CHƯƠNG 1: VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Về đến Hà Nội, tôi tràn ngập trong “vinh dự”. Khoa Trưởng của
trường Luật, một trường đang chết, Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia, Thủ Lãnh Luật Sư
Đoàn, phó Khoa Trưởng Sư Phạm, giáo sư phụ trách việc giảng dạy về Văn Chương
Pháp, thành viên ban chấp hành Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đồng thời cũng nằm
trong ban bí thư của Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, thành viên của Hội Huynh Đệ Việt
– Pháp, Hội Huynh Đệ Liên Xô - Việt Nam, thành viên của Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà Bình
Thế Giới, chủ tịch sáng lập Câu Lạc Bộ Đoàn Kết Trí Thức… Đó là những “vinh dự”
mà tôi mang, đủ để in đầy hai mặt của tấm danh thiếp.
Những “khuôn mặt uy quyền của chế độ” không làm
phiền đến tôi, cuộc sống khiêm nhường của tôi cũng không bị khốn đốn, tôi cũng
không cảm thấy mình quan trọng hơn hay nhỏ bé đi. Tôi biết rõ đó chỉ là một màn
kịch, nên chẳng cần phải cảm thấy được tung hô hay bị xúc phạm. Chế độ cộng sản
rất đam mê tôn thờ chủ nghĩa hình thức: họ tràn ngập thế giới với khẩu hiệu.
Danh xưng hoa mỹ và kêu to chỉ để trang trí cho những con rối người đang bị giật
dây bởi một ai đó trong nhóm, ở trên hoặc ở phía sau lưng họ. Những kịch sĩ
đang diễn trên sân khấu đã thuộc về thế giới xa xưa của những bộ phim câm. Thế
hệ phim câm và chủ nghĩa Cộng Sản xuất hiện cùng thời, người ta tự hỏi anh nào ảnh
hưởng anh nào?
Tôi đã tự hỏi tại sao tôi lại được hưởng nhiều món hời như thế.
Có phải chăng là nhờ tôi là khuôn mặt tiêu biểu cho một phẩm chất hay đại diện
cho một cái gì đó? Tôi nghĩ là không. Điều đó không hề xảy ra dù chỉ một thoáng
trong đầu của các lãnh tụ. Họ nghĩ rằng, bằng cách đưa một người nào đó vào chức
vị cao thì họ sẽ biến người này thành một nhân vật có tầm cỡ, cũng như thế, khi
họ đẩy một người nổi tiếng vào bóng tối là họ đã gọn gàng cắt đứt lòng kính phục
mà những người này được công chúng dành cho. Nhưng đó là một sai lầm. Đã có nhiều
người được hưởng bao nhiêu quyền lợi từ Đảng nay đã biến thành vô danh không
tên tuổi, ngay khi họ đang còn chói lọi trong chức vụ. Ngược lại, có những người
đầy khả năng và đạo đức được người đời kính trọng và tiếp tục được quần chúng
tin yêu dù họ không còn giữ một địa vị gì hào nhoáng!
Có phải chăng Đảng đã chiếu cố đến tôi và muốn thổi tôi lên, biến
tôi thành một trong những con khỉ làm hề trong gánh xiếc để chọc cười lũ trẻ
con? Đã có lần vào năm 1952, trong vùng chiến khu Bắc Việt, giữa lúc đang kháng
chiến chống Pháp, tôi được đề nghị vào Đảng, nhưng tôi đã từ chối “vinh dự” đó.
Năm 1946, trước khi tham gia kháng chiến cùng với cha mẹ và gia đình, tôi đã hiến
toàn bộ tài sản của tôi, ba căn phố ở Hà Nội, cho Cách Mạng và Dân Tộc. Trong
suốt thời kỳ Kháng Chiến tôi chấp nhận hy sinh tất cả và cống hiến tài năng của
một giáo sư và một luật gia cho Dân Tộc. Là thành viên của nhiều phái đoàn Việt
Nam trong bốn Hội Nghị Quốc Tế, một ở Dalat năm 1946, ở Bắc Kinh năm 1952, ở
Vienna năm 1953, và Bruxelles năm 1956, tôi đã đóng một vai trò tích cực và đã
mang lại một số thành quả khiêm tốn… Cũng có thể vì đó mà Đảng đã ban cho tôi một
giấy khen bằng cách cất nhắc tôi lên những vị trí danh dự nhưng cũng không kém
phần vẻ vang tôn kính. Nhưng tôi biết là Đảng có một trí nhớ rất ngắn, dễ dàng
quên đi những thành quả của người mà họ khen thưởng trước đây, một khi kẻ này
trở nên đối tượng làm họ tức giận. Ngay cả đối với những người cộng sản nổi tiếng
đã từng chia những ngày tù tội chung khám với những người đang cầm quyền hiện
nay, họ vẫn không thể thoát khỏi bàn tay dững dưng và tàn ác của những người
này.
Trong những uỷ ban điều hành các tổ chức quần chúng, người trí
thức thường được đưa ra làm phụ tá cho những đảng viên giữ vai trò chủ chốt, nắm
tay lái và điều khiển chiếc xe. Những con rối ngồi trên bàn chủ toạ, tuyên bố mở
đầu và kết thúc Hội Nghị, nhận những tràng pháo tay nhu nhược và vỗ trả lại những
tràn pháo tay nhu nhược không kém. Sinh hoạt này trở thành một thủ tục và một
chỉ dấu cho thấy một loại hợp tác chặt chẽ giữa người trí thức ngoài Đảng và
các đảng viên. Tôi hiểu rất rõ khía cạnh này và không hề ngạc nhiên về chuyện
đó. Tôi chờ vòng thịnh suy của luân hồi quay và chuẩn bị cho tôi chịu đựng sự
thống khổ sắp đến với một tâm hồn vui vẻ.
Trong thời gian đó ở Hà Nội, giới trí thức đang trải qua một cuộc
khủng hoảng về nhiệt tình. Phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổi lên trên toàn nước Việt
Nam. Nhiều người, cho tới lúc ấy, nghi ngại và e dè Trung Quốc – nhưng không chống
trà và thức ăn của họ - vẫn chưa biết được mặt trái của lá bài, dấn thân hết
mình vào Phong Trào. Vắng những chứng cớ thích đáng, không có thông tin đáng
tin cậy, nhưng họ vẫn đắm mình vui sướng trong cơn thuỷ triều đang nhởn nhơ
dâng, và niềm khát khao dân chủ bị kềm kẹp và đè nén từ lâu nay bỗng nổ bùng
thành những tia sáng đầy mầu sắc chói lọi và những chùm hoa đầy đốm lửa xanh. Một
tờ báo Nhân Văn được in ra, lập tức được độc giả nhanh chóng giành đọc. Khi tờ
báo Giai Phẩm được in ra, lòng người như sôi sục, như pháo hoa.
Khi đó Nguyễn Hữu Đang đến thăm, phỏng vấn tôi cho tờ Nhân Văn,
và mong tôi viết bài cho Giai Phẩm. Tôi đã gặp Nguyễn Hữu Đang ít lâu trước đây
khi Đang đến kiếm tôi đến gặp ông Hồ vì ông Hồ cần tôi giúp để soạn bản luận cứ
mà Chính Phủ sẽ dùng để tranh đấu trong Hội Nghị Đalat năm 1946. Đang là một đảng
viên Cộng Sản mà tôi tin cậy. Thời gian đó tôi không tiếp xúc với giới văn sĩ
và nhà báo vì không có thì giờ và cơ hội. Nhưng khi tôi được cho biết về khuynh
hướng của phong trào, đường hướng mà họ chấp nhận và bảo vệ, tôi sẵn sàng góp
chút phần nhỏ mà cũng là ước vọng và mong muốn của tôi.
Năm 1928, vào năm thứ hai của tôi ở Đại Học Luật, cái tiếp xúc đầu
tiên của tôi với chủ nghĩa Cộng Sản, vào thời đó, duy nhất là Liên Xô và bập bẹ
những từ đầu tiên về chủ nghĩa này. Trong hai giờ giảng, vị giáo sư dạy về kinh
tế chính trị dạy chúng tôi những điều căn bản về kinh tế theo Marx-Lenin. Sau
đó, trong suốt mười năm theo kháng chiến chống thực dân, tôi được học thêm về
chủ nghĩa Marx. Những giảng viên khiêm nhường tự mình nhận là những “báo cáo
viên” thường là những người đã được qua học ở Trung Quốc, đôi khi về từ Liên
Xô. Phương pháp dạy của họ làm tôi chú ý và khám phá những đặc tính của người cộng
sản. Môn học về chủ nghĩa Marx được chia làm nhiều bài học, mỗi bài sẽ được một
ông thầy “tương lai” chuyên về một chương đó dạy. Họ thấm nhuần những kiến thức
nhồi nhét bởi các thầy giáo người Trung Quốc hay Liên Xô, đúc kết thành bài giảng
cho hai giờ học, mang bài giảng cho cấp trách nhiệm phê bình. Sau đó họ chỉ có
việc đọc bài giảng cho mọi người chép, hoàn toàn không có ý kiến riêng vì sợ
gây những sai lầm về lý luận hay chệch hướng là những điều sẽ gây hại không nhỏ
cho họ!
Tôi học được hai điều: thứ nhất, đó là những người thầy thiếu
nhân cách và cá nhân tính. Họ là người máy và có thể dễ dàng thay thế bằng một
cái máy thu băng. Thứ hai, người cộng sản khi hành xử chuyện gì, họ chỉ làm
theo cách họ, tự bó mình trong một lãnh địa chật hẹp, đào sâu trốn kỹ, không hề
quan tâm hay biết người chung quanh đang làm gì.
Tôi thật sự bị kích thích bởi phương pháp làm việc của họ và tò
mò tìm hiểu muốn biết chế độ Cộng Sản đào tạo bác sĩ y khoa như thế nào. Một
người trẻ được chọn vì được người ta khám phá rằng anh này là người thông minh
và có khả năng, ngay trong khoá học xoá nạn mù chữ, và nhất là thái độ cuồng
nhiệt đối với Đảng. Anh ta được đào tạo thành một y sĩ giải phẫu chuyên về tay
và chân. Trong năm năm, anh ta phải phục vụ như một y tá, rồi như phụ tá trong
một bệnh viện ở nông thôn, cắt mổ hàng trăm tay chân và rồi cũng có được một số
kiến thức về cơ thể học giúp tìm dò những thớ thịt, đường gân, mạch máu của
chân tay. Kiến thức của anh ta dừng ở đó và nằm luôn ở đó.
Vì thế, nền giáo dục của cộng sản là không phí thì giờ dạy cho học
sinh những điều có tính lý thuyết hay kiến thức tổng quát. Thực tế là họ “vừa học
vừa làm”, thay vì thúc đẩy tình tò mò tìm hiểu những điều cao xa hơn, họ lại chọn
“tự đào sâu trốn kỹ” trong cái lỗ càng sâu càng tốt. Những trường hợp thành
công cá biệt lại được tung hô là tất cả, lấy chiều sâu trùm cả chiều ngang.
Trong hoàn cảnh cấp bách, để tiết kiệm thời gian, người ta không đào tạo ai
thành một “người chân chính, hiểu biết tất cả và không phiền lòng bất cứ chuyện
gì” nhưng theo lối con buôn, chỉ một lần trao đổi mà thôi. Cần phải hiểu đây là
cái logic của chủ nghĩa Cộng Sản: để đuổi kịp chủ nghĩa Tư Bản, đạt đến trình độ
văn minh tân tiến họ không dư giả thì giờ tiền bạc để đầu tư vào lãnh vực tổng
quát và nhằm đào tạo những cái đầu biết tư duy.
Những buổi học về chủ nghĩa Marx chẳng giúp ích gì cho tôi. Những
gì tôi biết về nó là tôi đã bị kéo vào thế giới Cộng Sản từ năm 1946. Những
quan hệ với con người, những gì tôi quan sát được ở Đảng và những chính sách của
họ, ở Nhà Nước với những cơ chế của nó, những ý kiến mà tôi được nghe, những
màn kịch mà tôi được xem, cộng chung với những suy nghĩ riêng tư đã làm tôi
sinh ra cảnh giác và trở nên cô đơn. Tất cả những chuyện đó là cách tốt nhất mà
tôi tiếp cận chủ nghĩa Cộng Sản. Có thể nói một cách chung, những người bận tâm
về một vấn đề như thế thường hành xử theo cảm xúc riêng tư và chọn một thái độ
mạnh mẽ. Họ theo hoặc chống Cộng Sản! Cá nhân tôi, tôi cho rằng cả hai thái độ
đều thiếu tính thuyết phục và công bằng, trong bản sắc cũng như khách quan. Đảng
không nuông chiều tôi, những “vinh dự” được ban bố cho tôi chỉ là một màn trưng
bày loè loẹt, cũng chẳng mang lại cho tôi và gia đình một chút gì lợi lộc hơn
những người biết tán tỉnh, cầu cạnh và biết làm cho Đảng nở những nụ cười hả hê
thoả mãn. Ngược lại, mặc dù tôi đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi
được về lòng yêu nước của tôi, mặc dù tôi đã hết lòng trung thành phục vụ Dân Tộc,
Đảng cũng đành đoạn đày tôi vào sa mạc, một cuộc hành trình mới đó đã ba mươi
lăm năm qua mà tôi sẽ kể lại những khổ đau trong những trang sắp tới. Cũng nên
hiểu rằng tôi có quyền trả thù cho những khổ đau mà tôi đã gánh chịu. Tất cả kẻ
thù của chủ nghĩa Cộng Sản đang chờ xem tôi trút những cơn giận điên người lên
chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi là một nạn nhân. Nhưng xin mọi người hãy tha thứ cho
tôi. Tôi đã chọn thái độ của một triết gia: chỉ tìm hiểu chứ không xử án. Hiểu
biết đòi hỏi mình phải nhìn vấn đề dưới mọi khía cạnh và dưới hai phía: mặt ưu
và mặt thiếu sót, mặt trái và mặt phải của trang giấy, sự tốt và sự xấu. Nó sẽ
dẫn đến sự công bằng và người trí thức chỉ muốn điều đúng đắn.
Không cần nhắc lại là người cộng sản đã góp phần đấu tranh cho Tự
Do và Độc Lập của Dân Tộc. Thật vậy, đây không phải là lần thứ nhất Tổ Quốc bị
xâm lăng và đã đánh đuổi ngoại xâm một cách vinh quang. Lòng yêu nước, vì vậy,
là yếu tố bất biến và nguyên do sâu xa nhất cho mọi lần thắng giặc. Nhưng lực
lượng quần chúng chưa phải là lực lượng tự mình tiến hành giải phóng Dân Tộc. Lực
lượng này chỉ phát huy được sức mạnh và hiệu quả dưới sự lãnh đạo lão luyện của
một ai biết dẫn dắt nó và làm nó phát huy hiệu quả đến mức tốt nhất. Đó là vinh
dự của những ông vua biết giao trách nhiệm cho những vì tướng biết động viên
quân sĩ kiên quyết biểu hiện chủ nghĩa anh hùng và quyết lòng hy sinh. Đó là ba
nhân tố có tầm quan trọng như nhau mà sự luân phiên vận dụng để đi tới chiến thắng.
Thật là bất công nếu chúng ta đã công nhận sự xứng đáng của người cộng sản rồi
sau đó chối bỏ sự đóng góp của họ sau ngày thành công. Chuyện quan trọng không
phải là đưa người cộng sản lên một vị thế cao hay đưa vào chỗ thấp, mà là chuyện
định đặt họ ở đúng vị trí mà họ phải có.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa Dân Tộc vào con đường
Xã Hội Chủ Nghĩa về lâu về dài là một thảm hoạ. Cái lỗi lầm kinh hoàng đầu tiên
không thể quên được là cuộc Cải Cách Ruộng Đất, nó không phải chỉ là cuộc thảm
sát hàng chục ngàn người dân vô tội, mà nó còn làm giảm sút nghiêm trọng uy tín
của Đảng và làm hại đến cái giáo điều “không bao giờ sai lầm” của Đảng. Những cặp
mắt mở to, những soi mói nhìn lại chính sách của Đảng, và những “bộ óc biết suy
nghĩ”, vội vàng tỉnh giấc Nam Kha để tổ chức những buổi phê bình thích đáng
ngay trước khi Đảng lấy lại thế đứng và quan điểm của mình.
