NGHIỆN RƯỢU
Nghiện rượu là bệnh
kinh niên gây nên tinh thần hỗn loạn. Đặc điểm của bệnh này là bởi uống rượu
hoài hoài quá mức thông thường.
Từ ngữ 'nghiện rượu' rất khó để định nghĩa vì con người có
những phản ứng khác nhau với rượu và cách thức họ dùng nó. Thường từ 10 đến 15
năm ưống năm ly hay hơn một ngày (ít hơn với phụ nữ) thì một người phát triển
triệu chúng của người nghiện - đó là sự suy nhược ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình trạng sức khỏe và các quan hệ xã hội của người đó. Thực chất, nghiện rượu
không thể đo lường bằng số lượng rượu uống nhưng mà là cách thức người ấy uống
để đối phó với khó khăn đời sống và hậu quả ảnh hưởng đến hạnh phúc vật chất
con người.
Lạm dụng rượu lâu ngày có thể tác hại tất cả các cơ quan
chính yếu của cơ thể. Bắt đầu nó có thể tác hại tế bào cơ tim, dẫn đến đau tim
và chết. Vì rượu thấm nhập vào gan, cơ quan có công năng vô hiệu hóa và loại
một số chất độc, gan rất dễ bị rượu gây tác hại.
Nghiện rượu có thể làm cho gan lớn ra, sưng lên, và phát
triển bệnh ngặt nghèo gọi là bệnh sơ gan. Một trong những tác hại nhất là óc.
Nghiện rượu có thể làm hư hại óc và làm tinh thần hỗn loạn.
Rượu uống vào những tháng mới mang thai có thể tác hại tim
đứa trẻ chưa sinh. Phụ nữ mang thai uống rượu gây ra hàng loạt bệnh bất thường
cho đứa trẻ chưa sinh (triệu chứng của rượu với bào thai).
Sự chịu đựng chất rượu có nghĩa là hóa chất trong cơ thể
điều chỉnh dần dần phù hợp với lượng rượu uống vào. Kết quả là phải dùng thêm
nhiều hơn nữa mới đáp ứng được. Do đó, có người ít khi uống rượu, có thể trở
nên say dù chỉ uống có một ly rượu vang. Sự chịu đựng, thực ra, là một trong
hai dấu hiệu then chốt của sự lệ thuộc vào rượu. Dấu hiệu thứ hai là sự phát
triển các triệu chứng khi người ngưng không uống rượu. Khả năng uống nhiều tùy
thuộc một số yếu tố, chẳng hạn như cơ cấu hóa chất của người ấy, tình trạng thể
chất và tinh thần, thời gian uống bao lâu, số lượng đồ ăn trong dạ dày trong
khi uống.
Một số tổ chức, trong các cuộc liên hoan hội họp, khuyến
khích thanh thiếu niên tham gia vào thi đua uống bia treo những giải thưởng hấp
dẫn cho những người thắng cuộc. Những tổ chức nhu vậy vô hình chung đã đẩy các
thanh thiếu niên khờ dại, nhiều đứa chưa bao giớ biết uống một loại rượu nào,
vào hàng người nghiện, đưa đến đủ loại khó khăn cho xã hội và gia đình và cho
cộng đồng.
Có thể một người uống nhiều quá có thể chết không? Tuy hiếm
nhưng vẫn xẩy ra, thường là trong các cuộc thi đua uống. Đó là vì trong những
trường hợp như vậy có một số lượng lớn các loại rượu được đem ra uống và uống mỗi
lần cạn ly. Uống một số lượng quá nhiều có thể làm cho hệ thống hô hấp không
chịu nổi, và lại vừa bị nôn mửa, có thể dẫn đến tắt thở. Thêm vào, chất rượu
quá nhiều có thể giảm thiểu chất glucose sản sinh, gây hôn mê. Rượu cũng có thể
hạ thấp ngưỡng cảm giác đau đớn, và làm suy yếu khả năng đông máu.
Giới cuối cùng trong năm giới cấm của người Phật Tử là
tuyệt đối không uống rượu và các chất say. Triệt để tuân hành giới cấm này rất
quan trọng với người Phật Tử cho hạnh phúc về tinh thần cũng như thể chất của
con người vì nếu không giữ giới này, giới này nó có thể làm hại giá trị của tất
cả các giới kia.
Kết thúc một buổi liên hoan, một tiệc rượu, thói quen giữa
người khách và chủ nhân là uống thêm một ly trước khi lên đường đi về, cần phải
loại bỏ bằng bất cứ giá nào. Luật lệ của chính phủ hiện nay " lái xe không
được uống rượu " phải được tuân hành, triệt để tuân hành để bảo đảm an
ninh cho tất cả mọi người trên đường lộ.
Quán rượu mọc lên như nấm khắp các thành phố và lôi cuốn
thanh thiếu niên lao vào thói quen uống rượu. Nhiều màn trình diễn thiếu đứng
đắn được thấy tại các quán rượu và disco, ngược lại với giấy phép được cấp phát
khiến các nơi này bị cảnh sát tấn công bắt bớ.
Đối với những người ở tầng lớp thấp trong xã hội, một ly
rượu mạnh hòa với đường và nước giúp họ khuây khỏa. Tuy nhiên một số lại uống
quá nhiều, kết quả trở nên say xỉu, hung dữ tạo thành bạo lực gia đình tại nhà.
Nhiều người lợi tức thấp cũng say mê uống rượu đế cất từ gạo. Nhưng điều làm
cho nhà chức trách lo lắng là nhiều người uống rượu đế rẻ tiền, chưng cất thiếu
vệ sinh dẫn đến nhiều trường hợp tử vong xẩy ra từ việc uống các loại có chất
độc này.
Hội Vô Danh chống nghiện rượu là một nhóm tự nguyện giúp đỡ
những người nghiện chừa bỏ thói quen uống rượu và khi cần thiết chữa cho họ hồi
phục. Những người tự nguyện này làm việc suốt ngày đêm và có thể liên lạc với
họ bằng điện thoại.
SỰ
CÁCH BIỆT GIỮA CÁC THẾ HỆ
Từ "thế hệ"
thường dùng để chỉ sự đo lường thời gian một khoảng 30 năm, khoảng thời gian
một người cần có để đạt được sự chín chắn, ở tuổi mà như luật thông thường, đứa
con đầu sanh ra. Khoảng cách biệt lớn gĩữa một hay nhiều thế hệ thường được nói
đến là 'biệt thế hệ'.
Có thể cho rằng người
từ những thế hệ khác nhau nên có sự khác biệt về đường lối suy nghĩ, thái độ,
cách sống và giá trị, cho nên không đồng ý với nhau về hầu hết mọi vấn đề. Do
sự khác biệt về tu?i tác, nhóm người già giữ quan điểm ngược lại đường lối của
thế hệ trẻ. Những sự dị biệt trong quan điểm phát xuất và dẫn đến sự hiểu nhầm
trong gia đình.
Truyền thống cổ hủ, tập
tục không hợp thời và thái độ bè phái của người già thường mâu thuẫn với những
khát vọng của người trẻ. Thế hệ trẻ của thanh niên tạo nên để đứng trước ngã ba
đường vào lúc quan trọng trong tuổi còn trẻ thiếu kinh nghiệm. Tự nhiên họ
chống lại sự can thiệp của người già và không chịu khuất phục dưới cách đối xử
kẻ cả bề trên.
Một số người già không
chịu nổi quan điểm hiện đại, lối sống của thế hệ trẻ. Các cụ muốn các con phải
theo các tập tục xưa và truyền thống cha ông. Thay vì áp dụng thái độ như vậy,
các cụ nên cho con cái sống phù hợp với thời đại nếu những hoạt động này vô
hại, và đem lợi ích tiến bộ. Các cụ nên nhớ lại khi xưa cha mẹ các cụ cũng phản
đối một số cung cách đối xử thịnh hành vào thời các cụ còn trẻ. Chẳng hạn vào
thập niên 60 thanh niên bắt chước những người (ca hát) Beatles và Hyppies được
xem là khó coi. Những người trẻ này lớn lên và cũng đến lượt bị choáng váng bởi
những đứa con bắt chước "lưu manh" và "bỉ ổi".
Sự cách biệt về quan
niệm giữa những bậc cha mẹ bảo thủ và thế hệ trẻ là nguyên nhân thường gây mâu
thuẫn trong phạm vi gia đình ngày nay. Điều đó không có nghĩa là bậc cha mẹ e
sợ trong việc cố vấn và hướng dẫn con cái nếu chúng đi lạc đường do một số giá
trị sai lầm.
Nhưng khi giáo dục
chúng, bậc cha mẹ nên theo nguyên tắc ngăn ngừa tốt hơn là trừng phạt. Cha mẹ
cũng nên giảng giải cho con cái tại sao lại không chấp nhận hay tại sao lại
chấp nhận một số giá trị. Chúng ta hiểu cái mà ta gọi 'giá trị Phương Đông' rất
tốt nhưng chỉ khi chúng thích hợp cho nhu cầu hiện đại và có thể áp dụng thích
ứng với tình trạng hiện nay.
Thiếu hiểu biết giữa
cha mẹ và con cái hiện nay là nguyên nhân làm cha mẹ và con cái cách xa nhau.
Nên tạo nhiều cơ hội hơn nữa giúp cho con cái trưởng thành và làm chúng tự có ý
thức trao đổi tâm sự với cha mẹ.
Lời yêu cầu tha thiết
của một thanh thiếu niên là muốn cha mẹ hiểu khó khăn của nó, thường là điển
hình trong nhiều gia đình ngày nay:
"Tôi đã ở với cha
mẹ tôi gần 20 năm . Tôi thương yêu cha mẹ tôi, nhưng cũng có những vấn đề với
cha mẹ tôi. Có những sự hiểu nhầm giữa ba người (tôi và cha mẹ), và các khó
khăn hình như càng ngày càng gia tăng.
Những khó khăn ấy bắt
nguồn từ những hành động của tôi mà cha mẹ tôi không hiểu. Cha mẹ tôi hình như
không biết lý do đằng sau những điều tôi nói và làm. Tôi đã cố gắng sửa chữa và
làm dịu đi những nỗi bất bình giữa cha mẹ và tôi, nhưng không kết quả.
Cha mẹ tôi lúc nào cũng
bên cạnh tôi khi tôi còn nhỏ, bất cứ lúc nào tôi cần được an ủi. Cho nên tôi
nghĩ không cần cha mẹ bảo tôi làm gì và tôi nghĩ rằng cha mẹ tôi là những người
tuyệt diệu nhất trên thế giới này.
Quan niệm về mọi chuyện
của tôi bắt đầu khác biệt với cha mẹ tôi, nhưng tôi giữ im lặng vì e ngại bị họ
trừng phạt. Những khó khăn sinh khi tôi đủ khôn lớn để nói lên ý kiến của tôi.
Bây giờ tôi nói lại cha
mẹ tôi, không phải là tôi chống lại mà đó là vì cho chính tôi. Tôi không cho
rằng tôi biết tất cả mọi thứ mà cha mẹ tôi biết nhưng tôi đã có thể tự lo cho
mình. Tôi sẽ yêu cầu giúp đõ khi cần thiết, nhưng chuyện tôi muốn lưu ý đến lời
khuyên của cha mẹ tôi lại là một vấn đề khác.
Cha mẹ tôi vẫn coi tôi
như một đứa bé, một em bé cần sự giám sát thường xuyên. Tôi cảm nhận cha mẹ tôi
săn sóc tôi, nhưng các người cũng phải để cho tôi tự do và không bóp nghẹt tôi.
ông bà chẳng bao giờ nghe tôi nói gì, và bảo tôi không hiểu ông bà. Ông bà cũng
xâm phạm tự do cá nhân của tôi và không hiểu tôi. Vì lúc nào ông bà cũng canh
chừng tôi, tôi không còn có tự do để thăm viếng bạn tôi hay làm việc gì mà tôi
thích làm.
Cha mẹ tôi lúc nào cũng
hỏi tôi tại sao làm cái này hay cái kia nhưng không bao giờ nghe những lý do
của tôi vì ông bà chẳng bao giờ muốn nói chuyện với tôi. Đương nhiên tôi phải
tìm đến bạn tôi, và như thế làm cho cha mẹ tôi ngạc nhiên.
Tôi không muốn làm đau
buồn cha mẹ tôi bằng cách không nghe ông bà, nhưng việc ấy phải do cả hai bên
cùng xây dựng. Làm sao tôi có thể nghe lời khuyên nơi ông bà khi ông bà không
lưu ý gì đến sự kiện đúng? Tôi còn trẻ, làm sao tôi có thể học hỏi được nếu tôi
không có cơ hội?
