Tác giả: Dr.
Dhananjay Chavan
Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết, tranh
cãi về bệnh tâm thần, thiền định và sự liên hệ giữa hai đề tài nầy.Các chuyên
gia về sức khoẻ thể chất và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề nghiệp của
họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối với một người bình thường
họ sẽ rất bối rối.
Cả hai chữ « tâm thần » và « thiền định » cũng mang những hào
quang thần bí. Nói tóm lại, bệnh tâm thần là một khoa học rất mới mẻ, chưa đến
trăm năm, trong khi vô số cách thức thiền đã bắt nguồn từ thuở xa xưa.Tuy vậy,
đôi lúc có lời tuyên bố là thiền định không có tính cách khoa học.Thật ra, thiền
định là một môn khoa học, một phương pháp được thực tập và hoàn hảo hoá mấy thế
kỷ về trước bởi các khoa học gia về tinh thần và thể chất, bởi các vị Rishis,
Munis, và các vị Phật.Sau rốt, khoa học là gì? Khoa học là sự quan sát một cách
khách quan về sự phân tích các dữ kiện, và sự ứng dụng. Khoa học tìm kiếm để biết
sự thật.Chúng ta sẽ thấy trong bài xã luận nầy, dựa cả vào tiêu chuẩn tân thời,
thiền Vipassana (Minh Sát) thật là một môn khoa học.
Người ta thường nghĩ đến bệnh tâm thần là môn khoa học chuyên giải
quyết những tâm thần bất bình thường.Nhưng sẽ chính xác hơn nếu sử dụng từ
«hành vi» thay thế cho hai từ « tâm thần »trong việc định nghĩa, bởi vì bệnh
tâm thần định nghĩa là « Một môn học về hành vi bất thường. Bây giờ, để định
nghĩa sự bình thường thì thật là một nhiệm vụ khó khăn.Bình thường nói chúng có
nghĩa « trung bình ».Hành vi ám chỉ những hành động thuộc về lời nói hay vịêc
làm, như hành vi nói năng, hành vi xử sự. Trong môn học về bệnh tâm thần và tâm
lý, cách suy nghĩ được nghiên cứu chỉ bằng một kết luận sau khi những hành động
về lời nói, việc làm được thể hiện.Mục đích của các môn khoa học nầy là để giúp
sửa đổi hành vi của một người trở lại bình thường (thông thường nghĩa là sự
trung bình.)
Chúng ta cũng có thể sử dụng một định nghĩa tân thời cho bệnh
tâm thần như: Một phương thức áp dụng môn khoa học về thần kinh cho việc chữa
trị bệnh tâm thần của một nhóm bệnh nhân tâm thần.Thật ra ngay từ ban đầu, phạm
vi của bậnh tâm thần đã không được định nghĩa đúng đắn.Kết quả các bác sĩ
chuyên môn về tâm thần thường chỉ chữa cho những bệnh tâm thần thứ yếu. Trong
những năm 60 và 70, các bác sĩ về tâm thần ở phương Tây đều thực hành phân tâm
lý học.Những bệnh nhân của họ thường không có những triệu chứng, vấn đề nghiêm
trọng; rất ít bệnh nhân bị loạn trí.Trong khoảng thời gian nầy, trong tâm thần
học có ấn tượng là bệnh tâm thần có thể chữa trị tất cả những vấn đề khó khăn của
con người.Nhưng thực tế thì tâm thần học không đóng góp được gì quan trọng,
trong sự hài hoà của xã hội nói chung, ngoại trừ giúp đỡ được cho một số ít bệnh
nhân.
Các bác sĩ tâm thần học có lý trí đã dần dần hiểu được biên giới
của bệnh tâm thần không bao quát song song cùng với hoạt động tinh thần của mọi
con người. Sự hiểu biết nầy là một ý nghĩa to tác,bởi vì nó giúp cho bác sĩ tâm
thần học và một người bình thường định nghĩa phạm vi của bệnh tâm thần. Sự thiếu
hiểu biết về điều nầy của một người bình thường tạo nên nhiều vấn đề khó khăn khác
nhau.Thí dụ, đôi lúc bác sĩ tâm thần được mời xem bệnh, trong khi bệnh ấy lại
không thụôc về tâm thần, bắt nguồn từ sự tin tưởng, đòi hỏi vô lý, rằng bác sĩ
tâm thần học phải biết hết mọi vấn đề liên quan đến thần trí.Ngược lại với quan
niệm hiểu biết hết của bác sĩ tâm thần học, mặt khác của đồng tiền là sự thiếu
hiểu biết toàn bộ về môn đặc biệt nầy, kể luôn cả vài thành phần chuyên gia về
mặt sức khoẻ, với kết quả là … ngay cả khi cần thiết và có lợi ích người ta
cũng không chịu tìm đến sự giúp đỡ của bác sĩ tâm thần.