Cá nhân tôi, qua những quan sát, phân tích và suy nghĩ, tôi đã đi
đến một số kết luận về những sai lầm của Đảng. Thứ nhất, cái mà giáng lên ngay
cả những người ít học nhất, là thái độ nô lệ thần phục hoàn toàn trước hai “ông
anh lớn” Liên Xô và Trung Quốc. Sự thần phục hoàn toàn không chỉ ở mức độ chủ
thuyết mà họ là người biện hộ cho tính chính thống của Liên Xô và Trung Quốc,
mà còn biểu hiện ngay trong cách ăn mặc, hội họp riêng chung, cung cách chào hỏi
nhau và cả đến lối sống v.v. Việt Nam đã mất bản sắc dân tộc để trở nên một
khuôn rập phản ảnh hai nước Liên Xô và Trung Quốc.
Cái rập khuôn thứ nhất là lãnh vực kinh tế, nơi mà chúng ta có
thể nhìn thấy cùng một chính sách kế hoạch, tự quyết định chính sách giá cả, sự
độc quyền của Nhà Nước trong lãnh vực sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế,
những chính sách thâu tóm toàn bộ lợi nhuận, bù đắp cho mọi lỗ lã, chọn lựa
nhân sự cũng như tính toán tiền lương cho họ. Quyền tuyệt đối và sự hiện diện
khắp nơi của Nhà Nước trên toàn nước, bất cứ chỗ nào, đã gạt bỏ mọi sáng kiến,
mọi quyền lợi tư nhân, sự vắng mặt của sự cạnh tranh, không có bất cứ một quan
hệ gì giữa giá phí sản xuất và giá bán, sẽ dẫn đến không sớm thì muộn một nền
kinh tế trì trệ, đến một nền kinh tế suy sụp, một nền kinh tế hoàn toàn được dẫn
dắt bởi chính trị, hoàn toàn quay lưng về những quy luật, những giá trị và những
hiệu quả đã được chứng nghiệm suốt mấy thế kỷ vừa qua.
Hơn nữa, chưa bao giờ người ta lại khinh miệt và hận thù luât lệ
với một thái độ láo xược như thế. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng. Người
ta cấm tiệt bất cứ mọi thứ can thiệp hay ngay cả một tia mắt nhòm ngó vào hai
lãnh vực Lập Pháp và Tư Pháp. Nguyên tắc “không thể sai lầm” và “không chịu
trách nhiệm” của Đảng đã mở cửa cho biết bao chuyện kỳ quặc, bệnh hoạn, tự tung
tự tác và hậu quả là đưa đến những hành động phạm pháp bởi mọi tầng cán bộ, bởi
các đảng viên hay những người được Đảng nặn ra. Chưa bao giờ nhân dân lại bị đẩy
vào một thế im lặng đê hèn và tai hại; không một gợi ý, đề xuất, nhận xét hay ý
kiến tư vấn nào mà nhân dân có thể đưa ra cho nhà cầm quyền để cải thiện việc
điều hành của Nhà Nước và làm cải thiện tốt hơn cho con dân trong nước. Bất hạnh
thay, những điều Luật được “bầu” ra bởi Quốc Hội, các cấp Toà do chính phủ dựng
nên chỉ có một và một mục đích duy nhất là bắt người dân quy phục, và tuân thủ
vô điều kiện bất kể chuyện gì mà nhà cầm quyền muốn dù là chuyện ngông cuồng vô
lý nhất. Mặc dù vậy, để lừa phỉnh trong nước và quốc tế họ luôn luôn ra rả
không ngừng là họ vì dân và do dân.
Những định luật khoa học, những cấu trúc thực tiễn của một nền
kinh tế đều bị khinh thường. Niềm cả tin bất khả bại cũng như tinh thần vô
trách nhiệm của lãnh đạo làm cho những định chế Lập Pháp và Tư Pháp trở nên vô
dụng. Những tai hại đó, dưới hiện tượng siêu hình, trở lại điều khiển mọi sinh
hoạt kinh tế chính trị: đó là quy luật của sự đổi thay đổi. Người cộng sản thường
hay hãnh diện về những cái biết duy vật biện chứng về sự thay đổi mà họ rao giảng
cho hàng tín đồ của họ. Nhưng trên thực tế họ đếch cần đến nó. Họ chỉ biết dựa
ngửa trên chiếc ghế bành của lãnh đạo, tuyên phán những câu tuyệt vời là sẵn
sàng chết nơi nào mà Đảng đã đặt họ ở đó. Mọi xúc phạm (đến chỗ ngồi của họ) sẽ
nhanh chóng biến thành một cuộc đấu tranh giành quyền lực đầy hung bạo, đặc biệt
là ở những chỗ ngồi cao cấp; kẻ nắm ghế quyền lực không dễ dàng tự ý nhường ghế
cho ai! Vì thế trật tự kiểu lão làng là chỉ thị hành động cho những người cộng
sản. Nhưng trong kinh tế, sản xuất và thương mãi, chính tính ù lì không thay đổi
này đã gây ra những phiền phức đầy tai hại. Trong một thế giới hiện đại, nơi mà
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển tột bực, những phương thức sản
xuất, giao thông, viễn thông, tin học, sự chuyển dịch của con người và hàng
hoá, tất cả mỗi ngày mỗi thay đổi nhanh chóng. Đã phải mất mấy ngàn năm con người
mới biết định cư định canh trong nông nghiệp và cho loài người phát triển tiến
lên; phải mất mấy trăm năm để con người khám phá ra nguồn năng lượng mới khởi đầu
cho nền văn minh máy móc, cho phép kỷ nghệ được phát triển dưới nhiều hình thức.
Khoa học kỹ thuật đã mất chừng ba thế kỷ để khám phá ra những bí mật của thế giới
vĩ mô và thế giới vi mô, khám phá ra những nguyên liệu mới khó tin nhưng đầy
tuyệt vời, bảo đảm cho một chiến thắng tuyệt vời trên điện tử và xử lý thông
tin. Một triết gia người Hy Lạp đã đưa ra một hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc về
tính thay đổi của sự vật khi nói “Con người không bao giờ hai lần tắm cùng một
nước sông”, ngược lại người cộng sản cứ khư khư chối bỏ không chấp nhận sự thay
đổi, luôn luôn bảo vệ tính “liên tục” của các định chế kinh tế và chính trị của
họ, đồng thời bám rễ luôn vào chỗ ngồi của mình.
Đối diện với một hoàn cảnh như thế, làm sao tôi có thể góp sức
gì cho Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở? Tôi sẽ không tham gia bàn cãi về những vấn đề
lớn. Tôi sẽ chú tâm vào những điều chi tiết nhưng đó là những tiêu chuẩn của một
nền dân chủ: Tôi mong rằng những kẻ lạm quyền nên bớt khắt khe, đừng bịt họng Mặt
Trận Tổ Quốc, rằng họ nên chấm dứt việc đòi Thẩm Phán phải hỏi ý kiến xin chỉ
thị của Đảng cho những vi phạm Luật hay những án hình sự. Đối những chuyện nhỏ
nhặt cần chi phải ồn ào, như người đời thường nói. Tôi không phải là một chiến
sĩ, lại càng không phải là kẻ bạo gan. Tôi không có một chút thich thú gì về
chuyện xung đột, nhất là khi một thanh kiếm gỗ phải chiến đấu với thanh kiếm sắt.
Những đồng nghiệp khác của tôi ở Đại Học như Giáo Sư Đào Duy Anh, sử gia và là
một nhà Trung Quốc Học, triết gia Trần Đức Thảo, nhà phê bình văn học Trương Tửu
cùng dấn thân trong cùng khuynh hướng dân chủ và cùng giữ mình cẩn thận đối với
những người cầm quyền mà ai cũng biết là nổi tiếng đao phủ, tàn bạo thời trung
cổ, tất cả đều dấu mình thô thiển dưới danh nghĩa “đấu tranh giai cấp”, chiến đấu
cho chủ nghĩa Marx.
Giới sĩ phu Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đa số - ít nhất là những
người cầm bút và còn quan tâm đến tự do và liêm sỉ của người trí thức, kể cả những
nhà văn còn trong bộ đội – Bộ Đội, như đã từng được biết, là thành trì của tinh
thần cách mạng trong sáng và chính thống - đồng tâm đứng lên theo tiếng gọi của
dân chủ và tố cáo sự bạo ngược đối với những sinh hoạt trí thức.
Về sau này, Việt Nam còn nghe được những tin khủng khiếp động trời
về vụ tàn sát dã man của Hồng Vệ Binh bên Trung Quốc do nhà cầm quyền ra lệnh.
Những tin tức nhận được ở Việt Nam cho thấy cuộc “Cách Mạng Văn
Hoá” chỉ đơn thuần là một cái bẫy đưa ra để thanh toán những kẻ thù của chế độ
Mao. Nạn nhân, dĩ nhiên, là bao gồm giới trí thức đã quá ngây thơ tin vào lời
nói của bọn cầm quyền độc tài và đã hát lên bài thánh ca dân chủ hiến dâng cho
giới chức quyền của của Vương Quốc Thiên Triều, và gồm cả những người cộng sản
với một quá khứ không tì vết luôn sẵn sàng quy phục dưới thế lực của Đại Vương.
Từng bầy Vệ Binh Đỏ tràn khắp đất nước, sôi sục hận thù với những kẻ thù của Chủ
Nghĩa Xã Hội, phát tiết sự hung bạo cuồng tín tấn công khắp nơi chỉ bằng vào những
lời hứa thần kỳ của lãnh đạo. Chúng tấn công những người vô tội không phương tiện
tự vệ, những nạn nhân của những những tên sát nhân đầy mặc cảm tự ti mà sự điên
tiết và tàn bạo luôn được nhà cầm quyền khuấy động. Máu đã đổ thành dòng, nhân
dân Trung Quốc đã phải ướt chân để vượt qua những cơn thuỷ triều đỏ màu máu, mắt
của họ đỏ lên màu đỏ của những lá cờ, biểu ngữ, cờ hiệu đang hể hả tung bay
trên những nóc nhà và trên những buyn đinh. Nhưng khi cuộc diệt chủng đến thời
kỳ cuối, không còn ai để cắt cổ, thì bọn Vệ Binh Đỏ lại tới phiên mình gục ngã
dưới lằn đạn của những khẩu súng máy ngã nhào vào những chiếc mồ chung, cũng từ
lệnh ban ra từ những tên quỉ dữ không còn muốn giữ lại một nhân chứng sống nào
cho tội ác của chúng! Qua thế giới bên kia, nạn nhân và kẻ giết người sẽ gặp
nhau và cùng khóc những giọt nước mắt đắng cay với ảo tưởng đã chết và một niềm
tin bị phản bội. Cách Mạng Văn Hoá đã buông màn phủ lên cái chết của những người
có văn hoá và lên cái chết của chính cái gì gọi là Văn Hoá.
Ở Việt Nam, người ta bắt đầu vụ xử án liên quan đến những người
viết văn, làm báo, thầy giáo mà lý do duy nhất là họ dám diễu cợt trên cái kỳ
quặc và nực cười của những người cộng sản. Họ bị kết án là đã bắn mũi tên vào
trí tuệ của lãnh đạo, của lực lượng vũ trang. Những kẻ cứng đầu ngoan cố này bị
kết án là chống Đảng và làm nhiễm độc Cách Mạng. Nhưng trong kho công cụ trấn
áp lại không có loại văn bản nào nói về mấy tội trên. Mặc kệ, họ có thể làm ra
ngay một cái. Nhưng văn bản để áp dụng biện pháp trị tội lại không thể có hiệu
lực hồi tố. Như trong thời kỳ Thượng Cổ, luật pháp là điều bí mật mà các Pháp
Sư và quan toà nắm độc quyền. Không còn gì kinh hoàng hơn là Nhà Nước Cộng Sản
đã vực dậy những thứ đã thành quá khứ từ hàng ngàn năm nay để nhảy xổm lên trên
Luật Pháp và dùng nó duy nhất là để cô lập, tiêu diệt những người mà họ nghi là
có tư tường xét lại chống Đảng, cóc cần biết đến cái gì là công lý và công bằng!
Tại sao mọi người phải quan tâm đến chuyện văn bản trong khi quyền lực chỉ ở
trong tay một kẻ độc tài?
Một logic như thế chỉ cho thấy mùi vị của một thứ luật rừng, của
những bộ lạc rừng rú. Có luật gia nào trung thành với thiên chức của mình lại
chịu đánh mất lương tâm, chịu nén cơn thịnh nộ để làm vui lòng những lãnh đạo
chính trị mà họ đang đợi mong những điều kỳ diệu? Nhưng thời nào, bao giờ cũng
có kẻ sẵn sàng đứng ra làm công việc hèn hạ kết án những người trí thức mà
chính họ cũng thừa biết những người này là vô tội đối với Luật Pháp. Tên quan
toà đó, tiêu biểu nhất cho loại người cam tâm làm đầy tớ. Và đây là chân dung của
loại thẩm phán đó.
CHƯƠNG 2:
ÔNG QUAN TOÀ VIỆT NAM
Ông ta sinh ra ở một thành phố mà nơi đó đã sản sinh ra bao
nhiêu người đi làm Cách Mạng. Trong thời đại ngày nay ở Việt Nam, tinh thần địa
phuơng trở nên mạnh mẽ. Địa phương nào cũng khoe khoang về những sản phẩm, tài
nguyên thiên nhiên, những thành công về nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nền công
nghiệp đang khởi sắc, và dĩ nhiên là những nhân vật tài ba của mình. Trước đây,
điều nhấn mạnh là những nhà thơ, những tướng soái hay những công thần đã phụng
sự đắc lực cho triều đình và cho dân địa phương. Ngày nay, cách làm thì khác
đi, người ta tán dương những giá trị Cách Mạng, những “anh hùng” được tôn lên
thành “Trời” và đã có được tới những ba mươi tuổi Đảng. Mỗi năm, Trung Ương Đảng
mời họ dự những buổi lễ chính thức, và ít nhất một lần, những người cùng quê
quán lại cùng nhau họp mặt thân hửu và đôi khi chè chén với nhau.
Hắn có một khuôn mặt gầy với hai gò má nhô ra chai cứng khắc khổ.
Đôi mắt thiếu tinh anh với nụ cười gượng gạo không chút vui vẻ. Hắn gầy như một
nhà tu khổ hạnh, dường như là hậu quả của một đời sống thiếu thốn vật chất,
không phải để hắn được sinh ra để dễ dàng tán gái mà chỉ để hắn chỉ có lo học
và thức đêm để học. Người ta cho rằng hắn đã cùng đồng hành với những luật gia
đã sưu tập bộ sách Luật Dallos and Sirey. Mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng hắn đi đi
lại lại với vẻ mặt khó khăn và nghiêm chỉnh của một quan xử án thời Trung Cổ.
Thầy bói có thể tiên đoán là tương lai hắn sẽ là một quan Toà: chưa bao giờ người
ta thấy hắn không mang theo một chiếc cặp da đựng đầy giấy và sách! Hắn học giỏi
và đã lấy một bằng Cử Nhân Luật.
Thời hắn tốt nghiệp, đa số bạn bè chọn làm việc trong chính quyền
thực dân và đặc biệt là thành những kiểm soát viên hay thanh tra Thuế Vụ, thư
ký Toà Sơ Thẩm hay Toà Phúc Thẩm trong hệ thống Tư Pháp của Pháp. Với những công
việc đó họ hưởng mức lương bổng hậu hĩnh, sống ở các thành phố và sống một cuộc
đời sung sướng. Ông quan của chúng ta lại chọn đi làm quan cho Triều Đình, có
thể ít tự do hơn nhưng lại hưởng lợi tức nhiều hơn nhờ hối lộ từ đám con dân mà
ông ta quản lý.