Những khó khăn mà tôi
phải chịu đựng do nơi cha mẹ và tôi. ông bà chỉ chỉ huy tôi và không cho tôi cơ
hội để đặt câu hỏi với ông bà. Trong tình trạng gia đình ngột ngạt không thể
chịu được, ai là người đáng trách cứ nếu tôi đi tìm sự khuây khỏa ngoài gia
đình với bạn bè bao che tôi và say mê vào những hoạt động không lành mạnh? Tôi
có được lựa chọn không?
Cha mẹ tôi có thể hiểu
tôi hơn nếu bỏ thì giờ để nói chuyện với tôi và hiểu quan điểm của tôi. Cha mẹ
và tôi phải cùng nhau giải quyết vấn đề để có một mái ấm gia đình."
Sự xuất hiện của thế hệ
1950 là một hiện tượng không hiểu nổi đối với những người cao tuổi thời bấy giờ
nay không còn mấy huyền bí so với thời ấy khi có những thay đổi lớn lao trong
văn minh thế giới. Rồi, người ta nói đến 'sự cách biệt giũa thế hệ', một hiện
tượng mới. Người trẻ không còn phải suốt đời làm việc cực nhọc sau khi rời khỏi
ghế nhà trường, mà có thì giờ rảnh rỗi, tiền bạc để tiêu sài. Một văn hóa bao
quát hình thành xung quanh chúng.
Sự bất lực của người
cao tuổi để hiểu biết giới trẻ, niềm tin của giới trẻ là tuổi thanh xuân trường
cửu, sự không chấp nhận cái chết- những điều ấy hiện hữu trong tất cả xã hội
con người ở mọi thời đại.
Sự cách biệt giữa thế
hệ, với những bi kịch, các vai anh hùng và kẻ không phục thiện đã trở nên rắc
rối và phức tạp. Ở Phương Tây, nay người ta đã chấp nhận là thường tình hầu hết
mọi người có rất ít quan hệ xã hội ngoài người đồng tuế. Sự khởi đầu tốt lành
hay ít nhất vô hại, nhưng nay những yếu tố nuôi dưỡng những dị biệt giữa các
thế hệ bây giờ trở nên đen tối và đe dọa hơn, do đó, khoảng cách đang phát
triển thành 'vực thẳm ngăn cách'.
Khó khăn chính nhiều xã
hội Tây Phương gặp phải - như Đức, Anh Quốc, Nhật Bản, Ý, Tây Ban Nha, là dân
số không tự bổ xung, cho nên người già trở thành một gánh nặng ngày nay.
Một phần của phong trào
muốn tách ly, và ý thức về bản thân của thế hệ trẻ ở thập niên 1950 và 1960,
tượng trựng sự khinh khi đối với người già, ít nhất cũng là loại bỏ trí tuệ,
kinh nghiệm, một sự thoái hóa trong tương quan truyền thống giữa trẻ và già.
Những sự hiểu lầm ấp ủ,
những bức tường ngăn cách giữa già và trẻ đưa đến kết quả tạo thành nhiều mâu
thuẫn sâu xa trong tương lai. Đương nhiên sự xúc phạm của trẻ con với người già
đã là một vấn đề nghiêm trọng tại nhiều nơi trên thế giới. Những việc xẩy ra
như vậy, sẽ chắc chắn tăng trưởng theo thời gian, vì người già sống lâu nhờ các
phép lạ khoa học kỹ thuật, bởi thuốc men thần hiệu, bởi tất cả các máy móc làm
tuổi thọ gia tăng theo. Tuy nhiên phẩm chất về đời sống không được cải tiến
theo đà gia tăng dân số, cho nên khó khăn phát sinh.
Không khó khăn cũng
đoán trước được những hình thái trả đũa thù hận sẽ xẩy ra khi giới trẻ nhân
thức được họ sẽ phải lo cho phần "thặng dư" của dân số mà họ coi như
vô dụng, thải hồi, người bệnh, người không sinh lợi và người tàn tật. Đó là gánh
nặng càng ngày càng gia tăng mà xã hội miễn cưỡng phải gánh vác. Cho nên ta có
thể tưởng tượng những lý luận ủng hộ cho cái chết không đau đớn cho những người
tuổi quá cao đang ngày càng được đồng tình và người ta cũng ngày càng chấp nhận
phương pháp này. Vấn đề nhân khẩu học trước đây nhằm vào số trẻ em quá nhiều ở
thế giới thứ ba, nay đã chuyển sang những người già không muốn chết trong thế
giới phát triển. Người già đã nói họ sống quá lâu. Họ cần sự giúp đỡ để nhường
chỗ cho thế hệ kế tiếp. Có thể nối nhịp cầu người Già với người Trẻ bằng sự yêu
thương và hiểu biết!
Không cần phải có kinh
nghiệm bản thân trong một số sự việc để hiểu những sự việc này tốt hay xấu. Đây
là một sự tương đồng cho bạn để hiểu tình thế. Môt số cá muốn vượt qua cái ngăn
nước chỉ có một lỗ hổng nhỏ. Một cái hom người đánh cá để vào đó để bẫy cá. Một
số cá muốn vào hom để biết đó là gì, nhưng những con cá có kinh nghiệm khuyên
những con cái dại khờ kia đừng vào vì đó là một cái bẫy nguy hiểm. Cá trẻ hỏi
"Sao chúng ta có thể biết được cái đó có nguy hiểm hay không nguy hiểm?
Chúng ta phải vào và nhìn xem, chúng ta chỉ có thể vào mới biết đó là gì'. Cho
nên một số đã đi vào và mắc vào bẫy.
Chúng ta phải sæn sàng
chấp nhận lời khuyên nhủ của người trí như Đức Phật, bậc giác ngộ. Đương nhiên,
chính Đức Phật dạy chúng ta không nên chấp nhận giáo lý của Ngài một cách mù
quáng. Đồng thời chúng ta có thể nghe một số người khôn ngoan hay các bậc đạo
sư tôn giáo khác. Việc này đơn giản vì kinh nghiệm về đời sống trần thế của họ
sâu hơn kiến thức giới hạn của chúng ta.
Cha mẹ thường khuyên
các con làm điều này và không làm điều kia. Bởi cẩu thả không nghe lời khuyên
của người già, người trẻ làm nhiều điều theo đường lối suy nghĩ riêng tư của
mình. Kết quả khó khăn xẩy ra, họ mới nhớ đến người già, đến các bậc đạo sư để
được giúp đỡ và yêu cầu các vị đ?o sư tôn giáo cầu nguyện cho họ.
Chỉ khi việc xẩy ra
rồi, họ mới nhớ đến tôn giáo, và tìm phước lành và hướng dẫn. Nhưng họ không
nghĩ rằng mục đích chính của tôn giáo là giúp đỡ chúng ta theo một số nguyên
tắc cao thượng để tránh nhiều khó khăn trước khi phải đương đầu với các khó
khăn ấy. Giáo dục tôn giáo nhằm vào huấn luyện tâm, trau dồi những nguyên tắc
đạo lý phổ thông hỗ trợ đường lối sống của chúng ta trong hòa bình.
Con người được tạo hóa
phú cho trí thông minh. Từ lúc nhỏ đến tuổi thanh niên, nhận thức về đời sống
là nhận thức từ một cuộc sống cường tráng trẻ trung với những tư tưởng và mong
muốn cao ngạo. Khi tới tưổi trưởng thành, tuổi bắt đầu có lý trí hiện ra, và
với cái nhìn chín chắn, người đó nhận thức rằng tư tưởng không tưởng nhận định
lúc còn trẻ phải quẳng đi, và phải nhận thức lại đời sống đứng theo phối cảnh
thực sự của nó. Với tuổi càng cao, và với cái nhìn đời một cách chín chắn,
người đó thấy rằng cần phải thay đổi, và điều chỉnh lối sống cho thích hợp. Cả
đến những hoài bão không tưởng trong cuộc sống chất chứa trong lòng ở tuổi hoa
niên, sẽ phải chấm dứt với sự thay đổi thực tại. Chu trình đời sống không tránh
được như vậy ảnh hưởng đến con ngưới và các hoài bão của mình.
' Khi tôi còn trẻ tôi
mong muốn thay đổi thế giới.
Khi tôi lớn lên, tôi nhận thức việc đó quá nhiều tham vọng, và tôi phải thay đổi đất nước của tôi.
Như vậy, tôi nhận định khi tôi già hơn cũng quá nhiều tham vọng, tôi muốn thay đổi thành phố của tôi. Khi tôi nhận thấy tôi không thể làm được, tôi cố gắng thay đổi gia đình tôi.
Bây giờ là một người già, tôi hiểu phải bắt đầu nơi chính mình trước.
Nếu tôi thay đổi chính tôi trước, có lẽ tôi đã thành công trong việc thay đổi gia đình, thành phố, và có thể cả nước, và biết đâu, có thể là cả thế giới'.
Khi tôi lớn lên, tôi nhận thức việc đó quá nhiều tham vọng, và tôi phải thay đổi đất nước của tôi.
Như vậy, tôi nhận định khi tôi già hơn cũng quá nhiều tham vọng, tôi muốn thay đổi thành phố của tôi. Khi tôi nhận thấy tôi không thể làm được, tôi cố gắng thay đổi gia đình tôi.
Bây giờ là một người già, tôi hiểu phải bắt đầu nơi chính mình trước.
Nếu tôi thay đổi chính tôi trước, có lẽ tôi đã thành công trong việc thay đổi gia đình, thành phố, và có thể cả nước, và biết đâu, có thể là cả thế giới'.
Người thông minh nhất
và người ngu đần nhất cả hai đều không chịu thay đổi tâm mình. (Đức Khổng Tử).
Qua kiến thức sách vở
con người có đạt được mà không có kinh qua nhưng một số người trẻ nghĩ rằng họ
có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề. Khoa học có thể cung cấp vật chất để giải
quyết khó khăn của chúng ta, nhưng khoa học không thể giúp ta giải quyết nhiều
vấn đề của đời sống. Không có ai thay thế được người khôn ngoan có kinh nghiệm
cuộc sống. Hãy nghĩ về câu nói này:' khi tôi 18, tôi nghĩ cha tôi quả điên
khùng. Bây giờ tôi 28, tôi hết sức ngạc nhiên là người già đã học hỏi biết bao
nhiêu trong 10 năm!
Thực ra không phải
người cha đã học được mà là người trẻ đã học để nhìn sự vật trong đường lối
chín chắn hơn.
Hơn hai nghìn năm qua,
Đức Phật, Khổng Phu Tử, Lão Tử và nhiều những bậc đạo sư tôn giáo khác đã dạy
những lời khuyên tuyệt vời. Lời khuyên này chẳng bao giờ lỗi thời, vì căn cứ
vào chân lý, và lúc nào cũng vẫn hợp thời. Con người không thể nào vượt qua
được các khó khăn bằng cách không lưu ý đến trí tuệ của người xưa. Trí tuệ của
người xưa mở mang nhân phẩm, hiểu biết, hòa bình và hạnh phúc.
Cha mẹ vào tuổi già, thân hình ngày một yếu đi và
tàn tạ, làm cho họ không ngớt chịu bệnh não do hậu quả suy nhược của mỗi cơ
quan trong bộ máy tuần hoàn. Khi họ nhận thức đó là qui luật tự nhiên không thể
tránh khỏi, họ phải chấp nhận thực tế phũ phàng này.
Hiếu hạnh là một yếu tố
quan trọng trong việc săn sóc cha mẹ già theo truyền thống xã hội Á Châu. Là
người Á Đông, đã từ lâu, chúng ta có bổn phận chu cấp và phụng dưỡng cha mẹ già
tại nhà riêng của chúng ta theo khả năng.
Có phải theo luật định
người con có trách nhiệm phải trông nom cha mẹ già hay tàn tật không? Bất hạnh
thay câu trả lời là "Không". Đơn giản, cha mẹ chỉ biết trông vào
thiện chí của con cái. Mặc dù, chúng ta hãnh diện về giá trị của chúng ta, về
di sản văn hóa, bất hạnh thay một số người già không có tiền tiết kiệm, bị bỏ
rơi bởi gia đình, càng ngày càng đông tại Á Châu. Vấn đề là xét xem có phải giá
trị của chúng ta, gồm có hiếu thảo và tình thương yêu giữa cha mẹ và con cái
đang bị hao mòn vì sự tan vỡ của mối quan hệ và gia đình truyền thống, sự thay
đổi kinh tế và về nhân khẩu học.
Những căn phòng tù túng
và những phòng chật chội không phải là chỗ thích hợp cho những người già.Có rất
nhiều trường hợp các người già bị con cái và người thân cẩu thả không trông nom
săn sóc. Tính trạng đó thật đáng buồn, những giá trị và truyền thống đã không
còn đuợc thực thi nữa.