Trong thời gian vừa qua, bệnh tâm thần đã gia nhập vào một
chuyên ngành của y học, với trọng tâm chuyên trị những bệnh tâm thần nặng.Điều
nầy đã xác định lại vai trò của bệnh tâm thần như là một môn khoa sinh học, và
bác sĩ tâm thần học hiện nay đã giữ vai trò thích hợp hơn, họ là những chuyên
gia trị liệu về rối loạn sinh học và tâm lý.Điều nầy không có nghĩa là vai trò
của bác sĩ tâm thần chỉ giới hạn trong việc viết toa thuốc; bác sĩ tâm thần
cũng sử dụng những phương thức trị liệu khác nhau.Nhưng ngày càng nhiều, các
bác sĩ tâm thần bắt đầu tự thu hẹp chuyên ngành của họ : trị liệu những rối loạn
thần kinh nặng. Những điều kiện để giúp đỡ việc trị liệu cho các bác sĩ tâm thần
là trang bị đầy đủ dụng cụ, và tay nghề cao.Các bác sĩ tâm thần được huấn luyện
để giải quyết các hành vi « bất bình thường ».Trong những trường hợp căn bệnh gần
với hành vi bình thường ( hoặc trung bình), hiệu quả của việc trị liệu tâm thần
khác nhau rất xa giữa việc trị liệu và phương cách trị liệu .
WHO - World Health Organization (Hội Đoàn Sức Khoẻ Thế Giới)
liên tục cố gắng cải thiện tiêu chuẩn chẩn đoán cho các bệnh tâm thần. Liệt kê
danh sách các chứng bệnh quốc tế (International Classification of Diseases –
ICD-10) là một bước tiến quan trọng.Người ta đang cố gắng để phân ranh giới một
cách hệ thống trong lĩnh vực bệnh tâm thần.Việc nầy giúp cho các bác sĩ tâm thần
có thể chú tâm đến một số nhỏ dân chúng đặc biệt, đê giúp các nhà nghiên cứu
tìm ra những phương thuốc để chữa các chứng bệnh rối loạn tâm thần và có thể bảo
vệ dân chúng khỏi bị gán cho cái tên bệnh nhân tâm thần. Tuy vậy, ranh giới vẫn
còn mơ hồ. Kể cả một bác sĩ tâm thần giỏi đôi lúc cũng cảm thấy khó khăn khi phải
quyết định nên chữa trị một bệnh nhân đặc biệt nào đó, hay là cho rằng người ấy
không cần sự trị liệu.
Mọi người đều chịu đau khổ từ những điều bất hạnh khác nhau.Khi
đối diện với những vấn đề thương mại, một người có thể dễ nổi giận, trong khi
người khác thì nghiêng về sự buồn rầu.Trong những lúc nầy, một cá nhân có thể
nói là không bị bệnh tâm thần. Họ có thể được lợi ích từ lời khuyên, sự nâng đỡ
của bạn hay thân quyến, hoặc là bác sĩ tâm thần. Kể cả như vậy, trong cuộc sống,
mỗi con người đều luôn bị dính chặt vào các cuộc thử thách, và đau khổ cứ liên
tục xảy ra.
Một người phải làm thế nào khi đối diện với những khó khăn
trong cuộc sống? Mỗi một cá nhân cảm thấy đau khổ khi gặp phải những
việc không muốn vẫn xảy ra và những việc muốn thì không thành; khi
một người có được vật mà họ không thích, hoặc mất đi vật gì họ
thích.Tìm kiếm giải pháp ở đâu đây?
Tâm thức là một nguyên nhân chánh. Chúng ta cần phải tìm
hiểu, thăm dò cho đến tận chiều sâu của nó để có thể điều khiển nó
– để giải quyết các khó khăn của chúng ta.Đây chính xác là một môn
khoa học của thiền định. Thiền định là một môn khoa học nghiên cứu
về hịên tượng tâm thức và vật chất.Môn tâm thần học chỉ tìm hiểu
về tâm thức một cách gián tiếp và chỉ trong phạm vi có thể khảo sát
được qua những hành vi từ lời nói và việc làm.Trong môn khoa học về
thiền định, tâm thức được tìm hiểu một cách trực tiếp. Môn khoa học
nầy đã được thực tập cùng khắp xứ Ấn Độ từ thời xa xưa.
