Saturday, November 16, 2013

CÁC VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI HÔM NAY - HUMAN LIFE AND PROBLEMS - Phần 2

HÒA THƯỢNG K. SRI DHAMMANANDA
THÍCH TÂM QUANG DỊCH

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN TRONG HÔN NHÂN
Hầu hết ngày nào chúng ta cũng thấy người ta phàn nàn về hôn nhân của họ. Giới trẻ đọc tiểu thuyết lãng mạn và xem các phim ảnh lãng mạn, thường kết luận hôn nhân là một thảm hoa hồng. Đáng tiếc thay, hôn nhân không ngọt ngào như người ta tưởng. Hôn nhân và những vấn đề của hôn nhân tương quan mật thiết với nhau và ta phải nhớ khi thành lập gia đình ta phải đương đầu với một số vấn đề và trách nhiệm mà ta chưa từng biết và trải qua trước đó.

Sau cái vui của ngày cưới, thực tế sống chung bắt đầu thử thách cặp vợ chồng mới cưới, với một số đôi, viễn cảnh thật dễ sợ. Thiếu giao tiếp hay phản ứng với thân nhân trong gia đình là một số yếu tố có thể gây cho gia đình không hạnh phúc. Có khi vợ chồng lâm vào cảnh chiến tranh lạnh.
Vài ví dụ về chuyện vợ chồng không nói gì với nhau thường thấy là: (a) ngay tại bàn ăn, người chồng lại cắm đầu vào tờ báo; (b) khi người chồng đi làm về lại bận rộn với những thú tiêu khiển riêng của mình hoặc coi truyền hình, và vào ngày nghỉ cuối tuần lại đi chơi đánh gôn hay say đắm các trò giải trí khác; (c) người chồng không bộc lộ một cảm nghĩ nào hay lo toan gì cho vợ, bỏ quên cả những ngày kỷ niệm quan trọng như ngày thành hôn và sanh nhật.
Về phần người vợ, sau khi thành hôn thì không còn chú ý đến diện mạo và dáng vẻ của chính mình. Ăn mặc tồi tàn, người vợ không còn giữ cái phong độ khả ái với bạn bè khiến người chồng không còn thấy cảm hứng trao đổi chuyện trò với vợ. Cuộc sống trở nên buồn tẻ dẫn đến người chồng tìm thú vui trong rượu chè hay an ủi bên ngoài đời sống vợ chồng.
Khi nào sự bất mãn đầu tiên xâm nhập vào hôn nhân? Với một số cặp vợ chồng, năm đầu tiên là một năm tốt đẹp; với một số cặp, cuộc sống lứa đôi trở thành sự chịu đựng căng thẳng. Đứa con thứ nhất ra đời đem khó khăn cho cả hai chồng và vợ, vì cả hai phải vật lộn trước thực tế lần đầu tiên làm cha, làm mẹ.
Một số người nói rằng năm đầu tiên sau khi cưới, người chồng nghe lời vợ. Từ năm thứ hai thì người vợ phải nghe lòi chồng. Từ năm thứ ba thì lối xóm nghe thấy cả hai vì chồng vợ la lối lẫn nhau. Thông thường, sự bất mãn càng ngày càng lớn nếu hôn nhân không được sửa soạn cho chu đáo. Chẳng hạn, lời khuyên bảo hoặc tư vấn trước khi thành hôn có thể giúp cho đôi vợ chồng chuẩn bị đối phó với những điều bất ngờ, thú vị hoặc trái lại mà họ sẽ gặp phải trong cuộc sống lứa đôi.
Sự bất mãn mà con người hầu hết gặp phải sau khi chung sống nhiều năm phát xuất từ quan niệm sai lầm: Đứng núi này trông núi nọ. Xu hướng này thu hút cả nam giới lẫn nữ giới ở bất cứ lứa tuổi nào. Sự thao thức này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống lứa đôi, cả với phụ nữ.
Chán chường là nguyên nhân thông thường, thất vọng với người hôn phối cũng là điều phàn nàn thường thấy. Khi những ước vọng không đạt được, cái túi cầu nhầu bắt đầu phát triển. Trong bất cứ trường hợp nào, khi không có lời nguyện trung thành cho hôn nhân và thiếu căn bản đạo lý, mọi việc có thể xẩy ra bất cứ lúc nào hủy hoại cuộc hôn nhân.
Gốc rễ của sự bất mãn là gì? Nhiều bà vợ nói họ mong người chồng lắng nghe quan tâm đến nhu cầu của họ, biểu lộ cảm xúc, nghĩ tốt nhiều hơn về họ. Chung qui là thiếu chuyện trò tâm sự trong hầu hết các cuộc hôn nhân hiện đại. Trong quá khứ vì lối giáo dục, người vợ vui lòng ở đằng sau và chấp nhận bất cứ sự đối xử nào trong tay người chồng. Nhưng thời buổi đã thay đổi. Phụ nữ được giáo dục tốt hơn nhiều, nắm giữ công việc đầy trọng trách, hiểu biết quyền lợi của mình. Phái nam phải chấp nhận thực tế này, phải đối xử với vợ bình đẳng trong cuộc sống chung. Phái nam không còn có thể cho nữ giới thấp hơn nam giới là điều tất nhiên nữa.
Với hầu hết mọi người đàn ông, hôn nhân là mục tiêu chính tự họ đặt ra để hoàn thành. Khi đã hoàn thành, họ đem hết năng lực, thời gian vào khía cạnh quan trọng nhất của cuộc sống, tức sự nghiệp hay công việc làm ăn.
Ước vọng của người đàn bà lại khác hẳn. Sau khi thành hôn, người đàn bà muốn được yêu và gần gũi nhiều hơn, cho nên họ muốn có nhiều thì giờ với người chồng hơn.
Mang những vấn đề bên ngoài về gia đình, đổ trên đầu vợ và con sẽ làm hại đến sự ổn định của gia đình và còn tăng thêm sự căng thẳng.
Trong các xã hội Á Châu, vấn đề can thiệp của hai bên nội-ngoại rất phổ biến. Điều này đặc biệt là như thế vì hai bên nội-ngoại có thể ảnh hưởng đến quyết định của con họ. Điều phàn nàn chung của những người vợ là người chồng thường nghe cha mẹ hơn là nghe vợ. Sự can thiệp của hai bên nội-ngoại trong việc nuôi dưỡng con cái cũng là một vấn đề thường thấy. Trong khi ông bà có xu hướng lỏng với con họ và đôi khi làm hư con, sự mâu thuẫn các thế hệ thường nổi bật trong những trường hợp như vậy.
Một số cặp vợ chồng trẻ không vui lòng cho phép con họ gần gũi với ông bà, nghĩ rằng những đứa con này sẽ học hỏi lối sống cổ hủ của ông bà.
Tại Ấn Độ, Sri Lanka và cả đến Mã Lai Á, chế độ hồi môn là một trong những trở ngại chính cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hồi môn có thể gồm có những số tiền lớn, một căn nhà, một xe hơi đắt tiền, những thứ như vậy, hoặc thậm chí còn nhiều hơn nữa trông vào của cải giàu có của cha mẹ. Và vì lẽ cha mẹ muốn cho con gái lập gia đình, cha mẹ hứa hẹn nhưng không thể giữ lời húa được và cuộc hôn nhân bắt đầu rạn nứt.
Hệ thống hồi môn đã bị lạm dụng. Ở thời cổ, hồi môn cho người con gái để đề phòng trường hợp khẩn cấp. Không giống như ngày nay, thời đó người phụ nữ trông cậy hoàn toàn vào người chồng, hồi môn là một loại bảo hiểm trong trường hợp không thể nuôi nổi vợ. Sau này, hồi môn được giao cho cha mẹ chồng để giữ và nay nó trở thành bắt buộc với cha mẹ bên gái phải đưa hồi môn cho cha mẹ bên chồng.
Người ta thường nghĩ rằng lập gia đình là một bổn phận, hôn nhân là một phần rất quan trọng trong cuộc sống. Tuy nhiên, để bảo đảm cho hôn nhân thành công, cặp vợ chồng phải hòa hợp đời sống của họ bằng cách giảm thiểu bất cứ dị biệt nào có thể có giữa hai người. Đôi lứa phải học hỏi chấp nhận những nhược điểm yếu kém của nhau. Dù hạnh phúc, những cặp vợ chồng tương đắc nhất vẫn có thể gặp phải mâu thuẫn, đau buồn, thất vọng và nóng giận. Họ nhận thức những nhược điểm trong những lãnh vực như vậy bằng cách bày tỏ sự thừa nhận giá trị của nhau, thiện chí trong việc chuyện trò, bày tỏ rõ ràng những cảm xúc. Không trốn tránh bỏ qua các mâu thuẫn. Những sự bất đồng làm hôn nhân mạnh thêm chứ không phải chia rẽ. Những cuộc cãi cọ rất cần thiết cho một hôn nhân thành công . Nhưng cãi cọ chỉ chấm dứt thành công khi cả hai bên đều có thể tha thứ, và bỏ qua.
Hãy có thiện chí trong việc xây dựng gia đình. Đừng nên cho rằng vì mười năm đầu hay 20 năm đầu là tốt đẹp, 10 năm hay 20 năm tiếp theo cũng vẫn sẽ tốt đẹp. Tình yêu cần được nuôi dưỡng, chia sẻ vui buồn. Cần phải có thời gian, sự quan tâm, can đảm và hiểu biết.
Một nguyên nhân chính về vấn đề hôn nhân là sự nghi ngờ, mất tin tưởng. Cả chồng lẫn vợ nên bầy tỏ lòng tin tưởng tuyệt đối với nhau, cố gắng không giấu giếm điều gì với nhau. Điều giấu giếm tạo ra nghi ngờ, nghi ngờ dẫn đến ghen tuông, ghen tuông sinh ra sân hận, sân hận gây ra thù oán, thù oán đưa dến kết qủa ly thân hay ly dị, tự tử, và cả đến giết người.
Nếu một cặp vợ chồng chia sẻ buồn vui trong đời sống hàng ngày, họ có thể an ủi lẫn nhau, giảm thiểu những nỗi buồn đau. Chồng và vợ không nên tưởng rằng chỉ có niềm vui trong đời sống lứa đôi. Sẽ có rất nhiều lúc đau thương, khổ sở, khó khăn nặng nề, hiểu nhầm. Cùng nhau bàn luận mọi vấn đề giúp họ có niềm tin để giải quyết bất cứ trở ngại nào phải đương đầu. Họ phải có sức mạnh ý chí mạnh mẽ để giảm thiểu áp lực căng thẳng và phát triển lòng tin tưởng để sống chung trong sự hiểu biết và khoan dung.
Người đàn ông cũng như người phụ nữ cần sự an ủi của nhau, khi phải đương đầu với các vấn đề khó khăn. Cảm nghĩ bất an, lo âu sẽ biến đi, đời sống sẽ trở thánh có ý nghĩa, hạnh phúc và thích thú hơn, nếu có người muốn chia sẻ gánh nặng của mình.
Khó khăn trong hôn nhân gợi ý kẻ yếm thế nói, hạnh phúc lứa đôi chỉ an lạc nếu trong hôn nhân ấy, người vợ là một người mù, và người chồng là một người điếc; với người vợ mù thì đâu có thể nhìn thấy những lỗi của người chồng, và nếu người chồng điếc thì đâu có nghe thấy những lời mè nheo của người vợ.
Sống với nhau trước khi cưới hay cùng nhau chung sống không hôn thú thường được cho là môt sự lựa chọn thoải mái giữa những người trẻ Phương Tây, và đang trên đà phát tiến tại các nước Á Châu. Người ta được biết một nửa số các cặp vợ chồng tại Hoa Kỳ và Anh Quốc đã cùng nhau chung sống trước khi cưới. Ta có thể thấy việc này trên phim ảnh và báo chí. Mặt khác đối với người bảo thủ ở Phương Đông, sống chung trước khi cưới vẫn là điều cấm kỵ. Vấn đề này được nêu lên cũng đủ làm cho người ta cau mày nhất là các người già cả. Tuy nhiên chúng ta cũng phải thêm là thế giới đang lùi quá nhanh, nhiều giá trị mới đã được áp dụng tại Phương Đông, đặc biệt tại các thành thị.
Tại Hoa Kỳ, sống chung chưa cưới tăng trưởng nay được chấp nhận, một phần ba hôn nhân này kết thúc trong ly dị.
Những trường hợp bi thảm xẩy ra cho những cặp vợ chồng chung sống trước khi cưới, thí dụ khi người đàn bà mang thai, sau này người đàn ông chung sống lại không nhận trách nhiệm. Việc này đưa đến vấn đề của các bà mẹ không hôn thú.
Giới truyền thông đưa tin nhiều bà mẹ không hôn thú bỏ rơi hay vứt bỏ con họ tại các đống rác, bụi cây hay nhà vệ sinh, cống rãnh và dòng sông là một thực trạng đáng buồn mà không một ai có lòng quan tâm và suy nghĩ đứng đắn trong xã hội có thể bỏ qua. Với những bản tin như vậy xuất hiện hầu như hàng ngày, dân chúng bị cảnh báo, bị buồn đau và các biện pháp cứu chữa được kêu gọi vì vấn đề ngày càng nghiêm trọng đến mức báo động.
Một số trẻ bị bỏ rơi được thoát chết vì chúng được phát hiện đúng lúc bởi những người thu dọn rác, dân chúng, người qua đường, dầu rằng chúng bị đặt vào tình thế nguy hiểm như chó hoang, chuột, kiến và mưa nắng. Người ta băn khoăn hỏi làm sao những người mẹ có thể bỏ con cái được như vậy vì lẽ cả đến súc vật cũng còn biết bảo vệ con cái chúng. Cũng nên nhớ rằng không phải tất cả những đứa trẻ sinh ra từ người mẹ không hôn thú đều là những thiếu nữ trẻ. Những phụ nữ đã trưởng thành cũng tội lỗi trong việc làm kinh khủng này. Cha mẹ nên cố gắng tìm hiểu con cái của mình. Bậc cha mẹ nên đoan chắc với con cái sẽ hướng về phía họ bất cứ lúc nào chúng gặp khó khăn. .
Kẻ bỏ rơi con cái cần được giúp đỡ. Họ cần đến sự hướng dẫn. Chúng ta không nên đơn giản chỉ trích Phương Tây mỗi khi vấn đề phát sinh nơi đây. Rõ ràng giới trẻ của chúng ta càng ngày càng tây phương hóa trong việc suy nghĩ, cách nhìn, cách sống và hành động. Đây là lãnh vực cần đến vai trò vai trò của bậc cha mẹ.
Một số cha mẹ quá bận trong công việc nên đã vô tình chểnh mảng săn sóc con cái họ. Vậy nên, cha mẹ phải dành nhiều thì giờ hơn nữa cho con cái để duy trì kỷ luật và giáo dục chúng về điều phải trái.
Chúng ta cần một giải pháp nhân đạo trong vấn đề các bà mẹ không hôn thú ; vấn đề có thể bắt đầu với những gia đình có bố mẹ và con không trò truyện tâm tình cởi mở. Khi việc xẩy đến cho đứa con gái, đứa con gái này sợ hãi bị phạt hay không được gia đình và xã hội chấp nhận, cho là một điều sỉ nhục ám ảnh trong khi nó không có ai để tìm sự hướng dẫn và giúp đỡ. Nó đã phải trả giá lỗi lầm của nó bằng cách gánh chịu một mình. Cha mẹ không chấp nhận và xã hội kết tội, kết quả nó trở nên tuyệt vọng.
Để vượt qua vấn đề này, những nỗ lực phát triển gia đình phải được xúc tiến và cặp vợ chồng cần được huấn luyện để trở thành các bậc cha mẹ tốt qua các chương trình giáo dục về giới tính để giới trẻ ý thức được trách nhiệm của mình. Các đoàn thể tôn giáo và các cố vấn tôn giáo có thể giúp đỡ chính quyền để chống lại cái bệnh xã hội khủng khiếp này.
Mại dâm là một loại thương mại bành trướng tại nhiều quốc gia. Những tổ chức du lịch và những du khách giàu có đã làm cho tình trạng buôn bán này xẩy ra trên phạm vi rộng lớn.
Tình dục trở thành ngành kinh doanh trị giá hàng tỉ đô la, ngày nay nhiều trẻ em bị mua đi bán lại, trao đổi như các hàng hóa khác, Bà Aaron Sachs, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Thế Giới tại Hoa Thịnh Đốn lên tiếng báo động: "Mới có 10 tuổi đã thành một thiếu phụ rồi. Mới 20 tuổi đã là một bà già rồi. Và đến 30 tuổi là chết. Nó trở thành câu nói phổ biến tại một số quốc gia".
Trong thị trường buôn bán tình dục ngày càng bành trướng, mại dâm trẻ em là món hàng đắt nhất. Việc này rất đúng tại Á Châu, trung tâm kỹ nghệ buôn bán trẻ làm mại dâm. Báo cáo về sự tiến bộ của các quốc gia do Quỹ Cứu Trợ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) liệt kê Thái Lan là quốc gia thứ ba có nhiều trẻ em làm mại dâm nhất. Vào khoảng 100,000 trẻ em làm nghề mại dâm tại xứ này. Nắm giữ kỷ lục là Ấn Độ với 400,000 đến 500,000 trẻ. Hoa Kỳ đứng thứ hai với 300,000 trẻ. Phi Luật Tân dứng hàng thứ tư với 60,000 trẻ. Số trẻ dưới 18 tuổi làm mại dâm lên đến trên hai triệu'. Báo cáo cho biết "theo ước tính đúng, 1 triệu tại riêng ở Á Châu, và 300,000 ở Hoa Kỳ".