Những nhà (dành cho
những người lợi tức thấp và thất nghiệp) và môi trường chung quanh hầu hết
không phải là những chỗ thích họp cho việc cư ngụ của người già. Trong tất cả
những nơi cư ngụ chọn lựa, để người già trong các nhà dưỡng lão kiểu này chắc
chắn là giải pháp đưa đến mặc cảm tội lỗi về người con như vong ân bội nghĩa,
không tận tâm, hay bất hiếu và ruồng bỏ.
Nhà dưỡng lão, tuy có
đắt tiền, nhưng là nơi thích hợp nhất cho người già cư ngụ. Mỗi người phải tự
quyết định cho chính mình và phải hiểu không thể có một sự lựa chọn nào hoàn
toàn được. Trong khi việc đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão lâu dài là một giải pháp
không khỏi gây đau thương, rất cần thiết phải cung cấp sự săn sóc cho những cha
mẹ già yếu.
Để cha mẹ trong một
viện dưỡng lão, không có nghĩa là "tống cha mẹ già đi khỏi hẳn", ít
nhất cũng không phải như vậy. Gia đình vẫn chủ yếu trông nom săn sóc từ bước
đầu chọn viện dưỡng lão, thường xuyên liên lạc với ban giám đốc, thường xuyên
thăm viếng và cùng cha mẹ liên hệ giải quyết các vấn đề gia đình. Cha mẹ phải
được khuyến khích vui vẻ và hiểu rằng có nhiều người thật sự quan tâm đến mình.
Có một số người vô
trách nhiệm đem cha mẹ bệnh hoạn già cả vào khu hạng ba của một bệnh viện, để
lại địa chỉ sai, và trốn biệt tăm. Đó là một hành động cực kỳ tàn ác đối với
cha mẹ già của chính mình.
Thái độ đối xử cũng như
sự lo lắng săn sóc cha mẹ già thịnh hành nếu thế hệ già không bị ảnh hưởng trái
ngược bởi sự thay đổi xã hội-kinh tế mau lẹ về thành thị hóa và kỹ nghệ hóa.
Nên nhận thức rằng người già bị ảnh hưởng nhiều về những sự thay đổi này và sự
suy thoái về giá trị tinh thần đạo đức xã hội. Nó cũng bao gồm đường lối trách
nhiệm theo đó người già phải được đối xử, chăm sóc, kính mến và quý trọng.
Phương diện chăm sóc
người già cần đến trách nhiệm của toàn thể gia đình. Sự kính trọng người già
phải được duy trì vì không có một cơ sở nào chăm sóc người già bằng gia đình.
Trong nhiều bài thuyết
giảng, Đức Phật khuyên con cái nên triệt để lưu ý đến cha mẹ. Một câu ngạn ngữ
cổ nói: "Hãy hết sức chăm nom cha mẹ, bạn sẽ vô cùng thương tiếc khi cha
mẹ từ giã cõi đời"
Cờ bạc là đánh cuộc bằng tiền bạc hay phẩm vật quý
giá vào một trò chơi, thi đua hay một cuộc đấu. Tuy một số ít xã hội chấp nhận
cho cờ bạc, nhưng không một xã hội nào có thể trừ tiệt được cờ bạc.
Hy vọng kiếm tiền nhanh
dễ dàng là cái hấp dẫn người ta tìm đến cờ bạc. Nếu cờ bạc hấp dẫn ở chỗ thắng
được tiền thì sự hồi hộp của nó nằm trong sự rủi ro, nguy hiểm, người đánh cuộc
sẽ bị thua. Với đa số người, cờ bạc trở thành ghiền.
Những trò chơi liên hệ
chặt chẽ với cớ bạc dính líu đến yếu tố nặng về may mắn. Xét vì chơi bài xì
chẳng hạn, đòi hỏi phải chơi giỏi, kết quả trước tiên do sự chia bài. Nhiều
sòng bài, như quay số, chỉ có thể thắng được do may mắn. Đánh cá vào kết quả
của một trận đấu thể thao, nhất là về đua ngựa, hay về sổ số là một hình thức
của cờ bạc được hợp pháp phổ biến khắp nơi, một số chính phủ tạo các hệ thống
đổ các món tiền to lớn, giữ một phần vào việc tổ chức cờ bạc để kiếm lời. Đánh
cá về các trận đấu bóng tròn rất thịnh hành tại Phương Tây.
Cờ bạc không hạn chế
trong một giai tầng xã hội nào. Nhiều bà nội trợ được biết là những người cờ
bạc thường đã sao lãng bổn phận đối với gia đình và con cái khi họ đi sâu vào
thói xấu cờ bạc này. Họ đã đem cả tiền chợ để cờ bạc và trở nên con mồi của chủ
nợ cá mập cho vay nặng lãi lúc nào cũng sæn sàng ra tay "tế độ" cứu
vớt các phụ nữ bất hạnh này. Những bà đam mê cờ bạc đi đến độ làm hại cả sự
trong trắng của họ trước những kẻ tham tàn để có tiền gỡ.
Đam mê cờ bạc được coi
là bệnh, và những tổ chức gọi là Hội Chống Cờ Bạc Vô Danh được thành lập để
giúp đỡ các cá nhân đau khổ vì vấn đề này.
Cờ bạc bất hợp pháp là
một trong những ngành kinh doanh lớn nhất trong hiện tại, và tổng số thu nhập
của họ còn hơn cả tổ chức cờ bạc hợp pháp. Cờ bạc có thể trở thành nguyên nhân
của sự suy sụp của một người nếu ông ấy hay bà ấy đam mê cờ bạc theo như lời
dạy của Đức Phật.
Nhiều người ghiền cờ bạc và rượu chè mang công mắc
nợ để thỏa mãn thói xấu cờ bạc và rượu chè, làm như vậy họ rất dễ dàng rơi vào
nanh vuốt của chủ nợ cá mập cho vay nặng lãi vô lương tâm.
Nhiều chủ nợ hoạt động
có giấy phép thường tính lời cao về những số tiền họ cho con nợ vay. Mặc dù số
tiền cho vay thì nhỏ, nhưng họ bắt con nợ phải ký kết với một số tiền cao hơn
như một hình thức để bảo đảm. Trường hợp, người vay không trả được nợ, chủ nợ
sẽ đưa ra tòa án, họ bắt người vay ký kết giấy tờ với số tiền cao hon để làm
căn bản cho việc họ đòi nợ.
Những chủ nợ và những
con cá mập cho vay có giấy phép là nguyên nhân suy sụp của những người ghiền
rượu và cờ bạc vô kế khả thi, bọn này thường khai thác cái yếu kém cố hữu trong
con người nạn nhân. ' Miệng người say làm cạn túi tiền '- một câu châm ngôn nói
như vậy.
Cả đến những người tại
các xã hội giàu có cũng tìm đến những người cho vay như phương tiện để giải
quyết những khó khăn tài chánh. Những tài sản và đất đai có giá trị đôi khi
cũng đem cầm cho những người cho vay tiền như một hình thức bảo đảm tiền vay để
đầu cơ vào thương trường. Người vay không trả được, nhửng chủ nợ cho vay tiền
vô lương tâm không có mối e ngại gì mà không đưa ra tòa để đòi nợ. Luật lệ ấn
định cho phép tịch thu tài sản nguờì nợ để trả lại tiền vay, cùng với án phí. Một người không thiếu nợ ai là một
người hạnh phúc trong đời, đó là lời Phật dạy.
Nhiều thương gia nợ nần
quá nhiều, không thể tự giải quyết được, không còn giải pháp nào hơn là tự
tuyên bố vỡ nợ.
Những khó khăn của con người rất phức tạp và xẩy
ra bất thần trong nhiều phương cách. Từ khi sanh ra cho đến hơi thở cuối cùng,
biết bao nhiêu khó khăn chúng ta phải đương đầu. Không ai có thể tránh được mà
không đối đầu với các loại khó khăn. Đức Phật khuyên chúng ta phải hiểu biết
bản chất của các khó khăn của chúng ta nếu chúng ta muốn sống an lạc. Ngài cũng
khuyên chúng ta cân nhắc mục đích của cuộc đời và cố gắng tìm ra tại sao ta
không thỏa mãn với đời sống và thế giới. Nếu ta hiểu được những điều đó, chúng
ta không có gì phải đau khổ và quá mức sợ hãi, thất vọng và dao động.
Cách giải quyết cái khổ
của con người của Đức Phật là thiết thực và dựa trên kinh nghiệm chứ không phải
có tính cách lý thuyết hay trìu tượng. Không có con đường tắt để tránh khỏi các
khó khăn. Chúng ta phải trau dồi đường lối sống của chúng ta để khám phá ra
nguyên nhân của các khó khăn mà ta phải đương đầu. Chúng ta phải hiểu không có
cuộc sống nào mà không có khó khăn. Nếu muốn thực sự tự tại, chúng ta phải quan
sát các khó khăn của chúng ta bằng cách giảm thiểu lòng vị kỷ qua sự hiểu biết
tại sao các khó khăn ấy làm ta khổ sở.
Tất cả chúng ta đều
mong muốn có một đời sống như ý và an lạc nhưng bao nhiêu trong chúng ta có thể
đạt được hạnh phúc như vậy? Chúng ta mong muốn làm bất cứ việc gì có thể được
để được thỏa mãn, nhưng rất khó khăn đạt được sự thỏa mãn thực sự.
[05]
Khi gặp khó khăn, nhiều người trong chúng ta tìm
đến người khác để nghe lời khuyên của họ. Họ có thể khuyên chúng ta đi cầu
nguyện với một số thần thánh ở một ngôi chùa hay một chỗ thờ tự nào đó hay tụng
một vài câu chú hay thực thi một số nghi thức và nghi lễ.
Nhưng lời khuyên của Đức
Phật lại khác hẳn. Ngài chẳng bao giờ khuyên ai làm điều gì mà không điều tra
và phân tách các khó khăn để khám phá ra nguyên nhân chính của khó khăn đó là
gì. Cái lo lắng của chúng ta là khi chúng ta gặp khó khăn, do ngu si chúng ta
đau khổ vì sợ hãi, và chính chúng ta tạo ra nỗi sợ hãi vô cớ, tưởng tượng và
nghi ngờ. Sau đó chúng ta tìm lời khuyên ở người khác để xóa bỏ những tư tưởng
ấy đi.
Chẳng hạn, khi người ta
thất bại trong thương trường, họ lại cố gắng sử dụng ma thuật để đạt may mắn và
thắng lợi trong công việc làm ăn. Họ không cố gắng tìm ra sơ sót hay yếu điểm
gì dẫn đến thất bại và không nhận thức được những việc cầu xin như thế chỉ căn
cứ vào niềm tin dị đoan. Một số được gọi là 'thầy bói' hay chiêm tinh gia lợi
dụng cái ngu dốt của các người nhẹ dạ làm cho họ tin tưởng là những sức mạnh
tai họa đứng đằng sau sự không may của họ.
Đức Phật khuyên chúng
ta phát triển sự kiên nhẫn và hiểu biết, không tin vào niềm tin dị đoan, và tu
tập lối sống duy lý, không phí phạm thì giờ và tiền bạc vào những sự thực hành
vô nghĩa và chính mình cố gắng để vượt qua những điều đó một cách có suy nghĩ.
Thông thường chúng ta
không thể hiểu nguyên nhân gây khó khăn cho chúng ta vì lối suy nghĩ của chúng
ta không sáng suốt do bị che mờ bởi nghi ngờ và ảo tưởng. Do sự thiếu hiểu biết
chánh đáng mà mà không hiểu đúng nguyên nhân của vấn đề, do đó có cách giải
quyết sai lầm. Chúng ta cầu nguyện, dâng lễ vật, và phát nguyện vì nghĩ rằng sự
khổ cực của chúng ta là do sự chi phối của một lực lượng bên ngoài. Thực ra hầu
hết các khó khăn và lo lắng của chúng ta là do chính chúng ta tạo nên.
Chúng ta không cố gắng
phát triển một đường lối sống đứng đắn qua luân lý và mở mang tinh thần. Chúng
ta nghĩ rằng tôn giáo chỉ để cho chúng ta cầu nguyện và thi hành một số nghi
thức để quét sạch những khó khăn của chúng ta. Nếu chúng ta duy trì niềm tin
như vậy, sao ta có thể tập trung để tăng trưởng kiến thức và hiểu biết sự việc
đúng như bạn chất của nó?
Hầu hết chúng ta không
ý thức được rằng giá trị luân lý là gốc rễ của cây văn minh. Không có những rễ
ấy, lá sẽ phải rụng và bỏ lại cái cây chỉ còn lại gốc cây chết.
