Friday, November 8, 2013

HỒI KÝ KẺ BỊ KHAI TRỪ CỦA NGUYỄN MẠNH TƯỜNG - KỲ 5

Giáo Sư Luật Sư NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
1      2     3      4      5      6
CHƯƠNG 9: SỬA SOẠN CHO CHUYẾN ĐI KHÔNG CÓ NGÀY VỀ
Điểm đặc trưng dễ phân biệt của chính quyền Việt Nam là họ không bao giờ cho người trong cuộc thanh trừng biết những biện pháp dành cho họ. Họ có nhiều cách để thực hiện ý muốn của mình. Mặt Trận không còn mời tôi dự những phiên họp của họ. Đại Học lấy lại chiếc xe đạp công vụ mà họ đã cấp cho tôi để đi đến lớp giảng. Các Toà Án gửi trả lại cho tôi những lá thư uỷ nhiệm luật sư. Tôi hiểu là tôi đã bị loại khỏi mọi chức việc, đã trở thành một thứ cùi hủi, một người hạ đẳng, một kẻ bị mất phép thông công! Vì thế, tôi đành phải tìm quên trong triết học để trám đầy những giờ khắc bị buộc phải nhàn cư rỗi rảnh, để tránh phải trùm kín đầu, đeo cái chuông lúc lắc kêu vang báo cho người trên đường phải tránh không đụng tôi.
Tôi bắt đầu suy niệm bằng một câu khá nổi tiếng “mens agitate molem” (Tinh thần làm chuyển động vật chất). Khi còn trẻ, tôi nghĩ ngược lại và cho rằng thành ngữ ấy là do một anh trí thức hoặc quá cuồng nhiệt kiêu căng tự đại cho rằng mình là trên hết mọi sự dù rằng hắn chẳng phải như thế, hoặc là hắn đang trải qua một cuộc khủng hoảng mất niềm tin và đang cố vượt qua một tự ti mặc cảm đang lớn dậy trong bản thân. Tư tưởng hay trí tuệ, vì bản chất là phi vật chất thì không thể tác động trực tiếp lên quần chúng vì quần chúng là một dạng vật chất với một sức mạnh toàn diện và nó chỉ có thể là đối tượng bị tác động và chịu ảnh hưởng từ một khối quần chúng khác. Trong mọi xung đột giữa tư tưởng và vật chất, sự đối kháng của bên này đối với bên kia sẽ được giải quyết bằng sự chiến thắng của vật chất. Chính trong nghĩa này mà chủ nghĩa Marx xác tín rằng quần chúng nhờ sức mạnh vật chất của mình là người làm nên lịch sử. Nhưng quần chúng không làm nên lịch sử nếu chỉ biết sử dụng những phương tiện bạo lực của vật chất. Trong chuyện tàn phá, hay ngay cả trong xây dựng, quần chúng luôn phải nhờ đến những khả năng của trí tuệ để hướng dẫn mình cho cả hai lúc: huỷ diệt và xây dựng. Từ đó tư tưởng xen vào ảnh hưởng lên sự vận động của quần chúng. Chỉ có lúc đó, tư tưởng mới thật sự làm chuyển động quần chúng.
Nhưng tư tưởng chỉ có thể làm chuyển động quần chúng khi nó tiến hành những động thái xuất phát từ những cái nhìn sâu sắc về thực tiễn để rút tỉa, suy diễn ra cái logic của quần chúng. Tốt hơn nữa, khi quần chúng được giáo dục tốt, tư tưởng sẽ tiếp tục nhiệm vụ của mình mà gìữ vững hướng đi đúng. Vì thế người ta thấy có những những kẻ gây kích đông và những chính trị viên tiến hành đấu tranh chống lại sự thất học chính trị, gia tăng cố gắng theo dõi những sai lệch đề nhằm đưa quần chúng trở về con đường tư tưởng chính thống thẳng tắp. Và người ta có thể thấy một cảnh tượng vĩ đại trong đó quần chúng đang bày tỏ niềm tin trước một thứ đạo giáo mang tên chủ nghĩa Cộng Sản, tạo nên một khối đồng nhất sau lưng Đảng, hoàn toàn tin tưởng vào những gì Đảng khẳng định, vào chính sách và đường lối của Đảng. Chưa bao giờ người ta thấy tư tưởng lại đạt được một chiến thắng trên vật chất như thế. Sự cuồng tín của quần chúng đã đạt được một mức hiểm ác, dù trên thực tế có những vụ việc thảm khốc đã xảy ra là những chứng cớ về mức độ trầm trọng của những sai lầm đã phạm, kinh tế bị xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân đã gia tăng, phần lớn nhân dân, kể cả những người cộng sản chân chính nhất, vẫn tiếp tục tin vào lời hứa của Đảng là sẽ phục hồi đất nước và sẽ nhanh chóng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội mà thế giới không còn ai tin và chính ngay những nước cộng sản trước đây cũng đã dứt bỏ. Và đây là cái nguy bị rơi xuống vách đá của những người đang đứng bên bờ vực. Từ đó, vấn đề nêu ra là chuyện nhồi sọ chính trị cho quần chúng biến họ thành cận thị hay làm cho trí thông minh của họ trở nên mù mụ, là biểu hiện của thứ con người lành mạnh hay không lành mạnh?
Cái gì đã sản sinh ra những vụ kinh hoàng và đầy tai tiếng, những điều quái gở bệnh hoạn của một tư tưởng chính trị? Đó là sự biến dạng của con người, của một thứ thói quen trí não chỉ biết thấy một phần của thực tiễn, thui chột trong khả năng đánh giá phán đoán, tinh thần phê phán bị bóp chết, và những sinh hoạt tâm linh bị giới hạn với sự phê chuẩn vô điều kiện của lãnh đạo và dưới sự kết án không thương tiếc của những kẻ gièm pha, và hoàn toàn bất chấp công lý và nhân đạo.
Kinh nghiệm xã hội và lịch sử đã cho thấy chừng nào tư tưởng trở nên điên loạn, dù bắt nguồn từ chính trị, chủng tộc hay tôn giáo áp đặt trên quần chúng, thì ngay tức khắc chuyện thả lỏng cho những hành động dã man sẽ đưa nhân loại trở về thời quá khứ nhục nhã đầy máu và chết chóc.
Cái giáo lý cơ bản mà chúng ta phải không bao giờ quên và nó phải bao trùm lên tất cả những nhận thức về cuộc sống là mỗi người phải tự nhắc mình là tất cả những cá nhân con người ai cũng có phần sự thật của riêng mình, chúng ta phải biết tôn trọng sự thực của người khác, và pháp luật, công lý, đạo đức, loài người không bao giờ cho phép một ông hay bà được quyền áp đặt cáí sự thật của mình lên người khác. Chính những người theo tà giáo từ chối không chấp nhận sự thật của Jesus mà đã đóng đinh người này trên Thập Tự Giá. Chính vì những kẻ đứng đầu trong Nhà Thờ thời Trung Cổ đã từ chối sự thật của một kẻ không tín ngưỡng hay kẻ có suy nghĩ tự do mà họ đã thiêu sống những người này trên giàn hoả. Tự do tư tưởng có thể là cái chinh phục lớn nhất của thế giới hiện đại. Nó là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ của văn minh.
Khi một người nắm giữ một sự thật và tin tưởng đó là điều hay tốt, vì nhiều động cơ khác nhau, có người muốn thông đạt nó, truyền bá nó đến người khác. Không có gì cấm một người muốn truyền bá sự thật của mình đến nhiều người khác.
Nhưng những gì phải bị cấm tuyệt đối là dùng sức mạnh, bạo lực, hành động hung ác khủng bố để ngăn cấm niềm tin của những người khác. Vì lẽ, nhà cầm quyền cộng sản đã phạm một lỗi lầm không cứu vãn được là đã gắn nhãn tên cho những khác biệt về quan điểm bằng những tội lỗi không thể tha thứ được để mà trừng phạt họ một cách nặng nề. Rốt cuộc, vì lo lắng cho an nguy của mình, không ai muốn mở mồm bảo cho lãnh đạo biết những hậu quả xấu gây ra bởi thái độ của chính lãnh đạo. Nhà nước, thiếu vắng sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng như con tàu đâm vào vùng san hô và chìm đi trước sự thờ ơ toàn diện. Ngoại trừ khi, với sức mạnh của mình, nhân dân vùng lên lật đổ độc tài và thay vào đó một chế độ dân chủ đa nguyên, thì cái lợi ích lớn nhất là cho phép tự do ngôn luận; dù có nhiều khác biệt, bất đồng nhưng ý kiến được tự do phát biểu trong lợi ích chung của mọi người. Giữa nhà nước và nhân dân sẽ không còn cái-không-thể-sống-chung nào nữa. Một đảng phải loại trừ đảng kia.
Vì thế, tôi biết là tôi đang phải chịu nhiều rủi ro. Nhưng hình phạt trực tiếp và tức khắc dường như chậm đến: có thể cái vòng khoá để còng tay tôi chưa được chế tạo. Chuyện phải tiêu diệt tôi đã được quyết định nhưng việc tiến hành nó phải được tổ chức tinh vi hơn. Bất kể như thế nào, tôi vẫn lo trám đầy cái khoản thời gian chờ đợi bằng cách chào từ biệt cái cách sống mà mai đây sẽ bị chôn biệt vào quá khứ.
Sau đó tôi đã qua những ngày và cả những đêm chong mắt nhoà đi với những cay đắng và thường là nước mắt, lang thang trong cái thế giới nhỏ bé mà tôi đang sống, ngày đêm đắm mình trong nỗi buồn và cái trời-ơi-đừng-bao-giờ-xảy-ra-cho-tôi. Và đây là những đồ đạc bàn ghế mà tôi thừa hưởng của cha mẹ tổ tiên: những cái bàn bằng đá cẩm thạch, những chiếc ghế bành bằng gỗ khối, những chiếc ghế ngồi, những chiếc bàn ngủ, những chiếc sofa, tất cả toàn bằng gỗ quí và chạm trổ tinh xảo bởi bàn tay vàng của một lớp người thợ thủ công nay không còn nữa. Thời gian đã làm những lớp gỗ lên nước bóng loáng. Đây là bàn thờ tổ tiên sơn son thếp vàng, bát nhang đầy tro tàn và chân nhang cắm đầy với đốm nhang đang thắp đỏ, bình hoa bằng sứ Tàu được để những chậu hoa lan vào mùa đông và những chậu hoa sen vào mùa hạ, hai chiếc tủ kiếng treo trên tường với những con rồng đang uốn lượn trên cánh cửa chứa những đồ cổ và bộ ấm trà. Tất cả những vật bất động kia chứa bao nhiêu là hơi thở của cha mẹ tổ tiên ông bà, trải qua bao nhiêu năm tháng dài để lên nước bóng loáng.
