vụt
đến. Bạn đừng thay đổi chúng, đừng biến dạng chúng, vì bạn không cần phải đưa mảnh
giấy đó cho ai xem cả. Bạn cứ viết như vậy trong vòng mười phút thôi và sau đó
nhìn lại: đó là những gì bạn tư tưởng, những gì bạn suy nghĩ. Nếu bạn nhìn kỹ,
thì bạn sẽ nghĩ đó là tác phẩm của một kẻ điên loạn, mắc bịnh thần kinh. Những
ý tưởng lăng xăng lộn xộn, không ăn nhập vào nhau, có cái thánh thiện, có cái
ghê tởm, có cái thuần lương, có cái qủy sứ, v.v... Đó, trí óc con người là thế
đó, là một cái hộp số chứa đầy những bí ẩn và phức tạp, và chúng ta lại đi che
dấu sự điên loạn rối ren đó đằng sau cái mặt nạ con người. Chúng ta luôn luôn ẩn
nấp, che dấu, không dám lộ diện con người thật của chúng tạ Đằng sau cái bộ mặt
người đó, chúng ta chỉ là một kẻ điên, một người mắc bịnh thần kinh. Nhưng tại
sao chúng ta lại đánh giá "tư tưởng" quá cao như vậy? Phải chăng
chúng ta đã say mê nó, đã nghiện phải nó. Tri thức là ma túy, là một chất hóa học
đầu độc con người. Trong sự mê loạn đó, con người tưởng rằng có thể quên hết sự
đời, buông bỏ lo âu, bổn phận trách nhiệm, hoặc trở thành một mẫu anh hùng lý
tưởng nào đó. Đã ngủ quên trong mộng, con người lại chồng chất thêm những cơn mộng
huyễn hoặc phù dụ Ban đêm họ đã ngủ mợ Ban ngày, họ cũng nằm mợ Những cơn mơ đó
phủ vây con người và họ đắm chìm trong đó, không thể thoát ra và có lẽ họ cũng
không muốn thoát ra. Con người đã tự giam hãm mình trong cái tù chật hẹp đó, để
rồi thống trách bi thương, để rồi đau khổ. Nhưng, mặc dù đã biết rõ như vậy, họ
cũng đã ở trong nhà tù tư tưởng đó quá lâu đến nỗi họ đâm ra quen thuộc với nó,
ôm ấp nó như ôm tình nhân, cũng giống như những tên tội phạm vì ở tù quá lâu
nên đâm ra sợ hãi thế giới bên ngoài, sợ hãi được trả lại tự dọ Thật mâu thuẫn
và chua chát, phải không? Biết ở tù là đau khổ, là sợ hãi nhưng vẫn can tâm chịu
đựng không muốn giải thoát. Cái sợ "được trả lại tự do" đó bắt nguồn
từ nỗi sợ hãi phải đối diện với cái mới, trách nhiệm mới, nếp sống mới, con người
mới, xã hội mới v.v... Sự lột xác toàn diện khiến người ta đâm ra sợ hãi phải đối
diện, phải chui đầu ra khỏi cái vỏ sò, chui đầu ra khỏi nhà tù quen thuộc.
Con người đã bám víu lấy tri thức như cái bóng của mình; một khi
đánh mất nó đi, con người cảm thấy mất thăng bằng, không đứng vững.
Krishnamurti đã nói: "Con người cảm thấy như mất thăng bằng nếu không suy
nghĩ". Có lẽ con người cảm nhận là nếu không suy nghĩ thì họ sẽ làm gì bây
giờ?
Một bộ Óc bình thường có thể chứa đựng tất cả thư viện trên thế
giới. Trong cái đầu bé nhỏ của bạn, có 70 triệu tế bào thần kinh, mỗi một tế
bào có thể chứa đựng ít nhất là một triệu thông tin. Không có một cái máy vi
tính nào có thể so sánh nổi với bộ Óc con người. Bạn mang cả một thế giới cồng
kềnh trong cái đầu nhỏ bé của bạn, và lẽ dĩ nhiên, sức chuyên chở có hạn, ngày
nào đó bộ Óc bị quá tải sẽ nổ tung ra, văng hết.
Ni cô Chiyono đã tu học, đã tu học nhiều năm. Cô đã cố chế đầy
thêm nước vào thùng cũng như cô đã cố nhồi nhét tri thức vào đầu óc cô, và vừa
quẩy đôi thùng đầy nước, Chiyono vừa ngắm ánh trăng phản chiếu xuống mặt nước
trong thùng. Đó không phải là chuyện lạ. Không phải chỉ riêng Chiyono mà chúng
ta đây cũng vậy. Chúng ta không bao giờ nhìn mặt trăng. Chúng ta luôn nhìn cái
bóng của mặt trăng phản chiếu xuống nước, phản chiếu trong tư tưởng, trong đầu
óc chúng ta.