Ngày nay, chúng ta phát
triển đời sống theo một phương thức đến nỗi chúng ta không có thì giờ để dành
cho kỷ luật tự giác hay trau dồi nội tâm. Mặc dù chúng ta thừa thãi để thỏa mãn
nhu cầu vật chất như thực phẩm, nhà cửa và quần áo, tất cả chúng ta lại nghĩ
làm sao làm ra nhiều tiền và làm sao hưởng thụ lạc thú cho dù phạm đến quyền
lợi của người khác. Khi chúng ta gặp phải một số khó khăn, chúng ta bắt đầu càu
nhàu, tỏ nóng giận và tạo nhiều xáo trộn hơn nữa mà không hiểu là không thể
vượt qua được khó khăn bằng thái độ như thế.
Người ta đã tập trung nhiều vào dục lạc hơn là vào
an lạc và sức khỏe. Một số người lo lắng cho tương lai mặc dù có dư thừa trong
hiện tại. Họ lo lắng về bệnh tật, tuổi già, chết, tang lễ và cả đến thiên đường
hay địa ngục trong kiếp tới. Ngày ngày họ chứng kiến cái bất trắc của đời họ.
Họ chạy đi tìm kiếm thuốc chữa để chấm dứt những khó khăn của họ. Họ lo lắng
khi ho trở thành già cả. Họ lo lắng không đạt được điều mong muốn. Họ lo lắng
khi mất của cải hay người mà họ thương yêu. Sau đó họ khủng hoảng, rầu buồn,
tinh thần đau đớn, và đau khổ vì xáo trộn tinh thần và cuối cùng những thứ đó
biến thành cái đau thể chất. Qua suốt cuộc đời, họ tiếp tục tìm an lạc và hạnh
phúc cho đến khi chết cũng vẫn chưa tìm ra được giải pháp thực sự.
Vì không hiểu bản chất
thực sự của đời sống, chúng ta cố gắng duy trì cuộc sống sao cho không phải
trải qua thất vọng và thay đổi. Nhưng bản chất của đời sống là thay đổi. Đời
sống là một tập hợp các yếu tố và năng lực lúc nào cũng thay đổi và chúng ta
không bao giờ được thỏa mãn. Đôi khi chúng ta cảm thấy đời sống không thuận với
chúng ta. Khi những yếu tố và năng lực không quân bình, chúng ta thấy khó chịu,
bệnh, đau đớn và nhiều khó khăn khác. Khi năng lượng tinh thần bị xáo trộn,
chúng ta thấy khó khăn tinh thần. Sau đó những cơ quan và các tuyến cũng thay
đổi chức năng của chúng, ảnh hưởng đến sự tuần hoàn của máu, hóc-môn
(hormones), tim và các tế bào óc.
Chúng ta có thể tránh
các khó khăn ấy nếu chúng ta hiểu sự mâu thuẫn trong cơ thể và sống một cuộc
đời thuận theo lực tự nhiên tạo thành cuộc sống vật chất của chúng ta.
Ngày nay nhiều người sống một cuộc đời trái tự
nhiên mà không biết đến sự nguy hiểm của nó. Những khó khăn mà chúng ta tạo nên
là do thái độ điên dại gây nên bởi lòng bị cám dỗ. Bình dị làm cuộc sống êm
trôi. Nhiều người trong chúng ta nhân thức và chứng nghiệm như vậy chỉ khi đã
về già.
Thí dụ, chúng ta có một
cái hố sâu 100 feet (mỗi foot + 30 cm 48 ) và chúng ta để than đốt ở dưới đáy.
Chúng ta lấy một cái thang và yêu cầu từng người xuống hố. Những người xuống
đầu tiên không phàn nàn chi cả cho đến khi họ xuống sâu chừng 30 đến 40 feet.
Qua 50 đến 50 feet, họ cảm thấy sức nóng, họ càng xuống sâu hơn đến từ 70 đến
80 feet, gần đến than cháy, họ có cảm giác bị phỏng. Cũng giống như vậy, người
trẻ không thấy khổ não măc dù Đức Phật dạy đời là khổ. Nò cũng giống như khi
giải thích nếu chúng ta có nhiều kinh nghiệm hơn trong cuộc sống, chúng ta sẽ
nhìn rõ sụ thật về khổ đau hơn. Ý nghĩa thực sự của khổ đau là chứng nghiệm
tính chất bất toại nguyện trong mọi sự vật.
Chúng ta hãy xét đến gia đình chúng ta. Có bao
nhiêu gia đình sống trong sự hiểu biết và tinh thần tương ái? Nơi đây chúng ta
nghĩ đến không những gia đình của chúng ta mà những gia đình sống chung quanh
chúng ta. Chúng ta có thể mời cả thế giới vào phòng chúng ta qua truyền hình
nhưng chúng ta không muốn mời người láng giềng bên cạnh chúng ta vào nhà để nói
chuyện thân ái với họ. Chúng ta không có thì giờ để nhìn tận mặt những người
thân trong gia đình nhưng chúng ta đã bỏ ra nhiều giờ để nhìn những người xa lạ
trên màn ảnh truyền hình. Ngay trong phạm vi gia đình chúng ta không có thì giờ
để nhìn tận mặt những người thân với nụ cười tuy chúng ta cùng sống dưới một
mái nhà. Làm sao ta có thể đoàn kết và có hạnh phúc trong những gia đình như
vậy? Sư kiện đáng buồn này là thái độ cư xử lạ lùng rất thường thấy trong xã
hội hiện đại.
Một số người sao lãng
người thân trong gia đình sau ngày cưới. Đó không phải là cuộc sống thực sự.
Chúng ta nên duy trì một cộng đồng sống bằng cách giúp đỡ lẫn nhau và bằng cách
hỗ trợ tinh thần cho những ai cần đến sự giúp đỡ. Mặc dù con vật không giúp đỡ
lẫn nhau như con người, nhưng con vật sống chung, đôi khi bảo vệ nhóm chúng hay
những con vật nhỏ chống kẻ thù và những con vật còn non bao giờ cũng theo những
con vật già.
Dường như ngày nay
chúng ta sống không phải thực sự là con người. Chúng ta đã đi trệch hướng rất
xa đường lối tự nhiên của đời sống. Do đó tại sao chúng ta phải đương đầu với
nhiều khó khăn và chúng ta cảm thấy cô đơn. Chúng ta phải hiểu rằng có những
khó khăn do tự nhiên và không có cách chi có thể thoát khỏi được. Cũng có nhiều
khó khăn khác do tâm tạo, kết quả của ảo tưởng, vô minh và vị kỷ của con người.
Cả đến những người có học cũng không sử dụng một
các thông thái kiến thức của mình khi họ thực hành dị đoan dưới danh nghĩa tôn
giáo. Hãy cố gắng quét sạch tinh thần yếu đuối đó bằng cách củng cố tâm trí và
phát triển lòng tự tin. Rồi chúng ta có thể vượt qua nhiều trong những khó khăn
và trong hầu hết các trường hợp, những khó khăn tưởng tượng sẽ dễ dàng biến đi.
Theo một số niềm tin
tôn giáo, có một thượng đế chịu trách nhiệm tất cả những việc tốt lành xẩy ra
cho chúng ta, và nếu có điều gì sai trái là do quỷ thần làm ra. Đối với chúng
ta, đó không phải là một niềm tin có sức thuyết phục.
Hầu hết chúng ta không
cố gắng hiểu tại sao chúng ta không hạnh phúc, và sao chúng ta không thỏa mãn
với đời sống, và ai là người chịu trách nhiệm tình trạng đó. Đức Phật dạy rằng
chúng ta chịu trách nhiệm chính về mỗi hành động của chúng ta dẫn đến toại
nguyện hay bất toại nguyện.
Ngoài tất cả những khó
khăn mà ta chịu trách nhiệm, trực tiếp chịu ảnh hưởng, chúng ta còn tạo ra
những khó khăn chia rẽ nhân loại, tạo ra những vấn đề như kỳ thị chủng tộc, tôn
giáo quá khích, kỳ thị văn hóa và truyền thống, ngôn ngữ, màu da, độc tôn và tự
tôn tự ti bởi nghĩ rằng người theo tôn giáo khác là kẻ thù, và bị coi là phạm
tội khi ủng hộ hoạt động của tôn giáo khác. Họ không bao giờ nghĩ rằng những
tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cũng đều cố gắng phục vụ nhân loại và không làm
hại người khác. Những khó khăn như trên đậy đã gián tiếp góp phần vào cảm nghĩ
bất toại nguyện của chúng ta.
Mục đích của tôn giáo là hướng dẫn nhân loại, phát
triển đoàn kết, một cuộc sống hòa hợp, trau dồi đức tính và tinh thần thanh
tịnh . Thế mà, tôn giáo lại dùng để gây xáo trộn các tôn giáo khác, phát triển
ganh ghét hay thù địch. Ngày nay người ta không dùng tôn giáo để bảo vệ hòa
bình mà để xáo trộn và thù hận người khác. Sự cao ngạo không lành mạnh này cùng
với sự cạnh tranh tôn giáo đã tạo ra bạo động và đổ máu ở nhiều nơi trên thế
giới này,
Đồng thời trong khi
trân trọng tưởng tượng và quan niệm của mình như niềm tin thực sự như là một
phần của văn hóa và truyền thống, một số nhà tôn giáo lại chế diễu văn hóa và
truyền thống tôn giáo khác. Trong niềm tin và phương pháp tu tập mà họ giới
thiệu thực sự là tôn giáo, họ quảng bá tư tưởng ích kỷ mong cầu lợi dưỡng vật
chất, quyền hành chính trị và tự tôn vinh.
Cách xử thế có thể định nghĩa là cách đối xử thích
đáng để sống tốt đẹp trong xã hội. Vì nhiều lý do xác đáng, một số truyền thống
được truyền thừa, và chỉ một số người không đầu óc mới coi là vô giá trị việc
tuân theo những luật lệ hướng dẫn các quan hệ xã hội của chúng ta. Goethe khôn
ngoan nói:' Một người thực sự sống chỉ khi người ấy tìm thấy nguồn vui trong
thiện chí của người khác' Câu phương ngôn cổ xưa 'Cách xử thế tạo nên con
người' vẫn còn đúng ngay cả đến ngày nay.
Những tiêu chuẩn mà
chúng ta coi như cách xử thế tốt đẹp khác biệt ở từng dân tộc và từng cộng
đồng. Chúng ta khám phá thấy những tính chất đặc biệt về cách xử thế và tập tục
thịnh hành tại các xã hội khác khi chúng ta ra nước ngoài. Chúng ta không nên
vội vàng có thành kiến về cách xử thế và tập tục của người khác mà quyết định
cái đó thích hợp hay không thích hợp. Cách xử thế chính nó chẳng tốt mà cũng
chẳng xấu, nhưng khi chúng gây cảm nghĩ xấu cho người khác, thì có thể coi như
cách xử thế xấu.
Chúng ta sống trong một
thế giới luôn thay đổi. Chúng ta không nên mù quáng bám níu vào các truyền
thống, tập tục, cách xử thế, nghi thức và nghi lễ mà cha ông thực hành hay đã
áp dụng theo niềm tin và điều kiện thịnh hành trong thời đại đó. Một số tập tục
và truyền thống truyền thừa từ tổ tiên của chúng ta có thể tốt, trong khi cũng
có một số không hẳn là hữu ích. Chúng ta hãy xét một cách vô tư xem chúng có
thích hợp và xác đáng cho thế giới hiện đại hay không?
Trong cộng đồng Trung
Hoa, họ nhấn mạnh đến việc kế tục truyền thống gia đình và tôn trọng trí tuệ
của người cao tuổi. Thờ cúng tổ tiên có từ rất lâu đời (có từ hai nghìn năm
trước Công Nguyên). Đời sống cần thiết là việc gia đình, bao gồm tụng niệm và
dâng lễ vật trước bàn thờ nhỏ và trong am miếu thờ tổ tiên, với một hệ thống
soạn thảo tỉ mỉ về chôn cất và tang chế, lễ nghi, thăm viếng mộ phần như dấu
hiệu lòng tôn kính sâu xa. Theo đạo đức, đức hạnh trước nhất là hiếu thảo- một
bổn phận phải phục vụ và kính trọng cha mẹ và các bậc tiền bối không vì sợ hãi
hay lợi lạc. Tôn kính như vậy đưa đến kết quả đoàn kết mạnh mẽ trong gia đình.
Đức Khổng Tử rất quan tâm với việc tôn kính trí tuệ của người cao tuổi. Kính
trọng người cao tuổi là một truyền thống cổ xưa ở Ấn Độ và một số quốc gia.
Mặt khác hạnh kiểm tốt
như tử tế, kiên nhẫn, độ lượng, thành thật và khoan dung cũng không thể diệt
trừ được một số khó khăn vì người xảo quyệt có thể lợi dụng đức tính tốt của
người khác. Cho nên những đức tính tốt phải được thực hành một cách khôn ngoan.