Sự thật tất cả các hành động đều bắt nguồn từ tâm
thức. Nhưng không phải tất cả những gì xuất hiện nơi tâm thức đều
biểu lộ qua lời nói hay cử chỉ. Những hành động dường như là tương
xứng có thể bắt nguồn từ những ý muốn thầm kín khác.Thí dụ, một
người đứng chết trân khi thấy một con rắn có thể có hai lý do cho
hành động nầy.Có lẽ anh ta quá sợ hãi; hoặc anh ta có thể rất bình
tĩnh và đứng yên để không làm con rắn sợ, hoặc để quan sát con
rắn.Tương tự như thế, một người có thể cho kẻ nghèo một đồng bạc,
với tâm lượng từ bi; để họ đi cho khuất mắt, hoặc để cho những người
khác không xem anh ta là một người keo kiết.
Vì thế, vấn đề trước nhất là rất khó để giải thích môn tâm thần
học, chiếu theo các kết quả về tâm thức bắt nguồn từ lời nói và hành động. Tâm
thức cần được tìm hiểu trực tiếp.Một vấn đề khác là các kết quả của cái được gọi
là “ thuyết nhị nguyên của Des Cartes”, sự phân chia tuỳ ý về tâm và thân.Trong
một thời gian rất lâu, các nghề y khoa chuyên môn về thân thể, đã bỏ qua việc
tìm hiểu về tâm thức. Và khi các bác sĩ tâm thần học bắt đầu tìm hiểu về tâm thức,
trong bất cứ phương cách nào, họ bác bỏ thân người. Ngày nay, tầm quan trọng của
phương pháp giải quyết vấn đề có tính cách thánh thiện được chấp nhận.Tuy vậy,
không có một phương thức thẩm vấn nào được đầy đủ, không có sự hiểu biết thích
đáng cho sự tương tác giữa tâm thần và vật chất, với kết quả là có rất nhiều lý
thuyết, nhưng ít dữ kiện. Hiện tượng thân-tâm không được tìm hiểu một cách đúng
đắn.
Những vấn đề nầy được giải quyết xuyên qua sự hiểu biết đúng đắn
về thiền định.Chữ « thiền định » rất đa dạng trong nhiều định nghĩa. Trong tiếng
Anh, từ nầy được sử dụng một cách thoải mái để chỉ đến việc suy nghĩ về một cái
gì đó.Các tự điển định nghĩa là « trầm tư mặc tưởng »: luyện tập tâm thức trong
sự trầm mặc, chuyên chú đến một chủ đề của sự trầm mặc ; để suy nghĩ, suy tư và
nghiền ngẫm. Khi chúng ta nói đến thiền ở đây, chúng ta không sử dụng từ nầy
trong ý nghĩa chán ngắt đó.
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những
thực tập về sự phát triển của tinh thần.Từ nầy y dược dịch đại khái là thiền định.Thiền
nói về những thực tập đặc biệt cho tinh thần, những phương thức chính xác để
chú tâm và thanh tịnh hoá tinh thần.Khi chúng ta sử dụng từ « thiền định » ở
đây, chúng ta sử dụng từ nầy trong ý nghĩa chuyên môn nầy.Hầu hết trong các
ngôn ngữ Ấn Độ, có những từ rất đặc biệt dành cho nhiều loại thực tập thiền
khác nhau, bởi vì Ấn Độ có một truyền thống phong phú về thiền. Những từ như
dhyana, japa, traa.taka, saadhandaa, vipassanaa, (vidarshanaa), bhaavanaa,
v..v..., nói về những loại thực tập khác nhau. Nói chung, thiền là một thực tập
về sự chú tâm của tinh thần về những đối tượng khác nhau.Bởi vì sự chú tâm của
tinh thần là điều kiện trước hết cho bất cứ một nhiệm vụ nào, đó là một nhân tố
rất quan trọng trong việc khám phá hiện tượng thân tâm. Sự chú tâm có thể thực
hành với vô số đối tượng: Mắt thấy, tai nghe, sự tưởng tượng, lời nói, v..v…
Bậc Giác Ngộ đã cho chúng ta một đối tượng kỳ diệu để chú tâm,
hơi thở tự nhiên của chúng ta. Không giống với những đối tượng khác bên ngoài
hoặc không có liên quan trực tiếp đến tâm thân của chúng ta, hơi thở là một đối
thượng có nhiều tiện lợi. Hơi thở trong ta và luôn luôn hiện hữu từ lúc sanh ra
cho đến lúc chết.Đây là một thực tế hiển nhiên, rõ ràng.Hơi thở ý thức và vô thức,
có chủ tâm và không chủ tâm. Nhịp điệu của hơi thở liên quan mật thiết đến trạng
thái tinh thần và biết rõ ô uế nào đang xuất hiện nơi ý thức, kể cả sự loạn động
nhỏ nhất, cũng làm nhiễu loạn nhịp hơi thở. Chúng ta không thể tìm thấy một đối
tượng để chú tâm nào khác hơn là hơi thở, vì hơi thở liên quan mật thiết với hiện
tượng thân-tâm và nhất là quá dễ dàng cho việc quan sát.