Tôi hay thích đứng hàng giờ trước cái tủ sách có bộ sách Guillaume của những tác giả người Hy Lạp và La Tinh đặt phía trên dãy sách của những tác giả người Pháp của bộ Pleiades. Tôi không hề thấy mệt khi đứng vuốt ve những cái bìa sách bằng da nâu của những cuốn sách mà tôi có dịp mua ở những tiệm sách cũ ở Paris hay từ những kẻ bán sách đã qua tay bày bán dọc sông Seine. Trên kệ sách dành cho những tác giả thời cận đại đang mang niềm hãnh diện của những tác phẩm của Valéry, Claudel, Gide, Montherlant, Mauriac, Maurois, Maurand, Giraudoux… Trên kệ chót, tôi để cái máy thâu băng hiệu Columbia và hàng trăm cuộn băng mà tôi mang về từ Pháp và nghe chúng mỗi buổi tối, thay nhạc tuỳ theo tâm trạng mình lúc ấy, một vài bản của Mozart nếu gặp lúc đang vui, bản Pavane In a Dead Infant của Ravel khi gặp lúc ưu tư sầu muộn, bản Dance Macabre của St-Saens nếu gặp lúc đang gặp những chuyện đời làm tôi kinh hãi, nhưng đặc biệt là bản Giao hưởng số 5 của Beethoven đưa tôi vào những trầm tư mặc tưởng và bản Passionnata gặp lúc hừng chí và muốn sáng tạo.
Tôi giết phần lớn thì giờ trong cái “thư viện” của tôi nơi mà mùi thơm đầy kích thích của quá khứ làm tôi vui thích và say đắm. Tôi không phải là ngưởi chỉ biết tán dương quá khứ, tôi cũng biết nhận diện và quý trọng những điều tuyệt vời của hiện tại. Trong lịch sử, trong mỗi thời kỳ, nhận loại đều qua những lúc vinh quang và lúc nô lệ khốn khổ. Sự nô lệ đượm trùm những tội ác mà nhân loại không phải là kẻ trực tiếp chịu trách nhiệm, nhưng nó đã làm hoen ố một vài giai đoạn hiện hửu của nó. Những vinh quang xảy ra cùng với những tiến bộ mang lại những điều tốt và hạnh phúc cho các dân tộc. Thời gian là yếu tố sàng lọc của lịch sử: sự nô lệ sẽ được chôn sâu trong sự lãng quên, ngoại trừ những tội ác kinh hoàng làm nổi loạn lương tâm, và chỉ có những vinh quang huy hoàng kia sẽ mãi mãi chói sáng qua thời gian và là nguồn động viên cho những tâm hồn biết suy nghĩ. Hiện tại mang những cảm xúc lộn xộn: con người có đủ thời gian để ngạc nhiên thán phục với những tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy con người tiến rất xa về phía trước của tương lai, họ phải khóc vì điên giận khi đối diện với những hành động của một vài tầng lớp chính quyền đã và đang giết những kẻ phản lại hay chống đối họ, những tầng lớp người mà hành động đã đưa con người về những thời kỳ man rợ xa xưa đầy xấu hổ. Cái hiện tại mà tôi đang sống và cái tương lai đang chờ tôi, vì thế, đẩy tôi trốn chạy về với quá khứ huy hoàng của con người, thoả mãn những khát khao hạnh phúc qua những gì mà những con người tuyệt vời nhất đã làm ra để tránh cho tôi những thống khổ hôm nay và ngày mai bởi những kẻ tệ hại nhất trong những người lãnh đạo. Nhưng trong hoàn cảnh mà tôi đang chào biệt những vật bất động nhưng chất chứa bao nhiêu tâm trí của tôi kia, tôi cảm thấy mình bị tràn ngập bởi nỗi buồn là không biết bao giờ có thể gặp lại chúng.
Nhưng nhiều ngày trôi qua. Không có bọn cai tù mang xe đến kiếm bắt tôi, với hai cổ tay trong cùm. Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng tôi cũng hiểu là chuyện tiêu diệt tôi không xảy ra bằng con đường tù nhốt ở một nhà lao nào đó. Nó sẽ tiến hành trong dài hạn bằng nỗi đau quằn quại của những cơn đói. Sự tra tấn trở nên tinh vi, nó sẽ xảy ra trong một thời gian dài, không biết lúc nào dứt, giống y như một cuộc hành trình trong sa mạc, trong nghĩa trần tục nhất của vấn đề. Giống người lữ hành bị bỏ rơi trong sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống, không một chỗ trốn cái nắng thiêu đốt ban ngày, không một mảnh chăn chống cái lạnh cóng người ban đêm, tôi phải lê những bước chân cho đến khi tấm thân khô nước, cạn máu như một bộ xương biết đi kiệt sức bởi đói, khát, dưới cái nóng thiêu đốt của mặt trời, cái lạnh tê người về đêm, tôi sẽ té ngã trên một đồi cát nào đó và buông hơi thở cuối cùng. Bao nhiêu đau khổ đó, tất cả đều giấu mặt sau tấm mặt nạ của Thần Chết, đang bao quanh tôi, nhảy múa nhạo báng, đang chuyển mình trong một điệu múa ghê rợn chung quanh và trong chính tôi, hành hạ tôi bằng những trận cười châm biếm mĩa mai, những cú đòn giáng xuống để cho cái mong muốn được chuộc lại cái lỗi lầm là đã dám suy nghĩ khác với Đảng trở thành cái đau đớn tột cùng trước khi Thần Chết đến ca khúc khải hoàn trên đống xương trắng của tôi trong sa mạc. Chỉ có những kẻ đao phủ với những suy tưởng của quỷ dữ mới có thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở giữa một thủ đô của một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi, giữa những kẻ thừa mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi. Để quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải chịu dù vợ con hắn là những người vô tội.
Và Đảng phủi tay dễ dàng. Họ hợp lý vấn đề một cách thâm hiểm. “Tôi có một nhân viên, nay tôi không thích nó, tôi cho nó nghỉ việc. Có gì không đúng?”. Có một câu trả lời từ hắn: “Đây không phải đơn giản là một chuyện cho nghỉ việc, khi có một hệ thống cửa hàng nhà nước và tem phiếu, một người bị đuổi việc thì không thể mua gạo bất cứ ở đâu, cho hắn và cho gia đình, khi mà hắn không có tiền và tem phiếu chỉ dành cho công nhân viên nhà nước! Hơn nữa, các ông đã căn cứ trên điều Luật Hình Sự nào để trừng phạt một tội bất đồng ý kiến và được Thế Giới công nhận về nhân quyền? Các ông có biết được cái đặc biệt nghiêm trọng của cái án phạt mà các ông tuyên phán trong nhà nước công sản của mấy ông khi các ông lẫn lộn giữa hành chánh và luật pháp? Các ông đã kết tội tôi phải chết, một cái chết chậm và lâu cho cả một gia đình chỉ vì các ông bị mất vui? Một chuyện giả dối như thế có xứng đáng là một Nhà Nước tự cho mình là văn minh không? Nhưng con cừu thì không thể lý luận với một con sói.
Con sói có thể hùng hồn tuyên bố là nó đã tử tế cho phép con cừu được tự do hạnh phúc, nhưng rốt cuộc nó cũng không thể thuyết phục những con cừu với những lý lẽ để biện minh cho tội lỗi của mình, cũng chẳng chứng minh được gì ngoại trừ sự tàn ác và dối trá của nó. Những văn kiện linh thiêng nhất, những lời hứa trang trọng nhất luôn ẩn chứa những ảo tưởng cũng chỉ với mục đích gìn giữ cái dáng vẻ bề ngoài trong khi sự thực là đang chà đạp lên thực tế. Chủ nghĩa hình thức chỉ là một trò ảo thuật, nhưng là một trò ảo thuật tệ hại xấu xa nhất vì nó không nhằm làm vui mọi người nhưng nhằm cắt cổ họ.
Trong suốt một thời, nhân dân đã bị kinh hoàng vì tội ác của chế độ phong kiến, họ luôn luôn mơ ước một nền công lý, mong có kẻ công minh phân biệt thiện ác như Bao Công để bảo vệ những người dân chân chất chống lại những kẻ bạo quyền. Nhưng niềm mơ ước sâu thẳm nhất của người dân chưa bao giờ thành sự thật. Những kẻ to đầu vẫn cứ tiếp tục áp bức, khủng bố, bắt nạt người yếu kém vô tội. Khi mà Nhà Nước không còn bảo đảm công lý, niềm tin vào chính nghĩa cũng mất đi, những người mờ mắt vì ích kỷ tham lam, hư hỏng vì mê muội và chẳng cần “lo cho mọi người” và chằng cần lo cho có sự công bằng thì dân chúng quay ra cầu xin sự can thiệp của những quyền lực siêu nhiên, tin vào chuyện nhân quả “ác giả, ác báo”, gây gió sẽ gặp bảo, gây ác sẽ gặp chuyện ác.
Những con người tích cực thì không muốn chờ công lý của toà án “quả báo” vì nó đến quá chậm, quá lâu. Họ muốn thay một nền công lý chậm chạp và chưa bao giờ được hiện hữu một cách vững bền bằng một chế độ hoàn toàn gồm những nguyên tắc và tổ chức nhằm mang lại những gì mà nhân dân khát vọng. Luật Pháp là đoá hoa tinh khiết nhất của văn minh, toà án áp dụng luật và phổ biến Công Lý, như bản Tuyên Bố Quốc Tế Về Nhân Quyền đã mở đầu cho kỷ nguyên Dân Chủ, là những thành quả quý báu của nhân loại. Bất hạnh thay, bộ máy tuyệt vời đó chỉ chứng tỏ một thứ chủ nghĩa duy tâm, một bộ óc khéo léo ranh ma vận hành một cách chu đáo khi quyền lực đưa ra để thực hiện những ý định mong muốn. Nếu theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản thì người dân, thông qua tiếng nói của những người đại diện và qua trò chơi bầu cử, sẽ có trong tay một phương tiện luật định để ngăn chận sự quá đà của giời cầm quyền và những lạm dụng của họ; trái lại, trong những nước cộng sản, thứ quyền lực độc tài, độc đoán sẽ khiến cho nhà lãnh đạo khuynh đảo luật pháp, chỉ áp dụng nó để bảo vệ quyền lợi của mình, xếp đặt, cơ cấu những tổ chức quần chúng và những cơ quan luật pháp sao cho những nơi này biến thành những người đầy tớ trung thành ngoan ngoãn cho họ. Luật Pháp lúc ấy mất hết cả quyền lực của mình, chỉ còn là một thứ đồ chơi nằm trong tay giới chức quyền, chỉ còn biết thú nhận cho nỗi bất lực của mình. Trong khi chờ những ngày phúc phần, ngày mà nền công lý được vận hành hết công xuất, sự tàn ác phải chịu trừng phạt, ngày mà quần chúng quá kinh tởm với những bất công của giới lãnh đạo, mất kiên nhẫn và nỗi lên làm nên Lịch Sử, nhân dân dưới chế độ cộng sản đối mặt với những kẻ độc quyền có con tim đóng kín, câm lặng sau cửa Thiên Đường không còn nghe đến lời cầu xin và ước vọng của con người, chẳng còn một giải pháp nào khác hơn là thu mình trong cam chịu và tuyệt vọng.