Dĩ nhiên, nghề làm quan triều đình tuy bị báo chuyên châm biếm
Phong Hoá và Ngày Nay tha hồ diễu cợt cũng mang lại đôi vẻ uy danh, không phải
vị bị diễu là “cha mẹ của dân” mà là do những lợi ích của giàu sang: một biệt
thự sang trọng ở Hà Nội, một chiếc ô tô mới tinh, chiêu đãi khách ở những nhà
hàng Tàu lớn ở phố Hàng Buồm, những buổi tiệc tùng ở những hộp đêm mà những cô
nàng dễ dàng và trẻ đẹp tự gọi mình là “ca ve” sẵn sàng cung ứng những bản nhạc
không gì khác hơn là những bản nhạc của thân xác trần truồng!
Vì thế, người anh hùng của chúng ta tự biến mình thành mệnh quan
của Triều Đình, chấp nhận cứng đầu không ngán búa rìu báo chí, bỏ túi đầy phẩm
vật hiện đại và tham gia một giai cấp mà phẩm trật và khuôn phép là một chuyện
đáng phiền và ngay cả nhục nhả. Người đời tin rằng ông ta chọn ra làm quan là
vì hám lợi và khát quà hối lộ. Dường như hắn ta đã bỏ lại sau lưng làng huyện của
hắn những tiếng thơm của những ông quan ngày xưa đầy trung chính. Vì lẽ nào mà
hắn chọn làm quan cho Triều Đình? Nhưng có cần phải tìm hiểu tại sao không? Cái
chính yếu đáng quan tâm và sau này cũng sẽ được nhắc lại nhiều lần là sự việc
ông ta là một viên quan của Triều Đình Huế.
Sự thành công của Cách Mạng đánh tiếng chuông cáo chung nền
phong kiến. Ngôi vua của Bảo Đại sập đổ trong sự dửng dưng của mọi người. Vai
trò quan lại chết theo, không người thay thế, toàn bộ quan lại sâu bọ cũng sụp
đổ. Ông quan “cha mẹ của dân” cố làm mọi người quên mình, sau khi đã cưỡng đoạt
bao nhiêu là tiền của “con” dân, đã tỏ ra bao nhiêu công bộc tôi tớ cho cấp
trên người Pháp và Việt Nam. Sự thay hình đổi dạng nhiều khi thật lạ lùng.
Ông luật gia của chúng ta lột xác quan triều để chọn tham gia
Toà Án của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chọn lựa của ông ta thật đầy ý nghĩa
và cho thấy một vài góc cạnh của tâm hồn: khao khát uy quyền và sức mạnh dưới
hai khía cạnh: tuân phục kẻ trên, chà đạp kẻ dưới.
Từ khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán của Toá Án nhân Dân,
tôi có nhiều dịp cãi trước mặt hắn, trong những vụ án dân sự lẫn hình sự. Tôi
không bỏ một cơ hội nào để nắm bắt những nét cá tính: tôi để ý nghe một vài giọng
điệu của ông ta, cùng lúc những lúc nhíu mày, lúc quắc mắt, tất cả những thứ ấy
làm tôi nghĩ đây là người nghĩ nhiều về bản thân và khinh khi những ai không có
trình độ trí thức và xã hội như ông ta. Trong một vài lần găp lãnh đạo chính trị
khá cao mà ông ta chờ nhận chỉ thị, tôi thấy dưới bộ mặt tỏ vẻ tôn kính là những
kiêu hãnh cá nhân đang giấu mặt; ông ta cảm thấy mình cao hơn người đối thoại
và thường là do những câu trả lời bén nhạy của ông ta quá đủ để cho thấy như thế.
Hắn có tư cách và cá tính, và không cho phép ai chà đạp lên đó. Có thể, như
trong vở kịch La Bruyère, ông ta phải hạ mình để phục vụ cho những kẻ không thể
ngang hàng với mình. Hắn bị tấn công cùng một lúc cả hai thứ mặc cảm tự ti và tự
tôn, làm cho hắn trở nên thù nghịch với các ông lớn và hận ghét các ông nhỏ. Hắn
che giấu cái quyền uy của hắn trước các ông lớn nhưng lại ra quyền đối với các
ông nhỏ. Được bổ nhiệm làm Thẩm Phán Toà Phúc Thẩm và trong khi chờ được đi làm
Thẩm Phán Toà Án Tối Cao hắn nén lòng chận cơn khát một vinh quang hạng ba nên
đã gia nhập Đảng Xã Hội, một đảng được lãnh đạo Cộng Sản đẻ ra để lường gạt dân
chúng trong nước và quốc tế, hầu có cái môn bài “đa nguyên” rẻ tiền để tập hợp
giới trí thức vào ủng hộ lý tưởng cộng sản. Hắn cũng đã thành công kiếm được chức
Tổng Thư Ký của đảng Xã Hội phân bộ Hà Nội và làm đại biểu cho đảng này trong
ban Chấp Hành Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội. Với tham vọng và cơ hội chủ
nghĩa hắn vẫn không làm sao thoả mãn được với những chức vụ “to lớn” mà hắn
đang có, cũng như một loại người bắt cá hai tay để rồi chẳng được con nào, hắn
bám đuôi các nhà lãnh đạo nhưng cũng chẳng hưởng được một ban bố hay che chở
nào.
Đảng Cộng Sản rất khôn ngoan sắc sảo: trong chính sách Hoà Hợp
Dân Tộc mà họ chủ trương qua trung gian của Mặt Trận Tổ Quốc, tất cả để che đậy
một mục tiêu thầm kín nhưng với biểu lộ bề ngoài là rộng lượng khoan dung; họ tự
kềm chế để tránh việc làm cho cả một tầng lớp quan lại trở thành kẻ thù không đội
trời chung với họ. Họ ban phát cho mấy quan một chút vuốt ve, một vài nụ cười
thân thiện để mấy quan yên lòng và thậm chí bổ nhiệm một vài quan vào những chức
vụ công quyền chính thức. Họ sẽ không thể kiếm được những tôi tớ nhiệt thành
hơn là những tay có một quá khứ “tì vết” và những kẻ chỉ có một nhu cầu thúc
bách là được chuộc lại “lỗi lầm” trong quá khứ. Không người đàn bà nào có thể tỏ
mình là người đoan trang hơn là những cô gái già. Một khi Đảng đã nắm chắc sự
hiến dâng tận tụy của đám người đoan trang kiểu gái già đó, xem như Đảng đã mở
rộng tầm nhìn, sự độ lượng bao dung hoàn toàn không có thành kiến và ý đồ trừng
phạt trả thù.
Nhưng kẻ được nghe câu “chúng ta hãy làm bạn với nhau…” thật
không cảm thấy an lòng. Vì vậy, để giữ cho mình chút tự trọng và để đảm bảo được
chủ mới tin tường, hắn chơi trò hàng hai: độc tài trước công chúng và khúm núm
xum xoe những khi gặp cấp trên. Hắn càng tỏ ra quyền uy ở chốn công, thì hắn lại
càng khúm núm ở nhà riêng của ai đó. Nhưng hắn không thể lường gạt ai, kể cả hắn.
Ông quan Toà nhà ta đã làm cho mình được mọi người biết đến qua
một vụ xử án quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh
ngày nay. Một ít lâu sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã cho lệnh
đưa ra toà để kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng
dạy bài văn có tên là “Sự Cách Ly” (“L’Isolement”) của nhà văn người Pháp
Lamartine. Ngàn xưa từ thời Socrates, ai cũng biết là, khi nhà cầm quyền muốn bắt
kẻ sĩ nào đó uống thuốc độc thì chỉ cần gán tội cho họ là đã đầu độc tuổi trẻ.
Đảng Cộng Sản đã vực dậy một thủ đoạn đã dùng hai ngàn năm trước. Trong mọi thời
đại, kẻ độc tài luôn kiếm cách xếp đặt nhân dân theo khuôn mẫu họ muốn, đặc biệt
là giới trẻ là những kẻ đang nắm giữ tương lai. Tất cả đường lối giáo dục đều
phát xuất từ đường lối chính trị chính của họ như là một hệ luận đương nhiên. Học
đường phải là nơi đào tạo những người mà sau này phải chăm lo cho đường lối của
nhà cầm quyền. Mọi chệch hướng trong giáo dục cũng đồng nghĩa là đi sai đường lối
chính trị mà lãnh đạo đã đưa ra.
Đây chính là cái logic của mọi chuyện! Nhưng điều thảm khốc ở
đây là cái logic như thế lại phải cưu mang một cái gì đã lạc hậu nặng nề hơn
hai ngàn năm nay. Có ai dám tuyên bố là Chủ Nghĩa Cộng Sản là chỉ mang lại tàn
phá trong quá khứ? Tôi không đặt vấn đề một cách chủ quan là giáo dục là để cho
nhà nước hay cho con người? Tôi nhấn mạnh ở đây, duy nhất trên sự kiện là nền
giáo dục cộng sản tự cho mình cái bổn phận đào tạo người cho nhà cầm quyền, sao
cho người ấy hết lòng làm việc cho chính quyền và tất cả phải làm sao cho giáo
dục đạt được điều đó.
Trong những điều kiện đó, con người được đào tạo bởi nhà cầm quyền
chỉ là một công cụ để thi hành những chính sách cầm quyền và không là gì khác
hơn. Người ta tự hỏi đây là thứ chủ nghĩa xã hội loại gì mà không ai thấy có bất
cứ nơi đâu nếu có chăng là ở trong trí tưởng tượng của những nhà lý luận. Mặc kệ!
Những nhà lãnh đạo hãnh diện với chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa duy vật của
mình, phê phán chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thái, đã vận dụng trí tưởng tượng
của mình mà xây nên một hình mẫu chủ nghĩa xã hội. Bằng cách chiết xuất vô tư đủ
thứ lý thuyết, họ nhồi nhét vào một hình mẫu con người xã hội chủ nghĩa với đủ
thứ nết tính tốt đẹp: cứ đọc những văn kiện lập pháp, những thông tư hành
chánh, đủ thứ văn bản mà từng đoạn văn dài dành đề ca tụng chủ nghĩa cộng sản
đang lang thang trên thiên đường của ảo tưởng. Trong những điểm đặc trưng của
con người xã hội chủ nghĩa của ngày mai của họ, điểm nhấn mạnh là niềm vui sống,
lạc quan chủ nghĩa. Nếu sự thật là thế, là chủ nghĩa xã hội mang đến hạnh phúc
cho người dân thì quả là họ đã được thăng hoa trong cuộc sống với thứ chủ nghĩa
lạc quan. Các nhà lãnh đạo đã có thấy chăng là đời sống trong chế độ Xã Hội Chủ
Nghĩa của họ hiện đã trở nên ủ ê ảm đạm, con người bị trói cột dưới sức nặng của
bao nhiêu cấm đoán và thiếu thốn, kéo dài những ngày tăm tối và họ đang bị đẩy
vào buồn tủi và vô vọng? Mặc dù với đủ mọi chuyện, nhưng có một chuyện không chối
cãi là dưới mắt người cộng sản, sự thất vọng, thờ ơ hay bi quan là những chứng
cớ tiêu cực về tinh thần, chệch hướng về chính trị, phản động và có ý chống phá
Cách Mạng.
Điều bất hạnh là một đã khi nắm được chính quyền và đang chờ thời
cơ để tiến hành những cải tổ, lãnh đạo mới tuyên bố sẽ giữ nguyên trạng mọi việc
như cũ. Khi những thành phần ưu tú và một số công chức cũ bỏ ra nước ngoài, những
người còn lại vẫn giữ nguyên chức vụ và tiếp tục hưởng mức lương cao như ngày
trước; chính chuyện này đã gây nên những xung đột giữa những kẻ “hợp tác” (với
Pháp) và những người của Kháng Chiến. Đó là trường hợp các giáo chức. Giáo viên
dạy Khoa Học thì không sợ gặp vấn đề vì lẽ Khoa Học không có gì gọi là mang
tính phản động. Trong khi đó, giáo viên dạy Văn vẫn tiếp tục dạy thơ văn vì
chương trình giảng dạy vẫn chưa thay đổi. Vì Lamartine là bài khởi đầu của một
số tiểu thuyết lớn, nên ông giáo nhà ta không thể nào loại bỏ nó trong chương
trình học. Vì thế ông giáo bị kết án giải trình rằng phân tích cuốn Nỗi Cô Đơn
(Isolement) của Lamartine thấy diễn tả tình trạng suy sụp tinh thần, bất mãn
chán chường của đời sống từ khi có cuộc Cách Mạng (Tư Sản) 1789, và trong nỗi
chán chường và cô đơn tác giả thiên về một đầu tranh cho một thế giới mà ông ta
tìm được hy vọng và tình yêu...
Trong thời đó, khẩu hiệu tuyên truyền là “kẻ thù vẫn còn khắp mọi
nơi, tay sai của nó vẫn còn ở khắp nơi”. Việc duy trì an ninh đòi hỏi một đề
cao cảnh giác cao đến mức báo động, việc gửi những tay công an mật vào tất cả
những cuộc hội họp, cũng như việc trưng dụng những tay làm mật báo nghiệp dư
hay tự nguyện liên tục rảo quanh các con đường, vỉa hè, vườn hoa hay công viên
công cộng, trong những quán cà phê, rạp chiếu bóng hay nhà hát, nhà nghĩ hay những
toà nhà công cộng… Tất cả thư tín cá nhân đều được ghi danh sách và kiểm tra,
kiểm soát thư tín xảy ra ngày đêm, tất cả các máy thu thanh cá nhân đều được
theo dõi nhất là vào những giờ mà các đài phát thanh nước ngoài hoạt động.
Trong công sở, ngoài những người mặc đồng phục, còn có những phòng chứa đầy do
thám tai giương to, mắt mở lớn. Những giao tiếp giữa những người với nhau, nhất
là với người nước ngoài là đối tượng đươc đặc biệt kiếm soát và không ai ngạc
nhiên khi thấy thư từ gửi cho mình tự biến mất trên đường đến nơi nhận. Đối với
những tay mật thám chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản và có ít nhiều kinh nghiệm
thì người bị theo dõi rất khó nhận biết, nhưng ngược lại với những tay không
chuyên, nóng lòng kiếm công để lập với cấp trên ở địa phương thì rất dễ biết và
chỉ cần một hai mưu mẹo là có thể chơi chúng nó được rồi. Cả Hà Nội là cảnh tượng
một đám hình nộm hay là một sân khấu đang có những người đang khoa chân múa tay
với ánh mắt bất động, diễn tuồng trong câm điếc, như những người máy cử động được
là nhờ những chiếc lò xo gắn bên trong. Nhưng đằng sau bức màn sân khấu, đằng
sau góc nhà, ở góc vỉa hè, trong những câu chuyện giữa hai người, những điệu bộ
châm biếm diễu cợt đã xuất hiện, để trả thù cho những ngày sống không được nói
và phải luôn sống với quán tính cẩn thận dè chừng, như khám phá ra những điều
quái gỡ, rồi bật phá ra cười bằng cách bắt chước giọng điệu hay cung cách của
nhà lãnh đạo.
