CHƯƠNG 5
Con Ranh
Con Lộn Là Gì?
Trong dân
gian (Việt Nam) con ranh, con lộn là tiếng để gọi con cái sinh ra khó nuôi, thường
khi sanh ra vài tháng lại chết. Đặc biệt những người mẹ có con trong trường hợp
nầy rất mau có thai trở lại, nhưng khi sanh đứa con thứ hai thì đứa bé nầy cũng
èo ọt, đau ốm hoặc lại chết. Thường khi phải 3 hay 4 lần xảy ra như vậy. Có
nghĩa rằng người mẹ khốn khổ nầy phải chịu đau khổ vì những đứa con sinh ra đều
chết và đôi khi sự chết của người con xảy ra cùng trong khoảng một thời
gian nào đó giống nhau.
Thường thì người con sinh ra độ 5 tháng sau thì chết.
Đây là một vấn đề kỳ lạ mà chính các nhà y học cũng chưa giải thích được thỏa đáng.
Có người cho rằng sở dĩ sự kiện ấy phát sinh là do lệch lạc về cấu tạo của những
thành phần trong cơ thể đứa bé, có thể cơ thể thành lập nên cơ thể phat sinh từ
bào thai đã có sẵn sự bất đồng bộ và thiếu sót một vài yếu tố nên cơ thể chỉ tồn
tại được ở một giai đoạn thời gian nào đó mà thôi, cũng như sự sản xuất một cái
máy mà khi lắp ráp vì thiếu nhiên liệu, phẩm chất nên cái máy chỉ hoạt động được
trong một thời gian giới hạn. Cho dù sự giải thích đó được phần nào thừa nhận
thì câu hỏi tại sao lúc nào cũng chỉ xảy ra cho từ 3 đến 4 hài nhi còn về sau lại
không xảy ra? Phải chăng cơ thể đã có sự sửa đổi, trắc nghiệm hay qua kinh nghiệm
của những lần sai sót trước?Giải Thích Sự Kiện Con Ranh, Con Lộn:
Theo quan niệm của những người xưa và nhất là những người tin vào thuyết luân hồi nghiệp báo thì con ranh con lộn chính là chứng tích của những nghiệp quả mà cha mẹ đứa bé gây nên ở tiền kiếp. Có nghĩa rằng ở kiếp trước cha mẹ đứa bé đã làm điều ác nên phải chịu hình phạt ấy. Có thể người mẹ, người cha đã làm hại con cái kẻ khác, hành nghề phá thai hay cố ý làm cho kẻ khác bị hư thai... giờ đây kẻ đã gây ra tội lỗi ấy phải chịu quả báo. Cha mẹ đứa bé sẽ phải đau khổ vì con mình mới sinh ra đã lìa đời, sự đau đớn xót xa ấy là hình phạt nặng nề đối với kẻ làm cha mẹ ấy. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác (sẽ trình bày sau). Vấn đề thật ra chỉ là hiện tượng và những gì đã nói trên cũng chỉ là sự tin tưởng trong dân gian mà thôi. Có thể sự tin tưởng ấy là do mê tín. Tuy nhiên vấn đề không dừng lại ở đó vì những người mẹ bất hạnh nầy thường được những người "có kinh nghiệm" về vấn đề con ranh con lộn, những người tin vào thuyết luân hồi chỉ vẽ nên kinh nghiệm xem thử đứa con sinh ra đã bị chết ấy có phải là con ranh con lộn không?
Để có thể thử nghiệm sự kiện nầy, người xưa đã làm một việc rất đơn giản theo ý nghĩ bình dân của họ đó là đánh dấu lên đứa bé bằng cách rạch một đường hay rạch chữ thập có tẩm chất chàm gọi là làm dấu chàm hoặc ở trán ở cánh tay, sau lưng, ở mông... giống như xâm mình vậy. Việc làm nầy có chủ ý là nếu sau khi đứa bé đã được đánh dấu lại bị chết lần nữa (trước đó người mẹ đã sinh một lần và đứa con cũng đã bị chết sớm) thì ở lần có thai tới (thường có thai năm một) nên lưu ý xem thử hài nhi chào đời lần nầy có mang dấu vết ấy hay không? Nếu có thì chắc chắn đó là con ranh con lộn. Bằng không có dấu vết ấy thì đứa con sinh lần đầu bị chết là một sự không may và ngẫu nhiên, không có gì quan tâm. Riêng trường hợp đã chắc là có con ranh con lộn thì cha mẹ đứa bé nên chuẩn bị tinh thần vì có thể đứa bé nầy chẳng còn sống được bao lâu nữa. Có người trải qua bốn lần chịu cảnh con ranh con lộn. Ngày xưa vấn đề nầy thường xảy ra ở Việt Nam. Người Trung Hoa cũng không lạ gì trường hợp nầy. Ở Nhật và Triều Tiên cũng như Ấn Độ, vấn đề con ranh con lộn được xem như chuyện tự nhiên. Khi gặp trường hợp nầy cha mẹ đứa bé phải đi mời thầy pháp về làm lễ trừ tà nhưng thường thì chẳng ăn thua gì. Phần lớn những người theo Ấn giáo hay Phật giáo thì đến chùa để xin sám hối vì họ nghĩ rằng ở tiền kiếp họ đã tạo nên nghiệp ác nên phải gánh lấy hậu quả khổ đau.
Tuy nhiên, tùy theo cách suy luận của sự kiện quả báo luân hồi mà mỗi dân tộc có những giải thích bằng những câu chuyện truyền khẩu hay giai thoại riêng biệt.
Giải
Thích Theo Truyền Thuyết Quỉ Phạm Nhan:
Theo quan
niệm trong dân gian của người Việt Nam thì những người đàn bà nào có sinh đẻ nhưng không nuôi được con là do bị tà ma
hay hồn ma theo đuổi. Tà ma là những vong hồn của người chết thường vì lẽ đó,
theo đuổi ám ảnh khiến cho người đàn bà ấy không thể gần gũi chồng hoặc nếu có gần gũi phối hợp với
chồng và có thai thì khi sinh con, đứa con cũng không sống được bao lâu. Vì những
đứa con nầy thường có sự pha hợp với những vong linh theo ám ảnh người đàn bà nên rất khó sống. Cũng theo quan niệm trên thì có thể người
đàn bà nầy kiếp trước có chồng và hai vợ chồng lúc đó gặp trắc trở
éo le không sống được bên nhau nên ở kiếp nầy người chồng của kiếp trước quyết
tâm theo đuổi ám ảnh không thôi. Đôi khi người chồng lại bị người vợ kiếp trước
ám ảnh. Vì thế cặp vợ chồng ở kiếp nầy khó có can nối giồng. Ngoài ra cũng theo
quan niệm trên ngay ở kiếp hiện tại người vợ hoặc người chồng trước khi cưới
nhau thì một trong hai người đã thệ ước với một người khác cì người ấy chết bởi
tai nạn, bệnh hoặc tự vẫn nên vong hồn người ấy cớ đeo đuổi ám ảnh người vợ hay
người chồng khiến họ khó có con hoặc nếu có con thì con cũng không sống được
bao lâu. Người xưa còn tin rằng sở dĩ có hiện tượng con ranh con lộn quỷ Phạm
Nhan gây ra.
Theo truyền thuyết nầy thì Phạm Nhan tên thật là Nguyễn Bá Linh là con của hai vợ chồng sống tại huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương (đầu đời Trần). Mẹ Linh là người Việt còn cha Linh là người Tàu(Phúc Kiến). Khi Linh khôn lớn người cha mang về Tàu để học vì Linh rất sáng trí khôn ngoan. Về sau đỗ chiến sĩ (đời nhà Nguyên). Nguyễn Bá Linh còn học được phép phù thủy nên trở nên kiêu ngạo thường làm nhiều điều phạm phá và bị triều đình nhà Nguyên xử phạt tử hình. Gặp lúc quân Nguyên đang chuẩn bị sang đánh Việt Nam. Nguyễn Bá Linh xin được làm tiên phong để chuộc tội. Vua Nguyên đồng ý. Nhờ tài phù thủy, Nguyễn Bá Linh thắng nhiều trận nhưng trong trận thủy chiến ở sông Bặch Đằng, Nguyễn Bá Linh bị một danh tướng của Việt Nam là Yết Kiêu có tài lặn sâu và lâu dưới nước đêm khuya lẻn lên thuyền bắt sống và dùng dây thừng 5 màu (dây ngũ sắc trói lại). Nguyễn Bá Linh bị đóng cũi đưa về tỉnh Hải Dương xử chém. Nhờ phép phù thủy, Linh làm nhiều điều kỳ dị khiến tả đao khiếp sợ không dám chém vì chém đầu xong thì đầu khác lại mọc ra. Chuyện lạ được cấp báo lên Hưng Đạo Vương, ngài liền đích thân gặp Nguyễn Bá Linh và và rút kiếm báu của mình ra phạt ngang một đường trước mặt Linh. Đường gươm vút đi như lưỡi tầm sét khiến Nguyễn Bá Linh kinh hãi biết mình khó toàn tính mạng nên cất tiếng hỏi:
- Trước khi chết phải dọn mâm cỗ cho tôi ăn chứ?
Hưng Đạo Vương cả giận thét lên:
- Mầy là đồ phù thủy xấu xa, chỉ có máu huyết đàn bà sinh đẻ dành cho người ăn uống trước khi chết mà thôi.
Nói xong Hưng Đạo Vương trao kiếm cho Đao phủ để chém đầu Nguyễn Bá Linh.
Sau khi, Nguyễn Bá Linh chết, đầu được cho vào cái giỏ mây đem liệng xuống Sông Thanh Lương. Dân chài quẳng lưới bắt cá thấy đầu Bá Linh mắc vào lưới, lần nào cũng vậy, sợ quá đem chôn ở cạnh bờ sông. Từ đó Nguyễn Bá Linh thường trở về vùng Đông Triều tác oai tác quái. Vì căm giận lời nguyền rủa của Hưng Đạo Vương. Nguyễn Bá Linh bắt đầu ám và gây bất trắc cho phụ nữ trong vùng, khiến vô số sản phụ bị chứng sản hậu, xuất huyết, bị bệnh về đường kinh nguyệt và sinh dục và nhất là sinh con yểu tử. v.v... Đặc biệt nhất là hồn Bá Linh thường đeo đuổi một sản phụ để làm cho hư thai hay tạo hữu sinh vô dưỡng liên tiếp nhiều lần khiến lắm gia đình phải muôn vàn đau khổ. Những người tin vào sự tích nầy đã dùng câu chuyện để giải thích hiện tượng con ranh con lộn.
Theo truyền thuyết nầy thì Phạm Nhan tên thật là Nguyễn Bá Linh là con của hai vợ chồng sống tại huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương (đầu đời Trần). Mẹ Linh là người Việt còn cha Linh là người Tàu(Phúc Kiến). Khi Linh khôn lớn người cha mang về Tàu để học vì Linh rất sáng trí khôn ngoan. Về sau đỗ chiến sĩ (đời nhà Nguyên). Nguyễn Bá Linh còn học được phép phù thủy nên trở nên kiêu ngạo thường làm nhiều điều phạm phá và bị triều đình nhà Nguyên xử phạt tử hình. Gặp lúc quân Nguyên đang chuẩn bị sang đánh Việt Nam. Nguyễn Bá Linh xin được làm tiên phong để chuộc tội. Vua Nguyên đồng ý. Nhờ tài phù thủy, Nguyễn Bá Linh thắng nhiều trận nhưng trong trận thủy chiến ở sông Bặch Đằng, Nguyễn Bá Linh bị một danh tướng của Việt Nam là Yết Kiêu có tài lặn sâu và lâu dưới nước đêm khuya lẻn lên thuyền bắt sống và dùng dây thừng 5 màu (dây ngũ sắc trói lại). Nguyễn Bá Linh bị đóng cũi đưa về tỉnh Hải Dương xử chém. Nhờ phép phù thủy, Linh làm nhiều điều kỳ dị khiến tả đao khiếp sợ không dám chém vì chém đầu xong thì đầu khác lại mọc ra. Chuyện lạ được cấp báo lên Hưng Đạo Vương, ngài liền đích thân gặp Nguyễn Bá Linh và và rút kiếm báu của mình ra phạt ngang một đường trước mặt Linh. Đường gươm vút đi như lưỡi tầm sét khiến Nguyễn Bá Linh kinh hãi biết mình khó toàn tính mạng nên cất tiếng hỏi:
- Trước khi chết phải dọn mâm cỗ cho tôi ăn chứ?
Hưng Đạo Vương cả giận thét lên:
- Mầy là đồ phù thủy xấu xa, chỉ có máu huyết đàn bà sinh đẻ dành cho người ăn uống trước khi chết mà thôi.
Nói xong Hưng Đạo Vương trao kiếm cho Đao phủ để chém đầu Nguyễn Bá Linh.
Sau khi, Nguyễn Bá Linh chết, đầu được cho vào cái giỏ mây đem liệng xuống Sông Thanh Lương. Dân chài quẳng lưới bắt cá thấy đầu Bá Linh mắc vào lưới, lần nào cũng vậy, sợ quá đem chôn ở cạnh bờ sông. Từ đó Nguyễn Bá Linh thường trở về vùng Đông Triều tác oai tác quái. Vì căm giận lời nguyền rủa của Hưng Đạo Vương. Nguyễn Bá Linh bắt đầu ám và gây bất trắc cho phụ nữ trong vùng, khiến vô số sản phụ bị chứng sản hậu, xuất huyết, bị bệnh về đường kinh nguyệt và sinh dục và nhất là sinh con yểu tử. v.v... Đặc biệt nhất là hồn Bá Linh thường đeo đuổi một sản phụ để làm cho hư thai hay tạo hữu sinh vô dưỡng liên tiếp nhiều lần khiến lắm gia đình phải muôn vàn đau khổ. Những người tin vào sự tích nầy đã dùng câu chuyện để giải thích hiện tượng con ranh con lộn.
Giải
Thích Theo Khoa Tử Vi, Lý Số:
Câu chuyện
trên tuy chỉ là chuyện thần thoại mơ hồ nhưng dù sao cũng của người Việt Nam đối
với vấn đề con ranh con lộn vấn đề hình như phổ biến trong dân gian từ xưa đến
nay.
Đối với khoa tử vi, bói toán thì vấn đề con ranh con lộn được giải thích bằng cách cho rằng những đứa con sinh ra bị chết yểu là do bị phạm vào các giờ kỵ nguy hiểm.
Có 5 giờ đại kỵ gây chết chóc yểu vong cho con trẻ lúc chào đời:
1. Giờ Quan Sát: Khi người mẹ lâm bồn, đứa con sinh ra phạm vào giờ quan sát thì đứa con nầy sẽ khó tránh được sự tử vong đến nhanh. Có khi đứa bé sinh ra được vài giờ thì chết hoặc khi người mẹ chuyển bụng, hài nhi cũng đã không sống. Trong khoa tử vi, có nói đến cách tính giờ quan sát. Các nhà bói toán và luận đoán tử vi thường tính giờ quan sát bằng cách căn cứ vào giờ sinh và tháng sinh của đứa bé để định cát, hung. Theo khoa tử vi thì mỗi tháng trong năm có một giờ quan sát tương ứng như sau:
Tháng Phạm giờ quan sát.
Tháng giêng; Giờ Tỵ; Từ 9 giờ sáng đến 11 giờ trưa.
Tháng hai; Giờ Ngọ; Từ 11 giờ đến 1 giờ trưa.
Tháng ba; Giờ Mùi; Từ 1 giờ đến 3 giờ trưa.
Tháng tư; Giờ Thân; Từ 3 giờ đến 5 giờ chiều.
Tháng năm; Giờ Dậu; Từ 5 giờ đến 7 giờ tối.
Tháng sáu; Giờ Tuất; Từ 7 giờ đến 9 giờ tối.
Tháng bảy; Giờ Hợi; Từ 9 đến 11 giờ khuya.
Tháng tám; Giờ Tý; Từ 11 giờ đến 1 giờ khuya.
Tháng chín; Giờ Sửu; Từ 1 giờ 3 giờ khuya.
Tháng mười; Giờ Dần; Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng.
Tháng mười một; Giờ Mão; Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng.
Tháng mười hai; Giờ Thìn; Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng.
Nếu đứa bé sinh vào tháng 6 nhằm vào giờ Tuất tức là bị phạm giờ quan sát. Vì khoa tử vi xuất phát từ Trung Hoa nên phải tính theo Đông Phương. Vì thế phải đối chiếu với giờ chính thức quốc tế. Tuy nhiên dù sao đây cũng chỉ là cách giải thích về trường hợp trẻ sơ sinh bị yểu mệnh theo khoa tử vi mà thôi. Cũng theo cách giải thích nầy thì nếu may mắn đứa bé được sống còn thì thường hay bị đau ốm, còi cọt, mặt mày ngơ ngác, đôi khi tánh nết khó dạy. Vì thế nhiều khi trong dân gian người ta hay bảo đứa bé nào đó bị quan sát có nghĩa là đứa bé ấy xanh xao còm cỏi (trường hợp nầy hoàn toàn khác xa trường hợp đứa bé xanh xao vì thiếu ăn, nghèo khổ).
Đối với khoa tử vi, bói toán thì vấn đề con ranh con lộn được giải thích bằng cách cho rằng những đứa con sinh ra bị chết yểu là do bị phạm vào các giờ kỵ nguy hiểm.
Có 5 giờ đại kỵ gây chết chóc yểu vong cho con trẻ lúc chào đời:
1. Giờ Quan Sát: Khi người mẹ lâm bồn, đứa con sinh ra phạm vào giờ quan sát thì đứa con nầy sẽ khó tránh được sự tử vong đến nhanh. Có khi đứa bé sinh ra được vài giờ thì chết hoặc khi người mẹ chuyển bụng, hài nhi cũng đã không sống. Trong khoa tử vi, có nói đến cách tính giờ quan sát. Các nhà bói toán và luận đoán tử vi thường tính giờ quan sát bằng cách căn cứ vào giờ sinh và tháng sinh của đứa bé để định cát, hung. Theo khoa tử vi thì mỗi tháng trong năm có một giờ quan sát tương ứng như sau:
Tháng Phạm giờ quan sát.
Tháng giêng; Giờ Tỵ; Từ 9 giờ sáng đến 11 giờ trưa.
Tháng hai; Giờ Ngọ; Từ 11 giờ đến 1 giờ trưa.
Tháng ba; Giờ Mùi; Từ 1 giờ đến 3 giờ trưa.
Tháng tư; Giờ Thân; Từ 3 giờ đến 5 giờ chiều.
Tháng năm; Giờ Dậu; Từ 5 giờ đến 7 giờ tối.
Tháng sáu; Giờ Tuất; Từ 7 giờ đến 9 giờ tối.
Tháng bảy; Giờ Hợi; Từ 9 đến 11 giờ khuya.
Tháng tám; Giờ Tý; Từ 11 giờ đến 1 giờ khuya.
Tháng chín; Giờ Sửu; Từ 1 giờ 3 giờ khuya.
Tháng mười; Giờ Dần; Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng.
Tháng mười một; Giờ Mão; Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng.
Tháng mười hai; Giờ Thìn; Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng.
Nếu đứa bé sinh vào tháng 6 nhằm vào giờ Tuất tức là bị phạm giờ quan sát. Vì khoa tử vi xuất phát từ Trung Hoa nên phải tính theo Đông Phương. Vì thế phải đối chiếu với giờ chính thức quốc tế. Tuy nhiên dù sao đây cũng chỉ là cách giải thích về trường hợp trẻ sơ sinh bị yểu mệnh theo khoa tử vi mà thôi. Cũng theo cách giải thích nầy thì nếu may mắn đứa bé được sống còn thì thường hay bị đau ốm, còi cọt, mặt mày ngơ ngác, đôi khi tánh nết khó dạy. Vì thế nhiều khi trong dân gian người ta hay bảo đứa bé nào đó bị quan sát có nghĩa là đứa bé ấy xanh xao còm cỏi (trường hợp nầy hoàn toàn khác xa trường hợp đứa bé xanh xao vì thiếu ăn, nghèo khổ).
2. Giờ
Kim Sà.
Ngoài giờ quan sát ra, đôi khi đứa bé chào đời phạm vào giờ xấu gọi là giờ Kim Sà cũng khó ng. Nếu may mắn thoát được yểu tử thì lại rất khó nuôi vì cứ đau ốm tai nạn hoài. Theo kinh nghiệm của các người xưa (Trung Hoa và Việt Nam) thì con trẻ phạm giờ Kim Sà khó sống qua 12, 13 tuổi thường thì khoa tử vi, bói toán còn tìm hiểu thêm sự xung khắc giữa người mẹ và đứa bé. Nếu bản mệnh (mạng) người mẹ lại khắc bản mệnh người con và khi đứa bé chào đời lại phạm giờ Kim Sà thì rất khó sống, (ví dụ mẹ mạng thủy con mạng hỏa, mẹ kim con một, mẹ mộc con thổ, mẹ hỏa con kim). Nếu bản mệnh người mẹ thuận hợp hay phù sinh cho con thì hy vọng qua khỏi nguy hiểm tánh mạng nhưng thường khó nuôi, èo ọt. (Ví dụ mẹ mộc con là hỏa (mộc sinh hỏa), mẹ hỏa con thổ (hỏa sinh thổ), mẹ kim con thủy (kim sinh thủy) mẹ thủy con một (thủy dưỡng mộc), mẹ thổ con kim ( thổ sinh kim). Trường hợp nầy đứa bé ít nguy hiểm hơn gọi là phạm vào bàng giờ.
Các tính giờ theo khoa tử vi phải qua nhiều giai đoạn chuyển hóa về năm, tháng, giờ với lá số tử vi. Sau đây là sơ lược cách tính của người xưa:
A) sơ đồ về các cung ở lá số tử vi
B) Cách tính giờ Kim Sà:
Trước tiên ghi tên cho đúng ngày tháng năm sinh giờ sinh của đứa bé sau đó lần lượt tính qua 4 giai đoạn sau:
Gia đoạn 1: gọi cung Tuất trong lá số là năm tý tinh theo chiều thuận (xem mũi tên và ghi chú) để năm sinh của đứa bé (ví dụ năm Quý Dậu) đến cung nào trong lá số thì coi cung đó là tháng giêng.
Giai đoạn 2: Từ cung ứng với tháng giêng đếm theo chiều nghịch lại cho đến tháng đứa bé sinh (ví dụ tháng 4 âm lịch). Ứng vào cung nào trong lá số.
Giai đoạn 3: Từ cung ứng với tháng sinh của đứa bé gọi là ngày mùng một lại đếm theo chiều thuận cho đến ngày sinh của đứa bé trùng với cung nào của lá số thì gọi cung đó là giờ Tý.
Giai đoạn 4: Từ cung ứng với giờ Tý, đếm theo chiều lại để đến giờ sinh của đứa bé trùng vào cung nào của lá số thì đó chính là cung tốt hay cung xấu.
Nếu cung nầy là cung Tuất hay cung Thìn sẽ rất nguy hiểm cho đứa con trai mới sinh vì gặp đúng giờ Kim Sà. Nếu là cung Mùi hay cung sửu thì có thể vượt qua nguy hiểm nhưng cũng khó nuôi, dễ bị đau ốm hoài đó cũng là giờ bàng giờ.
Đối với đứa bé mới sinh là gái thì nếu gặp cung Tuất hay Thìn thì thoát yểu tử nhưng lại khó nuôi còn nếu phạm vào cung Sửu, Mùi thì sẽ nguy hiểm vì sẽ nguy hiểm vì đã gặp giờ Kim Sà.
3. Giờ Tướng Quân, giờ Dạ Đề, giờ Diêm Vương Ngoài giờ bàng giờ ra khoa tử vi còn cho rằng con trẻ mới sinh phạm giờ Tướng Quân tuy có xấu nhưng không nguy hiểm đến tính mạng mà chỉ có tật khóc đêm, khờ khạo. Người xưa nhất là các nhà bói toán cho rằng sở dĩ con trẻ hay khóc đêm và khóc dai là vì khi sinh phạm vào giờ Dạ Đề. Trường hợp cuối cùng cũng đáng quan tâm mà khoa tử vi đã nêu ra là vấn đề phạm giờ Diêm Vương. Giờ Diêm Vương là giờ khi mà đứa bé chào đời gặp phải. Thường các nhà bói toán tính theo mùa sinh tương ứng với giờ xấu Diêm Vương như mùa xuân giờ Sửu và Mùi là phạm, mùa hạ giờ Thìn giờ Tuất (phạm), mùa thu giờ Tý giờ Ngọ (phạm) mùa đông giờ Mão, giờ Dậu (phạm). Khi phạm nhằm giờ Diêm Vương, đứa bé lớn lên thường có triệu chứng lạ lùng hay co giật chân tay, thần kinh bất ổn và đôi khi nói những lời kỳ dị như bị ma quỷ ám ảnh.
Trên đây là cách giải thích của khoa tử vi, lý số. Về sự yểu mệnh của các con trẻ. Quả thật cho đến nay, vấn đề vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Chỉ biết rằng theo kinh nghiệm của người xưa, trong dân gian thì các trẻ con mới sinh phạm nhằm các giờ vừa kể thường khá nuôi và khó thọ. Tuy nhiên câu hỏi lại được đặt ra là nguyên nhân nào khiến hài nhi chào đời vào giờ đó? Phải chăng đó là sự tình cờ, là sự tuân theo quy luật chuyển hóa của các giai đoạn thời gian tự nhiên trong vũ trụ như thụ thai lúc nào thì giai đoạn phát triển phôi thai đến ngày sinh nở đã định theo đúng chi kỳ thời gian. Nhưng thắc mắc vẫn còn là không phải luôn luôn lúc nào thai nhi lọt lòng mẹ cũng vẫn đúng chín tháng 10 ngày cả. Vậy tại sao phải đợi đến giờ đó tháng đó năm đó đứa bé mới chào đời? Các y bác sĩ ở ngành sản khoa cho biết có khi người sản phụ chuyển bụng dữ dội tưởng sinh ngay tức thì nhưng mãi đến chiều tối hài nhi mới chào đời. Như vậy giờ phút đứa bé chào đời là ngẫu nhiên hay có một sự sắp xếp huyền bí nào?
Ngoài giờ quan sát ra, đôi khi đứa bé chào đời phạm vào giờ xấu gọi là giờ Kim Sà cũng khó ng. Nếu may mắn thoát được yểu tử thì lại rất khó nuôi vì cứ đau ốm tai nạn hoài. Theo kinh nghiệm của các người xưa (Trung Hoa và Việt Nam) thì con trẻ phạm giờ Kim Sà khó sống qua 12, 13 tuổi thường thì khoa tử vi, bói toán còn tìm hiểu thêm sự xung khắc giữa người mẹ và đứa bé. Nếu bản mệnh (mạng) người mẹ lại khắc bản mệnh người con và khi đứa bé chào đời lại phạm giờ Kim Sà thì rất khó sống, (ví dụ mẹ mạng thủy con mạng hỏa, mẹ kim con một, mẹ mộc con thổ, mẹ hỏa con kim). Nếu bản mệnh người mẹ thuận hợp hay phù sinh cho con thì hy vọng qua khỏi nguy hiểm tánh mạng nhưng thường khó nuôi, èo ọt. (Ví dụ mẹ mộc con là hỏa (mộc sinh hỏa), mẹ hỏa con thổ (hỏa sinh thổ), mẹ kim con thủy (kim sinh thủy) mẹ thủy con một (thủy dưỡng mộc), mẹ thổ con kim ( thổ sinh kim). Trường hợp nầy đứa bé ít nguy hiểm hơn gọi là phạm vào bàng giờ.
Các tính giờ theo khoa tử vi phải qua nhiều giai đoạn chuyển hóa về năm, tháng, giờ với lá số tử vi. Sau đây là sơ lược cách tính của người xưa:
A) sơ đồ về các cung ở lá số tử vi
B) Cách tính giờ Kim Sà:
Trước tiên ghi tên cho đúng ngày tháng năm sinh giờ sinh của đứa bé sau đó lần lượt tính qua 4 giai đoạn sau:
Gia đoạn 1: gọi cung Tuất trong lá số là năm tý tinh theo chiều thuận (xem mũi tên và ghi chú) để năm sinh của đứa bé (ví dụ năm Quý Dậu) đến cung nào trong lá số thì coi cung đó là tháng giêng.
Giai đoạn 2: Từ cung ứng với tháng giêng đếm theo chiều nghịch lại cho đến tháng đứa bé sinh (ví dụ tháng 4 âm lịch). Ứng vào cung nào trong lá số.
Giai đoạn 3: Từ cung ứng với tháng sinh của đứa bé gọi là ngày mùng một lại đếm theo chiều thuận cho đến ngày sinh của đứa bé trùng với cung nào của lá số thì gọi cung đó là giờ Tý.
Giai đoạn 4: Từ cung ứng với giờ Tý, đếm theo chiều lại để đến giờ sinh của đứa bé trùng vào cung nào của lá số thì đó chính là cung tốt hay cung xấu.
Nếu cung nầy là cung Tuất hay cung Thìn sẽ rất nguy hiểm cho đứa con trai mới sinh vì gặp đúng giờ Kim Sà. Nếu là cung Mùi hay cung sửu thì có thể vượt qua nguy hiểm nhưng cũng khó nuôi, dễ bị đau ốm hoài đó cũng là giờ bàng giờ.
Đối với đứa bé mới sinh là gái thì nếu gặp cung Tuất hay Thìn thì thoát yểu tử nhưng lại khó nuôi còn nếu phạm vào cung Sửu, Mùi thì sẽ nguy hiểm vì sẽ nguy hiểm vì đã gặp giờ Kim Sà.
3. Giờ Tướng Quân, giờ Dạ Đề, giờ Diêm Vương Ngoài giờ bàng giờ ra khoa tử vi còn cho rằng con trẻ mới sinh phạm giờ Tướng Quân tuy có xấu nhưng không nguy hiểm đến tính mạng mà chỉ có tật khóc đêm, khờ khạo. Người xưa nhất là các nhà bói toán cho rằng sở dĩ con trẻ hay khóc đêm và khóc dai là vì khi sinh phạm vào giờ Dạ Đề. Trường hợp cuối cùng cũng đáng quan tâm mà khoa tử vi đã nêu ra là vấn đề phạm giờ Diêm Vương. Giờ Diêm Vương là giờ khi mà đứa bé chào đời gặp phải. Thường các nhà bói toán tính theo mùa sinh tương ứng với giờ xấu Diêm Vương như mùa xuân giờ Sửu và Mùi là phạm, mùa hạ giờ Thìn giờ Tuất (phạm), mùa thu giờ Tý giờ Ngọ (phạm) mùa đông giờ Mão, giờ Dậu (phạm). Khi phạm nhằm giờ Diêm Vương, đứa bé lớn lên thường có triệu chứng lạ lùng hay co giật chân tay, thần kinh bất ổn và đôi khi nói những lời kỳ dị như bị ma quỷ ám ảnh.
Trên đây là cách giải thích của khoa tử vi, lý số. Về sự yểu mệnh của các con trẻ. Quả thật cho đến nay, vấn đề vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Chỉ biết rằng theo kinh nghiệm của người xưa, trong dân gian thì các trẻ con mới sinh phạm nhằm các giờ vừa kể thường khá nuôi và khó thọ. Tuy nhiên câu hỏi lại được đặt ra là nguyên nhân nào khiến hài nhi chào đời vào giờ đó? Phải chăng đó là sự tình cờ, là sự tuân theo quy luật chuyển hóa của các giai đoạn thời gian tự nhiên trong vũ trụ như thụ thai lúc nào thì giai đoạn phát triển phôi thai đến ngày sinh nở đã định theo đúng chi kỳ thời gian. Nhưng thắc mắc vẫn còn là không phải luôn luôn lúc nào thai nhi lọt lòng mẹ cũng vẫn đúng chín tháng 10 ngày cả. Vậy tại sao phải đợi đến giờ đó tháng đó năm đó đứa bé mới chào đời? Các y bác sĩ ở ngành sản khoa cho biết có khi người sản phụ chuyển bụng dữ dội tưởng sinh ngay tức thì nhưng mãi đến chiều tối hài nhi mới chào đời. Như vậy giờ phút đứa bé chào đời là ngẫu nhiên hay có một sự sắp xếp huyền bí nào?