Danh từ Ấn Độ "Maya" có nghĩa là "Ảo Giác".
Tất cả những gì ta thấy, ta nghe đều là ảo giác; có nghĩa là chúng ta chỉ thấy
bóng của mặt trăng chứ không phải là mặt trăng thật. Những gì chúng ta thấy,
chúng ta nghe; chúng ta thấy nghe qua sự phản chiếu. Mắt chúng ta phản chiếu,
tai chúng ta phản chiếu. Tất cả giác quan, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đều là những
cái gương phản chiếu sự vật, đưa đến sự sai lầm, ảo giác.
Chân Lý không bao giờ xảy ra khi chúng ta chỉ biết nhìn cái bóng
phản chiếu trong gương; Chân Lý chỉ đến khi tấm gương bị đập nát đi, thùng nước
vỡ đi, nước không còn, sự phản chiếu biến mất.
Giác Ngộ đến thật đột ngột, bất thình lình. Giác Ngộ có thể ví
như một tai nạn xảy đến đột ngột. Chúng ta không thể đoán trước tai nạn sẽ xảy
ra lúc nào. Nếu chúng ta có thể biết chắc tai nạn sẽ xảy ra, thì đó là sự sắp đặt,
không phải là tai họa. Giác ngộ cũng vậy. Chúng ta không thể sắp đặt chờ đón
giác ngộ sẽ đến thế này thế kia. Không, không bao giờ có chuyện như thế cả. Đột
nhiên, chúng ta tỉnh thức; đột nhiên, chúng ta giác ngộ. Thế thôi. Khi Bồ Tát
Sĩ đạt Ta chứng đắc quả Phật, có phải ngài vẫn là con người cũ không? Không,
con người cũ không thể chứng đắc. Con người cũ đã hoàn toàn chết đi, thành con
người mới, một con người hoàn toàn mới. Thái tử Sĩ đạt Ta, người đã từ bỏ cung
vàng điện ngọc, từ bỏ vợ đẹp con thơ, không còn nữa. Cái "Tự Ngã" của
thái tử Sĩ đạt Ta không còn nữa. Cái "Tri Thức" của Sĩ đạt Ta không
còn nữa. Con người cũ đã chết, cái thùng nước cũ đã vỡ. Bây giờ, là hoàn toàn một
con người mới, một cái tên mới, chúng ta gọi Ngài một cái tên mới - Đức Phật -
Bậc Giác Ngộ. Cái tên cũ "Sĩ đạt Ta" không còn thuộc về người này nữa.
Nhưng hãy cẩn thận coi chừng! Khi tôi ví dụ giác ngộ cũng giống
như một tai họa bất ngờ, tôi không có ý nói là bạn không nên làm gì cả. Đó
không phải là ý nghĩa xác thực của lời tôi nói. Nếu bạn ngồi yên không làm gì cả,
lẽ dĩ nhiên tai nạn không xảy ra, giác ngộ không xảy ra. Ví dụ tai nạn chỉ xảy
ra cho những người chạy xe nhanh quá hay ẩu quá; cũng vậy giác ngộ chỉ xảy ra
cho những người công phu tinh tấn nhất. Nhưng điểm khác biệt là thế này: cái
hành động chạy xe nhanh không phải là cái Nhân của tai nạn mà đó là cái Duyên
đưa đến tai nạn; công phu tham thiền miên mật không phải là cái Nhân của giác
ngộ. Vì thế, Đức Phật không thể nói khi nào giác ngộ sẽ đến với bạn. Có nhiều
người đến hỏi tôi như vậy, và tôi trả lời họ "sắp tới rồi". Câu trả lời
đó chẳng có ý nghĩa gì; "sắp tới" có thể sẽ là phút tới, có thể sẽ là
ngày mai, có thể sẽ xảy ra trong nhiều kiếp sau, vô hạn. Bạn không thể đoán trước
được. Bạn cứ việc làm, cứ việc tham thiền, cứ việc tu học. Đừng mong cầu, đừng
ngóng đợi, đừng trông chờ. Cái gì đến sẽ đến. Bạn cứ an nhiên sẵn sàng trong tỉnh
thức đón nhận cái gì đến với bạn. Vì nếu bạn không ở trong tư thế sẵn sàng, nếu
bạn mơ ngủ thì có thể điều kỳ diệu sẽ tới và vụt tới, mất dấu. Ngay cả khi bạn
sẵn sàng, bạn vẫn phải chờ đón. Bạn không thể bắt buộc giác ngộ phải xảy ra, bạn
cũng không thể mong giác ngộ tới. Nếu bạn có thể bắt buộc, thì tôn giáo sẽ chẳng
khác gì một môn khoa học. Đó là điểm khác nhau cơ bản giữa tôn giáo và khoa học.