Trong các Đại Học, trong các phân khoa, trong mỗi lớp, trong mỗi
buổi học, suốt cả năm, trong đám sinh viên luôn có những tay làm do thám. Có
hơn một giáo viên thuộc thành phần kháng chiến lo theo dõi các đồng nghiệp, bất
kể những người này thuộc thành phần “hợp tác” hay “kháng chiến”, tố cáo với thẩm
quyền trực tiếp về những cái gọi là những sai lầm tư tưởng, những chệch hướng
mà các giáo viên đã từng ăn lương của chính phủ Đông Dương và nay vẫn còn tiếp
tục hưởng lương của chính phủ Cách Mạng. Họ, những giáo viên thuộc thành phần
“không kháng chiến” bị khinh khi chỉ vì họ không có một chút hy sinh nào cho
Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, họ trở nên đối tượng ganh ghét vì mức sống họ
cao so với người khác. Chuyện bất công như thế nên được chấm dứt. Khi mà Đảng
và Nhà Nước cần phải tránh bị mang tiếng là tiền hậu bất nhất không biết giữ lời,
một số tay “cựu hợp tác” đã được Đảng mua chuộc “thông cảm” mà tự ý đề nghị phải
“công bằng” với tất cả về chế độ lương bổng. Như thế làm thế nào mà lãnh đạo
không cảm động bởi một thỉnh cầu đúng đắn, phải lẽ và chân thành như thế, nhất
là lại nằm trong chính sách hoà hợp dân tộc của Mặt Trận Tổ Quốc? Mặc dầu giúp
Kho Bạc Nhà Nước lúc nào cũng thiếu hụt, tiết kiệm được chút tiền và mặc dù có
sự cằn nhằn của các người được ưu đãi trước đây, và đặc biệt là các bà từ nay
phải thắt lưng buộc bụng, bầu không khí trở nên hân hoan: Nhà Nước tiết kiệm được
một giọt nước trong biển cả của thâm thụt, người xuất thân “kháng chiến” từ nay
thấy được một chút công bằng, người thuộc chế độ cũ, sau những chịu đựng từ hôm
mồng 4 tháng 8, từ đây có thể ngẩng mặt cao và xem mình đứng ở thế ngang tầm với
các đồng nghiệp xuất thân kháng chiến.
Trong hoàn cảnh đầy hân hoan như thế, cuộc xử án vị giáo viên dạy
Văn bị kết tội là đã làm hư hỏng thanh niên và đầu độc tâm hồn họ kắt đầu. Kẻ bị
kết án được khuyên là không nên tìm luật sư biện hộ cho mình vì lẽ một luật sư
giỏi, nổi tiếng là rất hiếm hoi, mà ngay có được một, thì ông ta cũng là một loại
người cứng cựa đối với những người cộng sản, những người đã từng có những kinh
nghiệm kinh hoàng với luật và những luật sư thời trước.
Cho ngay đến những người không thường có thói quen suy nghĩ sâu
trên một vấn đề, mọi người đều cảm thấy ý nghĩa của một vụ án như thế này. Nó
nhắm biểu diễn cho những người tham dự phiên toà thấy một Nhà Nước rất nghiêm
chỉnh trong việc điều hành luật pháp một cách công bằng. Đây là một mẫu mực
trong việc điều hành của chính phủ và những việc hành chánh sáng tạo bởi chủ
nghĩa Cộng Sản, mà theo đó tất cả những sinh hoạt chính quyền là để giáo dục quần
chúng và hướng họ đến việc tôn thờ Đảng Cộng Sản, tôn thờ những kẻ lãnh đạo Đảng
và chủ nghĩa Cộng Sản mà họ tự là người đại diện. Những điều luật và nghị quyết
ban hành, những văn bản phổ biến đến tất cả các cơ sở giáo dục, từ cấp Tiểu Học
đến cấp Đại Học, những buổi hội thảo công cộng do những diễn giả chuyên nghiệp
hướng dẫn, những bài xã luận, những cuốn sách được xuất bản, những phiên toà,
những cuốn phim được chiếu, những buổi mít tinh được tổ chức, những tuyên bố
đưa cho báo chí, tất cả đều phải đặt mình vô điều kiện và tuyệt đối, hiến thân
trọn vẹn vào đường lối chuyên chế của Đảng, một đảng không giống bất cứ đảng
nào mà phải là Đảng với chữ Đ luôn luôn được viết hoa. Tất cả những người đi
kháng chiến trong thời kỳ bí mật đều hiểu được rằng muốn được vào Đảng, họ cần
phải sẵn sàng hy sinh tất cả, nếu cần phải làm tội ác cũng phải làm. Mỗi người
đều phải trải qua những ngày tập huấn rồi tái tập huấn theo một khuôn đúc đã được
định sẵn. Trong thời gian đó họ được khai tâm học tập, họ không cần đếm xỉa gì
đến những giá trị nhân bản, chỉ cần chuyên chú vào việc tôn thờ một vị chúa tể
duy nhất mà cái tên được người ta dựa vào để sinh ra những ý tưởng kinh hoàng
và làm những việc nhơ nhuốc nhất đều được cho phép! Con người bị biến thể, tự
biến mình thành những người máy đem tất cả tâm trí và linh hồn để phụng sự cho
chiến thắng của bản năng và thú tính, hay đúng hơn là sự chiến thắng của sự thấp
hèn và ghê tởm.
Những người kháng chiến đều biết trước diễn tiến của vụ án. Họ đều
biết vị chánh án của phiên toà là người có một quá khứ nặng nề của một viên
quan của Triều Đình; và mặc dù ông ta đã thành tâm một cách không chối cãi,
nhưng chưa bao giờ đạt được những vinh dự mong muốn, rầu rĩ và mụ người trong
cái tầm thường dù đã được mạ vàng sáng láng. Khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm
phán xử án, ông ta như bị xâu xé bởi một mâu thuẫn nội tâm. Một mặt, sau những
năm học Luật, tốt nghiệp và đi làm quan, ông ta có được một sự cân bằng nào đó
về kiến thức và ý niệm đạo đức trong bản thân. Nhưng ông ta lại muốn cái “tội
ác” ngày xưa được tha thứ theo như cái nhìn của những người Cộng Sản – cho hắn
có lại một sự “trinh bạch” để được gia nhập vào giòng người sạch sẽ và trắng ngần
hôm nay, để đạt tới một tương lai huy hoàng ở ngày mai, phù hợp hơn với khát vọng
và tương lai của mình. Ông ta là hình ảnh của một con giun đang quằn quại mà
không biết mình nên tiến hay lùi. Khởi thuỷ cuộc đời hắn, việc chọn đi làm quan
cho thấy cái chủ đích thấp hèn và cái ước vọng ác đức của hắn. Một ông chủ tư bản
bóc lột công nhân, đẩy người này vào nghèo khó, bóc lột họ đến tận cùng của sức
lực. Nhưng một ông quan triều vơ vét tiền của dân, nhẫn tâm trên đủ thứ tội ác,
trên hàng vạn con người trong vùng cai trị của hắn. Để nịnh nọt, người dân gọi
các quan là “cha mẹ của dân”. Nhưng giữa họ với nhau, họ coi ông quan như là một
thứ ký sinh trùng của dân. Chuyện cũng dễ hiểu khi ông quan còn mang trong
lương tâm cái mặc cảm của quá khứ. Ông ta cũng hiểu rằng đang có nhiều cặp mắt
đang nhìn, không phải duyên cớ nào khác hơn là để “thử thách” khi giao cho ông
nắm phiên toà xử tội một người trí thức có tư tưởng chống lại đường lối của Đảng.
Trong tình cảnh như thế, ông quan Toà nhà ta không thể nào xử một cách công bằng
không thiên vị và phải như Luật đã định.
- Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh
niên của chúng ta một loại Triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan trong
khi Đảng của “chúng ta” được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan,
hy vọng và vui sống?
- Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng đang dạy về
một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người
làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ
học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng đã dạy những điều như thế. Ngay cả điều đó có
thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực
vậy, lãnh vực cảm tình không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của
thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những
qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo
đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến
thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên
ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi
có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay
gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là
lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu
hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn
mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không
đi đôi với lời nói, nếu nhũng thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng
thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng
không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng.
Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội
và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn
minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte
khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh.
Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng,
một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều
mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng. Lời buộc tôi duy nhất đưa tôi trước
vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vũng. Tôi cho rằng tôi
không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường
và đúng đắn là không hiện diện. Cạnh đó, tôi sẽ rất vui khi được cho biết là dựa
trên điều khoản nào của Luật Pháp, những điều mà chưa bao giờ có để các ông kết
án tôi trước Toà?
- Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều
này nọ của bộ Luật Hình. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng
dạy cho sinh viên tác phẩm Cô Đơn (Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng
nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất
hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã đứng
lên nghe theo tiếng gọi mà Đảng của “chúng ta” mà đứng lên muôn người như một để
xây dựng lại nền Tự Do, Độc Lập và Tự Hào Dân Tộc?
- Thưa ngài, tôi không học Luật, nhưng bất cứ người trí thức nào
cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật về
Hình Sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng
biết là chính trị và Luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như giấc mơ
và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của
họ là nhắm tới tương lai, nhưng Luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản
vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì
và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa
mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và Luật, là một bước nhảy lùi về
quá khứ hàng thế kỷ.
Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường
lối chủ trương của Đảng, nhưng việc tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, tôi biện hộ
cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người
trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ
người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là
một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một
cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của
người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để
không bị bất ngờ vì tán dương dỏm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười
và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, nhưng làm vũ khí của những người
đã bán rẽ lòng tự trọng để chắc mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại:
tôi không tán dương một ai, ngay cả người ấy là người được mọi người ca tụng.
Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu
người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho
sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một
chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ
nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong
tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được
gì.
Vì vậy, tình cảm mơ mộng là một trạng thái của tâm hồn là chuyện
đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng
minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một
tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão
đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt
nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.
Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc
trả lời cho sự kết án của ông. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người
nào bị toà án nhân dân xử mà bước ra khỏ đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét
xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng, và với những cố
gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và
làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng. Nhưng tôi
mong mõi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được
nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một
nền công lý cách mạng.
Cái không cho phép kẻ bị kết án làm là làm thay đổi một thẩm
phán thành một người có cái nhìn thấu đáo của sự thật, nhất là khi đó là một
nguyên quan Triều vừa mới được xức dầu thánh cách mạng. Không, con đường đi đến
danh dự không nằm trong những loại vinh dự đó, tất cả những chi tiết như vậy nó
không làm hưởng thêm những đồng tiền thưởng còm cõi, không thêm được một bổ nhiệm
trong hàng chức sắc, nhưng chỉ là nụ cười cho kẻ đã ban phát cho tên đầy tớ vừa
mới làm xong một công việc được chủ giao phó. Thật vậy, có thể là ngược với ý
muốn, sau khi đè nén những đau đớn của lương tâm, ngài quan Toà đã kêu án ông
giáo sư bốn năm tù giam.
Trong bốn năm tù đày trong một nhà tù cách thủ đô 200 km, người
vợ kẻ tù kia ngoài chuyện cần mẫn lo cho gia đình còn phải lo làm thêm, đã
không được gia đình giúp đỡ, nhưng mỗi tháng ít nhất một lần phải đạp xe một
vòng 400 cây số để mang cho chồng một đôi thứ vụn vặt, để thông tin cho chồng số
phận của những đứa con, để động viên chồng thêm can đảm mà chịu đựng thiếu thốn
và khổ đau, vừa hy vọng một ngày nào đó công lý, luật pháp và tình người trở lại
giữa người với người.
Bản án đó không phải là duy nhất trong hồ sơ của nền công lý
cách mạng, như ai cũng có thể dễ dàng đoán biết. Sẽ rất lý thú nếu ai đó tìm được
hồ sơ cũ - nếu có và được tàng trữ - của những phiên toà ở thủ đô, ở các tỉnh,
những hồ sơ, sẽ cho thấy những cách thức mà công lý đã bị sự bất công chế ngự,
thực hiện những vụ án giả mạo, thả lỏng kỷ cương bằng những phương cách bất hợp
pháp và khủng bố, bằng cách dùng những tôi tớ mà chính những kẻ này cũng không
được thưởng xứng đáng. Và tất cả những chuyện đó được làm nhân danh Đảng và
Cách Mạng. Chưa bao giờ trước đây mà chủ nghĩa Cộng Sản lại bị chính những người
đấu tranh vì nó ngược đãi như thế.
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
_____________________
[1] Mỏm đá Tarpeienne nằm ở Ý, vào thời kỳ La Mã người ta xử chết
những kẻ phản bội hay tội hình bằng cách ném các tử tội từ trên mỏm đá cao.
CHƯƠNG 3:
SẤM SÉT BÁO HIỆU CHO CƠN BÃO TỐ
Trên đường từ Toà Án về và nhiều đêm mất ngủ sau buổi xử án, tôi
tập trung suy nghĩ về chuyện xảy ra mà điểm chính là vấn đề công luận. Được sống
nhiều năm dài trong xã hội cộng sản và đã có nhiều cơ hội gặp gỡ giới lãnh đạo,
tôi biết rõ là không bao giờ tha thứ những sơ suất hay thiếu tiên liệu trong
khi thi hành nhiệm vụ hay khi thực hiện hành động. Mọi chuyện đều phải thảo luận,
phân tích, nhồi xét nhuần nhuyễn đủ mọi khía cạnh để biết rằng việc làm này có
thể mang lợi ích gì cho quyền lợi của Đảng. Sự tuỳ hứng và cá nhân chủ nghĩa được
xem là điều kinh khiếp, vì vậy tinh thần trách nhiệm sâu sắc là được thừa nhận.
Rủi thay, trách nhiệm tập thể lại biến thành vô trách nhiệm, không ai chịu
trách nhiệm cả. Trên tất cả mọi chuyện, cần phải mang ra ánh sáng cái sâu thẳm
nhất của vụ xử án này, vụ đầu tiên trong những vụ xử án kiểu này; trái với những
lời tuyên bố của nhà cầm quyền mới là không có trả thù, có thái độ thù nghịch
hay ganh ghét đối với những người trước đây không tham gia kháng chiến, họ đã kết
án một giáo viên là đã đầu độc thanh niên với một triết lý chán chường, vô vọng
và bi quan. Cái quan trọng nhất là những tội danh liệt kê bởi chính phủ thì lại
không phải là những tội công cộng được định trong bộ Luật Hình Sự mà đó chỉ là
những vi phạm về đạo đức hay chính trị là những điều hoàn toàn nằm ngoài vòng
thẩm quyền của nhà nước. Có phải chăng lãnh đạo Việt Nam đã tự nhạo báng chính
đường lối của mình ban hành và đồng thời nhạo báng luôn dư luận quốc tế! Xem
thường cả quốc tế, có phải chăng họ đang muốn khẳng định nguyên tắc là họ có
quyền trên mọi chuyện với sự có mặt của họ ở mọi nơi, có quyền trốn tránh những
lời trọng thể mà chính họ đã tuyên bố, khinh thường những thông lệ quốc tế về
công lý và giới hạn thẩm quyền của Toà Án? Hay, vì niềm tim mù quáng với vai
trò tối cao của mình, và với tự tin cùng chung một sự dốt nát đáng thương, họ
đã quyết định giáng một cú lớn để qui phục giới trí thức, làm lạnh bớt nhiệt
tình đấu tranh của họ, giảm thấp đòi hỏi của họ và bắt họ im tiếng hay giam
mình vào cảnh lưỡi gỗ (nói không đâu vào đâu) để làm dễ dàng cho công việc cho
những người nắm quyền, thoả mãn niềm kiêu hãnh và mùi vị của chủ nghĩa hình thức,
cống hiến cho dân địa phương và du khách một màn sân khấu có đám người trí thức
rớt xuống cùng tầng lớp với họ và cùng hô to trung thành với Đảng.
Điều nghĩ suy thứ hai mà làm tôi buồn bực nhiều là nhân cách của
vị thẩm phán được giao trọng trách vụ xử và kết án người trí thức kia. Mặc dù
phản ứng về vụ này lan tràn ra khắp nước, Đảng lại phủi tay trong bình thản,
phát biểu đây là chuyện một trí thức bị một trí thức khác xét xử. Đây là chuyện
nội bộ gia đình và tôi hết sức tôn trọng sự độc lập của các thẩm phán, họ có thể
nghiêng bên này hay nghiêng bên kia đối với vụ án. Thật là một sự ích kỷ tuyệt
vời khi biến tất cả những phê bình thành câm nín hay biến chúng thành những lý
lẽ biện minh cho bản án mà sự tuân phục chính quyền là không ai mà không biết.