Giải
Thích Theo Thuyết Nguy Hiểm
Nếu xét về
ngày, giờ nguy hiểm, rủi may thì cho đến nay, các nhà khoa học nhất là các nhà
thống kê đã có nhiều khảo cứ chuyên đề về vấn đề "thuyết những ngày
nguy hiểm" mà từ lâu nhà kinh doanh người Thụy Điển là George Turuman năm
1922 đã nêu ra. Ông cho rằng có những chu trình khác nhau biến đổi độc lập với
nhau trong vũ trụ đem lại những thời điểm thuận lợi hay bất lợi, tốt lành hay
nguy hiểm. Nếu rơi vào đúng thời điểm nào sẽ bị ảnh hưởng bởi thời điểm hay
giai đoạn đó. Vấn đề nầy tương ứng với chữ thời của người xưa hay quan niệm về
ngày hên xui tốt xấu trong dân gian.
Theo Tomman thì có những nguy hiểm khi đường cong của các chu trình mà ông đã trình bày dưới dạng hình Sin đi qua điểm O hay nói rõ hơn là điểm mà nửa phần dương + của chu trình được thay thế bằng nửa phần âm rồi sau đó nửa phần âm lại được thay thế bằng nửa phần dương.v.v...
Tomman đã nêu ra vài việc để chứng minh cho những gì đã xảy ra khi phạm vào những nguy hiểm như năm 1961. Tổng thống Kenedy của Hoa Kỳ đến thăm Canada. Hôm 16 tháng 5 ngay lúc buổi lễ long trọng trồng cây truyền thống được diễn ra, tổng thống Kenedy tự nhiên bị tổn thương ở cột sống theo Tomman thì chính tổng thống Kenedy đã phạm vào ngày và giờ nguy hiểm lúc một mình ông (vào đúng giờ phút ấy) cúi xuống trồng một cây tượng trưng. Một sự việc khác xảy ra khi tổng thống Eisenhawer của Hoa Kỳ tự nhiên lên cơn đau tim nặng vào ngày 26 tháng 11 năm 1957 (theo Tomman ngày giờ nầy trùng vào ngày nguy hiểm).
Cũng vậy, ngày 21 tháng 7 năm 1961, một nhà du hành Hoa Kỳ đã suýt chết khi phi thuyền do ông điều khiển hạ cánh xuống nước và tự nhiên nắp phi thuyền bật mở làm nước tràn vào cái khoang trị giá 5.000.000 đôla cùng các linh kiện quý hiếm đều chìm xuống đáy biển. Theo Tomman thì đó là ngày nguy hiểm đối với phi hành gia nầy.
Từ những nghiên cứu của Tomman, các nhà thời trị học đã bắt tay vào việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề và hy vọng trong tương lai, lời giải đáp của giới khoa học sẽ giúp làm sáng tỏ hơn các vấn đề có liên quan đến giờ nguy hiểm như giờ quan sát, giờ kim sà và phần nào giải đáp một số thắc mắc về con ranh con lộn.
Thật ra vấn đề con ranh con lộn không riêng gì ở Việt Nam mà trên thế giới cũng thường xuất hiện chứng cớ là các bệnh viện ở Anh, Pháp, Đức, Nga, Ấn Độ, Hoa Kỳ. v.v... đều có giữ lại trong các hồ sơ lưu trữ những trường hợp lạ lùng kỳ dị về con ranh con lộn. Theo tiến sĩ Ian Stevenson thì dấu vết bẩm sinh ở các hài nhi cũng biểu hiện cho trường hợp con ranh con lộn.
Hai vợ chồng Marius Frères sống tại Lyon (Pháp) sinh hạ một bé trai vào tháng 2 năm 1950. Đứa bé chỉ sống được ba tháng thì mất. Đứa con thứ hai sinh vào tháng 12 năm đó (sanh sớm) nhưng cũng chỉ sống được ba tháng.
Một bác sĩ pháp, ông Maurice quan tâm hiện tượng nầy khi thấy đứa con thứ ba của hai vợ chồng Marius Frères lại sanh sớm hơn các thời gian sanh con bình thường và đứa con nầy chỉ sống ba tháng 10 ngày rồi mất. Bệnh viện Lyon lưu trữ hồ sơ nầy cuộc khám nghiệm tử thi đứa bé cùng hai tử thi trước đó tiến hành kỹ lưỡng. Một chuyên viên giải phẫu đã tìm thấy một dấu vết màu xám nâu rất nhỏ bằng đầu chiếc đũa nằm trong nách đứa bé. Đặc biệt dấu vết nầy đều xuất hiện ở cả ba đứa bé và cùng ở tại một vị trí giống nhau là phía trong nách rất khó phát hiện.
Điều kỳ lạ là trước đó hai vợ chồng nầy sống cuộc đời bình dị nếu không nói là nghèo. Nhưng trước khi họ sinh đứa con đầu lòng độ hai năm thì dân quanh vùng thấy hai vợ chồng ăn xài sang trọng và mua một xe hơi bóng loáng đắt tiền.
Năm 1953 bỗng nhiên cảnh sát Pháp ập vào nhà 2 vợ chồng ông bà Marius Frères lục soát và đào bới khắp nơi. Cuối cùng họ tìm thấy vô số nữ trang và tiền bạc. Nhưng điều kinh dị là dưới lò sưởi, cảnh sát đào lên xác một người đàn bà bọc trong một tấm drap, khám nghiệm tử thi, các chuyên viên điều tra thấy một dấu vết thâm tím ở trong nách người đàn bà ấy. Hai vợ chồng Marius Frères bị bắt. Họ khai là đã dùng độc dược chích vào nách người đàn bà nầy sau khi chụp thuốc mê bà ta để đoạt viên kim cương đáng giá. (Bà nầy là dì ruột của ông Marius). Hai vợ chồng đã gọi điện thoại cho bà nầy và yêu cầu bà đến chơi luôn tiện giúp bà thử nghiệm lại viên kim cương vì bà ta có nghi ngờ là giả mạo. Ông Marius là một người giàu kinh nghiệm về kim hoàn vì trước đó mấy năm, ông ta giúp việc cho một cửa tiệm kim hoàn nhưng bị thải hồi vì tánh ông ta quá thô lỗ cọc cằn.
Tội lỗi hai vợ chồng đã rành rành. Cuộc điều tra tội phạm khởi sự khi đứa cháu nạn nhân đến khai với cảnh sát là bà nầy đã đến Lyon và mất tích không còn liên lạc gì về gia đình cảnh sát đã phanh dần các mối dây liên hệ và tìm đến nhà hai vợ chồng Marius Frères thăm dò lần đầu bằng cách đột nhập vào nhà và thấy có những dụng cụ khả nghi cũng như chất hóa học lạ sau cánh cửa giả. Riêng đối với các bác sĩ theo dõi hồ sơ những đứa con liên tiếp của ông bà Marius chết yểu và dấu vết lạ lùng xuất hiện ở trong nách của cả ba hài nhi, họ cảm thấy có cái gì đó hết sức kỳ dị lạ lùng, đầy vẻ huyền bí khi biết thêm rằng nạn nhân bị chôn vùi dưới lò sưởi cũng có dấu vết y hệt đó. Tại sao lại có sự trùng hợp hết sức kỳ lạ đó? Đã có sự liên hệ nào giữa nạn nhân bị giết một cách mờ ám với ba hài nhi nầy?
Theo Tomman thì có những nguy hiểm khi đường cong của các chu trình mà ông đã trình bày dưới dạng hình Sin đi qua điểm O hay nói rõ hơn là điểm mà nửa phần dương + của chu trình được thay thế bằng nửa phần âm rồi sau đó nửa phần âm lại được thay thế bằng nửa phần dương.v.v...
Tomman đã nêu ra vài việc để chứng minh cho những gì đã xảy ra khi phạm vào những nguy hiểm như năm 1961. Tổng thống Kenedy của Hoa Kỳ đến thăm Canada. Hôm 16 tháng 5 ngay lúc buổi lễ long trọng trồng cây truyền thống được diễn ra, tổng thống Kenedy tự nhiên bị tổn thương ở cột sống theo Tomman thì chính tổng thống Kenedy đã phạm vào ngày và giờ nguy hiểm lúc một mình ông (vào đúng giờ phút ấy) cúi xuống trồng một cây tượng trưng. Một sự việc khác xảy ra khi tổng thống Eisenhawer của Hoa Kỳ tự nhiên lên cơn đau tim nặng vào ngày 26 tháng 11 năm 1957 (theo Tomman ngày giờ nầy trùng vào ngày nguy hiểm).
Cũng vậy, ngày 21 tháng 7 năm 1961, một nhà du hành Hoa Kỳ đã suýt chết khi phi thuyền do ông điều khiển hạ cánh xuống nước và tự nhiên nắp phi thuyền bật mở làm nước tràn vào cái khoang trị giá 5.000.000 đôla cùng các linh kiện quý hiếm đều chìm xuống đáy biển. Theo Tomman thì đó là ngày nguy hiểm đối với phi hành gia nầy.
Từ những nghiên cứu của Tomman, các nhà thời trị học đã bắt tay vào việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề và hy vọng trong tương lai, lời giải đáp của giới khoa học sẽ giúp làm sáng tỏ hơn các vấn đề có liên quan đến giờ nguy hiểm như giờ quan sát, giờ kim sà và phần nào giải đáp một số thắc mắc về con ranh con lộn.
Thật ra vấn đề con ranh con lộn không riêng gì ở Việt Nam mà trên thế giới cũng thường xuất hiện chứng cớ là các bệnh viện ở Anh, Pháp, Đức, Nga, Ấn Độ, Hoa Kỳ. v.v... đều có giữ lại trong các hồ sơ lưu trữ những trường hợp lạ lùng kỳ dị về con ranh con lộn. Theo tiến sĩ Ian Stevenson thì dấu vết bẩm sinh ở các hài nhi cũng biểu hiện cho trường hợp con ranh con lộn.
Hai vợ chồng Marius Frères sống tại Lyon (Pháp) sinh hạ một bé trai vào tháng 2 năm 1950. Đứa bé chỉ sống được ba tháng thì mất. Đứa con thứ hai sinh vào tháng 12 năm đó (sanh sớm) nhưng cũng chỉ sống được ba tháng.
Một bác sĩ pháp, ông Maurice quan tâm hiện tượng nầy khi thấy đứa con thứ ba của hai vợ chồng Marius Frères lại sanh sớm hơn các thời gian sanh con bình thường và đứa con nầy chỉ sống ba tháng 10 ngày rồi mất. Bệnh viện Lyon lưu trữ hồ sơ nầy cuộc khám nghiệm tử thi đứa bé cùng hai tử thi trước đó tiến hành kỹ lưỡng. Một chuyên viên giải phẫu đã tìm thấy một dấu vết màu xám nâu rất nhỏ bằng đầu chiếc đũa nằm trong nách đứa bé. Đặc biệt dấu vết nầy đều xuất hiện ở cả ba đứa bé và cùng ở tại một vị trí giống nhau là phía trong nách rất khó phát hiện.
Điều kỳ lạ là trước đó hai vợ chồng nầy sống cuộc đời bình dị nếu không nói là nghèo. Nhưng trước khi họ sinh đứa con đầu lòng độ hai năm thì dân quanh vùng thấy hai vợ chồng ăn xài sang trọng và mua một xe hơi bóng loáng đắt tiền.
Năm 1953 bỗng nhiên cảnh sát Pháp ập vào nhà 2 vợ chồng ông bà Marius Frères lục soát và đào bới khắp nơi. Cuối cùng họ tìm thấy vô số nữ trang và tiền bạc. Nhưng điều kinh dị là dưới lò sưởi, cảnh sát đào lên xác một người đàn bà bọc trong một tấm drap, khám nghiệm tử thi, các chuyên viên điều tra thấy một dấu vết thâm tím ở trong nách người đàn bà ấy. Hai vợ chồng Marius Frères bị bắt. Họ khai là đã dùng độc dược chích vào nách người đàn bà nầy sau khi chụp thuốc mê bà ta để đoạt viên kim cương đáng giá. (Bà nầy là dì ruột của ông Marius). Hai vợ chồng đã gọi điện thoại cho bà nầy và yêu cầu bà đến chơi luôn tiện giúp bà thử nghiệm lại viên kim cương vì bà ta có nghi ngờ là giả mạo. Ông Marius là một người giàu kinh nghiệm về kim hoàn vì trước đó mấy năm, ông ta giúp việc cho một cửa tiệm kim hoàn nhưng bị thải hồi vì tánh ông ta quá thô lỗ cọc cằn.
Tội lỗi hai vợ chồng đã rành rành. Cuộc điều tra tội phạm khởi sự khi đứa cháu nạn nhân đến khai với cảnh sát là bà nầy đã đến Lyon và mất tích không còn liên lạc gì về gia đình cảnh sát đã phanh dần các mối dây liên hệ và tìm đến nhà hai vợ chồng Marius Frères thăm dò lần đầu bằng cách đột nhập vào nhà và thấy có những dụng cụ khả nghi cũng như chất hóa học lạ sau cánh cửa giả. Riêng đối với các bác sĩ theo dõi hồ sơ những đứa con liên tiếp của ông bà Marius chết yểu và dấu vết lạ lùng xuất hiện ở trong nách của cả ba hài nhi, họ cảm thấy có cái gì đó hết sức kỳ dị lạ lùng, đầy vẻ huyền bí khi biết thêm rằng nạn nhân bị chôn vùi dưới lò sưởi cũng có dấu vết y hệt đó. Tại sao lại có sự trùng hợp hết sức kỳ lạ đó? Đã có sự liên hệ nào giữa nạn nhân bị giết một cách mờ ám với ba hài nhi nầy?
Giải
Thích Theo Hiện Tượng Luân Hồi, Quả Báo
Đối với
các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi và quả báo thì câu giải đáp chẳng có
gì khó khăn mà trái lại bộc lộ rõ ràng dưới ánh sáng của công lý tự nhiên trong
vũ trụ nhân sinh. Trong thánh kinh có câu: "kẻ nào gieo sự bất công, sẽ gặt
điều tai họa" (châm ngôn 22:8).
Câu chuyện có thật trên đây xảy ra tại Pháp là chứng cớ hiển nhiên về hiện tượng đầu thai quả báo, trong đó còn bàng bạc hiện tượng về con ranh con lộn, một hiện tượng xuất hiện không riêng lẽ ở một quốc gia nào, một hiện tượng có thể gọi là phổ biến. Đối với những nhà nghiên cứu về tiền kiếp và dùng phương pháp của giấc ngủ thôi miên để tìm về quá khứ xa xăm của những kiếp người như ông Cayce thì vấn đề còn có thêm những điểm đáng lưu ý như sau: những linh hồn khi đầu thai thường có sự tự do lựa chọn nào đó vì thế mà một linh hồn sau khi đã chọn cha mẹ làm phương tiện để được tái sinh thì khi đầu thai xong có thể cảm thấy thất vọng nơi gia đình đó nên không còn sự ham sống nữa và dựa vào những cơn đau bệnh bất chợt đến mà đứa trẻ sẽ dễ dàng lìa đời. Đôi khi sự chết yểu của đứa con lại là một lời nhắn nhủ để người làm cha hay mẹ soát xét lại những gì mình đã gây ra từ tiền kiếp để có sự sửa đổi, hoán cải vì sự chết yểu của đứa con là một sự đau thương vô cùng đối với người làm cha mẹ. Nhất là đối với quan niệm dân gian Việt Nam thì khi người mẹ có con chết yểu, điều họ nghĩ đến dễ trả lời cho câu hỏi tại sao họ lại chịu điều bất hạnh là ở tiền kiếp hay ngay trong kiếp hiện tại, có thể họ đã làm điều gì đó không phải và sự khổ đau thể hiện qua sự kiện đứa con chết yểu đã là một cảnh báo đáng lưu tâm và đáng phải sám hối, sửa đổi.
Sự kiện con ranh con lộn không phải chỉ xảy ra vào thời xa xưa mà thật sự như trên đã nói, xảy ra ở muôn nơi và muôn thuở. Ở Anh, ngay tại thành phố Luân Đôn, có một gia đình gọi là gia đình Matthew, suốt bốn năm, người mẹ lần lượt sinh bốn người con và người con nào tới ba tuổi cũng đều lìa bỏ cõi đời cả. Điều kỳ lạ là lần mang thai thứ tư, người mẹ trước khi chuyển bụng, đang mơ màng trong giấc ngủ bỗng nghe có tiếng nói thì thầm bên tai, tiếng nói của một đứa bé: "đây là lần cuối cùng!" và đứa con sinh lần thứ tư nầy đã chết lúc vừa đúng 3 tuổi. Đến lúc có thai lần thứ năm, người mẹ rất lo sợ, nhưng sau khi sanh, bà cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Đứa bé vượt qua giai đoạn ba tuổi và sống mạnh khỏe cho đến tuổi trưởng thành không đau ốm gì cả.
Khi tìm hiểu qua các tài liệu y khoa, người ta không thấy có giải thích nào rõ ràng cho vấn đề nầy và giới y học cho rằng vấn đề người mẹ sinh con liên tiếp trong nhiều năm nhưng những đứa con nầy đều chết sớm là do sự lệch lạc nào đó trong khi chúng thụ tinh. Hoặc có khi người mẹ có mầm bệnh ẩn, lạ, truyền vào người con và đến một thời gian nào đó tác nhân bệnh mới đủ mạnh để làm hại người con. Tuy nhiên đó chỉ là giả thuyết vì cho đến nay y học vẫn còn bế tắc trong sự giải quyết về vấn đề con ranh con lộn nầy. Đồng bào ở Quảng Trị khoảng năm 1934, 1936 thường biết rõ gia đình của họ Trần, người chồng là Trần Vĩnh T. và người vợ là bà Nguyễn thị H. (quê làng Vĩnh Lại, trú tại chợ Sòng). Bà H sinh hạ nhiều lần, chỉ có đứa con đầu là toàn vẹn không có gì xảy ra, nhưng qua mấy lần sinh sau đứa con nào cũng đều chết cả. Bà H nghe những lời bô lão trong vùng, làm dấu lên cánh tay đứa con thứ ba để xem thử có phải bà đang bị trường hợp con ranh con lộn không và quả nhiên đến lần sanh kế tiếp trên tay hài nhi mới chào đời có dấu hiệu mà chính người nhà trước đây đã làm dấu ấn lên tay đứa bé trước. Bà mụ lúc đó sợ quá nổi cả da gà. Đứa bé ấy sau đó cũng chỉ sống một thời gian ngắn và qua đời. Cả gia đình bà H lúc bấy giờ biết chắc họ có "con ranh con lộn" nên từ đó lên chùa làm lễ quy y và làm nhiều việc bố thí, mặc dầu ở Quảng Trị ai cũng biết gia đình bà đối xử tốt với mọi người nhưng có lẽ tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp nào đó.
Một câu chuyện có thật khác xảy ra tại Tân Thạnh Đông (Việt Nam) đã một thời làm xôn xao dư luận. Bà Phan Thị Bê, 36 tuổi sinh đứa con đầu lòng mới được 6 tháng thì cháu mất. Không đầy một năm sau, bà Bê lại sanh con thứ hai, lần nầy cháu bé chỉ sống được năm tháng rồi cũng qua đời. Người nhà lo sợ mời thầy cúng nổi tiếng trong vùng đến giải họa vì người chồng của bà Phan Thị Bê nghi rằng vợ mình bị ma quỷ quấy phá. Khi thầy Ròn đến hỏi sự qua sự việc và quan sát tướng cách hài nhi, ông thầy đi đến một kết luận: "đây là con ranh con lộn đích thị rồi!" trước khi đem hài nhi đi chôn cất, thầy Ròn yêu cầu bà Bê để ông lấy một ngón út ở hai bàn tay trái đứa bé làm bằng chứng sau nầy. Thế rồi ông thầy Ròn cáo từ. Bà Phan Thị Bê lại sinh con lần thứ ba và lần nầy cũng ở thời gian rất sớm chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời. Hôm đi sanh, bà Bê và người chồng đều tỏ vẻ lo lắng. Khi đứa bé chào đời, bà Bê đang còn nằm thiêm thiếp thì người chồng đã yêu cầu bà Mụ cho vào xem con và cái mà anh ta muốn xem trước tiên không phải là gương mặt đứa bé mà là bàn tay trái của nó. Các ngón tay từ từ được kéo ra và bất đồ, mặt anh ta tái nhợt vì rõ ràng ngón tay út của đứa bé không có. Nhìn kỹ ngón út như bị teo rút lại tận bàn tay như là vết seo. Bà mụ (tên là Bà Cam) sau khi biết rõ mọi chuyện đã cùng với chồng bà Bê hết lời an ủi vỗ về bà Bê. Lần nầy thầy Ròn lại được mời đến, ông qua sát bàn tay đứa bé và nói một câu như đóng cột: "chuẩn bị áo quan cho nó. Nó sẽ ra đi đúng thời gian mà trước đó nó đã ra đi. Đây chính là con ranh con lộn...)
Quả nhiên sau đó gần 6 tháng, đứa bé không đau không ốm, chỉ sau một lần bị ọc sữa rồi nhắm mắt lìa đời. Ông thầy Ròn khi đó mới lập bàn cúng và làm phép trừ tà. Ông khuyên hai vợ chồng bà Bê tìm một đứa con nuôi và mấy tháng sau bà Bê đã xin được một cháu bé (con lai và chính nhờ đứa con lai nầy mà năm 1988 bà cùng chồng và một đứa con trai tên Long sinh năm 1976 qua Hoa Kỳ đi theo diện con Lai). Sau khi có một đứa con nuôi, vợ chồng bà Bê phần nào đỡ hiu quạnh nhưng trong thâm tâm họ vẫn mong ước có một đứa con chính thức của chính họ. Thế rồi tháng tư năm 1976, bà Bê sinh hạ một cháu trai, lần nầy hai vợ chồng nhẹ hẳn người vì đứa bé có đủ các ngón tay ở cả hai bàn tay. Ông thầy Ròn lại được mời tới hỏi ý kiên tức thì vì nhà ông ở gần đó. Ông thầy Ròn vừa quan sát đứa bé vừa gật gù nói:
"Được rồi! con ranh con lộn không còn phá nữa, nhưng gia đình ông bà phải làm như vầy...", nói xong ông bảo người nhà quấn tã cho đứa bé thật ấm và đem một chiếc chiếu nhỏ xếp làm tư để bên vệ đường gần bụi cây và đặt đứa bé lên chiếu. Một người hàng xóm được yêu cầu đi ngang qua đó nhờ chút việc và bất đồ người nầy thấy hài nhi ai để bên vệ đường. (Dĩ nhiên người nầy sẽ kêu lên và người nhà sẽ mách nước cho người ấy ẵm cháu bé lên để được phước và ngay lúc đó chị Phan Thị Bê đã được ông thầy dặn dò kỹ lưỡng chạy ra xin đứa bé ấy về nuôi). Như thế, dù là con mình cũng vẫn làm như không phải là con. Đây là phương cách mà người xưa thường dùng để mong trừ khử chuyện con ranh con lộn.
Câu chuyện có thật trên đây xảy ra tại Pháp là chứng cớ hiển nhiên về hiện tượng đầu thai quả báo, trong đó còn bàng bạc hiện tượng về con ranh con lộn, một hiện tượng xuất hiện không riêng lẽ ở một quốc gia nào, một hiện tượng có thể gọi là phổ biến. Đối với những nhà nghiên cứu về tiền kiếp và dùng phương pháp của giấc ngủ thôi miên để tìm về quá khứ xa xăm của những kiếp người như ông Cayce thì vấn đề còn có thêm những điểm đáng lưu ý như sau: những linh hồn khi đầu thai thường có sự tự do lựa chọn nào đó vì thế mà một linh hồn sau khi đã chọn cha mẹ làm phương tiện để được tái sinh thì khi đầu thai xong có thể cảm thấy thất vọng nơi gia đình đó nên không còn sự ham sống nữa và dựa vào những cơn đau bệnh bất chợt đến mà đứa trẻ sẽ dễ dàng lìa đời. Đôi khi sự chết yểu của đứa con lại là một lời nhắn nhủ để người làm cha hay mẹ soát xét lại những gì mình đã gây ra từ tiền kiếp để có sự sửa đổi, hoán cải vì sự chết yểu của đứa con là một sự đau thương vô cùng đối với người làm cha mẹ. Nhất là đối với quan niệm dân gian Việt Nam thì khi người mẹ có con chết yểu, điều họ nghĩ đến dễ trả lời cho câu hỏi tại sao họ lại chịu điều bất hạnh là ở tiền kiếp hay ngay trong kiếp hiện tại, có thể họ đã làm điều gì đó không phải và sự khổ đau thể hiện qua sự kiện đứa con chết yểu đã là một cảnh báo đáng lưu tâm và đáng phải sám hối, sửa đổi.
Sự kiện con ranh con lộn không phải chỉ xảy ra vào thời xa xưa mà thật sự như trên đã nói, xảy ra ở muôn nơi và muôn thuở. Ở Anh, ngay tại thành phố Luân Đôn, có một gia đình gọi là gia đình Matthew, suốt bốn năm, người mẹ lần lượt sinh bốn người con và người con nào tới ba tuổi cũng đều lìa bỏ cõi đời cả. Điều kỳ lạ là lần mang thai thứ tư, người mẹ trước khi chuyển bụng, đang mơ màng trong giấc ngủ bỗng nghe có tiếng nói thì thầm bên tai, tiếng nói của một đứa bé: "đây là lần cuối cùng!" và đứa con sinh lần thứ tư nầy đã chết lúc vừa đúng 3 tuổi. Đến lúc có thai lần thứ năm, người mẹ rất lo sợ, nhưng sau khi sanh, bà cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Đứa bé vượt qua giai đoạn ba tuổi và sống mạnh khỏe cho đến tuổi trưởng thành không đau ốm gì cả.
Khi tìm hiểu qua các tài liệu y khoa, người ta không thấy có giải thích nào rõ ràng cho vấn đề nầy và giới y học cho rằng vấn đề người mẹ sinh con liên tiếp trong nhiều năm nhưng những đứa con nầy đều chết sớm là do sự lệch lạc nào đó trong khi chúng thụ tinh. Hoặc có khi người mẹ có mầm bệnh ẩn, lạ, truyền vào người con và đến một thời gian nào đó tác nhân bệnh mới đủ mạnh để làm hại người con. Tuy nhiên đó chỉ là giả thuyết vì cho đến nay y học vẫn còn bế tắc trong sự giải quyết về vấn đề con ranh con lộn nầy. Đồng bào ở Quảng Trị khoảng năm 1934, 1936 thường biết rõ gia đình của họ Trần, người chồng là Trần Vĩnh T. và người vợ là bà Nguyễn thị H. (quê làng Vĩnh Lại, trú tại chợ Sòng). Bà H sinh hạ nhiều lần, chỉ có đứa con đầu là toàn vẹn không có gì xảy ra, nhưng qua mấy lần sinh sau đứa con nào cũng đều chết cả. Bà H nghe những lời bô lão trong vùng, làm dấu lên cánh tay đứa con thứ ba để xem thử có phải bà đang bị trường hợp con ranh con lộn không và quả nhiên đến lần sanh kế tiếp trên tay hài nhi mới chào đời có dấu hiệu mà chính người nhà trước đây đã làm dấu ấn lên tay đứa bé trước. Bà mụ lúc đó sợ quá nổi cả da gà. Đứa bé ấy sau đó cũng chỉ sống một thời gian ngắn và qua đời. Cả gia đình bà H lúc bấy giờ biết chắc họ có "con ranh con lộn" nên từ đó lên chùa làm lễ quy y và làm nhiều việc bố thí, mặc dầu ở Quảng Trị ai cũng biết gia đình bà đối xử tốt với mọi người nhưng có lẽ tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp nào đó.
Một câu chuyện có thật khác xảy ra tại Tân Thạnh Đông (Việt Nam) đã một thời làm xôn xao dư luận. Bà Phan Thị Bê, 36 tuổi sinh đứa con đầu lòng mới được 6 tháng thì cháu mất. Không đầy một năm sau, bà Bê lại sanh con thứ hai, lần nầy cháu bé chỉ sống được năm tháng rồi cũng qua đời. Người nhà lo sợ mời thầy cúng nổi tiếng trong vùng đến giải họa vì người chồng của bà Phan Thị Bê nghi rằng vợ mình bị ma quỷ quấy phá. Khi thầy Ròn đến hỏi sự qua sự việc và quan sát tướng cách hài nhi, ông thầy đi đến một kết luận: "đây là con ranh con lộn đích thị rồi!" trước khi đem hài nhi đi chôn cất, thầy Ròn yêu cầu bà Bê để ông lấy một ngón út ở hai bàn tay trái đứa bé làm bằng chứng sau nầy. Thế rồi ông thầy Ròn cáo từ. Bà Phan Thị Bê lại sinh con lần thứ ba và lần nầy cũng ở thời gian rất sớm chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời. Hôm đi sanh, bà Bê và người chồng đều tỏ vẻ lo lắng. Khi đứa bé chào đời, bà Bê đang còn nằm thiêm thiếp thì người chồng đã yêu cầu bà Mụ cho vào xem con và cái mà anh ta muốn xem trước tiên không phải là gương mặt đứa bé mà là bàn tay trái của nó. Các ngón tay từ từ được kéo ra và bất đồ, mặt anh ta tái nhợt vì rõ ràng ngón tay út của đứa bé không có. Nhìn kỹ ngón út như bị teo rút lại tận bàn tay như là vết seo. Bà mụ (tên là Bà Cam) sau khi biết rõ mọi chuyện đã cùng với chồng bà Bê hết lời an ủi vỗ về bà Bê. Lần nầy thầy Ròn lại được mời đến, ông qua sát bàn tay đứa bé và nói một câu như đóng cột: "chuẩn bị áo quan cho nó. Nó sẽ ra đi đúng thời gian mà trước đó nó đã ra đi. Đây chính là con ranh con lộn...)
Quả nhiên sau đó gần 6 tháng, đứa bé không đau không ốm, chỉ sau một lần bị ọc sữa rồi nhắm mắt lìa đời. Ông thầy Ròn khi đó mới lập bàn cúng và làm phép trừ tà. Ông khuyên hai vợ chồng bà Bê tìm một đứa con nuôi và mấy tháng sau bà Bê đã xin được một cháu bé (con lai và chính nhờ đứa con lai nầy mà năm 1988 bà cùng chồng và một đứa con trai tên Long sinh năm 1976 qua Hoa Kỳ đi theo diện con Lai). Sau khi có một đứa con nuôi, vợ chồng bà Bê phần nào đỡ hiu quạnh nhưng trong thâm tâm họ vẫn mong ước có một đứa con chính thức của chính họ. Thế rồi tháng tư năm 1976, bà Bê sinh hạ một cháu trai, lần nầy hai vợ chồng nhẹ hẳn người vì đứa bé có đủ các ngón tay ở cả hai bàn tay. Ông thầy Ròn lại được mời tới hỏi ý kiên tức thì vì nhà ông ở gần đó. Ông thầy Ròn vừa quan sát đứa bé vừa gật gù nói:
"Được rồi! con ranh con lộn không còn phá nữa, nhưng gia đình ông bà phải làm như vầy...", nói xong ông bảo người nhà quấn tã cho đứa bé thật ấm và đem một chiếc chiếu nhỏ xếp làm tư để bên vệ đường gần bụi cây và đặt đứa bé lên chiếu. Một người hàng xóm được yêu cầu đi ngang qua đó nhờ chút việc và bất đồ người nầy thấy hài nhi ai để bên vệ đường. (Dĩ nhiên người nầy sẽ kêu lên và người nhà sẽ mách nước cho người ấy ẵm cháu bé lên để được phước và ngay lúc đó chị Phan Thị Bê đã được ông thầy dặn dò kỹ lưỡng chạy ra xin đứa bé ấy về nuôi). Như thế, dù là con mình cũng vẫn làm như không phải là con. Đây là phương cách mà người xưa thường dùng để mong trừ khử chuyện con ranh con lộn.