Tuy vậy, sự chú tâm không phải là mục đích của thiền định ; nó
chỉ là một dụng cụ. Dụng cụ để làm gì ?
Ở đây chúng ta gặp cái khó khăn thứ ba về định nghĩa của thiền
nơi khoa học tân tiến. Bốn chân lý huyền diệu về khổ rất đơn giản, hợp lý và phổ
dụng: Đau khổ hiện hữu; nó có một nguyên nhân; nguyên nhân nầy có thể bị nhổ tận
gốc và có con Đường dành cho việc nhổ gốc đau khổ.Tuy nhiên, những chân lý phổ
dụng nầy không được các bác sĩ tâm thần học tân tiến hoan nghinh, vì tâm lý học
chú trọng nhiều đến « tại sao » hơn là «làm sao».Thái độ tìm kiếm định nghĩa
trong khi không hiểu chút gì về cơ cấu căn bản của thực tế, làm cho khó hiểu
hơn là nâng cao sự học hỏi về các vấn đề tinh thần của con người.
Bậc Giác Ngộ là một khoa học gia chân chính, một khoa học gia lỗi
lạc về thân và tâm.Chính Ngài đã không những khám phá hiện tượng thân-tâm và
toàn bộ của nó, Ngài lại còn chỉ đường cho những người khác, để họ có thể thoát
khỏi đau khổ. Ngài dạy phương thức quan sát tinh thần hoạt động ra sao, như thế
nào thân và tâm tương tác. Ngài dạy Vipassana. (Thiền Minh Sát). Vipassana có
nghĩa là thấy, thấy một cách đặc biệt, quan sát bên trong.Đây là một sự quan
sát có đối tượng của thực tại bên trong. Việc phát triển về sự nhận biết sâu sắc
về bản thể tự nhiên của một cá nhân. Nó không có những giả thiết; chỉ là sự
quan sát. Đây là cách thực tiễn để hiểu khó khăn của chúng ta là đau khổ và giải
quyết việc nầy.Khó khăn chung của mọi người cũng giống như thế, và thuốc giải
cũng phổ dụng.Trong Vipassana, chúng ta học quan sát những cảm xúc của chính
chúng ta một cách khách quan. Các cảm giác là địa điểm gặp mặt của sự tương tác
thân mật giữa thân-tâm. Xuyên qua các cảm giác xuất hiện nơi thân, chúng được cảm
nhận nơi tinh thần.Mỗi một người trong chúng ta là một khoa học gia của thân và
tâm. Chúng ta có sự hiểu biết trực tiếp. Bậc Giác Ngộ đã trình bày bốn giai đoạn
căn bản của tinh thần (tâm):Ý thức, nhận biết, cảm thọ và những điều kiện.Về mặt
trí thức, không có người nào phải chấp nhận những giai đoạn nầy; chúng sẽ trở
nên rõ ràng một khi chúng ta bắt đầu kiểm nghiệm được chân lý nội tại.
Khi chúng ta học quan sát được các cảm thọ nội tại, theo kinh
nghiệm, việc nầy thật rõ ràng là chúng ta tiếp tục phản ứng theo những cảm thọ
nầy. Các cảm thọ là căn bản để các điều kiện, mô hình cũ của ham muốn và ghét bỏ
tăng trưởng. Sự khám phá sâu sắc nầy là trụ cột cho việc giải thoát, mà Bậc
Giác Ngộ đã đưa ra. Chính điều kiện của chúng ta làm cho chúng ta mãi đau khổ,
và chúng sẽ bị nhổ bỏ tận gốc bằng cách thực tập quan sát đối tượng của cảm thọ.