Đa s? các trẻ làm mãi dâm đều là gái, nhưng tại nhiều nơi trên thế giới con trai cũng được sử dụng trong việc này.
Theo một nhân viên trong một tổ chức phi chính phủ ECPAT (Chấm dứt trẻ làm mại dâm trong du lịch Châu Á), những người du lịch giàu có nhận thấy rõ rằng mạng người ở Thế Giới Thứ Ba (Các Quốc Gia Không Liên Kết) thì rẻ hơn.
Tại sao mại dâm trẻ trở thành phổ biến trong những năm vừa qua? Một lý do có thể là do sợ hãi bị lây bởi HIV, gây ra do vi rút của bệnh AIDS.
Những khách du lịch mua dâm cho rằng trẻ em không bị bệnh AIDS. Với sự lo sợ lây nhiễm HIV, nhiều người đã tìm kiếm các nạn nhân ngày càng ít tuổi, và bất hạnh thay sự đòi hỏi này được đáp ứng bởi 'những kẻ môi giới ham tiền quá đỗi', nhận xét của ông Ramesh Shresta, một nhân viên của UNICEF có văn phòng tại Hà Nội Việt Nam.
Các chuyên gia cho rằng nghèo khổ là nguyên nhân khiến trẻ em đã bị đẩy vào thị trường mại dâm. 'Trẻ em bị lôi cuốn vào mại dâm vì mại dâm dễ kiếm tiền hơn công việc lặt vặt khác'. Nghị Sĩ Phi Luật Tân Ernesto F. Herrera nói trong bài diễn văn vừa qua của ông: 'Trẻ em đầu đường xó chợ tại Rio, Nairobi, Manilla và Bombay thường phải làm nghề mại dâm để sinh sống vì không làm gì khác được để sống còn', trên đây là nhận xét của Hội Nghị Thế Giới về sự khai thác trẻ em làm nghề mại dâm . Hội Nghị đã chiếu một ánh sáng hãi hùng về những hoàn cảnh của các trẻ em nghèo khắp thế giới bắt buộc hy sinh cuộc sống để có việc làm và không được hưởng một sự giáo dục nào tại trường học.
Trong một số quốc gia, những trẻ em lang thang là những trẻ đầu tiên trở thành nạn nhân làm mại dâm, đôi khi bị giữ trong các nhà chứa (bán dâm). Những đứa khác rơi vào làm mại dâm trong trường hợp ngẫu nhiên và không phải là một phần của mạng lưới nào. Không có gia đình, đơn giản là chúng phải tìm cách để sống còn. Kế hoạch xã hội lung lay đẩy những đứa trẻ này vào những phương tiện sinh kế mà chúng biết là nhục nhã ô danh nhưng được đền bù dễ dàng hơn.
Tại Châu Mỹ La Tinh, những đứa trẻ đầu đường xó chợ là những đứa thuộc gia đình nghèo khổ nhất, thường ở trong các khu đầy bạo lực, chúng bị gia đình ruồng bỏ, theo như nhận xét của Per-Erik Astrom làm việc cho Quỹ Cứu Trợ Nhi Đồng Thụy Điển.. ông nói: "Một đứa trẻ 15 tuổi, nếu đã sống đến tuổi đó thì nó biết mọi chuyện, mọi cách để sinh tồn, nó có hai em gái, và chính nó đã trở thành ma cô dẫn gái!"
Một tổ chức tại Chile (Nam Mỹ), CERSO báo cáo: "Một số người mẹ đã bắt con đi xin tiền ngoài hè phố tuy biết mọi sự nguy hiểm là những đứa trẻ ấy sẽ trở thành nghiện ma túy hay mại dâm". Trên 10 năm nay, Ladawan Wongsiwong, nghị sĩ đắc cử hai nhiệm kỳ của Tỉnh Payao miền Bắc Thái, đã đấu tranh chống lại việc kinh doanh trẻ em mại dâm ước tính có doanh thu 1.5 tỷ Mỹ Kim (3.6 tỷ tiền Mã Lai) hàng năm.
Cuộc vận động lớn lao chống lại bệnh xã hội này của bà gồm có 4 mũi dùi chiến lược trong đó có một chiến dịch làm cho dân chúng hiểu, nguyên nhân, hậu quả và đường lối để ngăn chặn vấn đề.
Mặc dù có một số người hiểu rõ vấn đề, nhưng vẫn còn nhiều bậc cha mẹ bám vào ý kiến cổ hủ cho mại dâm là một nghề nghiệp tốt mang lợi tức cao cho con gái họ. Chúng tôi cố gắng thay đổi tất cả bằng cách mở những khóa huấn luyện, hội thảo và các buổi học tập ngắn với cha mẹ cũng như để phổ biến tin tức qua truyền thông đại chúng, đó lời tuyên bố của Ladawan, 40 tuổi, thuộc đảng dân chủ đối lập tại Thái lan, và là chủ tịch Hội Phát Triển Thiếu Nữ Miền Bắc Thái.
Ladawan đề nghị ngành lập pháp nên làm việc hữu hiệu, đó là điều cấp bách, tất cả các quốc gia phải đi đến một thỏa ước và hợp tác coi việc lạm dụng phụ nữ và trẻ em là một tội ác vì lẽ mại dâm trẻ em không phải chỉ có tại Thái Lan khi những người nước ngoài cũng góp phần vào điều đó.
Việc đòi hỏi thiếu nữ trẻ tuổi của những du khách Âu Châu và người ở các nước phát triển dường như vô hạn độ. Theo nhóm Terre Des Hommes, một nhóm chủ trương bênh vực trẻ em quốc tế, mỗi năm trong 10 ngàn du khách đi tìm thú vui từ Đức Quốc viếng thăm Thái Lan thì có 10% làm tình với những trẻ em vị thành niên. Thực tế là các thiếu nữ trẻ tuổi từ những gia đình nghèo, thiếu thốn không thể theo học đến trung học, đã bị lôi cuốn vào làm mại dâm.
Người ta đã đưa tin một thương gia Thụy Sĩ đã lạm dụng tình dục 1500 trẻ em ở Sri Lanka trong một thời gian 8 năm!
Một ngành kinh doanh đang phát triển nhằm khai thác mục đích khiêu dâm. Thái Lan giữ kỷ lục cao nhất về buôn bán trẻ em, và khiêu dâm bằng trẻ em. Điều đó giải thích cho các thể loại phim ảnh kích dục trẻ em trong các băng hình trái phép với những cảnh đồng tình luyến ái đồi trụy sa đọa.
Việc khám phá mới đây một băng đảng bắt cóc, và lôi cuốn trẻ em vào tình dục tại nước Bỉ đã cảnh tỉnh dư luận quần chúng, cho thấy sự khai thác tình dục trẻ em không chỉ là một vấn đề tại Thái Lan, Ba Tây, Bangladesh, Ấn Độ và Sri Lanka.Nó hiện hữu khắp nơi kể cả Âu Châu. Hội Nghị Quốc Tế chống lại việc buôn bán trẻ em làm mại dâm đã được khởi sự hợp tác tại các cấp địa phương, quốc gia, và quốc tế để chống lại vấn đề trẻ em làm mại dâm. Xét ở mức cam kết quốc tế, Hội Nghị Thế Giới đã vạch ra các ưu tiên trong việc ngăn chặn, bảo vệ, phục hồi và hoàn lương các trẻ nạn nhân của nạn khai thác tình dục.
Thuật ngữ 'lao động trẻ em' định rõ về việc sử dụng trẻ em trai và gái khi chúng còn quá bé để thuê chúng làm việc hay khi chúng phải làm việc không thích hợp và không an toàn với tuổi của chúng hay ở những hoàn cảnh có thể gây hại cho sự chăm sóc sức khỏe của chúng. Thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau tùy lúc và tùy nơi, tùy theo quan niệm xã hội và trách nhiệm đối với giới trẻ.
Tại Mã Lai, việc sử dụng trẻ em được ấn định trong Điều Luật 1966 về việc sử dụng trẻ em và người trẻ, nói rằng không được sử dụng bất cứ trẻ nào hay người nào dưới 14 tuổi làm việc ngoại trừ một số hoàn cảnh, như công việc nhẹ nhàng hợp với khả năng của trẻ trong việc giúp đỡ gia đình. Tùy theo điều kiện, công việc như vậy tại xưởng, không được dùng trẻ em dưới 16 tuổi.
Bộ Lao Động Mã Lai đã đẩy mạnh hoạt động thực thi pháp luật nhằm chống lại việc sử dụng trẻ con lao động bất hợp pháp, nhất là trong lúc chúng nghỉ hè. Việc sử dụng trẻ em bất hợp pháp do sự thiếu nhân công trầm trọng trong nước. Các cuộc thanh tra định kỳ, kiểm tra đột xuất kể ngày đêm đã được tổ chức bởi Bộ này..
Chuyên gia về trẻ em trong môt hội nghị khu vực tại Manila nói rằng họ không những cần tiền nhiều hơn nữa cho phúc lợi của trẻ em mà cần đến công sức hơn nữa của giới truyền thông trong việc làm cho những người lập chính sách biết đến cảnh khốn khổ của trẻ em Châu Á.
'Trẻ em nghèo, bị khai thác hay bắt buộc làm việc, nhắc nhở thế giới biết rằng kinh tế phát triển cũng không cho chúng lợi ích gì về sự thịnh vượng', theo Pratima Kale Giám Đốc khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc. 'Tình trạng bất bình đẳng có thể và thường dẫn đến giận dữ, vỡ mộng và bạo động nếu những nhu cầu căn bản không được đáp ứng; nếu quyền căn bản không được thi hành; và nếu trẻ không thấy một hy vọng gì về tương lai'. Bà đã nói như trên trong buổi hội khai mạc Hội Nghị Cao Cấp Á Châu về Quyền Trẻ Em và giới truyền thông.
Sai lệch về tình dục, đôi khi được gọi là sự lầm lạc trong tình dục là mối bận tâm của nhân loại từ đầu lịch sử. Theo thông lệ khi nói đến những người trình bày cái mà chúng ta gọi là sự sai lệch tình dục, hay trái với cái mà xã hội hiện đại cho là bình thường, vì tình dục sai lệch. Cho nên nhiều người, thấm nhuần trong tâm trí của mình, đã phân loại và nói về họ một cách tùy tiện là người đồi trụy, người bệnh tình dục, người loạn thần kinh về tình dục và vân vân..., thường không hiểu rõ ràng điều kiện mà họ đề cập đến. Theo tục lệ xã hội nhìn vào kẻ tình dục đồi bại như mang lại điều ô nhục cho gia đình.
Sai lệch tình dục như đồng tính luyến ái, làm tình với cả hai giới, ăn mặc như người khác giới, từ lâu là những đề tài cấm kỵ ít khi được đem ra thảo luận trong một xã hội mực thước. Lạ lùng thay ngày nay các trẻ vị thành niên lại thông thạo vấn đề và sæn sàng tiếp thu cái mới về vấn đề này.
Rất nhiều chứ không phải là không có, người ta liên tưởng từ "đồng tính luyến ái" với người đàn ông õng ẹo hay đàn ông mặc váy đàn bà. Đó là hình ảnh rập khuôn về đồng tình luyến ái giống như mẫu rập khuôn, che lấp cái phức tạp của nó.
Từ "đồng tính luyến ái" áp dụng cho người cùng một giới lôi cuốn nhau cả về tinh thần lẫn xác thịt . Cả đàn ông lẫn đàn bà có thể bị gọi là "đống tính luyến ái" hay "phóng đãng (gay)", nhưng cái này chỉ là thuật ngữ che đậy nhiều sắc thái bên dưới. Nói rộng ra, đồng tính luyến ái bao gồm đàn ông (gay), giả dạng người khác phái (cả nam lẫn nữ), thay đổi giới tính (nữ và nam), và đồng dục nữ.
Và phức tạp hơn, có sự khác biệt tinh vi trong từ ngữ, "giả dạng người khác giới" và 'thay đổi giới tính'. Theo nhu sự giải nghĩa của hầu hết các từ điển thì người giả dạng là người mặc quần áo người khác giới, thường nhận thấy hài lòng trong việc làm này .
Mặt khác người thay đổi giới (theo hiểu biết thông thường) là môt người nào đó quyết định sống như người khác giới. Đôi khi người thay đổi giới còn đi xa hơn nữa là anh ấy hay chị ấy cần đến giải phẫu để thay đổi.
Môt số người thích giả dạng mặc đồ khác giới có thể không phải là đồng tính luyến ái (gay); họ thích mặc đồ khác giới, nhưng không bị lôi cuốn tình dục với người cùng giới.
Người đồng tính luyến ái quyến rũ người cùng loại đồng tính luyến ái, và không phải hẳn là đàn ông. Khi được hỏi tại sao một người có tình dục bình thường lại có thể yêu đương một người khác cùng giới, người đó trả lời là không có gì bất thường nơi anh ta. Tuy nhiên đa số dân chúng khó có thể chấp nhận người đồng tính luyến ái là người bình thường.
Giả dạng và thay đổi giới tính, mặt khác, tự coi mình như phái nữ của cộng đồng đồng tính luyến ái. Họ thường cảm thấy họ là phái nữ nhung ở trong thân hình người đàn ông. Và là phụ nữ, họ bị lôi cuốn bởi người đàn ông bình thường chứ không phải người đồng tính luyến ái.
Đương nhiên thế giới là môt nơi hiu quạnh và thù nghịch đối với người giả dạng và thay đổi giới tính. Rất khó cho những người này có quan hệ đầy ý nghĩa vì chẳng có mấy người bình thường muốn đối đầu với cảm giác ô danh có tính chất xã hội và tranh chấp tình cảm đến từ một người thích giả dạng.
Nguyên nhân nào một người trở thành đồng tính luyến ái? Theo một số các nhà nghiên cứu, sự quyến rũ tình cảm và tình dục với người bạn cùng giới có thể là do di truyền, mặc dù các yếu tố xã hội và nuôi dưỡng cũng được cho là đóng một vai trò. Đồng tính luyến ái không phải là sự rối loạn về tinh thần hay sức khỏe tuy rằng nhiều người cho là bất bình thường. Đồng tính luyến ái không còn bị liệt kê là bệnh hỗn loạn tinh thần từ đầu thập niên 70 khi hiển nhiên người đồng tính luyến ái về tâm lý cũng không khác gì người bình thường. Họ cũng có năng lực như người bình thường để hoạt động trong xã hội, đạt mục đích, đáp ứng, và phát triển đặc điểm cá nhân của họ.
Tuy nhiên giả dạng thì coi như tinh thần hỗn loạn, vì người giả dạng có cảm nghĩ là mình bị mắc trong một thân hình đàn ông, khiến cho nội tâm rối loạn, nhưng trái lại người đồng tính luyến ái cảm thấy hoàn toàn thoải mái với tính chất đàn ông của họ.
Mặc dù người đồng tính luyến ái có thể thừa nhận định hướng nhục dục của mình, nhưng xã hội chưa sæn sàng chấp nhận họ. Họ có thể sæn sàng chia sẻ tư tưởng và cảm nghĩ của họ với thân quyến và bạn bè thân thiết nhưng không quá công khai. Người đồng tính luyến ái phải đi trải qua vài giai đoạn đấu tranh với chính mình trước khi chấp nhận định hướng tình dục của bản thân. Họ có thể không làm gì được về 'hoàn cảnh' của họ và chúng ta cũng không nên ngăn chặn theo trào lưu xã hội bắt nhiều người trong bọn họ phải dấu sự thực chính bạn thân họ trong tủ áo. Từ quan điểm của người Phật Tử, loại hành động tình dục này được coi như tà dâm đối với những người từ bỏ dục lạc để sống một cuộc đời thánh thiện. Với những người khác việc này được coi như lạm dụng tình dục.

[3]
Thái độ hiện đại của các bà mẹ đi làm đối với con cái có khuynh hướng làm giảm thiểu sự hiếu thảo được quý trọng từ lâu đời mà người ta hy vọng những đứa con gìn giữ. Thay thế sữa mẹ bằng sữa chai cũng là một nguyên nhân nữa. Khi các bà mẹ cho các con bú bằng sữa của mình, nâng niu đứa con trong tay, tình thương yêu đậm đà giữa mẹ và con trở nên càng nẩy nở mạnh mẽ hơn. Người mẹ cho con bú bằng sữa của mình, qua tình mẫu tử thiêng liêng, thường cảm thấy vô cùng sung sướng khi biết rằng mình cung cấp cho con, như ý muốn của tạo hóa đã ban, một cái gì chính của mình mà không một ai khác có thể cho được. Ảnh hưởng của người mẹ đến đứa trẻ ngày càng gia tăng và càng ngày càng trở nên rõ rệt. Trong hoàn cảnh ấy, tình hiếu thảo, gia đình keo sơn và thuận thảo luôn luôn tăng trưởng.
Có nhiều lập luận tiến bộ thuyết phục các bà mẹ cho con bú bằng sữa mẹ là tốt nhất. Lý do bao gồm cả lợi ích về cả vật chất lẫn tinh thần của cả mẹ lẫn con. Chất đạm protein và các thành phần khác trong sữa mẹ khác hẳn phẩm chất của sữa bò. Sữa mẹ tinh khiết và không sợ bị nhiễm trùng. Cho con bú bằng sữa mẹ có thể chống lại hữu hiệu hơn sự nhiễm trùng và các bệnh truyền nhiễm. Cho con bú bằng sữa mẹ cũng ít bị dị ứng hơn. Nó cũng rẻ hơn là sữa mua để pha vào chai. Cho con bú bằng sữa mẹ đem lại sự mật thiết tâm lý cao cả dẫn đến lợi ích về xúc cảm và nhận thức trên tất cả phương pháp nuôi dưỡng khác. Cho con bú bằng sữa của mình cũng phát triển quan hệ mẹ con khăng khít.