Quả thật
sau đó, cháu bé được mạnh khỏe và hiện nay đang sống tại Hoa Kỳ.
Hiện tượng con ranh con lộn có thể xem như đóng vai trò quan trọng và nổi bật trong vấn đề dấu tích luân hồi. Dù lý luận như thế nào, chứng cớ của sự kiên vẫn rõ ràng. Nhiều người mẹ đã trải qua giai đoạn đau khổ vì vấn đề con ranh con lộn, có người đã qua đời, có người vẫn còn sống, họ là những nhân chứng của sự kiện và trong hiện tại cũng như trong tương lai chắc chắn đã và sẽ còn nhiều trường hợp con ranh con lộn xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Các nhà nghiên cứu về những gì liên quan đến hiện tượng luân hồi cần lưu tâm đến sự kiện nầy. Nếu các dấu tích về các vết sẹo, vết chàm đã được các nhà nghiên cứu như bác sĩ Stevenson, bác sĩ Paricha, Jeffrey Iverson, bác sĩ Morse... cho là quan trọng thì sự kiện con ranh con lộn lại càng quan trọng hơn trong vấn đề chứng minh dấu tích luân hồi.
Theo các nhà nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến cõi chết và hiện tượng luân hồi thì từ lâu, con người đã có thể nhận thấy hình ảnh của quá khứ, của tiền kiếp hay của luân hồi qua nhiều sự kiện. Không phải chỉ sau khi ông Cayce, một người Hoa Kỳ có khả năng nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ và đã giúp hơn hai nghìn người biết được tiền kiếp mình (những điều nầy đã được ghi lại đầy đủ trong cá hồ sơ lưu trữ tại Virginia) thì con người mới bắt đầu tìm hiểu về vấn đề tiền kiếp, thật sự, từ thời cổ đại, qua các sách viết về sự chết gọi là Tử thư của Ai Cập và Tây Tạng thì sự chết, cõi chết và luân hồi liên quan mật thiết với nhau. Ngoài ra từ kiếp nầy qua kiếp khác đôi khi có những dấu tích chưa phai mờ, chẳng khác nào chiếc xe vượt qua một vùng sa mạc thường để lại trên xe lớp cát bám đầy. Vết tích của quá khứ thường nhiều vô kể, và ở dưới nhiều dạng khác nhau.
Bà Alexandra, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng huyền bí ở Tây Tạng có lần hỏi vị trưởng của một Thiền viện về vấn đề liên quan dấu tích luân hồi thì được vị nầy trả lời như sau: "Đôi khi trong sự luân hồi chuyển kiếp, vẫn còn sự liên hệ gần gũi nào đó rất chặt chẽ vì thế có nhiều sự kiện ở kiếp nầy sẽ lưu lại và tiếp nối ở kiếp kế tiếp bằng hình ảnh, dấu vế không nhưng qua những vật sờ nắm được mà đôi khi còn bằng dáng dấp cử chỉ, tánh tình, bệnh tật v.v..."
Như vậy, dấu tích luân hồi còn thể hiện dưới nhiều hình thức.
Hiện tượng con ranh con lộn có thể xem như đóng vai trò quan trọng và nổi bật trong vấn đề dấu tích luân hồi. Dù lý luận như thế nào, chứng cớ của sự kiên vẫn rõ ràng. Nhiều người mẹ đã trải qua giai đoạn đau khổ vì vấn đề con ranh con lộn, có người đã qua đời, có người vẫn còn sống, họ là những nhân chứng của sự kiện và trong hiện tại cũng như trong tương lai chắc chắn đã và sẽ còn nhiều trường hợp con ranh con lộn xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Các nhà nghiên cứu về những gì liên quan đến hiện tượng luân hồi cần lưu tâm đến sự kiện nầy. Nếu các dấu tích về các vết sẹo, vết chàm đã được các nhà nghiên cứu như bác sĩ Stevenson, bác sĩ Paricha, Jeffrey Iverson, bác sĩ Morse... cho là quan trọng thì sự kiện con ranh con lộn lại càng quan trọng hơn trong vấn đề chứng minh dấu tích luân hồi.
Theo các nhà nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến cõi chết và hiện tượng luân hồi thì từ lâu, con người đã có thể nhận thấy hình ảnh của quá khứ, của tiền kiếp hay của luân hồi qua nhiều sự kiện. Không phải chỉ sau khi ông Cayce, một người Hoa Kỳ có khả năng nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ và đã giúp hơn hai nghìn người biết được tiền kiếp mình (những điều nầy đã được ghi lại đầy đủ trong cá hồ sơ lưu trữ tại Virginia) thì con người mới bắt đầu tìm hiểu về vấn đề tiền kiếp, thật sự, từ thời cổ đại, qua các sách viết về sự chết gọi là Tử thư của Ai Cập và Tây Tạng thì sự chết, cõi chết và luân hồi liên quan mật thiết với nhau. Ngoài ra từ kiếp nầy qua kiếp khác đôi khi có những dấu tích chưa phai mờ, chẳng khác nào chiếc xe vượt qua một vùng sa mạc thường để lại trên xe lớp cát bám đầy. Vết tích của quá khứ thường nhiều vô kể, và ở dưới nhiều dạng khác nhau.
Bà Alexandra, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng huyền bí ở Tây Tạng có lần hỏi vị trưởng của một Thiền viện về vấn đề liên quan dấu tích luân hồi thì được vị nầy trả lời như sau: "Đôi khi trong sự luân hồi chuyển kiếp, vẫn còn sự liên hệ gần gũi nào đó rất chặt chẽ vì thế có nhiều sự kiện ở kiếp nầy sẽ lưu lại và tiếp nối ở kiếp kế tiếp bằng hình ảnh, dấu vế không nhưng qua những vật sờ nắm được mà đôi khi còn bằng dáng dấp cử chỉ, tánh tình, bệnh tật v.v..."
Như vậy, dấu tích luân hồi còn thể hiện dưới nhiều hình thức.
|
CHƯƠNG 6
Để Quên
hay Nhớ Lại Kiếp Trước
A. Nếu Có
Luân Hồi, Tại Sao Lại Không Nhớ Tiền Kiếp?
Đây là câu hỏi đã được loài người đặt ra từ lâu khi vấn đề luân hồi được nêu ra. Nếu Luân hồi là có thật thì cho đến nay, nguyên nhân nào đã khiến cho con người nhớ lại hay quên đi cuộc đời trước đó của mình vẫn chưa hoàn toàn được giải thích và chứng minh rõ ràng. Tuy nhiên không phải đó là nguyên nhân để phủ nhận vấn đề luân hồi. Vấn đề luân hồi là một vấn đề sâu xa tế nhị. Từ ngàn xưa, con người đã tìm cách lý giải vấn đề nầy. Trong nhân gian, không hiếm những lời giải thích tại sao lại quên những gì về tiền kiếp. Nếu giả dụ rằng có sự tái sinh thì nhớ lại kiếp trước sẽ gây được biết bao điều phiền toái trở ngại. Một người sinh ra nếu nhớ lại tiền kiếp của họ, người ấy sẽ tìm đến những gì liên quan đến bản thân họ ở quá khứ hơn là hiện tại. Thực tế trên thế gian đã có khá nhiều trường hợp xảy ra. Vì hiện tại họ mới chỉ sinh ra và rất mới lạ đối với những người mà họ nhận là cha, mẹ, anh em, bà con... Một thí dụ dể hiểu là khi một đứa bé ra đời và đến tuổi biết suy nghĩ, nếu đứa bé ấy nhớ lại tiền thân của mình là con của ông A, bà B thì dĩ nhiên khi lớn tình mẫu tử, phụ tử sẽ sống dậy nơi đứa bé và dĩ nhiên nó sẽ tìm đủ mọi cách để gặp lại cha mẹ cũ. Như vậy người mẹ hiện nay của đứa bé sẽ ra sao? sẽ đau đớn khổ sở, buồn rầu biết chừng nào? thí dụ ấy giống như tâm trạng của một cô gái ngày xưa về nhà chồng mà bao nhiêu kỷ niệm đẹp với người yêu dấu đều bỏ lại đằng sau trong khi người mà mình sẽ gọi là chồng thì lại là một người không quen biết do cha mẹ của tiền kiếp thì hình ảnh ấy sẽ lôi cuốn vô cùng không những vì tình cảm rằng buộc mà còn có thể là vì tò mò muốn biết sự thật về kiếp trước của mình ra sao.
Luật luân hồi quả báo quy định rõ ràng con người sẽ phải chuyển sinh qua nhiều kiếp và những gì họ phải trải qua như buồn đau khổ hận, tai nạn hoặc sung sướng hạnh phúc, giàu sang, đều do từ kết quả họ tạo ra từ kiếp trước. Hiện tượng luân hồi được xem như là một định luật. Tuy nhiên luật nầy dễ bị xáo trộn khi con người biết được rõ ràng mỗi kiếp của mình. Những bậc Đại Sư, những vị Cao tăng cũng chưa hẳn biết rõ tiền kiếp của mình. Những bậc Thiền giả có huệ lực cao khi tập trung tư tưởng mới có thể nhớ lại kiếp trước và xem đó như là những biến cố đã xảy ra trong những dòng đời trước đó của mình. Chính Đức Phật Thích Ca khi đang trên đường tìm đạo, vẫn chưa biết được tiền kiếp của mình, mãi đến khi chứng ngộ đạo pháp mới thấy được các kiếp. Nhờ ngài đã đắc được Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh, nhờ đó mà ngài nhớ lại được hàng ngàn tiền kiếp chuyển hóa trong trí như một cuộn phim quay ngược dòng thời gian.
Như vậy, chỉ những bậc siêu phàm mới có khả năng nhớ lại tiền kiếp, còn loài người hầu như tất cả đều chìm đắm trong tăm tối mê mờ không thấy, không biết những gì đã xảy ra ở những tiền kiếp của mình. Chỉ họa huần mới có những trường hợp dị biết lạ lùng như có những đứa bé mới 4, 5 tuổi kể lại tiền kiếp mình hay có người có khả năng khơi dậy những hình ảnh của kiếp trước nơi người khác.
Trong dân gian Việt Nam ta thường nghe kể lại chuyện những người chết đi sống lại kể các chuyện thác vào Địa Ngục. Những linh hồn nầy trước khi đi qua chiếc cầu khủng khiếp để đến chốn Diêm phù, họ đều được quỉ sứ cho ăn cháo. Cháo nầy gọi là Cháo Lú. Công dụng chính của Cháo Lú là để linh hồn người chết quên hết những gì về quá khứ của đời mình để dễ dàng cho việc đầu thai sau nầy, vì nếu không thì những linh hồn ấy vẫn còn mang nặng những nhớ thương tiếc nuối về cảnh cũ, người xưa, tình ruột thịt, máu mủ giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái khiến lúc tái sinh luân hồi, họ lại tìm đến những gì liên hệ với tiền kiếp. Điều đó làm khó khăn trở ngại cho sự trả quả trong lần đầu thai lại nầy và cả những lần chuyển sinh khác nữa.
Câu chuyện truyền khẩu trong dân gian ấy nói lên phần nào sự quên đi tiền kiếp của mỗi người khi họ đầu thai. Tuy nhiên, như đã nói từ trên, từ cổ đại cho đến nay vẫn không hiếm những người có khả năng nhiều ít về sự nhớ lại những gì trong quá khứ. Trên thế gian có nhiều người có trí nhớ siêu đẳng và cao hơn nữa, có người có khả năng nhớ lại tiền kiếp như đã trình bày từ trước. Từ lâu, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm thần như Freud, Jerome Kegan, Emest Havemann. William C.L.C. Macleod, Kripke.D.F.,Simons R.N... đều cho biết rằng tiềm thức là cái thâm sâu vi diệu nhất thuộc về lãnh vực tinh thần ở con người. Họ cố gắng nghiên cứu tìm hiểu những vùng sâu thẳm của tiềm thức, vì kinh nghiệm cho thấy, qua giấc mơ nhiều người đã quay về thời kỳ ấu thơ của mình rất rõ ràng tự nhiên như đang xem qua một cuốn album dán ảnh của họ chụp vào những giai đoạn từ ấu thơ đến khôn lớn. Những hình ảnh ấy vô cùng linh hoạt và rất chi tiết cả từ hình ảnh, màu sắc, cử chỉ, môi trường, sự việc xảy ra. Như thế rõ ràng là ở trong bộ não đã có những vùng giữ lại ký ức của mọi việc đã xảy ra từ lúc con người sinh ra. Theo nhà nghiên cứu nổi danh về vấn đề nầy là Hidtoring Tan thì trí nhớ được giữ lại trong những phân tử protein của tế bào não. Nếu có một năng lực nào làm khởi động các phân tử ấy thì các ký ức sẽ được phục hồi rõ nét. Từ lâu phương pháp thôi miên được áp dụng để làm khơi dậy những hình ảnh của quá khứ ấn nhập trong những vùng sâu thẳm của bộ não. Nếu khả năng của thuật thôi miên mạnh mẽ hơn nữa thì những hình ảnh của quá khứ xa xăm của một đời người sẽ hiện ra rõ rệt trong trí nhớ người đó và xa hơn nữa là tiền kiếp của người ấy. Nhiều thắc mắc về hình ảnh của tiền kiếp từ lâu đã được đưa ra. Người ta tự hỏi rằng tại sao trong bộ não một người lạ lại có tích chứa những hình ảnh của tiền kiếp trog khi người ấy sinh ra và lớn lên rồi già chết, bộ não ấy của một đời người lại ghi nhận những dữ kiện xảy ra từ những đời trước đó?
Trường hợp cần nhắc rằng từ lâu, các nhà nghiên cứu về óc não đã quan tâm đến vấn đề là bộ não con người là một thế giới lạ lùng mà sinh vật học mới lần bước vào một vài đoạn đường của nó mà thôi. Ngày nay, các nhà khoa học nhận thấy rằng từ lúc con người ra sinh ra cho đến khi họ qua đời, dù người ấy sống đến 100 tuổi đi nữa thì họ cũng chỉ tiêu thụ có một phần mười năng lực của bộ não. Vậy còn chín phần kia vẫn chưa dùng tới là bởi nguyên nhân nào? Phải chăng những phần kia còn tích chứa trong ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa. Chỉ khi nào có được sự kích động, khêu gợi do nguyên động lực nào đo mà làm phát sinh như sự thôi miên chẳng hạn thì những ký ức ấy mới lột rõ. Đôi khi những hình ảnh, sự việc xảy ra trùng hợp với những hình ảnh trong quá khứ xa xăm của tiền kiếp cũng khích động được.
Điều nầy giải thích sâu xa hơn những trường hợp vì sao có người thầy cái bánh xe lại khiếp sợ vì trước đó hay từ tiền kiếp họ đã bị một tai nạn khủng khiếp có liên hệ tới bánh xe như bị tra tấn bằng bánh xe, bị bánh xe cán qua người. Nhiều người đôi khi khủng hoảng sợ trước một vài, thứ như sợi dây, nhánh cây, con mèo, hoặc có khi sợ nước, sợ màu đen, sợ tiếng còi... là những thứ xét ra không có gì phải đáng hoảng sợ. Nhưng theo khoa tâm lý học thì sự hoảng sợ ấy đều có nguyên nhân vì có thể trước đó những thứ ấy đã là nguyên nhân gây nên những sự việc hệ trọng, đôi khi nguy hiểm tạo đe dọa trong quá khứ và hình ảnh ấy ăn sâu trong tiềm thức cho đến khi được khơi dậy lại từ những sự vật, hiện tượng liên quan.
Theo ông Edgar Cayce (người có khả năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác) thì mỗi người đều tích trữ trong bộ não mình những ký úc tiềm tàng từ tiền kiếp. Qua nhiều kiếp, mỗi người đã trải qau những giai đoạn phức tạp khác nhau và đôi khi những hình ảnh trong ký ức ấy được hiện ra trở lại qua nhiều tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ hay những hình ảnh khi đang thức hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi được kích động qua giấc ngủ thôi miên. Tiến sĩ Igo Xamolvich Lixevich (Nga Xô), nhà nghiên cứu về triết học Đông phương đã ghi nhân rằng:
"Không riêng gì ở các nước Đông Phương huyền bí mà ngay ở các nước Âu Châu và Mỹ Châu, đâu đâu cũng có những trường hợp lạ kỳ mà cho đến nay giới khoa học vẫn chưa giải thích được".
Nhiều người, nhất là con trẻ đã kể lại quãng đời về tiền kiếp của họ.
Các nhà khoa học hiện nay chỉ mới dựa vào các gen di truyền ở các nhiễm sắc thể trong tế bào và gọi từ trí nhớ gen hoặc giải thích qua hiện tượng tiềm thức là những gì mà ý thức con người không kiểm soát nổi hoặc qua những hình ảnh hay câu chuyện ngẫu nhiên nào đó để rồi tích tụ lại trong tiềm thức và khi gặp điều kiện hay bất chợt phát sinh vì ột tác đông của một sự thúc đẩy nào đó về tâm lý. Riêng đối với các nhà nghiên cứu siêu linh thì có một lý luận cho rằng: cái gọi là hồn của một chết nào đó đã nhập vào một người hác và nếu bị hồn khác xâm nhập lại yếu về năng lực tinh thần lẫn thể xác thì khi đó sẽ bị hồn mới nhập khống chế về điều trước tiên là kích động việc nhớ lại cuộc đời của người khác. Thật sự cho đến nay, vấn đề vẫn chưa được sự giải thích rõ ràng.
Đây là câu hỏi đã được loài người đặt ra từ lâu khi vấn đề luân hồi được nêu ra. Nếu Luân hồi là có thật thì cho đến nay, nguyên nhân nào đã khiến cho con người nhớ lại hay quên đi cuộc đời trước đó của mình vẫn chưa hoàn toàn được giải thích và chứng minh rõ ràng. Tuy nhiên không phải đó là nguyên nhân để phủ nhận vấn đề luân hồi. Vấn đề luân hồi là một vấn đề sâu xa tế nhị. Từ ngàn xưa, con người đã tìm cách lý giải vấn đề nầy. Trong nhân gian, không hiếm những lời giải thích tại sao lại quên những gì về tiền kiếp. Nếu giả dụ rằng có sự tái sinh thì nhớ lại kiếp trước sẽ gây được biết bao điều phiền toái trở ngại. Một người sinh ra nếu nhớ lại tiền kiếp của họ, người ấy sẽ tìm đến những gì liên quan đến bản thân họ ở quá khứ hơn là hiện tại. Thực tế trên thế gian đã có khá nhiều trường hợp xảy ra. Vì hiện tại họ mới chỉ sinh ra và rất mới lạ đối với những người mà họ nhận là cha, mẹ, anh em, bà con... Một thí dụ dể hiểu là khi một đứa bé ra đời và đến tuổi biết suy nghĩ, nếu đứa bé ấy nhớ lại tiền thân của mình là con của ông A, bà B thì dĩ nhiên khi lớn tình mẫu tử, phụ tử sẽ sống dậy nơi đứa bé và dĩ nhiên nó sẽ tìm đủ mọi cách để gặp lại cha mẹ cũ. Như vậy người mẹ hiện nay của đứa bé sẽ ra sao? sẽ đau đớn khổ sở, buồn rầu biết chừng nào? thí dụ ấy giống như tâm trạng của một cô gái ngày xưa về nhà chồng mà bao nhiêu kỷ niệm đẹp với người yêu dấu đều bỏ lại đằng sau trong khi người mà mình sẽ gọi là chồng thì lại là một người không quen biết do cha mẹ của tiền kiếp thì hình ảnh ấy sẽ lôi cuốn vô cùng không những vì tình cảm rằng buộc mà còn có thể là vì tò mò muốn biết sự thật về kiếp trước của mình ra sao.
Luật luân hồi quả báo quy định rõ ràng con người sẽ phải chuyển sinh qua nhiều kiếp và những gì họ phải trải qua như buồn đau khổ hận, tai nạn hoặc sung sướng hạnh phúc, giàu sang, đều do từ kết quả họ tạo ra từ kiếp trước. Hiện tượng luân hồi được xem như là một định luật. Tuy nhiên luật nầy dễ bị xáo trộn khi con người biết được rõ ràng mỗi kiếp của mình. Những bậc Đại Sư, những vị Cao tăng cũng chưa hẳn biết rõ tiền kiếp của mình. Những bậc Thiền giả có huệ lực cao khi tập trung tư tưởng mới có thể nhớ lại kiếp trước và xem đó như là những biến cố đã xảy ra trong những dòng đời trước đó của mình. Chính Đức Phật Thích Ca khi đang trên đường tìm đạo, vẫn chưa biết được tiền kiếp của mình, mãi đến khi chứng ngộ đạo pháp mới thấy được các kiếp. Nhờ ngài đã đắc được Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh, nhờ đó mà ngài nhớ lại được hàng ngàn tiền kiếp chuyển hóa trong trí như một cuộn phim quay ngược dòng thời gian.
Như vậy, chỉ những bậc siêu phàm mới có khả năng nhớ lại tiền kiếp, còn loài người hầu như tất cả đều chìm đắm trong tăm tối mê mờ không thấy, không biết những gì đã xảy ra ở những tiền kiếp của mình. Chỉ họa huần mới có những trường hợp dị biết lạ lùng như có những đứa bé mới 4, 5 tuổi kể lại tiền kiếp mình hay có người có khả năng khơi dậy những hình ảnh của kiếp trước nơi người khác.
Trong dân gian Việt Nam ta thường nghe kể lại chuyện những người chết đi sống lại kể các chuyện thác vào Địa Ngục. Những linh hồn nầy trước khi đi qua chiếc cầu khủng khiếp để đến chốn Diêm phù, họ đều được quỉ sứ cho ăn cháo. Cháo nầy gọi là Cháo Lú. Công dụng chính của Cháo Lú là để linh hồn người chết quên hết những gì về quá khứ của đời mình để dễ dàng cho việc đầu thai sau nầy, vì nếu không thì những linh hồn ấy vẫn còn mang nặng những nhớ thương tiếc nuối về cảnh cũ, người xưa, tình ruột thịt, máu mủ giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái khiến lúc tái sinh luân hồi, họ lại tìm đến những gì liên hệ với tiền kiếp. Điều đó làm khó khăn trở ngại cho sự trả quả trong lần đầu thai lại nầy và cả những lần chuyển sinh khác nữa.
Câu chuyện truyền khẩu trong dân gian ấy nói lên phần nào sự quên đi tiền kiếp của mỗi người khi họ đầu thai. Tuy nhiên, như đã nói từ trên, từ cổ đại cho đến nay vẫn không hiếm những người có khả năng nhiều ít về sự nhớ lại những gì trong quá khứ. Trên thế gian có nhiều người có trí nhớ siêu đẳng và cao hơn nữa, có người có khả năng nhớ lại tiền kiếp như đã trình bày từ trước. Từ lâu, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm thần như Freud, Jerome Kegan, Emest Havemann. William C.L.C. Macleod, Kripke.D.F.,Simons R.N... đều cho biết rằng tiềm thức là cái thâm sâu vi diệu nhất thuộc về lãnh vực tinh thần ở con người. Họ cố gắng nghiên cứu tìm hiểu những vùng sâu thẳm của tiềm thức, vì kinh nghiệm cho thấy, qua giấc mơ nhiều người đã quay về thời kỳ ấu thơ của mình rất rõ ràng tự nhiên như đang xem qua một cuốn album dán ảnh của họ chụp vào những giai đoạn từ ấu thơ đến khôn lớn. Những hình ảnh ấy vô cùng linh hoạt và rất chi tiết cả từ hình ảnh, màu sắc, cử chỉ, môi trường, sự việc xảy ra. Như thế rõ ràng là ở trong bộ não đã có những vùng giữ lại ký ức của mọi việc đã xảy ra từ lúc con người sinh ra. Theo nhà nghiên cứu nổi danh về vấn đề nầy là Hidtoring Tan thì trí nhớ được giữ lại trong những phân tử protein của tế bào não. Nếu có một năng lực nào làm khởi động các phân tử ấy thì các ký ức sẽ được phục hồi rõ nét. Từ lâu phương pháp thôi miên được áp dụng để làm khơi dậy những hình ảnh của quá khứ ấn nhập trong những vùng sâu thẳm của bộ não. Nếu khả năng của thuật thôi miên mạnh mẽ hơn nữa thì những hình ảnh của quá khứ xa xăm của một đời người sẽ hiện ra rõ rệt trong trí nhớ người đó và xa hơn nữa là tiền kiếp của người ấy. Nhiều thắc mắc về hình ảnh của tiền kiếp từ lâu đã được đưa ra. Người ta tự hỏi rằng tại sao trong bộ não một người lạ lại có tích chứa những hình ảnh của tiền kiếp trog khi người ấy sinh ra và lớn lên rồi già chết, bộ não ấy của một đời người lại ghi nhận những dữ kiện xảy ra từ những đời trước đó?
Trường hợp cần nhắc rằng từ lâu, các nhà nghiên cứu về óc não đã quan tâm đến vấn đề là bộ não con người là một thế giới lạ lùng mà sinh vật học mới lần bước vào một vài đoạn đường của nó mà thôi. Ngày nay, các nhà khoa học nhận thấy rằng từ lúc con người ra sinh ra cho đến khi họ qua đời, dù người ấy sống đến 100 tuổi đi nữa thì họ cũng chỉ tiêu thụ có một phần mười năng lực của bộ não. Vậy còn chín phần kia vẫn chưa dùng tới là bởi nguyên nhân nào? Phải chăng những phần kia còn tích chứa trong ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa. Chỉ khi nào có được sự kích động, khêu gợi do nguyên động lực nào đo mà làm phát sinh như sự thôi miên chẳng hạn thì những ký ức ấy mới lột rõ. Đôi khi những hình ảnh, sự việc xảy ra trùng hợp với những hình ảnh trong quá khứ xa xăm của tiền kiếp cũng khích động được.
Điều nầy giải thích sâu xa hơn những trường hợp vì sao có người thầy cái bánh xe lại khiếp sợ vì trước đó hay từ tiền kiếp họ đã bị một tai nạn khủng khiếp có liên hệ tới bánh xe như bị tra tấn bằng bánh xe, bị bánh xe cán qua người. Nhiều người đôi khi khủng hoảng sợ trước một vài, thứ như sợi dây, nhánh cây, con mèo, hoặc có khi sợ nước, sợ màu đen, sợ tiếng còi... là những thứ xét ra không có gì phải đáng hoảng sợ. Nhưng theo khoa tâm lý học thì sự hoảng sợ ấy đều có nguyên nhân vì có thể trước đó những thứ ấy đã là nguyên nhân gây nên những sự việc hệ trọng, đôi khi nguy hiểm tạo đe dọa trong quá khứ và hình ảnh ấy ăn sâu trong tiềm thức cho đến khi được khơi dậy lại từ những sự vật, hiện tượng liên quan.
Theo ông Edgar Cayce (người có khả năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác) thì mỗi người đều tích trữ trong bộ não mình những ký úc tiềm tàng từ tiền kiếp. Qua nhiều kiếp, mỗi người đã trải qau những giai đoạn phức tạp khác nhau và đôi khi những hình ảnh trong ký ức ấy được hiện ra trở lại qua nhiều tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ hay những hình ảnh khi đang thức hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi được kích động qua giấc ngủ thôi miên. Tiến sĩ Igo Xamolvich Lixevich (Nga Xô), nhà nghiên cứu về triết học Đông phương đã ghi nhân rằng:
"Không riêng gì ở các nước Đông Phương huyền bí mà ngay ở các nước Âu Châu và Mỹ Châu, đâu đâu cũng có những trường hợp lạ kỳ mà cho đến nay giới khoa học vẫn chưa giải thích được".
Nhiều người, nhất là con trẻ đã kể lại quãng đời về tiền kiếp của họ.
Các nhà khoa học hiện nay chỉ mới dựa vào các gen di truyền ở các nhiễm sắc thể trong tế bào và gọi từ trí nhớ gen hoặc giải thích qua hiện tượng tiềm thức là những gì mà ý thức con người không kiểm soát nổi hoặc qua những hình ảnh hay câu chuyện ngẫu nhiên nào đó để rồi tích tụ lại trong tiềm thức và khi gặp điều kiện hay bất chợt phát sinh vì ột tác đông của một sự thúc đẩy nào đó về tâm lý. Riêng đối với các nhà nghiên cứu siêu linh thì có một lý luận cho rằng: cái gọi là hồn của một chết nào đó đã nhập vào một người hác và nếu bị hồn khác xâm nhập lại yếu về năng lực tinh thần lẫn thể xác thì khi đó sẽ bị hồn mới nhập khống chế về điều trước tiên là kích động việc nhớ lại cuộc đời của người khác. Thật sự cho đến nay, vấn đề vẫn chưa được sự giải thích rõ ràng.
Vai Trò Của
Thôi Miên Trong Vấn Đề Nhớ Lại Tiền Kiếp
Như thôi
miên được hiểu là những tác động để đưa một người nào đi vào giấc ngủ nhưng giấc
ngủ nầy có vẻ khác thường vì người ngủ ấy không ở vào trạng thái ngủ của giấc
ngủ tự nhiên bình thường mà thể hiện ở trạng thái vô cùng đặc biệt như đang đi
vào cõi thế giới xa lạ nào đó, hoặc thấy những sự việc của quá khứ hay tương
lai. Tuy ngủ nhưng người ấy vẫn thấy và vẫn nghe tất cả những gì diễn biến
trong giấc ngủ. Thôi miên vì thế được nhiều người hiểu như là một trạng thái xuất
hồn và người đi vào giấc ngủ thôi miên đôi khi thấy được những sự việc ngoài tầm
mắt của họ.
Có người tự mình có thể làm cho mình tự đi vào giấc ngủ thôi miên. Tuy nhiên trường hợp ấy rất hiếm như trường hợp ông Edgar Cayce, người có khả năng lạ lùng về lãnh vực nầy. Còn phần lớn đều phải tập luyện kiên trì và phải có cái thiên tư, năng khiếu hay "điện lực" nào đó. Cũng có người, mà phần lớn đều phải được những người có khả năng như đã nói ở trên đưa mình vào giấc ngủ thôi miên. Người nổi danh về lãnh vực thôi miên là nhà nghiên cứu De Puységur (năm 1784). Nhưng khoa thôi miên đã thật sự phát triển, được lưu ý và công nhận là một sức mạnh của tinh thần torng khoa tâm lý học, thôi miên đã đi hẳn vào ngành y khoa và là một lợi khí vô cùng quan trọng trong phép tìm bệnh, chữa bệnh.