Chính trong một tâm trạng như thế mà tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng. Chìm trong vùng cát sa mạc của tuyệt vọng làm cạn khô giòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn, với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn của chua cay và vị đắng của mật. Không một tia sáng của niềm vui trong đêm đen của địa ngục trần gian mà tôi đang bị quét đi trong nỗi cô đơn, nhưng tôi cố gắng tự cứu mình, vượt qua cảnh địa ngục tối tăm, những cơn sóng dữ, để một ngày nào đó có thể kêu lên chuyện đoạ đày của tôi.
3. Cái đói thê thảm
Lãnh đạo thật phúc đức. Họ đã tránh cho tôi phải chịu một chế độ tù giam mà ở đó tôi có khi thành đứa hầu lo quét dọn cho các đại ca đầu gấu, cho những tay trùm phòng giam, thành nạn nhân bị bóc lột bởi bọn cai tù, bởi bọn du côn tham lam tàn bạo tước đoạt đi chút lương thực dự trữ và phải chịu những hành hạ tàn khốc của chúng. Tôi cũng không bị đưa vào những trại cải tạo nơi mà từng hàng tù nhân phải thi hành những công việc lao động đất đai dưới sự điều khiển của những ông quản giáo. Tôi được tha khỏi bị những ngày tháng dài, rất dài trong trong tù, có khi đền tận ngày lìa đời, giữa những chấn song của một căn phòng chật hẹp của công an ở một nơi nào đó mà không ai biết là ở đâu, bao trùm bởi một màn đen bí mật và huyền bí, hay bị nhốt kín ngày đêm không thấy ánh sáng mặt trời, không hít thở được không khí bên ngoài dù chỉ một phút giây, hình phạt buộc phạm nhân không được chút sinh hoạt nào trong một đêm dài vô tận ngập tràn trong tiếng inh ỏi khua vang của soong chảo và nồi đồng mà những cánh tay lực lưỡng của mấy tên cai ngục thay phiên mà đập để tra tấn cho đến khi nạn nhân biến thành kẻ khùng điên. Và, trong khi đầu óc và đôi tai bị tra tấn vì những tiếng khua đập vào thành của kim loại như muốn xuyên thủng các màng nhĩ, thì bao tử của người tù phải chịu những cơn đau thắt vì bị viêm do những thức ăn hư thối cho tù nhân ăn. Những kẻ bợ đỡ cộng sản kêu gào là những người cộng sản đã phải chịu tra tấn trong những “chuồng cọp” ở nhà tù Côn Đảo và ra sức lên tiếng tố cáo những việc làm vô nhân đạo của thực dân. Người ta có thể tự hỏi: thế thì ở mức độ hùng biện và nhiệt thành nào họ sẽ lên tiếng khi họ biết những gì đang xảy ra trong chế đô cải tạo để bành trướng chủ nghĩa công sản hiện nay?
Phúc đức thay cho những lãnh đạo nào đã tha cho tôi khỏi phải chịu những khổ đau như thế. Những kẻ đã trừng phạt tôi, cho dù là do chính ý muốn của họ, hay vô tình không hay biết vẫn là những kẻ muôn phần hiền lành so với những con người kia, những con người còn hơn quỷ dữ. Nhân dân sẽ phán xét.
Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói.
Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm. Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tối. Khẩu phần cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói. Họ tự hỏi tại làm sao mà các bà tự nhịn ăn để có một thân hình thon thả?
Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì chính bản thân họ cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết đói. Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống? Tìm ở đâu những nguồn hàng mà chỉ qua con đường buôn lậu mới có được? Món duy nhất mà vợ tôi không phải bán là cái máy may để mua gạo cho gia đình, mà dùng nó để may đồ mang ra chợ bán. Nếu bà còn trẻ bà có thể đạp xe về nhà quê mua rau cải lên bán ở những nơi đông người qua lại. Nhưng tất cả những dự tính dễ thương nhỏ nhoi đó đều không thể thực hiện đã làm cho vợ tôi khóc trong sầu khổ vì không thể làm một chút gì đề mua gạo cho gia đình.
Con gái tôi dạy Toán và phải dạy ở một nơi cách xa Hà Nội 40 cây số, trong suốt bảy năm liền, đơn giản chỉ vì nó không có cha mẹ nằm trong Đảng. Nó bị ép phải từ nhiệm để có thể về dự một cuộc thi tuyển ở trường Cao Đẳng (Đại Học Sư Phạm) và đã chọn ngành Văn và ngôn ngữ Pháp. Nhưng sau 5 năm học xuất sắc và tốt nghiệp, nó chờ đợi một chân giáo viên ở một trường Trung Học ở Hà Nội. Vô ích! Cho đến một ngày có một chỗ ở Trường Chu Văn An. Cũng có một cô gái khác mong làm chỗ ấy. Hai thí sinh được đưa ra trước hội đồng giáo sư để tranh tài. Con gái tôi được hội đồng giáo sư chấm. Nhưng đứa con gái kia lại được nhận, vì cha của cô ta là một đảng viên. Trong khi chờ kiếm việc, con gái tôi phải đạp xe đi về mỗi bận 20 cây số để đi học nghề làm gốm trong một hợp tác xã ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng đến lúc học xong, thay vì được hưởng một tí tiền bồi dưỡng người ta lại buôc nó phải trả tiền học phí. Nó muốn đóng góp được một chút gì cho ngân sách gia đình nhưng vô vọng vì không thể làm được gì.
Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông thầy tận tuỵ. Phải làm gì đây? Tôi không thể ra đạp cyclo như một số đồng nghiệp trẻ đang làm, không phải vì chuyện “thiên hạ xầm xì” mà chỉ vì tôi đã không còn ở tuổi để làm chuyện đó: hoặc người ta không dám gọi tôi, hoặc nếu có, số tiền công còm cõi của một hai chuyến đi không đủ để mua thuốc cho tôi lại sức với cái thân thể đã tiều tuỵ lắm rồi. Tự nhủ là không có nghề gì là đáng khinh, tôi xoay ra sửa chữa xe đạp bên vệ đường như những sĩ quan cao cấp già của bộ đội về hưu đang làm. Những kiến thức về văn chương và ngôn ngữ trở nên vô dụng trước những chiếc xe đạp hư cần sửa chữa như một quan hoạn đứng trước người đàn bà không mảnh vải che thân.
Trong thời gian đầu khó khăn, người bõ già vào làm việc ở nhà tôi từ những năm kháng chiến, hơn mười năm về trước, thông hiểu tình trạng tài chánh kiệt quệ bất khả cứu vãn của tôi, đành xin phép nghỉ việc về quê. Chúng tôi đã xem bà như một thành viên của gia đình, và chưa bao giờ nghĩ đến việc cho bà ra đi, đã quyết tâm chia sẻ ngọt bùi sướng khổ với bà. Nhưng chính bà lại khéo léo đề nghị chia tay, chúng tôi không còn cách nào hơn là đồng ý. Cuộc chia tay thật cảm động, không bên nào kềm được dòng nước mắt.
Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng. Trong số gia súc chúng tôi chỉ còn con gà mái mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên. Chúng tôi không thể giết thịt vì nó đã đáp lời kêu cứu của chúng tôi và ngày nào cũng đẻ cho một trứng. Không như trứng vịt, có thể luộc dầm nước mắm để chấm rau cải luộc, trứng gà chỉ dành cho một người, thay phiên nhau mỗi ngày một người ăn. Đó là thức ăn dinh dưỡng duy nhất mà chúng tôi còn có. Tới lúc chúng tôi không còn gì để nuôi con gà, bắp cũng không, lúa cũng không, mỗi ngày vào lúc hoàng hôn khi mà chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để kẻ qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó.
Sống trong một tình trạng như thế, con người luôn luôn đói. Vợ và con gái tôi làn da càng ngày càng tái, thân hình càng ngày càng tiều tuỵ ốm tong. Họ không dám mở mồm nói một điều gì vì sợ làm cho tôi phiền não, chỉ dám giấu những dòng nước mắt trong đêm khi một mình trên giường ngủ. Tôi biết nhưng giả tảng như không biết. Về phần tôi, chưa hơn một lần, phải khóc. Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ mình yêu thương phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng. Tôi nhường bát cơm duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy thèm ăn, và có khi đặc biệt hơn với lý do là đã dùng cơm với một người bạn mà tôi vừa viếng thăm. Một sự dối trá không thể kéo dài và thuyết phục được ai, nhưng trước cái chối từ cứng đầu của tôi, hai mẹ con đành phải chia chén cơm để khỏi phí.
Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. Sự chán nản đến cùng cực, không còn sức chịu đựng, tràn ngập toàn thân tôi như con nước tràn đê bao trùm lên mọi vùng chỉ chừa những đầu ngọn cây và đỉnh núi. Tôi có cảm tưởng như đang lịm đi trong một trạng thái mê muội với cái minh mẫn của ý thức bị đục khoét đó đây bởi những ngọn lửa. Tôi cố gượng mình đứng dậy làm một vài động tác cho giãn gân cốt thì bất chợt đổ sầm xuống trên chỗ nằm, tất cả những sức còn lại của gân cốt đã hoàn toàn biến mất. Cùng lúc đó, cái bao từ co thắt từng chặp làm cho tôi vô cùng đau đớn. Cơn đau thắt buộc tôi phải chọn cách luân phiên vừa chịu đựng vừa nghỉ ngơi trước khi bị cơn sóng dữ nhấn chìm trong sự vô thức, bất tỉnh không còn biết suy nghĩ hay cảm giác gì nữa. Rồi tôi cũng thoát được cơn đói đau thắt với cái lưng đau và một tâm hồn bầm dập quá đỗi. Tôi vừa xong bài học nhập môn về sự đói.