Cho con bú bằng sữa mẹ thực tiễn hơn và mất ít thì giờ hơn cho bú bằng sữa chai. Không cần phải khử trùng chai và rửa chai. Sữa có ngay khi đứa trẻ cần đến. Đúa trẻ bú sữa mẹ khóc ít hơn vào những tháng cuối của năm đầu so sánh với những đứa trẻ nuôi bằng sữa chai. Nên nhớ rằng không có gì bổ ích hơn tình cha mẹ và con cái. Thì giờ dành cho con cái nhất định rất đáng giá.
Trong những ngày đầu sau khi sanh, cho con bú bằng sữa mẹ cung cấp cho bé lợi ích của sữa non. Sữa non do bầu vú tiết ra được tạo thành trước khi có sữa vào ngày thứ hai hay thứ ba sau khi sanh. Chất này rất cần thiết về mọi mặt cho đứa trẻ.
Sữa mẹ có đầy đủ chất dinh dưỡng và sinh tố mà đứa trẻ cần thiết ít nhất trong sáu tháng đầu sau khi sanh. Sữa mẹ có những nhân tố kháng sinh ngăn chặn một số bệnh và dị ứng. Ngoại trừ trường hợp cùng cực như trường hợp người mẹ bị bệnh AIDS có thể lây bệnh sang con, không có thứ gì thực sự có thể thay thế sữa mẹ được.
Sự gần gũi với mẹ đương nhiên cũng thêm sự thỏa mãn cho đứa con khi được bú. Các cơ quan chức năng ở nhiều lãnh vực khác nhau nghiên cứu về sự phát triển trẻ em đều nhấn mạnh việc cho con bú bằng sữa mẹ là con đường duy nhất tốt đẹp trong việc nuôi nấng trẻ sơ sanh. Nuôi con bằng sữa mẹ được rất nhiều thầy thuốc tin tưởng khuyên dặn có lợi cho đứa trẻ về cả vật chất lẫn tinh thần vì lẽ lợi ích rõ ràng do người mẹ thỏa mãn trong việc nuôi dưỡng con mình. Đứa trẻ cần sự nâng niu, nhiều thì giờ và bầu không khí thoải mái cũng như cần chính sữa của mẹ nó.
Những nét truyền thống này là điều lành và hạnh phúc cho đứa trẻ. Nhiêm vụ của cha mẹ, đặc biệt là mẹ, là phải nuôi dưỡng con cái bằng tình thương yêu, săn sóc và trìu mến khi chúng được quyền hưởng điều đó. Người mẹ chịu trách nhiêm về tính khí đứa trẻ hiền lành hay ương ngạnh. Như vậy người mẹ có thể giảm thiểu các thiếu niên phạm pháp!
'Những ai sống trái lại thiên nhiên, phải đương đầu với các hậu quả vật chất và tinh thần'.
Làm cho cha mẹ có kế hoặch hay tự nguyện trong chượng trình kế hoạch hóa gia đình liên quan đến sự điều chỉnh quan niệm trong nội bộ gia đình, thường liên quan đến sự kiểm soát sinh đẻ. Kế hoạch gia đình liên quan đến việc điều hòa, điều chỉnh khoảng cách sinh đẻ bằng phương cách hợp pháp và đạo lý, tùy theo điều kiện sức khỏe, kinh tế và hoàn cảnh của chồng và vợ.
Ta phải xét sự thực là mức độ sinh đẻ được kiểm soát có lợi lạc cho một cuộc sống lành mạnh. Dân số tăng nhanh là một xu hướng nguy hiểm tạo khó khăn theo ngay sau lúc con người đang tiến đến cuộc sống đầy đủ, an toàn.
Tại Á Châu, nơi nhiều thế hệ đã sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, áp dụng Kế Hoạch Gia Đình rất thích đáng nếu nó không gây mâu thuẫn, xung đột trong vấn đề cộng đồng. Một quốc gia có thể tự cung cấp, được hưởng tự do to lớn nhất.
Người Phật Tử không có lý do gì chống lại sự kiểm soát sinh đẻ. Họ hoàn toàn tự do trong việc áp dụng phương pháp hiện đại hay cổ xưa để ngừa mang thai. Những người chống lại vấn đề kiểm soát sinh sản nói rằng làm như vậy chống lại luật của Thượng Đế, phải hiểu rằng quan niệm về vấn đề như thế là không hữu lý. Trong việc kiểm soát sinh đẻ, người ta chỉ ngăn chặn sự trở thành một chúng sinh, do đó không có sư giết chóc nào.
Mặc dù một người hoàn toàn tự do quyết định về kế hoạch gia đình theo quan niệm riêng của mình, tuy nhiên phá thai không thể bào chữa được. Hành động này là sai vì hành động đó liên quan đến việc lấy đi hay hủy diệt môt sự sống có thể nhìn thấy hay không nhìn thấy.
Từ "phá thai" liên tưởng đến hình ảnh người phụ nữ trẻ tuổi thất vọng, người phá thai lậu. Đối với nhiều người, từ này còn mang nghĩa rộng là bất hợp pháp và tội ác. Tại các nước phát triển ở phương Tây, vấn đề đã được chính trị hóa.
Phá thai được giải nghĩa là lấy thai ra khỏi dạ con do phương tiện không chủ yếu hay chủ yếu, mà thai này có khả năng sống được. Trong y khoa, phá thai được định nghĩa là hành động lấy bào thai ra khỏi dạ con bằng một phương pháp nào đó hoặc bằng thuốc gây đau đẻ trước khi bào thai có thể tồn tại. Phá thai có nghĩa là chấm dứt 28 tuần mang thai. Sau thời gian này, bào thai đã phát triển đầy đủ nên bất kỳ một hành động nào có thể lấy đi một sinh linh còn sống lúc sanh hay sẽ sanh, hoặc bào thai, đều là phá thai.
Theo luật định, khi tiến hành phá thai với ác ý, việc này là một tội ác, thủ phạm sẽ bị buộc tội, và trừng trị. Khi phá thai làm người phụ nữ chết, người này coi như kẻ sát nhân.
Phá thai bao giờ cũng vẫn là một vấn đề tranh tụng, nhưng đối với người đàn bà mang thai ngoài ý muốn, vấn đề này không phải là bất hợp pháp và cũng không phải chính trị. Đó là vấn đề cá nhân và đương nhân phải giải quyết mau lẹ với bất cứ giá nào. Trong những trường hợp như vậy, người đàn bà trong tình trạng vô vọng phải bắt buộc đi đến phá thai. Nhưng họ không nên biện minh cho hành động phá thai, dù sao đối với một số người, họ vẫn phải chịu hậu quả xấu vì đã phạm tội ác.
Tại Mã Lai, chấm dứt mang thai chỉ được phép trong trường hợp người mẹ vì sức khỏe tinh thần hay thể chất trong tình trạng nguy hiểm. Thủ tục này được coi như phá thai để chữa bệnh và cần phải có giấy chứng nhận của hai nhà thầy thuốc chuyên nghiệp. Ngoài ra phá thai với bất cứ lý do nào khác cũng là vi phạm luật pháp.
Nguyên tắc đạo lý không bao giờ nên nhượng bộ sự thỏa mãn của nhân loại. Đúng hơn là những nguyên tắc này, nói chung, phải bảo vệ cho hạnh phúc nhân loại.
Vấn đề bạo lực trong gia đình đang tác động đến các gia đình, nhất là tại các giới lợi tức thấp, và ngay cả tại những xã hội giàu có, đã đến một mức báo động. Chính Phủ cần ban hành luật lệ, đạo luật về Bạo Lực Trong Gia Đình mới đây đã được Quốc Hội thông qua vào Tháng 6 năm 1996.
Bằng chứng cho thấy người vợ bị hành hung trong nhiều trường hợp vẫn thương yêu chồng mặc dù bị nhiều ngược đãi, gây ra do rượu chè, cờ bạc, giai gái, và tiền bạc. Đó là sự thực gây bạo lực gia đình mà ngày nay đa số người phụ nữ gặp phải. Nhiều bà vợ bị đánh đập chỉ biết chịu đựng vì tin tưởng bất cứ phản ứng nào của mình sẽ đưa dến hậu quả mất con, mất nhà cửa và quyền lợi tài chính.
Quần chúng thường giữ quan niệm bạo lực trong gia đình là một vấn đề nội bộ không cần đến sự can thiệp bên ngoài. Chẳng hạn như người lối xóm đến ngay khi nghe thấy tiếng kêu cứu của người đàn bà bị cướp, nhưng khi nghe thấy tiếng kêu cứu của người đàn bà bị chồng đánh đập, lối xóm lại e dè đến can thiệp, cho rằng đây là một vấn đề riêng tư trong nội bộ gia đình. Cho đến mới đây, cảnh sát cũng vẫn còn quan niệm này. Theo Đạo Luật về Bạo Lực Trong Gia Đình, nhiệm vụ của Cảnh sát bao gồm cả việc dẫn người vợ bị ngược đãi về nhà lấy đồ đạc nếu cần thiết. Điều mà người vợ bị ngược đãi đòi hỏi là được bảo vệ theo luật pháp, số người chồng bị trừng phạt cũng không nhiều lắm.
Đạo luật bảo vệ người vợ bị ngược đãi mà không làm tan vỡ gia đình. Theo đạo luật này, ta có thể xin lệnh của tòa án cấm người chồng vũ phu về nhà, bảo vệ người vợ bị ngược đãi và con cái cũng như cho phép người vợ được nuôi giữ con cái . Đạo luật này coi việc bạo lực trong gia đình là một tội ác phải bị trừng trị.
Ly dị là giải pháp gây nhiều tranh cãi giữa những tín đồ của các đạo giáo khác nhau. Một số người tin hôn nhân đã được ghi sổ trên thiên đàng, cho nên con người không có quyền cho phép ly dị. Nhưng, nếu người vợ và người chồng thực ra không thể chung sống, thay vì kéo dài cuộc sống đau khổ, tạo nhiều mâu thuẫn, sân hận, họ nên được tự do xa nhau, sống riêng biệt an lành.
Ly thân hay ly dị không bị cấm trong Đạo Phật nhưng sự cần thiết ly thân hay ly dị rất hiếm xẩy ra nếu người Phật Tử triệt để tuân theo các huấn thị. Người đàn ông và người phụ nữ hoàn toàn tự do xa nhau nếu họ không hòa hợp với nhau. Xa nhau còn hơn phải chịu đựng một đời sống thống khổ kéo dài.
Một số người chọn hình thức ly thân chính thức, đó là một loại ly dị ngoại trừ hôn nhân chỉ hiện hữu trong danh nghĩa vì nhiều lý do.
Những yếu tố đưa đến ly dị thay đổi. Khi ngọn lửa tình tắt hay lời hứa yêu đương, trân trọng và trìu mến dường như không còn có thể duy trì, ly dị xuất hiện như một giải pháp tốt nhất. Đương nhiên cũng có nhiều yếu tố khác từ những vụ ngoại tình, vấn đề bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, cũng như những dị biệt mà người vợ đi làm phải đương đầu khi muốn theo đuổi nghề nghiệp của mình. Liên hệ từ đây, chúng ta nên nhớ lời Phật dạy là người già không nên lấy vợ trẻ vì chồng già vợ trẻ sẽ tạo ra sự xung khắc, ghen tuông, nghi ngờ (Kinh Parabhava).
Theo Đạo Luật Cải Cách (Hôn Nhân và Ly Dị) năm 1976, bắt đầu hiệu lực từ Ngày 1 Tháng Ba 1982, Những Tòa Án Hôn Nhân được thiết lập trên toàn cõi Mã Lai có chức năng giải quyết và hòa giải các cập vợ chồng không theo Đạo Muslim (Hồi). Những cặp theo Đạo Muslim gặp khó khăn trong hôn nhân được chi phối bởi Luật Syriah, dưới quyền xét xử của Tòa Án Syriah.
Tòa Án xử Hôn Nhân được thiết lập tại mỗi Tiểu Bang, kể cả Phần Đất Liên Bang Kuala Lampur. Đạo Luật ủy nhiệm Tòa Án Hôn Nhân xét xử các vụ bất hòa về hôn nhân trước khi đơn ly dị được đệ nạp.
Đạo Luật ấn định thời gian là sáu tháng xem cặp vợ chồng có thể tiến đến hòa giải hay không. Mỗi Tòa Án phải hội đủ điều khoản quy định là ba hay bốn phiên tòa cho mỗi trường hợp trong vòng sáu tháng. Nếu không có dấu hiệu hòa giải được, Tòa sẽ cấp giấy chứng nhận cho đương đơn. Chỉ khi giấy chứng nhân được cấp phát, đương nhân mói có thể đệ nạp đơn ly dị tại Tòa Thượng Thẩm qua một Luật Sư.
Bất hạnh thay, khi cha mẹ ly dị nhau, những đứa con trở thành những nạn nhân vô tội, chúng bị những hậu quả xấu nhất do sự thất bại của hôn nhân. Ly dị là một hiện tượng xã hội, ảnh hưởng tâm lý đến những đứa con, khiến chúng cảm thấy không an toàn. Chúng phải đối đầu với bao nhiêu khó khăn phải chấp nhận, điều chỉnh và bất an. Những đứa trẻ như vậy cần đến sự chỉ dẫn, ủng hộ tinh thần và an ủi mới có thể vượt qua giai đoạn tổn thương trong đời sống của chúng.
Cha mẹ ly dị thường được hình dung là những người theo chủ nghĩa khoái lạc, ích kỷ chỉ quan tâm đến hạnh phúc của mình thôi, không để ý gì đến con cái.
Một số trẻ phải sống với cha mẹ ghẻ khi cha mẹ chúng tái giá, phải điều chỉnh sao cho thích hợp với cuộc sống mới. Ly dị giống hệt như bác bỏ quyền của đứa trẻ có một đời sống đủ điều kiện với cha mẹ ruột dưới mái một gia đình. Vì tâm trí chúng bị rối loạn, không còn tập trung được việc học hành tại trường bị ảnh hưởng. Chúng sẽ bỏ nhà và trở thành thanh thiếu niên tội phạm.
Vì ly dị là bất hạnh nên đa số trẻ phải chịu khổ sở vật chất trong tay cha mẹ giận hờn, chúng lớn lên trong sợ hãi khi chúng lập gia đình sau này, chúng có quan niệm bất an và ít hy vọng hạnh phúc. Chúng mất lòng tin nơi cha mẹ đã làm tan nát gia đình, chúng cũng sẽ thiếu niềm tin nơi người hôn phối.
Với một số trẻ, vết thương tình cảm sẽ được lành với thời gian. Nhưng với một số khác vết thương ấy vẫn còn mãi. Cho nên ly dị không những chỉ ảnh hưởng đến hai người mà ảnh hưởng đến những phần tử vô tội khác. Phải có lý do chính đáng trước khi ta tìm đến giải pháp ly dị.
Hầu hết những đứa trẻ của các cặp vợ chồng ly dị thường ấp ủ, nguyện cầu lời mong ước bí mật của chúng là làm sao hòa giải được gia đình để đời sống của chúng trở lại bình thường.
Cuối cùng phải cẩn thận để sự chia ly được thực hành trong bầu không khí thiện chí và hiểu biết bằng cách chấp nhận những giải pháp hợp lý, không tạo thêm nhiều sân hận. Thực ra cả hai phải nên nỗ lực chia tay đối với nhau thân thiện như bạn hữu. Nếu như có con cái, cặp vợ chồng đó phải cố gắng làm cuộc ly dị của họ bớt bi thương, giúp cho những đứa con thích hợp được với đời sống mới. Bảo đảm tương lai và phúc lợi của con cái hết sức quan trọng . Quả là vô nhân đạo nếu cặp vợ chồng nào chối bỏ con cái, khiến con cái phải tự lo liệu, sống một cuộc đời thống khổ.
Khi người đàn ông vì lý do nào đó đi đến ly dị, người đàn bà là người bị đau khổ nhất. Mộng ấp ủ đời sống hôn nhân hạnh phúc của người phụ nữ bị tan nát, nhất là trường hợp người chồng ngoại tình, tìm cách bội ước để được sống với người khác. Người đàn bà sắp sửa phải ly dị, thường bộc lộ cảm nghĩ thất vọng của mình điển hình trong những trường hợp bi thảm này: "Đời tôi tan nát. Với tôi thế giới đã đi đến chỗ cùng tận, tôi nghĩ đến chết đi để làm cho anh hối hận vì đã bỏ tôi".
Tình trạng khó xử của nhiều phụ nữ ly dị tại Mã Lai là thực tế buồn thảm: người đàn bà chỉ có quyền chăm sóc con mà không có quyền hành của người thủ hộ hợp pháp. Liên quan đến tình trạng khó chịu này, người vợ được nuôi giữ con, bắt buộc phải gọi người chồng cũ, khi phải thi hành quyền giám hộ lẽ ra trước hết phải là quyền của vợ. Việc gì xẩy ra nếu người chồng không đồng ý chấp thuận cho người vợ cũ quyền hạn này hoặc không thể tìm thấy người chồng cũ? Đứa trẻ bất hạnh, lúc cần thiết đến giấy thông hành để xuất ngoại du học chẳng hạn sẽ bị rơi vào tình trạng khó xử.