Từ xưa, các nhà y học, đã lưu tâm đến hiện tượng thôi miên, một hiện tượng liên quan đến tâm sinh lý, một hiện tượng cao siêu trong lãnh vực tinh thần. Đó là một năng lượng tinh thần có sức mạnh lạ kỳ trong phép trị liệu những bệnh thuộc lãnh vực tinh thần. Từ bác sĩ Petétin (1808) đến bác sĩ Braid đều chú trọng đến khoa thôi miên. Trước đó khoảng 300 năm, khoa thôi miên cũng đã được dùng để truy tầm nguyên nhân của tật bệnh. Về sau, bác sĩ Berheim đã chứng minh rõ ràng về khả năng của phương thức chữa bệnh và tìm bệnh nhờ thôi miên. Nhà vật lý học nổi tiếng Pháp là Patrick Drouot đã áp dụng phương thức thôi miên để trị bệnh và truy tìm bệnh.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu về thôi miên cho thấy rằng khoa thôi miên có khả năng khơi dậy những gì thuộc về ký ức tiềm ẩn về những quá khứ xa xăm mà trí nhớ của con người bình thường không thể nhớ lại được. Ngày xưa, các nhà y học và tâm lý học ứng dụng sự kiện nầy vào việc chữa bệnh tâm thần. Họ truy nguyên do đâu làm phát sinh sự điên loạn, lo sợ, sầu bi, uẩn khúc, rối loạn tâm trí ở con người. Dần dần, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra được một điều mới mẻ kỳ lạ khác là đôi khi trong giấc ngủ thôi miên, con người còn có khả năng kể lại những hình ảnh lúc còn bé mà trước cả thời gian đó. Như vậy ý nghĩa sâu xa hơn nữa chính là tiền kiếp của người đó. Nữ bác sĩ Hoa Kỳ nổi danh chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên để khơi dậy tiền kiếp là bà Edith Fiore. Bà Helen Wambach là nữ tiến sĩ, chuyên nghiên cứu về vấn đề luân hồi tái sinh cũng đã áp dụng phương pháp thôi miên để đưa người bệnh nhớ lại tiền kiếp.
Bác sĩ Alexander Cannon là một nhà nghiên cứu về bệnh lý liên hệ tới hiện tượng tâm lý đã khẳng định rằng: trước đây ông còn nghi ngờ về vấn đề liên quan đến hiện tượng tái sinh và nhất là những gì đã xảy ra trong quá khứ xa xăm của kiếp người đó nhưng về sau, qua hàng nghìn trường hợp được nghiên cứu cẩn thận ông không còn thấy mối nghi ngờ nào nữa về tác dụng của khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy tiềm năng của trí nhớ về những hình ảnh của tiền kiếp.
Các nhà nghiên cứu thôi miên cho biết não bộ con người được xem như là một máy phát điện hay một bình ắc quy. Đồng thời cũng là một bộ máy thu luồng sóng điện. Khi muốn đạt kết quả của thuật thôi miên, cần tập trung ở vùng trung tâm của sự tập trung tư tưởng hay chú ý. Người Ấn Độ từ xưa đã biết rõ điểm tập trung nầy. Điểm nầy được đánh dấu rõ ràng giữa 2 chân mày, thường người Ấn hay tạo một chấm đỏ ở trán nằm ngay ở điểm tập trung nầy.
Hiện việc áp dụng khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy quá khứ đã và đang được phát triển khắp nơi trên thế giới. Các cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và trị liệu các loại bệnh thuộc nan y đang được mở ra ở nhiều nơi do các nhà nghiên cứu về thôi miên kết hợp với các nhà tâm lý ọc và y, bác sĩ. Cũng từ đó, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh đã bắt đầu vững tin vào những gì mà từ lâu họ đang lần bước tìm hiểu: đó là hiện tượng nhớ lại tiền kiếp của mỗi người.
Có người tự mình có thể làm cho mình tự đi vào giấc ngủ thôi miên. Tuy nhiên trường hợp ấy rất hiếm như trường hợp ông Edgar Cayce, người có khả năng lạ lùng về lãnh vực nầy. Còn phần lớn đều phải tập luyện kiên trì và phải có cái thiên tư, năng khiếu hay "điện lực" nào đó. Cũng có người, mà phần lớn đều phải được những người có khả năng như đã nói ở trên đưa mình vào giấc ngủ thôi miên. Người nổi danh về lãnh vực thôi miên là nhà nghiên cứu De Puységur (năm 1784). Nhưng khoa thôi miên đã thật sự phát triển, được lưu ý và công nhận là một sức mạnh của tinh thần torng khoa tâm lý học, thôi miên đã đi hẳn vào ngành y khoa và là một lợi khí vô cùng quan trọng trong phép tìm bệnh, chữa bệnh.
Từ xưa, các nhà y học, đã lưu tâm đến hiện tượng thôi miên, một hiện tượng liên quan đến tâm sinh lý, một hiện tượng cao siêu trong lãnh vực tinh thần. Đó là một năng lượng tinh thần có sức mạnh lạ kỳ trong phép trị liệu những bệnh thuộc lãnh vực tinh thần. Từ bác sĩ Petétin (1808) đến bác sĩ Braid đều chú trọng đến khoa thôi miên. Trước đó khoảng 300 năm, khoa thôi miên cũng đã được dùng để truy tầm nguyên nhân của tật bệnh. Về sau, bác sĩ Berheim đã chứng minh rõ ràng về khả năng của phương thức chữa bệnh và tìm bệnh nhờ thôi miên. Nhà vật lý học nổi tiếng Pháp là Patrick Drouot đã áp dụng phương thức thôi miên để trị bệnh và truy tìm bệnh.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu về thôi miên cho thấy rằng khoa thôi miên có khả năng khơi dậy những gì thuộc về ký ức tiềm ẩn về những quá khứ xa xăm mà trí nhớ của con người bình thường không thể nhớ lại được. Ngày xưa, các nhà y học và tâm lý học ứng dụng sự kiện nầy vào việc chữa bệnh tâm thần. Họ truy nguyên do đâu làm phát sinh sự điên loạn, lo sợ, sầu bi, uẩn khúc, rối loạn tâm trí ở con người. Dần dần, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra được một điều mới mẻ kỳ lạ khác là đôi khi trong giấc ngủ thôi miên, con người còn có khả năng kể lại những hình ảnh lúc còn bé mà trước cả thời gian đó. Như vậy ý nghĩa sâu xa hơn nữa chính là tiền kiếp của người đó. Nữ bác sĩ Hoa Kỳ nổi danh chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên để khơi dậy tiền kiếp là bà Edith Fiore. Bà Helen Wambach là nữ tiến sĩ, chuyên nghiên cứu về vấn đề luân hồi tái sinh cũng đã áp dụng phương pháp thôi miên để đưa người bệnh nhớ lại tiền kiếp.
Bác sĩ Alexander Cannon là một nhà nghiên cứu về bệnh lý liên hệ tới hiện tượng tâm lý đã khẳng định rằng: trước đây ông còn nghi ngờ về vấn đề liên quan đến hiện tượng tái sinh và nhất là những gì đã xảy ra trong quá khứ xa xăm của kiếp người đó nhưng về sau, qua hàng nghìn trường hợp được nghiên cứu cẩn thận ông không còn thấy mối nghi ngờ nào nữa về tác dụng của khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy tiềm năng của trí nhớ về những hình ảnh của tiền kiếp.
Các nhà nghiên cứu thôi miên cho biết não bộ con người được xem như là một máy phát điện hay một bình ắc quy. Đồng thời cũng là một bộ máy thu luồng sóng điện. Khi muốn đạt kết quả của thuật thôi miên, cần tập trung ở vùng trung tâm của sự tập trung tư tưởng hay chú ý. Người Ấn Độ từ xưa đã biết rõ điểm tập trung nầy. Điểm nầy được đánh dấu rõ ràng giữa 2 chân mày, thường người Ấn hay tạo một chấm đỏ ở trán nằm ngay ở điểm tập trung nầy.
Hiện việc áp dụng khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy quá khứ đã và đang được phát triển khắp nơi trên thế giới. Các cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và trị liệu các loại bệnh thuộc nan y đang được mở ra ở nhiều nơi do các nhà nghiên cứu về thôi miên kết hợp với các nhà tâm lý ọc và y, bác sĩ. Cũng từ đó, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh đã bắt đầu vững tin vào những gì mà từ lâu họ đang lần bước tìm hiểu: đó là hiện tượng nhớ lại tiền kiếp của mỗi người.
Tuổi Tác
Và Khả Năng Nhớ Lại Tiền Kiếp
Như vậy,
những gì gọi... là tiềm thức, là hình ảnh và trí nhớ trong tiền kiếp là điều không thể chối cãi. Từ đó vấn đề mỗi con người không thể nhớ
lại tiền kiếp mình cũng được các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi giải
thích như sau:
Ngay trong mỗi con người của chúng ta đôi khi cũng thường bị quên trong cả những việc vừa làm chớ không riêng gì những điều đã xảy ra từ tấm bé, có người tự hào mình nhớ hết những gì xảy ra hồi còn bé nhưng thật sự chỉ nhớ những hình ảnh và sự việc đại cương mà thôi chớ không thể nào nhớ chi tiết từng ngày từng giờ từng tháng từng năm cùng với mọi sự việc xảy ra. Theo các nhà não sinh học thì sự quên là điều rất cần thiết vì bộ não cũng cần được nghỉ ngơi. Não là một thư viện khổng lồ lưu trữ biết bao nhiêu sách vở và tài liệu của ký ức con người, mỗi giây, mỗi phút mỗi ngày, mỗi giờ đều có những hình ảnh, sự kiện khác được thu nhận, những gì trước đó phải được cho vào sâu trong tiềm thức sẽ là ký ức để dành chỗ cho những sự kiện khác đến. Vì thế sự quên đi là điều hiển nhiên. Chỉ khi nào cần đến hoặc được khơi dậy thì chúng mới hiện ra, vậy sự quên không có nghĩa là mất hẳn và sự quên nên được hiểu như một cuốn sách đang để vào sâu trong một ngăn nào đó của hộc tủ thư viện mà thôi. Từ lập luận đó ta mới thấy được tại sao con người không nhớ lại được tiền kiếp của mình, nhất là những hình ảnh, sự kiện lại xảy ra ở một thời gian quá xa.
Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu về trí nhớ thì khả năng nhớ lại của con người về những gì đã xảy ra thường thay đổi theo tuổi tác, thông thường người ta cứ tưởng rằng người già có trí nhớ phi thường. Thật ra, theo Jidith Randal và Steven Ferris, David Krech... thì người già thường nhớ rất lâu về tình cảm trong đời, nhất là tài năng của họ. Nguyên nhân chính là do sự nuối tiếc, luyến lưu. Nhưng thật sự trí nhớ ấy chỉ là tổng quát, đại cương chớ không sâu sắc. Cũng theo các nhà nghiên cứu nầy thì vào khoảng tuổi từ 50 đến 60, con người thường dễ quên và khó có được trí nhớ tốt lành. Đôi khi họ còn dễ quên ngay cả những việc mới xảy ra trong một thời gian ngắn thôi. Y học gọi đó là sự suy thoái về trí nhớ liên hệ tới tuổi (Age Associated Memory Impairment (AAMI).
Ngược lại đối với người tuổi trẻ, nhất là con trẻ, bộ óc lại có khả năng phát triển về trí nhớ rất mạnh. Điều nầy phù hợp với việc nghiên cứu và khám phá của giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson khi ông tìm hiểu về vấn đề Luân Hồi Tái Sinh qua con trẻ. Nhà khoa học nầy đã nghiên cứu qua hàng ngàn trường hợp về hiện tượng con người nhớ lại tiền kiếp của mình cũng như các nhà nghiên cứu John Van Auken, Shelley, Violet, Cerminara, Gina, Sparrow, Lynn... đã lưu tâm. Theo tiến sĩ Stevenson thì con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp của chúng rất lớn, bộ óc chúng có ưu điểm và trong thời kỳ thanh xuân tươi trẻ ấy có thể tự động tạo nên những hình ảnh kéo về từ quá khứ xa xăm (ở đây phải là tiền kiếp vì đối với trẻ con, 4, 5 tuổi quả thật chưa có quá khứ nếu xét theo đời hiện đại của nó) nhất là khi chúng gặp được những hình ảnh, sự kiện liên quan nào đó. Qua các tài liệu thu thập được từ năm 1960 trở về sau, tiến sĩ Stevenson đã có được một số lớn sự kiện lạ lùng phát sinh từ con trẻ khi chúng tự nhiên kể lại hay bộc lộ những gì liên quan đến tiền kiếp của chúng. Những trẻ con nầy thường chỉ ở khoảng 4, 5 tuổi mà thôi. Ở lứa tuổi mà khi xét đến cử chỉ, lời nói, sự nhận thức hay khả năng thì quả là không thể có được. Nhiều trường hợp lạ lùng nhưng có thật đã xảy ra qua các tài liệu mà tiến sĩ Stevenson đã thu thập được như em bé Duminda 6 tuổi ở làng Kandy (Sri Lanka), bé Thusitha, bé Tatu, hay bé người Thổ Nhĩ Kỳ... những em bé nầy đã kể lại tiền kiếp của mình ra sao, cha mẹ mình là ai, đã qua đời vì nguyên nhân nào... và kỳ dị hơn nữa là những em bé nầy đã cho thấy những bằng cớ chính xác rõ ràng về những gì mà chúng đã kể đến.
Trong vòng mấy mươi năm qua, vấn đề con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp đã được xem như là vấn đề có cơ sở khoa học chớ không còn là chuyện mê tín huyền hoặc nữa. Tuy nhiên có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên từ xưa chưa có nhiều người, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và cổ xướng rộng rãi. Mãi về sau mới có một số nhân vật nổi danh như bác sĩ Melvin More, nữ giáo sư Diane Komp và đáng lưu ý hơn cả là giáo sư, bác sĩ Ian Stevenson thuộc đại học Virginia (Hoa Kỳ), là người đã bỏ ra một thời gian dài để nghiên cứu về các trường hợp thuộc hiện tượng luân hồi tái sinh (Reicarnation) từ các con trẻ. Giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson còn là nhà tâm sinh lý nổi tiếng ở đại học Charlottes Ville. Ôâng đã nghiên cứu 10.623 trường hợp có liên đến hiện tượng luân hồi, tái sinh trong đó có khoảng 40 trường hợp đầu thai xảy ra tại nước Pháp và một số rất lớn trường hợp đầu thai xuất hiện ở Ấn Độ. Ngoài những trường hợp xác nhận hiện tượng tự nhiên ngoại thể, ông còn kiểm tra qua các cuộc giải phẫu và mổ tử thi tại bệnh viện và nhờ đó mà có thể xác nghiệm được nhiều trường hợp lạ lùng về tiền kiếp như đương sự có dấu vết bẩm sinh trên cơ thể tương ứng với những gì đã xảy ra trong kiếp trước.
Có hơn 2500 trẻ con nhớ lại những gì của thời quá vãng, cái thời mà với lứa tuổi hiện tại của chúng (có trẻ chỉ mới 4, 5 tuổi) người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa, có nghĩa rằng phải dùng tới chữ Kiếp Trước của chúng. Hơn nữa những gì mà các em bé nầy nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với hoàn cảnh và thời gian mà chúng đang sống ở hiện tại. Theo bác sĩ Stevenson thì các em nầy thường mở đầu bằng hai chữ "lúc đó" "hồi đó". Điều đặc biệt là bác sĩ Stevenson đã luôn luôn để ý cân nhắc, gạt bỏ những gì có tính cách không đứng đắn với sự mô tả hoặc có sự liên hệ chỉ bảo của người lớn (có thể giúp cho con trẻ phát biểu những điều mà trí óc chúng không thể nào đã có sẵn, đã được khắc ghi). Ngoài ra, bác sĩ Stevenson còn lưu ý một sự kiện quan trọng khác, đó là dấu vết bẩm sinh trên cơ thể của các cháu bé (birthmarks) hoặc ngay cả những trường hợp quái thai (birth defets). Khi những cháu bé nầy nhớ lại tiền kiếp của chúng thì thường thường có sự liên hệ lạ lùng giữa sự kiện với dấu vết bẩm sinh hay dị tật mà chúng đã mang trên cơ thể.
Ngay trong mỗi con người của chúng ta đôi khi cũng thường bị quên trong cả những việc vừa làm chớ không riêng gì những điều đã xảy ra từ tấm bé, có người tự hào mình nhớ hết những gì xảy ra hồi còn bé nhưng thật sự chỉ nhớ những hình ảnh và sự việc đại cương mà thôi chớ không thể nào nhớ chi tiết từng ngày từng giờ từng tháng từng năm cùng với mọi sự việc xảy ra. Theo các nhà não sinh học thì sự quên là điều rất cần thiết vì bộ não cũng cần được nghỉ ngơi. Não là một thư viện khổng lồ lưu trữ biết bao nhiêu sách vở và tài liệu của ký ức con người, mỗi giây, mỗi phút mỗi ngày, mỗi giờ đều có những hình ảnh, sự kiện khác được thu nhận, những gì trước đó phải được cho vào sâu trong tiềm thức sẽ là ký ức để dành chỗ cho những sự kiện khác đến. Vì thế sự quên đi là điều hiển nhiên. Chỉ khi nào cần đến hoặc được khơi dậy thì chúng mới hiện ra, vậy sự quên không có nghĩa là mất hẳn và sự quên nên được hiểu như một cuốn sách đang để vào sâu trong một ngăn nào đó của hộc tủ thư viện mà thôi. Từ lập luận đó ta mới thấy được tại sao con người không nhớ lại được tiền kiếp của mình, nhất là những hình ảnh, sự kiện lại xảy ra ở một thời gian quá xa.
Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu về trí nhớ thì khả năng nhớ lại của con người về những gì đã xảy ra thường thay đổi theo tuổi tác, thông thường người ta cứ tưởng rằng người già có trí nhớ phi thường. Thật ra, theo Jidith Randal và Steven Ferris, David Krech... thì người già thường nhớ rất lâu về tình cảm trong đời, nhất là tài năng của họ. Nguyên nhân chính là do sự nuối tiếc, luyến lưu. Nhưng thật sự trí nhớ ấy chỉ là tổng quát, đại cương chớ không sâu sắc. Cũng theo các nhà nghiên cứu nầy thì vào khoảng tuổi từ 50 đến 60, con người thường dễ quên và khó có được trí nhớ tốt lành. Đôi khi họ còn dễ quên ngay cả những việc mới xảy ra trong một thời gian ngắn thôi. Y học gọi đó là sự suy thoái về trí nhớ liên hệ tới tuổi (Age Associated Memory Impairment (AAMI).
Ngược lại đối với người tuổi trẻ, nhất là con trẻ, bộ óc lại có khả năng phát triển về trí nhớ rất mạnh. Điều nầy phù hợp với việc nghiên cứu và khám phá của giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson khi ông tìm hiểu về vấn đề Luân Hồi Tái Sinh qua con trẻ. Nhà khoa học nầy đã nghiên cứu qua hàng ngàn trường hợp về hiện tượng con người nhớ lại tiền kiếp của mình cũng như các nhà nghiên cứu John Van Auken, Shelley, Violet, Cerminara, Gina, Sparrow, Lynn... đã lưu tâm. Theo tiến sĩ Stevenson thì con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp của chúng rất lớn, bộ óc chúng có ưu điểm và trong thời kỳ thanh xuân tươi trẻ ấy có thể tự động tạo nên những hình ảnh kéo về từ quá khứ xa xăm (ở đây phải là tiền kiếp vì đối với trẻ con, 4, 5 tuổi quả thật chưa có quá khứ nếu xét theo đời hiện đại của nó) nhất là khi chúng gặp được những hình ảnh, sự kiện liên quan nào đó. Qua các tài liệu thu thập được từ năm 1960 trở về sau, tiến sĩ Stevenson đã có được một số lớn sự kiện lạ lùng phát sinh từ con trẻ khi chúng tự nhiên kể lại hay bộc lộ những gì liên quan đến tiền kiếp của chúng. Những trẻ con nầy thường chỉ ở khoảng 4, 5 tuổi mà thôi. Ở lứa tuổi mà khi xét đến cử chỉ, lời nói, sự nhận thức hay khả năng thì quả là không thể có được. Nhiều trường hợp lạ lùng nhưng có thật đã xảy ra qua các tài liệu mà tiến sĩ Stevenson đã thu thập được như em bé Duminda 6 tuổi ở làng Kandy (Sri Lanka), bé Thusitha, bé Tatu, hay bé người Thổ Nhĩ Kỳ... những em bé nầy đã kể lại tiền kiếp của mình ra sao, cha mẹ mình là ai, đã qua đời vì nguyên nhân nào... và kỳ dị hơn nữa là những em bé nầy đã cho thấy những bằng cớ chính xác rõ ràng về những gì mà chúng đã kể đến.
Trong vòng mấy mươi năm qua, vấn đề con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp đã được xem như là vấn đề có cơ sở khoa học chớ không còn là chuyện mê tín huyền hoặc nữa. Tuy nhiên có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên từ xưa chưa có nhiều người, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và cổ xướng rộng rãi. Mãi về sau mới có một số nhân vật nổi danh như bác sĩ Melvin More, nữ giáo sư Diane Komp và đáng lưu ý hơn cả là giáo sư, bác sĩ Ian Stevenson thuộc đại học Virginia (Hoa Kỳ), là người đã bỏ ra một thời gian dài để nghiên cứu về các trường hợp thuộc hiện tượng luân hồi tái sinh (Reicarnation) từ các con trẻ. Giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson còn là nhà tâm sinh lý nổi tiếng ở đại học Charlottes Ville. Ôâng đã nghiên cứu 10.623 trường hợp có liên đến hiện tượng luân hồi, tái sinh trong đó có khoảng 40 trường hợp đầu thai xảy ra tại nước Pháp và một số rất lớn trường hợp đầu thai xuất hiện ở Ấn Độ. Ngoài những trường hợp xác nhận hiện tượng tự nhiên ngoại thể, ông còn kiểm tra qua các cuộc giải phẫu và mổ tử thi tại bệnh viện và nhờ đó mà có thể xác nghiệm được nhiều trường hợp lạ lùng về tiền kiếp như đương sự có dấu vết bẩm sinh trên cơ thể tương ứng với những gì đã xảy ra trong kiếp trước.
Có hơn 2500 trẻ con nhớ lại những gì của thời quá vãng, cái thời mà với lứa tuổi hiện tại của chúng (có trẻ chỉ mới 4, 5 tuổi) người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa, có nghĩa rằng phải dùng tới chữ Kiếp Trước của chúng. Hơn nữa những gì mà các em bé nầy nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với hoàn cảnh và thời gian mà chúng đang sống ở hiện tại. Theo bác sĩ Stevenson thì các em nầy thường mở đầu bằng hai chữ "lúc đó" "hồi đó". Điều đặc biệt là bác sĩ Stevenson đã luôn luôn để ý cân nhắc, gạt bỏ những gì có tính cách không đứng đắn với sự mô tả hoặc có sự liên hệ chỉ bảo của người lớn (có thể giúp cho con trẻ phát biểu những điều mà trí óc chúng không thể nào đã có sẵn, đã được khắc ghi). Ngoài ra, bác sĩ Stevenson còn lưu ý một sự kiện quan trọng khác, đó là dấu vết bẩm sinh trên cơ thể của các cháu bé (birthmarks) hoặc ngay cả những trường hợp quái thai (birth defets). Khi những cháu bé nầy nhớ lại tiền kiếp của chúng thì thường thường có sự liên hệ lạ lùng giữa sự kiện với dấu vết bẩm sinh hay dị tật mà chúng đã mang trên cơ thể.
Trẻ Con
Và Vấn Đề Nhớ Lại Tiền Kiếp
Khi trả lời
câu hỏi của giới báo chí về vấn đề tại sao lại tập trung nghiên cứu về vấn đề từ
trẻ con hơn người lớn thì bác sĩ Stevenson cho biết như sau:
"Dĩ nhiên đây là điều ghi nhiều nghi vấn và còn dễ bị ngộ nhận vì phần đông mọi người đều cho rằng trẻ con không biết gì, nếu chúng phát biểu một điều gì đó thì có thể là do chúng đã học được, nghe được và đã nói theo như một con vẹt tập nói (do người lớn đã tập để chỉ vẽ cho nó) Nên những lời nói của con trẻ, nhất là các nhận định của chúng (các trẻ 4, 5 tuổi...) thường chẳng có giá trị nào... Tuy nhiên dưới mắt các nhà khoa học và nhất là các nhà sinh vật học thì vấn đề lại khác. Sở dĩ họ lưu tâm đến việc nghiên cứu con trẻ về vấn đề nhớ lại quá khứ hay tiền kiếp là do các lý do sau đây:
1) Trí óc con trẻ giống như một tờ giấy trắng, chưa có một ký ức, kỷ niệm ghi vào hơn nữa chúng cũng chưa đủ trình độ để có thể hiểu rõ về lý thuyết luân hồi, đầu thai của một tôn giáo nào... Vì thế những gì phát biểu, mô tả, trình bày từ con trẻ, đặc biệt với những vấn đề làm ta suy nghĩ ngạc nhiên và đặt nghi vấn đều là những vấn đề đáng quan tâm. Dĩ nhiên phải loại bỏ trường hợp con trẻ học nói hay được người lớn chỉ vẽ để nói lên những vấn đề người lớn (và giả sự rằng sự kiện nầy có thì chúng ta cũng dễ dàng nhận ra ngay). Vì thế khi con trẻ nói lên những điều, kể lại những chuyện về quá khứ mà chúng tự cho rằng mình đã trải qua thì rõ ràng có cái gì đó đáng để ta lưu tâm tìm hiểu vì với lứa tuổi của chúng không thể nào có được những hình ảnh, những kinh nghiệm cũng như những từ ngữ như chúng đã kể lại. Chỉ ngoại trừ chúng ta đã có một ký ức từ quá khứ xa xăm, hay từ tiền kiếp.
2) Con trẻ thật sự không có gian dối, sự gian dối được thu thập dần khi chúng lớn lên. Nếu chúng ta có điều gian dối thì khó mà không bị người lớn phát giác. Cũng vậy, nếu những gì con trẻ kể lại về cái gọi là tiền kiếp hay những gì chúng thấy ở một thế giới nào khác mà gian dối, bịa đặt thì thế nào cũng bị lộ.
3) Trình bày vấn đề, cốt lõi của vấn đề bao giờ cũng giống nhau dù trình bày nhiều lần vì thế các nhà nghiên cứu còn kiểm tra sự chính xác trong câu chuyện của con trẻ bằng cách yêu cầu chúng phát họa lại những gì chúng đã thấy để xem có sự sai lệch nào không. Xự kiện nầy giúp xác nhận lời trình bày của con trẻ là có cơ sở đúng đắn đáng quan tâm. (Như trường hợp bé Jemi lúc 11 tuổi đã vẽ lại những hình ảnh mà em đã thấy khi em bước vào ngưỡng cữa của sự chết nhưng chưa tiến hẳn vào tận cùng của thế giới khác. Tại đây em đã thấy một số hình ảnh lạ lùng như thấy những người mà trên đầu tỏa ánh hào quang, nhưng bước đi nhẹ nhàng lung linh và đặc biệt em còn thấy một số người đang nằm trong những cái hộp giống hộp bằng gương. Khi bác sĩ hỏi em có biết vì sao những người ấy nằm trong các hộp kính thì cho em biết: "đó là những người đang chờ đến lượt tái sinh". Các hình mô tả lại những gì mà em đã thấy cho bác sĩ Melvin More xem đã được đăng tải lại rõ ràng trong nguyệt san Life số 3, volume 15, tháng 3 năm 1992.
4.) Phần lớn các sự kiện mà con trẻ đã kể về tiền kiếp của mình thường rất phù hợp với những gì mà chúng đã đề cập đến và sự kiện được mô tả rất trung thực và tự nhiên.
5. Qua các sự kiện thu thập được từ các nhà nghiên cứu về vấn đề kinh nghiệm gần gũi hay trải qua về cái chết (near death experience NDE) hay sự luân hồi, tái sanh (reincarnation) thì ở trẻ con sự kiện nầy thường xảy ra nhiều hơn người lớn.
Theo bác sĩ Stevenson thì nghiên cứu ở con trẻ có được lợi điểm hơn người lớn vì chúng có nhiều dữ kiện còn tồn tại trong lúc đang sống và thường dễ tìm kiếm, kiểm tra được những sự việc hay gia đình nào đó có liên hệ với vấn đề. Thường thì trong các báo cáo hoặc khi tiếp xúc với gia đình có hiện tượng nhớ lại tiền kiếp mà cháu bé là vai chính, bác sĩ Stevenson ghi nhận rằng: "Mẹ không phải là mẹ của con. Con muốn đến nhà mẹ ruột của con..." Và sau sự kinh ngạc của vấn đề cứ tiếp diễn mãi để rồi gia đình người mẹ có đứa con thường phát biểu câu khó hiểu ấy phải tìm cho ra sự thật và sự thật là rất phù hợp với những gì mà cháu bé đã mô tả. Có lần bác sĩ Stevenson nghe một người đàn bà kể chuyện về người con của bà ta mới lên 5 tuổi. Một hôm bà chuẩn bị đi chợ (chợ đi rất xa) thì cháu bé nói một cách tự nhiên: "Ồ! Mẹ phải lấy xe đi chớ! Con có xe mà. Mẹ không cần phải đi bộ tới chợ xa xôi. Chỗ con ở có xe, tài xế sẽ chở mẹ tới chợ..."
Cũng theo bác sĩ Stevenson thì đôi khi những con trẻ nầy lại có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện nầy có liên quan đến người đã được nhắc đến ở quá khứ hay tiền kiếp. Người ấy không ai khác hơn là cháu bé hiện tại. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan tới nước cháu bé nầy sẽ rất sợ nước. Nếu người đó bị bắn chết thì cháu bé rất sợ tiếng súng nổ hay trông thấy súng là hoảng sợ. Nếu người đó trước đây chết vì bị rắn cắn thì hiện tại cháu bé lại sợ rắn vì bị ám ảnh về những gì đầy ghê sợ từ tiền kiếp do rắn gây ra. Đôi khi đứa bé lại rất ham thích một loại thức ăn đặc biệt nào đó, hoặc màu sắc nào đó hay loại quần áo nào đó. Một trường hợp điển hình đã xảy ra tại Miến Điện. Một em bé đã kể lại tiền kiếp của mình. Lúc đó em là một quân nhân Nhật Bản và đã bị giết trong thế chiến thứ hai. Điều kỳ lạ là em rất thích uống trà đậm và thức ăn thường ngày của người Nhật, mặc dầu lúc nầy em là người Miến Điện, mà người Miến lại thích uống trà loãng. Theo sự nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson thì có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và cũng có trường hợp có nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái và cũng từ đó chúng thích ăn mặc cũng như có cử chỉ dáng điệu phù hợp với phái tính trước đó. Nhiều người đã hỏi bác sĩ Stevenson rằng: trường hợp những người thuộc về Homo Sexuality (thuộc tính dục đồng giới tính, đồng tính luyến ái) có phải là do từ bản thân tiền kiếp có giới tính khác biệt hay không thì bác sĩ Stevenson đã trả lời rằng "Tôi nghĩ điều đó có thể có và cũng có một số biệt lệ, như vấn đề khác biệt nhau về phương diện sinh vật học..."
Trở lại vấn đề con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp thì bác sĩ Stevenson đã nêu ra trường hợp các trẻ con khi có khả năng ấy, thường hay mô tả rõ ràng chi tiết về cái chết của chính mình ở kiếp trước, sự kiện nầy thường xảy ra nhiều và có từ 60 đến 70 phần trăm trường hợp như vậy. Đặc biệt nếu cái chết xảy ra quá khủng khiếp hay do tự sát thì lại càng dễ đem lại sự hồi tưởng về cái chết và cách chết ở kiếp sau nơi đứa trẻ hơn. Khi đứa trẻ tái sinh thì lần nầy những ký ức khổ đau rùng rợn ấy sẽ làm nhớ lại và thôi thúc chúng tìm đến cội nguồn của kiếp trước và dường như muốn thấy lại những gì mà chúng đã làm hay đã trải qua.