Trong hoàn cảnh như thế, cuộc đời tiếp tục trôi như một vòng quay tự động, cứ quay và quay đều trên một dây chuyền sản xuất, quay vô tận, trong khoảng không. Một vòng quay thay vì như thông thường là môt sự kết nối cân đối, một sự ăn khớp nhuần nhuyễn của ba trục máy để hướng đến một mục tiêu đầy sinh động: chuyển động nhờ chân tay, suy nghĩ của bộ óc và rung động của con tim để cảm xúc và yêu thương. Giờ đây thì không còn bất cứ thứ mục tiêu gì, mọi thứ đều biến mất: ngọn lửa hy vọng, giận dỗi, hận thù, cay đắng cũng chết đi, những suy nghĩ cuồng nộ như trong cơn giông bão, như điệu vũ điên cuồng ghê gớm rồi yếu dần, kéo lê, bung ra rồi biến mất như những bóng ma tan biến trước ánh sáng ban ngày. Thân phận con người bị vỡ nát trôi lạc loài vô định, như một chiếc bè trên biển cả mênh mông, phó mặc cho sóng cao, bão tố. Nó không còn là người sống, chỉ để cuộc sống trôi đi, cứ để cái u mê nó bao trùm từ đầu đến chân, như cây độc cần, chẳng cần một cú hich làm giật mình, mà cũng chẳng cần nó phản ứng cục cựa. Một sự chán ngắt mênh mông, mệt mỏi và yếu sức tràn ngập đến tận từng tế bào của cơ thể, tận từng sợi dây của linh hồn, báo hiệu cho một cái chết đang tới gần trên những bước đi không nghe tiếng.
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ

CHƯƠNG 10: BI HÀI KỊCH CỦA MỘT CUỘC TRẢ GIÁ

Nếu cái bi kịch đói chỉ có một kịch sĩ duy nhất và chỉ là màn độc thoại đang ngang qua những câm nín đầy bi thương, thì những cuộc mặc cả mà tôi kèn cựa để bán những tài sản riêng có thể bán được đã xảy ra như một màn bi hài kịch mà nụ cười cứ xen lẫn cùng nước mắt. Người bán, kẻ đang cố nuốt giòng nước mắt, khóc thầm cho nỗi khổ đau và niềm tủi nhục mà cái đói là nguyên do chính, lại phải nở nụ cười cho cái dối trá và điệu bộ của người mua đang cố cò kè cắt xén bớt số tiền phải trả để mua một món hàng thật sự quí và có giá trị với cái giá thấp tột cùng.

Những gì chúng tôi bán trước tiên là những bộ trang phục mà vợ chồng tôi hay mặc lúc còn thời vàng son để dự những buổi chiêu đãi hay lễ lộc được mời, trước khi Cách Mạng về làm đảo lộn mọi trật tự của xã hội, kéo người dân ra khỏi những truyền thống và thói quen đã có từ hàng ngàn năm mà cái thần thánh của các lãnh đạo và cái phong cách sống trong sáng của họ phải là mẫu mực mới cho xã hội! Tất cả nữ trang bằng vàng chúng tôi đã bán hết trong thời Kháng Chiến để giúp gia đình cầm cự qua ngày và trụ lại trong hàng ngũ kháng chiến. Nhưng sau khi về lại Hà Nội, cha mẹ tôi và bạn bè đã cho chúng tôi vô số quần áo đắt tiền: áo lụa, sa tanh, gấm thêu, vải nhung từ Trung Quốc, những bộ quần áo mà vợ tôi từ nay không còn dịp để mặc. Về phần tôi, tôi đã mang về, sau những chuyến công tác ở Bắc Kinh, Vienna, Lục Xâm Bảo những bộ âu phục may đo bởi những người thợ may bậc thầy chuyên cung cấp quần áo cho nhân viên các sứ quán.
Nay thì nhiều tập quán thói quen đã thay đổi. Tất cả phụ nữ phải phô trương diễn hành với những bộ đồng phục mà các cán bộ nữ quyết định: quần đen, áo trắng. Tất cả các ông đều mặc đồng phục kiểu Stalin hay Mao, sau đó là kiểu dáng do quí ông lãnh đạo cộng sản và các cán bộ quyết định: áo cổ đứng, quần rộng. Áo dài, quần trắng của phụ nữ, áo sơ mi và cà vạt của đàn ông thì bị cái khắc khổ của những người cộng sản kết án là những tàn tích của tư sản. Người ta có thể cười hay khóc vì đó. Người ta có thể cười khi thấy cả dân chúng trong những bộ đồng phục rõ ràng là đơn giản và rẻ tiền, nhưng vô danh, giết đi tính cá biệt của con người, giết đi nhân cách riêng của họ, và giết đi những tính cách riêng của mỗi người là những cái cho phép người ta có thể hiểu, gây thân thiện và ngay cả để giao tiếp, chia sẽ thông cảm với họ. Một người nước ngoài, hay ngay cả người bản xứ cũng không thể dễ dàng phân biệt thiên hạ, giữa người này người kia. Có người cười cho rằng đó là điều giả dối, nhưng người ta vẫn thấy đó là điều vĩ đại. Cả dân tộc đã trở thành nô lệ cho ý muốn của lãnh đạo, nô lệ tới mức vâng lời cả những ý tưởng bất chợt và kỳ quặc của họ, trở thành một khối đồng nhất với một kích cỡ quá lớn. Đó là một điều vĩ đại không thể chối bỏ nhưng nó cũng là một nguy hiểm cho an ninh của các dân tộc và cho hoà bình thế giới. Một Hitler ở Đức, một Moussolini ở Ý, chỉ có quân đội và thanh niên là mang đồng phục, thế mà cái tội ác của chủ nghĩa phát xit đến nay vẫn còn làm nhân loại kinh hoàng, lợm giọng. Làm sao có thể lường trước được những tai hoạ kinh hoàng gây bởi cả một dân tộc đang dậm những bước chân lính trận dưới lệnh của những ông chủ mà quyền hành là quá lớn, không giới hạn, không kềm chế, nảy sinh những ý tưởng hoang đường điên rồ có thể gây ra những thảm hoạ ở tầm thế giới.
Người ta cười, khóc. Nhưng, tệ hơn nữa, người ta đang cảm thấy thật đáng tiếc cho một dân tộc đang bị kết án phải mang một thân phận tôi tớ về tư tưởng, một sự tự sát về tâm hồn và con tim.
Vì thế, tôi hiểu rằng không thể có gì nhiều trong việc đi bán những quần áo đắt tiền ở một thủ đô mà chuyện ăn mặc khắc khổ đã được cộng sản quản lý chặt chẽ. Không có một cửa hàng bán đồ cũ nào ở Hà Nội. Đồng phục nam, nữ đều dùng những loại vải rẻ tiền, làm trong nước, không được bền, khi người ta muốn bỏ thì chỉ có việc vứt vào thùng rác như những miếng giẻ rách.
Tôi đến những tổ hợp may mặc. Họ lịch sự từ chối: “Chúng tôi biết những quần áo của ông thuộc loại đắt tiền. Nhưng chúng tôi biết bán cho ai bây giờ trong khi không còn ai mặc những thứ ấy? Chúng tôi đành phải làm mỗi một việc là cắt nhỏ nó ra để may quần áo cho trẻ con. Nhưng đấy cũng lại là một điều đáng tiếc nữa. Những cán bộ bình thường thì đâu có tiền, mà dẫu có tiền họ cũng không dám mua cho con vì sợ bị các đồng chí khác phê bình, khám phá ra những kẻ này còn mang những mầm mống của chủ nghĩa tư bản! Con cái những ông lớn thì ăn mặc như những hoàng tử, công chúa với những bộ quần áo do những cán bộ trong ngành ngoại giao hay ngoại thương mang về biếu sau những chuyến đi công tác ra nước ngoài để cầu mong những đặc ân và che chở.
Nhiều ngày tôi đã đi quanh những con đường, lê theo mình gói quần áo, từ phố Huế qua phố Hàng Lụa, từ phố Hàng Đường quanh qua phố Hàng Gai. Không ai muốn những đồ cũ của tôi. Cuối cùng khi tôi qua phố Hàng Buồm, một người đàn bà tốt bụng khi nhìn thấy dáng bộ thiểu não của tôi bèn hỏi thăm cớ sự. Chính bà ấy đã cứu tôi khi cho tôi địa chỉ một nhóm kịch may ra họ có thể mua đồ của tôi để các nam nữ diễn viên có trang phục mà diễn trên sân khấu. Tôi nghe theo lời khuyên và xoay sở lần chót để thanh toán gói đồ.
Chuyện xảy ra làm cho tôi mang nhiều suy nghĩ. Không biết là có phải áo cà sa làm nên ông sư không, nhưng những bộ quần áo tôi mặc trong thời mà tôi còn chút tự do thật sự là một phần trong cách ăn ở của tôi, không thể lộn ngược bề để may thành bộ áo riêng cho những người hầu trong nhà. Và khi tôi không có phương tiện và khả năng để đóng một vai diễn phụ hay một tài tử chính, chẳng thà để những bộ quần áo này cho những diễn viên nhà nghề mà cuộc sống là hai mặt: một ở ban ngày ngoài xã hội và một về đêm trên sân khấu, giữa cái thực và cái tưởng tượng. Chính đó là cái logic của sự đời.