Những nhân viên phúc
lợi xã hội đang cố gắng quét sạch những khó khăn nhân loại. Nhưng sự đóng góp
của họ chỉ giảm thiểu được một số khó khăn của nhân loại. Một số người khác cố
gắng giải quyết những khó khăn của nhân loại bằng cách phân phát của cải và lợi
tức của quốc gia đồng đều cho dân chúng trong xã hội gọi là xã hội chủ nghĩa.
Dường như phương pháp của họ cũng chẳng mấy hữu hiệu trong việc giải quyết khó
khăn của nhân loại, và đã thất bại ở một số quốc gia, vì vị kỷ, xảo trá, biếng
nhác và nhiều nhược điểm khác có thể làm xáo trộn tình hình. Giáo dục khoa học
hiện đại thực ra đã tạo nhiều khó khăn hơn là vận động cho hòa bình, hạnh phúc,
và an ninh. Chính phủ cố gắng duy trì hòa bình và trật tự bằng cách trừng phạt
những ai không tuân theo luật pháp. Nhưng trên khắp thế giới, hành động tội lỗi
và vô luân lan tràn nhanh chóng.
Những người kém hiểu
biết tìm đến bùa ngải, ma thuật, thần thông siêu nhiên và bùa chú để vượt qua
các khó khăn. Nhưng không một ai biết họ đã có thể đạt được gì qua niềm tin và
thực hành như vậy.
Một số dùng phương pháp
bạo lực để giải quyết các khó khăn. Một số khác lại giải quyết khó khăn bằng
cách cải thiện đời sống qua viện trợ tài chính.
Một số các nhà chức
trách tôn giáo, mặt khác cố gắng giải quyết các khó khăn bằng cách minh họa
quan niệm thiên đường để cám dỗ, và làm cho sợ hãi bằng cách dọa họ về lửa địa
ngục.
Dù sử dụng phương pháp
nào đi nữa để tránh các khó khăn, họ vẫn càng phải đối đầu với nhiều khó khăn
mới trong đời sống hàng ngày. Nguyên nhân của tình trạng này là do tâm trí
không được huấn luyện, và tham dục vị kỷ hay những điều kiện bất trắc của thế
giới.
Khi chúng ta nghiên cứu
đời sống người nguyên thủy, chúng ta có thể thấy người nguyên thủy, đối đầu
tương đối ít khó khăn. Những khó khăn này hầu hết chỉ là nhu cầu sống. Nhưng
ngày này trong xã hội gọi là văn minh hiện đại, nhiều khó khăn không phải là
chỉ do lòng ham muốn để được tiếp tục sống mà vì chúng ta đi tìm nhiều dục lạc.
Nhiều người cho rằng mục đích của đời họ chỉ để thụ hưởng.
Chúng ta thường tạo các khó khăn mới trong khi
đang giải quyết các khó khăn hiện tại. Nếu những khó khăn mới không đáng kể,
chúng ta cố gắng chịu đựng và làm điều chúng ta có thể nhẹ bớt buồn đau. Chẳng
hạn khi chúng ta bị bệnh loét dạ dày, chúng ta bị đau, chúng ta đi bác sĩ khám
bệnh. Nếu Bác Sĩ nói ta cần phải được giải phẫu, chúng ta sæn sàng chấp nhận sự
việc nếu chúng ta muốn lành bệnh. Vì chúng ta biết không có một giải pháp khác
nữa, chúng ta quyết định đối đầu với khó khăn mới là sự giải phẫu để trừ cái
đau hiện tại. Rồi chúng ta sæn sàng chịu đựng cái đau và cái khó chịu trong
cuộc giải phẫu nghĩ rằng cuối cùng không còn đau nữa.
Cũng giống như vậy,
chúng ta muốn chấp nhận một số khó khăn hay đau đớn để vượt qua khó khăn to lớn
hiện tại. Do đó, đôi khi chúng ta phải đối đầu với khó khăn với nét mặt vui
tươi. Chúng ta không thể vượt qua các khó khăn hiện hữu mà không phải đối đầu
với các khó khăn mới hay không phải hy sinh môt thứ gì. Nhưng có môt điều rõ
ràng là không thể giải quyết tất cả những khó khăn của chúng ta vì khó khăn như
những làn sóng. Khi làn sóng này tan đi, nó tạo thành một lực cho làn sóng khác
nhô lên. Đôi khi sự có đi có lại cũng giúp giải quyết khó khăn.
Đức Phật đã chủ trương
một phương pháp có ý nghĩa và thực tiễn trong việc giải quyết các khó khăn.
Ngài không cho ta môt giải pháp vá víu chỗ này chỗ kia đơn giản để thỏa mãn
chúng ta vào lúc ấy. Ngài dạy chúng ta phuơng cách phải đi sâu vào gốc rễ vấn
đề và tìm ra nguyên nhân chính của nó. Phương pháp của Ngài không phải chỉ để giảm
thiểu triệu chứng của khó khăn giống như một số thuốc men chỉ để loại bỏ triệu
chứng bệnh mà không chữa lành bệnh. Nếu một thứ thuốc hay loại giảm đau công
hiệu trong một lúc nào đó, nó bao giờ cũng kèm theo một hay nhiều tác dụng phụ
có hại.
Khi chúng ta bị đau
bụng hay nhức đầu nặng, chúng ta uống thuốc giảm đau. Chúng ta cảm thấy dễ chịu
hơn một lúc, rồi cơn đau trở lại. Thí dụ chúng ta có một vết thương hết súc đau
đớn trên cơ thể. Sau khi thoa đủ mọi thứ thuốc, vết thương lành . Khi một bác
sĩ hay một người nào đó hỏi ' bây giờ bạn cảm thấy thế nào?', chúng ta trả lời:
'chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn nhiều'. Nhưng chúng ta có thể định nghĩa từ ngữ
'dễ chịu hơn' không? Ta có thể chứng minh cảm nghĩ dễ chịu hơn như thế nào
không? Đây có nghĩa là không còn đau nữa. Về bất cứ điều gì trên thế giới này,
khi chúng ta nói cảm thấy dễ chịu, hay khá hơn là chỉ nói cho người khác biết
không còn khó khăn vào thời điểm đó. Khi chúng ta nói chúng ta cảm thấy dễ
chịu, chúng ta phải hiểu cảm giác dễ chịu đó không lâu dài vì khi những hiệu
quả của thuốc giảm đau không còn tác dụng nữa thì chúng ta lại bị đau trở lại.
Đó là bản chất của đời sống. Phương pháp của Đức Phật để đạt hạnh phúc vĩnh
viễn là nhổ tận gốc rễ khó khăn chứ không phải chỉ tạm thời kìm nén chúng. Đương
nhiên, một số người nói rằng thật khó khăn thực hành lời Phật dạy, vì nó không
làm cho giảm đau ngay. Đức Phật dạy nguyên nhân khổ đau mọc rễ thâm sâu cho nên
chúng ta phải có các biện pháp mạnh mẽ mới nhổ vĩnh viễn dược chúng để chúng
không bao giờ có thể trở lại được nữa.
Vê câu hỏi làm sao có
thể tận diệt hết được các khó khăn, Đức Phật trả lời:' Khi môt người khôn
ngoan, gìn giữ luân lý (giới), mở mang tâm trí và chánh kiến, một người hăng
hái và khôn ngoan như vậy tự gỡ được rối rắm'. Một người chuyên cần và hiểu
biết, bởi nhận thức được bản chất thực sự của cuộc sống, phát triển đạo đức và
hạnh tự kỷ. Giới có nghĩa là kỷ luật trong ý, lời nói và hành động theo giới
luật. Một người chuyên cần và khôn ngoan, biết cách phải đối đầu với các khó
khăn như thế nào và làm sao để vượt qua chúng. Nơi đây Đức Phật khuyên chúng ta
phải lương thiện, chuyên cần và hành động khôn ngoan nếu chúng ta muốn giải
quyết những khó khăn. Không có một phương pháp nào khác có thể đem đến giải
pháp cuối cùng cho những khó khăn của chúng ta.
Hệ thống giáo dục hướng nghiệp hiện đại đào tạo
các học sinh trang bị được nhiều kiến thức học thuật hơn nhưng cũng phát triển
lòng vị kỷ. Hệ thống đó tạo ra người tài giỏi mà không phát triển tinh thần đạo
đức cho họ. Những người như vậy không quan tâm đến người khác hay đến thế giới
miễn là họ được mức lợi lạc vật chất. Qua xảo quyệt và áp dụng phương pháp khoa
học để đạt ham muốn vị kỷ, chính họ càng ngày càng lo âu.
Con người ích kỷ tham
đắm lạc thú hơn tất cả chúng sinh khác. Họ vui sống cuộc đời trần tục và lạc
thú nhục dục không nghĩ đến phúc lợi của người khác hay sự sống còn của các
loài khác. Họ muốn sống lâu để hưởng khoái lạc. Họ phát triển lòng tham tài sản
mà họ tích lũy và sợ chết vì không muốn ra đi bỏ lại các tài sản này trong khi
các chúng sanh khác không có các tư tưởng ích kỷ như vậy. Những chúng sanh này
chỉ sử dụng ý thức của họ để sinh tồn và sống một cuộc đời thiên nhiên không
làm hại người khác . Có câu nói rằng chỉ con người mới tích lũy nhiều hơn số
lượng thực phẩm mà họ có thể ăn được. Tất cả những con vật khác chỉ lấy cho đủ
để được sống mà thôi. Cái gì chúng không cần thì chúng không lấy và để cho kẻ
khác. Ngày nay, chúng ta không quan tâm cả đến sự nghỉ ngơi mà say mê đến mức
độ chúng ta trở thành nô lệ cho lòng ham muốn được tự mãn.
Có người hỏi Euthanasia nghĩa là gì? Từ này khởi nguyên từ
danh từ ghép của Hy Lạp: eu có nghĩa là tốt, và thanathox có nghĩa là chết. Ghép lại với nhau từ
này có nghĩa là một cái chết xứng đáng không đau đớn.
Người ta đã bàn luận
nhiều đến việc có nên hợp pháp được chết (cho phép người bệnh được tự tử với sự
giúp đỡ của bác sĩ) là giết người hay giết người để chấm dứt sự đau đớn. Lập
luận của phía ủng hộ hợp pháp nói rằng con người có thể chết trong vinh dự,
phẩm giá và tình thương.
Khi một người trong gia
đình hay một người thân bị bệnh trầm trọng và phát triển các dấu hiệu phức tạp
gây ra sự bất tỉnh khó thay đổi được, người đó sống trong tình trạng hôn mê,
hay bộ não đã chết làm cho gia đình buồn đau và lo âu trong việc săn sóc và
nuôi dưỡng người bệnh- một gánh nặng cho gia đình phải chịu đựng bằng sự can
đảm phi thường và sự kiên cường.
"Người bệnh trong
tình trạng hôn mê" là từ ngữ diễn đạt mới được sử dụng trong y khoa.
" Tình trạng hôn mê" nảy sanh do sự hư hoại nặng nề của bộ não khiến
bệnh nhân không thể động đậy, nói và nuốt. Nhưng bệnh nhân vẫn còn thở và tim
vẫn đập không cần thiết bị trợ giúp. Nếu có cử động thì những cử động cũng chỉ
là do sự phản ứng hơn là hành động do bệnh nhân điều khiển.
Vì kỹ thuật kéo dài đời
sống ngày càng tiến bộ, xã hội bắt buộc phải đương đầu với câu hỏi căn bản: Bao
giờ, đúng lúc nào, đời sống chấm dứt? Trong khi hầu hết ai cũng đồng ý bộ não
không hoạt động tức là chết, trong giới y khoa và công chúng đã có những tranh
cãi về tình trạng hôn mê của bệnh nhân.
Sự chẩn đoán "bệnh
nhân trong tình trạng hôn mê" theo Đại Học Y Khoa Hoàng Gia Anh Quốc là
một bệnh nhân đã ở trong tình trạng này sau 12 tháng. Về thuật ngữ mô tả một
người đau đớn trong điều kiện này, không may từ 'vegetative' lại được lựa chọn
vì con người được sáng tạo khác hẳn cây cỏ hoàn toàn.
Xác thân chết, nhưng có
đời sống sau khi chết. Niềm tin này được cả đến triết lý gia Plato tin tưởng
tuy ông cũng không có tư tưởng gì khám phá ra tôn giáo từ trên hai nghìn năm
qua.
Thêm vào sự không cử
động được và không giao tiếp được với thân quyến trông nom mình, những người
bất hạnh này đau khổ chịu đựng sự đàm tiếu khinh khi vì bị đối xử như cỏ cây.