Người mẹ chỉ trở thành người giám hộ hợp pháp của đứa trẻ khi người cha chết, bị mất trí hay tội phạm. Trong những trường hợp này, luật sư thường khuyên người đàn bà khởi sự ngay việc xin với người chồng được làm giám hộ con ngay khi ly thân, và đừng chờ đến khi ly dị mới tiến hành, tuy nhiên thủ tục này không mấy dễ dàng.
Đức Phật dạy nếu chúng ta muốn hiểu điều gì, chúng ta phải biết nhìn bản chất của điều đó.Sau khi phân tách s? tương quan giữa phái nữ và phái nam, Ngài đi đến kết luận không có gì chướng ngại đối với phụ nữ trong việc tu tập như phái nam, phụ nữ có thể đạt được quả vị cao nhất như A La Hán hay Bậc Thánh, bậc cao nhất trong sự thanh lọc tâm. Đức Phật phải đối đầu với sự chống đối mãnh liệt vì cho phụ nữ hoàn toàn tự do trong việc thực hành tôn giáo vào lúc bấy giờ.
Trong thời kỳ Đức Phật, trước khi Ngài giải phóng phụ nữ, tục lệ và truyền thống coi phụ nữ như vật sở hữu để cho phái nam sử dụng theo sở thích. Luật Manu cổ xưa của Ấn Độ ấn định phụ nữ thấp hơn phái nam. Địa vị của người phụ nữ trong xã hội bấy giờ rất thấp, chỉ thu hẹp trong việc bếp núc. Họ cũng không được phép vào chùa và tham dự các hoạt động tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào.
Như chúng ta đã ghi nhận trước đây trong phần "Kiểm Soát Sanh Đẻ", có sự kỳ thị phái nữ bắt đầu ngay trước khi đứa trẻ ra đời! Việc phá thai bé gái lan tràn trên nhiều nơi trên thế giới này ngày nay xác nhận thêm sự kiện hãi hùng này. Thêm nữa, dưới tiêu đề "Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ và Hậu Quả Đối Với Đời Sống Gia Đình", sự kỳ thị phụ nữ tại các xã hội giàu có, đặc biệt đối với phụ nữ có tham vọng giữ chức vụ quản trị cao cấp trong khu vực đoàn thể, đã được đề cập đến vói nhiều chi tiết.
Tuy nhiên, trong các nước đang phát triển cũng như các nước chậm tiến, tình trạng được mô tả không những quá xấu mà còn đáng thương hơn nữa như những khám phá dưới đây.
Theo lễ nghi tại Ấn Độ, phái nam chi phối xã hội, phụ nữ góa bụa chịu một số phận rất hẩm hiu . Có rất nhiều trường hợp, góa phụ (hãy còn ở trong lứa tuổi 20) bị gia đình và xã hội ruồng bỏ sau khi chồng chết.
Trong những gia đình dị đoan, góa phụ bị trách cứ bởi gia đình chồng vì chồng chết, góa phụ còn bị gia đình nhà chồng ruồng bỏ. Họ hầu như chẳng có sự lựa chọn nào. Người Ấn Giáo nhìn phụ nữ tái giá bằng một cặp mắt khinh bỉ, dù người đàn ông chẳng có vướng mắc gì. Cho đến tận thời nay, người ta còn mong đàn bà góa nhẩy vào giàn hỏa thiêu xác chồng để chết theo tục lệ gọi là sati (trà tỳ). Mặc dù tập tục này đã bị coi như phi pháp bởi người Anh từ mấy thập niên qua, nhưng trường hợp mới nhất vẫn còn thấy xẩy ra vào năm 1996. Đa số các phụ nữ Ấn Độ chẳng còn gì khi trở thành góa bụa.
Một thí dụ điển hình thấy nơi một góa phụ thành lập gia đình khi còn nhỏ, tục lệ tảo hôn thường thấy tại thôn quê Ấn. Góa phụ này than: "Tôi lấy chồng lúc mới năm tuổi. Chồng tôi,13 tuổi, tôi chưa hề dược gặp mặt trước khi cưới, chết sau lễ cưới được một tháng. Bây giờ tôi vẫn còn là người đàn bà góa."
Theo Ngân Hàng Thế Giới, 65% phụ nữ Ấn trên 60 tuổi là góa phụ. Tỷ lệ này lên đến 80% với phụ nữ trên 70 tuổi. Hội Phụ Nữ Dân Chủ Ấn báo cáo tại Ấn, lý lịch một phụ nữ phụ thuộc vào người đàn ông, cảnh góa bụa mất mát rất nhiều chứ không phải chỉ là mất chồng.
Tình hình cũng không mấy gì tốt đẹp hơn tại một số quốc gia lân bang. Đã từ lâu, gia đình coi con gái thấp hơn con trai và đối xử với con gái như vậy. Người con gái chỉ được coi như chỉ thích hợp cho việc nội trợ lặt vặt. Người phụ nữ phải sống trong nhiều thông lệ xã hội chủ trương kỳ thị họ. Người con gái trở thành gánh nặng kinh tế, cái nợ đời tinh thần. Thế nhưng, người phụ nữ lại được kỳ vọng phải mạnh khỏe, tích cực làm việc, dạy bảo con cái, và là một người mẹ hiền. Nhiều đứa bé trai lớn lên nghĩ rằng chị hay em gái của chúng thấp hơn chúng vì chúng thấy chúng được đối xử tốt hơn chị em gái. Niềm tin ấy được củng cố bởi đa số người trong xã hội, kể cả chính nữ giới.
Có lẽ vấn đề lớn nhất là do thiếu sự hỗ trợ và những hạn chế mà người con gái phải đối đầu nếu họ muốn làm một điều gì trong đời sống vượt qua những vai trò truyền thống như phụ giúp gia đình, trông em, nấu bếp và dọn dẹp nhà cửa. Vì mục đích đó, người con gái sau cuộc huấn luyện dài chỉ để trở thành người vợ tốt khi lớn lên.
Người con gái 16 tuổi tại Rawalpindi vạch rõ:"Xã hội của chúng ta không đối xử tốt với nữ giới. Người ở nơi đây không giáo dục con gái vì cho rằng con gái không phải là con của họ. Con gái được coi như là người của bên chồng trong tương lai, bất cứ đầu tư nào cho tương lai con gái đều vô ích. Con gái về nhà chồng lúc còn non dại, thường quãng 13 tuổi tại khắp nơi. Phần đời còn lại là trông nom bên chồng, mang thai và nuôi dưỡng con cái để kéo dài và củng cố gia tộc ."
'Chúng ta cần phải nhổ hết gốc rễ loại suy nghĩ trên đây, giáo dục cho con gái là điều bắt buộc để việc này không trở thành một vấn đề phải giải quyết.' Cô nói: "Con gái cũng nên có việc làm, làm việc tại những nơi thích hợp không ai phản đối và tốt nhất là có những nữ đồng nghiệp để cha mẹ không thể chống đối. Tôi bao giờ cũng ân hận là sinh ra làm đàn bà. Đôi khi tôi không được phép làm điều gì, tôi chỉ biết vào phòng, khóc than và cầu nguyện Thánh Thần biến tôi thành con trai"
Dự án cho các thiếu nữ tại các nước như vậy đang dần dần thay đổi, hãy thay đổi tất cả bằng một cách phát triển một số thiếu nữ nòng cốt hoạt động như chất xúc tác để tạo được sự chú ý tại địa phương về vấn đề, về sự kỳ thị mà phụ nữ phải đối đầu.
Vấn đề giáo dục hầu như không thay đổi. Nhiều phụ nữ đã phải tranh đấu để có quyền đi học. Một số được giúp đỡ bởi các bà mẹ không được học hành nhưng tin tưởng đời sống của chính các bà tốt đẹp hơn nếu được đi học.
Trong nhiều xã hội, địa vị của người đàn bà là ở nhà; người đàn bà lập gia đình có bổn phận đầu tiên là làm tròn bổn phận người vợ và người mẹ. Không thể là như vậy đối với phụ nữ tự do. Cả đến tại các xã hội tiến bộ, phụ nữ cũng bị mất thể diện. Chẳng hạn tại những nơi công cộng, phụ nữ phải ngồi riêng, cách xa phái nam, hay ngoài tầm mắt của họ- như đằng sau nam giới. Khi phụ nữ được đặt ngồi cuối phòng hay cuối hội trường, việc sắp xếp này tỏ đấu hiệu tế nhị là vai trò của phụ nữ là đằng sau chứ không phải ngang hàng với nam giới.
Một số người tin phụ nữ thiên về tội lỗi. Cho nên, tốt hơn là để phụ nữ làm việc nội trợ để họ có thể quên đi thái độ tội lỗi bẩm sinh!
Ở thời kỳ xa xưa, người đàn ông ra ngoài săn bắn để có thức ăn cho gia đình, còn người đàn bà ở nhà để nấu ăn và trông nom con cái. Vì vậy, nguồn gốc câu nói ai ai cũng biết là :"Chỗ đứng của người phụ nữ là ở nhà"
Ở thời cổ, phụ nữ cam phận là người nội trợ. Phụ nữ không ra ngoài làm việc hay theo đuổi nghề nghiệp. Công thức của giới phụ nữ - một đời sống quanh quẩn với con cái và bếp núc- đã xói mòn từ nhiều thập niên qua, vì càng ngày càng nhiều phụ nữ theo đuổi nghề nghiệp. Tuy nhiên lối sống xã hội ở thôn quê vẫn khuyến khích phụ nữ làm bổn phận người mẹ, không nên ra ham thích địa vị. Nói chung xã hội chấp nhận thực tế người phụ nữ trẻ độc thân đi làm để tự nuôi mình và giúp đõ cha mẹ già và thân nhân trẻ trong gia đình. Đa số phụ nữ tìm công ăn việc làm vì nhu cầu kinh tế, thay đổi thái độ về bổn phận cá nhân.
Tuy nhiên với sự kêu gọi giải phóng phụ nữ, nhiều phụ nữ dường như nghĩ rằng giải pháp này là thi đua với nam giới ngoài đời. Những phụ nữ trên đây nên suy nghĩ cẩn thận là họ muốn sanh con hay theo đuổi nghề nghiệp. Thật là vô trách nhiệm nếu một người mẹ sanh đứa con ra đời lại để cho người khác chăm sóc con mình mà không đếm xỉa gì đến phúc lợi của chúng. Bạn phải chịu trách nhiệm cái gì bạn tạo ra.
Số phụ nữ có chồng đi làm gia tăng đáng kể. Ngày nay, họ được đào tạo thành phụ nữ để làm việc ngoài đời, nên thường có hai vai trò vừa đi làm vừa làm trọng trách người mẹ. Đa số các phụ nữ đi làm bị dầy vò giữa tội bỏ con ở nhà với người làm và sự đòi hỏi của nghề nghiệp.
Với càng ngày càng nhiều phụ nữ đi sâu vào nghiên cứu học hỏi, số các bà mẹ đi làm gia tăng. Qua nhiều năm, nữ giới đã đạt tiến bộ cụ thể trong nghề nghiệp, bây giờ phái nữ giữ các chức vụ quản lý cấp cao trong cơ quan chính phủ và trong giới tư nhân. Trào lưu này rất rõ rệt tại thành thị. Trong lãnh vực chính trị, nữ giới đã tiến đến chức vụ cấp bộ trưởng, tiến đến mức độ nổi bật trước công chúng trong khi những ông chồng cam phận ở hậu trường, chỉ còn là cái bóng đằng sau vợ.
Tuy nhiên các phụ nữ thuộc ban quản trị dù đã leo đến địa vị quản lý cao nhất trên thang bậc doanh nghiệp vẫn phải đương đầu với một dạng thức kỳ thị khó thấy . Những phụ nữ đầy tham vọng phải đương đầu với sự khác biệt giới tính, nhất là về nghề nghiệp, sự khác giới thường được thấy rõ ở bậc thang tột cùng của doanh nghiệp. Quyết định của ban lãnh đạo thường kết thúc với câu nhận xét: "Chúng tôi miễn cưỡng phải chuẩn bị cho họ (nữ giới) vào công việc lãnh đạo vì sự đầu tư của chúng tôi sẽ thất bại khi họ phải ra đi để trở thành các bà mẹ".
Sự kỳ thị giới tính ở mức hội đồng quản trị không dễ dàng chứng minh được; cho nên danh từ 'trần kính' đã được đặt ra để mô tả vật cản vô hình nhưng kiên cố ngăn chặn phụ nữ tiến tới bậc thang cao hơn trong quyền hành doanh nghiệp. Mặc dù một số người tuyệt đối bác bỏ sự tồn tại của vật cản như vậy nhưng con đường của phụ nữ tiến tới đỉnh cao vẫn bị chặn đứng bởi cái"trần kính"này. Cho nên muốn tiến tới đỉnh cao, người phụ nữ phải chọn một trong hai đường sự nghiệp hoặc gia đình. Nhiều bà mẹ đi làm tận tâm, có những người phụ giúp trông nom con cái cho họ, nhận thức rằng họ không bao giờ có thể để con cái họ trong tay những người đàn bà lạ. Cho nên tuy rất vui với công việc làm tại sở nhưng họ vẫn quyết định từ bỏ nghề nghiệp để ở nhà. Mặt khác, cũng đáng buồn có một số phụ nữ thích tiếp tục nghề nghiệp nhờ vả vào gia đình.
Đứa trẻ có quyền được thỏa mãn về vật chất, nhưng quan trọng hơn là tinh thần và tâm lý. Việc cung cấp đầy đủ về vật chất đứng sau việc cung cấp tình thương và chăm sóc của cha mẹ. Chúng ta biết có nhiều gia đình nghèo, lợi tức rất ít oi, nhưng đã dạy dỗ con cái nên người nhờ chan chứa tình thương.
Ngược lại có những gia đình giàu có, cung cấp cho con đủ tiện nghi vật chất, nhưng thiếu tình thương nơi cha mẹ, những đứa trẻ đó lớn lên bị thương tổn về tâm lý và tinh thần.
Một số phụ nữ cảm thấy lời khuyên nên dồn sức vào việc xây dựng gia đình là điều hạ phẩm giá, phản ảnh lối suy nghĩ cổ hủ và bảo thủ. Đúng, thời xưa phụ nữ đã bị đối xử rất tồi tệ, đó là do sự ngu si của phái nam hơn là nhược điểm cố hữu của người đàn bà. Tiếng Phạn chỉ người nội trợ"Gruhini" theo đúng nghĩa đen là "lãnh đạo trong nhà" (nội tướng). Chắc chắn danh từ này không ngụ ý là đàn bà bị thấp kém. Đúng hơn đó là sự phân chia trách nhiệm cho phái nam và phái nữ.
Phụ nữ đã tranh đấu qua nhiều thời đại để giành quyền bình đẳng với nam giới trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp, chính trị và nhiều lãnh vực khác. Bây giờ phụ nữ bình đẳng với nam giới trong phạm vi rộng lớn. Nam giới thường có xu hướng hung hăng do bản tính, phái nữ thì tình cảm hơn. Trong bối cảnh gia đình, nhất là tại Đông Phương, người đàn ông thường lấn át làm chủ gia đình trong khi người đàn bà có xu hướng thụ động. Xin nhớ "thụ động" nơi đây không có nghĩa là "yếu". Đúng hơn là đức tính tích cực của "khiêm nhường" hay "hiền hòa". Nếu người đàn ông và người đàn bà giữ được nam tính và nữ tính thừa hưởng do thiên nhiên, và công nhận sức mạnh và địa vị của nhau, thái độ như vậy sẽ đóng góp vào sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau của hai giới.
Về điều này, nhận xét của Thánh Gandhi rất xác đáng:"Tôi tin tưởng vào sự giáo dục thích ứng cho phụ nữ. Nhưng tôi cũng tin tưởng phụ nữ không đóng góp cho thế giới bằng cách bắt chước hay chạy đua với người đàn ông. Phụ nữ có thể thi đua, nhưng không thể tiến đến đỉnh cao bằng cách bắt chước người đàn ông." Ở đây chúng ta có thể nhìn vào sự thông thái của người Trung Hoa cổ khi họ tạo ra hình tượng Âm Dương. Đường cong phân chia hai phần sáng tối chứng tỏ rằng sự đối lập không cần thế đối đầu, lúc phần nay tiến thì phần kia thoái và ngược lại, do vậy cân bằng. Phụ nữ phải là phần bổ sung cho nam giới.
Trong một vài quốc gia, đa số người chồng đưa tiền lương kiếm được cho người vợ để lo việc nội trợ. Làm như vậy người chồng được rảnh rang tập trung vào việc khác tốt đẹp cho gia đình. Khi người hôn phối hiểu rõ trách nhiệm của mình, không xẩy ra xung đột giữa hai vợ chồng. Không khí gia đình vui vẻ, an lạc là cái nôi cho con cái trưởng thành.
Lẽ đương nhiên, người chồng có bổn phận lo lắng chu đáo cho người bạn đường của mình, tham khảo mọi quyết định gia đình với vợ, và người vợ có đủ tự do để mở mang nhân cách, có đủ thì giờ rảnh rỗi để theo đuổi việc riêng tư của mình. Trong ý thức ấy, chồng và vợ chịu trách nhiệm đồng đều về hạnh phúc của gia đình. Chồng và vợ không đua tranh với nhau.
Một bà mẹ nên suy nghĩ cẩn thận có nên tiếp tục đi làm với nhiều chông gai cạm bẫy hay ở nhà làm người nội trợ đem tình thương, chăm sóc nuôi dưỡng con cái đang lớn lên. Thật lạ lùng, một số bà mẹ hiện đại, đặc biệt tại một vài nước có chế độ quân phiệt, vì thiếu nhân lực, đã được huấn luyện để sử dụng các vũ khí giết người, trong khi lẽ ra các bà phải nâng niu con cái trong tay, dạy dỗ chúng trở thành những công dân tốt, biết tôn trọng luật pháp.