Tất cả mọi người ai cũng biết là, trước đây, ông thẩm phán đã chịu
làm nô lệ cho hai đầu: một là chính quyền Pháp và hai là các người Việt Nam cấp
trên của ông. Ông ta buộc phải dâng biếu quà cáp cho các quan chức đã bảo hộ
ông sao cho tương xứng với ngôi vị của họ, vì thế có thể nói là vô giá! Trong
khi lương bổng thì giới hạn, ông ta chỉ còn cách vơ vét của con dân để trả tiền
cho chuyện đó. Vậy thì, ông ta thò tay vào túi tiền của những địa chủ, ngay cả
vào túi của nông dân nghèo làm cho họ càng nghèo thêm đến chỗ tán gia bại sản,
bệnh tật và đôi khi đi tới chỗ chết. Một người phải có một tâm hồn xấu xa, phủ
đầy bùn nhơ mới có thể đi vào con đường quan lại, ăn trên sự đau khổ của người
dân vô tội và uống nước mắt của họ.
Ngay sau khi Cách Mạng thành công, ông ta liền cho mình một màu
da mới, tìm cách gia nhập vào đoàn Thẩm Phán. Những ai có dịp quan sát ông ta
ngồi xử án ở Toà Án Hà Nội đều thấy ông ta đang bị dằn vật nội tâm chỉ bằng vào
cử chỉ và lời nói của ông ấy. Hắn hiểu quá rõ là chủ nghĩa cộng sản luôn nung nấu
một nhận thức hận thù đối với giới quan lại đại diện cho phong kiến và bóc lột,
và luôn là kẻ thù của Cộng Sản. Cái lỗi lầm đã dấn thân vào con đường quan lại
cũng to lớn như tội của bà Eva đã ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng. Để chuộc lỗi,
ông quan đã tự nén chặt lương tâm hầu mong được chút ân huệ của Đảng. Xử án một
cách mù quáng những người vô tội bị lãnh đạo của Đảng kết án về những tội lỗi
tưởng tượng không hề có trong Luật Pháp! Nhưng cái lương tâm bị xâm phạm đó lại
chiến đấu điên cuồng, căng lên trên khuôn mặt hốc hác của ông quan; ông ta
không cảm thấy dễ dàng thoải mái dưới vô số cặp mắt, săn đuổi bởi những hồn ma
vô hình. Nhưng hắn đã tự làm trò hề với mình khi hắn bắt chước những kẻ nịnh bợ
mà thốt lên mấy chữ “Đảng ta” từ cửa miệng mình thoát ra rồi vỡ vụn như vỏ trứng
bị đập bởi cái muỗng.
Tiếng sấm nổ vang báo hiệu cho cơn bão sắp đến. Thủ đoạn nham hiểm
của những người cộng sản đã quyết định để cho một người trí thức bị một người
trí thức khác xử và kết án. Đây là một cuộc huynh đệ tương tàn, một trận đấu
gà, nhưng chỉ là trận đấu của một bên, bên được sự hỗ trợ của chính quyền, có
quyền lực và luật pháp trong tay để thực hiện mọi ý đồ, và một bên chiến đấu
đơn độc với tay không với vũ khí duy nhất là chính nghĩa và cảm tình của quần
chúng. Đảng có quyền có tiếng nói cuối cùng, nhưng sự thắng của họ cũng chẳng
tăng thêm uy tín thanh thế hay cũng cố thêm niềm tìn của dân chúng mà họ mong sẽ
có được. Lý mạnh của con chó sói cũng không làm giảm bớt mối thương cảm dành
cho con cừu…
Tiếng sấm nổ vang trên bầu trời đầy xáo trộn đã phát sinh ra một
hậu quả trông thấy: một sự chia rẽ đã xuất hiện, một bên là những kẻ thần phục
vỗ tay tung hô, miệng khô lưỡi gỗ, ngoắc đuôi mừng. Một bên là họ, những người
cộng sản nắm quyền chiếm nhiều ưu đãi và ngồi không lãnh lương, được quyền ban
bố, được quyền chọn chỗ nơi, được hưởng những chuyến xuất ngoại đầy tư lợi, được
ký kết những hợp đồng mang về đầy túi cho phái viên người Việt bất kể việc gây
thêm gánh nặng cho ngành sản xuất mà máy móc lỗi thời đã bị bỏ hoang từ lâu và
thường xuyên hư hỏng. Chỉ có nhân dân, đã tả tơi, nay còn phải trả giá cho sự bịp
bợm, sự bội tín, trộm cắp được thực hiện, hoàn toàn không chịu một trừng phạt
nào, bởi những kẻ tự xưng và tự vinh danh mình là những người đầy tớ trung hiếu
của dân. Những người trọng danh dự chân chính khác, thuộc thành phần kháng chiến
hay không, quay ra ghê tởm cái chất thâm hiểm của những kẻ đầy tớ của nhân dân
đang hình thành áp đặt một loại bóc lột mới, đó là sự bóc lột của cộng sản, là
những người, mặc dù như thế nào, vẫn đứng về phía của lẽ phải, của Trời Phật,
Thiên Chúa. Họ bị sốc vì sự ngu dốt, vừa thật thà vừa nhẹ dạ của lãnh đạo, và một
số người đã xem như cuộc Cách Mạng là thất bại và Nhà Nước là thối nát, đã tìm
đường ra nước ngoài, nhằm tìm đến một xã hội có nhiều công bằng, đạo đức và phồn
vinh. Ở đó, họ còn có thể gặp những người biết trọng dụng kiến thức và kinh
nghiệm của mình, từ đó nhìn một cách cay đắng về con tàu quốc gia với những đứa
con vô ơn và phạm pháp đang mỗi ngày đục lỗ để làm đắm con tàu.
Đối với những người còn lại, họ say đắm một tình yêu đất không
phải lè nhè mà sinh động, với trung chính và ngay thẳng đạo đức, họ phân tích sự
suy sụp của nền kinh tế và sự nghèo đói của quần chúng, kiếm cách tìm ra nguyên
do của căn bệnh và tìm kiếm thuốc chữa. Lỗi lầm duy nhất mà họ mắc phải là đã
quá tin những người tổ chức phong trào Trăm Hoa Đua Nở và đã hết lòng đi tìm những
nguyên nhân và nguồn gốc của những đau khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Cái ngao
ngán là những phân tích sau rốt đã cho thấy nỗi đau khổ kinh hoàng của nhân dân
là do những lỗi lầm về chính trị phát xuất từ sự ngu dốt mà chỉ có hai chữ kiêu
ngạo mới có thể sánh được. Trước đây, mọi người cố tránh phê phán, chỉ vì lịch
duyệt và tính cẩn thận. Nhưng điểm phát xuất đã khởi sự, dưới tiếng còi của Đảng
nay đã thay đổi, rập khuôn với một “Đảng anh em” , những xạ thủ tha hồ bắn vào
những mục tiêu chào mừng bởi những tràng pháo tay của người xem... Thật là quá
tốt để kéo dài. Trong thời gian chuyển tiếp giữa hai màn diễn, những tâm hồn nhạy
cảm đã thấy sự phản công của những người cộng sản.
Sau một thời gian, những phản ứng bắt đầu. Khởi đầu bằng một cuộc
mít tinh chỉ cách chỗ tôi khoảng vài trăm thước. Đắm mình trong cái chức vụ nhỏ
bé và khiêm tốn, tôi không hề bị con vi trùng tự tôn tự đại tấn công, cũng
không như kẻ chả ra chi nhưng tự cảm thấy mình cao ngang hàng với đỉnh núi
Everett kể từ ngày Cách Mạng Tháng Tám thành công. Thật vậy, trước một đám đông
thính giả hàng nghìn người, một anh chàng nếu không tẩm phết một chất chiếu
sáng thì cũng chỉ là cái bóng lẫn trong những cái bóng mờ khác, chợt đến chợt
đi mà không một ai để ý đến sự xuất hiện hay biết mất. Vì thế, tôi nghĩ rằng
tôi chỉ việc tiếp tục lo cho công việc của tôi trong hoà bình và yên tĩnh. Tôi
hết sức ngạc nhiên khi thấy một người đưa tin quan trọng là đích thân ông Giám
Đốc Viện Ngôn Ngữ đến mời tôi đến tham dự buổi mít tinh. Để có thể lưu ý đến sự
vắng mặt của tôi trong buổi tụ tập đông người như thế, chắc hẳn người ta đã
đánh dấu tôi và muốn tôi có mặt trong buổi họp. Tôi không tin là người ta muốn đưa
tôi lên ngồi trên trước vì mọi người lo lắng khi không thấy tôi có mặt nơi đây.
Kinh nghiệm nhiều năm sống trong thời kỳ kháng chiến bí mật cho tôi hiểu là điều
tồi tệ đang chờ đợi tôi phía trước. Buổi mít tinh là một trận đấu bò mà tôi là
con bò tót được đẩy ra giữa sân đấu, giữa những tên đấu bò chỉ chờ lúc mà giết
tôi sau khi đã nhận những lời giải thích và những yêu cầu cuối cùng cho trận đấu.
Nhân vật đứng ra tổ chức cuộc mít tinh là một thứ trưởng, bộ nào
thì tôi đã quên tên, mà tôi đã được “vinh dự” dạy ông cùng đám cựu sinh viên của
tôi. Trong thời gian mà tôi đã được biên chế vào một đội Cải Cách Ruộng Đất,
tôi đã được nghe những đứa nhỏ tố cha mình về những tội lỗi nhớp nhúa theo lệnh
của những cán bộ cộng sản, tôi đã hiểu những giá trị Khổng Mạnh thơm tho từ
ngàn xưa thấm nhuần trong tâm hồn người Việt giờ đã chết. Tôi không ngạc nhiên
khi thấy một học trò đang chuẩn bị cho cái chết của thầy cũ của mình và thuyết
phục những kẻ đấu bò ra cú đòn chí mạng. Sau khi chắt lọc xác bã của tách trà,
vị đắng của chua xót đã nhấn ngập lòng tôi vào nỗi buồn khôn tả.
Nhưng con bò không gục ngã ngay dưới những cú đâm của bọn đấu
bò, nó đấu đến hơi thở cuối cùng, chơi với tấm vải đỏ và khi đến màn cuối với
cú đâm chí mạng, nó đưa ánh mắt cuối cùng về phiá Thiên Đường như muốn ở đây
làm nhân chứng cho một sự dã man của chính trị và tiền bạc mà con người tàn bạo
đã xếp đặt để giết kẻ vô tội và yếu đuối.
Trong một thời gian, đã có tin đồn được lan truyền là Đảng không
muốn ai phê bình họ, dù là những phê bình chính đáng và đứng đắn từ những nhà
văn, thầy giáo và ký giả, những người đang phạm một lỗi lầm chết người là đã cả
tin là giờ đã đến cho những tiếng kêu chiến thắng vang dội của chủ nghĩa Cộng Sản.
Những họng súng đã sẵn sàng nã đạn vào nhóm người trong phong trào Trăm Hoa Đưa
Nở, bên cạnh đó là tầng lớp trí thức bị nghi là không chịu quỳ gối tuân phục
trước các ông Trời Marxist-Leninist. Dù họ có lên tiếng nói hay tự ép mình
trong yên lặng, tất cả đếu cảm thấy cái nguy hiểm thành tù khổ sai. Đây là cơ hội
duy nhất, không phải để họ thắng cuộc cho lý tưởng thần thánh một chủ nghĩa Cộng
Sản của họ, mà để dẹp tan quần chúng bằng khủng bố, bằng cách áp dụng một cách
thô bỉ bàn tay nặng nề và không nhân nhượng để trị tội kẻ cầm đầu nhằm dằn mặt
những kẻ khác.
Trong một nền Tư Pháp nghiêm chỉnh chặt chẽ, mọi vụ án đều phải
qua những trình tự luật định, khởi tố vụ án, mở hồ sơ, và cho phép người bị kết
án được giải thích và tự bào chữa cũng như người thẩm phán xử án phải áp dụng
Luật với tất cả lương tâm của mình… nhưng đó là một cách làm của giới tư sản
làm mất thời gian vô ích và nhất là nó không đặt quyền ưu việt của Đảng như là
quyền lãnh đạo của chính phủ. Đứng trên quan điểm của những người cộng sản, Luật
và những thủ tục luật pháp là những phát minh từ những đầu óc không bình thường
chỉ làm phức tạp và kéo dài những vụ án. Với tất cả mọi người, điều cơ bản,
không thể xâm phạm, giáo điều không thể thay đổi là Đảng là người duy nhất nắm
tất cả Sự Thật, có quyền chống lại bất cứ người nào khác, là bất cứ “người dân”
nào cũng phải có bổn phận và trách nhiệm đấu tranh cho sự toàn thắng của Đảng,
trong tư tưởng cũng như việc làm của Đảng, phải chấp nhận đau khổ và hy sinh –
ngay cả việc dâng hiến sinh mạng, nếu cần – nhân danh Đảng và vì Đảng. Tư bản
nói về Công Lý của Quốc Gia, người Cộng Sản nói về Công Lý của Đảng, cả hai đều
cùng chung một cách làm, xử án vội vã và qua loa, đội xử bắn của tư bản đưa ra
để giết và tự vinh danh mình trong Thế Chiến Thứ Nhất. “Tôn giáo” chủ nghĩa xã
hội và sự sùng bái Đảng không cho phép mọi tranh cải, chỉ trích về những giáo
điều mà họ đưa ra để tuyên bố họ là người vĩnh viễn lãnh đạo và “bách chiến
bách thắng” để thiêu sống những ý niệm về Luật, công lý và vô tội của bọn tư sản.
Hỡi những người đang ngoan ngoãn đang nghe, xin chúc mừng.
Vì thế, để đối phó với nhóm trí thức đang tỏ ra mất niềm tin đối
với những sự thật được Đảng dạy, Đảng cần phải đối phó với đám này bẳng những
phiên án khẩn cấp, không cần thủ tục luật định, được tổ chức chu đáo như thời Cải
Cách Ruộng Đất. Cuộc dàn dựng đã được xếp đặt trước, như nơi chốn, thời gian,
vai trò của những người xử án, những điểm lúc mà họ cần tung ra lời nguyền rủa,
những chi tiết dù đúng hay sai để kết luận phiên toà với lời buộc tội đầy thiên
vị, độc ác, định kiến và những lời xác nhận thiếu vắng chứng cớ và hệ quả. Bản
án đã được nghiên cứu trước: án tử hình sẽ không được tuyên nhưng có hàng ngàn
phương án khác để giết người qua những cách xảo trá, quỷ quái âm thầm và trong
đêm tối. Tất cả những suy nghĩ ấy, bằng những kinh nghiệm đã sống, dồn đến với
tôi khi tôi bước vào phòng họp.
“Báo cáo viên” (theo danh xưng dùng bởi những người cộng sản) bắt
đầu đong đưa cái lư hương dưới mũi của đám trí thức. Họ là những đứa con cưng của
Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, họ đã chọn đúng con đường, đứng sau
lưng Cách Mạng và cùng hàng ngũ với Dân Tộc mà họ cùng chia sẽ những thiếu thốn
cơ cực và niềm trung hiếu, họ tự nâng mình lên đỉnh cao của quyền uy bằng những
khả năng và kinh nghiệm cống hiến cho Tổ Quốc. Vinh quang thay cho trí thức, những
đứa con xứng đáng của Việt Nam và của nhân dân.
(Thính giả nghe những lời ca tụng với e dè. Họ đã từng được nghe
những người cộng sản tung hô trí thức, mặc dù những người trí thức đã bị cộng sản
đoạ đầy bí mật từng người một, dùng tất cả họ làm vật hy sinh. Mỗi lần Đảng nói
sự thật, phải hiểu đó chỉ là một cử chỉ ngoại giao. Người thợ săn giương cặp mắt
hiền hoà và đậm màu tự nhiên là để tiếp cận đến con mồi trước khi siết cò súng
giết nó ngay lúc cận kề. Những kẻ trí thức gia nhập Đảng đều được nghe và được
học câu nói rằng họ đã được giáo dục thích đáng là để được Đảng sử dụng bất cứ
lúc nào, mỗi khi Đảng muốn dỗ ngọt những đồng chí cộng sự viên để nhượng bộ hay
hy sinh chuyện gì đó. Đó là cái mà diễn giả đang làm. Ông ta tiếp tục đưa củ cà
rốt lố bịch trong khi chờ ra cú đánh của cây gậy).