Và tệ hại hơn nữa, trong một số trường hợp, theo lời yêu cầu của thân nhân,
người bệnh không được tiếp tế chất dinh dưỡng. Người thân cho như vậy để cho
người bệnh chết. Số người khác coi là như vậy để bệnh nhân đói đến chết.
Chắc chắn, có một bài
học nơi đây cho tất cả chúng ta. Đời sống vô cùng quý giá và không thể bào chữa
được khi lấy đi mạng sống của một người. Đương nhiên, chúng ta có bổn phận canh
chừng và cố gắng làm cho ông ấy hay bà ấy khỏe lại, hay nếu không thể được thì
ít nhất cũng có thể làm cho người bệnh được an ủi chừng nào tốt chừng nấy.
Có một sự khác biệt hẳn
trên nguyên tắc giữa sự chấm dứt đời sống của một người đồng loại và sự loại
hay giảm thiểu sự đau đớn, để cho người bệnh được an ủi và giữ phẩm giá đến hơi
thở cuối cùng. Đời sống thiêng liêng và ai cũng đáng được kính trọng.
Có phải một người thực
sự đã chết khi người đó trong tình trạng hôn mê và các cơ quan chính không còn
hoạt động bởi máy móc hay loại gì đó? Kỹ thuật y khoa tiến bộ và những phương
pháp tân tiến trong thế kỷ này đã đưa đến một sự khó xử trong nhiều trường hợp,
săn sóc những bệnh nhân hôn mê bất tỉnh không hồi phục được, thường được biết
là bộ não đã chết.
Trước khi có những tiến
bộ, khi tim và phổi không hoạt động, bộ não cũng chết ngay sau đó. Tương tự như
vậy khi não không hoạt động, tim và phổi cũng không hoạt động ngay sau.
Trong khi quan điểm y
khoa ít nhiều giải quyết như vậy, hậu quả hợp pháp của những hành động hay
không hành động của bác sĩ trong những trường hợp như vậy thì bác sĩ hành động
hay không hành động trong những trường hợp như thế sẽ phải xét xử thế nào vẫn
còn là vấn đề tranh cãi. Những bác sĩ này có có bị kết án giết người hay ngộ
sát khi tắt máy dưỡng khí trong trường hợp vô vọng không?
Chết không đau đớn, hay
nói một cách thô thiển ' giết để chấm dứt khổ đau', thường được hiểu là hành
động nhân từ chấm dứt đời sống của một người bị bệnh không thể chữa nổi. Về
phương diện pháp lý hay đạo lý hành động đó bị cấm với loài người. Trong khi
luật cho phép bác sĩ ngưng chữa bệnh, bác sĩ không được phép dùng thuốc giết
người hay tiêm thuốc để chấm dứt m?ng sống của bệnh nhân. Cách giải quyết như
vậy cũng bị coi là bất hợp pháp ngay cả khi nó phát xuất từ ý tưởng nhân đạo
muốn chấm dứt sự đau đớn cho người bệnh.
Tất cả những việc làm
trên không có nghĩa là kéo dài sự sống bằng bất cứ giá nào khi nó rõ ràng đã
đến lúc chấm dứt. Cho phép một người chết ngụ ý xác nhận bệnh tình vô phương
cứu chữa và người đó được phép chết bình thường trong an lạc và phẩm giá. Không
được có một hành động cố ý phá hoại mạng sống. Đúng hơn là không dính líu vào
việc chũa trị nữa vì biết sự chữa trị không thể thực hiện được. Trong khi chúng
ta phải kính trọng ước nguyện và quyền được chết của một người, chúng ta không
nên giúp người đó chết hay tự tử.
Xét về luật pháp việc
ngưng máy trợ tim hoạt động có thể phù hợp với nhiệm vụ săn sóc của bác sĩ
không có nghĩa là, vì lý do chính trị bác sĩ có nhiệm vụ cho bệnh nhân môt mũi
tiêm giết người để cho bệnh nhân không còn đau đớn.
Theo luật định một
người chịu trách nhiệm săn sóc một người khác không thể chăm sóc được chính
mình, thí dụ một em bé hay một người yếu ớt, trở thành người chịu trách nhiệm
vì giết người hay ngộ sát vì đãng trí thì cũng giống như trước đây. Trong khi
chúng ta nên hoan nghênh kỹ thuật y khoa và việc sử dụng các máy móc, như thuốc
' vi diệu', cấy ghép các bộ phận cơ thể, máy lọc máu vân vân.., chúng ta nên
coi chừng tuột xuống dốc vào cái thung lũng chết "không đau đớn'.
Tháo máy trợ tim sau
khi bộ não đã chết, không phải quá đáng mà nói rằng đó là vấn đề chung của bác
sĩ và người thân nhất của người bệnh sắp chết. Câu hỏi đặt ra là: Có phải tốt
hơn là để cho chết mau trong trường hợp vô vọng bằng cách tháo máy này với
người bệnh không? Một ý nghĩ đến ngay trong tâm trí là: làm sao ta có thể chắc
chắn là tình trạng đó vô vọng? Những điều kỳ diệu vẫn có thể và xẩy ra, tuy
nhiên rất hiếm. Dù đúng hay không, ta chỉ có thể kết luận một cách an toàn là
có nhiều những huyền bí không thể giải thích nổi trên thế giới này. Đó là một
vấn đề đã làm bối rối phương đông từ nhiều năm.
Phật Giáo không ủng hộ
cái 'chết không đau đớn' vì hai lý do. Thứ nhất mỗi chúng sanh là kết quả
nghiệp của mình trong quá khứ và bất cứ sự can thiệp nào vào tình trạng của
mình cũng sẽ chỉ là tạm thời làm cho bớt đau đớn mà người đó phải chịu. Lý do
thứ hai kết tội sự ủng hộ nhầm lẫn cho cái chết 'không đau đớn' liên quan đến
người giết và hành động giết. Hành động giết dù bất cứ động cơ nào thúc đẩy,
cũng vẫn liên quan đến việc ngăn chia đời sống với xác thân một cách chủ ý
chống lại sự cấu tạo tự nhiên con người theo năm yếu tố: năng lượng tinh thần,
năng lượng nghiệp, trật tự thời kỳ phôi thai, trật tự thời gian, và và trật tự
hiện tượng thiên nhiên. Cảm nghĩ biến thành hình thức ác cảm đối với sự đau đớn
được mục kích. Người đó che đậy cảm nghĩ thật sự của mình làm như đó là một
hành động tinh thần đáng ca ngợi, và tự mình bào chữa và cho là hợp với lẽ
phải. Nếu người đó hiểu tâm lý của chính mình hơn, sức mạnh của sự ác độc ngủ
ngầm xuất hiện ngay sau khi phạm hành động giết.
Tuy nhiên không cấm
việc sử dụng thuốc an thần hoặc các biện pháp làm người bệnh giảm đau. Việc làm
cho người bệnh bớt đau đớn bằng bất cứ phương tiện gì, và tạo bầu không khí
lành mạnh để chữa trị đáng được ca ngợi. Tất cả những ai góp phần làm giảm đau,
phục vụ người bệnh cần ý thức rõ rằng công việc của họ không chỉ là vấn đề học
thuật hay nhân từ, mà là liên kết với chân lý, một phương pháp tâm lý loại trừ
ích kỷ, ác cảm, và ảo tưởng.
Tự tử là một hành động cố ý và tự ý lấy đi mạng
sống của chính mình. Tự tử rơi vào hai loại, tục lệ hay cá nhân. Loại thứ nhất
xẩy ra do kết quả của truyền thống và lực của quan niệm quần chúng. Thí dụ như
hara-kiri, tự tử bằng cách mổ bụng bởi của người Nhật Bản khi bị nhục.
Tự tử cá nhân là loại
điển hình trong thời hiện đại. Lý thuyết thông thường chấp nhận tự tử là kết
quả của sự thất bại không thích ứng đời sống của mình được với những căng thẳng
trong cuộc sống.
Tự tử là môt cách để
giải quyết những loại khó khăn riêng tư- cô đơn, ghét bỏ, ham muốn, trả thù, sợ
hãi, đau đớn thể xác, cảm nghĩ tội lỗi vân vân... Đàn ông tự tử nhiều hơn đàn
bà, và ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, phụ nữ ít thành công hơn nam giới vì không
biết cách tự tử hay vì sự cảm xúc khác biệt.
Đa số những người tự tử
đều chán nản ngã lòng. Sự tác động cao nhất xẩy ra nơi những người thất vọng
kèm theo một cảm nghĩ đầy vô vọng và mất hẳn sự quan tâm hay hứng thú trong các
hoạt động. Thêm vào, những người già, lẻ loi, ly dị. hay góa, và nhất là những
người ghiền rượu, ma túy, có nguy cơ nhất. Những người không nhà cửa cũng tự tử
nhiều hơn người khác.
Mặt khác, thanh thiếu
niên tự tử là một vấn đề lo ngại. Từ những năm 1950, tỷ lỷ lệ của hạng người
này tăng gấp đôi ở những nam giới đã trưởng thành. Tuy nhiên vì nhiều lý do,
việc này không xẩy ra với phụ nữ.
Một số chuyên viên cảm
thấy thanh thiếu niên tự tử do sự phức tạp và căng thẳng của đời sống hiện đại.
Được biết những chuyện bi thảm trên truyền hình và những tin tức mới về tự tử
làm gia tăng con số thanh thiếu niên tự tử. Thất nghiệp và áp lực thành đạt
cũng là những yếu tố.
Có một số dấu hiệu quan
sát thấy, gồm có rút lui không giao du bè bạn và các hoạt động thường lệ, không
để ý tới dung mạo, thay đổi hẳn trong thói quen ăn ngủ, lạm dụng ma túy và
rượu. Một số thanh thiếu niên biểu lộ ý định của chúng rõ ràng. Chúng không còn
thích những của cải sở hữu hay nói:' Tôi không còn vấn đề gì nữa cả'. Hành động
tự tử thường do sự mất mát tình cảm như đoạn tuyệt vời người tình hay gia đình
ly dị.
Cho nên, khi bạn thấy
một trong những dấu hiệu thay đổi trên về cách cư xử - bạn phải đặc biệt quan
tâm đến- bạn nên lập tức nói chuyện những điểm không hạnh phúc của đứa con với
nó. Chẳng hạn, hỏi nó cụ thể và trực tiếp là nó định làm gì. Mổ sẻ những điều
ấy ra có thể giảm thiểu nỗi lo âu của nó, và nó sẽ cảm thấy nó được bạn hỗ trợ.
Chỉ như vậy rồi bạn mới có thể đi thẳng vào vấn đề hoặc tìm những nhà chuyên
môn giúp đỡ nếu cần thiết.
Tính chất dễ dãi của xã
hội hiện đại ngụ ý khoan hồng dối với cách cư xử sai lệch có thể là một phần
làm gia tăng các hành động tự tử, nhất là tự đầu độc.
Thái độ của xã hội đối
với việc tự tử đã ít nặng nề hơn về đạo đức và hình phạt. Bây giờ người ta đã
sæn sàng hiểu biết hơn là kết tội, nhưng khuynh hướng che giấu các hành động tự
tử vẫn còn.
Hành động tai hại tự tử
gây nên những phản ứng buồn đau và cảm nghĩ tội lỗi về phần những người cảm
thấy có thể ngăn ngừa bằng cách chăm sóc và thương yêu nhiều hơn mà họ đã làm.
Không thỏa mãn được dục vọng và không làm được điều mình muốn là nguyên nhân
những vụ tự tử. Không có tôn giáo nào tha thứ hành động ác độc này.
Điện thoại hiện nay
dùng làm phương tiện truyền thông giũa những người lẻ loi và thất vọng có ý
nghĩ quyên sinh, và tìm sự hỗ trợ và khuyên nhủ của những người quan tâm trong
xã hội. Cũng giống như những Hội Vô Danh Giúp Đỡ người ghiền rượu, và những tổ
chức tương tự khác, những người tình nguyện phục vụ như cố vấn đêm ngày và cơ
quan của họ sæn sàng giúp đỡ các trường hợp muốn tự tử bất cứ lúc nào. Bằng
chứng cho thấy các loại phục vụ này đã thực sự ngăn ngừa được các vụ tự tử trên
một mức độ rộng lớn.
Tinh thần không quân bình mà chúng ta coi như nổi
điên là một khó khăn to lớn khác. Vi phạm con đường đạo đức của đời sống, con
người xáo trộn an lạc và hạnh phúc của chính mình và người khác. Rồi mang nhiều
việc xẩy ra bên ngoài vào tâm, thì càng nhiều khổ sở, kích động, sợ hãi và bất
an được tạo ra.