Trong một vài xứ, nữ quân nhân thường được mang súng để tự vệ, và họ cũng không còn bị giới hạn về cấp bậc. Người phụ nữ bây giờ được lái máy bay, trực thăng chiến đấu, chứ không chỉ lái xe giao thông vận tải mà thôi, nhưng khi ở nhà, họ vẫn biểu lộ tính nhu mì, và lo lắng bẩm sinh nhất là với con cái.
Dạy con cái những điều cần biết về giới tính và phát triển giới tính cần phải được thực thi cẩn thận, tế nhị, trong một cách thức trong sáng. Đối phó với sự thay đổi trong việc phát triển giới tính là một vấn đề mà đứa trẻ nào cũng phải đương đầu, thử thách này thậm chí nghiêm trọng hơn trong những năm chúng mới lớn. Những nhà giáo dục và bậc cha mẹ nên coi vấn đề giới tính là một phần của tiến triển nhân loại, nhu cầu cơ bản phải được định hướng một cách chính xác.
Sự cần thiết cho con trẻ tin tức đứng đắn về sự phát triển giới tính là hết sức quan trọng. Ngày nay trẻ em nhận biết về tình dục qua truyền thông đại chúng (thường với các chi tiết đẫm máu) do sách vở, màng lưới Internet, và cũng từ những chúng bạn đồng lứa, và nếu chúng không được dạy dỗ để phân biệt cái nào thích hợp cái nào không, chúng có thể đi đến có thái độ đối xử không đạo đức. Bậc cha mẹ không bao giờ muốn con cái mình hiểu biết sự phát triển giới tính từ cặn bã xã hội.
Bậc cha mẹ có thể cho con kiến thức về tình dục, nhưng kiến thức cần thiết phải thích hợp với mức độ hiểu biết của đứa trẻ; trong trường hợp này, mức tuổi tinh thần có thể không phù hợp với tuổi tác. Trẻ em ngây thơ, rất dễ dàng trở thành các nạn nhân của những người vô lương tâm. Thậm chí trẻ không nhận ra nó đang bị dùng làm vật thỏa mãn nhu cầu tình dục đồi bại của người lớn.
Việc quan trọng để các em biết việc sờ mó thế nào là 'thích ứng' và 'không thích ứng'. Việc quan trọng cho các em biết đề phòng là do nơi cha mẹ. Đứa trẻ cần biết ai là người được sờ chạm em, ở đâu và khi nào, bác sĩ có thể sờ mó chỗ nào, những tình trạng nào các em phải tránh, và làm sao để ngăn chặn cách cư xử không thích đáng trong lớp học.
Các bậc cha mẹ cũng cần phải cảnh giác về những sự sờ mó không thích hợp có thể xẩy ra ngay giữa những thân nhân. Chẳng hạn, cha mẹ thường dạy các em đề phòng 'những người lạ', nhưng nghiên cứu về các trường hợp trẻ bị lạm dụng tình dục cho thấy đa số những kẻ lợi dụng là người quen biết hoặc người thân trong gia đình.
Đối với trẻ em khác trong xã hội, cần phải có tuyến liên lạc rộng rãi với cha mẹ của các em ấy. Việc này gồm cả việc thảo luận công khai về những vấn đề liên quan đến tình dục. Nếu có sự động chạm xẩy ra, các em sẽ không ngại ngùng nói với cha mẹ, thay vì e thẹn hay quá sợ hãi mà không nói rõ chi tiết.
Giáo hóa về giới tính rất là quan trọng vì ta không thể trông đợi thanh thiếu niên theo đúng mù quáng các luật lệ mà không biết tại sao phải theo. Một trong những đề tài phải được giảng dạy là các em nên giữ trinh nguyên cho đến lúc thành hôn. Nhiều người chống lại việc giáo dục về tình dục vì nghĩ rằng nếu ta nói cho chúng biết, chúng sẽ ra ngoài và lạm dụng. Điều đáng ghi nhận Thụy Sĩ là môt quốc gia dạy trẻ em về tình dục ngay tại lớp mẫu giáo, và tỷ lệ của quốc gia này về trẻ vị thành niên mang thai lại thấp nhất trên thế giới. Điều quan trọng sống còn là trẻ em được dạy bảo về hành vi tình dục có trách nhiệm ngay từ khi chúng sæn sàng có kiến thức này. Giáo dục đứng đắn về tình dục sẽ cứu đứa trẻ khỏi tinh thần bị căng thẳng từ tội lỗi, sợ hãi, hối hận và trừng phạt ở tương lai.
Mảnh đất phì nhiêu nuôi dưỡng tội ác là gia đình. Mặc dù với nhiều biện pháp áp dụng để giảm thiểu tỷ lệ tội hành hung trong gia đình, nhưng tỷ lệ này càng ngày càng tăng trong nhiều gia đình tại những xã hội hiện đại kỹ nghệ tiến bộ. Hầu hết trẻ em trở thành các tội phạm do cách dưỡng dục của cha mẹ.
Tại một số quốc gia, trong khi tỷ lệ phạm tội ác của người lớn giảm thiểu, thì tội ác của giới trẻ lại gia tăng. Chúng ta được biết qua thông tin đại chúng nhiều trẻ em đã mang súng đi học. Đôi khi chúng ta nghe thấy có trẻ nít thậm chí dưới năm tuổi bắn anh chị em hay cha mẹ ruột. Thuờng thường tội phạm trong thanh thiếu niên gây ra do ma túy và rượu chè, những thứ này sæn có tại nhà. Người ta không đẻ ra kẻ phạm tội mà bởi sự thiếu hướng dẫn, thiếu quan tâm của gia đình, và môi trường chung quanh.
Một kiểu mới trở thành của thế kỷ 20 là nhiều người ăn ở với nhau như vợ chồng nhưng không cưới. Có một số trường họp, trẻ sinh ra trong hoàn cảnh ấy đau khổ vì bị bỏ mặc. Những trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc và hướng dẫn của một người, thường là người mẹ. Cha, hoặc mẹ vô trách nhiệm thường bỏ con cho cha hoặc mẹ ghẻ chăm sóc. Người đàn bà, thường bị kỳ thị, phải làm việc gấp đôi đàn ông cùng nghề để có thể nuôi bản thân và con cái. Kinh tế thế giới hiện đại là thế đấy, phụ nữ bị thất lợi hơn cả người đàn ông ở tầng lớp dưới. Vì cách cấu trúc toàn thể xã hội đã đi theo môt con đường khác biệt hẳn con đường truyền thống, việc nuôi dưỡng gia đình hầu như không còn tồn tại ở nhiều quốc gia. Kết quả các phụ nữ đau khổ nhiểu hơn, những khó khăn phản ảnh trong gia đình họ nuôi dưỡng.
Trẻ em nuôi dưỡng bởi một người, cha hoặc mẹ, thường không nhận được đầy đủ tình thương và chăm sóc nơi cha mẹ. Cha mẹ bị sa sút tâm lý không thể làm tròn nhiệm vụ tình cảm với con cái. Những người giữ trẻ đôi khi chỉ là những máy truyền hình hay những người được giao phó tương tự như vậy để làm nhiêm vụ giữ em. Nhiều trường hợp, người giữ trẻ là những thiếu nữ cần tiền vì ma túy và rượu chè. Họ không có qua một lớp huấn luyện về giữ trẻ nào. Trong khi giữ em, chính họ hút thuốc hay dùng ma túy bất hợp pháp. Trong hoàn cảnh đó, trẻ em đâu có được đầy đủ săn sóc, hướng dẫn, thương yêu cần thiết và quan trọng nhất là giáo dục căn bản.
Không một người giữ trẻ nào có thể cho tình thương và chăm sóc như người mẹ cho con. Những đứa con không bao giờ nói đến người giữ chúng như chúng nói đối với cha mẹ của chúng.
Khi lớn, những đứa trẻ như vậy có thể bắt đầu lối sống cẩu thả và sai lầm. Chúng không nhận được sự giáo dục đạo lý thích đáng. Chúng cũng không biết cách tự mình khám phá đạo lý. Tệ hại hơn nữa, bạo động trên truyền hình là thần tượng của chúng. Nhiều nhà sản xuất và viết kịch bản, những chuyện phim khích động bạo lực với mục đích dễ kiếm tiền. Những đứa trẻ lớn lên không có sự hướng dẫn thích đáng, chăm chú vào những chuyện phim ấy, cố gắng bắt chước như chúng nhìn thấy trên truyền hình hay đọc trong sách.
Nhiều bậc cha mẹ cũng không thận trọng về súng và rượu. Nhiều bậc cha mẹ uống rượu và hút thuốc trước mặt con cái. Khi họ không còn giữ được tinh thần trách nhiệm do ảnh hưởng của rượu, tri giác của họ tr? nên đần độn, họ không còn nhớ đến cất dấu chai rượu, thuốc lá, và súng vào những chỗ an toàn để con cái không thấy được. Họ cũng không lưu tâm đến việc giữ súng có đạn sæn khiến con cái có thể lấy được. Con cái vô tình được khuyến khích do bản tính tò mò tự nhiên bằng cách sử dụng súng, uống rượu, dùng ma túy, hay hút thuốc lá sæn có trong nhà.
Một số chính các cha mẹ cũng xuất thân từ những gia đình đổ vỡ, thiếu giáo dục về luân lý, hạnh kiểm, không giữ ý nên đã không giữ tư cách trước mặt con cái. Một số cha mẹ, ông bà, chú bác, và anh em đã lạm dụng tình dục con trẻ. Những đứa trẻ bị xâm phạm tiết hạnh lớn lên trong hận thù người gây tội lỗi. Đôi khi chính chúng cũng trở thành những tội phạm tương tự lúc trưởng thành.
Nhiều khi, xã hội làm cho vấn đề tệ hơn cho những gia đình và con cái khủng hoảng. Những nhà sản xuất vũ khí lại rất vừa lòng thấy càng ngày ngày càng nhiều người sử dụng vũ khí để tăng doanh thu. Kẻ buôn bán ma túy có lãi lớn bằng cách dùng trẻ em, nhất là các trẻ từ những gia đình tan vỡ, trong việc phân phát và sủ dụng ma túy. Đứa trẻ kiếm tiền trong việc bán ma túy, làm mọi điều để khuyến khích chúng bạn dùng và buôn bán ma túy. Khi cha mẹ không có nhà, bọn trẻ vui sướng rộn ràng lấy ma túy hay rượu của cha mẹ cất tại những nơi không khóa.
Ly dị trở thành tiêu chuẩn ngày này tại các xã hội kỹ nghệ mở mang. Kẻ bị đau khổ nhất do ly dị là con cái. Trong tuổi thơ ngây, trẻ nít cần đến tình thương và chăm sóc của cả cha lẫn mẹ. Đó là tuổi mà chúng cần chỉ dẫn thích hợp, và gương tốt để noi theo. Đó là tuổi tâm trí thâu thập mọi thứ rất nhanh như miếng bọt biển hút nước. Khi cha mẹ ly dị hay ly thân, con cái tan nát và bối rối. Chính cha mẹ cũng phải phấn đấu để tự trấn an và lo lắng đời sống của mình, không thể hướng dẫn con cái đúng hướng, cũng không thể để hết tâm lực cần thiết đến việc nuôi nấng con cái. Nếu bị bỏ bê, con cái tìm cách giải quyết những khó khăn của chúng nơi bạn bè mà đa số cũng xuất thân từ những gia đình tan vỡ. Không ai trong số bạn bè thực ra có thể giúp đỡ chúng được.
Cả đến những gia đình không gặp khó khăn vì ly dị con cái cũng không thân cận gần gũi với cha mẹ. Một số người tham công tiếc việc để có đời sống tiện nghi cho chính mình và con cái. Họ thường không có nhà vì phải làm hai công việc để có nhiều tiền hơn. Một số phải xa nhà vì phải du hành buôn bán nơi xa. Một số tuy không phải đi xa nhưng lại làm thêm tại
sở. Một số như người ghiền rượu không thể bỏ một phút nào mà không nghĩ đến công việc của mình. Hoặc, từ sáng sớm họ đã đi làm, trở về nhà muộn còn mang việc của sở về nhà làm. Đã di ngủ rất trễ nhưng họ vẫn còn suy nghĩ đến công việc ngày mai. Họ bận từng giây phút trong ngày, bận rộn nghĩ đến công việc ngày mai lúc ngủ.
Hỏi họ tại sao quá ám ảnh bởi công việc như thế, họ trả lời họ phải làm việc như vậy để kiếm tiền, dành dụm để nuôi dưỡng gia đình. Nhưng vì lúc nào cũng sống trong tình trạng căng thẳng nên lúc nào họ cũng cáu kỉnh, cục cằn. Họ càu nhàu lúc sáng dậy, càu nhàu lúc đi ngủ ban đêm. Một chút nhỏ nhặt cũng làm cho họ cáu kỉnh. Họ không có thì giờ cho chính họ và cho con cái. Họ tin là nếu họ kiếm được nhiều tiền thì tương lai của con cái sẽ được bảo đảm. Nhưng dù kiếm được bao nhiêu đi nữa, cũng vẫn chưa đủ. Một số có nhiều hơn nhu cầu vẫn không có thì giờ cho con cái vì họ bỏ nhiều thì giờ với bạn hữu hơn là với gia đình.
Khi trẻ em từ trường về nhà tự tung, tự tác muốn làm gì thì làm vì không ai ở nhà để cai quản chúng. Một số trường hợp, cha mẹ đón con tại trường học khi đi làm về, không có đến cả thì giờ để nghe chúng. Họ chỉ muốn nhìn chúng chứ không nghe chúng. Trẻ em lại sợ không dám nói chuyện với cha mẹ, e ngại sẽ làm cho cha mẹ giận vì những vấn đề của chúng. Những khó khăn của chúng ngày một thêm nhiều khi chúng không có thì giờ để thảo luận cùng cha mẹ. Những bạn hữu cùng lứa tuổi cũng chẳng hơn gì để có thể cho chúng những lời khuyên ý nghĩa.
Một số cha mẹ mong mỏi con cái mau trưởng thành rời khỏi gia đình càng sớm càng tốt để họ muốn làm gì thì làm. Buồn thay, con cái cũng mong mỏi mau trưởng thành để thoát được bố mẹ. Có những trường hợp cực đoan, đứa trẻ không được hướng dẫn, nóng lòng đã giết cha mẹ để chiếm hữu tài sản. Trẻ em mong muốn được độc lập càng nhanh càng tốt, trở nên càng ích kỷ hơn. Chúng ta hiểu vấn đề. Không có tình thương yêu khăng khít giữa cha mẹ và con cái. Vậy giải pháp phải như thế nào?
Đương nhiên, cả cha mẹ lẫn con cái có thể độc lập nhưng vẫn có mối quan hệ tốt đẹp với nhau. Mối liên hệ giũa cha mẹ và con cái đã được đề cao bởi Đức Phật. Để xúc tiến mối liên hệ tốt đẹp ấy, Đức Phật chủ trương nhiều biện pháp. Nếu cha mẹ làm tròn bổn phận và trách nhiệm đối với con cái, và nếu con cái làm tròn trách nhiệm đối với cha mẹ, kết quả gia đình hòa thuận và an lạc.
Người coi tiền bạc như hạnh phúc thường là gốc rễ của tội ác hung bạo. Hầu hết tất cả những tội ác gây nên là do những người không được giáo dục về giá trị luân lý và đạo đức. Nếu bạn đầu tư tất cả lợi tức, tất cả năng lực và thì giờ vào kiếm tiền hay vào dục lạc, bạn phải trả giá bằng tương lai của con cái, làm sao bạn có thể trông chờ con cái biết phân biệt giữa điều xấu và điều tốt? Hoặc bạn dạy con bạn ghét người láng giềng vì người này khác bạn không cùng một giá trị như bạn, bạn làm sao có thể hy vọng con cái bạn kính trọng mọi người?
Hay bạn dạy con cái bạn căm thù người theo đạo khác đạo của bạn, làm sao bạn có thể hy vọng con bạn không hung bạo? Hay bạn dạy con cái căm thù người có ngôn ngữ khác mà bạn không hiểu, làm sao bạn có thể hy vọng giảm thiểu tội ác trong xã hội. Tội bạo hành không nhiều trong các xã hội khi mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái và giữa người thân và gia đình được chặt chẽ. Trong những xã hội có sự trao đổi tư do về thì giờ, của cải, năng lực, kiến thức, tình thương và thận trọng, tội bạo hành giảm thiểu.
Phước lành thay cha mẹ và con cái có mối liên hệ thương yêu với nhau. Phước lành thay gia đình có sự thân mật và hòa hợp. Bậc cha mẹ phải hy sinh dành cho con cái tình thương và chăm sóc. Cha mẹ khôn ngoan nên đầu tư thì giờ, năng lực và tiền bạc để tạo bầu không khí gia đình lành mạnh, nơi mà họ nuôi dưỡng con cái thành công hạnh phúc. Để chăm sóc con cái, một số cha mẹ từ chối không làm việc thêm ở bên ngoài. Lời khuyên cho cha mẹ là phải thay đổi chương trình làm việc, nếu cả hai đều phải làm việc để có đủ lợi tức nuôi gia đình. Đôi khi, cha hoặc mẹ phải quyết định ở nhà để chăm sóc con cái nếu một người đi làm đủ lợi tức nuôi gia đình.