Tôi cũng được biết qua người phụ trách trang phục cho Nhà Hát, cũng là người đã mua quần áo của tôi, kể cho tôi nghe rằng hiện tại một cô gái có địa vị đang chuẩn bị lễ cưới và muốn kiếm một bộ đồ đẹp nhưng không thể thực hiện vì thiếu tiền. Cô gái ấy bèn đến Nhà Hát hỏi thuê một bộ đồ để có dáng một nàng công chúa huyền thoại hay con của một đại đế nào đó. Người con gái nào cũng chỉ một lần trong đời làm đám cưới. Cô ấy có thể được tha thứ vì đã làm một chuyện giả dối ngây thơ, cũng chỉ để tránh né trong một vài giờ cái thực tế hiện ra như một bài văn nhạt phèo và chán ngắt, để trốn chạy vào những vần thơ mơ mộng, để xoá tan đi cái ham muốn không được thoả mãn và cho phép con người tự lừa dối lấy mình. Tất cả xã hội trên thế giới đều có đầy nhan nhản những bà Emma Bovary [1] với con tim chứa đầy những cơn thèm khát không được thoả mãn, họ mỏi mòn chống chọi những khổ đau mà chờ đợi ảo ảnh của một “nơi nào đó” có niềm vui và tự do lấp lánh. Ở Việt Nam, mỗi người đều phải sống hai mặt trong kiếp sống người máy. Bề ngoài, họ chơi trò xưng tụng giáo điều để tránh không bị tập thể trừng phạt, khẳng định cái tính láu cá ranh mãnh của một kịch sĩ. Bên trong họ cố dồn ép những đòi hỏi của hy vọng vào bóng tối và im lặng, đẩy những thèm khát không được thoả mãn, những khát vọng cháy bỏng vào những vùng đất trời huyền bí mà không một thần linh chính trị nào có thể khám phá được.
Trong một đất nước bị sống trong khắc khổ và nghèo nàn, tất cả những ham muốn dù chính đáng dường như đều bị đông lạnh, cho nên số quần áo cũ, dù rất đắt tiền, được mang ra bán đổ bán tháo với giá rẻ mạt cũng không nuôi gia đình tôi được lâu. Ăn uống tiết kiệm đến mức cao nhất giúp chúng tôi khỏi chết đói nhưng với điều kiện là chúng tôi phải chịu đựng cảnh mắt mờ, chân bước muốn không nổi và những cơn co giật đau quặn của cái bao tử phải bóp cái trống không. Những bữa ăn mà rau muống là món chính đã làm da chúng tôi trở nên thâm tái. Bà con tưởng chúng tôi mắc bệnh sốt rét. Chẳng thà để họ nghĩ như thế để tránh cái xấu hổ vì bị đói.
Sau quần áo cũ, đến phiên chăn màn, chén kiểu và những dao nĩa bằng bạc. Tôi gói dễ dàng 24 cái khăn ăn cùng với hai khăn trải bàn màu mè thêu rồng, lân. Hai gói mỗi gói gồm 12 bộ đồ dùng theo cách ăn Á Đông có tô chén, đũa ngà và bộ kia cho bữa ăn kiểu Tây gồm dao, nĩa và muỗng bằng bạc chạm trổ, mâm và ly pha lê hiệu Bohemia, chúng tôi để kín cả mặt bàn. Những tia nắng còn sót lại của buổi chiều quét lên một góc của những món đồ sứ và bạc làm chúng trở nên rực rỡ lộng lẫy. Bộ chén đĩa, những đồ dùng bằng bạc toả nét lung linh trắng như tuyết bên cạnh những chiếc ly thuỷ tinh lấp lánh như những đốm lửa. Chúng tôi bị choá mắt trong một lúc. Dường như đối với tôi, giữa cuộc hành trình trong sa mạc, một cảnh tượng đẹp đẽ như thế đã gợi lại trong tôi kỷ niệm những ngày huy hoàng trong quá khứ. Tôi chao đảo những bước đi đầy buồn tủi và cay đắng, chẳng còn mấy chốc tôi sẽ ngã quỵ xuống đất dưới cú sốc của cái khổ sai hiện tại so với cái huy hoàng của năm xưa. Một trang sử đời tôi đã sang trang, tôi buông mình bật khóc cho nửa đời người còn lại, con người của tôi năm xưa và con người của tôi hôm nay đã thật sự chết rồi.
Tôi hiểu rằng tôi không nên gõ cửa nhà các ông lớn: họ thường tổ chức yến tiệc trong nhà để chiêu đãi những nhân vật chính trị, kinh tế, văn hoá đến viếng thăm Hà Nội từ các nước cộng sản. Hơn nữa, mặc dù trong túi lúc nào cũng đầy ngập vàng, nhưng các ông lớn không để mình sơ suất làm lộ ra cái giàu sang vì nó sẽ là sẽ là đề tài cho những tin đồn làm cho họ bị mất uy tín dưới mắt của Đảng. Tôi không thể mang những đồ sành sứ, chỉ cuốn bộ khăn ăn và khăn trải bàn vào một gói và để nó vào cái giỏ sau cái xe đạp. Tôi biết mình phải đi đâu. Tôi bước vào sảnh của một khách sạn lớn nhất Hà Nội dành riêng cho những khách viếng người nước ngoài giàu sang qua đấy. Tôi mở gói đồ và giới thiệu nó cho người trách nhiệm của khách sạn và mời ông ta đến nhà để xem những đồ sứ và bạc. Hắn kênh kiệu và làm duyên như một con mụ lố bịch trước một kẻ bảnh bao như muốn cầu cạnh một ân huệ nào đó. Hắn thú nhận: “Đây là những món hàng rất đẹp. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng ông muốn tôi làm gì với chúng? Khách đến từ các nước anh em cũng nghèo kiết xác. Họ chưa bao giờ gọi gì thêm, luôn luôn bám vào tờ thực đơn thường ngày, không bao giờ uống rượu mạnh và khi phải cho tiền phục vụ thì họ tỏ ra rất dè xẻn. Thật ra, nói họ là dân keo kiệt thì cũng không công bằng lắm, vì tôi nghe nói ở các nước anh em, cũng như Việt Nam mình, lương bổng công nhân viên bị tiết giảm đến mức tối thiểu, hay có khi còn ít hơn thế! Tôi thấy ông đã lớn tuổi chắc ông đã qua một thời kỳ khá dễ thở.”
Người đối thoại với tôi, sau khi đảo mắt nhìn quanh để biết chắc là không có ai đang nghe lén, rồi trả lời cho tôi: “Mấy cán bộ công sản dạy chúng tôi rằng dân chúng trước đây phải lê cuộc sống đầy đau khổ vì phải chịu áp bức bởi phong kiến và thực dân. Tôi không biết ở những nơi khác thì như thế nào, chứ ở nơi tôi ở, thiên hạ không hề vui sướng hạnh phúc như họ nói. Dĩ nhiên là thời ấy vẫn có người giàu kẻ nghèo nhưng ai nấy đều có cái mà ăn và nếu quần áo có phải vá, họ cũng có áo quần để mặc! thực dân Pháp cũng không ra mặt một cách dễ dàng trông thấy. Họ nằm ở đâu trên giai cấp cao, và nếu có đàn áp và bóc lột, thì họ làm qua một giai cấp trung gian nào đó”.
- Thông qua trung gian một cái gọi là nền hành chánh bản xứ mà đứng đầu là tầng lớp quan lại.
- Nhưng, thực tế phải công tâm mà nói, những ông quan lại nói trên là những người tốt nghiệp từ Trường Luật Hà Nội, họ biết rõ những chuyện gì sẽ xảy ra cho mình nếu bị lọt vào tay những anh cộng sản đỏ. Dĩ nhiên, họ ngồi trên những chiếc ô tô và sống cuộc đời xa hoa giàu có. Nhưng họ tham nhũng một cách vừa phải, và nếu tôi có thể nói thêm là họ còn có nhân đạo. Luật Hình Sự mà họ biết rõ là một hàng rào an toàn buộc họ giữ mình không đi ra ngoài chấn song của pháp luật. Bên cạnh đó, tờ báo châm biếm Phong Hoá, những bài viết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn bằng cách liên tục chế nhạo các quan lại đã dựng nên một rào cản xã hội ngăn chận những bóc lột vô chừng mực của họ. Kết quả là ngay ở những làng quê, nhà riêng dù bằng tranh vẫn còn tồn tại, và nông dân vẫn chưa bao giờ biểu tình phản đối hay yêu sách. Ít ra là theo như tôi biết.
- Nhưng ở phố thì tình hình ra sao?
- Dân thành phố thì sống tốt hơn nhờ những việc trong chính quyền, trong những xí nghiệp thương mại hay công nghiệp lớn, hay trong những ngành buôn bán nhỏ. Đường xá sạch sẽ, lòng đường cũng như lề đường. Tất cả những vi phạm về vệ sinh công cộng đều bị phạt tiền. Không còn trộm cướp, ngoại trừ một vài bọn móc túi hoạt động ở các chợ, nhưng ở phố yên tĩnh và an ninh là rất tốt. Tôi không phải là một giáo sư để phân tích nghị luận, tôi chỉ nói theo những gì tôi thấy mà tôi cũng không tìm hiểu nguyên do hay đưa ra những lời bình luận. Vì còn nợ mái tóc bạc của mình nên tôi phải tôn trọng sự thật, giữ danh dự và nhân cách của tôi.
- Ông có nghĩ đến việc rút lui về nghỉ ngơi cho khoẻ không?
- Tôi đã nghĩ đến chuyện đó và đã nạp đơn xin về nhưng lãnh đạo buộc tôi phải ở lại để huấn luyện cho bọn trẻ mới vào làm. Tôi làm bếp trưởng đã hai chục năm nay. Vào những ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, thiên hạ nhảy đầm, còn tôi thì phải phục vụ rượu săm banh cho họ. Trong những bữa ăn lớn, mấy món nhậu kiểu Na Uy và món thịt dăm bông trộn vỏ bánh mì là món rất được ưa chuộng của một số khách không keo kiệt tí nào về phần tiền phục vụ. Tôi như con cá vẫy vùng trong nước.
- Và bây giờ thì sao?
- Thời thế đã thay đổi. Tất cả tiếp viên là những công an hay là những người quen của họ. Họ theo dõi khách hàng, lục lọi hành lý, nghe ngóng xem họ nói gì để đi báo cáo cho những “nơi trách nhiệm”. Tôi cũng nằm trong hệ thống giám sát của họ. Thật chán hết sức. Cạnh đó, nếu họ chỉ làm công việc của họ thì tôi cũng nhắm mắt để cho họ làm những chuyện bên lề đó. Nhưng ở đây họ lại phá hoại bao nhiêu là thứ: nhà cầu, vòi nước, máy hút bụi, máy giặc, chén đĩa sành sứ. Nhưng khốn nạn thay, chuyện như thế đó, tôi chẳng làm gì được.
- Vui chuyện với ông làm tôi quên mất mục đích tôi đến đây: liệu ông có thể mua cho tôi mấy bộ bát đĩa và khăn ăn này không?
- Chắc chắn chúng tôi sẽ cần chúng cho những buổi tiệc lớn và những buổi hội hè. Tôi chỉ là kẻ vô tích sự thôi. Có lẽ ông nên nói chuyện với ông uỷ viên chính trị. Chính ông ta là người quyết định mọi chuyện.