“Tại sao trí thức lại là đứa con trân quí của Đảng? Đó là nhờ họ
đã sống nhiều năm dài với Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, được Đảng giáo dục,
học tập về chủ nghĩa Marx-Lenin, hiểu và truyền bá áp dụng những chính sách của
Đảng và đã có may mắn sống trong một xã hội cách mạng bởi vì họ cảm thông với
giai cấp công nhân và nông dân sống nghèo đói và trong hy vọng, đã giành được
trong đời sống cách mạng những giá trị của sự kiên trì, chịu đựng, hy sinh xã
thân, và những giá trị đó càng được tăng cường qua những tháng ngày chấp nhận sống
trong nghèo đói và thiếu thốn.
“Thế giới của kháng chiến bao gồm những con người có tinh thần
cao, đạo đức ngoại hạng, tâm hồn trong sáng và thanh cao, có niềm tin mãnh liệt
vào Đảng và Dân Tộc, bền cứng như sắt thép, kẻ thù mãnh liệt của giai cấp tư sản
và những tư tưởng phản động, cách sống thoải mái sang trọng của họ bằng những
bóc lột xấu xa đối với người vô sản là những người quyết tâm tiến tới chủ nghĩa
xã hội, tới một chân trời sáng chói của công bằng và hạnh phúc. Thật hồ hởi khi
thấy một hoạt cảnh của nhân loại khi mà tất cả đều mặc đồng phục vàng kaki,
mang toàn những đôi dép râu làm từ những chiếc vỏ xe cũ bỏ đi, nhận cùng một lượng
gạo hàng tháng, được ăn cùng phần củ độn, giây khoai, nói cùng một luận điệu,
được thúc đẩy cùng một động cơ tư tưởng chính trị, đứng chung cùng một vũ đài
chính trị. Một sự đoàn kết lộng lẫy tuyệt vời giữa Đảng và Dân, giữa cán bộ và
quần chúng!
(Diễn giả thật có lý. Cảm thấy tinh thần hồ hởi lên cao trước sự
đoàn kết dựa trên sự đồng nhất, cùng một cử động, phát ngôn như vẹt, bị ép buộc
một cách kín đáo và một thái độ đạo đức giả gượng ép. Không thể chối cãi là
trong khoảng mười năm nay không khí đạo đức phải nói là rất tốt, những sinh hoạt
đều trong sáng, an ninh xã hội được bảo đảm. Ban đêm mọi người đầu có thể đạp
xe hay di chuyển mà không sợ rủi ro nguy hiểm. Sự đãi ngộ bình đẳng trong các tầng
lớp cán bộ đã loại bỏ lòng ganh tị, làm thối nản chủ nghĩa kiếm chác và chủ
nghĩa cơ hội. Tất cả những người sống những năm trong kháng chiến còn bí mật vẫn
còn nhớ những tháng ngày trăng mật giữa những người cộng sản và những người trí
thức)
“Một khi củ cà rốt đã được phân phát, những cú đập của cây gậy bắt
đầu xuất hiện. Gậy đập từng trận đòn lên lưng những cán bộ trong toàn guồng máy
Nhà Nước. Hiện tại, trước khi trở về Hà Nội để nhận lãnh những chức vụ hành
chánh, tất cả cán bộ công nhân viên đều phải theo học những buổi dạy là phải đề
cao cảnh giác với những viên “đạn bọc đường” bắn vào họ nếu họ để mình bị cám dỗ
bởi cuộc sống xa hoa do tham nhũng và trụy lạc.
“Rủi thay, những bài học đó đều trở nên vô ích. Trong đời sống
thành phố, đối với những con vi trùng mang sự suy đồi về đạo đức, sự xuống cấp
của con người, những điều kiện thuận lợi cho chúng sinh sôi xem ra phát triển mạnh.
Cán bộ đắm mình trong những cám dỗ và trờ thành con mồi cho bao nhiêu thói hư tật
xấu. Buông thả mình trong những tiêu pha hoang phí và sống một mức sống đế
vương, họ có những nhu cầu không ngăn nổi về tiền bạc và kiếm cách làm tiền
càng nhiều càng tốt. Vì thế họ đã phạm đủ thứ tội lỗi và tội ác, như thế, theo
như những gì người cộng sản đã nói, độc quyền thế giới là dành riêng cho bọn
găng tơ Chicago. Chuyện đương nhiên là khả năng kiếm được bằng mọi cách và mọi
giá những số tiền to lớn để thoả mãn những cơn khát tiêu xài! Không thể dập tắt
được, than ôi. Chúng tôi thật đau buồn”.
(Dưới hàng thính giả, có vẻ có một khao khát tự hỏi “Lỗi ai
đây?” Anh có thể khóc ra máu mắt. Lý do chính là anh không áp dụng những gì mà
chủ nghĩa Maxist mà anh đã dạy. Thứ nhất, anh đã quên qui luật là mọi chuyện đều
chuyển động ngược chiều với nhau: chuyện tốt có thể chuyển thành xấu, chất lượng
thành hư hỏng, đức hạnh thành đồi bại. Anh đã ngây thơ đặt niềm tin nơi người học
sinh mà anh từng ngày chăm sóc theo dõi từng bước tiến, người mà anh đã cấp cho
một thứ chứng nhận về đạo đức mà anh nghĩ là rất xứng đáng được anh đặt họ vào
những vị trí trách nhiệm. Những hiền triết ngày xưa dạy rằng mọi sự vật, đúng y
như những người theo chủ nghĩa Marx đã dạy phương pháp biện chứng là mọi sự đều
có mâu thuẩn tồn tại trong chính nó. Anh phổ biến chủ nghĩa duy vật nhưng chính
anh lại tự nhốt mình vào chủ nghĩa duy tâm khi mà anh tin tưởng vào sự vĩnh cửu
của ý tưởng, của con người và thế giới. Vâng, những con người mà các anh đào tạo,
chấp nhận đứng vào hàng ngũ với các anh, những người đã thề trung thành với Đảng
và chủ nghĩa Cộng Sản, những người xum xoe nịnh hót đã làm mặt các anh hừng lên
nét thoả mãn, các anh đã cho họ một ông Trời tốt lành mà không hề đòi họ những
lời xưng tội.
Các anh đã đầu tư vào để họ ngồi chơi xơi nước và đầy những đặc
quyền để rồi bị những cám dỗ phủ đầu, những cám dỗ không tên mà đến như thánh
Antoine cũng không biết. Các anh đã thất bại trong việc kiểm soát chúng, bao
quanh những hoạt động của chúng với một rào cản tối thiểu, giúp chúng khỏi rơi
vào vào cạm bẩy của quỷ dữ và ham muốn trần tục; ngược lại các anh lại tin vào
sự thánh thiện của chúng. Các anh giáo dục quần chúng rằng kẻ thù sẽ mãi mãi là
kẻ thù, bạn sẽ mãi mãi là bạn, rằng những giáo điều Cộng Sản luôn luôn được tắm
trong nước giếng trường sinh và giữ đến muôn đời tuổi xuân và sắc đẹp. Các anh
tự cho mình là nhân vật thần thoại Adonis, áp đặt những kẻ mà quần chúng sẽ phải
tuân phục, đưa họ lên bàn thờ của tổ tiên, các anh tin rằng những kẻ này là đã
được phú cho tuổi trẻ không thay đổi, sắc đẹp trường cửu, một trí thông minh bền
vững, như thách đố cả thời gian, sự thịnh suy của tuổi tác, sự tàn phai của cơ
thể con người, không còn nhược điểm về thể xác cũng như sự yếu đưối về tinh thần.
Vì vậy, cái lỗi lầm cơ bản và không thể tha thứ được là đã không
chấp nhận và thực hiện cái triết lý về sự chuyển động và thay đổi của sự vật, hậu
quả là các anh đã phớt lờ những ảnh hưởng của nó trên suy nghĩ và hành động của
các anh.
Cái lỗi lầm cực kỳ to lớn thứ hai là các anh luôn đỗ lỗi trên
người khác về mọi chuyện nhưng không bao giờ có chuyện nào thuộc về lỗi về của
các anh. Tính tự phụ tai hại đó không thể chấp nhận được, bởi vì những người bị
các anh xử án sẽ không đồng tình trên cái tính chính đáng, đúng đắn của lời buộc
tội với đầy dẫy thiên vị, một chiều, một phía và sẽ đứng dậy chống lại hình phạt
mà các anh dành cho họ. Nhưng có một chuyện còn nghiêm trọng hơn! Các anh không
hề thấy rằng các anh cũng phải có phần trách nhiệm, các anh không chấp nhận là
các anh có lầm lẫn, có thiếu sót vì lẽ các anh là người nắm chính quyền và đã để
chuyện xảy ra gây những hậu quả càng ngày càng nghiêm trọng. Khi mà anh còn
chưa biết gì cả và chưa hiểu được bài học từ những thiếu sót bản thân và những
định kiến không sửa được, khi mà những phán quyết đã được định sẵn bởi cái đầu
của anh mà không do từ thực tiển, thì cái hậu quả kinh hoàng, đáng trách và tàn
khốc kia một khi tái phạm với cái tội lỗi của các anh sẽ còn nặng nề hơn nữa)
Trong khi những suy nghĩ dấy lên trong đầu của thính giả, nhiều
người đang bàn tán xôn xao thì diễn giả nâng cao giọng và đi vào phần đúc kết lời
buộc tội:
“Nếu sự suy sụp tinh thần của con người đã trở thành một kich bản
đau đớn cho Đảng và giới trí thức, thì việc những người tham gia phong trào
“Trăm Hoa Đua Nở” đào ngũ khỏi nền tảng của tư tưởng lại càng bi thảm hơn nữa.
Người ta đã đòi hỏi gì? Loại chính trị khỏi mọi sinh hoạt của trí thức và thiết
lập nền dân chủ trên cả nước.
“Nhưng có phải là không có dân chủ ở Việt Nam sao? Những ai đòi
hỏi nó phải quay nhìn lại và so sánh thời gian trước và sau 1945. Trước đây,
ngay trước ngày Cách Mạng, nạn đói đã gây ra hai triệu nông dân chết đói. Hai tỉnh
đông dân nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là hai tỉnh Thái Bình và Nam Định đã bị tan
tác. Hàng triệu nông dân, ốm đói như những bộ xương biết đi, lê lết thân mình
khắp đường khắp phố. Họ không phải đi kiếm gạo mà bất cứ thứ gì có thể làm bớt
cơn đói đáng đốt cháy bao tử mình. Họ tụm túm trong mọi góc đường thành phố để
mong kiếm được thứ gì để kéo dài mạng sống dù trong một chốc lát ngắn ngủi.
Nhưng người sắp chết chỉ còn ngã gục và xác người rãi rác khắp đường, khắp nẻo.
Ngày nay, những hình ảnh làm thắt lòng người đó không còn nữa: trên đường phố,
không ai còn thấy một kẻ ăn xin chìa tay chờ bố thí.
“Trước đây, một dân tộc kiêu hãnh với ngàn năm văn hiến và nền
văn học rực rỡ đã phải đau khổ vì nạn thất học. Ngày nay mọi người đều đọc báo
chí, trẻ con được đến trường, ngay cả ở những xóm làng xa xôi nhất trên vùng
cao nguyên. Số lượng học sinh đến lớp thật đáng kinh ngạc, người đi làm ban
ngày ban đêm đi học, và các Đại Học trên cả nước mở cửa đón nhận các học sinh
nam và nữ, dạy cho họ những chương trình cấp cao.
“Trước đây, nền sản xuất là thuần nông nghiệp và thủ công nghiệp,
ngày nay nhà máy được xây dựng khắp nơi, và sản xuất công nghiệp, trong quá
trình phát triển, đã tạo ra một tầng lớp công nhân mà số lượng tăng từng ngày
và chất lượng tiếp tục tốt hơn.
“Trước đây, ở nông thôn, các quan triều và các quan làng, quan
xóm thi nhau hút máu đồng bào, làm cho họ nghèo kiết xác. Ngày nay, ở mọi cấp độ,
những uỷ ban nhân dân mà đa số là nông dân cùng quản lý chuyện đất nước và chỉ
ra quyền của nhân dân là chủ nhân của số phận của mình.
“Trước đây, chúng ta đã làm nô lệ cho Thực Dân, ngày nay chúng
ta là một nước tự do và độc lập và sau trận Điện Biên Phủ, lời nói của chúng ta
là lời nói nặng cân đối với thế giới. Tất cả dân tộc các nước thứ ba đều thèm
muốn được uy tín như chúng ta.
“Còn gì để nói thêm nếu không phải là dân tộc ta từ nay tự quyết
định đến vận mạng mình mà không bị bất cứ sự can thiệp nào của nước ngoài, vì vậy
chúng ta từ nay sẽ hoàn toàn tự chủ và độc lập trong việc quản lý đất nước, tổ
chức sản xuất, quản lý Luật Pháp mà từ nay sẽ không còn tuỳ thuộc vào quyền hạn
của những toà án thực dân, trong việc bảo vệ đất nước mà không cần đến một quân
đội đánh thuê của nước ngoài nào... Vậy thì cho tôi hỏi các ông: Phong kiến và
thực dân đã bị đuổi đi, còn ai nữa khác hơn là Nhân Dân Việt Nam đứng vào chỗ
đó? Và những người đó sẽ phải làm gì một khi đã đứng ra nắm lấy vận mạng của
mình trong tay? Họ đứng ra tổ chức Nhà Nước và làm cho Nhà Nước là của dân và
vì dân. Dân chủ phải là như thế: đúng hay sai?
“Các ông hỏi tôi: thế thì chủ nghĩa Cộng Sản làm cái gì trong nền
dân chủ của Việt nam? Được, tôi sẽ trả lời các ông. Các ông như là những đứa trẻ
đang tập đi. Có cần không việc giúp cho đứa trẻ không trượt không té? – Các ông
là những người chủ của những chiếc ô tô mới mà các ông cũng chưa biết làm sao
lái xe. Các ông có cần hỏi học ở trường dạy lái xe dạy các ông nắm tay lái để
tránh leo cả lên lề đường và gây ra tai nạn không?
“Nếu các ông cho phép, chúng ta hãy trở về với thời gian. Năm
1945, trong nước thời cơ đã đến cho phép chúng ta hy vọng giành lại được Độc Lập
và Tự Do. Còn nữa, lúc ấy nhân dân đã bị tan tác vì trận đói, và lại không chút
kinh nghiệm chính trị, họ không thể nào tự mình hoàn thành một công việc to lớn
của thần Hercule. Ngay cả những người kháng chiến yêu nước và can đảm nhất cũng
không xông tới trong một trận đánh mù quáng và nắm chắc một cái thất bại không
tránh được nếu không có chỉ huy và kế hoạch. Chính nghĩa tự nó là chưa đủ. Một
hướng đi đầy tính toán cần phải có để tránh thảm cảnh vụ tàn sát Xô Viết Nghệ
Tĩnh tái diễn. Đảng ta không làm gì ngoài việc lãnh đạo và trách nhiệm sự vận động
của Cách Mạng. Các ông đã biết những kết quả tuyệt vời đã thành công từ đó. Sự
hợp tác giữa Đảng và Nhân Dân đã rất thành công và hiệu quả. Chúng ta không có
quyền chối bỏ những thắng lợi đầy uy tín hay xoá bỏ quá khứ huy hoàng đó.