Cha mẹ tốt nên nhận thức rằng mình làm gương cho con cái. Muốn cho con cái có kỷ luật, cha mẹ phải tự kỷ luật. Nếu cha mẹ vô kỷ luật, thì không thể mong mỏi con cái giữ kỷ luật. Khi cha mẹ cố gắng đem con cái vào kỷ luật, đôi khi chúng chống lại. Con cái có thể nói chúng ghét cha mẹ. Tuy nhiên, bậc cha mẹ tốt không nên sợ hãi về những câu bình phẩm như thế của con cái. Khi chúng lớn chúng sẽ hiểu cha mẹ áp dụng kỷ luật với chúng là làm lợi lạc cho chúng.
Đôi khi, con cái có những vấn đề quan trọng, liên quan đến cảm nghĩ lo âu hay những khó khăn cần biết, hay những vấn đề học hành, bạn bè, mà chúng mong được đem thảo luận cùng cha mẹ. Cha mẹ phải nhẫn nại và bao dung để nghe chúng. Trong lúc thảo luận, nếu con cái dùng ngôn từ quá đáng, cha mẹ phải dạy chúng ngay rồi cho phép chúng được tiếp tục trình bày. Nếu chúng biểu lộ xúc động, cha mẹ không nên tỏ thái độ đồng tình để rồi cũng trở nên xúc động, mà chăm chú nghe chúng hy vọng giúp đỡ chúng. Nói một cách khác, khi chúng giận dữ, cha mẹ phải nhẫn nại, chăm chú nghe chúng chứ không giận dữ, như vậy cha mẹ giúp chúng có hiệu quả. Cha mẹ và con cái nên thường xuyên có những cuộc bàn thảo thân mật cởi mở. Cha mẹ nên chấp nhận nếu có lỗi lầm, và thẳng thắn xin lỗi con cái. Nếu cha mẹ la hét, chửi rủa hay nổi cơn thịnh nộ, lập tức phải xin lỗi chúng ngay hay sau đó phải giải thích cho chúng biết lý do tại sao cha mẹ lại có thái độ như vậy. Cha mẹ phải quyết định là từ nay không tái diễn thái độ như vậy nữa trước mặt con cái. Con cái cũng vậy nên được khuyến khích nhận những lỗi lầm và xin lỗi cha mẹ. Cha mẹ nên tán thưởng những việc làm tốt của con cái và thừa nhận bất cứ tiến bộ nào chúng đạt được. Thưởng phạt có hiêu quả với tất cả mọi người.
Nếu có nhiều con trong gia đình, cha mẹ phải công bằng đối với mỗi đứa con. Giải quyết những khó khăn gia đình, cha mẹ luôn luôn phải thận trọng, công bằng với tất cả các con. Nếu đề cao một đứa trước mặt tất cả có thể làm cho những anh chị em ruột ganh tị đứa được khen thưởng. Khi tràn đầy thương yêu và bi mẫn, cha mẹ sẽ dễ dàng giải quyết mọi khó khăn trong gia đình.
Cha mẹ nên đối xử với con cái với danh dự và phẩm giá khi những chúng sanh tuyệt vời này một một ngày nào đó có thể nắm thế giới trong tay.
Bất cứ lúc nào, con cái làm những điều thiện, cha mẹ không nên quên đánh giá cao và thưởng chúng ít nhất bằng lời khen. Khi con cái làm một điều gì vô đạo đức, vô luân lý, hay tai hại, cha mẹ phải quở mắng ngay chúng, trực tiếp dạy chúng. Cha mẹ phải hiểu lúc nào cần phải răn dạy riêng biệt, lúc nào cần phải quở mắng trước mặt mọi người trong các cuộc hội họp gia đình. Cha mẹ cũng không nên phê bình nhau trước mặt con cái. Cha mẹ nên có những cuộc họp riêng tư để thảo luận những vấn đề.
Cha mẹ nên phải chọn lời nói thích hợp, thái độ chính đáng, đúng lúc và đúng chỗ để nói sự việc đúng cho con cái. Trong mọi trường hợp, cha mẹ luôn luôn tỏ ra thực tình thuơng yêu con cái. Cha mẹ phải bảo đảm là thực tình yêu thương chúng. Nếu quý vị làm bẽ mặt con cái trước mặt mọi người, con cái có thể lén lút làm những điều sai trái. Chúng cũng sẽ học thói đạo đức giả. Cha mẹ phải hết sức chân thật với con cái. Nếu cha mẹ không chân thật, con cái sẽ mất niềm tôn kính với họ. Quý vị là bậc cha mẹ không thể đòi hỏi sự kính trọng nơi chúng nếu chính quý vị không xứng đáng. Quý vị phải cố đạt được sự kính trọng bằng tư cách và thái độ của quý vị với con cái. Không nên kỳ vọng lúc nào quý vị cũng là thầy dạy của chúng. Con cái, cũng có thể là các thầy dạy tốt cho cha mẹ.
"Một điều tốt nhất mà các bậc cha mẹ có thể làm được để thiết lập và duy trì mối giao tế thân mật, thương yêu giũa cha mẹ và con cái là thực hành lòng từ ái và thiền định. Họ nên làm thành thói quen việc trên đây để khuyến khích con cái theo họ vài phút thực hành thiền tập hàng ngày. Trong những gia đình Phật Giáo tốt, cha mẹ và con cái dành ít phút để tụng kinh kệ. Những gia đình này có một bàn thờ, nơi đây gia đình quây quần ít nhất ít phút trong một ngày." -- (Thượng Tọa Henepola Gunaratana, Hoa Kỳ).
Thảo luận về thanh thiếu niên phạm pháp, hai câu hỏi căn bản được nêu lên: (1) Ai là thanh thiếu niên? và (2) Cái gì cấu thành phạm pháp?
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, đó là tiêu chuẩn theo sự sắp xếp thứ tự tuổi tác. Đa số luật lệ nói về thanh thiếu niên phạm pháp trên khắp thế giới ấn định cỡ tuổi, trên cỡ tuổi này, thủ tục và các biện pháp đối với trẻ vị thành niên sẽ không áp dụng cho chúng. Cỡ tuổi ấn định tại Mã Lai sẽ được đề cập ở đoạn sau.
Câu hỏi thứ hai cái gì cấu thành phạm pháp rất khó để trả lời. Chữ delinquency (phạm pháp) bắt nguồn từ tiếng La Tinh deliquence có nghĩa là 'sao lãng', và có thể giải theo nghĩa rộng là cẩu thả của thanh thiếu niên không tuân theo đúng tiêu chuẩn về tư cách được chấp thuận trong một xã hội. Hành động của một thanh thiếu niên chống lại xã hội được coi như sự phạm pháp.
Một số chúng ta có những 'đồ bỏ đi' (cừu đen) trong nhà hoặc là ngay trong chúng ta. Nguyên nhân gì? Nghiên cứu cho thấy một số yếu tố khiến trẻ em có thể gặp phải cái nguy hiểm rơi vào tội ác. Những lý do về tội ác được nêu lên là: (a) lịch sử tội phạm của gia đình đứa trẻ; (b) Những nét cơ bản về gia đình không hạnh phúc do cách cư xử của cha mẹ, kỷ luật nghiêm khắc và thất thường pha trộn lẫn lộn với lòng rộng lượng trong viêc cung cấp tặng phẩm vật chất; (c) gia đình quá đông; (d) trốn học; và (e) thất bại trong việc học hành ở nhà trường.
Đứa trẻ phạm pháp có thể do môi trường xấu của nơi ở, không có lòng tự tin, không tin vào cá tính của mình, không hề được hưởng niềm vui bình thường. Giải pháp chính là ở nơi gia đình. Cha mẹ phải chịu trách nhiệm về việc làm của con cái ở mức độ nào? Trẻ em phạm tội lặt vặt là do sự sao lãng của gia đình lúc còn nhỏ. Chúng muốn chiếm hữu và có tiền. Nhưng vì chúng không biết làm sao để có được nên sinh ra ăn cắp. Những đứa phạm các tội ác hung bạo là vì ngoài sự cẩu thả của gia đình, chúng thường bị đối xử độc ác lúc thơ ấu. Chúng không biết xấu hổ khi tù tội. Chúng không có ý thức khi hạ thấp ai và cũng không thấy thích thú được xã hội tán thưởng.
Cha mẹ ly dị thường tạo những khó khăn tình cảm cho con cái. Chúng bị mất đi truyền thống của gia đình, truyền thống giúp chúng cư xử đúng mức và hợp đạo lý.
Không có cách chi có thể bảo con cái làm một cái gì khi chúng đã trở nên ngang ngạnh. Thưởng phạt phải có giới hạn. Khi nào ta bắt đầu kiểm soát và thúc đẩy con cái của chúng ta? Các nhà tâm lý cho rằng hai năm đầu tiên trong đời người, đó là phần lớn nhất của tiến trình này diễn ra lúc tình thương của cha mẹ thức tỉnh tình cảm tương ứng ở trẻ.
Thời gian này thiết yếu để hướng dẫn trẻ khi chúng lớn thành người biết trách nhiệm với xã hội hay là người chống lại xã hội. Trong thời hiện đại, những đứa trẻ sáu hay bẩy tuổi không còn là các em bé cưng mà ta nuông chiều, bồng bế, mà là những thằng nhóc bướng bỉnh. Cha mẹ chịu trách nhiệm nhiều về tư cách như vậy của chúng. Chúng ta phải hình thành suy nghĩ phê bình nghiêm túc nơi con cái, dạy chúng đánh giá hành động với hậu quả.
Trong giai đoạn chúng phát triển, nhà trường có trách nhiệm tương đưong với cha mẹ. Nhiều trẻ sợ hãi đi học vì sợ bị bắt nạt, chế diễu hay quá e thẹn về dáng dấp hay lo âu vì học kém ở trường, hay sợ hãi các thầy giáo. Trong ánh sáng các kinh nghiệm này, cố gắng làm cho cuộc sống của trẻ 5-6 tuổi bảo đảm hơn là thích đáng.
Những báo cáo mới đây về thanh thiếu niên phạm pháp của Bộ Xã Hội cho thấy tỷ lệ phạm pháp của trẻ dưới 18 tuổi gia tăng dữ dội (300 phần trăm từ năm 1962) . Đó là một điều đáng buồn, cho thấy biết bao cố gắng không kết quả trong các chương trình và đề án để truyền bá và nuôi dưỡng một xã hội lành mạnh. Trên 4000 trẻ em dưới vị thành niên phạm pháp bị bắt năm 1965, so với năm ngoái tăng khoảng 1000. Hầu hết những trẻ em vị thành niên bị bắt là những đúa gặp khó khăn tại trường học. Tình trạng vô kỷ luật trong học sinh tiến tới mức báo động. Thanh thiếu niên phạm pháp là do sự thiếu chăm sóc nơi gia đình, Những yếu tố không lành mạnh hiện hữu đàng sau trò chơi video và trung tâm giải trí cùng với bạn xấu. Bản nghiên cứu nêu rõ học sinh xuất thân từ các khu dân cư nghèo hoặc khu đất lấn chiếm dễ bị tổn thương và có vấn đề nhất.
Tiến sỉ Mahathir Mohamad, thủ tướng Mã Lai nói nếu Chính Phủ đóng cửa một số các trung tâm giải trí, nơi người ta khuyến khích giới trẻ dấn thân vào một số thói quen vô luân, thì chúng cũng hành động như vậy trong bí mật.
Cảnh sát cũng bày tỏ nỗi lo âu về những băng đảng mọc lên và các trường hợp hành hung tại trường học. Những hành động tội lỗi như vậy cần phải được kiềm chế để ngăn ngừa học sinh phạm các tội ác nghiêm trọng. Hiệu trưởng và các thầy cô giáo phải chỉ bảo và khuyên nhủ học sinh không nên bị lôi cuốn vào các hoạt động tội ác. Cảnh sát chỉ nên được gọi đến khi không giải quyết nổi các khó khăn.
Hisham Haren viết trong tờ New Straits Times (Mã Lai), ngày 5 Tháng 3 1994 như sau:
Thống kê của Cảnh Sát cho thấy năm 1994, số người bị bắt vì tội ác gồm có ghiền ma túy, hiếp dâm, loạn luân, đột nhập ăn trộm, và ăn cắp xe lên tới 4192 người. Trong số này 1839 đàn ông, và 23 phụ nữ gốc Mã, 390 đàn ông và 18 phụ nữ gốc Trung Hoa, và 421 người đàn ông và 10 phụ nữ gốc Ấn.
Năm kế tiếp người Mã phạm pháp cũng ở cỡ tuổi này là 2402 người, người gốc Trung Hoa là 922 người và 507 thanh niên Ấn Độ. Năm ngoái con số cho thấy là 2890 người Mã Lai, 770 người Trung Hoa (có xuống thấp) và 574 người gốc Ấn. Tại Selangor, Johor, và Kedah là những nơi tỷ lệ giới trẻ phạm pháp cao nhất. Thanh thiếu niên Mã chiếm tỷ lệ người phạm pháp nhiều nhất tại các Tiểu Bang.
Thống kê của Bộ Phát Triển Xã Hội và Thống Nhất (Mã) dường như xác minh thống kê Cảnh Sát cho biết trong số 2898 thanh thiếu niên phạm pháp về ma túy và vấn đề xã hội, 61 phần trăm là người Mã, 17 phần trăm là người Trung Hoa, và 10 phần trăm là người gốc Ấn. Mã Lai có đến 70 phần trăm người phạm pháp giam tại (Trại Cải Huấn Thanh Niên) Hundry Gurney tại Malacca.
Giới chức phụ trách an sinh xã hội cho là do áp lực đời sống hiện đại không tránh được dẫn đến sự sụp đổ mối quan hệ mạnh mẽ của cộng đồng và gia đình. Ai là người cần sự khuyến bảo? Chính bậc cha mẹ cũng rất cần chứ không riêng gì giới trẻ phạm pháp.
Nhóm phụ trách tờ News Straits Times trong một số báo ra ngày chủ nhật tại Mã Lai, tuyên bố những người già cũng có lỗi trước tệ nạn xã hội của quốc gia.
Lúc trưởng thành là lúc nhiều mâu thuẫn - thể chất, tình cảm, và tâm lý. Ngày nay người ta thấy hầu hết trẻ em phạm pháp là học sinh. Khi học sinh biểu lộ tư cách đáng lo ngại, giới chức liên hệ phải báo ngay cho cha mẹ để đề phòng về những nhận xét thấy nơi trẻ.
Những báo động sớm như vậy sẽ giúp cho cha mẹ có biện pháp đề phòng và sửa chữa trước khi các em sa vào thống kê hồ sơ phạm pháp của quốc gia. Như vậy, gia đình và trường học đều đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn trẻ con phạm pháp. Nếu cha mẹ lưu ý đến lời dạy của Đức Phật về bổn phận đối với con cái, những khó khăn tạo nên bởi con trẻ có thể được hạn chế .
Bỏ nhà trở thành một vấn đề nghiêm trọng trong thanh thiếu niên là nguyên nhân khiến cha mẹ lo âu. Trốn bỏ gia đình là một đứa trẻ bỏ gia đình không được phép của cha mẹ với ý định không trở về. Những đứa trẻ trốn gia đình vì chúng cảm thấy tình hình không thể chấp nhận được. Chúng nghĩ rằng bỏ nhà là một giải pháp. Nhưng thực ra bỏ đi chỉ có nghĩa là không ở nhà nữa, tinh thần căng thẳng và vết thương tình cảm vẫn còn.
Một nhà tâm lý xã hội nghiên cứu những khó khăn thời hiện đại nói rằng trốn bỏ gia đình ' là một phản ứng thiếu suy nghĩ trước căng thẳng và khủng hoảng'. Đương nhiên, có đủ lý do trong môi trường ở nhà và ở trường để thúc đẩy thậm chí một người tinh thần vững chãi nhất tìm đến cách bỏ đi như là một cách đối phó.'
Khi đứa trẻ bắt đầu nghĩ đến bỏ nhà ra đi, nó tự hỏi nhiều câu hỏi. Nó tự tính toán nhiều hơn là người lớn nghĩ. Chúng muốn từ bỏ mối an toàn trong gia đình để đổi lấy những hứa hẹn bất trắc ở môi trường mới. Tại sao? Đó là vì chúng quá thất vọng và nhân định là bất cứ lựa chọn con đường nào thì cũng tốt hơn là chịu khổ ở nhà. Chốn bỏ gia đình ít khi được lập kế hoạch chu đáo. Nó bất thần, phát xuất trong cơn bốc đồng.
Một số cha mẹ nghiêm khắc chọn bạn cho con hay cấm chúng giao du với bạn bè. Những bậc cha mẹ như vậy có thể đem đến kết quả là khuyến khích chúng bỏ nhà để đi tìm triển vọng tự do ngoài gia đình. Con gái bỏ nhà để tránh khỏi sự kiểm soát và bảo vệ quá mức của cha mẹ, chẳng hạn quyết định về lựa chọn bạn trai. Con trai bỏ nhà ra đi thường vì chúng không bị giám sát từ lâu. Chúng đã phát triển tính tình nông nổi, muốn thoát ly, muốn có một cuộc sống vô tổ chức.
Tình trạng căng thẳng cũng đôi khi phát xuất từ tình thương yêu con cái yếu ớt. Cha mẹ quá ư bận rộn về công ăn việc làm nên đã bất lực trong việc sửa chữa tính nết con cái. Mặt khác, chốn bỏ gia đình hầu hết bao giờ cũng vì sự kiểm soát quá mức và sự mong muốn không thực tế của cha mẹ.