Người đàn ông già đời trong nghề đã hết sức trong công việc để làm người có ích, nhưng lại không có chút tiếng nói nào trên các vấn đề. Đó là cách mà mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới cộng sản.
Cái Tết đầu tiên xảy ra trong phiền não và nước mắt. Chúng tôi phải nhịn bốn bữa ăn để có thể dành ra tiền để trang hoàng bàn thờ của tổ tiên với một nải chuối xanh, bó nhang, vài nắm hoa và một cái bánh chưng. Chúng tôi thật hạnh phúc dù đang trong cảnh thiếu thốn vẫn có những món truyền thống trên bàn thờ của gia đình dù không phải là những món có giá trị cao như chúng tôi muốn, nhưng cũng xem là khá đầy đủ. Trong khi chờ nén nhang cháy hết, nỗi thống khổ làm chúng tôi thật đau lòng, cố nén dòng nước mắt chực trào dâng trên khoé mắt. Ngày mai rồi ngày kia, chúng tôi sẽ làm sao đây khi chúng tôi không còn gì để bán? Dĩ nhiên là chúng tôi có thể kéo rê thêm nhiều ngày nhiều tháng, nhưng chừng nào chúng tôi mới ra khỏi con đường hầm? Câu hỏi cứ theo chúng tôi ngày đêm làm chúng tôi mất ngủ.
Bây giờ là đến lúc những cuốn sách và những băng nhạc bước vào đường của bóng tối và cõi chết. Tôi làm một danh sách khoảng ngàn cuốn sách và cả trăm cuốn băng mà tôi mua sắm qua bao nhiêu năm, và lấy đó làm niềm vui thú. Tôi ngây thơ tin rằng cái gia tài văn hoá quí giá và duy nhất ở Việt Nam kia sẽ được chào đón nồng nhiệt và giúp tôi có chút gì để ăn trong nhiều năm sắp đến. Nhưng than ôi, không phải thế.
Tôi tìm đến Cục Lưu Trữ và Thư Viện Trung Ương và đề nghị với họ một bản sao của tất cả các tác phẩm của tôi, bắt đầu là những luận án Tiến Sĩ của tôi và toàn bộ những tác phẩm mà tôi đã phát hành tiếp theo sau đó.
Tôi chờ đợi được người ta long trọng đón tiếp. Người giám đốc Thư Viện Trung Ương xưa kia là một công chức ngành quản thủ thư viện của thực dân và đã học được nghề qua công việc, như người ta thường nói. Ông ta không phải qua trường Pháp-Điển Văn Khố chuyên về quản thủ Văn Khố (Ecole des Charles). Người tốt nghiệp xuất thân từ trường Văn Khố là ông Ngô Đinh Nhu, nhưng vì công việc ở đó không thích hợp với mình, ông Nhu quay ra làm chính trị nhưng lại trúng loại chính trị tệ hại nhất vì bị cả nhân dân và cộng sản kết án. Với bản án kép xếp như một án tử hình. Sớm hay muộn, ông ta cũng sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của số mệnh.
Như thế, ông giám đốc Thư Viện Trung Ương của tôi ngày xưa đã làm một chọn lựa đúng. Ông ta được gia nhập Đảng và khi trở về Hà Nội, bỗng nhiên được đề bạt lên chức Giám Đốc của cái Sở mà xưa kia ông ta là một nhân viên. Cái chi tiết nhỏ này giúp chúng ta hiểu cái giọng lưỡi của ông ta khi ông ta chính thức từ chối mua bộ sách riêng của tôi:
- Đồng chí, tôi vẫn tiếp tục gọi ông với hai tiếng “đồng chí” vì chúng tôi, những người cộng sản, vẫn hy vọng là ông sẽ ra khỏi những sai lầm bắt nguồn từ nền văn hoá Tây Phương mà ông hãnh diện đang khoe khoang, nhưng chúng tôi thì ghê tởm. Ông không tự cho mình là kẻ chống cộng, ông huênh hoang cho mình là người thực tiễn bởi vì ông dựa trên thực tế để đúc kết thành những phê phán, và ông tự cho mình là công lý khi vạch trần những thành công bên cạnh những thất bại. Ông cho rằng khi ông tuân thủ cái logic mà chúng tôi coi như đã lỗi thời, tệ hại, là ông vẫn còn trung thành vào cái thiên hướng của người trí thức là không muốn phản bội. Một nước tư bản như Pháp, kiêu hãnh với chủ nghĩa tự do của họ, chấp nhận thái độ đó. Nhưng về phía chúng tôi, chúng tôi kết án nó. Chúng tôi kết án thái độ đó, nhân danh chủ nghĩa cộng sản mà chúng tôi tin đó là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật, và kẻ đã dạy cho chúng tôi rẳng người dân khôn ngoan là phải biết tôn trọng và tuân hành nhà chức trách. Nhà chức trách thấy xa và thấy rõ hơn chúng ta. Họ là hiện thân của sự tốt đẹp, và nếu các ông không đứng về phía họ thì phải biết rằng cái xấu đang chờ đợi các ông với những thói hư và kinh hoàng của nó. Giữa chúng ta, cho tôi hỏi ông: có phải Đảng đã dành cho ông biết bao nhiêu là ưu đãi hay không? Mười uỷ ban chấp hành trong các tổ chức quần chúng, còn có trí thức nào đạt kỷ lục như thế? Và người ta đã đòi hỏi ông những gì? Chỉ cần ông nhắm mắt làm ngơ trên một số sai lầm mà tất cả ai trong chúng ta cũng đều biết. Chúng tôi muốn che khuất nó đi, chỉ làm toả hương những chiến thắng mà những tràn vỗ tay phải kích động và cao hơn lúc thất bại rất nhiều. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông hoàn toàn im lặng trước về phần hư hại của thực tiễn, không cần ông phải dối trá với lương tâm của mình bằng cách phát minh ra những thắng lợi tưởng tượng. Một thái độ sống như thế sẽ rất có lợi cho Đảng và cho chính cả ông. Tại sao ông không làm như một số trí thức khác? Họ chỉ thề trung thành với Đảng là đã nhận được bao nhiêu là lợi lộc cho bản thân họ và cho gia đình? Ngược lại, cứ khư khư bám vào cái văn hoá Tây kia, cứ giữ cái nhận thức khách quan và tự tin kia về công lý, về thực tiễn, ông đã phạm tội phá hoại mà ngày nay ông phải gánh chịu những hậu quả tai hại.
- Đồng chí, tôi rất cám ơn ông đã giúp những ý kiến tốt. Nếu ông là một mỹ nhân ngư, tôi đã phải nhờ các thuỷ thủ cột tôi vào cột buồm như Uylisses, người đang mê mẩn tiếng hát của người cá nhưng vẫn cố thoát ra khỏi hai cánh tay đẹp đẽ của nàng. Ông làm cho tôi nghĩ đến chuyện con rắn trên vườn Địa Đàng đã rót những tiếng nói độc hại vào tai Eva để làm cho nàng vào bẫy. May mắn thay, tôi không phải là đàn bà, và ngày nào đó bên cạnh trái táo sẽ còn có nhiều thứ trái cây ngon lành khác để cho người ta chọn. Dầu thế nào, tôi cũng phải công nhận là cái tinh quái xảo trá mà ông đang thừa hưởng nó thật là hùng hồn thuyết phục. Cho phép tôi được trả lời cho lý lẽ của ông. Cái văn hoá Pháp mà ông đang kết án, nó đã thấm nhập và đang chảy trong dòng máu con người tôi. Nó đã tạo ra con người tôi như bây giờ, luôn luôn đi tìm công lý, quan tâm một cách đam mê đến khách quan và thực tế nhưng rất tin vào con người, yêu mến con người và chấp nhận tranh đấu cho con người tránh khỏi sự tàn ác và tuỳ tiện của những kẻ độc tài độc đoán. Ông khuyên tôi phải tuân phục nhà cầm quyền, được thôi, nhất là khi tôi chỉ muốn không gì khác hơn là trật tự và yên bình. Nhưng chuyện tuân phục nhà chức trách và tuân phục uy quyền cũng không có nghĩa là không được mở mắt nhìn những sai quấy và lỗi lầm của họ. Nếu tôi giữ yên lặng thì dĩ nhiên chuyện đó sẽ được dàn xếp giữa chính quyền và nhân dân, nhưng nó sẽ tự làm cho mình mất uy tín và lòng tin của quần chúng. Vì vậy, đây là vấn đề là phải biết thái độ nào là thích hợp nhất trong những trường hợp như thế: hoặc không nói gì hết để ngồi hưởng những ban phát của nhà cầm quyền, đứng ra đồng ý với họ và như thế sẽ tránh bị họ đánh, hoặc đứng ra làm một hành động đúng đắn để tôn trọng ý muốn của nhân dân, mở mắt cho những ai đang cầm quyền và chấm dứt những nỗi bất hạnh đang làm hao mòn niềm tin của họ đối với lãnh đạo. Như thế với một hòn đá ta ném trúng hai con chim: làm cho nhân dân và nhà nước hoà thuận với nhau, cả hai cùng nhịp bước hưóng về một tương lai huy hoàng và hạnh phúc của toàn thể nhân dân. Tôi tuân phục nhà cầm quyền nhưng tôi mở to hai mắt, minh mẫn đầu óc và sẵn sàng cây bút. Tôi nghĩ đây là thái độ đúng đắn nhất của một người trí thức có lòng tự trọng, có tình yêu dân tộc, biết lo lắng cho hạnh phúc của nhân dân trong khi vẫn mong muốn không chuyện gì hại cho Đảng. Nếu ông nghĩ rằng những điều tôi nói là đúng thì đó cũng là nhờ tôi hưởng một nền văn hoá của Pháp và vùng Địa Trung Hải.
- Tôi đành phải nói với mình rằng quan điểm của ông và của tôi là không thể đi chung với nhau. Tôi rất tiếc, tôi không thể mua những bộ sách của ông, dù tôi biết đó là những cuốn sách rất có giá trị. Hiện nay, tôi không có ngân khoản đề mua những thứ đó. Hơn nữa tôi cũng không thấy điều gì ích lợi từ những cuốn sách về những nền văn hoá đã có từ ngàn năm hay từ nhiều thế kỷ nay mà tư tưởng đã có từ những thời kỳ nô lệ, phong kiến của phương Tây và của chủ nghĩa Tư bản, chúng không thể được dùng để đào tạo những người cộng sản Việt Nam.