“Vì vậy, ở nước ta, Đảng và Nhân Dân, chủ nghĩa Cộng Sản và Dân
Chủ là gắn bó với nhau. Lịch Sử đã quyết định như thế, chúng ta hãy tôn trọng ý
muốn đó. Hơn nữa, từ khi Đảng dẫn dắt nhân dân, dắt từng bước đi, soi sáng con
đường đi của họ, nhân dân đã phải tự chúc mừng cho mình: sự hợp tác đã trở nên
lợi ích, và nước ta đã có niềm tự hào chánh đáng về những thắng lợi đầy xúc động
và bất ngờ mà chúng ta có được dưới sự che chở của chủ nghĩa Cộng Sản. Quá khứ
dẫn dắt hiện tại và tương lai.
“Còn nữa, đối với những ai đòi hỏi chấm dứt sự dạy dỗ của Đảng đối
với Nhân Dân, có bao giờ họ đã tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho Đất Nước nếu Đảng
từ bỏ vai trò lãnh đạo nhân dân của mình? Có đảng nào còn có thể thay thế đảng
Cộng Sản? Các ông biết quá rõ một đảng phái chính trị là gì trong một thế giới
Tư Bản. Mỗi đảng lo bảo vệ quyền lợi của đảng mình, và trong bước bổ sung, là
quyền lợi của những ai bỏ phiếu cho mình. Những tay làm chính trị chuyên nghiệp
không từ bỏ một sự đê tiện, một xấu xa nào để nhét đầy túi tham và áp đặt những
mục tiêu ích kỷ và tham lam của họ trên trước ước vọng của nhân dân. Chúng chẳng
quan tâm đến những tai tiếng mà chúng là chủ thể, ngay cả những lời biêu riếu
dành cho chúng. Chúng nó luôn sẵn sàng bỏ chạy, kiếm đường trốn thoát ra nước
ngoài và khởi sự lại cuộc sống sang trọng. Trong thời Pháp thuộc, những thói
quen chính trị từ chủ nghĩa tư bản đã xâm nhập: ngày trước, các ông đã biết quá
rõ những hành động của một số chính trị gia thối nát, họ để vàng và tiền bạc,
ăn cắp của nhân dân, vào những ngân hàng Thụy Sĩ, xây cho họ những biệt thự
sang trọng ở nước ngoài, để có nơi thối lui hạ cánh Chúng nó đã để sẵn những
chiếc máy bay sẵn sàng đào thoát mang theo hàng tấn vàng đủ bảo đảm cho họ và
người thân một tương lai huy hoàng. Các ông có muốn giao phó số phận của đất nước,
ngay cả của các ông và con cháu các ông cho những nhân vật không ra gì như thế
hay không?
“Nếu các ông cảm thấy cần có sự lãnh đạo, các ông có chọn lựa
nào tốt hơn là Đảng của chúng tôi, một đảng đã có tiếng tăm, đầy vinh quang,
lóng lánh trong suốt, có những đảng viên tranh đua nhau trong nhiệt tình cách mạng
và niềm tin xã hội chủ nghĩa?”
(Trong giờ giải lao, những người đến nghe xầm xì trao đổi ý kiến
- Những lý luận mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể có thể thuyết phục được người
dân trong một buổi chợ phiên vui nhộn, với trình độ trung bình, không thành thạo
về việc phân tích, không quen suy nghĩ, sẵn sàng nuốt nhận bất cứ chuyện gì. Dĩ
nhiên, người dân phải được dẫn dắt. Nhưng vấn đề lãnh đạo đưa ra hai câu hỏi.
Thứ nhất, có thật cần thiết phải đòi hỏi giao niềm tin hoàn toàn vào một người
hay nhóm người lo toan mọi lãnh vực sinh hoạt của quốc gia? Chúng ta phải công
nhận rằng không bao giờ có một loại thiên tài vạn năng: một danh tướng có thể,
nếu cần thiết, cầm cả một trung đoàn nữ ý tá đi đặt vòng soắn ngừa thai cho quý
bà mắn đẻ. Nhưng chuyện lãnh đạo kinh tế và tổ chức sản xuất đòi hỏi phải có những
kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn. Người trí thức không thể đặt dưới quyền của
những người có chút ít học hành hay chỉ biết đọc biết viết. Hơn nữa, Đảng lại
giành độc quyền lãnh đạo tất cả mọi lãnh vực.
Thứ hai, việc lãnh đạo nhân dân sẽ phải giao cho ai? Thông thường,
là phải do nhân dân chọn. Nhân dân bầu ra những người đại diện và uỷ thác, giám
sát và kiểm tra tư cách và việc làm của những người này trong nhiệm vụ phải lo
toan cho quyền lợi và thực hiện khát vọng của mình. Đây là nguyên tắc của dân
chủ: để mà nói rằng một chính phủ do dân và vì dân. Còn nữa, ở Việt Nam hay ở
những nước Cộng Sản, Đảng đã giành cho mình độc quyền chính trị và đôc quyền
lãnh đạo toàn diện chính phủ. Hiến Pháp có thể phân chia các quyền, bổ nhiệm
quyền Hành Pháp cho Hội Đồng Chính Phủ, quyền Tư Pháp cho Toà Án mà sự độc lập
trên lý thuyết đã được bảo đảm, nhưng trong thực tế, các quyền đã chứa đầy một
cách khó hiểu toàn đảng viên cộng sản và họ chỉ làm theo cách mà Đảng muốn. Vì
vậy, loại “dân chủ: mà những người cộng sản tung hô chỉ là một sự giả dạng để tạo
vui vẻ nhưng, đồng thời, than ôi, gây ra sự phá sản cho đất nước và ngày càng
làm cho dân tộc nghèo đi mà không gì cứu vãn được.
Những quyền cơ bản và tự nhiên nhất của con người không được cho
phép, ngay cả những quyền tự do cá nhân trong nước cũng không được tôn trọng.
Chẳng phải chỉ có riêng chuyện Đảng có thể ra lệnh cho Công An bắt người, nhốt
tù người vĩnh viễn, không cần qua bất cứ một cấp Toà Án nào, mà có vài lãnh đạo
cao cấp ban đêm đi cùng công an đến bắt tại nhà những kẻ thù chính trị, còng
tay đem họ đi, nhốt họ suốt đời, không qua bất cứ lần xét xử nào, vào những nhà
giam bí mật mà họ chỉ ra khỏi khi đã thành chiếc thây ma không hồn. Chuyện áo
dơ chúng ta giặt ở nhà, nhưng vì có quá nhiều áo dơ phải giặt mỗi ngày nên người
ta cảm thấy cần phải tuyên cáo rằng Việt Nam là một thế giới bưng bít, như
trong trường họp chung của toàn thế giới cộng sản. Bên trong thế giới đó, người
ta tha hồ tự mình cho phép thực hiện những điều bệnh hoạn không thễ tưởng tượng,
những vụ truy bức tàn bạo, những việc điên khùng kinh tởm. Không ai có thể nhìn
vào cái địa ngục trần gian đó để thấy những tội ác kinh hoàng làm nhục nhã loài
người đã và đang xảy ra. Mặt khác, về phía mình, bạo quyền không tha thứ cho bất
cứ đề nghị, lời khuyên hay một góp ý nào, không chấp nhận bất cứ chỉ trích nào
và không muốn tự nhìn khuôn mặt ma quái của mình trong gương, họ đang chiến đấu
với chính mình trong cái vòng lẫn quẫn mà họ đang chết ngộp vì lỗi lầm và tội
ác của mình)
Diễn giả có biết chăng những luồng suy nghĩ như thế đang xảy ra?
Có thể. Trong tình huống nào ông ta cũng vẫn tiếp tục kịch liệt chỉ trích chủ
nghĩa tư bản. Cùng lúc là những vinh danh cho chủ nghĩa xã hội.
“Các ông có đang chối bỏ những thành tích lớn lao của chủ nghĩa
xã hội trên đất nước của chúng ta không? Nhờ vào Đảng mà chúng ta có những điều
tốt đẹp như ngày hôm nay. Tôi đồng ý với các ông là Đảng không được nhân dân bầu
lên, nhưng nhờ những chiến đấu cách mạng trong quá khứ, đã phải chấp nhận những
hy sinh, đạt được những thắng lợi, họ đã được nhân dân hổ trợ và tỏ ra xứng
đáng với niềm tin yêu của dân. Quyền lợi của Đảng hoà chung với quyền lợi của
quần chúng, Đảng đã làm việc cho lợi ích chung và đã làm cho nhân dân nể trọng
vì sự khôn ngoan và đạo đức của mình. Với một mục đích giống nhau như đúc, mối
quan hệ về quyền lợi giữa hai bên là một giao ước không thể xoá bỏ được. Nhân
dân và Đảng cùng đi trên một chuyến tầu cùng hướng về phía Thiên Đàng của ơn
phước. Nhân dân hiểu và chấp thuận cho Đảng được tự cách ly riêng trong sinh hoạt,
cách tổ chức, chức năng, trong việc bổ nhiệm cũng như khiển phạt, trong việc
xây dựng những đường lối hoạt động và ngoại giao, và nhân dân hiểu chuyện Đảng
phải làm việc trong vòng bí mật là vì lợi ích của nhân dân! Nhân dân chẳng những
thông hiểu mà còn tán thành việc làm của Đảng.
“Còn có chuyện gì khác làm dân chủ tư sản thèm muốn? Chế độ đa đảng
mà trong đó đảng này chống đảng kia với những đấu đá kinh hoàng đề bảo vệ quyền
lợi ích kỷ của cá nhân, quên đi quyền lợi của Đất Nước và lơ là đi quyền lợi của
nhân dân, gây ra những vụ tai tiếng về tài chính và chính trị, và cuối cùng là
việc bóc lột nhân dân, làm tăng thêm nghèo khó và đẩy con người xuống cảnh buồn
thảm và bi quan, là điều dễ hiểu!
“Có phải chúng ta, những người trí thức, đang muốn nền dân chủ
tư sản để được tự do một cách toàn diện trong lãnh vực trí óc, nghiên cứu hay
sáng tạo? Tôi xin hỏi các ông: các nhà xuất bản sẽ ưu tiên cho những tác phẩm của
những việc làm có giá trị, cao quý trong tâm hồn hay là những cuốn sách bán chạy
nhờ chúng ca tụng những bản năng thú vật của con người hay truyền bá những bôi
nhọ chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Xã Hội một cách có dụng ý, bất công và một chiều?
Phải biết rằng lòng tham về lợi lộc nó che đen đi lương tâm, hạ thấp tâm hồn
mình bằng những chủ quan một chiều, một phía và thiên vị, làm hạ thấp và bán rẽ
con người của mình. Các ông có muốn chúng ta té chìm trong những nhà xí mà
không khí đã bị ô nhiểm vì những hôi thối của tư bản?”
(Trong hàng thính giả, nhiều quan điểm được trao đổi giữa người
này người khác: “Ông diễn giả nhà ta, cũng giống như các anh cộng sản khác, là
không có khái niệm về sự tương quan của sự vật, thiếu công bằng và không khách
quan. Hắn ta kết án tư bản cả khối cũng như hắn bênh vực chủ nghĩa xã hội cả khối.
Chúng ta không chối bỏ những tội ác của chủ nghĩa tư bản và những tên làm chính
trị của nó. Nhưng nó cũng có những thuận lợi hấp dẫn mặc dù vẫn có những thiếu
sót dính với nó. Tất cả cao hơn hết và nói một cách tổng quát, chủ nghĩa tư bản
tôn trọng và thi hành những quy luật tự nhiên của con người, đó là điều làm nên
tiêu chuẩn văn minh của xã hội loài người. Không có chế độ chính trị xã hôi nào
có thể tự cho mình là hoàn hảo, vì lẽ bất cứ những gì làm ra từ bộ óc và bàn
tay của con người đều có những hư hỏng hiển nhiên, cùng chung với những phẩm chất
tốt đẹp của nó. Phán xét một chiều và một mặt là một sai lầm vì như thế mới chỉ
là một góc cạnh của sự thật.
Vì thế, nếu có những người trí thức bênh vực cho thuyết đa
nguyên, dù rằng sẽ có những đám “chính trị gia” xấu xuất hiện, là vì đó là cái
logic của đời sống thực tế, nếu muốn đạt những hiệu quả tốt nhận thức đủ tính
muôn mặt và mâu thuẩn của một vấn đề nảy sinh. Đa nguyên là chấp nhận những ý
kiến trái ngược, những sự thật không giống nhau và đó là ý nghĩa thực của một nền
dân chủ. Những người cộng sản không chấp nhận chuyện đó. Họ bám chặt vào độc
quyền chính trị, tự cho mình là kẻ duy nhất nắm mọi thước đo về bản chất của
dân chủ. Đa nguyên trở thành bãi chiến trường nơi mà dân chủ và chủ nghĩa cộng
sản tấn công lẫn nhau.
Thật dễ hiểu khi thấy cộng sản chẳng những bằng lòng khoanh kín
thế giới của mình mà còn muốn duy trì sinh hoạt của họ trong vòng tuyệt đối bí
mật đối với bên ngoài. Trong trưòng hợp một đảng chính trị bình thường, như những
đảng trong những nước dân chủ thì chuyện đảng sinh hoạt bí mật như thế là chuyện
bình thường. Nhưng ở đây, chuyện là đảng Cộng Sản đang nắm quyền cai trị đất nước
trong một chế độ chuyên quyền và độc tài. Tất cả mọi quyết định của nó là có
liên quan đến lợi ích của toàn dân tộc, không chỉ riêng là những đường lối chỉ
đạo hay chính sách phổ biến ra ngoài, mà còn dính đến chuyện bổ nhiệm những
quanh chức và nhân sự cấp cao trong guồng máy Nhà Nước. Mỗi con người cá nhân
có khuynh hướng đi theo một đường hướng lý tưởng và xã hội riêng mà dư luận quần
chúng đều biết, vì lẽ đó, việc bổ nhiệm thăng thưởng hay truất quyền có thể cho
ta thấy Đảng đang đi về đâu. Vì bí mật là luật chơi nên Đảng khép kín cửa phòng
họp của họ cho người ngoài khỏi tò mò nhìn thấy. Nhưng chuyện bí mật gì dù có
giữ kín như bưng thì không sớm thì muộn cũng có ngày xì ra ngoài cho công chúng
nhờ những hớ hênh của những kẻ bên trong vòng thâm cung bí sử và biết rành đường
đi nước bước.
Hơn nữa, công chúng đã có dịp biết được những sự việc hết sức
thuyết phục đã xảy ra. Dĩ nhiên, đó là những khoản tiền bí mật được tự ý sử dụng,
sự thành hình những cơ quan bí mật, việc tổ chức những chuyến công tác bí mật nằm
dưới con dấu “Tối mật” và được bảo vệ rất ư là bí mật. Rất ít những người mới
vào đảng được biết những chuyện này.
Nhưng có nhiều sự việc hiển nhiên làm cho mọi người phải suy
nghĩ. Mọi người đều biết rằng đằng sau những vụ lường gạt trộm cắp cao cấp là dấu
ấn của những quan chức rất cao cấp thông qua những công ty nhà nước có lợi nhuận
rất cao. Nhiều quan chức, giống như những con thiêu thân tự đốt cánh mình khi tới
tấp nhào vào vùng lửa của tuyệt vời hy vọng. Chúng cung cấp những đãi ngộ huy
hoàng và vương giả cho những tên ma lanh, cho họ hàng triệu đồng để rồi đưa họ
vào tù. Nhưng không có vụ kiện tụng nào được đưa ra đối với những người này,
tính nhẹ dạ nông dân của quan chức bị dính chấu lại được đưa ra để mọi người
cùng cười xoà, hết chuyện. Mọi người cùng quyết định tốt nhất là nên dấu chuyện
đã xảy ra như dấu một món đồ khuất mắt dưới thùng gạo, và tránh biêu riếu những
nạn nhân đã bị bắt quả tang. Thây kệ cho ngân sách Nhà Nước khi mà những kẻ chịu
trách nhiệm được lệnh phải hết sức kín tiếng giữ im lặng để tránh cho việc Đảng
phải chịu sự khinh miệt của nhân dân. Nhưng nếu một chuyện tai tiếng được dân
chúng biết, thì còn nhiều chuyện đáng trách còn đang được giấu kín sau bức tường
kín bưng và theo lý lẽ của Đảng! Người ta xầm xì rằng mọi giao dịch trong nước
và với nước ngoài, mọi hợp đồng với các chính phủ nước ngoài, dưới trách nhiệm
của bộ Ngoại Giao và bộ Ngoại Thương, đều cho phép các quan chức trách nhiệm được
quyền nhận những khoản tiền hoa hồng, tiền giảm giá, tiền trà nước để làm giàu
cho họ, cho những cán bộ và thân nhân trong nhiều thế hệ. Ngay khi những cá
nhân như thế bị Đảng lật tẩy và chịu Đảng xử tội một cách bí mật nhiều nhất
cũng chỉ bị đổi đi nơi khác, giáng cấp hay tệ nhất là bị khai trừ Đảng và sa thải
khỏi nhiệm vụ đang làm, chẳng cần phải trả lại những tài sản đã ăn cắp của nhân
dân.