Sự phát triển kinh tế quốc gia mạnh mẽ hiện nay đã dẫn đến những vấn đề xã hội ảnh hưởng đến giới trẻ. Với sự tiến tới truyền hình qua vệ tinh, và thông tin siêu việt, giới trẻ sẽ càng ngày càng bị ảnh hưởng bởi tin tức dung chứa giá trị tiêu cực dẫn đến làm suy đồi luân lý nay đang ám ảnh nhiều thanh thiếu niên tại các nước phát triển. Chúng ta phải tự chuẩn bị trước đối với sự thử thách của thế giới mới.
[04]
LUÂN LÝ SUY ĐỒI
Luân lý suy đồi đã xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta với các vấn đề, ma túy, đàng điếm, văn hóa đồi trụy và không lành mạnh giữa giới trẻ, tình dục bất hợp pháp vân vân.. .
Bản nghiên cứu của Bộ Thanh Niên và Thể Thao về 5860 thanh thiếu niên, cho thấy 71% hút thuốc, 40% xem phim khiêu dâm, 28% cờ bạc, 25 % uống rượu và 14% dùng ma túy. Mười một thanh niên phạm pháp giam giữ tại các trung tâm cải huấn trong nước mang vi trùng HIV gây bệnh AIDS. Mười đứa trong số này dưới 20 tuổi.
Nhà chức trách lo ngại về thanh thiếu niên mang vi trùng HIV, và đang giám sát chặt chẽ vấn đề. Khám phá khởi thủy cho thấy một số trẻ em không ghiền ma túy nhưng dính líu đến ma túy. Đa số các trường hợp được phát hiện qua tư vấn và thử nghiệm y tế tự nguyện.
Xu hướng không lành mạnh này chỉ có thể ngăn chận do ảnh hưởng trực tiếp của cha mẹ. Cha mẹ nên giám sát các hoạt động của con cái để chúng khỏi phải dính líu vào những hoạt động vô luân và bất hợp pháp.
Không sớm có sự giám sát và kiểm soát, con cái rất dễ dàng sa vào ảnh hưởng không lành mạnh. Nếu không kịp ngăn chặn, đứa trẻ sẽ đi đến phạm tội nghiêm trọng hơn. Sự cấp bách của nhiều vấn đề xã hội phải được nêu lên ngay. Cho nên cha mẹ phải củng cố thể chế gia đình hầu phù hợp với những đòi hỏi của sự thay đổi xã hội.
Theo hình luật Mã Lai, bất cứ tội gì gây ra bởi đứa trẻ dưới 10 tuổi đều coi như không phạm tội đối với trẻ trên 10 tuổi nhưng dưới 12 tuổi chưa hiểu biết để suy xét về bản tính và các hậu quả trong hành vi của nó vào lúc phạm tội.
Trong luật người ta cho là hết sức đúng và có sức thuyết phục rằng đứa trẻ dưới 10 tuổi không thể biết phân biệt phải trái mặc dù thực ra, đứa trẻ có thể vi phạm hành động cấm đoán với chủ tâm.
Loại trẻ em thứ hai giữa 10 và 12 tuổi, ở trong 'khu vực tranh tối tranh sáng' được miễn kết tội trừ phi công tố viện chứng minh được đứa trẻ có khả năng tinh thần bình thường nhưng có xu hướng gây tác hại chứng minh được.
Măc dù đứa trẻ dưới 10 tuổi phạm tội ác, có thể không bị truy tố, nó cũng không thể tránh hết được tất cả hậu quả. Tuy không có trừng phạt, nhưng tình trạng tương lai của nó có thể bị giới hạn. Người điều tra xúi dục đứa trẻ phạm tội, sẽ bị coi là kẻ phạm tội chính, và đứa trẻ được đối xử như vô tội. Tòa Án Thanh Thiếu Niên là điểm then chốt điều khiển bộ máy đối xử với thanh thiếu niên phạm pháp. Luật về thanh thiếu niên được thể hiện qua Đạo Luật về Thanh Thiếu Niên Năm 1947 và Đạo Luật về Thiếu Nhi và Thanh Thiếu Niên Năm 1947. Thanh thiếu niên được định nghĩa là một người khoảng 10 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Tòa Án Thanh Thiếu Niên không cho công chúng tham dự. Mặc dù phóng viên báo chí có thể tham dự nhưng không được nêu rõ chi tiết có thể nhận dạng kẻ phạm tội. Nếu có tội, tòa không dùng thuật ngữ như "bị kết án' hay 'phán quyết' đối với tội phạm.
Tòa do vị chánh án hạng nhất chủ tọa quyết định tội trạng. Có hai vị bồi thẩm, có thể một trong hai người này là phụ nữ để phụ giúp viên chánh án quyết định bản án'. Trước khi quyết định, tòa xét hạnh kiểm, môi trường nhà cửa, học bạ và hồ sơ y tế của kẻ phạm pháp.
Tòa có thể khiển trách hay tha bổng, phán quyết tha bổng cho kẻ phạm pháp cam kết có hành vi tốt, phải thi hành đúng lệnh ban ra hay được giao cho thân nhân hay một người nào đó trông coi, và lệnh cho cha mẹ hay người giám hộ phải thi hành điều kiện ghi trong bản cam kết, lệnh tạm tha, lệnh thi hành cho nhà trường hay Trường Gurney, để giáo hóa sửa chũa, thi hành lệnh phải trả tiền bồi thường hoặc án phí.
Có thể bị cầm tù nếu kẻ phạm pháp ở vào lứa tuổi giữa 14 vá 18. Việc giam giữ này chỉ là biện pháp cuối cùng phải sử dụng đến vì không còn đường lối nào thích hợp hơn nữa.
Đứa trẻ giữa 10 và 14 tuổi không thể bị giam cầm về bất cứ tội ác nào. Cũng không thể bị tù, dù rằng không trả được tiền phạt, tiền làm thiệt hại hay phí tổn. Theo Mục 16 của Đạo Luật Tòa Án Thanh Thiếu Niên, một thiếu nhi khổng thể bị kết án tử hình. Tuy nhiên luật này trở thành vô hiệu hóa khi môt thiếu nhi bị buộc tội theo luật Thiết Yếu ( Trường Hợp về An Ninh). Điều Luật năm 1975 loại trừ Luật Tòa Án Thanh Thiếu Niên. Tòa Án chỉ có thể xử một thiếu nhi khi nó tòng phạm với một người lớn bị kết án tử hình. Có thể trong trường hợp này, nó có thể được tha bổng hay vào Trường Cải Huấn Henry Gurney.
Một đứa trẻ dưới 10 tuổi tinh quái không thể tha thứ được hay một nói một cách khác cần đến trông nom và bảo vệ nhưng không ai có thể kiểm soát nổi nó, Tòa Án Thanh Thiếu Niên ra lệnh đem nó vào một cơ sở cải huấn.
Một trong những biện pháp thường được áp dụng nhất bởi Tòa Án Thanh Thiếu Niên là cho tạm tha có theo dõi. Một đứa trẻ phạm pháp đặt dười sự kiểm soát của một nhân viên theo dõi có bổn phận làm bạn để giúp đỡ nó cải tạo phục hồi. Tạm tha có theo dõi là một việc cần thiết xã hội vì đó là nhiệm vụ của nhân viên theo dõi thi hành án lệnh và giúp đỡ đứa trẻ về vấn đề gia đình khi cần thiết.
Tinh thần đằng sau luật liên quan đến thiếu nhi là chúng phải được đối xử khác người lớn, đó là đối xử với chúng bằng tình thương và hiểu biết, chỉ cho chúng thấy rõ con đường chính đáng phải noi theo mà chúng đã lạc lối không hề do lỗi của chính chúng.
Lời khuyên cho các gia đình có các em nhỏ là hãy bỏ nhiều thì giờ gần gũi chúng, nghe xem điều gì đang xẩy ra, và điều gì đứa trẻ thực sự muốn nói.
Do công nghiệp hóa nhanh trong nước, nhiều trẻ tại vùng quê đổ vào các đô thị lớn để tìm việc tại các hãng xưởng. Các thiếu nữ vùng quê vào các đô thị rất đông để kiếm việc làm tại các hãng điện tử. Sự cám dỗ của đời sống hấp dẫn tại thành thị với những trung tâm buôn bán, siêu thị và ánh đèn chói sáng lôi cuốn thanh thiếu niên vùng quê, sau những giờ làm việc chúng đã bỏ nhiều thì giờ rảnh rỗi chúi mũi vào các của kính bầy hàng hoặc lang thang từng đám tại những nơi ấy. Đầu óc của chúng chỉ còn nghĩ đến tiền, chúng nghĩ chỉ có tiền mới giúp có một cuộc sống hợp thời trang tại đô thị.
Kiểu sống của giới trẻ trong một thời gian đã khiến dân chúng (MãLai) dùng từ ngữ Bohsia Lepak (tiếng Mã) để chỉ họ. Boshia căn nguyên từ tiếng Hoa Kiều có nghĩa là "mất tiếng". Không biết ra sao, từ ngữ đó có ý nghĩa căn nguyên tối nghĩa như thế lại dùng để chỉ thanh thiếu niên lang thang tại các đô thị lớn. Tiếng Mã Lai Bahasa có nghĩa tương đồng Lepak.
Với một số tỷ lệ lớn các thiếu nhi rời xa sự kiểm soát xã hội đối với cuộc sống gia đình thường ở vùng quê, lẽ dĩ nhiên không ngạc nhiên gì thấy một số thanh thiếu niên tham gia vào các hoạt động không lương thiện trong các đô thị lớn, và dính líu vào lối sống thường không được chấp thuận tại các châu thị vùng quê của chúng. Không tránh được sự thoái hóa của đạo đức vì không có hình phạt của cha mẹ và xã hội nơi làng quê của chúng.
Đã đến lúc các thiếu nữ họp thành nhóm nhỏ, đầu tư chính mình làm 'gái làng chơi' đứng ở các địa điểm chiến lược như siêu thị, tòa nhà công cộng hay góc đường, để giới trẻ địa phương sử dụng. Những thiếu nữ này quá ư ngây thơ nên rất dễ trở thành các con mồi của những kẻ buôn hương bán phấn.
Ta có thể tới gần và làm quen với bất cứ một nữ công nhân nào lang thang nơi gần các siêu thị, và rất có thể, thiếu nữ đó nhận lời mời đi giải khát hay ăn qua loa ở tiệm ăn, rồi di dạo chơi, đi nhẩy disco, hay hò hẹn đến một chỗ thỏa thuận nào đó.
Sau này, các thiếu nữ này trở thành già dặn hơn, khôn ngoan hơn, có ý đồ, tự mình kiếm khách, những người đứng tuổi giàu có đi trên các xe hơi sang trọng lảng vảng đi kiếm gái làng chơi cho có bầu có bạn. Những người đàn ông thuộc xã hội thượng lưu này thường phung phí tiền bạc vào thú vui với gái. Tình thế vượt khỏi tầm tay khi những trường hợp bị cảnh sát bắt, cảnh sát cũng nhận được những khiếu nại của những bà vợ về những người chồng dính líu vào những hoạt động tội lỗi. Nhờ các biện pháp cùng sự kiểm soát gắt gao của cảnh sát, vấn đề Boshia và Lepak, đã từng là những tin tức hàng đầu, nay đã dần dần phai mờ.
Để lấp khoảng trống đó, bọn con buôn vô lương tâm nắm lấy cơ hội đem tiền khuếch trương các phòng nhạc Karaoke và Video là nơi hò hẹn lý tưởng với ánh đèn mờ và nhạc bình dân cho các cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên nam nữ. Bất chấp luật lệ của chính phủ, những phòng Karaoke và Video vẫn cho các trẻ dưới 18 tuổi được lui tới, và giờ mở của của các phòng này kéo dài đến tận 3:00 hay 4:00 sáng. Cả hai giới nam và nữ tự do lẫn lộn trong ánh đèn mờ và hành vi của chúng quả thật đáng trách.
Trung tâm Karaoke dùng thiếu nữ trẻ hấp dẫn làm "những chiêu đãi viên" để lôi cuốn giới trẻ say mê vào các cuộc trình diễn, nơi đây thanh thiếu niên được khuyến khích bỏ ra những món tiền lớn để tiêu xài. Trên màn hình video, đàn ông và phụ nữ ăn mặc hở hang, lượn đi lượn lại một cách khiêu dâm trong âm nhạc khêu gợi. Người ta có thể tưởng tượng được đầu óc non dại bị ảnh hưởng đến như thế nào. Chỉ dạy luân lý tại nhà trường không thể tạo được một xã hội lành mạnh. Cha mẹ phải loại bỏ yếu tố tiêu cực, và giới truyền thông cũng phải đóng một vai trò tích cực trên phương diện này. Xã hội phải làm thui chột cái ung nhọt này để đầu óc thanh thiếu niên khỏi bị đầu độc bởi những màn trình diễn khiêu dâm trên video.
Chính phủ đã có hoạt động kiểm soát chặt chẽ những phòng Karaoke và trung tâm Video để kiểm soát căn bệnh xã hội đang lan tràn trong giới thanh niên. Nhiều trung tâm như vậy hoạt động trá hình để cờ bạc và buôn bán ma túy. Những hoạt động này được điện tử hóa cao độ và dùng máy kiểm soát tự động từ xa, chúng có thể nhanh chóng đổi lại ngay (cờ bạc) thành trò chơi khi có một cuộc khám xét bất thần chỗ lui tới của họ. Rất là khó khăn cho cảnh sát bắt quả tang họ nếu không giả dạng. Cảnh Sát biết những hoạt động tội ác trong những quán du hí Karaoke và Video.
Chúng tôi muốn củng cố giây liên hệ gia đình và khuyến khích giá trị gia đình lành mạnh. Chúng tôi không muốn con em của chúng tôi đem tiêu hao thì giờ rảnh rỗi và tiền bạc tại những quán Karaoke và Video. Bằng cách đóng các quán Karaoke và Video, thanh thiếu niên ít bị phung phí thì giờ vào những chỗ đó và như vậy chúng được khuyến khích tham gia vào các hoạt động lành mạnh hoặc ở nhà với gia đình.
Trong kinh Sigalovada, Đức Phật khuyến nhủ giới trẻ không nên la cà ngoài đường phố hay tại các nơi chốn mà thanh thiếu niên có thể bị ảnh hưởng bởi các hành động vô luân của người lớn.
Đầu thập kỷ 60, phong trào 'hippie' tràn ngập Phương Tây gây ảnh hưởng sâu xa trong văn minh nhân loại. Hippie điển hình là một thanh niên đầu tóc bù xù lôi thôi lếch thếch mặc quần áo lòe loẹt sặc sỡ, tóc để dài, chủ trương tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, bác bỏ tiêu chuẩn bảo thủ và giá trị của xã hội. Cần sa là loại thuốc chúng thích hút. Những thanh niên địa phương bắt chước kiểu sống của chúng đến một mức độ nào đó. Mặc dù nhận thức muộn chúng ta có thể nói phong trào hippie đã có một vài ảnh hưởng tích cực, sự dễ dãi của nó đã dọn đường tai họa chưa từng biết đến cho nhân loại: thói xấu dùng ma túy.
Khi ma túy bị lạm dụng, kết quả tai hại - cho người dùng nó, cho người quan tâm đến người bị nghiện, cho xã hội nói chung. Lạm dụng ma túy trở thành một trong những vấn đề của việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Việc leo thang dùng ma túy không thể chấp nhận được, phí phạm mạng sống, phá vỡ gia đình, gia tăng tỷ lệ tội ác, không kể đến kinh phí lớn lao dùng trong các chương trình nghiên cứu, trung tâm phục hồi, và các cơ quan chuyên môn hành pháp. Ghiền ma túy gây thiệt hại cho thân thể con người, khó khắc phục là điều tất yếu.
Dùng chất độc hoài hoài trở thành ghiền và phải tùy thuộc vào nó. Thể xác phải lệ thuộc vào ma túy như hê-rô-in (thuốc phiện) chẳng hạn biểu thị đặc điểm là sự gia tăng liều lượng, người dùng phải dùng liều lớn hơn, để có thể đạt được phớn phở hay ngà say. Đương nhiên dùng ma túy như vậy làm giảm những triệu chứng (Nhưng xẩy ra các phản ứng mạnh của cơ thể nếu người ghiền cai không dùng ma túy) càng trở nên tệ hại hơn. Theo truyền thống, ghiền ma túy được giải thích là sự ảnh hưởng đến sức khỏe v?t chất con người. Ngày nay từ "ghiền ma túy" thường liên hệ đến kiểu hành vi được biểu thị bằng việc sử dụng thuốc bắt buộc và mối ưu tư phải có nó.
Lạm dụng ma túy được đánh giá là một kẻ thù lón nhất của thế giới. Xã hội đổ cho nguyên nhân tai họa là do luân lý suy đồi của giới trẻ lầm đường lạc lối từ bỏ môi trường gia đình, là do bị cám dỗ bởi ảnh hưởng bên ngoài. Nhiều người đã dùng ma túy để trốn tránh hoàn cảnh gia đình bất hạnh. Cha mẹ quá bận đến đỗi không thể chăm lo các nhu cầu xã hội và tinh thần cần thiết cho con cái đang trưởng thành, thường cẩu thả không lưu ý đến mức để chúng đi tìm an ủi trong ma túy. Thiếu sự hướng dẫn và giám sát thích hợp của cha mẹ, và không mấy quan tâm đến giá trị của đời sống, như luân lý và tinh thần, đã gây nên, đến một mức độ rộng lớn,tình trạng tiêu cực. Nhiều người ghiền đầu tiên không ý định gì trở thành người ghiền, nhưng đã lầm lẫn để rồi trở thành nô lệ cho thói quen.