Khoa học có thể tạo ra những phản ứng hóa học, những kết quả vì nó tùy thuộc
vào nguyên nhân. Khoa học có thể tạo ra sự vật vì nó tìm ra được cái nhân, ví dụ
như: nếu bạn đun sôi nước lên 100 độ thì nước bốc hơi. Bạn biết chắc chắn rằng
khi nước đun sôi tới 100 độ thì nước tự nhiên sẽ bốc hơi hay nếu bạn pha trộn
hai nguyên tử oxy và hydro thì bạn sẽ tạo ra nước (H20). Bạn có thể tạo ra những
phản ứng hóa học bạn muốn. Khoa học là môn học nghiên cứu tìm ra nguyên nhân vạn
vật.
Tôn giáo thì khác, cơ bản rất khác, và tôn giáo không bao giờ trở
thành một môn khoa học theo nghĩa đơn thuần của danh từ "khoa học", bởi
vì tôn giáo đi tìm cái không cùng, cái không nhân, tôn giáo đi tìm sự Chuyển
Hóa Tuyệt Đối.
Bạn có thể hỏi ngược lại tôi rằng :"Nếu giác ngộ xảy ra đột
ngột, không biết trước được lúc nào giống như tai nạn xảy đến đột ngột như lời
ông nói thì cần gì phải thiền? cần gì phải tham cứu? Cứ đơn giản ngồi chờ nó tới!"
Không, sự chờ đợi của bạn không phải là sự chờ đợi biếng lười như vậy. Sự chờ đợi
của bạn phải là sự chờ đợi tích cực, tươi mát, sống động. Bạn không nên ngồi chờ
thụ động như một xác chết được; luôn luôn bạn chờ đợi trong tỉnh thức, trong
chánh niệm, sống động và tươi thắm. Chỉ có trong trạng thái hồn nhiên tỉnh thức
đó, điều kỳ diệu nhiệm mầu sẽ xảy ra cho bạn. Có bao giờ bạn quan sát cuộc đời
và nhận xét rằng vạn sự vạn vật trên thế gian này đều vô thường, không chắc chắn,
duy chỉ có cái chết chắc chắn sẽ đến với tất cả chúng sanh hữu tình không? Tất
cả sự sự vật vật đều vô thường, không chắc thật! Tình yêu cũng vậy, không có
cái tình yêu bất tử. Chỉ có một điều chắc chắn: đó là cái Chết, và sự chắc chắn
thuộc về cái Chết, không phải thuộc về sự sống đâu, bạn ạ. Nếu bạn đang đi tìm
Sự Sống Vĩnh Cửu, hãy sống cởi mở, an nhiên, bình dị ngay từ phút giây tỉnh thức
này.
Tôi muốn kể cho bạn nghe về ni cô Chyonọ Trước khi xuất gia,
Chiyono là một giai nhân tuyệt sắc. Sắc đẹp diễm lệ của cô quyến rũ đến nỗi khi
cô muốn đi tu, đến nơi nào cô cũng bị từ chối vì các đại sư e ngại sắc đẹp của
cô sẽ làm các vị sư khác đắm nhiễm mê saỵ Cuối cùng, Chiyono quyết định táo bạo
là đốt phỏng gương mặt cô thành sẹo để không một ai mơ tưởng nữa. Từ đó,
Chiyono sống yên trong một tu viện. Cô đã tinh tấn chiến đấu không ngừng với bản
thân. Cô đã tu học tham thiền 10 năm, 20 năm, 30 năm, 40 năm liên tục không mệt
mỏi, và đột ngột, một đêm kia, "kẻ lạ mặt" mà Chiyono đã cố công tìm
kiếm đến gõ cửa nhà cô.
"Bất thình lình, giây thừng đứt, thùng nước rơi,
Nước đổ ào ra, bóng trăng biến mất - và Chiyono hoát nhiên đại
ngộ".
Chiyono đang ngắm bóng trăng - bóng trăng thật đẹp, vì chúng phản
chiếu cái Đẹp Tuyệt Đối. Thế gian này cũng rất đẹp vì nó là cái bóng phản chiếu
Thượng Đế, phản chiếu cái Đẹp Thiêng Liêng. Ngoài thế gian, chúng ta không thể
nào tìm ra cái Đẹp Tuyệt Đối. Những người đi tìm cái Đẹp Tuyệt Đối hay Chân Lý
không bao giờ nhầm lẫn cái Thật và cái bóng phản chiếu. Anh ta không phủ nhận
cái bóng, không chối bỏ nó, nhưng anh ta không đắm nhiễm nó, không nhầm lẫn nó
với cái Thật. Anh ta mượn nó để tìm đến cái Thật, tìm thấy cái Thật.