Nhưng có những sự việc mà không ai có thể ném vào đáy của giếng
sâu. Trên tất cả, đó là những tàn phá gây nên bởi nạn bao che và nạn tham
nhũng. Sự bao che trước nhất là được trực tiếp thực hiện bởi các ông cao nhất,
và sau đó là các kẻ tay sai luôn luôn nồng nhiệt sốt sắng làm vui lòng các ông
chủ cấp trên! Đó là lý do tại sao có những con ông cháu cha được đi học ở nước
ngoài rồi quay về được bổ nhiệm sau hậu trường để nắm những ghế công chức mà
công việc chỉ là ngồi ký tên cho người nào đó để lãnh những đồng lương lớn hay
những số tiền huê hồng cũng không nhỏ. Chẳng ai cần lo lắng quan tâm cho chiếc
xe của Nhà Nước đang liên tục bị xa lầy và sụp đổ cùng với nên kinh tế, với bốn
bánh xe chổng lên trời. Nhưng cái làm cho Đất Nước mau sụp đổ nhất là nạn tham
nhũng. Tham nhũng là muôn mặt, nhưng cái chính là trực tiếp hay gián tiếp ăn cắp
tài sản Nhà Nước, tham ô, làm và sử dụng những giấy tờ giả mạo, chiếm đoạt đất
công, dùng tài sản công vào những chuyện riêng tư. Ngoài tính chất muôn mầu muôn
vẻ của nạn tham nhũng ta còn có thể kể thêm là sức sinh sôi của loại dịch bệnh
này là rất nhanh. Những lãnh đạo chóp bu đã làm gương rất xấu và chuyện họ
không bị hình phạt nào chỉ khuyến khích cấp dưới bước chân vào con đường kiếm
chác mà không sợ bị một rủi ro nào. Sớm hay muộn, sự vô đạo đức sẽ chiếm lĩnh
xã hội trên bề mặt cũng như bề sâu. Chưa bao giờ ở bất cứ nước nào, ngay cả ở
các nước tư bản, mà người ta thấy được một cảnh tượng kinh hoàng, một sự băng
hoại vô cùng của đạo đức: toàn bộ guồng máy nhà nước ngập chìm trong sự mua chuộc.
Đối với hàng công nhân viên hạng nhỏ cấp dưới, mức lương nhỏ bé là lý lẽ để biện
minh cho tội tham nhũng của họ khuyến khích từ gương xấu của cấp trên của họ là
những kẻ phạm tội nhưng không chịu bất cứ trừng phạt nào của Pháp Luật hay phải
ra trước Toà thông qua hệ thống kỷ luật của Đảng và họ tham nhũng để mưu cầu được
mau thăng quan tiến chức. Sự vô đạo đức nó như một cơn thuỷ triều đen chồm lên
tràn ngập tất cả mọi cơ phận. Những lương tâm run sợ bay biến khỏi vùng địa chấn,
xa tắp khỏi tầng khí độc mà ngập trong đó là một nhà nước đang thối rửa và hấp
hối, một nhà nước kết cấu bằng những con người mà quyền hạn là vô chừng và độc
đoán đang nắm giữ. Khi mà một nhà nước bị thoái hoá và sự xuống cấp của con người
đã vào cuộc với những tác động hổ tương, kết nối chung cùng một hướng, giờ sụp
đổ sẽ không còn xa.
Mỗi khi để giải thích về sự độc tôn chính trị của Đảng là điều
có thể chấp nhận được, họ đều ca bài ca đề cao uy tín, tính đạo đức, những vinh
quang của họ để áp đặt và đạt lòng tin của nhân dân. Rất tiếc, họ dạy rằng mọi
sự đời đều chuyển động và thay đổi theo tính biện chứng, nhưng cá nhân họ lại
không áp dụng trong việc xây dựng những đường lối hoạt động hay quyết định những
chính sách, đảng của họ lại ra sức tấn công những kẻ thù hôm nay, những người
có thể trở thành bạn ngày mai. Đầu óc họ cứng nhắc trong chuyện định ai là bạn
ai là thù như là một chân lý không thể thay đổi, từ chối nghe tiếng chuông từ mọi
phía, và sửa sai những sai lầm. Tất cả chuyện đó sẽ đưa đến một sụp đổ không thể
trách được, một sụp đổ mà mức độ trầm trọng mà chính họ phải đánh giá trước.
Thay vì giáng búa rìu lên đầu người trí thức mà tội lỗi duy nhất
của họ là yêu Tổ Quốc và Dân Tộc, người cộng sản cần phải hiểu rằng kẻ thù của
họ chính là họ chứ không ai khác. Kẻ thù của họ là ai? Là tính chủ quan, một
cách quá mức, đã làm cho họ tưởng mình là Thượng Đế được phú cho sức mạnh siêu
nhân không thể thất bại, trên Thiên Đàng, trên tất cả những thực tại thế gian,
sự hợp pháp, luật pháp, công lý và công bằng. Thật điên khùng khi họ tin rằng họ
luôn luôn đúng, và đặc biệt ngay cả những khi họ sai lầm! Loại bệnh hoạn này chỉ
có con đường là đưa họ vào bệnh viện tâm thần.)
Những bàn tán này chỉ xảy ra trong tiếng xầm xì để khỏi mang tiếng
vô lễ với người đang đứng độc quyền trên diễn đàn, và cũng để tránh những tên
chỉ điểm và tay chủ ngục đang lẫn lộn trong hội nghị.
Diễn giả bắt đầu kết thúc phần chót của bản kết án:
“Thưa các đồng chí thân mến, việc mà tôi nhấn mạnh ở đây là dân
chủ, theo nguyên chữ, nói một cách đơn thuần là chính quyền do dân. Nhưng, theo
chúng ta là những người cộng sản, chúng ta hiểu chính quyền là vì dân. Chúng ta
hãy nhìn chung quanh chúng ta để ngắm nhìn một hoạt cảnh đầy hạnh phúc! Những
nhà trẻ chào đón các cháu bé trong khi các bậc cha mẹ đi làm và lo cho chúng tất
cả những săn sóc cần thiết. Những cháu ở tuổi đi học thì tập trung trong các
trường học. Những thanh niên nam nữ hiếu học tham dự những buổi giảng ở Đại Học
và dành trọn thì giờ rỗi rảnh để vào các Thư Viện để gia tăng kiến thức. Họ hưởng
một nền giáo dục miễn phí, cũng như trường hợp những người bệnh được hưởng những
săn sóc y khoa, được nằm bệnh viện hay được qua những lần giải phẫu rất tốn tiền
mà không phải trả một xu nào. Báo chí và những tác phẩm xuất bản của Nhà Nước đều
truyền bá những văn hoá lành mạnh và có đạo đức nhằm dạy dân chúng yêu chủ
nghĩa xã hội và yêu hoà bình. Rạp phim và sân khấu cung ứng những buổi giải trí
cho quần chúng đầy chất lượng để nâng cao tinh thần và đào tạo những công dân tốt.
Cửa hàng nhà nước ngập đầy thực phẩm và hàng tiêu thụ. Tình hình an ninh được bảo
đảm: không có những phạm pháp đáng khinh tởm, không nạn chận đường cướp tiền,
không tống tiền, đường phố sạch sẽ, con người sống lịch sự với nhau, trẻ con
ngoan ngoãn. Các nước anh em theo sát chúng ta và mang cho chúng ta tất cả những
giúp đỡ cần thiết. Ở nước ngoài, chúng ta đạt một uy tín mà nhiều người khâm phục.
Chúng ta không biết các bệnh xã hội, như đĩ điếm, hút sách và những hang ổ cờ bạc.
Cho tiền puộc boa, chúng ta không biết. Tất cả cán bộ và nhân viên tự hào về
tính lương thiện và sự trong sạch của mình: họ không bị mua chuộc và không nhận
tiền hối lộ. Chúng ta không biết được trong tương lai chúng ta sẽ có gì trong
các cửa hiệu kho hàng, không biết còn hay không còn tiếp tục nhận được những
giúp đỡ anh em của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng, trong hiện tại, chúng ta
đang hưởng một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc, mặc dù nước ta là một trong những
nước nghèo nhất theo như Quốc Tế xếp hạng nước chúng ta. Nhưng không có một thứ
của cải nào có thể bù đắp được cái may mắn tuyệt vời được có một Tổ Quốc vinh
quang, một Đảng tôn vinh, một niềm tin không lay chuyển vào chế độ Xã Hội Chủ
Nghĩa. Chúng ta không hãnh diện là những người con của Việt Nam mà số phận đã
được thế giới thèm muốn sao?
“Tại sao vào lúc này lại có một số trí thức ngây thơ đến độ đứng
lên đòi hỏi tự do và dân chủ như thể là chúng ta đã tước bỏ phần của họ? Đương
nhiên, chúng tôi có quan điểm riêng về tự do và dân chủ, nền tự do dân chủ có
mang dấu của người cộng sản và ấn của Đảng. Hãy nhìn xem giai cấp trí thức
khinh bỉ mấy tay phản bội và thương hại sự mù quáng của chúng như thế nào, hãy
xem thiên hạ nhìn mấy tay bệnh hoạn đang nhiểm vi trùng của bọn tư bản như thế
nào. Quần chúng biết rõ hơn ai hết món nợ với chủ nghĩa cộng sản: phẩm giá của
con người, niềm hạnh phúc được làm chủ chính mình và cùng với đất nước, đánh bại
chủ nghĩa thực dân trong trận Đìện Biên Phủ.
“Chúng tôi, những người cộng sản, và nhân dân không coi người
trí thức như kẻ thù cần phải loại bỏ, nhưng như một người bị lạc đường và bệnh
hoạn, lạc hậu một cách kinh khủng đối với thế giới văn minh, một thế giới tin
tưởng rằng tương lai của nhân loại là chủ nghĩa xã hội. Tôi xin hỏi những người
chậm trí kia: chân lý nằm phía nào? Về phía của vài tên lạc hậu hay của toàn thể
nhân dân, mà trong đó tuyệt đại bộ phận trí thức đang đứng cùng? Vâng, toàn thể
nhân dân đều đứng sau lưng Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng.
“Chân lý đứng về phía của nhân dân! Và nhân dân đã đồng tình và ủng
hộ Hồ Chí Minh và Đảng của ông. Vì lẽ đó, chúng tôi ra lệnh những ai chối bỏ sự
thật của nhân dân là kẻ thù của nhân dân. Tốt hơn là những kẻ này nên lưu ý những
gì tôi nói.”
Một sự yên lặng nặng nề lan ra. Không một tiếng vổ tay như thường
xảy ra vào lúc kết thức một bài nói chuyện. Cơn bảo đã đến gần. Rời chỗ mít
tinh, những người tham gia tụm năm tụm bảy ở khu vực Pasteur, những màn tán gẫu
bắt đầu.
- Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một lời tuyên chiến. Họng
súng sẽ nổ. Không cần phải ngụy biện. Chân lý không nằm ở bên có bạo lực.
- Mọi người im lặng không có nghĩa là họ chấp nhận thế đứng của
Đảng. Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất chủ yếu là nhắm chặt đầu giai cấp địa chủ
và việc cải cách nhà ở là nhằm tước bỏ quyền sở hửu của các chủ bất động sản ở
thành phố, nhân dân cũng giữ im lặng. Họ đã quen, biết giữ im lặng. Đảng đã nhận
lỗi trong Cải Cách Ruộng Đất; trong tương lai họ sẽ nhận lỗi về việc cải cách
tư sản. Sự im lặng của dân chúng không có nghiã là một sự đồng lòng mà ngược lại
đó là sự sợ hãi đã nảy sinh. Người cộng sản biết quá rõ chuyện đó. Đó là tại vì
sao thay vì tự mình áp đặt trên nhân dân, họ núp đằng sau thẩm quyền của Hồ Chí
Minh.
- Chúng ta biết rõ mức trầm trọng như thế nào khi người cộng sản
gắn bó với mấy chữ “kẻ thù của nhân dân”. Trước nhất, chúng ta hãy than phiền
cho số phận mấy đồng chí bị gán cho mấy chữ “lầm lạc” và “lạc hậu”. Nếu họ
không bị đưa lên đoạn đầu đài, hay trói vào cột bắn, thì họ cũng sẽ bị chết một
cái chết kéo dài, đau đớn hơn nhưng trong vòng kín đáo, cô lập bí mật nơi nào
đó. Bất luận như thế nào, trên hết là những cái đầu can đảm hay ngây thơ nhất của
chúng tôi, họ muốn hạ tất cả trí thức để cưỡng ép họ giữ một im lặng tuyệt đối,
nếu không chịu “tự do” chấp nhận một cách tự nguyện sự độc quyền của cộng sản.
Từ nay trở đi, ba “kẻ thù” của Đảng đã bị loại bỏ: tầng lớp địa chủ ở nông
thôn, tầng lớp chủ nhà ở thành thị, và những trí thức còn xứng đáng với danh
xung đó còn lại trong nước. Từ nay, Đảng có quyền tự do làm những chuyện khác
thường và kỳ quặc.
- Thế nhưng, tội lỗi của những người bạn bất hạnh của chúng tôi
là gì? Họ không hề có dự định nào loại bỏ Đảng trong cuộc sống chính trị, càng
không có ý định truất phế Đảng. Họ chỉ mơ ước được hỏi Đảng trong tư cách là một
đảng đang lãnh đạo, chấp nhận thực hiện, với chủ đích là làm đời sống chính trị
được tốt hơn, một vài cải tổ, để mang lại những điều tốt lành cho nhân dân cũng
như cho Đảng. Như thế thật là ngụy biện khi cho rằng nhân dân ủng hộ Đảng và những
người “lầm lạc” là kẻ thù của nhân dân. Những người cộng sản sống bằng dối trá,
đạo đức giả, nhưng cái sai lầm lớn nhất của họ là đã đặt cái bạo ngược trên cái
bề ngoài hão huyền, từ đó đưa ra những diễn dịch theo ý mình để tiêu diệt những
ai mà họ gán cho mấy chữ “kẻ thù của dân tộc”.
Chiếc gươm Damocles treo trên đầu của giới trí thức và nhà cầm
quyền có thể chọn đưa họ vào nhà thương tâm thần, hay một án tù chung thân để
chết dần trong một nhà tù vô danh nào đó hoặc giả ra những vụ tai nạn mà không
ai là người trách nhiệm.
Tôi biết số phận của tôi đang chờ, giống những người khác cũng
dính líu vào những cố gắng nhằm mở thêm chút không khí trong lành để thở. Chúng
tôi đã bị lừa phỉnh bằng những thủ đoạn đê tiện của những người lãnh đạo rất
lão luyện trong việc giăng bẩy, sắp xếp những trận phục kích, giết những người
mà họ gọi là kẻ thù. Machiavelli, nếu sống lại ở thế giới này, nên phải ghi
danh đi học trường của mấy ông lãnh đạo cộng sản là những con người đầy những
dã man gian trá và đầy những sáng kiến vô nhân như chưa từng có trong lịch sử
nhân loại.
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
No comments:
Post a Comment