Điều đáng chú ý là lợi nhuận buôn lậu ma túy vượt qua cả việc buôn bán dầu xăng dầu, và chỉ đứng hàng thứ hai sau buôn bán vũ khí. Sự buôn bán ma túy đem nhiều lãi khiến việc phân phối ma túy đã lan tràn rộng lớn, gây những khó khăn nghiêm trọng về xã hội- kinh tế cho các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển. Những con buôn lậu ma túy đang sử dụng cơ cấu hội đoàn, móc nối các vụ làm ăn rắc rối, liên hệ với các ngân hàng, công ty quản lý tài sản, cơ sở tài chánh và địa ốc.
Kẻ lạm dụng ma túy tiến thành ghiền thực thụ và kẻ tiêm chích (tiêm thuốc vào mạch máu) sống không ngưng bị đe dọa bởi thuốc quá liều. Dùng chung kim chích để "đóng vào" hay chích thuốc vào hệ thống cơ thể qua mạch máu là một trong những nguyên nhân chính truyền nhiễm bệnh AIDS hiện đang đe dọa quốc gia (sẽ được bàn cãi chi tiết hơn trong chương kế tiếp).
Chính Phủ đang chi hàng triệu mỹ kim vào những chương trình phục hồi với những thanh thiếu niên ghiền ma túy và số trẻ dùng ma túy tăng trưởng tới mức báo động.
Điều đáng luu ý là những trẻ sanh ra từ những bà mẹ ghiền ma túy cũng trở thành ghiền. Vì mẹ chúng nhiễm độc ma túy nên chất này cũng thâm nhập vào cái chắn nhau (chỗ đệm giữa mạch máu và bào thai), và truyền trực tiếp vào bào thai, các bác sĩ cố gắng tìm ra người mẹ sắp sanh có ghiền ma túy không (nhiều người dấu) để kịp thời chữa trị ngay lúc đứa bé mới ra đời. Nếu bác sĩ không biết đến bệnh ghiền của người mẹ, đúa bé mới sanh sẽ rơi ngay vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Tình trạng này gồm có khó thở, co giật và run rẩy.
Theo bản tường trình, đa số người ghiền là đàn ông (98.8 %), trên 80% số này tuổi từ 20 đến 39. Trên 41 % bị ghiền vì áp lực của bạn bè tương đương, 36.8% tìm thú vui do chính mình và 15.6% do tò mò muốn biết rồi thành ghiền. Một số người trở thành ghiền vì muốn tinh thần khỏi bị căng thẳng (4.8%), do kết quả của điều trị y khoa (1%), vì tai nạn (0.4%) và 0.1% dùng để kích thích nhục dục.
Bậc cha mẹ có thể nói với con cái như thế nào khi chúng ở vào lứa tuổi 12 đến 21 bị ghiền. Hàng triệu các bậc cha mẹ quan tâm vấn đề và lo lắng về sự lôi cuốn các con em vào ma túy. Điều mà họ lo lắng hiển nhiên là sự sử dụng mù quáng ma túy. Quý vị có thể nghi ngờ một đứa con dính líu đến ma túy khi thấy nó đột nhiên thay đổi tính nết. Đứa con trai hoặc con gái đó có thể tỏ ra rụt rè, nói năng ấp úng, trở nên hung hăng, mắc chứng hoang tưởng hay thất vọng, xuống cân, mắt đỏ, uể oải, cho thấy triệu chứng học hành kém ở trường học. vân vân... Nếu thấy bằng chứng không thể chối cãi được, không nên bi thảm hóa tình hình mà nên đem nó đến vị cố vấn, vị này biết cách làm sao đối phó với tình hình. Hành động tồi nhất là chối bỏ vấn đề đang có.
Một trong những cách thức giúp đỡ con cái tránh ma túy là nên gương mẫu trách nhiệm tại nhà - chính mình không nên dùng các chất say như thuốc lá và rượu. Nếu thấy con cái dính líu, không nên trực diện ngay với nó khi nó bị nhiễm. Từ từ nói chuyện và thảo luận với nó về vấn đề cùng bất cứ khó khăn cơ bản của tuổi hoa niên có thể liên hệ đến vấn đề.
Có hai mục tiêu lớn phải lưu ý: giao thiệp tốt đẹp với đứa trẻ, vì chính nó là người duy nhất có thể nói cho quý vị biết sự thể, và cho thấy một vài sự thật về dùng ma túy như - hút, nuốt, chích hay ngửi từ bao giờ và bao lâu phải dùng. Quý vị nên tham khảo vị bác sĩ gia đình, vị này sẽ giúp quý vị đường lối thích ứng nhất phải áp dụng. Nếu tình thế nghiêm trọng, vị bác sĩ có thể giới thiệu đến một trung tâm hồi phục hoặc bệnh viện.
AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome, Liệt Kháng) bây giờ là chứng bệnh gây chết chóc nhiều nhất trong tất cả các bệnh lây nhiễm qua tình dục. Nguyên nhân Bệnh AIDS là do vi rút HIV, nó đánh phá và làm suy yếu hệ thống miễn nhiễm của cơ thể cho nên cơ thể không bao lâu còn có thể đối kháng được dễ dàng. Một người mang bệnh AIDS không thể sống sót được mặc dù không phải hiện nay vi rút AIDS thực sự giết người ấy. Nguyên nhân của cái chết có thể do bất cứ sinh vật truyền bệnh nào đó xâm nhập cơ thể, không đối kháng được, và càng ngày càng tăng trưởng khiến cho người mang bệnh AIDS mắc hàng loạt các chứng bệnh hiểm nghèo mà người có hệ thống miễn nhiễm bình thường chỉ bị rất nhẹ.
Người mang bệnh AIDS chết vì một căn bệnh thứ hai. Hai chứng bệnh thường thấy nơi người bệnh AIDS là bệnh viêm phổi và một loại ung thư ngoài da do kết quả sự suy sụp của hệ thống miễn nhiễm cơ thể.
Một khi vi rút xâm nhập cơ thể, nó nhằm đánh phá hệ thống miễn nhiễm cơ thể. Vi rút AIDS sống trong các chất lỏng của cơ thể người bệnh, nhất là trong máu và tinh dịch. Người mang bệnh có thể truyền vi khuẩn cho người giao cấu hay có thể lây sang người khác lúc truyền máu. Người mẹ bị bệnh AIDS có thể truyền vi rút giết người cho đứa con trong lúc sanh hay sau khi sanh.
Vi rút AIDS di chuyển trong máu nạn nhân. Chắc chắn đó là lý do những người ghiền dùng ma túy chích qua mạch máu và những người bị bệnh ưa chảy máu thuộc loại dễ bị lây nhất. Những người ghiền dùng chung kim chích, kim dùng bởi một người mang bệnh AIDS có thể lây ra người dùng cùng một kim ấy. Vì nhiều người hiến máu cho các ngân hàng máu, rất có thể máu bị nhiễm trùng vi rút AIDS truyền cho người cần máu, và đương nhiên một số người đã bị lây bằng cách ấy. Đương nhiên không thể nào bị bệnh AIDS khi cho máu vì những kim dùng để lấy máu đều đã được khử trùng và được loại bỏ sau khi sử dụng cho một người.
Cái nguy hiểm cố hữu của bệnh giết người này là bệnh AIDS chỉ phát hiện trong máu một vài tuần lễ, hay đôi khi một vài tháng sau khi bị lây. Thời kỳ ủ bệnh ở mỗi người rất khác nhau, và có thể rất lâu, có thể lâu tới 5 năm, bệnh mới phát hiện. Cho nên không thể tìm ra bệnh ngay sau khi bị lây. Chưa có cách chữa trị và thuốc trị được bệnh này nên vấn đề phòng ngừa bệnh là chủ yếu.
Những triệu chứng sau đây xẩy ra khi có bệnh AIDS: có các cục bướu xưng, sốt hồi quy, đêm đổ mồ hôi, đột nhiên xuống cân, mệt mỏi, tiêu chảy, da đỏ, và nhiễm trùng bất thường, dễ mắc bệnh truyền nhiễm.
Kết quả điều tra về việc truyền nhiễm bệnh AIDS cho thấy người cùng ở một nhà, dùng cùng đồ ăn thức đựng của một người bị lây nhiễm, không bị lây bởi vi rút AIDS. Cũng không bị lây do dùng chung hồ bơi, bắt tay nhau hay dùng chung nhà vệ sinh. Con đường duy nhất bị lây là do sự giao hợp, hay dùng kim chích có nhiễm vi rút hay máu có mang bệnh.
Gần nửa triệu người trên thế giới được ghi nhận bị bệnh AID. Đó chỉ là một phần ba của con số ước tính tổng số 11 triệu người mang vi rút HIV giết người này.
Tổng số người mang bệnh ước lượng là 446,681 người rải rác trên 163 quốc gia. Riêng tại xứ (Mã Lai) chúng tôi, con số người mắc bệnh này là 2,500 người và 31 trong số 37 người mang bệnh đã chết. Vào năm 2000, ước lượng có hơn 60,000 trẻ em có bệnh AIDS, và 120,000 trẻ em mồ côi!
Tỷ lệ mang bệnh tăng lên 440%, so với tỷ lệ cách đây 5 năm. Dữ kiện thâu thập bởi Liên Hiệp Quốc chúng minh sự nghiêm trọng của tình hình bệnh AIDS.
Chiến lược của quốc gia chống bệnh AIDS là kế hoạch phòng ngừa căn cứ trên tinh thần đạo đức. Kế hoạch quay về với căn bản, đó là tôn giáo, giá trị văn hóa và truyền thống vì giới trẻ ngày nay sa vào các hoạt động mà thế hệ ông cha không bao giờ mơ tưởng đến. Sự nguy hiểm của tà dâm được Đức Phật giảng dạy trong giáo lý của Ngài.
Thuốc lá bao gồm những sản phẩm chứa nhiều chất nicotin như thuốc lá, xì gà, thuốc hút bằng ống điếu (tẩu). Trong những loại trên, thuốc lá thịnh hành nhất. Theo thống kê cho thấy, ghiền chất nicotine thường bắt đầu nơi thanh thiếu niên, và những người nhiễm thói hút trong thời gian trưởng thành. "Buộc được chúng hút lúc chúng còn trẻ", bạn có chúng "suốt đời" (phải hút thuốc) dường như đó là chiến lược kinh doanh của ngành công nghiệp thuốc lá.
Hiện nay, Mã Lai hình như quên lãng vấn đề thuốc lá. Những cuộc trình diễn thể thao, nhạc rock của giới trẻ, phim ảnh và những chương trình hướng về ngày lễ đều được bảo trợ bởi các hãng thuốc lá. Các hãng này quảng cáo trên đài truyền hình, vô tuyến, trong các phim trình diễn, và trong các chương trình nghỉ lễ cũng do các hãng thuốc lá bảo trợ. Họ tự quảng cáo trên truyền hình, vô tuyến và các quảng cáo in cho đại chúng một cách hết sức khôn khéo qua hình thức tuyên truyền các sản phẩm và dịch vụ không liên quan đến việc buôn bán của họ. Mặc dù sản phẩm được nhằm vào - quan trọng nhất thuốc lá, không xuất hiện nhưng thông điệp và hình tượng họ muốn công chúng thấy lại rất rõ ràng. Dù bị công chúng phê bình, những nhà chức trách của chúng ta vẫn cho phép những hãng thuốc tên tuổi và các hình tượng trưng được quảng cáo cũng như cho phép phát miễn phí thuốc lá mẫu trong những cuộc hòa tấu nhạc rock.
Cái gì đã xẩy ra trong luật lệ chống thuốc lá của chúng ta, và ai là người phụ trách việc áp dụng? Có phải luật này chỉ áp dụng trong khuôn viên bệnh viện, tòa án, các trạm xăng, và một số cao ốc công cộng? Cả đến Quốc Hội cũng đã thông qua đạo luật qui định chất nicotine coi như chất ma túy. Hiện nay, thị trường rộng lơn của Hoa Kỳ đang quay lưng lại với các hãng thuốc lá, chúng ta sẽ thấy một chiến dịch tích cực được thiết kế chu đáo đối nhằm vào giới trẻ của các quốc gia thế giới thứ ba. Mã Lai, một nền kinh tế thành công, chắc chắn là 'mục tiêu chính'. Chúng ta đã sæn sàng đối phó vói cuộc tấn công dữ dội vào giới trẻ của chúng ta trong quốc gia này chưa? Những con buôn bất chính thuốc lá phải chấm dứt. Hay phải chăng chúng ta chấp nhận Tổng Thống Clinton của Hoa Kỳ quan tâm đến giới trẻ Hoa Kỳ nhiều hơn là chúng ta quan tâm đến giới trẻ của chúng ta.
Mã Lai là một qưốc gia có trách nhiệm, phải đoàn kết để bảo vệ sức khỏe của thế hệ tới của chúng ta. Cơ quan chính phủ, khu vực doanh nghiệp, và các tổ chức phi chính phủ, cùng nhau làm việc trong một đường lối duy nhất để phá tan chiến lược quỷ quyệt của các hãng thuốc lá quốc tế. Nhà chức trách phải đề ra một đường lối chỉ theo đuổi một mục đích duy nhất với những kế hoạch đầy đủ chi tiết để kiềm chế giới trẻ hút thuốc. Những hãng thuốc theo luật định phải in trên bao thuốc lời khuyến cáo về sự nguy hiểm hút thuốc, nhưng điều đó chỉ được in hết sức nhỏ, chỉ có tính cách tượng cho hợp lệ với luật pháp.
Hút thuốc là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh tim, một bệnh gây nhiều chết chóc nhất trong xứ này và việc chi phí về y tế và xã hội càng ngày càng gia tăng mỗi năm. Chúng ta không thể cho phép thói quen hút thuốc phá hoại s?c khỏe của thế hệ trẻ, cho nên chúng ta phải cùng nhau hành động ngay bây giờ như một xã hội.
Không có thuốc lá nào vô hại cả. Ít nhựa, ít chất nicotine trong thuốc lá, theo như thí nghiệm tại nhà máy, tuy có giảm thiểu phần nào nguy hiểm với người bị bệnh ung thư phổi và bệnh tim, vẫn là mối lo ngại. Những công cuộc thí nghiệm này chỉ thực hiện bằng máy móc, chứ không phải trên con người. Hơn nữa, thay đổi hút thuốc nhẹ hơn, không phải là một lựa chọn tin cậy để chừa thuốc, nhất là đối với những người hút nhiều thuốc hơn để giữ mức độ nicotine trước đây.
Cả đến mặc dầu không nuốt khói lúc hút, bạn vẫn giữ khói trong miệng, vậy nên sự nguy hiểm về ung thư đường miệng gia tăng. Thêm vào, bạn có thể nuốt khói mà bạn không ý thức được, và bạn hít vào chất glycoprotein (một chất liệu có thể làm thương tổn mạch máu) ngay trong thời gian đang hút và ít lâu sau đó.
Nếu bạn có thể ngung ngay không hút, và thấy rằng không thèm hút hay không có triệu chứng như dao động và đau đầu, thì bạn không bị liệt vào hạng ghiền. Nhưng rất ít có khi bạn có thể ngưng hút mà không có một vài triệu chúng, trường hợp này nếu có được mô tả là đúng bạn đã nghiện.
Ngưng hút thuốc không bao giờ trễ cả, cả đến sau 25 năm hút thuốc. Bỏ thuốc đem lợi ích ngắn hạn và dài hạn. Bạn sẽ nhận thấy có những thay đổi khi bạn bỏ thuốc. Bạn thấy ăn ngon hơn, thở dễ hơn, và bệnh ho do hút sẽ không còn.Tuy phổi sẽ không bao giờ trở lại bình thường như lúc chưa hút, tác hại sẽ không còn. Đương nhiên, tin vui là nếu bạn từ bỏ thuốc, phổi của bạn sẽ không bị hư hại.
Trước khi giải phẫu tim, bác sĩ thường hỏi xem bệnh nhân có là người hút thuốc không. Nếu trả lời "có", họ sẽ tẩy sạch các chất nhựa chất chứa trong phổi người hút thuốc trước khi giải phẫu.
Nhiều người lên cân khi bỏ thuốc. Tin mừng là những người ấy chỉ có thể lên được hai hai hoặc ba ki lô thôi. Nếu muốn tránh lên cân, điều trước tiên là phải bỏ thuốc đã. Nên nhớ rằng nhiều lợi ích to lớn về sức khỏe khi bỏ thuốc, đừng lo lắng gì về việc bạn lên cân. Bạn có thể làm cho xuống cân sau khi bạn bỏ thuốc, điều này thứ yếu.
Câu hỏi thường được nêu lên:"Khói thuốc có làm hại tôi không? Có, khói thuốc có thể làm hại. Bằng chứng khoa học cũng cho thấy hậu quả gia tăng nhanh chóng của người sống hay làm việc với người hút . Khoa học gia tìm thấy phạm vi ảnh hưởng cao độ về những bệnh về hô hấp của trẻ con nơi những cha mẹ hút thuốc. Những cuộc nghiên cứu cũng cho thấy những người ngửi thuốc làm hoạt động hô hấp giảm đi nơi những người lớn và trẻ con mạnh khỏe. Báo cáo cho thấy chất liệu gây tác hại thở ra bởi người hút tìm thấy nơi người ngửi, đôi khi đến mức độ lớn hơn những người không hút, vì ngửi khói của người hút đã đem những yếu tố nguy hiểm ấy vào phổi.

No comments:

Post a Comment