Nhà siêu tâm lý Banglopp đã đặt câu hỏi rằng: Phải chăng những người bị chết bất đắc kỳ tử lại thường nhớ rõ về thời gian và những gì đã xảy ra cho họ ở kiếp trước trong khi họ đã bước hẳn vào cuộc đời mới khác ở một con người khác. Phải chăng qua cái chết bất ngờ của tiền kiếp, vì chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh, tử) nên đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ và chính sau cái chết bất ngờ ấy, đã khiến cho về sau khi hồn nhập vào thân xác mới khác vẫn còn giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng...
Trường Đại học Delhi ở Ấn Độ đã hợp tác với Đại học Virginia của Hoa Kỳ trong vấn đề nghiên cứu những sự kiện đặc biệt về con người. Một thống kê mới nhất cho thấy các trẻ nhỏ thường có khả năng phát lộ về các hiện tượng siêu tâm lý và phần lớn các trẻ nầy thường cho thấy được phần nào "quá khứ xa xăm của chúng". Quá khứ đây được hiểu như đã xảy ra trước khi đứa bé chào đời hay nói khác hơn là tiền kiếp. Các nhà nghiên cứu cho rằng, do sự tình cờ, con người có thể biết được những điều lạ lùng hé lộ qua câu chuyện của các trẻ nhỏ về những gì đã xảy ra trước lúc đứa bé ấy sinh ra. Thường thì các trẻ nhỏ có số tuổi từ 3 đến 7 là hay nhạy cảm và có khả năng "nhớ lại". Càng lớn lên, thì khả năng "nhớ lại" những gì đã xảy ra ở thế hệ trước sẽ không rõ ràng hay không còn.
Theo thống kê thì có đến 82% tổng số trường hợp là các đứa trẻ nói trên khi kể lại "quá khứ" đã nhớ lại được tên tuổi mình lúc đó. Đại Đức Ấn Độ K. Sri Dhammananda đã ghi lại trong bộ sưu tập của mình về vấn đề Tái sinh chuyện một em bé 7 tuổi có tài chữa bệnh và chế thuốc rất hay. Khi được hỏi bé trả lời một cách rất tự nhiên: "Trước đây, tôi không phải như bây giờ, lúc ấy tôi là một thầy thuốc danh hiệu là Jules Alpherese và tôi đã chữa bệnh, điều chế thuốc giúp rất nhiều người. Giờ đây, dù ở thân xác khác, tôi vẫn tiếp tục làm được điều mình mong ước.
"Dĩ nhiên đây là điều ghi nhiều nghi vấn và còn dễ bị ngộ nhận vì phần đông mọi người đều cho rằng trẻ con không biết gì, nếu chúng phát biểu một điều gì đó thì có thể là do chúng đã học được, nghe được và đã nói theo như một con vẹt tập nói (do người lớn đã tập để chỉ vẽ cho nó) Nên những lời nói của con trẻ, nhất là các nhận định của chúng (các trẻ 4, 5 tuổi...) thường chẳng có giá trị nào... Tuy nhiên dưới mắt các nhà khoa học và nhất là các nhà sinh vật học thì vấn đề lại khác. Sở dĩ họ lưu tâm đến việc nghiên cứu con trẻ về vấn đề nhớ lại quá khứ hay tiền kiếp là do các lý do sau đây:
1) Trí óc con trẻ giống như một tờ giấy trắng, chưa có một ký ức, kỷ niệm ghi vào hơn nữa chúng cũng chưa đủ trình độ để có thể hiểu rõ về lý thuyết luân hồi, đầu thai của một tôn giáo nào... Vì thế những gì phát biểu, mô tả, trình bày từ con trẻ, đặc biệt với những vấn đề làm ta suy nghĩ ngạc nhiên và đặt nghi vấn đều là những vấn đề đáng quan tâm. Dĩ nhiên phải loại bỏ trường hợp con trẻ học nói hay được người lớn chỉ vẽ để nói lên những vấn đề người lớn (và giả sự rằng sự kiện nầy có thì chúng ta cũng dễ dàng nhận ra ngay). Vì thế khi con trẻ nói lên những điều, kể lại những chuyện về quá khứ mà chúng tự cho rằng mình đã trải qua thì rõ ràng có cái gì đó đáng để ta lưu tâm tìm hiểu vì với lứa tuổi của chúng không thể nào có được những hình ảnh, những kinh nghiệm cũng như những từ ngữ như chúng đã kể lại. Chỉ ngoại trừ chúng ta đã có một ký ức từ quá khứ xa xăm, hay từ tiền kiếp.
2) Con trẻ thật sự không có gian dối, sự gian dối được thu thập dần khi chúng lớn lên. Nếu chúng ta có điều gian dối thì khó mà không bị người lớn phát giác. Cũng vậy, nếu những gì con trẻ kể lại về cái gọi là tiền kiếp hay những gì chúng thấy ở một thế giới nào khác mà gian dối, bịa đặt thì thế nào cũng bị lộ.
3) Trình bày vấn đề, cốt lõi của vấn đề bao giờ cũng giống nhau dù trình bày nhiều lần vì thế các nhà nghiên cứu còn kiểm tra sự chính xác trong câu chuyện của con trẻ bằng cách yêu cầu chúng phát họa lại những gì chúng đã thấy để xem có sự sai lệch nào không. Xự kiện nầy giúp xác nhận lời trình bày của con trẻ là có cơ sở đúng đắn đáng quan tâm. (Như trường hợp bé Jemi lúc 11 tuổi đã vẽ lại những hình ảnh mà em đã thấy khi em bước vào ngưỡng cữa của sự chết nhưng chưa tiến hẳn vào tận cùng của thế giới khác. Tại đây em đã thấy một số hình ảnh lạ lùng như thấy những người mà trên đầu tỏa ánh hào quang, nhưng bước đi nhẹ nhàng lung linh và đặc biệt em còn thấy một số người đang nằm trong những cái hộp giống hộp bằng gương. Khi bác sĩ hỏi em có biết vì sao những người ấy nằm trong các hộp kính thì cho em biết: "đó là những người đang chờ đến lượt tái sinh". Các hình mô tả lại những gì mà em đã thấy cho bác sĩ Melvin More xem đã được đăng tải lại rõ ràng trong nguyệt san Life số 3, volume 15, tháng 3 năm 1992.
4.) Phần lớn các sự kiện mà con trẻ đã kể về tiền kiếp của mình thường rất phù hợp với những gì mà chúng đã đề cập đến và sự kiện được mô tả rất trung thực và tự nhiên.
5. Qua các sự kiện thu thập được từ các nhà nghiên cứu về vấn đề kinh nghiệm gần gũi hay trải qua về cái chết (near death experience NDE) hay sự luân hồi, tái sanh (reincarnation) thì ở trẻ con sự kiện nầy thường xảy ra nhiều hơn người lớn.
Theo bác sĩ Stevenson thì nghiên cứu ở con trẻ có được lợi điểm hơn người lớn vì chúng có nhiều dữ kiện còn tồn tại trong lúc đang sống và thường dễ tìm kiếm, kiểm tra được những sự việc hay gia đình nào đó có liên hệ với vấn đề. Thường thì trong các báo cáo hoặc khi tiếp xúc với gia đình có hiện tượng nhớ lại tiền kiếp mà cháu bé là vai chính, bác sĩ Stevenson ghi nhận rằng: "Mẹ không phải là mẹ của con. Con muốn đến nhà mẹ ruột của con..." Và sau sự kinh ngạc của vấn đề cứ tiếp diễn mãi để rồi gia đình người mẹ có đứa con thường phát biểu câu khó hiểu ấy phải tìm cho ra sự thật và sự thật là rất phù hợp với những gì mà cháu bé đã mô tả. Có lần bác sĩ Stevenson nghe một người đàn bà kể chuyện về người con của bà ta mới lên 5 tuổi. Một hôm bà chuẩn bị đi chợ (chợ đi rất xa) thì cháu bé nói một cách tự nhiên: "Ồ! Mẹ phải lấy xe đi chớ! Con có xe mà. Mẹ không cần phải đi bộ tới chợ xa xôi. Chỗ con ở có xe, tài xế sẽ chở mẹ tới chợ..."
Cũng theo bác sĩ Stevenson thì đôi khi những con trẻ nầy lại có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện nầy có liên quan đến người đã được nhắc đến ở quá khứ hay tiền kiếp. Người ấy không ai khác hơn là cháu bé hiện tại. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan tới nước cháu bé nầy sẽ rất sợ nước. Nếu người đó bị bắn chết thì cháu bé rất sợ tiếng súng nổ hay trông thấy súng là hoảng sợ. Nếu người đó trước đây chết vì bị rắn cắn thì hiện tại cháu bé lại sợ rắn vì bị ám ảnh về những gì đầy ghê sợ từ tiền kiếp do rắn gây ra. Đôi khi đứa bé lại rất ham thích một loại thức ăn đặc biệt nào đó, hoặc màu sắc nào đó hay loại quần áo nào đó. Một trường hợp điển hình đã xảy ra tại Miến Điện. Một em bé đã kể lại tiền kiếp của mình. Lúc đó em là một quân nhân Nhật Bản và đã bị giết trong thế chiến thứ hai. Điều kỳ lạ là em rất thích uống trà đậm và thức ăn thường ngày của người Nhật, mặc dầu lúc nầy em là người Miến Điện, mà người Miến lại thích uống trà loãng. Theo sự nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson thì có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và cũng có trường hợp có nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái và cũng từ đó chúng thích ăn mặc cũng như có cử chỉ dáng điệu phù hợp với phái tính trước đó. Nhiều người đã hỏi bác sĩ Stevenson rằng: trường hợp những người thuộc về Homo Sexuality (thuộc tính dục đồng giới tính, đồng tính luyến ái) có phải là do từ bản thân tiền kiếp có giới tính khác biệt hay không thì bác sĩ Stevenson đã trả lời rằng "Tôi nghĩ điều đó có thể có và cũng có một số biệt lệ, như vấn đề khác biệt nhau về phương diện sinh vật học..."
Trở lại vấn đề con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp thì bác sĩ Stevenson đã nêu ra trường hợp các trẻ con khi có khả năng ấy, thường hay mô tả rõ ràng chi tiết về cái chết của chính mình ở kiếp trước, sự kiện nầy thường xảy ra nhiều và có từ 60 đến 70 phần trăm trường hợp như vậy. Đặc biệt nếu cái chết xảy ra quá khủng khiếp hay do tự sát thì lại càng dễ đem lại sự hồi tưởng về cái chết và cách chết ở kiếp sau nơi đứa trẻ hơn. Khi đứa trẻ tái sinh thì lần nầy những ký ức khổ đau rùng rợn ấy sẽ làm nhớ lại và thôi thúc chúng tìm đến cội nguồn của kiếp trước và dường như muốn thấy lại những gì mà chúng đã làm hay đã trải qua.
Nhà siêu tâm lý Banglopp đã đặt câu hỏi rằng: Phải chăng những người bị chết bất đắc kỳ tử lại thường nhớ rõ về thời gian và những gì đã xảy ra cho họ ở kiếp trước trong khi họ đã bước hẳn vào cuộc đời mới khác ở một con người khác. Phải chăng qua cái chết bất ngờ của tiền kiếp, vì chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh, tử) nên đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ và chính sau cái chết bất ngờ ấy, đã khiến cho về sau khi hồn nhập vào thân xác mới khác vẫn còn giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng...
Trường Đại học Delhi ở Ấn Độ đã hợp tác với Đại học Virginia của Hoa Kỳ trong vấn đề nghiên cứu những sự kiện đặc biệt về con người. Một thống kê mới nhất cho thấy các trẻ nhỏ thường có khả năng phát lộ về các hiện tượng siêu tâm lý và phần lớn các trẻ nầy thường cho thấy được phần nào "quá khứ xa xăm của chúng". Quá khứ đây được hiểu như đã xảy ra trước khi đứa bé chào đời hay nói khác hơn là tiền kiếp. Các nhà nghiên cứu cho rằng, do sự tình cờ, con người có thể biết được những điều lạ lùng hé lộ qua câu chuyện của các trẻ nhỏ về những gì đã xảy ra trước lúc đứa bé ấy sinh ra. Thường thì các trẻ nhỏ có số tuổi từ 3 đến 7 là hay nhạy cảm và có khả năng "nhớ lại". Càng lớn lên, thì khả năng "nhớ lại" những gì đã xảy ra ở thế hệ trước sẽ không rõ ràng hay không còn.
Theo thống kê thì có đến 82% tổng số trường hợp là các đứa trẻ nói trên khi kể lại "quá khứ" đã nhớ lại được tên tuổi mình lúc đó. Đại Đức Ấn Độ K. Sri Dhammananda đã ghi lại trong bộ sưu tập của mình về vấn đề Tái sinh chuyện một em bé 7 tuổi có tài chữa bệnh và chế thuốc rất hay. Khi được hỏi bé trả lời một cách rất tự nhiên: "Trước đây, tôi không phải như bây giờ, lúc ấy tôi là một thầy thuốc danh hiệu là Jules Alpherese và tôi đã chữa bệnh, điều chế thuốc giúp rất nhiều người. Giờ đây, dù ở thân xác khác, tôi vẫn tiếp tục làm được điều mình mong ước.
Những Người
Đi Vào Quá Khứ.
Vấn đề khả
năng nhớ lại tiền kiếp càng ngày càng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
và hy vọng trong tương lai chắc chắn con người sẽ còn thu thập được thêm nhiều
sự kiện mới lạ hữu ích khác và từ đó mà mối nghi ngờ hoang man về những gì gọi
là tiền kiếp, về tái sinh về luân hồi sẽ không còn là một vấn đề phải bàn cãi nữa.
Điều cần lưu ý thêm là song song với hiện tượng nhớ về tiền kiếp xa xăm, hiện nay các nhà nghiên cứu còn quan tâm hơn nữa về một số hiện tượng khác tương tự đó là hiện tượng thấy trước những sự việc trong quá khứ và cả trong tương lai nữa.
Mùa hè năm 1901 có hai người phụ nữ tên là Eleanor Jourdain và Anne Moberly đi thăm các lâu đài nổi tiếng của Pháp. Nơi họ say mê nhất qua sách vở báo chí và nhất là qua tài liệu lịch sử là Điện Versailles. Ngôi biệt điện nguy nga vĩ đại nổi danh thế giới qua các triều đại vua chúa vàng son của nước Pháp được xây dựng bởi vua Louis thứ XIII và sau đó được các vua Louis kế tiếp phát triển thêm. Ngay bước xây cất đầu tiên, ngôi biệt điện nầy đã tiêu phí hết 100 triệu đô la chớ không phải tính theo tiền phật lăng. Hàng năm du khách đến thăm điện Versaille rất đông nhưng hai phụ nữ nầy chỉ thích tự mình đi thăm không qua một tổ chức hay một phái đoàn du lịch nào. Họ không muốn bị lệ thuộc vào nhiều hoàn cảnh và thời gian đi lại vì họ rất thích nghiên cứu lịch sử. Với một cuốn chỉ nam du lịch Pháp bỏ túi, hai người đàn bà nầy đã lần mò để đến những nơi mà họ thích tìm hiểu.
Đầu tiên, cả hai lên ô tô và khi ô tô tới bến đáng lý họ đã đến nơi nếu họ quẹo tay mặt nhưng họ lại xuống xe và đi tiếp một đoạn đường khá xa. Sau đó họ thấy một con đường nhỏ, một con đường vắng tanh, đó là con đường đất dẫn vào một đám cây xanh ngắt. Sẵm óc tò mò và thích du lịch thám hiểm, hai người đàn bà với túi xách trên tay đi lần theo con đường. Không gian êm lắng lạ thường, xa xa là khu rừng thông ngút ngàn. Họ phân vân và có cảm giác mình bị lạc đường. Nhưng họ thấy có nhiều ngôi nhà nông dân đằng xa rồi thấy bên đường cái cào sắt và cái xẻng đặt gần chiếc xe cút kít. Họ gặt nhiều người trên đường lúc đầu là hai người đàn ông mặc áo choàng màu xám xanh, rồi nơi thềm một túp lều, cô Jourdain thấy một người đàn bà lớn tuổi đang đứng với một cô gái trẻ. Sau vài phút, họ lại gặp một người đàn ông cũng mặc áo choàng và đầu đội mũ rộng vành. Người đàn ông nầy có gương mặt lầm lì, xam xám và điểm những chấm rỗ hoa. Bà Anne Moberly định hỏi thăm đường nhưng thấy dáng dấp vẻ nghiêm khắc của người đàn ông nầy nên không hỏi nữa thì vừa lúc đó có một người đàn ông từ xa chạy lại đứng trước mặt họ và có vẽ sốt sắng:
- Tôi có thể dẫn các bà đi nếu các bà cho phép!?
Bà Anne và cô Jourdain cảm thấy vui vui và họ cảm ơn người đàn ông đã ngỏ ý muốn dẫn đường cho họ. Họ qua một cây cầu nhỏ bắt ngang qua một con suối mà tiếng nước suối đổ sao nghe xa xăm nhẹ nhàng như xem qua màn ảnh chỉ có hình mà không có tiếng động. Người đàn ông dẫn họ qua cầu rồi từ biệt. Trước mặt hai người là một khoảng yên tĩnh khác. Một người đàn bà đang trầm ngâm ngắm những bức tranh mà bà đang vẽ. Họ gặp hai người đàn ông đi tới, yên lặng và nhẹ nhàng như hòa vào cái tĩnh mịch của vùng đất mà họ đang đi qua. Đâu đâu cũng muốn nhuốm vẽ thâm trầm, lặng lẽ. Khi vừa đến một căn nhà gần cuối đường họ mới nghe thấy quang cảnh ồn ào vui vẻ phát ra, họ nhìn vào và biết đó là một cuộc đám cưới linh đình. Một người đàn ông bước ra đưa cao ly rượu chào đón họ...
Hai phụ nữ cảm thấy mỏi chân và họ ngồi lên một tảng đá lớn bên hàng cây râm mát để nghỉ mệt, Gần chiều họ quay trở về. Điều kỳ dị là con đường họ đi qua còn đó nhưng tất cả những gì họ thấy đều như tan biến cả, không còn ngôi nhà ồn ào náo nhiệt, không còn người đi lại, chẳng thấy túp lều ở đâu và cả xe cút kít và cào xẻng... Hai người phụ nữ trở về Ba Lê (Paris) mỗi người đều mang tâm trạng hoang mang kỳ lạ về những gì mình đã thấy. Họ thì thào hỏi nhau như sợ nói to ra sẽ động tới những gì linh thiêng huyền diệu nhất. Họ xem các tập ghi chép của nhau và xác nhận rằng mọi người đều thấy rõ ràng những hình ảnh xảy ra trước mắt mình không có gì sai lệch.
Điều kỳ dị là họ nhớ lại những căn nhà xưa, những túp lều và cách trang phục của những người mà họ gặp. Xem lại bản đồ và sách chỉ dẫn, họ thấy không thể có vùng đất nào như họ đã đi qua có trong tài liệu cả. Hơn nữa những gì họ thấy không thể nào có được vào thời đại họ đang sống nhất là những kiểi mũ, nón áo quần mà họ đã thấy ở những người mà họ đã gặp. Tài liệu lịch sử cho biết những gì mà họ đã thấy chỉ có ở thời đại cách xa thời đại họ đến gần 200 năm.
Khi đọc kỹ lại nhật ký của nhau, hai phụ nữ thấy có một điều lạ là trong khi bà Anne Moberly thấy người phụ nữ ngồi vẽ tranh bên kia cầu thì cô Jourdain lại không thấy. Còn khi Jourdain thấy người đàn bà lớn tuổi và cô gái ở túp lều thì bà Anne Moberly lại không thấy. Nơi mà hai phụ nữ trước đó quyết định viếng thăm là khu nghỉ mát nổi tiếng Petit Triamom, đó là khu nghỉ hè của hoàng hậu Marie Antoinette.
Bà Anne Moberly và Jordain cảm thấy như họ đã gặp phải một trường hợp dị thường. Nếu chỉ một người đơn độc gặp phải hoàn cảnh ấy thì có thể họ sẽ cho là một giấc mơ qua hay là một ảo giác (hallucination) mà họ đã trải qua. Nhưng ở đây chính cả hai người đều đã cùng đi và cùng thấy những cảnh tương tự như nhau (chỉ ngoại trừ hai sự kiện vừa kể trên). Vậy có cái gì đó lạ lùng đã xảy ra và đã, đang hiện diện kề cận bên những gì gọi là cõi thế gian. Phải chăng cái quá khứ vẫn nằm mãi bên cái hiện tại?
Vốn là người thích mạo hiểm, tìm tòi, nghiên cứu, hai phụ nữ ấy quyết định thử lại một chuyến du hành đến khu nghỉ mát Petit Trianon lần nữa. Họ lại đi vào con đường nhỏ yên lặng. Khi gần đến công viên đầy hoa lá, họ bổng nghe tiếng nhạc thoang thoáng và từ xa xa có hai người công nhân đội mũ màu xanh đỏ đang củi lên chiếc xe nằm gần một mô đất cao.
Sau đó, cả hai phụ nữ đến gặp người trông coi khu nghỉ mát Petit Trianon. Người nầy sau khi nghe hai cô gái kể lại mọi sự họ đã trông thấy (cũng như những gì gọ đã ghi chép lại trong nhật ký) thì chỉ lắc đầu và nói: "Tôi xin phát biểu là tất cả những gì hai cô đã trình bày đều là của quá khứ vì tôi là người trực tiếp coi sóc khu nầy đã lâu năm, tôi chưa bao giờ trông thấy những người như đã kể, hơn nữa, với những áo quần nhà cửa, vật dụng ấy thì chỉ có thể thấy được cách đây hơn một thế kỷ mà thôi." Nhân thấy những gì mìng kể lại đều khó được ai chấp nhận hay giải thích. Cả hai phụ nữ lại đến khu Versailles lần nữa. Nhưng lần nầy, tất cả những gì mà họ đã đi qua, đã trông thấy đều không còn nữa. Họ chỉ còn một quyết định là đến thư viện lớn nhất là viện chuyên chuyên về lịch sử để tìm lời chứng nhận và giải đáp qua tư liệu mà thôi. Tại đây, qua các tài liệu lịch sử, phong tục học và xã hội học của nước Pháp, họ ghi nhận lại rằng những trang phục mà họ đã thấy qua những người xuất hiện ở Petit Trianon là trang phục của thời đại vua Louis. Nơi họ đến là khi qua cầu là nơi hoàng hậu Marie Antointte đến nghỉ ngơi vào mùa hè. Người phụ nữ ngồi bên giá vẽ tranh mà bà Anne Mobely thấy chính là hoàng hậu Marie Antoinette.
Điều cần lưu ý thêm là song song với hiện tượng nhớ về tiền kiếp xa xăm, hiện nay các nhà nghiên cứu còn quan tâm hơn nữa về một số hiện tượng khác tương tự đó là hiện tượng thấy trước những sự việc trong quá khứ và cả trong tương lai nữa.
Mùa hè năm 1901 có hai người phụ nữ tên là Eleanor Jourdain và Anne Moberly đi thăm các lâu đài nổi tiếng của Pháp. Nơi họ say mê nhất qua sách vở báo chí và nhất là qua tài liệu lịch sử là Điện Versailles. Ngôi biệt điện nguy nga vĩ đại nổi danh thế giới qua các triều đại vua chúa vàng son của nước Pháp được xây dựng bởi vua Louis thứ XIII và sau đó được các vua Louis kế tiếp phát triển thêm. Ngay bước xây cất đầu tiên, ngôi biệt điện nầy đã tiêu phí hết 100 triệu đô la chớ không phải tính theo tiền phật lăng. Hàng năm du khách đến thăm điện Versaille rất đông nhưng hai phụ nữ nầy chỉ thích tự mình đi thăm không qua một tổ chức hay một phái đoàn du lịch nào. Họ không muốn bị lệ thuộc vào nhiều hoàn cảnh và thời gian đi lại vì họ rất thích nghiên cứu lịch sử. Với một cuốn chỉ nam du lịch Pháp bỏ túi, hai người đàn bà nầy đã lần mò để đến những nơi mà họ thích tìm hiểu.
Đầu tiên, cả hai lên ô tô và khi ô tô tới bến đáng lý họ đã đến nơi nếu họ quẹo tay mặt nhưng họ lại xuống xe và đi tiếp một đoạn đường khá xa. Sau đó họ thấy một con đường nhỏ, một con đường vắng tanh, đó là con đường đất dẫn vào một đám cây xanh ngắt. Sẵm óc tò mò và thích du lịch thám hiểm, hai người đàn bà với túi xách trên tay đi lần theo con đường. Không gian êm lắng lạ thường, xa xa là khu rừng thông ngút ngàn. Họ phân vân và có cảm giác mình bị lạc đường. Nhưng họ thấy có nhiều ngôi nhà nông dân đằng xa rồi thấy bên đường cái cào sắt và cái xẻng đặt gần chiếc xe cút kít. Họ gặt nhiều người trên đường lúc đầu là hai người đàn ông mặc áo choàng màu xám xanh, rồi nơi thềm một túp lều, cô Jourdain thấy một người đàn bà lớn tuổi đang đứng với một cô gái trẻ. Sau vài phút, họ lại gặp một người đàn ông cũng mặc áo choàng và đầu đội mũ rộng vành. Người đàn ông nầy có gương mặt lầm lì, xam xám và điểm những chấm rỗ hoa. Bà Anne Moberly định hỏi thăm đường nhưng thấy dáng dấp vẻ nghiêm khắc của người đàn ông nầy nên không hỏi nữa thì vừa lúc đó có một người đàn ông từ xa chạy lại đứng trước mặt họ và có vẽ sốt sắng:
- Tôi có thể dẫn các bà đi nếu các bà cho phép!?
Bà Anne và cô Jourdain cảm thấy vui vui và họ cảm ơn người đàn ông đã ngỏ ý muốn dẫn đường cho họ. Họ qua một cây cầu nhỏ bắt ngang qua một con suối mà tiếng nước suối đổ sao nghe xa xăm nhẹ nhàng như xem qua màn ảnh chỉ có hình mà không có tiếng động. Người đàn ông dẫn họ qua cầu rồi từ biệt. Trước mặt hai người là một khoảng yên tĩnh khác. Một người đàn bà đang trầm ngâm ngắm những bức tranh mà bà đang vẽ. Họ gặp hai người đàn ông đi tới, yên lặng và nhẹ nhàng như hòa vào cái tĩnh mịch của vùng đất mà họ đang đi qua. Đâu đâu cũng muốn nhuốm vẽ thâm trầm, lặng lẽ. Khi vừa đến một căn nhà gần cuối đường họ mới nghe thấy quang cảnh ồn ào vui vẻ phát ra, họ nhìn vào và biết đó là một cuộc đám cưới linh đình. Một người đàn ông bước ra đưa cao ly rượu chào đón họ...
Hai phụ nữ cảm thấy mỏi chân và họ ngồi lên một tảng đá lớn bên hàng cây râm mát để nghỉ mệt, Gần chiều họ quay trở về. Điều kỳ dị là con đường họ đi qua còn đó nhưng tất cả những gì họ thấy đều như tan biến cả, không còn ngôi nhà ồn ào náo nhiệt, không còn người đi lại, chẳng thấy túp lều ở đâu và cả xe cút kít và cào xẻng... Hai người phụ nữ trở về Ba Lê (Paris) mỗi người đều mang tâm trạng hoang mang kỳ lạ về những gì mình đã thấy. Họ thì thào hỏi nhau như sợ nói to ra sẽ động tới những gì linh thiêng huyền diệu nhất. Họ xem các tập ghi chép của nhau và xác nhận rằng mọi người đều thấy rõ ràng những hình ảnh xảy ra trước mắt mình không có gì sai lệch.
Điều kỳ dị là họ nhớ lại những căn nhà xưa, những túp lều và cách trang phục của những người mà họ gặp. Xem lại bản đồ và sách chỉ dẫn, họ thấy không thể có vùng đất nào như họ đã đi qua có trong tài liệu cả. Hơn nữa những gì họ thấy không thể nào có được vào thời đại họ đang sống nhất là những kiểi mũ, nón áo quần mà họ đã thấy ở những người mà họ đã gặp. Tài liệu lịch sử cho biết những gì mà họ đã thấy chỉ có ở thời đại cách xa thời đại họ đến gần 200 năm.
Khi đọc kỹ lại nhật ký của nhau, hai phụ nữ thấy có một điều lạ là trong khi bà Anne Moberly thấy người phụ nữ ngồi vẽ tranh bên kia cầu thì cô Jourdain lại không thấy. Còn khi Jourdain thấy người đàn bà lớn tuổi và cô gái ở túp lều thì bà Anne Moberly lại không thấy. Nơi mà hai phụ nữ trước đó quyết định viếng thăm là khu nghỉ mát nổi tiếng Petit Triamom, đó là khu nghỉ hè của hoàng hậu Marie Antoinette.
Bà Anne Moberly và Jordain cảm thấy như họ đã gặp phải một trường hợp dị thường. Nếu chỉ một người đơn độc gặp phải hoàn cảnh ấy thì có thể họ sẽ cho là một giấc mơ qua hay là một ảo giác (hallucination) mà họ đã trải qua. Nhưng ở đây chính cả hai người đều đã cùng đi và cùng thấy những cảnh tương tự như nhau (chỉ ngoại trừ hai sự kiện vừa kể trên). Vậy có cái gì đó lạ lùng đã xảy ra và đã, đang hiện diện kề cận bên những gì gọi là cõi thế gian. Phải chăng cái quá khứ vẫn nằm mãi bên cái hiện tại?
Vốn là người thích mạo hiểm, tìm tòi, nghiên cứu, hai phụ nữ ấy quyết định thử lại một chuyến du hành đến khu nghỉ mát Petit Trianon lần nữa. Họ lại đi vào con đường nhỏ yên lặng. Khi gần đến công viên đầy hoa lá, họ bổng nghe tiếng nhạc thoang thoáng và từ xa xa có hai người công nhân đội mũ màu xanh đỏ đang củi lên chiếc xe nằm gần một mô đất cao.
Sau đó, cả hai phụ nữ đến gặp người trông coi khu nghỉ mát Petit Trianon. Người nầy sau khi nghe hai cô gái kể lại mọi sự họ đã trông thấy (cũng như những gì gọ đã ghi chép lại trong nhật ký) thì chỉ lắc đầu và nói: "Tôi xin phát biểu là tất cả những gì hai cô đã trình bày đều là của quá khứ vì tôi là người trực tiếp coi sóc khu nầy đã lâu năm, tôi chưa bao giờ trông thấy những người như đã kể, hơn nữa, với những áo quần nhà cửa, vật dụng ấy thì chỉ có thể thấy được cách đây hơn một thế kỷ mà thôi." Nhân thấy những gì mìng kể lại đều khó được ai chấp nhận hay giải thích. Cả hai phụ nữ lại đến khu Versailles lần nữa. Nhưng lần nầy, tất cả những gì mà họ đã đi qua, đã trông thấy đều không còn nữa. Họ chỉ còn một quyết định là đến thư viện lớn nhất là viện chuyên chuyên về lịch sử để tìm lời chứng nhận và giải đáp qua tư liệu mà thôi. Tại đây, qua các tài liệu lịch sử, phong tục học và xã hội học của nước Pháp, họ ghi nhận lại rằng những trang phục mà họ đã thấy qua những người xuất hiện ở Petit Trianon là trang phục của thời đại vua Louis. Nơi họ đến là khi qua cầu là nơi hoàng hậu Marie Antointte đến nghỉ ngơi vào mùa hè. Người phụ nữ ngồi bên giá vẽ tranh mà bà Anne Mobely thấy chính là hoàng hậu Marie Antoinette.