Trên đường về, tôi như bị hụt hẫng vì cái khía cạnh đần độn của một lối lý luận phát sinh từ một thứ chủ nghĩa cuồng tín chính trị, nó làm tim tôi tan nát. Tôi tự trách mình đã quên lời dạy của Phúc Âm, đừng bao giờ mang những viên ngọc trai mà cho heo mang, margaritas ante porcos, mất cả buổi sáng tôi mới gượng quên đi chuyện bực mình vừa xảy ra.
Cái sự thực tàn nhẫn làm tôi khóc thét lên vì giận điên người là không thể chờ đợi chi nhiều từ những người trí thức được nhận vào Đảng. Mặc dù là thế, nhưng cũng có một vài trí thức, quá mệt mỏi sau bao năm sống tự dối mình, tự nén mình vào những lúc nổi dậy của lương tâm, đã để cái chất trí thức của mình nổ ra thành những biểu lộ diễn tả sự coi khinh Đảng và những hà khắc của nó. Lợi dụng những chuyến công tác ra nước ngoài họ đã dứt áo ra đi và không bao giờ quay lại. Và khi qua được với Thế Giới Tự Do họ không còn gìn giữ hay giới hạn những lời công kích kịch liệt. Nếu họ còn ở lại trong nước họ sẽ bị kết án tù chung thân và chỉ được khênh ra ra khỏi nơi giam cầm trong tư thế nằm với đôi chân ra trước. Nhưng phần lớn các trí thức lầm lẫn gia nhập vào hàng ngũ của Đảng chỉ còn biết từ bỏ nhân cách của mình, biến thành những tên nịnh bợ mà lòng tận tâm chỉ làm thiên hạ cười và khinh bỉ.
Bài học đau đớn mà tôi đã học từ người đối thoại trên là từ nay tôi phải tránh nói chuyện về văn hoá với những ông bà trí thức đã thành người cộng sản. Nhưng, tôi cũng phải làm gì để có cái ăn trong những ngày tháng sắp đến, tôi cũng phải kiếm cho ra người mua dù phải bán với giá rẻ cho bộ sưu tầm băng cát sét và những bộ sách của tôi. May mắn là vẫn còn những kẻ yêu nhạc, dù là những người nằm trong Đảng, vẫn còn thú nghe nhạc và có một đầu óc phóng khoáng, biết đánh giá cao những tác phẩm của những nhà soạn nhạc lớn của Âu Châu. Sau một vài liên lạc, tôi may mắn thanh toán được cái máy nghe băng và các băng nhạc cổ điển. Nhưng khối sách về văn hoá nước ngoài thì khó tìm được người mua. Đương nhiên, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp không còn được dùng ở Viết Nam, không thể bán được bộ sách Bude. Mặc dù tiếng Pháp đã bị mất chỗ cho tiếng Nga, tiếng Anh bắt đầu trở lại, vẫn có một số thầy giáo có nhu cầu đọc tiếng Pháp nên tôi đã bán được một số ít. Cuốn Odyssé do V. Berard dịch, bản dịch cuốn Eneide của A.Bellesort thì có được người mua, nhưng những tác giả Pháp thời Trung Cổ, thế kỷ 16, 17, 18 và ngay một số vào đầu thế kỷ 19 thì không ai muốn. Với những tác giả thời cận đại, tôi bán được một số tiểu thuyết của Maurois va Mauriac, những cuốn sách khó như của Valéry, Gide và Caudel thì chỉ gặp sự lạnh lùng của khách hàng. Nhưng cái đói thì không thể làm lơ được, tôi phải mỗi ngày lượn quanh các con phố để tìm gặp những tay bán sách cũ chuyên bán hay cho những người chơi sách tài tử thuê vài cuốn sách của các tác giả lớn.
Cuối cùng tôi cũng phải hiểu ra là mình không nên đắm mình trong cái ảo tưởng về số phận của những cuốn sách không bán được của tôi. Tôi đành phải cân ký bán cho những người thu mua giấy vụn về bán lại cho nhà máy làm bột giấy. Những cuốn sách được mang lên trên cái cân hiệu Roberval. Tôi được trả tiền theo số cân đo được. Tim tôi đập loạn lên mỗi khi tôi phải chất những cuốn sách vào cái giỏ sau của chiếc xe đạp để đem đi bán giấy vụn. Không, nó không phải là giấy, nó là những thịt da của tôi đang bị xé ra từng mảnh. Khi những người mua ném chúng vào góc nhà, tôi phải quay mặt đi nơi khác cố giấu giọt nước mắt đang trào ra! Không có người cha nào còn dám nhìn con mình đang bị ném vào lửa bởi bọn đao phủ! Cái tra tấn đó cứ tái hiện mỗi lần đi bán sách làm giấy vụn, tôi như bị một mũi tên bắn xuyên qua tim mình. Nhiều lần, tôi phải nhờ vợ hay con tôi làm chuyện đó vì tránh cho tôi phải chịu nỗi đau mỗi lần. Một lần trên đường về nhà, cái đau lòng khi phải nhìn thấy bao giá trị quí giá tan biến trong gió thoảng, nhất là trong thùng giấy vụn, những giá trị mà tôi đã dày công sức và thời gian để có, những giá trị đã xây nên con người và đã đi vào máu tôi, cái đói thiếu những chất cần thiết trong cơ thể làm chân tôi trở nên mềm như bún và run lên. Không biết vì cái đau kia hay cái đói triền miên hay cả hai, đã làm ý chí và sức lực tôi bay biến. Cách nhà khoảng một trăm thước, tôi đã té xe đạp và không thể đứng dậy. Tôi phải gượng dậy ngồi bên lề đường, giương mắt nhìn sự vật quay tròn, tôi rán lấy lại hơi thở, sau khoảng hơn mười phút mới đứng dậy nổi và cố dắt chiếc xe về nhà.
Trong lúc tôi phải lượn quanh để bán những cuốn sách thì vợ tôi cũng muốn giúp tôi bằng cách mang những đồ lót và các phụ tùng trang điểm, những chai nước hoa hiệu Chanel, Patou còn được giữ nguyên trong hộp và còn gói trong giấy hoa màu vàng kim tuyến thắt nơ nhung rao bán cho các bà trong giới chức quyền. Không may cho vợ tôi, bà gặp toàn là những bà vừa mới từ quê ra tỉnh, nhiều bà còn bộ răng nhuộm đen thời xưa. Mấy bà tròn xoe mắt, lần đầu thấy những món hàng mà họ chưa bao giờ thấy hoặc nghe nói đến trước đây. Mấy quan, mấy xếp cưới mấy bà trong thời bí mật kháng chiến vì hai lý do: thứ nhất, để đi đúng đường lối chính trị với lý luận rằng quần chúng vô sản ở thành thị và nông thôn đều bị áp bức và bóc lột bởi phong kiến và thực dân, thứ hai là do những phong tục đơn giản còn lại trong nếp sống chưa bị vẩn đục, chưa bị lây nhiễm bởi những thói hư tật xấu của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, những phụ nữ nhà quê kia với niềm tin và sự kiên trì đã thay thế cho việc trau dồi sắc đẹp, đã sống cô đơn một mình trong nhiều năm dài chờ đợi những người chồng đã từ lâu đi làm chiến tranh cách mạng và chỉ trở về khi cần để đánh lạc hướng hay cắt đuôi những tên gián điệp hay để được nghĩ ngơi một thời gian ngắn trước khi lên đường tiếp tục cuộc chiến dành thắng lợi cho giai cấp vô sản.

Bây giờ, Cách Mạng thắng lợi, được đặt vào những vị trí cao nhất của quyền lực, họ mang một nửa kia lên Hà Nội để hưởng những vinh hoa của chủ nghĩa cộng sản, những vinh hoa mà không có cách nào để phân biệt với thứ vinh hoa tư bản chủ nghĩa. Cũng những toà biệt thự đó, với những con chó dữ tợn và đám người hầu thận trọng, cũng những chiếc ô tô bóng lộn, cũng một nếp sống gia đình theo lối đó. Cái khác biệt duy nhất so với những quý tộc tư sản là, những thứ xa xỉ đó giờ đây hoàn toàn do Nhà Nước chi trả, phải cắn răng chi tiêu một số lớn ngân sách lẽ ra phải để dành cho những chuyện cần, thiết yếu. Một điều khác biệt nữa là vợ các ông lớn không nắm giữ chức vụ nào và không xuất hiện chung với chồng trong những dịp lễ chính thức hay những buổi chiêu đãi tiếp tân. Loại logic đó thật là khó hiểu khi mà người ta cứ mãi nêu cao cái nguyên tắc nam nữ bình đẳng, ít ra là trong xã hội. Cũng có thể là các vị hiểu rằng cái nữa kia của mình chưa quen với cái hào nhoáng của giai cấp thượng lưu, không biết cười hay ăn nói sao cho đúng, không biết dùng dao nĩa làm quí ông bị mất mặt. Quí ông chỉ còn biết để vợ ở nhà ngồi chơi trên ghế như những di vật linh thiêng để trên bàn thờ sơn son thiếp vàng.

Vợ tôi trở về mệt mỏi sau những lần tiếp xúc với các bà trong giới mệnh phụ cộng sản. Bà phải cố gắng và kiên nhẫn rất nhiều để giải thích cái vui thú thanh tao mà người phụ nữ ở một tầng lớp cao của xã hội khi dùng những thứ hảo hạng, đến thẳng từ Paris, thủ đô của hoa lệ và ánh sáng. Vợ tôi xoay sở để đạt được mục đích và đã mang về một số tiền đủ để sống vài tháng.
Nhưng với các bà mệnh phụ khác, bà nào cũng là hiện thân của Eva bị mấy món xa hoa hấp dẫn, thật khiếp đảm. Tiền xài cho những món kia được bí mật lấy từ công quỹ. Nếu họ không chùn tay lấy cắp công quỹ thì họ cũng xoay sở để làm sao không gây tai tiếng và làm hư chuyện thăng quan tiếng chức của chồng. Cũng dễ, vì họ không bao giờ chường mặt ra trước công chúng, và chỉ phô trương đến chín tầng mây những quần áo lụa là, những mùi dầu thơm đầy khoái lạc với chồng trong cảnh riêng tư chồng vợ.