Nhiều người phải đau
khổ vì khủng hoảng và suy nhược thần kinh vì không huấn luyện tâm trí để duy
trì sự vừa lòng. Họ chỉ phát triển lòng tham dục về lạc thú nhục dục. Với họ
phát triển có nghĩa là phát triển lòng tham dục.
Kết quả là họ phát
triển sự tranh đua không lành mạnh và bạo động. Cho nên họ đã đảo lộn thế giới
vào một tình trạng hỗn loạn. Sau rồi mọi người kêu gào hòa bình. Người ta kết
tội thượng đế hay ma quỷ đẩy họ vào lầm than. Họ cầu nguyện và van vái để thoat
khỏi những khó khăn do chính họ tạo ra.
Bây giờ chúng ta có thể
hiểu ai là người thực sự tạo khó khăn và ai có thể vượt qua được những khó khăn
ấy. Đức Phật dạy thế giới ở trong chính bạn. Khi bạn tự ghép mình vào kỷ luật,
toàn thế giới sẽ có kỷ luật và hòa bình sẽ được duy trì. Không cần thiết phải
cầu xin hòa bình từ những người khác. Tốt hay xấu, hòa bình hay bạo động, tất
cả hiện hữu do tâm được huấn luyện hay không được huấn luyện.
Từ căng thẳng mượn từ vật lý và kỹ thuật xây dựng,
có nghĩa đúng là: một lực đủ lớn để bóp méo hay làm biến dạng. Trong chữa trị
bệnh tinh thần, căng thẳng là những phản ứng thể xác và tinh thần của một cá
nhân đối với áp lực của môi trường xung quanh và ở trong chính mình. Có hai
loại bị căng thẳng chính là: bị căng thẳng vì mất người thân, công việc làm,
hay lòng tự trọng phát xuất khi mức độ hoài vọng của một con người qúa cao; và
một loại bị căng thẳng là do những sự đe dọa đến địa vị, mục tiêu, sức khỏe và
an ninh của một cá nhân. Tình trạng bị căng thẳng trở thành một phần không thể
tránh được trong đời sống, và làm cho người ta luôn luôn bị khích động. Khi nó
xẩy ra, quá sức chịu đựng, gây đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần.
Tình trạng bị căng
thẳng nguyên do một trong những yếu tố gồm có, sự thay đổi, cả tốt lẫn xấu, khó
khăn cá nhân, khó khăn về thể chất, đau yếu vân vân... Nguồn gốc thông thường
là do: cái chết của vợ chồng, hay bạn thân, ly thân, ly dị, khó khăn về tình
dục, thay đổi chỗ ở, con cái bỏ nhà ra đi, mang thai, cầm cố nhà cửa, bị đuổi
việc, thất nghiệp, thay đổi trách nhiệm trong việc làm hay không hài lòng với
chủ nhân.
Mỗi quãng đời của con
người có một tình trạng căng thẳng riêng. Lúc bắt đầu vào đời, đứa trẻ phải đối
đầu trực tiếp với người thân trong gia đình, những đòi hỏi của nhà trường, phải
điều chỉnh cho thích hợp với cá tính của thầy giáo và các bạn trẻ khác nên có
thể bị căng thẳng cũng như những vấn đề trai gái trong tuổi thanh xuân sau này.
Rồi tiếp đến những căng
thẳng học thuật của những năm tại đại học, và sự lo âu về việc chọn nghề. Sau
đại học hầu hết gặp khó khăn trong những năm đầu sau khi lập gia thất. Những
khó khăn này rất nghiêm trọng và thường dẫn đến sớm ly dị. Những vấn đề có con
cái là gánh nặng cho phụ nữ, trong khi người đàn ông lại nặng về nghề nghiệp.
Một số bệnh do tình
trạng bị căng thẳng gồm có bệnh lở loét dạ dày, đau bên đầu, phiền muộn, áp
huyết cao, đột quị, và ngất sỉu do tim. Bị căng thẳng liên tục sẽ làm suy yếu
hệ thống miễn nhiễm làm giảm sự hữu hiệu trong việc đối kháng sự nhiễm trùng.
Một số nhà hữu trách cho bị căng thẳng, quá sức và kinh niên có thể phát thành
bệnh ung thư.
Trong thời gian bị căng
thẳng, cơ thể tiết ra tầng đợt chất hóa học ở não, và chất hormones gồm có cả
chất adrenaline và hydrocortisone, những chất này tác động được biết như phản
ứng của sự "chiến đấu hay chạy trốn". Adrenaline làm tăng nhịp tim và
nhịp thở, xác thân sæn sàng chống cự lại với sự đe dọa bên ngoài, hay không
chống nổi. Hydrocortisone giúp chống căng thẳng. Như vậy khi ta nghe một tin
buồn trong điện thoại, phản ứng cúa ta tức khắc bị tác động bởi chất
adrenaline, kế theo bởi sự tiết ra tiết ra chất hydrocortisone gia tăng .
Chất hormones giúp ta
đối đầu với tình trạng bị căng thẳng trong một thời gian ngắn, tuy nhiên có thể
gây ra khó khăn sức khỏe nếu chúng ta tiếp tục bị lâu dài căng thẳng. Bị căng
thẳng không ngớt làm xác thân tiết ra chất adrenaline và hydrocortisone thường
xuyên, và đồng thời những chất đó trong mạch máu có thể gây xói mòn. Mức độ
adrenaline ở mức độ kéo dài và cao, chẳng hạn, buộc tim và phổi phải làm việc
quá giờ, và giữ áp huyết cao hon mức độ thường. Trong thời gian này, những sự
thay đổi ấy có thể làm thành strokes (đột quị) hay bệnh tim.
Lo âu là cảm nghĩ sợ
sệt, căng thẳng hay khó chịu khi ta phải đối đầu với nguy hiểm. Chúng ta đều
phải đối đầu với lo âu để thi hành tốt một nhiệm vụ khó khăn, nhưng thái quá
làm ta có thể trở thành bất lực. Rối loạn lo âu gây thành nhóm thông thường
nhất bệnh thần kinh, gồm có ám ảnh sợ hãi, lo sợ bị tấn công, và bị rối loạn
căng thẳng hậu chấn thương. Nhiều người bị ám ảnh sợ hãi như sợ hãi một vật gì
hay một tình trạng đặc biệt nào đó. Ám ảnh lo sợ rất thông thường, chiếm khoảng
3% dân số.
Ám ảnh sợ được định
nghĩa như ám ảnh, cố chấp, không thực tế, sợ hãi triền miên một đồ vật hay tình
trạng nào đó. Đa số ám ảnh sợ hãi là chứng sợ độ cao, sợ không gian giam hãm,
sợ hãi phải xa gia đình hay ở chỗ đông người, và sợ người lạ. Những người này
có khuynh hướng tránh tình trạng có đông người để khỏi bị bẽ mặt hay bối rối.
Mất ngủ, hay khó ngủ, thường thấy ở nhiều người trong nhiều hoàn cảnh khác
nhau. Trên thực tế, trên 10% người gặp khó khăn về vấn đề ngủ. Nếu ta phải đối
đầu với công việc tạm thời có hạn định thời gian, hay dưới nhiều áp lực, ta có
thể lo lắng cho nên mất ngủ. Cơ thể chúng ta ưa thích hoạt động theo thường lệ,
cho nên những công nhân làm theo ca gặp khó khăn điều chỉnh giấc ngủ.
Một số người, đặc biệt
những cựu chiến binh, có thể đau đớn từ cái gọi là hậu chấn thương biến cố
trong chiến tranh như những tiếng nổ bởi đạn trái phá và sau các trận đánh,
thường phát triển phản ứng căng thẳng lâu dài. Những triệu chứng xuất hiện hay
gia tăng sau khi chấn thương đã qua từ lâu. Người đó có thể bị những chứng như
ý nghĩ lộn xộn, thấy quá khứ như hiện tại, ký ức hãi hùng hay những cơn ác
mộng. Người đó cũng có thể hết sức cáu kỉnh hay lo lắng, và rất dễ dàng hoảng
hốt. Vào lúc đó người đó hình như co mình lại, không còn để ý gì đến những điều
thường thích truớc đây, cảm thấy lẻ loi xa những người khác.
Điều tốt nhất có thể
đối trị căng thẳng hay tình trạng căng thẳng trong đời sống hàng ngày hiển
nhiên quan trọng là: ăn uống điều độ, ngủ đủ, vận động hàng ngày, và dành thời
gian giờ vào các việc mà mình thích. Không hút thuốc, uống rượu hay các chất ma
túy khác. Người dễ bị thất bại và tinh thần nhậy cảm căng thẳng, có thể tìm
cách giảm thiểu phản ứng bằng cách học nghỉ ngơi, thiền định, và học phương
pháp thay đổi tính tình.
Năng lượng tinh thần đặc biệt hay trí tuệ mà con
người có được không thể tìm thấy ở những chúng sanh khác. Tuy nhiên năng lượng
tinh thần này hoang dại, phóng túng, nó cần phải được huấn luyện và kiểm soát
mới đem lợi lạc cho chúng ta. Nếu không, tâm trí sẽ là nguồn gốc chính của
những khó khăn. Khi tâm trí được kiềm giữ đúng qua sự huấn luyện chuyên cần,
thì hòa hợp, hiểu biết và hòa bình sẽ chiếm ưu thế và chúng ta có thể thi hành
những hành vi rất lương hảo không những cho chính chúng ta mà còn cho người
khác. Chúng ta hãy lấy thí dụ về một thác nước lớn. Chúng ta hãy tưởng tượng năng
lượng to lớn phí phạm như nước chảy từ trên hàng ngàn bộ cao trên sườn núi cao.
Nhưng khi con người kiểm soát được năng lượng ấy và biến chúng thành điện, dân
chúng được lợi lạc từ năng lượng ấy. Nhưng nhớ rằng, cả đến khi tâm trí được
huấn luyện, chúng ta áp dụng dù biện pháp ngăn ngừa nào để tránh bất toại
nguyện trong đời sống của chúng ta, luật vũ trụ vô thường vẫn thay đổi mọi thứ
trên thế giới này. Đó là bản chất của cuộc sống. Mọi thứ hiện hữu đều thay đổi
và tan rã theo nhũng điều kiện trần thế. Sự phối hợp của các yếu tố, năng lượng
và sự hiện hữu tạo ra vật mà chúng ta có thể nhìn thấy, sờ thấy, khiến cho ta
ảo giác về sự vững chắc và thường còn. Nguyên nhân của sự thay đổi là sự ma sát
của các yếu tố và năng lượng. Khi một vật nhìn thấy tan và theo thời gian, đó
là sự phân hủy của yếu tố và năng lượng được hợp thành. Năng lượng không mất,
nhưng biến đi chuyển thành dạng thức khác và tiến trình tiếp tục vô tận. Đó là
hiện tượng thiên nhiên và mỗi vật hợp thành (do duyên hợp) đều được tạo nên
bằng cách đó. Không có lý do gì để chúng ta coi hiện tượng trên là sự tạo ra
một chúng sinh siêu phàm hay đó là kết quả của một tội lỗi nguyên thủy bị trừng
phạt. Người Phật Tử coi đó là một hiện tượng tự nhiên. Nhưng nhiều người coi
tình trạng này là một khó khăn vì những sự thay đổi và vô thường không thỏa mãn
lòng ham muốn một cuộc sống vĩnh cửu. Tính bất toại nguyện của đời sống bắt đầu
khi chúng ta nhận thức được đời sống bất diệt khác ở thiên đàng hay trong địa
ngục, là điều không thể có được.
Năng lực của xác thân
chúng ta cũng là một phần của lực vũ trụ ảnh hưởng đến những yếu tố và năng
lượng trong phạm vi thân thể chúng ta. Một số khó khăn vật chất và tinh thần
cũng do những ảnh hưởng này. Một số lực khác cũng nhiễu loạn đời sống của chúng
ta mà người ta coi đó gây ra bởi ma quỷ. Sợ hãi, tưởng tượng, nghi ngờ, và dị
đoan, lúc nào cũng nuôi dưỡng niềm tin như vậy để nhiễu loạn tâm trí. Khi tâm
trí bị nhiễu loạn, chúng ta phải đau đớn thể xác.
Tuy nhiên, khi tâm trí
chúng ta được huấn luyện kỹ càng và mở mang qua sự hiểu biết, chúng ta có thể
ngăn ngừa những khó khăn ấy nảy sinh.Cho nên Đức Phật dạy "Tâm là kẻ tiền
phong của tất cả trạng thái thiện và ác, tốt và xấu vì những trạng thái tâm ấy
là do tâm tạo ra'" Thực ra chúng ta đau khổ vì những khó khăn, những khó
khăn này là kết quả của những ảo giác của chúng ta. Bằng cách theo lời khuyên
của Đức Phật, chúng ta có thể đoạn trừ sợ hãi và vô minh.