Câu chuyện
lạ lùng mà Eleanor Jourdain và Anne Mobrly đã trải qua chẳng bao lâu lôi cuốn một
số nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu hình. Các nhà sưu tập sử liệu cũng đã
góp phần tìm hiểu về những gì mà tập bút ký của hai phụ nữ nầy có ghi lại.
Trong một bản tài liệu lịch sử người ta thấy có nhắc đến túp lều ở Trianon, nơi
đây có hai người sinh sống là một cô bé 14 tuổi và người mẹ của cô.
Người đàn ông gương mặt nghiêm khắc với những chấm rổ là người quen thân của hoàng hậu đến nghỉ mát vào mỗi dịp hè ở khu nầy. Riêng về cây cầu mà hai phụ nữ đi qua với dòng suối êm dịu như mơ nay không còn thấy thì lại có một tài liệu được phát hiện vào năm 1913 qua một bản đồ vẽ chi tiết những địa điểm, địa danh của vùng Petit Trianon do chính người làm vườn của hoàng hậu Marie Antoinette vẽ, trên bản đồ nầy có vẽ hình cây cầu bắt qua một con suối.
Như thế, mọi thứ mà hai phụ nữ Moberly và Jourdan thấy lần lần đều đã được xác nhận và như thế, rõ ràng họ đã một đôi lần đi vào quá khứ mà họ không ngờ. Điều cần biết thêm là hai phụ nữ nầy đều là những nhà trí thức Bà Anne Moberly là hiệu trưởng của trường College St. Hugh thuộc đại học Oxford, cô Eleanor Jordan là nhà nghiên cứu sử và là giảng viên về ngôn ngữ Pháp. Hai người nầy không phải là dân Pháp. Họ đến tham quan nước Pháp vào mùa hè năm 1901. Tư liệu về câu chuyện của họ hiện nay vẫn còn lưu trữ tại thư viện Bodleian của đại học Oxford.
Nhiều tài liệu nói về những hiện tượng trở lại quá khứ hiện nay đã được nhiều nhà nghiên cứu và những trung tâm nghiên cứu hiện tượng siêu hình sưu tầm và lưu trữ tại nhiều nơi trên thế giới.
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại như sau: Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory (một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật Hoa Kỳ) đã lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi lên gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông Cory buộc lòng phải ngưng xe lại để quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo. Ông vừa xuống xe thì thấy từ xa có một ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng loá như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây. Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt một vùng có nhà cửa và mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà sồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ đêm tại đây vì trời còn xấu. Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loài thú. Có những tấm bằng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Điều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò sưởi phòng khách lớn lên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông cần được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài. Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ thì đây là điện thoại quá xưa cũ mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi. Tuy nhiên, ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại nầy để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mỏi mệt và buồn ngủ, bỗng nhiên trong cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống. Ông Cory tưởng đó là người quản lý khách sạn. Nhưng nhìn kỹ lại, ông cụ giống như một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên ghế dài. Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có vẻ lơ đãng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không? Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả. Ông Cory cảm thấy hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo dòng linh cảm. Ông hỏi: Đây là đâu? xin các ông vui lòng cho tôi biết hiện tôi đang ở đâu đây? Có vài người bước tới nhìn ông và hình như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả!
Người đàn ông gương mặt nghiêm khắc với những chấm rổ là người quen thân của hoàng hậu đến nghỉ mát vào mỗi dịp hè ở khu nầy. Riêng về cây cầu mà hai phụ nữ đi qua với dòng suối êm dịu như mơ nay không còn thấy thì lại có một tài liệu được phát hiện vào năm 1913 qua một bản đồ vẽ chi tiết những địa điểm, địa danh của vùng Petit Trianon do chính người làm vườn của hoàng hậu Marie Antoinette vẽ, trên bản đồ nầy có vẽ hình cây cầu bắt qua một con suối.
Như thế, mọi thứ mà hai phụ nữ Moberly và Jourdan thấy lần lần đều đã được xác nhận và như thế, rõ ràng họ đã một đôi lần đi vào quá khứ mà họ không ngờ. Điều cần biết thêm là hai phụ nữ nầy đều là những nhà trí thức Bà Anne Moberly là hiệu trưởng của trường College St. Hugh thuộc đại học Oxford, cô Eleanor Jordan là nhà nghiên cứu sử và là giảng viên về ngôn ngữ Pháp. Hai người nầy không phải là dân Pháp. Họ đến tham quan nước Pháp vào mùa hè năm 1901. Tư liệu về câu chuyện của họ hiện nay vẫn còn lưu trữ tại thư viện Bodleian của đại học Oxford.
Nhiều tài liệu nói về những hiện tượng trở lại quá khứ hiện nay đã được nhiều nhà nghiên cứu và những trung tâm nghiên cứu hiện tượng siêu hình sưu tầm và lưu trữ tại nhiều nơi trên thế giới.
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lý kể lại như sau: Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory (một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật Hoa Kỳ) đã lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đãng. Vì đường xa nên khi đến địa phận Oregon thì trời vừa tối nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Bỗng nhiên một trận bão tuyết nổi lên gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông Cory buộc lòng phải ngưng xe lại để quan sát tình hình vì tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo. Ông vừa xuống xe thì thấy từ xa có một ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở dò đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng loá như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây. Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt một vùng có nhà cửa và mà đường sá thì có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà sồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ đêm tại đây vì trời còn xấu. Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loài thú. Có những tấm bằng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Điều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở lò sưởi phòng khách lớn lên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông cần được sưởi ấm. Ông đến bên lò sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài. Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nhìn kỹ thì đây là điện thoại quá xưa cũ mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ tìm thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi. Tuy nhiên, ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại nầy để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy hình như không còn hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mỏi mệt và buồn ngủ, bỗng nhiên trong cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống. Ông Cory tưởng đó là người quản lý khách sạn. Nhưng nhìn kỹ lại, ông cụ giống như một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó vì nhìn lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm lì đi đến bên lò sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ vì đây là một khách sạn Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên ghế dài. Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn mà phần lớn là những người già. Nhiều người nhìn ông nhưng có vẻ lơ đãng không quan tâm. Ông Cory đã đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không? Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời và nếu có thì những lời nói của họ không có mạch lạc hoặc chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi mà ông đã nêu ra cả. Ông Cory cảm thấy hoang mang trong lòng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo dòng linh cảm. Ông hỏi: Đây là đâu? xin các ông vui lòng cho tôi biết hiện tôi đang ở đâu đây? Có vài người bước tới nhìn ông và hình như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có gì phải sợ cả!
Ông Cory
chợt nhớ tới chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn còn đó. Ông
mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vã như muốn thoát một
nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy nầy. Chiếc xe băng qua những con đường gập
ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi 2 bên đường. Những người nầy
ăn mặc những áo quần mà hình như ông chỉ thấy đâu đó trong sách vở, từ điển.
Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Điều
kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng nầy, ông có cảm giác như xe đang
di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông Cory đã lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào ngủ qua một đêm. Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là một vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu điện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indianna. Đó là khoảng những năm 1850, 1851, 1852.v.v... Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh. Vậy, rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng thời gian và vào thời quá vãng cách thời đại ông cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đã xảy ra khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và Georgge Bruce trong một chuyến leo núi (tháng 5 năm 1987), cả hai đều thấy rõ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scoland rất nên thơ. Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế, đầy tiện nghi. Trước đó hai người nầy nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên. Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng kinh ngạc và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào có ngôi nhà xuất hiện ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên hơn nữa khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa. Khi trở xuống, họ đi vòng khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những gì mà mình đã thấy về ngôi nhà vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng nầy được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm của 1950, ở đây có một số nhà cửa dựng lên trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước. Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông lại thấy ngôi nhà thì rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã thấy được hình ảnh của quá khứ. Một sự kiện lạ lùng đã và đang xảy ra tại một nơi trên thế giới mà hiện nay các nhà khoa học thật sự còn bó tay chưa thể nào giải thích được. Được biết tài liệu nầy được đăng lại cuốn Unexplained Mysteries of the 20th Century của Janet và Colin Bord biên soạn (nhà xuất bản Contemporary books Chicago USA 1989).
Năm 1974 báo chí Hoa Kỳ có dịp đăng tải một tin lạ lùng về hình ảnh quá khứ xuất hiện. Tháng 6 năm 1974, một người tên là Bo Linus Orsjo đang đi bộ trên vùng có tên là Mount Lowe thì bỗng nhiên thấy một tòa nhà màu xanh lục to lớn xuất hiện trước mặt, đó là một khách sạn lớn. Người nầy cũng tưởng đó là một khách sạn được xây cất và đang hiện hữu. Nhưng không ngờ, hai năm sau đến thăm lại vùng nầy anh ta không còn thấy cái khách sạn khổng lồ ấy đâu nữa mà chỉ thấy một vài di tích mục rửa đổ nát của vùng đất nầy mà thôi. Bo Linus Orsjo hỏi người quen trong vùng thì được các người già trong vùng cho biết là trước đó khoảng 40 chục năm, ở nơi mà Bo Linus Orsjo thấy khách sạn đã có một khách sạn lớn được xây dựng nhưng đã bị thiêu rụi (đó là năm 1937).
Trong cuốn Mystic Place của nhà xuất bản Time Life Book (1991) có một tài liệu mô tả về một sự kiện có thật đã xảy ra tại vùng đất Loe Bar, nơi mà nhà địa chất học Stephen Jenkins đã thấy được hình ảnh của quá khứ. Tài liệu nhan đề là A Phantom Army at Loe Bar được tóm tắt như sau:
Một buổi trưa tháng 8 năm 1936, Stephen Jenkins sáu mươi tuổi, nhà nghiên cứu địa chất thường tới vùng Loe Bar, một địa điểm thuộc vùng bờ biển Cornish. Trong khi Jenkins đang chăm chú theo dõi các vùng đất thì bỗng nhiên ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình một đạo quân thuộc thời Trung Cổ xuất hiện. Quân phục của họ chứng tỏ họ đang trải qua những cuộc chạm trán trong trận mạc. Các chiến sĩ mặc áo đủ màu và khoác lại áo choàng không có tay màu trắng, màu đỏ và màu đen. Ngựa của họ có tấm che phủ với đầy đủ yên cương và những thứ trang sức cho ngựa. Một mình lính đứng giữa đội quân, hai tay chống kiếm, mình khoác áo choàng màu đỏ tía đang quắc mắt nhìn chăm chăm về phía Jenkins đứng.
Vừa lạ lùng, vừa kinh ngạc, Jenkins, với tính tò mò, gan dạ và thích mạo hiểm, đã không ngần ngại tiến về phía đoàn quân. Nhưng hành động đã làm toàn thể đoàn quân thời Trung Cổ biến mất tức thì.
Jenkins giật mình ngơ ngác và tưởng như mình vừa trải qua một giấc mơ. Ông kể lại chuyện nầy cho người vợ nghe và họ đã ghi vào nhật ký hiện tượng lạ lùng nầy. Thế rồi 38 năm sau, ông Jenkins đã chọn đúng ngày mà cách đó 38 năm ông đã trông thấy điều kỳ lạ để cùng với người vợ đến ngay địa điểm mà ngày xưa ông đã đứng.
Hai vợ chồng lên đường với bức họa đồ ghi địa điểm trên tay, khi họ đến nơi, và đứng ngay vào địa điểm đoàn quân thời trung cổ hiên ra lần nầy còn rõ ràng hơn lúc trước. Mặc dầu trước đó bà Jenkins không tin chuyện chồng mình kể nhưng lần nầy bà thấy rõ ràng điều mà bà không thể tin được. Đoàn quân với sắc phục rực rỡ, cờ xí ngựa và gươm giáo ra trước mặt mình, bà sợ quá níu chặt lấy cánh tay chồng và rụi mắt vì cứ tưởng mình nằm mơ.
Khi tường trình sự việc trước một nhóm nhà khoa học ông Stephen Jenkins đã nói như sau:
"Nếu lúc đó vài người trong quý vị có mặt với chúng tôi thì có lẽ lời trình bày sẽ nặng cân hơn và có giá trị đứng đắn trung thực hơn..."
Nhiều giả thuyết đã được nêu ra để giải thích cho hiện tượng nầy. Theo sự giải thích cùa chính Stephen Jenkins thì có thể đạo quân ma nầy thường xuất hiện ngay nơi vùng Comish và con người may mắn thấy được là do một năng lực tinh thần nào đó phát nguồn từ một giao điểm (node). Loe Bar vẫn còn đó nhưng nơi mà năm 1936 cũng như năm 1974 Jenkins đã đứng sẽ không nhất thiết luôn luôn đều thấy được hiện tượng kể trên vì còn tùy thuộc vào môi trường, khí hậu, tầm nhìn và nhất là tùy vào từng con người đứng nơi địa điểm ấy. Điều nầy mới nghe qua có vẻ không hợp lý nhưng theo Jenet và Collin (hai nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu hình, ma quái) thì đó là vấn đề cần phải đặt ra. Hai nhà nghiên cứu nầy đã ghi nhận một trường hợp về "hồn ma" xuất hiện vào năm 1904. Tháng ba năm ấy, ột toán học sinh được thầy giáo dẫn đi du khảo. Họ leo lên một ngọn đồi Marlpit gần Honiton. Tất cả các học sinh hôm đó điều trong thấy một người đàn ông khoát áo choàng màu nêu và đội mũ rộng vàng màu đen. Toàn thể con người và gương mặt u ám như phủ một màn sương khói. Theo tài liệu của Collin thì đó là một hồn ma đã được ghi nhận (tài liệu thư viện) từ năm 1685. Người đàn ông nầy là một trong những người trốn chạy từ trận đánh ở Sedgemoor vào năm 1685 và sau đó bị quân địch giết chết. Nhà anh ta ở ngay trên đồi Marlpit...
Tuy nhiên điều kỳ lạ là tất cả các học sinh trong chuyến du khảo ấy đều thấy (người đàn ông trong quá khứ) nhưng thầy giáo dẫn các học sinh đi thì lại tuyệt nhiên không thấy gì cả...
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đã trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dã, nơi ông Cory đã lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đã bước vào ngủ qua một đêm. Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là một vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu điện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indianna. Đó là khoảng những năm 1850, 1851, 1852.v.v... Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 thì nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh. Vậy, rõ ràng ông Cory đã tình cờ đi ngược dòng thời gian và vào thời quá vãng cách thời đại ông cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đã xảy ra khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và Georgge Bruce trong một chuyến leo núi (tháng 5 năm 1987), cả hai đều thấy rõ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scoland rất nên thơ. Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế, đầy tiện nghi. Trước đó hai người nầy nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến và không có dấu vết gì ghi chú về căn nhà nói trên. Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng kinh ngạc và tưởng như là một chuyện kỳ khôi vì không thể nào có ngôi nhà xuất hiện ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên hơn nữa khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nhìn thì không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa. Khi trở xuống, họ đi vòng khắp hồ nhưng ngôi nhà đã hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những gì mà mình đã thấy về ngôi nhà vào nhật ký. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng nầy được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm của 1950, ở đây có một số nhà cửa dựng lên trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước. Rồi vì một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông lại thấy ngôi nhà thì rõ ràng ngôi nhà ấy là hình ảnh của quá khứ, một hình ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đã thấy được hình ảnh của quá khứ. Một sự kiện lạ lùng đã và đang xảy ra tại một nơi trên thế giới mà hiện nay các nhà khoa học thật sự còn bó tay chưa thể nào giải thích được. Được biết tài liệu nầy được đăng lại cuốn Unexplained Mysteries of the 20th Century của Janet và Colin Bord biên soạn (nhà xuất bản Contemporary books Chicago USA 1989).
Năm 1974 báo chí Hoa Kỳ có dịp đăng tải một tin lạ lùng về hình ảnh quá khứ xuất hiện. Tháng 6 năm 1974, một người tên là Bo Linus Orsjo đang đi bộ trên vùng có tên là Mount Lowe thì bỗng nhiên thấy một tòa nhà màu xanh lục to lớn xuất hiện trước mặt, đó là một khách sạn lớn. Người nầy cũng tưởng đó là một khách sạn được xây cất và đang hiện hữu. Nhưng không ngờ, hai năm sau đến thăm lại vùng nầy anh ta không còn thấy cái khách sạn khổng lồ ấy đâu nữa mà chỉ thấy một vài di tích mục rửa đổ nát của vùng đất nầy mà thôi. Bo Linus Orsjo hỏi người quen trong vùng thì được các người già trong vùng cho biết là trước đó khoảng 40 chục năm, ở nơi mà Bo Linus Orsjo thấy khách sạn đã có một khách sạn lớn được xây dựng nhưng đã bị thiêu rụi (đó là năm 1937).
Trong cuốn Mystic Place của nhà xuất bản Time Life Book (1991) có một tài liệu mô tả về một sự kiện có thật đã xảy ra tại vùng đất Loe Bar, nơi mà nhà địa chất học Stephen Jenkins đã thấy được hình ảnh của quá khứ. Tài liệu nhan đề là A Phantom Army at Loe Bar được tóm tắt như sau:
Một buổi trưa tháng 8 năm 1936, Stephen Jenkins sáu mươi tuổi, nhà nghiên cứu địa chất thường tới vùng Loe Bar, một địa điểm thuộc vùng bờ biển Cornish. Trong khi Jenkins đang chăm chú theo dõi các vùng đất thì bỗng nhiên ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy trước mặt mình một đạo quân thuộc thời Trung Cổ xuất hiện. Quân phục của họ chứng tỏ họ đang trải qua những cuộc chạm trán trong trận mạc. Các chiến sĩ mặc áo đủ màu và khoác lại áo choàng không có tay màu trắng, màu đỏ và màu đen. Ngựa của họ có tấm che phủ với đầy đủ yên cương và những thứ trang sức cho ngựa. Một mình lính đứng giữa đội quân, hai tay chống kiếm, mình khoác áo choàng màu đỏ tía đang quắc mắt nhìn chăm chăm về phía Jenkins đứng.
Vừa lạ lùng, vừa kinh ngạc, Jenkins, với tính tò mò, gan dạ và thích mạo hiểm, đã không ngần ngại tiến về phía đoàn quân. Nhưng hành động đã làm toàn thể đoàn quân thời Trung Cổ biến mất tức thì.
Jenkins giật mình ngơ ngác và tưởng như mình vừa trải qua một giấc mơ. Ông kể lại chuyện nầy cho người vợ nghe và họ đã ghi vào nhật ký hiện tượng lạ lùng nầy. Thế rồi 38 năm sau, ông Jenkins đã chọn đúng ngày mà cách đó 38 năm ông đã trông thấy điều kỳ lạ để cùng với người vợ đến ngay địa điểm mà ngày xưa ông đã đứng.
Hai vợ chồng lên đường với bức họa đồ ghi địa điểm trên tay, khi họ đến nơi, và đứng ngay vào địa điểm đoàn quân thời trung cổ hiên ra lần nầy còn rõ ràng hơn lúc trước. Mặc dầu trước đó bà Jenkins không tin chuyện chồng mình kể nhưng lần nầy bà thấy rõ ràng điều mà bà không thể tin được. Đoàn quân với sắc phục rực rỡ, cờ xí ngựa và gươm giáo ra trước mặt mình, bà sợ quá níu chặt lấy cánh tay chồng và rụi mắt vì cứ tưởng mình nằm mơ.
Khi tường trình sự việc trước một nhóm nhà khoa học ông Stephen Jenkins đã nói như sau:
"Nếu lúc đó vài người trong quý vị có mặt với chúng tôi thì có lẽ lời trình bày sẽ nặng cân hơn và có giá trị đứng đắn trung thực hơn..."
Nhiều giả thuyết đã được nêu ra để giải thích cho hiện tượng nầy. Theo sự giải thích cùa chính Stephen Jenkins thì có thể đạo quân ma nầy thường xuất hiện ngay nơi vùng Comish và con người may mắn thấy được là do một năng lực tinh thần nào đó phát nguồn từ một giao điểm (node). Loe Bar vẫn còn đó nhưng nơi mà năm 1936 cũng như năm 1974 Jenkins đã đứng sẽ không nhất thiết luôn luôn đều thấy được hiện tượng kể trên vì còn tùy thuộc vào môi trường, khí hậu, tầm nhìn và nhất là tùy vào từng con người đứng nơi địa điểm ấy. Điều nầy mới nghe qua có vẻ không hợp lý nhưng theo Jenet và Collin (hai nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu hình, ma quái) thì đó là vấn đề cần phải đặt ra. Hai nhà nghiên cứu nầy đã ghi nhận một trường hợp về "hồn ma" xuất hiện vào năm 1904. Tháng ba năm ấy, ột toán học sinh được thầy giáo dẫn đi du khảo. Họ leo lên một ngọn đồi Marlpit gần Honiton. Tất cả các học sinh hôm đó điều trong thấy một người đàn ông khoát áo choàng màu nêu và đội mũ rộng vàng màu đen. Toàn thể con người và gương mặt u ám như phủ một màn sương khói. Theo tài liệu của Collin thì đó là một hồn ma đã được ghi nhận (tài liệu thư viện) từ năm 1685. Người đàn ông nầy là một trong những người trốn chạy từ trận đánh ở Sedgemoor vào năm 1685 và sau đó bị quân địch giết chết. Nhà anh ta ở ngay trên đồi Marlpit...
Tuy nhiên điều kỳ lạ là tất cả các học sinh trong chuyến du khảo ấy đều thấy (người đàn ông trong quá khứ) nhưng thầy giáo dẫn các học sinh đi thì lại tuyệt nhiên không thấy gì cả...
Những Người
Thấy Trước Tương Lai
Trên thế
giới từ xưa đến nay không hiếm những người có thể thấy được tương lai. Những
câu chuyện có thật về vấn đề nầy thường đã xảy ra và các nhà khoa học đang ra sức
nghiên cứu tìm hiểu mong giải đáp được vấn đề, nhưng thật sự cho đến nay những
giải thích chỉ là những suy đoán từ một số giả thuyết mà thôi.
Mới đây báo chí Hoa Kỳ đăng một tin khá lạ lùng về một nữ nhân viên kỳ cựu trong đội cứu hỏa thuộc tiểu bang Georgia là bà Becky Denlinger, bà nầy hiện là đại úy trong đội cứu hỏa của quận Cobb. Ngày 8 tháng 11 ăm 1989 bà cảm thấy mỏi mệt nên ngủ thiếp nơi bàn làm việc. Trong thời gian ấy bà mơ thấy toàn thể nhân viên trong đội cứu hỏa của bà đã huy động đến cứu chữa khẩn cấp một tòa cao ốc đang bốc lửu vì một phản lực cơ nào đó đâm nhào vào đó. Bà nghe tiếng la hét và tiếng nổ kinh hoàng làm bà tỉnh giấc. Mồ hôi tỏa khắp người. Bà cảm thấy khát nước và sau đó bà kể lại giấc mơ kỳ lạ cho các nhân viên trong đội cứu hỏa nghe. Nhiều người kết luận rằng đó là hiện tượng tự kỷ ám thị mà thôi. Nhưng chỉ sau đó không đầy hơn một giờ, toàn bộ đội cứu hỏa của bà Becky Denlinger đã tức tốc lên đường vì họ vừa nhận được tin báo khẩn cấp một vụ cháy lớn đã bột phát tại một cao ốc cách họ 60 cây số. Vụ nổ xảy ra do một phản lực của hải quân Hoa Kỳ đã bị nổ và đâm sầm vào tòa nhà làm phát ra đám cháy lớn khiến nhiều người bị thương và hai người bị thiệt mạng.
Từ lâu đã có những lời giải thích đưa ra về vấn đề khả năng thấy trước những sự việc sắp xảy ra là hiện tượng mà tri giác con người được kết hợp đồng bộ với chu kỳ của thời gian và những tác động xảy ra. Ki suy nghĩ, tưởng tượng, sỡ dĩ ta có được những hình ảnh phong phú phức tạp là do sóng não đã cộng hưởng với những hình ảnh của quá khứ, những gì đã xảy ra, vì thế sự tưởng tượng là sự phát triển thêm từ những cái đã có để được những gì chưa có hay đổi khác hơn. Trong vũ trụ, thiên nhiên có những chu kỳ lập lại thoe từng giai đoạn nào đó, vì thế, một việc xảy ra ở quá khứ có thể sẽ lại xảy ra trở lại vào một thời điểm nào đó. Sự tưởng tượng nếu được bắt gặp được tần số thì sẽ trở thành hiện thức sau đó. Sự giải thích nầy còn được cho rằng khi nằm mộng chính là tiềm thức đang được khơi dậy nhanh hơn vì thế nhiều người mơ thấy một sự kiện gì đó thì sau đó rõ ràng sự kiện xảy đến hoàn toàn phù hợp. Theo các nhà nghiên cứu như Kotik (Nga Xô), bác sĩ Rhine, nhà nghiên cứu Warcollier (Pháp), Tichner (Đức)... thì nhiều người có khả năng kỳ diệu và bộ não của họ giống như một máy thu hình có thể nhận những thước phim về những diễn tiến trong không gian. Sự giải thích vẫn chưa làm thỏa mãn được ai. Vì thế, cho đến nay, các khoa học già vẫn có gắng đi sâu vào lãnh vực nghiên cứu khả năng kỳ diệu nầy ở con người và nhất là nguyên nhân phát sinh ra hả năng ấy. Điều quan trọng và thực tế thấy trước mắt là thế giới loài người không hiếm những nhân vật phi thường có bộ não lạ g và tâm linh huyền diệu có thể biết trước được những sự kiện sắp xảy ra trong một thời gian sắp tới từ vài ngày, vài tháng vài năm và có khi xa hơn cả hàng trăm năm. Khả năng biết trước tương lai nầy không phải chỉ riêng những người có năng khiếu thần nhãn mà ngay cả những con người bình thường như chuyện bà Becky Denlinger vừa kể trên cũng có thể có. Tuy nhiên sự thấy trước tương lai ấy thường được thể hiện qua nhiều phương thức.
Có ngưới do tưởng tượng phong phú, có người do nằm mộng, có người có khả năng thiên phú đặc biệt thể hiện qua nhà tiên tri, bói toán... Theo các nhà khoa học thì quả thật giác quan con người thường dùng rất có giới hạn. Nếu xét và so sánh với các sinh vật khác, đôi khi vẫn còn có ở một số người. Nhà nghiên cứu Gina Cerminara đã nhắc đến trường hợp nhà toán học nổi danh Swedenborg có năng khiếu thấy trước tương lai.
Đối với các nhà tiên tri thì trên thế giới hiện tượng lạ lùng về những lời tiên tri của Nostradamus đều lần lượt được thể hiện theo thời gian. Nhà tiên tri nầy đã tiên đoán nhiều sự việc đã xảy ra trên thế giới. Nhưng tương lai sẽ xảy ra ấy có khi từ 10 năm cho đến 100 năm. Ông đã tiên đoán những biến cố trọng đại của thế giới về tật bệnh, về chiến tranh, về các thiên tai khủng khiếp mà hầu hết đều ứng hiện rõ ràng qua những lời tiên đoán gọi là Sấm Ký. Tại Trung Hoa ngày xưa cũng có rất nhiều người có khả năng suy đoán tương lai nổi tiếng như Khổng Minh Gia Cát, và những nhân vật nổi danh khác như Thiệu Khang Tiết, như Đào Bán Mai, Thượng Lã Nhân... ở Việt Nam có Trạng Trình, Tả Ao v..v... Tại Hoa Kỳ, từ lâu báo chí và đài truyền hình thường ca ngợi tài tiên đoán, biết trước tương lai của những nhà bói toán nổi danh như bà Quygly, bà Jeane, Dixon... và đặc biệt là bà Dorothy Ellison người có khả năng thấy rõ tương lai (tiểu bang New Jersey) ở Nepal có Damodara Natha Lohani, Ấn Độ có J. M. Lal Mahadjan, Sudeih Babu. v. v...
Sau đây là một vài sự kiện có liên quan đến một số nhân vật có khả năng suy đoán, thấy và biết được tương lai:
Đối với nhà tiên tri Nostradamus thì những suy đoán của ông đối với vận hạn thế giới xảy ra trước năm 1990 phần lớn đều phù hợp. Ngay cả sự kiện phi thuyền con thoi của Mỹ bị nổ tung khi được phóng khỏi giàn phóng cũng được Nostradamus tiên đoán trước đó rất chính xác. Về tương lai nhà tiên tri còn cho biết là sẽ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ ba kéo dài 30 năm, bắt đầu từ năm 1999. Lúc bấy giờ Pháp là quốc gia bị thiệt hại nặng nề. Trước đó là sự xích lại gần nhau của hai siêu cường Nga Mỹ sau cuộc thế chiến thứ ba đầy tàn khốc, nhân loại có ai còn sống sót sẽ sống một thời gian dài thái bình an lạc. Cũng theo nhà tiên tri Nostradamus thì ngày thế giới tận thế sẽ là một ngày nào đó của năm 3979. Trước đó sa mạc Gobi sẽ biến thành biển.
Nostradamus khác với nhà chiêm tinh khác trên thế giới. Ông có khả năng đoán vận mệnh thế giới trong khoảng vài thế kỷ.
Nostradamus sinh năm 1503 và mất năm 1566. Ông là nhà thiên văn và vật lý học của Pháp. Sinh quán của ông là thành phố St. Remy. Tốt nghiệp y khoa tại đại học Montepellier. Ông ngoại của ông là một nhà bác học. Ông có vợ và con nhưng vợ con đều chết vì bệnh dịch hoành hành. Từ đó ông trở nên đăm chiêu tư lự và chìm đắm vào nghiên cứu về huyền bí. Dần dần tài tiên đoán của ông nổi tiếng khắp thế nơi. Chính Nostradamus khi ở Ý đã tiên đoán một người chăn heo nghèo khổ sau nầy sẽ thành vị Hồng Y của Montalno. Người ấy chính là Felice Peretti. Có lần một quý tộc (Seigneur de Plorinville) đã thử tài ông bằng cách chỉ cho ông hai con heo và hỏi tương lai của chúng. Nostradamus suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo:
- Con heo lông xám trắng sẽ bị chó sói ăn còn heo lông đen thì ngài và quan khách sẽ ăn thịt nói.
Để làm sai lời đoán, nhà quý tộc sai gia nhân giết heo trắng để đãi khách. Nhưng sau khi đã giết heo, đầu bếp mãi lo nấu các món khác, bất ngờ có một con chó sói lén tha con heo đã làm thịt, người nhà la lên đánh đuổi sói thì nó đã kéo chạy mất buộc lòng phải làm luôn con heo lông đen.
Biết rõ chuyện, nhà quý tộc hết sức bái phục nhà tiên tri, ông cũng không quên mất không nghĩ rằng ông có nuôi mấy con chó sói trong vườn nhà.
Điều kỳ diệu là ông tự đoán đúng ngày tháng ông mất và ngày tháng năm ông sẽ được cải táng.
Một người "thấy được tương lai" nổi tiếng khác ở Thụy Điển là Emanuel Swedenborg. Sinh năm 1688 và mất năm 1772. Ông là người đa tài, từ khoa học, thiên văn, tôn giáo, toán học, lịch sử, địa chất ông đều biết sâu rộng không những vậy, ông còn biết về biển cả, sinh vật, máy móc, vũ khí, tàu bè...
Ông được xem như một nhà bác học của thế kỷ 18. Điều đặc biệt là ông có khả năng khiếu thần thông kỳ lạ có lần đang ngồi ăn tối bỗng nhiên ông giật mình nói to: "đang có trận hỏa hoạn lớn xảy ra tại Stockhom". Stockhom là quê hương của ông. Mặc dầu lúc đó ông đang sống tại một nơi xa chỗ hỏa hoạn đến 500 cây số.
Không những ông thấy được "qua thần nhã" của mình mà còn thấy được đám cháy đang lan đến đâu nữa.