Phần tôi, tôi cố mở những lớp dạy tiếng Pháp. Không thiếu sinh viên, họ đều hiểu rằng biết biết thêm một ngoại ngữ, bên cạnh tiếng Nga dạy ở các trường Trung và Đại Học, là một phương tiện tốt để kiếm việc sau này. Một vài người muốn học tiếng Anh. Nhiều người cần học tiếng Pháp đến gõ cửa nhà tôi. Những kẻ hăng hái nhất là những anh chị có tham vọng được đi làm ở Madagascar hay Algérie vì ở đó người ta trả lương như một ông hoàng. Mặc dù Nhà Nước đã lấy đi từ 70 đến 90 phần trăm tiền thù lương và tiền thưởng, để trả nợ cho mình, với phần còn lại họ vẫn còn dư để sống.
Nhưng để được phép đi đến những xứ giàu sang đó, họ chẳng những phải cẩn thận bôi trơn bàn tay của các quan chức ở bộ Ngoại Giao và bộ Lao Động, họ còn phải qua một cuộc xét nghiệm về tiếng Pháp tại sứ quán Algérie hay Madagascar.
Một chân trời sáng sủa được mở ra trước niềm hy vọng của tôi. Nhưng ngay trong buổi học đầu tiên được mở tại nhà tôi, một đám công an đã đột ngột xuất hiện. Xếp của chúng là một gã béo lùn, đôi chân ngắn củn, trán thấp, cặp mắt soi mói, hai lỗ mũi phập phồng như một con chó đang đánh hơi một khúc xương ngon lành. Cả bọn chiếm cả phòng khách và tên xếp, dù không được mời vẫn ngồi đến ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành. Trước bộ mặt kinh ngạc của tôi, hắn gằn lên từng tiếng một như để nhấn mạnh cái nghiệm trọng của vấn đề:
- Ông có biết tại sao chúng tôi vào nhà ông không?
Tôi đã học từ nhiều năm nay là không ngạc nhiên trườc bất cứ chuyện gì: điều ngớ ngẩn nhất, điều bệnh hoạn nhất, điều đê tiện nhất đều có thể xảy ra ở một nơi mà lòng tin và Luật Pháp không có, nơi mà những giá trị, dù cao quí đến thế nào, đều có thể bị vứt vào đống rác, ngoại trừ đó là những thứ của chủ nghĩa Cộng Sản và của những tôi tớ bệnh hoạn của nó, với sự tôn sùng cá nhân được hàng ngày thực hiện và tệ sùng bái áp đặt. Tôi lắc đầu tỏ vẻ không biết. Hắn ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành, đôi chân ngắn gác chéo một cách trịnh trọng, xoa xoa hai tay và giương cặp mắt long lên nhìn tôi giận dữ.
- Ông giả vờ làm người khờ không biết. Ông biết rõ ông là một tên trí thức thối tha, mình chứa đầy những tư tưởng phản động. Ông dám ngẩng đầu đòi hỏi dân chủ! Ông còn muốn gì hơn cái mà ta đang có? Ông không thấy trước những công sở của chúng ta, trên những giấy tờ chính thức đều có nêu rõ khẩu hiệu của Nhà Nước: Tự Do - Độc Lập - Hạnh Phúc? Tự do, hạnh phúc là cho ai, nếu không phải là cho nhân dân? Đảng đã mang lại cho chúng ta cái vinh quang của một thắng lợi cách mạng, một chiến thắng không thể tượng tượng trên chủ nghĩa tư bản. Nếu chúng ta không tin vào Đảng, vào lãnh tụ vô vàn kính yêu của chúng ta thì thử hỏi ta phải tin vào ai?
- Cám ơn ông đã nhắc cho tôi bài học mà tôi đã thuộc nằm lòng. Có phải ông đang đến viếng để cho tôi cái vinh dự được lập lại những điều đó thêm một lần nữa chăng?
Hắn không trả lời ngay. Với cử chỉ của một ông giám mục, hắn đưa ngón tay út lên ngoắc. Một trong những tay hầu cận vội chạy đến lấy ra từ trong túi xách một cái phích nhỏ đựng đầy nước chè, đổ vào một cái tách nhỏ rồi đưa cho ông chủ kèm theo một ống tre nhỏ, món mà ở nhà quê không nhà nào là không có. Tôi quan sát cảnh tượng đang xảy ra. Nó xảy ra đúng y như những gì đã xảy ra thuở trước, khi các quan lại di hành đâu đó, mọi thứ là đây: một đám tuỳ tùng, một cái phích đựng trà, một ống tre nhỏ để hút nước, và đặc biệt là cái ngoắc ra lệnh bằng ngón tay út mà đám tôi tớ thấy là hiểu ngay phải làm gì. Hãy hy vọng là những tác phong cổ xưa này sẽ chứa những tinh thần mới của cách mạng.
Quan cách mạng nhấp một ngụm trà và ngay tức khắc, người hầu đưa cho ông ta cái điếu cày đã nhét đầy thuốc. Với cái bật lửa, người hầu đốt một thanh gỗ nhỏ, ông chủ đưa chiếc điếu vào mồm, hít lên một hơi dài rồi phun ra những vòng khói màu xanh. Sau đó, với cặp mắt khoái trá, nửa nhắm nửa mở, cổ dựa vào đầu lưng ghế, với giọng nói chậm chạp và trang trọng, hắn buông những lời ra khỏi đôi môi dầy thịt:
- Ông chả hiểu gì cả. Ông đã phạm một cái lỗi tày đình. Nhưng Đảng vẫn cao thượng, cảm thấy tội nghiệp cho tính hấp tấp và cả tin của ông. Đảng không bỏ tù ông, Đảng chỉ lấy lại những vinh dự đã dành cho ông. Để tỏ ra biết ơn sự rộng lượng và tốt lành của Đảng, lẽ ra ông đã phải tự giam mình nơi cô đơn tĩnh mịch để sám hối cho cái tội lỗi ghê gớm của mình. Ngược lại, ông còn mở lớp dạy tiếng Pháp, quan hệ với những thanh niên mà ông có thể đầu độc và làm họ xa rời Đảng. Vì lý do đó, tất cả lớp dạy tư nhân đều bị cấm.
Với bộ dạng bệ vệ uy nghiêm, với bước đi của quan lớn, hắn bước ra khỏi nhà, theo sau là bầy chó sói. Cái độ lượng của Đảng vừa chối từ một cái phao cứu hộ cho kẻ đang bị chết đuối. Phúc đức thay cho thứ nhân đạo không muốn làm kéo dài mạng sống của một sinh vật khốn khổ, nhưng rất xứng đáng, đang lê lết trong sự đoạ đầy của cơn thuỷ triều cộng sản, hoàn toàn bất lực cho mình và bất lực cả cho những người đang quản lý nó.
Chuyện trả giá để bán những bàn ghế thì rất khó khăn và kéo dài. Đồ đạc gồm toàn những thứ đáng giá: những chiếc ghế bành, chiếc trường kỷ, tủ chưng những món lạ và đồ kỷ niệm, bàn giấy, tủ sách, thảm lót hiệu Hàng Kênh, những bức tranh sơn mài của Coromandel, tất cả đều làm theo kiểu xưa và toàn bằng gỗ gụ, những bình hoa lớn bằng sứ của Trung Quốc đạt trên những cái đế ba chân, những bình đựng bông bằng pha lê, những bức tranh của các hoạ sĩ danh tiếng đóng trong những cái khung mạ vàng… Lê Phố là hoạ sĩ đã vẽ kiểu mấy cái tủ đựng bát đĩa, những cái ghế bành gỗ và những món đồ gỗ khác từ những kiểu dáng xưa, nhưng tất cả đều do nhà điêu khắc nổi tiếng Ngô Trâm chạm trổ. Trong thời tôi còn huy hoàng, những món này là cả một gia tài, nhưng lúc còn làm luật sư, tôi chỉ có việc mở vòi là tiền chảy vào như nước. Đời thật ngắn và chịu bao nỗi thăng trầm. Nếu một người có thể tự cho mình các thứ mà vẫn nằm trong khuôn khổ của xã hội, thích hợp với những ý thích của mình thì tại sao không họ lại không được vui hưởng một cách thanh tao và thuần khiết những cái đẹp và đường nét? Khi tương lai tôi vẫn chưa bị phủ mờ bởi những hiểm nguy nhất định, tôi đã rất bằng lòng với cuộc sống mà không hề cảm thấy có nhu cầu tự đặt cho mình câu hỏi liên quan đến chuyện mình thích gì hay đam mê gì. Nhưng khi biết không sớm thì muộn tôi phải chia tay vĩnh viễn những vật dụng đã cho tôi những niềm vui không tả và không bao giờ quên được, tôi đã dành hết niềm vui để mở ra những đối thoại với từng món trong bọn chúng để gợi nhớ cho tôi những kỷ niệm dính liền với chỗ đó, và cũng là biểu lộ con người đạo đức và tâm linh của tôi. Tôi cố tìm thấy tôi, nhận ra tôi qua những đồ vật mà tôi đã treo móc vào chúng những thớ thịt và mẩu vụn của cuộc đời và quá khứ của tôi.
Tại sao ngày xưa tôi không mua sắm những món làm theo phong cách phương Tây tiện dụng hơn mà những đường nét sắc sảo gọn gàng, cái đơn giản về mầu sắc và cách bố trí hài hoà rất hợp với cái tính Cartesien của tôi [2], hợp với cái tình yêu của tôi dành cho sự logic và sự sáng tỏ? Tại sao giờ đây tôi phải chịu một ngọn lửa bất ngờ sôi sục kéo dài cháy đốt tâm can cho những dấu vết của quá khứ đầy dân tộc và truyền thống kia?
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường



Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
___________________________
[1] Ý nói về câu chuyện về cuộc đời vô vị buồn chán của một bà tên Emma, vợ của một ông bác sĩ tầm thường sống ở một vùng quê buồn bã… (N.D.)
[2] René Descartes (1596 - 1650), nhà triết học, nhà toán học, nhà vật lí học người Pháp. Descartes là nhà nhị nguyên luận. Trong học thuyết về nguồn gốc của vũ trụ, trong vật lí học, Descartes là nhà duy vật, coi "vật chất là thực thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại và của nhận thức" (Mac). Descartes đưa ra giả thuyết về sự phát triển tự nhiên của sự sống trên Trái Đất; theo quan niệm của Descartes, vũ trụ là một cỗ máy khổng lồ, con người và cơ thể động vật là những cỗ máy phức tạp, tất cả vận động theo các định luật cơ học. (N.D.)

1      2     3      4      5      6

No comments:

Post a Comment