"Chiyono ngắm bóng trăng phản chiếu trong thùng nước. Bỗng
nhiên, giây đứt, thùng rơi, bóng trăng biến mất".
Chiyono ngước mắt nhìn lên trời - vành trăng tròn thực sự đang ở
trên cao. Hoát nhiên Chiyono trực nhận rằng tất cả những gì cô ta thấy nghe đều
là ảo ảnh, sai lầm - vì cô ta thấy nghe qua tri thức.
Nhưng, hãy coi chừng. Đừng đi theo Chiyonọ Chiyono không phải là
bạn. Bạn không phải là Chiyonọ Cái hoát nhiên đốn ngộ đó sẽ không xảy ra cho bạn
đâu. Chiyono là Chiyono; bạn là bạn. Mục tiêu giải thoát vẫn là một, nhưng
không có phương cách nào giống phương cách nào; không có sự đốn ngộ nào giống với
sự đốn ngộ nào. Không ai có thể là Chiyono thứ hai được. Thế giới không bao giờ
lập lại. Chiyono chỉ sanh ra một lần, và không bao giờ có một Chiyono nữa. Bạn
không thể lập lại hay bắt chước, vì bạn không phải là Chiyonọ Mỗi người tu tập
một pháp môn; mỗi người tự thân chứng lấy một cách.
Ngay hình tượng Đức Phật cũng vậy. Bạn có thể ngồi kiết già thiền
định như Đức Phật, dưới cội cây Bồ đề, y như Phật đã ngồi, mà thậm chí có thể bạn
ngồi hay hơn Phật nữa kìa, nhưng mãi mãi bạn không bao giờ trở thành một Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni thứ hai. (bạn có thể thành Đức Phật X, Đức Phật Y... nhưng
không thể là Phật Thích Ca Mâu Ni).
Sự kiện Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội cây bồ đề là một sự kiện
ngẫu nhiên. Nếu Phật không ngồi ở đó mà đi thiền hành hoặc ngồi ở cội cây khác
thì Phật vẫn đạt ngộ như thường. Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên Đức Phật đến
dưới cội cây bồ đề và thiền định. Hình tướng không quan trọng; cây bồ đề không
phải là nguyên nhân giác ngộ, cái dáng ngồi kiết già không phải là nguyên nhân
giác ngộ - đó chẳng qua chỉ là những duyên đưa đẩy đến sự giác ngộ của Phật
Thích Ca.
Đừng bao giờ mù quáng chạy theo bắt chước một ai, dù người đó là
Đức Phật. Không phải bạn ngồi kiết già như Phật mà bạn mà bạn có thể thành Phật.
Thực sự là chúng ta nên tu tập theo những lời dạy của Phật nhưng chúng ta vẫn
phải tự mình chứng đạt, tự mình tìm ra tự tánh chân thật tự xưa của mình. Mỗi
người chứng nghiệm một cách. Đức Phật, Lão Tử, Mahavira, Krishna hay
Zarathustra - không có ai gánh nước như Chiyono mà giác ngộ. Trước và sau Đức
Phật Thích Ca, không có ai ngồi dưới cây bồ đề mà giác ngộ.
Vì thế, đừng đóng khung trong lề thói, trong kinh điển, v.v...
Hãy tỉnh thức và suy nghiệm! Đó là con đường duy nhất để thực hành, để chứng đạt.
Tỉnh thức trong từng sát na, tỉnh thức trong từng hành động, ý nghĩ.
"Bất thình lình giây thừng đứt,
Không còn nước, không còn trăng trong nước,
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì".
Đó chính là những gì mà Đức Phật chứng ngộ; đó chính là định
nghĩa một vị Phật là gì.
"Không - vạn vật giai không".
"Không" không có nghĩa là không có gì, phủ định.
"Không" có nghĩa là "Có" - "Có" có nghĩa là
"Không". "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc" (Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là
Không, Không tức là Sắc)... (Bát Nhã Tâm Kinh)
"Không" trong tay có nghĩa là suối nguồn giác ngộ
trong taỵ Vạn vật giai không, không có cái tướng của ta, không có cái tướng của
người, không có tướng chúng sanh, không có tướng lãnh thọ của chúng sanh (Kinh
Kim Cang).
Và một khi bốn tướng đó đều là Không thì bạn chạm tới bộ mặt thật
của Thiền rồi vậy.
Và Chiyono đã tìm ra: "Không Nước - Không Trăng"
"Tay tôi rỗng không
Tâm tôi rỗng không... "
No comments:
Post a Comment