Vì đám cháy lúc ấy lại xảy ra đúng vào vùng có nhà của gia đình ông nên ông đã mô tả (khi đang ở xa 500 cây số) chi tiết rằng đám cháy sẽ bị dập tắt và rất may lúc đó ngọn lửa còn cách nhà ông chỉ vài ba căn nữa thôi thì bị dập tắt. Khi nhắc đến Emanuel Swedenborg người ta lại không thể quên được Alex Tanous một người cũng nổi danh về biệt tài thấy được hậu lai. Ngày 23 tháng 8 năm 1980, giám đốc đài NBC là Lee Speigel đã mở cuộc phỏng vấn đặc biệt Alex Tanous về tương lai của nhạc Rock. Alex Tanous đã nghiêm sắc mặt trả lời như sau:
"Tôi chỉ thấy một điều duy nhất nổi bật trước mắt tôi là sẽ có một danh ca nổi tiếng trong làng nhạc Rock chết một cách bất ngờ".
Mới đây báo chí Hoa Kỳ đăng một tin khá lạ lùng về một nữ nhân viên kỳ cựu trong đội cứu hỏa thuộc tiểu bang Georgia là bà Becky Denlinger, bà nầy hiện là đại úy trong đội cứu hỏa của quận Cobb. Ngày 8 tháng 11 ăm 1989 bà cảm thấy mỏi mệt nên ngủ thiếp nơi bàn làm việc. Trong thời gian ấy bà mơ thấy toàn thể nhân viên trong đội cứu hỏa của bà đã huy động đến cứu chữa khẩn cấp một tòa cao ốc đang bốc lửu vì một phản lực cơ nào đó đâm nhào vào đó. Bà nghe tiếng la hét và tiếng nổ kinh hoàng làm bà tỉnh giấc. Mồ hôi tỏa khắp người. Bà cảm thấy khát nước và sau đó bà kể lại giấc mơ kỳ lạ cho các nhân viên trong đội cứu hỏa nghe. Nhiều người kết luận rằng đó là hiện tượng tự kỷ ám thị mà thôi. Nhưng chỉ sau đó không đầy hơn một giờ, toàn bộ đội cứu hỏa của bà Becky Denlinger đã tức tốc lên đường vì họ vừa nhận được tin báo khẩn cấp một vụ cháy lớn đã bột phát tại một cao ốc cách họ 60 cây số. Vụ nổ xảy ra do một phản lực của hải quân Hoa Kỳ đã bị nổ và đâm sầm vào tòa nhà làm phát ra đám cháy lớn khiến nhiều người bị thương và hai người bị thiệt mạng.
Từ lâu đã có những lời giải thích đưa ra về vấn đề khả năng thấy trước những sự việc sắp xảy ra là hiện tượng mà tri giác con người được kết hợp đồng bộ với chu kỳ của thời gian và những tác động xảy ra. Ki suy nghĩ, tưởng tượng, sỡ dĩ ta có được những hình ảnh phong phú phức tạp là do sóng não đã cộng hưởng với những hình ảnh của quá khứ, những gì đã xảy ra, vì thế sự tưởng tượng là sự phát triển thêm từ những cái đã có để được những gì chưa có hay đổi khác hơn. Trong vũ trụ, thiên nhiên có những chu kỳ lập lại thoe từng giai đoạn nào đó, vì thế, một việc xảy ra ở quá khứ có thể sẽ lại xảy ra trở lại vào một thời điểm nào đó. Sự tưởng tượng nếu được bắt gặp được tần số thì sẽ trở thành hiện thức sau đó. Sự giải thích nầy còn được cho rằng khi nằm mộng chính là tiềm thức đang được khơi dậy nhanh hơn vì thế nhiều người mơ thấy một sự kiện gì đó thì sau đó rõ ràng sự kiện xảy đến hoàn toàn phù hợp. Theo các nhà nghiên cứu như Kotik (Nga Xô), bác sĩ Rhine, nhà nghiên cứu Warcollier (Pháp), Tichner (Đức)... thì nhiều người có khả năng kỳ diệu và bộ não của họ giống như một máy thu hình có thể nhận những thước phim về những diễn tiến trong không gian. Sự giải thích vẫn chưa làm thỏa mãn được ai. Vì thế, cho đến nay, các khoa học già vẫn có gắng đi sâu vào lãnh vực nghiên cứu khả năng kỳ diệu nầy ở con người và nhất là nguyên nhân phát sinh ra hả năng ấy. Điều quan trọng và thực tế thấy trước mắt là thế giới loài người không hiếm những nhân vật phi thường có bộ não lạ g và tâm linh huyền diệu có thể biết trước được những sự kiện sắp xảy ra trong một thời gian sắp tới từ vài ngày, vài tháng vài năm và có khi xa hơn cả hàng trăm năm. Khả năng biết trước tương lai nầy không phải chỉ riêng những người có năng khiếu thần nhãn mà ngay cả những con người bình thường như chuyện bà Becky Denlinger vừa kể trên cũng có thể có. Tuy nhiên sự thấy trước tương lai ấy thường được thể hiện qua nhiều phương thức.
Có ngưới do tưởng tượng phong phú, có người do nằm mộng, có người có khả năng thiên phú đặc biệt thể hiện qua nhà tiên tri, bói toán... Theo các nhà khoa học thì quả thật giác quan con người thường dùng rất có giới hạn. Nếu xét và so sánh với các sinh vật khác, đôi khi vẫn còn có ở một số người. Nhà nghiên cứu Gina Cerminara đã nhắc đến trường hợp nhà toán học nổi danh Swedenborg có năng khiếu thấy trước tương lai.
Đối với các nhà tiên tri thì trên thế giới hiện tượng lạ lùng về những lời tiên tri của Nostradamus đều lần lượt được thể hiện theo thời gian. Nhà tiên tri nầy đã tiên đoán nhiều sự việc đã xảy ra trên thế giới. Nhưng tương lai sẽ xảy ra ấy có khi từ 10 năm cho đến 100 năm. Ông đã tiên đoán những biến cố trọng đại của thế giới về tật bệnh, về chiến tranh, về các thiên tai khủng khiếp mà hầu hết đều ứng hiện rõ ràng qua những lời tiên đoán gọi là Sấm Ký. Tại Trung Hoa ngày xưa cũng có rất nhiều người có khả năng suy đoán tương lai nổi tiếng như Khổng Minh Gia Cát, và những nhân vật nổi danh khác như Thiệu Khang Tiết, như Đào Bán Mai, Thượng Lã Nhân... ở Việt Nam có Trạng Trình, Tả Ao v..v... Tại Hoa Kỳ, từ lâu báo chí và đài truyền hình thường ca ngợi tài tiên đoán, biết trước tương lai của những nhà bói toán nổi danh như bà Quygly, bà Jeane, Dixon... và đặc biệt là bà Dorothy Ellison người có khả năng thấy rõ tương lai (tiểu bang New Jersey) ở Nepal có Damodara Natha Lohani, Ấn Độ có J. M. Lal Mahadjan, Sudeih Babu. v. v...
Sau đây là một vài sự kiện có liên quan đến một số nhân vật có khả năng suy đoán, thấy và biết được tương lai:
Đối với nhà tiên tri Nostradamus thì những suy đoán của ông đối với vận hạn thế giới xảy ra trước năm 1990 phần lớn đều phù hợp. Ngay cả sự kiện phi thuyền con thoi của Mỹ bị nổ tung khi được phóng khỏi giàn phóng cũng được Nostradamus tiên đoán trước đó rất chính xác. Về tương lai nhà tiên tri còn cho biết là sẽ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ ba kéo dài 30 năm, bắt đầu từ năm 1999. Lúc bấy giờ Pháp là quốc gia bị thiệt hại nặng nề. Trước đó là sự xích lại gần nhau của hai siêu cường Nga Mỹ sau cuộc thế chiến thứ ba đầy tàn khốc, nhân loại có ai còn sống sót sẽ sống một thời gian dài thái bình an lạc. Cũng theo nhà tiên tri Nostradamus thì ngày thế giới tận thế sẽ là một ngày nào đó của năm 3979. Trước đó sa mạc Gobi sẽ biến thành biển.
Nostradamus khác với nhà chiêm tinh khác trên thế giới. Ông có khả năng đoán vận mệnh thế giới trong khoảng vài thế kỷ.
Nostradamus sinh năm 1503 và mất năm 1566. Ông là nhà thiên văn và vật lý học của Pháp. Sinh quán của ông là thành phố St. Remy. Tốt nghiệp y khoa tại đại học Montepellier. Ông ngoại của ông là một nhà bác học. Ông có vợ và con nhưng vợ con đều chết vì bệnh dịch hoành hành. Từ đó ông trở nên đăm chiêu tư lự và chìm đắm vào nghiên cứu về huyền bí. Dần dần tài tiên đoán của ông nổi tiếng khắp thế nơi. Chính Nostradamus khi ở Ý đã tiên đoán một người chăn heo nghèo khổ sau nầy sẽ thành vị Hồng Y của Montalno. Người ấy chính là Felice Peretti. Có lần một quý tộc (Seigneur de Plorinville) đã thử tài ông bằng cách chỉ cho ông hai con heo và hỏi tương lai của chúng. Nostradamus suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo:
- Con heo lông xám trắng sẽ bị chó sói ăn còn heo lông đen thì ngài và quan khách sẽ ăn thịt nói.
Để làm sai lời đoán, nhà quý tộc sai gia nhân giết heo trắng để đãi khách. Nhưng sau khi đã giết heo, đầu bếp mãi lo nấu các món khác, bất ngờ có một con chó sói lén tha con heo đã làm thịt, người nhà la lên đánh đuổi sói thì nó đã kéo chạy mất buộc lòng phải làm luôn con heo lông đen.
Biết rõ chuyện, nhà quý tộc hết sức bái phục nhà tiên tri, ông cũng không quên mất không nghĩ rằng ông có nuôi mấy con chó sói trong vườn nhà.
Điều kỳ diệu là ông tự đoán đúng ngày tháng ông mất và ngày tháng năm ông sẽ được cải táng.
Một người "thấy được tương lai" nổi tiếng khác ở Thụy Điển là Emanuel Swedenborg. Sinh năm 1688 và mất năm 1772. Ông là người đa tài, từ khoa học, thiên văn, tôn giáo, toán học, lịch sử, địa chất ông đều biết sâu rộng không những vậy, ông còn biết về biển cả, sinh vật, máy móc, vũ khí, tàu bè...
Ông được xem như một nhà bác học của thế kỷ 18. Điều đặc biệt là ông có khả năng khiếu thần thông kỳ lạ có lần đang ngồi ăn tối bỗng nhiên ông giật mình nói to: "đang có trận hỏa hoạn lớn xảy ra tại Stockhom". Stockhom là quê hương của ông. Mặc dầu lúc đó ông đang sống tại một nơi xa chỗ hỏa hoạn đến 500 cây số.
Không những ông thấy được "qua thần nhã" của mình mà còn thấy được đám cháy đang lan đến đâu nữa.
Vì đám cháy lúc ấy lại xảy ra đúng vào vùng có nhà của gia đình ông nên ông đã mô tả (khi đang ở xa 500 cây số) chi tiết rằng đám cháy sẽ bị dập tắt và rất may lúc đó ngọn lửa còn cách nhà ông chỉ vài ba căn nữa thôi thì bị dập tắt. Khi nhắc đến Emanuel Swedenborg người ta lại không thể quên được Alex Tanous một người cũng nổi danh về biệt tài thấy được hậu lai. Ngày 23 tháng 8 năm 1980, giám đốc đài NBC là Lee Speigel đã mở cuộc phỏng vấn đặc biệt Alex Tanous về tương lai của nhạc Rock. Alex Tanous đã nghiêm sắc mặt trả lời như sau:
"Tôi chỉ thấy một điều duy nhất nổi bật trước mắt tôi là sẽ có một danh ca nổi tiếng trong làng nhạc Rock chết một cách bất ngờ".
Mười hai
hôm sau, đài phát thanh NBC cho phát nguyên văn lời tiên đoán của Alex
Tanous và đến ngày 8 tháng 9, nghĩa là sau buổi phát thanh ba hôm thôi một
ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng của Mỹ bị bắn chết ngay trước cửa nhà (Ca sĩ John
Lennon).
Khi nhắc đến nhà tiên chi nổi tiêng Nostradamus người ta không thể không nghĩ tới một nhà tiên tri của thời đại hiện nay là Mario De Sebasto. Ông nầy đã đưa ra những lời tiên đoán đáng lưu tâm cho những thời gian 1980 đến 2000 sẽ có những cuộc thay đổi lớn ở một số nước trên thế giới (Nga Xô và các nước Đông Âu là một điển hình). Sẽ có những nơi mà nạn đói lan tràn làm chết vô số người (như trường hợp đã xảy ra ở Bangladish và Phi Châu như Ethiopie và Somania).
Có chiến tranh tại vùng Trung Đông (đã xảy ra cuộc chiến tranh của quân đội Hoa Kỳ, đồng minh chống Irad).
Đặc biệt, nhà tiên tri nầy còn tiên đoán rằng sẽ có thế chiến thứ 3 nổi ra sớm hơi lời giải đoán của nhà tiên tri Nostradamus. Theo Mario De Sebasto thì năm xảy ra thế chiến thứ 3 là năm 1997 tức là năm Đinh Sửu.
Những Nhà Tiên Tri Ấn Độ.
Những nhà tiên tri đoán tương lai nổi tiếng của Ấn Độ ngày xưa đã đi dần vào quá vãng nhưng những tài năng vẫn được nối tiếp theo thế hệ kế tiếp, hiện nay thế giới đã nghe danh J. M. Lal Mahdjan, người đoán tương lai số một của Ấn Độ. Hiện ông đang giữ chức vụ thư ký hội đồng Quốc Tế và khoa chiêm tinh. Theo ông mọi vật đã có khởi đầu thì cũng sẽ phải có kết thục. Ông cho rằng vũ trụ phát sinh rồi phát triển từ cõi hư vô rồi lại suy tàn và hủy diệt theo cõi hư vô.
Điều đặc biệt là khi trả lời các phóng viên Nga về vấn đề chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh giữa 2 siêu cường Nga Mỹ thì ông trả lời như sau:
- Sẽ không bao giờ xảy ra sự kiện chiến tranh giữa 2 nước Nga Xô và Hoa Kỳ. Họ xích lại dần thì có. Sở dĩ như vậy không phải họ mến nhau mà chính là do 2 siêu cường có may mắn cùng được một hành tinh hỗ trợ che chở, bảo vệ hành tinh ấy chính là thủy tinh.
Trong khi đó tại Đông Âu, thổ tinh lại ảnh hưởng mạnh lên tâm thần con người ở đó, thổ tinh kích động sự hưng phấn khơi dậy lòng háo hức muốn thoát khỏi những gì ràng buộc kiềm chế tư tương con người. Khơi dậy lòng khao khát được hưởng tự do và chắc chắn sẽ có những cuộc thay đổi lớn lao ở những quốc gia trong vùng (sự kiện nầy đã xảy ra đúng như những lời tiên đoán của nhà chiêm tinh J. M. Lal. Mahadjan khi chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu lần lượt sụp đổ).
Trường cũng nên nhắc đến một nhà suy đoán tương lai nổi tiếng khác loà các nhà chiêm tinh Nepal. Ông ta tên là Domadara Natha Lohani một nhà ngữ học nổi tiếng và nói tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ. Thuở nhỏ ông học tại Ấn. Hiện ông đang giữ chức cụ phó trưởng thuộc về báo chí. Gia đình ông ngày xưa thường túc trực bên nhà vua để giải đoán cát, hung cho những vấn đề quốc gia đại sự. Về sau ông được người cha truyền lại khoa chiêm tinh. Theo ông thì mỗi người đều có số mệnh, số mệnh ấy chính là từ ảnh hưởng của các vì sao. Chính nhà chiêm tinh nầy cũng đã tiên đoán thế giới vào năm 1990 đến 1993 sẽ có những sự kiện đáng kể xảy ra ở Đông Âu, Phi Châu. Trung Đông và đặc biệt ở Nga Xô. Những lời tiên đoán vào lúc ấy (1990) đã làm nhiều người nghi ngờ nhưng đến năm 1991 và năm 1992 thì mọi sự hầu như đã quá rõ ràng.
Ở Ấn, ngoài các nhà chiêm tinh nổi tiếng xưa nay, còn có những vị đạo sĩ tuy ở ẩn mà vẫn lừng danh. Như đạo sĩ Prakbhat Ranjon thuộc đạo Bà La Môn đã từng tiên đoán Thế giới sẽ phát triển hay suy thoái theo từng chu kỳ. Nhiều nhà khoa học, chính trị học và nhất là kinh tế học đã dựa vào sự kiện đó để nghiên cứu về vận mệnh quốc gia, dân tộc và thế giới về nhiều khía cạnh. Mới đây, giáo sư đại học Southern Methodist đã viết một cuốn sách nhan đề The Great Depression of 1990 (thời kỳ đen tốt nhất của thập niên 1990). Cuốn sách kết hợp những gì về chu kỳ mà đạo sĩ Prakbhat Rranjon SarKar đã nêu ra cùng với sự nhận định, phân tích, tổng hợp của giáo sư Riva Batra (cũng là người Ấn Độ). cuốn sách mới phát hành đã gây xôn xao sôi nổi dư luận, nhất là các nhà kinh tế, các tay tổ buôn bán từ chóp bu đến hạng bình dân. Trong một thời gian rất ngắn, cuốn sách được liệt kê trong danh sách của những cuốn sách bán chạy nhất
Những Nhà Tiên Tri Trung Hoa Và Việt Nam.
Nếu kể về các nhà quyết đoán tương lai nổi danh của Trung Hoa xưa cổ thì quả là khá nhiều, những tài ba còn lưu danh đến nay có thể kể là Nhất Hạnh Thiền Sư đời Đường. Đời Tống có Trần Đoàn, Ma Y. Cuối đời Nguên có Trương Hành Giản. Đời Minh có Viên Liễu Trang, đời Thanh có Phạm Văn Viên, đời Thanh Mạt có Tăng Quốc Phiên, Thời Trung Hoa Dân Quốc có Đào Bán Mai. v.v.... Những nhà tiên tri Trung Hoa xưa cổ nầy có khả năng đoán được mọi việc chính xác đến độ là lùng, có thể đơn cử trường hợp của nhà nghiên cứu về Dịch lý (kinh dịch) nổi tiếng, đó là Thiệu Khang Tiết. Suốt mấy mươi năm gian khổ tự học về Kinh Dịch ông dần dần lĩnh hội được nhiều điều mới lạ và cảm thấy mình có thể có khả năng đoán định tương lai nên một hôm ông đem cái ghế gỗ có lưng dựa ra để làm thí dụ. Trước tiên ông ngẫm nghĩ rằng cái ghế nầy rồi cũng có ngày tàn rụi của nó như một kiếp người và ông sẽ đoán định được ngày suy vi của nó. Thế là ônh lật ghế lên rồi dùng bút viết vào đáy ghế một câu tiên đoán tương lai về cái ghế như sau: "cái ghế nầy vào ngày... tháng.... năm và giờ ấy... ấy sẽ có 1 người đến chơi ngồi lên và cái ghế bị gãy đổ" Quả nhiên đúng vào thời đó, một người khác ở phương xa lại chơi ngồi ghế và cái ghế đã gãy khiến người khác té xuống đất nhưng may mắn nghế hư mà người khách không hề gì. Lúc bấy giờ Thiệu Khang Tiết mới chỉ cho khách xem dòng chữ ở mặt đáy ghế.
Khi nhắc đến các nhà tiên đoán tương lai Trung Hoa, không thê nào không nhắc đến một nhân vật nổi danh thế giới về lãnh vực nầy. Người đó chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Khổng Minh Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị đời Tam Quốc. Ông thường tiên đoán mọi việc ở thời gian gần và thời gian xa rất nhanh bằng phép Chiêm Bốc hay Bốn Độn. Khổng Minh là người được xem như chịu ảnh hưởng nhiều nhất về âm dương Dịch Lý trong vũ trụ. Các sách của Gia Cát Khổng Minh về phép Độn Toán còn lưu lại đến ngày nay rất nhiều cuốn Khổng Minh Thần Toán. Các tiên tri của ông cùn truyền tụng mãi đến bây giờ với những hậu quả rất lạ và đúng dù ông đoán trước cả mấy trăm năm. Riêng ở Việt Nam, không hiếm những nhà nghiên cứu về chiêm bốc, bói toán. Nhiều người sở trường về mỗi lãnh vực nhưng thường có khả năng đoán định được sự việc ở tương lai cuộc đời của con cháu dòng họ qua các phương hướng, địa thế, môi trường đất đai, nhà cửu, mồ mả.v.v...
Đặc biệt nổi tiếng nhất trong các nhà tiên tri của Việt Nam là Trạng Trình. Các nghiên cứu về sử liệu đã gọi ông là nhân vật Đông Phương xưa cổ nổi danh là nhà tiên tri với những sẩm ký thâm sâu kỳ diệu. Trạng Trình là một bậc cao sĩ đời nhà Mạc, sinh năm 1491, làm quan đến mức Lại Bộ Thị Lang. Ông là người vừa giỏi văn thơ, vừa có tài về giải đoán, lý số chiêm bốc và tương lai. Các lời tiên đoán của ông được hậu thế góp nhặt và lưu truyền lại thành tập gọi là Sấm Trạng Trình.
Những Nhà Tiên Tri ở Hoa Kỳ Còn ở Hoa Kỳ cũng không hiếm những ngưới thấy trước tương lai. Như trường hợp bà Quygly là một người mà các chính khác Âu Mỹ phải kính nể, các nguyên thủ quốc gia như tổng thống Bush thường hỏi ý kiên. Chính bà Quygly là người đã thấy rõ trước về ngày thứ hai đen tối (10- 1987) về thị trường chứng khoán. Cũng chính bà là người thấy rõ kết quả tương lai việc ứng cử Tổng thống của ông Reagan. Bà cho biết là năm 1976 ông Reagan chưa thể được đảng Cộng Hòa đề cử làm ứng cử viên Tổng Thống. sau đó bà đoán đúng thời gian ông Reagan đắc cử và cả ông bị mưu sát. Bà Quygly còn đoán được tương lai đắc cử của tổng thống George Bush nữa. Bà cho biết là ông Bush là vị tổng thống thành công về mặt ngoại giao.
Khi nhắc đến nhà tiên chi nổi tiêng Nostradamus người ta không thể không nghĩ tới một nhà tiên tri của thời đại hiện nay là Mario De Sebasto. Ông nầy đã đưa ra những lời tiên đoán đáng lưu tâm cho những thời gian 1980 đến 2000 sẽ có những cuộc thay đổi lớn ở một số nước trên thế giới (Nga Xô và các nước Đông Âu là một điển hình). Sẽ có những nơi mà nạn đói lan tràn làm chết vô số người (như trường hợp đã xảy ra ở Bangladish và Phi Châu như Ethiopie và Somania).
Có chiến tranh tại vùng Trung Đông (đã xảy ra cuộc chiến tranh của quân đội Hoa Kỳ, đồng minh chống Irad).
Đặc biệt, nhà tiên tri nầy còn tiên đoán rằng sẽ có thế chiến thứ 3 nổi ra sớm hơi lời giải đoán của nhà tiên tri Nostradamus. Theo Mario De Sebasto thì năm xảy ra thế chiến thứ 3 là năm 1997 tức là năm Đinh Sửu.
Những Nhà Tiên Tri Ấn Độ.
Những nhà tiên tri đoán tương lai nổi tiếng của Ấn Độ ngày xưa đã đi dần vào quá vãng nhưng những tài năng vẫn được nối tiếp theo thế hệ kế tiếp, hiện nay thế giới đã nghe danh J. M. Lal Mahdjan, người đoán tương lai số một của Ấn Độ. Hiện ông đang giữ chức vụ thư ký hội đồng Quốc Tế và khoa chiêm tinh. Theo ông mọi vật đã có khởi đầu thì cũng sẽ phải có kết thục. Ông cho rằng vũ trụ phát sinh rồi phát triển từ cõi hư vô rồi lại suy tàn và hủy diệt theo cõi hư vô.
Điều đặc biệt là khi trả lời các phóng viên Nga về vấn đề chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh giữa 2 siêu cường Nga Mỹ thì ông trả lời như sau:
- Sẽ không bao giờ xảy ra sự kiện chiến tranh giữa 2 nước Nga Xô và Hoa Kỳ. Họ xích lại dần thì có. Sở dĩ như vậy không phải họ mến nhau mà chính là do 2 siêu cường có may mắn cùng được một hành tinh hỗ trợ che chở, bảo vệ hành tinh ấy chính là thủy tinh.
Trong khi đó tại Đông Âu, thổ tinh lại ảnh hưởng mạnh lên tâm thần con người ở đó, thổ tinh kích động sự hưng phấn khơi dậy lòng háo hức muốn thoát khỏi những gì ràng buộc kiềm chế tư tương con người. Khơi dậy lòng khao khát được hưởng tự do và chắc chắn sẽ có những cuộc thay đổi lớn lao ở những quốc gia trong vùng (sự kiện nầy đã xảy ra đúng như những lời tiên đoán của nhà chiêm tinh J. M. Lal. Mahadjan khi chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu lần lượt sụp đổ).
Trường cũng nên nhắc đến một nhà suy đoán tương lai nổi tiếng khác loà các nhà chiêm tinh Nepal. Ông ta tên là Domadara Natha Lohani một nhà ngữ học nổi tiếng và nói tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ. Thuở nhỏ ông học tại Ấn. Hiện ông đang giữ chức cụ phó trưởng thuộc về báo chí. Gia đình ông ngày xưa thường túc trực bên nhà vua để giải đoán cát, hung cho những vấn đề quốc gia đại sự. Về sau ông được người cha truyền lại khoa chiêm tinh. Theo ông thì mỗi người đều có số mệnh, số mệnh ấy chính là từ ảnh hưởng của các vì sao. Chính nhà chiêm tinh nầy cũng đã tiên đoán thế giới vào năm 1990 đến 1993 sẽ có những sự kiện đáng kể xảy ra ở Đông Âu, Phi Châu. Trung Đông và đặc biệt ở Nga Xô. Những lời tiên đoán vào lúc ấy (1990) đã làm nhiều người nghi ngờ nhưng đến năm 1991 và năm 1992 thì mọi sự hầu như đã quá rõ ràng.
Ở Ấn, ngoài các nhà chiêm tinh nổi tiếng xưa nay, còn có những vị đạo sĩ tuy ở ẩn mà vẫn lừng danh. Như đạo sĩ Prakbhat Ranjon thuộc đạo Bà La Môn đã từng tiên đoán Thế giới sẽ phát triển hay suy thoái theo từng chu kỳ. Nhiều nhà khoa học, chính trị học và nhất là kinh tế học đã dựa vào sự kiện đó để nghiên cứu về vận mệnh quốc gia, dân tộc và thế giới về nhiều khía cạnh. Mới đây, giáo sư đại học Southern Methodist đã viết một cuốn sách nhan đề The Great Depression of 1990 (thời kỳ đen tốt nhất của thập niên 1990). Cuốn sách kết hợp những gì về chu kỳ mà đạo sĩ Prakbhat Rranjon SarKar đã nêu ra cùng với sự nhận định, phân tích, tổng hợp của giáo sư Riva Batra (cũng là người Ấn Độ). cuốn sách mới phát hành đã gây xôn xao sôi nổi dư luận, nhất là các nhà kinh tế, các tay tổ buôn bán từ chóp bu đến hạng bình dân. Trong một thời gian rất ngắn, cuốn sách được liệt kê trong danh sách của những cuốn sách bán chạy nhất
Những Nhà Tiên Tri Trung Hoa Và Việt Nam.
Nếu kể về các nhà quyết đoán tương lai nổi danh của Trung Hoa xưa cổ thì quả là khá nhiều, những tài ba còn lưu danh đến nay có thể kể là Nhất Hạnh Thiền Sư đời Đường. Đời Tống có Trần Đoàn, Ma Y. Cuối đời Nguên có Trương Hành Giản. Đời Minh có Viên Liễu Trang, đời Thanh có Phạm Văn Viên, đời Thanh Mạt có Tăng Quốc Phiên, Thời Trung Hoa Dân Quốc có Đào Bán Mai. v.v.... Những nhà tiên tri Trung Hoa xưa cổ nầy có khả năng đoán được mọi việc chính xác đến độ là lùng, có thể đơn cử trường hợp của nhà nghiên cứu về Dịch lý (kinh dịch) nổi tiếng, đó là Thiệu Khang Tiết. Suốt mấy mươi năm gian khổ tự học về Kinh Dịch ông dần dần lĩnh hội được nhiều điều mới lạ và cảm thấy mình có thể có khả năng đoán định tương lai nên một hôm ông đem cái ghế gỗ có lưng dựa ra để làm thí dụ. Trước tiên ông ngẫm nghĩ rằng cái ghế nầy rồi cũng có ngày tàn rụi của nó như một kiếp người và ông sẽ đoán định được ngày suy vi của nó. Thế là ônh lật ghế lên rồi dùng bút viết vào đáy ghế một câu tiên đoán tương lai về cái ghế như sau: "cái ghế nầy vào ngày... tháng.... năm và giờ ấy... ấy sẽ có 1 người đến chơi ngồi lên và cái ghế bị gãy đổ" Quả nhiên đúng vào thời đó, một người khác ở phương xa lại chơi ngồi ghế và cái ghế đã gãy khiến người khác té xuống đất nhưng may mắn nghế hư mà người khách không hề gì. Lúc bấy giờ Thiệu Khang Tiết mới chỉ cho khách xem dòng chữ ở mặt đáy ghế.
Khi nhắc đến các nhà tiên đoán tương lai Trung Hoa, không thê nào không nhắc đến một nhân vật nổi danh thế giới về lãnh vực nầy. Người đó chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Khổng Minh Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị đời Tam Quốc. Ông thường tiên đoán mọi việc ở thời gian gần và thời gian xa rất nhanh bằng phép Chiêm Bốc hay Bốn Độn. Khổng Minh là người được xem như chịu ảnh hưởng nhiều nhất về âm dương Dịch Lý trong vũ trụ. Các sách của Gia Cát Khổng Minh về phép Độn Toán còn lưu lại đến ngày nay rất nhiều cuốn Khổng Minh Thần Toán. Các tiên tri của ông cùn truyền tụng mãi đến bây giờ với những hậu quả rất lạ và đúng dù ông đoán trước cả mấy trăm năm. Riêng ở Việt Nam, không hiếm những nhà nghiên cứu về chiêm bốc, bói toán. Nhiều người sở trường về mỗi lãnh vực nhưng thường có khả năng đoán định được sự việc ở tương lai cuộc đời của con cháu dòng họ qua các phương hướng, địa thế, môi trường đất đai, nhà cửu, mồ mả.v.v...
Đặc biệt nổi tiếng nhất trong các nhà tiên tri của Việt Nam là Trạng Trình. Các nghiên cứu về sử liệu đã gọi ông là nhân vật Đông Phương xưa cổ nổi danh là nhà tiên tri với những sẩm ký thâm sâu kỳ diệu. Trạng Trình là một bậc cao sĩ đời nhà Mạc, sinh năm 1491, làm quan đến mức Lại Bộ Thị Lang. Ông là người vừa giỏi văn thơ, vừa có tài về giải đoán, lý số chiêm bốc và tương lai. Các lời tiên đoán của ông được hậu thế góp nhặt và lưu truyền lại thành tập gọi là Sấm Trạng Trình.