Một vấn đề khác mà người dân phải đối đầu ngày nay
làm thế nào khi cái chết đến với người thân của mình, kể cả cha mẹ. Chúng ta
phải hiểu rằng chết xẩy ra tự nhiên, ta càng thương cha mẹ già của ta bao nhiêu
ta lại càng phải hiểu rằng theo sinh vật học, tế bào trong con người có một đời
sống giới hạn. Thời điểm đến khi những tế bào ấy không thể tự đổi mới được. Khi
tuổi già đến mức cùng cực, những tế bào mất khả năng giữ quân bình tiến trình
phá hủy và sửa chữa, và không giữ cơ thể mạnh khỏe được.
Lịch sử con người chẳng
có gì khác ngoài cách làm sao chạy trốn khỏi cái chết. Nhiều văn hóa khác nhau
đã cố gắng tìm cách chạy trốn khỏi cái chết bằng các đường lối khác nhau.
Tâm cần một cuộc sống
vĩnh viễn nhưng đời sống lại tạo xác thân vật chất vô thường và ta gọi đó là
đời sống. Sau đó sự bất toại nguyện đó xáo trộn tâm.
Với những người có một
sống lâu và hạnh phúc tương đối, có sự tu tập vững vàng do huấn luyện, cái chết
sắp xẩy đến là một hiện tượng tự nhiên với họ. Khi thời điểm đến, người sắp
chết trở nên điềm tĩnh, từ bỏ thế giới này một cách bình thản, tin là mình đã
sống một cuộc đời không hại ai, đã đóng góp vào sự tiến bộ cho nhân loại. Nơi
có những niềm tin thâm sâu và văn hóa thuần khiết, quan niệm cái chết không
tránh được, là phần tự nhiên của vòng đời được chấp nhận. Tại những xã hội đó,
người ta chấp nhận với triết lý đó là sự không thể tránh khỏi này và bao giờ
cũng đối xử với thái độ đàng hoàng bình thản.
Loài người là chúng
sanh duy nhất có thể hiểu được một ngày nào đó phải đương đầu với cái chết. Cho
nên tại sao chúng ta không cần thiết phải lo lắng về việc đó. Lo âu về cái chết
không thể ngưng nó lại được, vậy nên tại sao ta không chấp nhận nó một cách
bình tĩnh? Văn hào Shakespeare viết Julius Caesar nói:
' Trong tất cả những kỳ
diệu mà tôi đã nghe và thấy. Đối với tôi dường như rất lạ lùng là con người sợ
hãi (cái chết). Vì cái chết ấy, sự chấm dứt cần thiết, sẽ đến khi nó phải đến'.
Mặt khác có những người
không mảy may quan tâm khi chấm dứt cuộc đời hay cái gì sẽ xẩy ra sau đó. Tuy
nhiên, một số đông không những lo lắng về những khó khăn hiện hữu mà còn lo
lắng về kiếp sau. Tất cả những chúng sanh khác đều không có cảm nghĩ đó.
Chúng ta phải hiểu rằng
dù ta áp dụng phương pháp nào để vượt qua những khó khăn, chúng ta không thể
nào được hoàn toàn thỏa mãn trong đời sống cho đến khi tâm ta được huấn luyện
và giảm thiểu ham muốn vị kỷ. Giáo lý của Đức Phật trình bày rõ ràng để ta hiểu
bản chất những khó khăn nhân loại, làm sao khắc phục chúng, và làm sao đối đầu
với cái chết mà không sợ hãi.
Hãy nhớ câu nói giản dị
trong Phật Giáo: ' Đời sống mong manh nhưng cái chết là điều chắc chắn' . Chết
không phải là chấm dứt đời sống. Thực ra, chết chỉ là sự bắt đầu của đời sống
và sanh là sự bắt đầu của cái chết. Mặt trời lặn tại xứ này lại mọc tại xứ
khác. Cho nên sanh và chết tương quan liên hệ lẫn nhau.
Sanh của con người là cái
sanh phiền não. Càng sống lâu bao nhiêu thì lại càng trở nên đần độn bấy nhiêu.
Cay đắng làm sao, người đó sống cho cái mà không bao giờ đạt được. Cái ham sống
trong tương lai khiến người đó không thể sống trong hiện tại '. (Trang Tử)
Đức Phật nhắc nhở chúng
ta tất cả mọi thứ hiện hữu đều vô thường. Có sanh là có tử; có mọc lên thì có
tàn lụi, có xum họp thì có chia lìa. Làm sao có sanh mà không có tử? Làm sao có
sum họp mà không có chia ly?
Sanh và tử là hai đầu
của cùng một sợi dây. Chúng ta không thể lấy đi cái chết và chỉ để lại cuộc
sống. Đầu tiên con người tranh đấu để tránh cái chết. Sau đó người đó sửa soạn
cho cái chết. Thực ra chúng ta không sống mà vật lộn để sống. Cái đó gọi là
sống.
NHỮNG LỜI PHẬT DẠY -
(KINH PHÁP CÚ)
Không vì mình, cũng không vì người mà người trí
làm bất cứ điều gì sai trái; không nên cầu con trai, giàu có, vương quốc bằng
việc sai trái; không nên cầu mong thành công của mình bằng những phương tiện
bất chính. Được vậy mới thật là người đạo đức, trí tuệ và ngay thẳng. - 84
Sống trăm tuổi mà phá
giới buông lung, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà trì giới, tu hành. -110
Kẻ ác cho là vui lúc
việc ác chưa chín; đến khi việc ác mang trái, kẻ ác mới nhìn thấy kết quả tội
lỗi. -119
Người thiện cho là khổ
khi việc lành chưa chín; khi việc lành mang trái, người thiện mới nhìn thấy kết
quả tốt. -120
Kẻ làm hại người không
làm hại ai, thanh tịnh và vô tội, tội ác sẽ quay trở lại kẻ ấy như bụi bay
ngược gió. -125
Kẻ muu cầu hạnh phúc
cho mình mà lại dùng gậy gộc phá hoại hạnh phúc người khác, sẽ không được hạnh
phúc. -131
Khi kẻ ngu dại làm điều
sai quấy, kẻ đó không hiểu bản chất của tội lỗi; bởi hành vi của chính mình kẻ
ngu dại đó bị dau khổ giày vò, giống như người bị lửa đốt . -136
Kẻ lấy gậy gộc hãm hại
người lương thiện không gậy gộc, do hành vi tội lỗi của chính mình không bao
lâu phải chịu một trong những thống khổ sau: thân thể bị đau đớn, bại hoại,
hoặc bị trọng bệnh, tán tâm loạn ý, b? bức bách hay bị kết trọng tội, hoặc bị
quyến thuộc ly tán, tài sản tan nát, hoặc bị lủa cháy. Ngay khi xác thân bị hủy
diệt, con người ngu dại ấy sẽ sanh vào các cõi đau khổ. -138, 139, 140
Nếu tự biết thương
mình, ta nên bảo vệ mình bằng cách gìn giữ tâm ý. Trong mỗi ba thời, người trí
phải luôn tỉnh thức. -157
Tội lỗi gây ra tự nơi
mình, và cũng tư nơi mình gây ra ô trược. Tự mình không gây tội lỗi, và cũng tự
mình thanh tịnh lấy mình. Thanh tịnh hay không thanh tịnh do chính nơi mình.
Không ai có thể thanh tịnh người khác được. -165
Người nào trước làm
điều tội lỗi, nay biết làm lành, người như vậy là người chiếu sáng thế gian như
vừng trăng ra khỏi mây mù. -173
Sung sướng thay ta sống
không hận thù giữa những người thù hận; giữa những người thù hận, ta sống không
hận thù. -197
Người thắng chuốc thù
oán, kẻ bại sống trong đau khổ. Chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống đời hạnh phúc
an vui. -201
Từ ái dục nảy mầm lo
âu, từ ái dục nảy mầm sợ hãi, người xa lìa ái dục không còn lo âu, chẳng còn sợ
hãi. -216
Lấy tình thương thắng
nóng giận. Lấy hiền lương thắng bạo tàn. Lấy bố thí thắng san tham. Lấy chân
thật thắng dối trá. -223
Như rỉ sinh ra từ sắt,
rồi lại trở lại ăn sắt, cũng vậy, hành vi ác của chính người đó sẽ dẫn người đó
vào cõi thống khổ. -240
Không lửa nào bằng lửa
ái dục, không cố chấp nào bằng sân hận, không lưới nào bằng lưới ảo tưởng,
không sông nào bằng sông tham dục. -151
Thấy lỗi người thì dễ,
thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người, ta sàng như sàng gạo để phanh phui, còn lỗi
mình, ta cố che giấu như kẻ cờ gian bạc lận che giấu quân bài. -252
Người sợ cái không đáng
sợ, không sợ cái đáng sợ, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa. -317
Lỗi biết rằng lỗi,
không lỗi biết rằng không lỗi. giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy chẳng xa.
-319
Nếu không có bạn đồng
hành khôn ngoan sống với bạn, người hiền lương và trí tuệ hãy giống như vua bỏ
nước loạn, nên sống một mình như con voi sống trong rừng voi. -329
--
Kinh Pháp Cú
MÙA VU LAN PHẬT LỊCH 2543, 1999
Tỳ-Kheo Thích Tâm Quang
Chùa Tam Bảo, Fresno, California
Tỳ-Kheo Thích Tâm Quang
Chùa Tam Bảo, Fresno, California
-ooOoo-
Đại Lão Hòa-Thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda,
Trưởng Lão Tăng Già Mã Lai Á, phục vụ Phật Giáo Mã Lai trên 42 năm trong các
chức vụ như một vị lãnh đạo tinh thần, một học giả, một cố vấn và một thiện
hữu. Ngài sanh ngày 18 Tháng Ba Năm 1919 tại làng Kirinde, tỉnh Matara phía nam
Sri Lanka (Tích Lan).
Ngài khởi đầu việc học hành theo nền giáo dục
thế tục khi Ngài được 7 tuổi và tuy còn nhỏ Ngài đã phát triển mối quan tâm đặc
biệt đến Phật giáo. Được sự giúp đỡ của một người cậu là Sư Trưởng tại ngôi
chùa địa phương và người mẹ tận tâm của Ngài, Ngài thọ Sa Di giới vào năm 12
tuổi. Ngài được đặt pháp danh là "Dhammananda" có nghĩa là
"Người chứng nghiệm hạnh phúc qua Phật Pháp" .
Sau mười năm tu học chuyên về giáo lý Đức Phật,
năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn bằng Ngôn Ngữ Học, Triết Lý, và Quy Tắc Pali
Viện Đại Học Vidyalankara Pirivena.Ngài tốt nghiệp Cao Học Triết Lý Ấn Độ năm
1949 tại Viện Đại Học Beneres (Ba-Lã-Nại).Sau khi phục vụ 3 năm tại Sri Lanka,
Ngài được tuyển chọn đi hoằng Pháp tại Mã Lai.
Vào các thập niên 50 và 60, Phật Giáo bị giới
trí thức Trung Hoa tại Mã Lai coi rẻ và nghĩ rằng Đạo Phật chỉ là mê tín dị
đoan. Qua Hội Truyền Bá Giáo Lý Phật Đà, Ngài đã phát hành các tài liệu, các
loại sách về mọi phương diện của Phật Giáo và kết quả một số đông đã nhận thức
được giáo lý chân chính của Đức Phật. Ngài đã phát hành các cuốn sách rất phổ
thông như "Người Phật Tử Tin Gì", "Làm Thế Nào Để Sống Khỏi Sợ
Hãi và Lo Lắng", "Hạnh Phúc Lứa Đôi", "Nhân Loại Tiến Về
Đâu" và "Thiền Định - Con Đường Duy nhất".
Tuy không phải là một nhà truyền giáo hùng
biện, nhưng Ngài đã thành công cảm hóa tư tưởng của cả giới thanh niên lẫn trí
thức với một lối trình bầy Giáo Pháp của Đức Phật một cách rõ ràng, đơn giản và
khoa học. Ngài nhận được các Văn Bằng Tiến Sĩ Danh Dự của nhiều Đại Học trên
thế giới và được vua Mã Lai ân thưởng tước vị Johan Setia Mahkota. Ngài cũng
có, như Đức Phật mô tả, Bẩy Đức hạnh cao quý của một Đại nhân trong Kinh Sakha
Sutta (A.N. 4:31):
- Ngài là người đáng yêu, đáng kính trọng, học
thức, là một cố vấn, một người nhẫn nại chịu nghe, thâm trầm trong đàm luận, và
không bao giờ cổ xúy một cách vô căn cứ.
No comments:
Post a Comment