Thực tập Vipassana, chúng ta không học để phát huy các điều kiện mới của ham muốn
và ghét bỏ các cảm thọ ; và như vậy, chúng ta bắt đầu tiêu diệt các điều kiện
cũ. Sự thực tập là một hành trình từng bước một để tiêu diệt các ô uế của tâm
thức. Do đó, đây là một tiến trình để tiêu diệt đau khổ.
Không nằm trong môn phái khoa học, kỹ thuật nầy rất hữu dụng
trong việc giúp tất cả mọi người có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, an lạc hơn .
Những ai đã từng theo học lớp Vipassana trong vòng mười ngày, dưới sự chỉ dẫn của
một vị thầy giỏi, lớp học nầy là một kinh nghiệm đổi đời.
Thực tập để khám phá thân tâm ở mức độ sâu xa nhất thật là không
phải dễ. Việc nầy đòi hỏi một sự ổn định, vững chãi về mặt thân và tâm.Một người
cầu đạo chân chính mong cầu được thực tập thiền Vipassana, họ cần có sức khoẻ tối
thiểu ở nơi thân và tâm.Thông thường, tất cả đều học được, trừ những người bị bệnh
tâm thần. ( Nên liên lạc với bộ quản lý lớp Vipassana trước khi ghi danh để xem
học viên có bệnh, có thể thích hợp cho khoá học hay không.)
Thiền Vipassana là phương thuốc chữa bệnh phổ biến cho nỗi đau
khổ chung. Nhưng điều nầy không có nghĩa là khoa tâm thần học không có chỗ đứng
trong việc giúp đỡ nhân loại đang đau khổ. Đối với những người điên, không có
khả năng để theo học thiền Vipassana, một công việc hết sức tế nhị.Các bác sĩ
chuyên môn về tâm thần học có thể giúp đỡ, làm giảm nỗi đau khổ của những người
bệnh tâm thần.Ngoại trừ một nhóm nhỏ với các bệnh tâm thần quá nặng, thiền
Vipassana rất hữu dụng cho tất cả mọi người.
Phạm vi của khoa tâm thần học giới hạn vào một số nhỏ
dân số. Nhưng thiền Vipassana thì phổ biến bao gồm tất cả mọi mặt hoạt động về
tâm thần của con người.Khoa tâm lý học ngụ ý tìm hiểu hoàn toàn về hoạt động
tinh thần của con người, như chúng ta đã bàn qua, đây là môn “khoa học về thái
độ cư xử”, và như vậy nó bị giới hạn.Thái độ cư xử trong ý nghĩa nầy được định
nghĩa như bất kỳ một hành động phản ứng nào cũng có thể bị quan sát bằng cách nầy
hay cách khác. Luận điểm là hành động đó, khác với tâm thức, ý nghĩ hoặc cảm
giác, có thể bị quan sát và nghiên cứu. Ý là ở đây, người quan sát luôn là người
ở ngoài cuộc, một người khác.Các tâm lý gia hiện đại tin tưởng rằng thái độ cư
xử là con đường duy nhất mà các sự kiện tâm lý nội tại có thể được nghiên cứu kỹ.
Bất cứ người nào theo học khoá Thiền Vipassana trong vòng mười
ngày, đều có thể nhìn thấy sự sai lầm về mặt nầy của khoa tâm lý học hiện đại.
Anh ta biết ngay từ kinh nghiệm bản thân là các sự kiện tâm lý nội tại có thể
được quan sát trực tiếp.Mỗi thiền sinh của Vipassana đều trở thành một bác sĩ
tâm lý thực thụ cho chính mình.Và xuyên qua môn khoa học thuần khiết về quán
sát tự thân, anh ta bắt đầu thoát khỏi đau khổ.
Nguyện cầu cho nhiều người được bước đi trên con đường do Bậc
Giác Ngộ chỉ dẫn.Nguyện cầu cho nhiều người học tập quán sát thực tại bên
trong. Nguyện cầu cho mọi chúng sinh đều hạnh phúc, mọi chúng sinh đều an lạc.
No comments:
Post a Comment