Những Nhà Tiên Tri ở Hoa Kỳ Còn ở Hoa Kỳ cũng không hiếm những ngưới thấy trước tương lai. Như trường hợp bà Quygly là một người mà các chính khác Âu Mỹ phải kính nể, các nguyên thủ quốc gia như tổng thống Bush thường hỏi ý kiên. Chính bà Quygly là người đã thấy rõ trước về ngày thứ hai đen tối (10- 1987) về thị trường chứng khoán. Cũng chính bà là người thấy rõ kết quả tương lai việc ứng cử Tổng thống của ông Reagan. Bà cho biết là năm 1976 ông Reagan chưa thể được đảng Cộng Hòa đề cử làm ứng cử viên Tổng Thống. sau đó bà đoán đúng thời gian ông Reagan đắc cử và cả ông bị mưu sát. Bà Quygly còn đoán được tương lai đắc cử của tổng thống George Bush nữa. Bà cho biết là ông Bush là vị tổng thống thành công về mặt ngoại giao.
Người phụ
nữ nổi danh tại Hoa Kỳ về lãnh vực đoán biết tương lai là bà Jean Dixon. Người
ta biết rằng tổng thống F. Roosevelt là một người chiêm nghị và thực tế, khoa học,
vậy mà tổng thống lại là người thán phục tài đoán tương lai, tài biết trước những
gì sẽ xảy ra của bà Dixon. Năm 1944 lần tái đắc cử của Tổng thống F. Roosevelt
và cũng là lần cuối cùng, trong cuộc gặp gỡ tổng thống nầy sẽ không còn sống được
quá sáu tháng.
Bà Dixon là người lúc bấy giờ đã thấy trước việc Trung Hoa sẽ trở thành một nước Cộng Sản và quả thật ngày 1 tháng 10 năm 1949 nước Trung Hoa được đổi thành nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do đảng Cộng Sản lãnh đạo. Đến năm 1945 bà Dixon đã thấy rõ tổng thống Roosevelt sắp từ giã cõi đời và quả nhiên tháng 4 năm đó tổng thống bị chứng xuất huyết và mất. Trong năm đó, bà Dixon cũng thấy trước tương lai rằng đất nước Ấn Độ sẽ bị phân cắt và còn cho biết ngày phân cắt sẽ là ngày 2 tháng 6 năm 1947. Điều kỳ dị sau đó đã xảy ra đúng vào ngày, tháng, năm đó. Ấn Độ bị chia cắt thật (Quốc gia Hồi giáo Pakistan tách khỏi xứ Ấn).
Chính bà Dixon cũng thấy trước tương lai việc thánh Gandhi sẽ bị ám sát trong sáu tháng tới và sự việc xảy ra như đã sắp đặt trước. Ngày 30 tháng giêng năm 1948, Gandhi đã bị một tên cuồng tín thuộc nhóm Mahasabla ám sát.
Bà Dixon còn đoán được tương lai cho nhiều chính khách nổi tiếng khác, như có lần bà cho ông sẽ được bầu làm tổng thống và điều đó đã xảy ra sau khi tổng thống Roosevelt qua đời. Bà Dixon còn nhìn về tương lai xa hơn khi bảo rằng trong lần ứng cử thứ nhì, ông Truman vẫn còn là tổng thống. Bà cũng có lần khuyên thủ tướng Anh là Churchill là không nên hấp tấp tổ chức bầu cử vì sẽ gặp bất lợi. Tuy nhiên vị thủ tướng thích khôi hài nay không tin và năm 1946 vẫn tổ chức bầu cử vào tháng 7. Kết quả thủ tướng Anh bị thảm bại nặng nề.
Bấy giờ ông mới tin điều bà Dixon nói là thật và muốn trong tương lai ông có còn trở lại chính trường không? Bà Dixon cho biết là trong vòng 6 năm, ông Churchill sẽ làm lại thủ tướng cho đến năm 1955
. Trước đó mấy năm, chính bà Dixon cũng đoán tương lai cho người đắc cử tổng thống Mỹ. Đó là tướng Eisenhower
. Bà Dixon còn tiên đoán cả những nhân vật sẽ thay thế ông Malenkov lúc đó là chủ tịch hội đồng bộ trưởng Nga Sô và nhất là thấy trước hình ảnh mà Nga sẽ phóng một vệ tinh nhân tạo Spoutnik đầu tiên bay quanh quả đất một hình ảnh mà mãi đến 4 năm sau mới xuất hiện
. Điều kinh dị hơn cả là việc bà Dixon đoán trước được tương lai về cái chết của tổng thống Kenedy. Năm 1952, bà Dixon cho biết là tống thống Kenedy sẽ bị ám sát. lời tuyên đoán ấy mãi đến 4 năm sau báo chí mới loan truyền nhưng không ai tin. Bà Dixon cố thuyết phục người thân của tổng thống là tổng thống nên bảo trọng. Vì ngày nguy hiểm đã gần kề. Tuy nhiên không ai dám nêu lời tuyên đoán tương lai ấy đến tổng thống vì tổng thống Kenedy là một người khó chấp nhận sự kiện bói toán
. Buổi sáng ngày 23 tháng 11 năm 1963, bà Dixon cảm thấy lo lắng trong lòng, bà nôn nao hồi hộp thấy rõ và bà đã nói với một người bạn tên là Harley Cope rằng: tôi rất lo, vì hôm nay chắc chắn tổng thống sẽ bị ám sát!
Trong khi đó sự việc đã xảy ra giống như bà Dixon đã tiên đoánl; tổng thống Kenedy đã bị ám sát chết.
Những trường hợp kể trên thuộc về khả năng của những nhà bói toán, tiên tri, những con người mà năng lực siêu phàm của họ khó ai sánh kịp. Tuy nhiên, như đã trình bày từ trước, không phải những người thấy trước tương lai đều là những người siêu việt mà đôi khi chỉ là những con người bình thường như bao người khác. Đó là trường hợp của bà Becky Denlinger làm việc trong đội cứu hỏa, người đã thấy trước tương lai về tai nạn của một phản cơ sắp xảy ra hay trường hợp em bé tên là Eryl Mai Jones một hôm thức dậy kể cho người mẹ nghe rằng trong giấc mơ, em thấy một vật to lớn dị thường màu xám đen không biết từ đâu ập tới cày nát ngôi làng. Hôm em bé nằm mơ là ngày 20 tháng 10 năm 1966. Người mẹ cứ nghe con kể mãi chuyện cái khối đen thì bực mình bảo con nói nhảm. Nhưng qua ngày hôm sau, ngày 21 tháng 10 tự nhiên người ta nghe những tiếng động phát ra làm long trời lở đất, cả ngôi làng bị những khối than đá khổng lồ đổ xuống che phủ. Nhiều người trong làng đã bị chôn vùi, một số lớn bị chết khoảng 100 người may mắn thoát chết nhưng cũng bị thương nặng. Trong số đó có người mẹ của em Eryl Mai Jones. Điều kỳ lạ là những người sống sót cũng kể rằng, trước đó họ nằm mơ hoặc nghe người thân kể lại giấc mơ y hệt giấc mơ mà bé Erylk đã kể cho mẹ nghe. Câu chuyện lạ lùng đến tai bác sĩ John Barker, ông là một bác sĩ tâm thần đã không bỏ lỡ cơ hội hy hữu nầy, quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân của sự thấy trước tương lai của một số người trong làng Eberfan nầy.
Một con người bình thường khác có tên là David Booth tự nhiên cảm thấy lo âu sợ sệt khác thường trong lòng và điều nầy làm ông không thể nào ăn ngủ được kể từ ngày 16 tháng 5 năm 1979. Nhất là cứ chợp mắt là nghe tiếng la hét và thấy chiếc máy bay nổ tung dữ dội. Ông mơ thấy rõ ràng máy bay DC 10 của hãng American Aieline bị bốc cháy.
Thế rồi ngày 25 tháng 5 năm đó (1979) một tin tức về tai nạn hàng không khủng khiếp được loan truyền, một phi cơ DC 10 chở 273 hành khách bị nổ tung trên không phận Chicago. Khiến toàn thể khách và phi hành đoàn đều thiệt mạng.
Một trường hợp khác lạ lùng hơn nữa khi nhà văn Morgan Robertson viết câu chuyện chiếc tàu thủy tên là Titan chiếc tàu được gọi là "một tòa lâu đài nổi không thể chìm" chiếc tàu du lịch khổng lồ sang trọng nhất trong lịch sử hàng hải. Chiếc tàu được làm lễ hạ thủy và bắt đầu chuyến hải hành đầu tiên, mang theo hàng ngàn nhân vật giàu có, tiếng tăm sang trọng... nhưng không may chiếc tàu bị một khối băng sơn đụng phải và tàu bị chìm sâu xuống lòng biển, mang theo vô số hành khách cùng toàn bộ sự nguy nga tráng lệ.
Câu chuyện tưởng tượng của nhà văn ấy bỗng nhiên gây bàng hoàng kinh dị khắp thế giới khi mười bốn năm sau trong lịch sử hàng hải lại có một chiếc tàu thủy thật sự chớ không phải tưởng tượng như nhà văn Morgan Robertson đã mô tả trong cuốn Hư Vô của mình. Điều kỳ lạ là chiếc tàu nầy giống với chiếc tàu Tian về mọi mặt. Nào trọng tài, màu sắc, kích thước, tốc độ, sự sang trọng, đầy đủ tiện nghi và cũng được mạnh danh là "tòa lâu đài nổi không thể chìm" con tàu tưởng tượng của Morgan Robertson có tên là Tian, con tàu nầy có tên là Titanníc (chỉ khác hai chữ sau mà thôi).
Sự trùng hợp lạ lùng ấy cũng chưa đủ làm thế giới kinh dị nên sự việc cuối cùng mà con tàu có thật Titanic gặp phải cũng đụng khối băng sơn và chìm xuống biển kéo theo một số lượng lớn lao nhân mạng. Hôm đó là ngày 14 tháng 4 năm 1912.
Câu chuyện kỳ dị có thật trên lại càng gây kinh ngạc hơn nữa khi các nhà sưu tập tài liệu cho biết thêm một sự kiện khác còn dị thường hơn nữa, đó là vào năm 1892, nghĩa là trước khi nhà văn Morgan Robertson viết cuốn Hư Vô và tưởng tượng ra chiếc tàu Tian 6 năm, có một cách ký giả tên là T. Stead (ký giả nổi danh Hoa Kỳ) đã viết một chuyện ngắn kể về chuyến hải hành của một chiếc tàu có tên là Titanic, chiếc tàu Titanic nầy đã bị đụng một khối băng sơn và chìm xuống đáy biển. Mặc dầu đã viết một chuyện khủng khiếp về vụ tàu Titanic bị đắm nhưng ký giả T Stead lại như bị một ma lực kỳ lạ nào đó ám ảnh nên đến năm 1912, nghĩa là 20 năm sau, sau khi chiếc tàu thủy mang tên Titanic thật được hạ thủy để chuẩn bị chuyến hải hành đầu tiên của một chiếc tàu được mệnh danh là "toà lâu đài nổi, không bao giờ chìm" thì ký giả T Stead đã có mặt trên tàu. Định mệnh an bài đã dắt ông lên chiếc tàu định mệnh để đưa ông cùng chiếc tàu (có tên như ông đã đặt là Titanic) xuống lòng biển cùng với 1512 hành khách.
Câu chuyện có thật trên tưởng như thế là đã quá kinh dị nhưng điều kinh dị vẫn còn tiếp tục mãi đến 23 năm sau nghĩa là vào năm 1935. Hôm ấy một con tàu trên đường hải hành mà ngày xưa chiếc Titanic đã di chuyển, một thủy thủ tên làWilliam Reeves ngồi trực tàu bỗng cảm thấy khó chịu trong người...Suy nghĩ mãi không tìm được nguyên nhân nào đã làm cho mình cảm giác bồn chồn lo lắng. Đến khuya anh ta mới chợt nhớ là ca trực của mình đúng vào ngày mà trước đây chiếc Titanic đã bị chìm. Đó là ngày 14 tháng 4 lại cũng là ngày sinh nhật của anh ta. Tự nhiên mối kinh hoàng lan khắp cơ thể, thủy thủ William Reeves sợ quá nên làm hiệu báo động khẩn cấp dầu anh ta chưa thấy rõ hoàn toàn điều gì đang xảy ra trước mũi tàu.
Chiếc tàu giảm tốc độ và dừng lại. Mọi đèn trên tàu được chiếu sáng. Bây giờ các thủy thủ mới thấy trước mũi tàu lù lù một khối băng sơn khổng lồ. Nếu tàu không ngừng lại kịp thời thì chắc chắn chiếc tàu nầy cũng sẽ bị chung số phận mà trước đó cũng vào ngày tháng nầy chiếc tàu Titanic đã chìm sâu dưới đáy biển.
Một tài liệu khác cũng không kém phần kinh ngạc về câu chuyện có liên quan đến vấn đề khả năng biết trước tương lai.
Trong giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ không ai lại không nhớ câu chuyện lạ lùng về nhà đại văn hào Mark Twain biết trước được cái chết của người em ruột qua một giấc mơ đầy kinh dị. Mùa đông năm 1850. Mark Twain cùng em là Henry đang cùng làm chung với nhau trên một con tàu nhỏ. Một hôm Mark Twain nằm mơ thấy người em là Henry chết, thi hài được tẩm liệm đàng hoàng và quan tài chuyển đến đặt tại nhà người chị ruột. Khi tỉnh dậy, Mark Twain vẫn còn hãi hùng nhưng trấn tĩnh được ngay vì biết đó chỉ là một giấc mơ. Tuy nhiên, không đầy 7 ngày sau Henry bị tử nạn trong khi đáp tàu thủy đến St. Louis vì chiếc tàu bị nổ nồi hơi nước.
Điều kỳ lạ là mọi sự kiện đều xảy ra đúng như những gì Mark Twain đã thấy trong giấc mơ, từ chiếc quan tài, từ địa điểm quan tài chuyển đến (nhà người chị) và lạ lùng hơn nữa là trong một giấc mơ trước đó. Mark Twain thấy trên thi hài Henry có đặt một bó hoa màu trắng và ở giữa có hoa màu đỏ. Khi đến nhà người chị, đứng trước quan tài của Henry, Mark Twain lại không thấy có bông hoa nào đặt trên ngực thi hài của Henry cả. Nhưng sau đó có một người đàn bà đến thăm, bà nầy nắm bó hoa và nhẹ nhàng đến đặt lên ngực Henry nhìn kỹ bó hoa, Mark Twain bất giác rùng mình vì đó là một bó hoa trắng có một hoa độc nhất màu đỏ nằm chính giữa.
Qua một số sự kiện có thật đã xảy ra như đã trình bày trên, các nhà nghiên cứu về những hiện tượng siêu linh huyền bí, những người sưu tập những hiện tượng không thể giải thích được đã bắt đầu suy nghĩ về những gì mà từ lâu một số triết thuyết tôn giáo đã đưa ra những hiện tượng Tái sinh, Luân hồi, tiền kiếp và Hậu kiếp. Phải chăng thế giới mà ta đang sống và thời gian mỗi ngày mỗi chuyển hóa qua đi chỉ là một phần mà ngũ quan cùng suy tưởng của cơ thể và bộ não có tầm hoạt động giới hạn của con người có thể thấy được mà thôi còn có những không gian khác xen lẫn và thời gian có thể vượt qua để rồi quay vòng trở lại theo một đường cong nào đó., Nếu thế thì quá khứ, hiện tại và tương lai cũng chỉ nằm trong cái vòng chuyển hóa ấy, nên sự tái sinh, vấn đề kiếp trước và kiếp sau cũng chỉ là những vấn đề của tự nhiên chẳng có gì gọi là mê tín, mơ hồ cả.
Bà Dixon là người lúc bấy giờ đã thấy trước việc Trung Hoa sẽ trở thành một nước Cộng Sản và quả thật ngày 1 tháng 10 năm 1949 nước Trung Hoa được đổi thành nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do đảng Cộng Sản lãnh đạo. Đến năm 1945 bà Dixon đã thấy rõ tổng thống Roosevelt sắp từ giã cõi đời và quả nhiên tháng 4 năm đó tổng thống bị chứng xuất huyết và mất. Trong năm đó, bà Dixon cũng thấy trước tương lai rằng đất nước Ấn Độ sẽ bị phân cắt và còn cho biết ngày phân cắt sẽ là ngày 2 tháng 6 năm 1947. Điều kỳ dị sau đó đã xảy ra đúng vào ngày, tháng, năm đó. Ấn Độ bị chia cắt thật (Quốc gia Hồi giáo Pakistan tách khỏi xứ Ấn).
Chính bà Dixon cũng thấy trước tương lai việc thánh Gandhi sẽ bị ám sát trong sáu tháng tới và sự việc xảy ra như đã sắp đặt trước. Ngày 30 tháng giêng năm 1948, Gandhi đã bị một tên cuồng tín thuộc nhóm Mahasabla ám sát.
Bà Dixon còn đoán được tương lai cho nhiều chính khách nổi tiếng khác, như có lần bà cho ông sẽ được bầu làm tổng thống và điều đó đã xảy ra sau khi tổng thống Roosevelt qua đời. Bà Dixon còn nhìn về tương lai xa hơn khi bảo rằng trong lần ứng cử thứ nhì, ông Truman vẫn còn là tổng thống. Bà cũng có lần khuyên thủ tướng Anh là Churchill là không nên hấp tấp tổ chức bầu cử vì sẽ gặp bất lợi. Tuy nhiên vị thủ tướng thích khôi hài nay không tin và năm 1946 vẫn tổ chức bầu cử vào tháng 7. Kết quả thủ tướng Anh bị thảm bại nặng nề.
Bấy giờ ông mới tin điều bà Dixon nói là thật và muốn trong tương lai ông có còn trở lại chính trường không? Bà Dixon cho biết là trong vòng 6 năm, ông Churchill sẽ làm lại thủ tướng cho đến năm 1955
. Trước đó mấy năm, chính bà Dixon cũng đoán tương lai cho người đắc cử tổng thống Mỹ. Đó là tướng Eisenhower
. Bà Dixon còn tiên đoán cả những nhân vật sẽ thay thế ông Malenkov lúc đó là chủ tịch hội đồng bộ trưởng Nga Sô và nhất là thấy trước hình ảnh mà Nga sẽ phóng một vệ tinh nhân tạo Spoutnik đầu tiên bay quanh quả đất một hình ảnh mà mãi đến 4 năm sau mới xuất hiện
. Điều kinh dị hơn cả là việc bà Dixon đoán trước được tương lai về cái chết của tổng thống Kenedy. Năm 1952, bà Dixon cho biết là tống thống Kenedy sẽ bị ám sát. lời tuyên đoán ấy mãi đến 4 năm sau báo chí mới loan truyền nhưng không ai tin. Bà Dixon cố thuyết phục người thân của tổng thống là tổng thống nên bảo trọng. Vì ngày nguy hiểm đã gần kề. Tuy nhiên không ai dám nêu lời tuyên đoán tương lai ấy đến tổng thống vì tổng thống Kenedy là một người khó chấp nhận sự kiện bói toán
. Buổi sáng ngày 23 tháng 11 năm 1963, bà Dixon cảm thấy lo lắng trong lòng, bà nôn nao hồi hộp thấy rõ và bà đã nói với một người bạn tên là Harley Cope rằng: tôi rất lo, vì hôm nay chắc chắn tổng thống sẽ bị ám sát!
Trong khi đó sự việc đã xảy ra giống như bà Dixon đã tiên đoánl; tổng thống Kenedy đã bị ám sát chết.
Những trường hợp kể trên thuộc về khả năng của những nhà bói toán, tiên tri, những con người mà năng lực siêu phàm của họ khó ai sánh kịp. Tuy nhiên, như đã trình bày từ trước, không phải những người thấy trước tương lai đều là những người siêu việt mà đôi khi chỉ là những con người bình thường như bao người khác. Đó là trường hợp của bà Becky Denlinger làm việc trong đội cứu hỏa, người đã thấy trước tương lai về tai nạn của một phản cơ sắp xảy ra hay trường hợp em bé tên là Eryl Mai Jones một hôm thức dậy kể cho người mẹ nghe rằng trong giấc mơ, em thấy một vật to lớn dị thường màu xám đen không biết từ đâu ập tới cày nát ngôi làng. Hôm em bé nằm mơ là ngày 20 tháng 10 năm 1966. Người mẹ cứ nghe con kể mãi chuyện cái khối đen thì bực mình bảo con nói nhảm. Nhưng qua ngày hôm sau, ngày 21 tháng 10 tự nhiên người ta nghe những tiếng động phát ra làm long trời lở đất, cả ngôi làng bị những khối than đá khổng lồ đổ xuống che phủ. Nhiều người trong làng đã bị chôn vùi, một số lớn bị chết khoảng 100 người may mắn thoát chết nhưng cũng bị thương nặng. Trong số đó có người mẹ của em Eryl Mai Jones. Điều kỳ lạ là những người sống sót cũng kể rằng, trước đó họ nằm mơ hoặc nghe người thân kể lại giấc mơ y hệt giấc mơ mà bé Erylk đã kể cho mẹ nghe. Câu chuyện lạ lùng đến tai bác sĩ John Barker, ông là một bác sĩ tâm thần đã không bỏ lỡ cơ hội hy hữu nầy, quyết tâm tìm hiểu nguyên nhân của sự thấy trước tương lai của một số người trong làng Eberfan nầy.
Một con người bình thường khác có tên là David Booth tự nhiên cảm thấy lo âu sợ sệt khác thường trong lòng và điều nầy làm ông không thể nào ăn ngủ được kể từ ngày 16 tháng 5 năm 1979. Nhất là cứ chợp mắt là nghe tiếng la hét và thấy chiếc máy bay nổ tung dữ dội. Ông mơ thấy rõ ràng máy bay DC 10 của hãng American Aieline bị bốc cháy.
Thế rồi ngày 25 tháng 5 năm đó (1979) một tin tức về tai nạn hàng không khủng khiếp được loan truyền, một phi cơ DC 10 chở 273 hành khách bị nổ tung trên không phận Chicago. Khiến toàn thể khách và phi hành đoàn đều thiệt mạng.
Một trường hợp khác lạ lùng hơn nữa khi nhà văn Morgan Robertson viết câu chuyện chiếc tàu thủy tên là Titan chiếc tàu được gọi là "một tòa lâu đài nổi không thể chìm" chiếc tàu du lịch khổng lồ sang trọng nhất trong lịch sử hàng hải. Chiếc tàu được làm lễ hạ thủy và bắt đầu chuyến hải hành đầu tiên, mang theo hàng ngàn nhân vật giàu có, tiếng tăm sang trọng... nhưng không may chiếc tàu bị một khối băng sơn đụng phải và tàu bị chìm sâu xuống lòng biển, mang theo vô số hành khách cùng toàn bộ sự nguy nga tráng lệ.
Câu chuyện tưởng tượng của nhà văn ấy bỗng nhiên gây bàng hoàng kinh dị khắp thế giới khi mười bốn năm sau trong lịch sử hàng hải lại có một chiếc tàu thủy thật sự chớ không phải tưởng tượng như nhà văn Morgan Robertson đã mô tả trong cuốn Hư Vô của mình. Điều kỳ lạ là chiếc tàu nầy giống với chiếc tàu Tian về mọi mặt. Nào trọng tài, màu sắc, kích thước, tốc độ, sự sang trọng, đầy đủ tiện nghi và cũng được mạnh danh là "tòa lâu đài nổi không thể chìm" con tàu tưởng tượng của Morgan Robertson có tên là Tian, con tàu nầy có tên là Titanníc (chỉ khác hai chữ sau mà thôi).
Sự trùng hợp lạ lùng ấy cũng chưa đủ làm thế giới kinh dị nên sự việc cuối cùng mà con tàu có thật Titanic gặp phải cũng đụng khối băng sơn và chìm xuống biển kéo theo một số lượng lớn lao nhân mạng. Hôm đó là ngày 14 tháng 4 năm 1912.
Câu chuyện kỳ dị có thật trên lại càng gây kinh ngạc hơn nữa khi các nhà sưu tập tài liệu cho biết thêm một sự kiện khác còn dị thường hơn nữa, đó là vào năm 1892, nghĩa là trước khi nhà văn Morgan Robertson viết cuốn Hư Vô và tưởng tượng ra chiếc tàu Tian 6 năm, có một cách ký giả tên là T. Stead (ký giả nổi danh Hoa Kỳ) đã viết một chuyện ngắn kể về chuyến hải hành của một chiếc tàu có tên là Titanic, chiếc tàu Titanic nầy đã bị đụng một khối băng sơn và chìm xuống đáy biển. Mặc dầu đã viết một chuyện khủng khiếp về vụ tàu Titanic bị đắm nhưng ký giả T Stead lại như bị một ma lực kỳ lạ nào đó ám ảnh nên đến năm 1912, nghĩa là 20 năm sau, sau khi chiếc tàu thủy mang tên Titanic thật được hạ thủy để chuẩn bị chuyến hải hành đầu tiên của một chiếc tàu được mệnh danh là "toà lâu đài nổi, không bao giờ chìm" thì ký giả T Stead đã có mặt trên tàu. Định mệnh an bài đã dắt ông lên chiếc tàu định mệnh để đưa ông cùng chiếc tàu (có tên như ông đã đặt là Titanic) xuống lòng biển cùng với 1512 hành khách.
Câu chuyện có thật trên tưởng như thế là đã quá kinh dị nhưng điều kinh dị vẫn còn tiếp tục mãi đến 23 năm sau nghĩa là vào năm 1935. Hôm ấy một con tàu trên đường hải hành mà ngày xưa chiếc Titanic đã di chuyển, một thủy thủ tên làWilliam Reeves ngồi trực tàu bỗng cảm thấy khó chịu trong người...Suy nghĩ mãi không tìm được nguyên nhân nào đã làm cho mình cảm giác bồn chồn lo lắng. Đến khuya anh ta mới chợt nhớ là ca trực của mình đúng vào ngày mà trước đây chiếc Titanic đã bị chìm. Đó là ngày 14 tháng 4 lại cũng là ngày sinh nhật của anh ta. Tự nhiên mối kinh hoàng lan khắp cơ thể, thủy thủ William Reeves sợ quá nên làm hiệu báo động khẩn cấp dầu anh ta chưa thấy rõ hoàn toàn điều gì đang xảy ra trước mũi tàu.
Chiếc tàu giảm tốc độ và dừng lại. Mọi đèn trên tàu được chiếu sáng. Bây giờ các thủy thủ mới thấy trước mũi tàu lù lù một khối băng sơn khổng lồ. Nếu tàu không ngừng lại kịp thời thì chắc chắn chiếc tàu nầy cũng sẽ bị chung số phận mà trước đó cũng vào ngày tháng nầy chiếc tàu Titanic đã chìm sâu dưới đáy biển.
Một tài liệu khác cũng không kém phần kinh ngạc về câu chuyện có liên quan đến vấn đề khả năng biết trước tương lai.
Trong giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ không ai lại không nhớ câu chuyện lạ lùng về nhà đại văn hào Mark Twain biết trước được cái chết của người em ruột qua một giấc mơ đầy kinh dị. Mùa đông năm 1850. Mark Twain cùng em là Henry đang cùng làm chung với nhau trên một con tàu nhỏ. Một hôm Mark Twain nằm mơ thấy người em là Henry chết, thi hài được tẩm liệm đàng hoàng và quan tài chuyển đến đặt tại nhà người chị ruột. Khi tỉnh dậy, Mark Twain vẫn còn hãi hùng nhưng trấn tĩnh được ngay vì biết đó chỉ là một giấc mơ. Tuy nhiên, không đầy 7 ngày sau Henry bị tử nạn trong khi đáp tàu thủy đến St. Louis vì chiếc tàu bị nổ nồi hơi nước.
Điều kỳ lạ là mọi sự kiện đều xảy ra đúng như những gì Mark Twain đã thấy trong giấc mơ, từ chiếc quan tài, từ địa điểm quan tài chuyển đến (nhà người chị) và lạ lùng hơn nữa là trong một giấc mơ trước đó. Mark Twain thấy trên thi hài Henry có đặt một bó hoa màu trắng và ở giữa có hoa màu đỏ. Khi đến nhà người chị, đứng trước quan tài của Henry, Mark Twain lại không thấy có bông hoa nào đặt trên ngực thi hài của Henry cả. Nhưng sau đó có một người đàn bà đến thăm, bà nầy nắm bó hoa và nhẹ nhàng đến đặt lên ngực Henry nhìn kỹ bó hoa, Mark Twain bất giác rùng mình vì đó là một bó hoa trắng có một hoa độc nhất màu đỏ nằm chính giữa.
Qua một số sự kiện có thật đã xảy ra như đã trình bày trên, các nhà nghiên cứu về những hiện tượng siêu linh huyền bí, những người sưu tập những hiện tượng không thể giải thích được đã bắt đầu suy nghĩ về những gì mà từ lâu một số triết thuyết tôn giáo đã đưa ra những hiện tượng Tái sinh, Luân hồi, tiền kiếp và Hậu kiếp. Phải chăng thế giới mà ta đang sống và thời gian mỗi ngày mỗi chuyển hóa qua đi chỉ là một phần mà ngũ quan cùng suy tưởng của cơ thể và bộ não có tầm hoạt động giới hạn của con người có thể thấy được mà thôi còn có những không gian khác xen lẫn và thời gian có thể vượt qua để rồi quay vòng trở lại theo một đường cong nào đó., Nếu thế thì quá khứ, hiện tại và tương lai cũng chỉ nằm trong cái vòng chuyển hóa ấy, nên sự tái sinh, vấn đề kiếp trước và kiếp sau cũng chỉ là những vấn đề của tự nhiên chẳng có gì gọi là mê tín, mơ hồ cả.
|
CHƯƠNG 7
Hiện Tượng
Luân Hồi
Giải
Thích Một Số Thắc Mắc Của Con Người Từ Cổ Đại Đến Nay.
Các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã ghi lại một số đặc điểm đáng lưu tâm về vấn đề luân hồi quả báo qua đó giải thích được một số thắc mắc của con người từ lâu.
Nghiệp quả đã tạo thành những phản nghiệp hay quả báo có thể phát sinh nhanh hay chậm.
Nếu phát sinh nhanh thì đó là quả báo nhãn tiền. Trong đời sống hàng ngày ai trong chúng ta cũng đều đã hơn một lần chứng kiến rõ ràng sự kiện nầy. Vô số thí dụ có thật đã xảy ra chứng minh điều đó. Năm 1964, báo Sài Gòn có đăng tin vặt về một em bé bị điện giật chết. Nguyên nhân xảy ra tai nạn chết người nầy như sau:
Vườn nhà của gia đình em nầy có một cây ổi xá lị rất nhiều trái nhưng thường bị trẻ em lối xóm hằng đêm đến hái ăn. Người cha trong gia đình thấy vậy đã giăng ngầm dây điện cao thế vào cây ổi quyết trừng trị các trẻ em trong xóm ban đêm đột nhập vào hái trái. Nhưng rủi thay, một hôm trong nhà quyên rút dây điện khỏi ổ cắm điện. Đứa con trai chủ nhà mới 7 tuổi đi học leo lên hái ổi bị điện giật chết thê thảm. Tại Hoa,năm 1930, báo chí đăng một tin hết sức lạ lùng sau đây: Hôm ấy là một đêm tháng 6 năm 1930, một cảnh sát tuần tiểu tên là Allan Falby thấy một chiếc xe tải lớn chạy quá tốc độ trên đường El Paso nên phóng xe đuổi theo. không may, người tài xế chiếc xe vận tải nhìn qua gương chiếu hậu biết có cảnh sát đuổi theo, sợ quá nên vội vả ngừng xe khiến chiếc xe tuần cảnh của viên cảnh sát tuy đã kịp thời lạng sang bên nhưng lại tông vào lề khiến viên cảnh sát văng ra xe gảy chân và đứt một mạch máu lớn làm máu ra quá nhiều. Người tài xế kinh hoảng nhảy xuống xe và đã dùng một sợi dây vải siết chặt chổ mạch máu bị đứt. nhờ đó mà xe cứu thương đưa nạn nhân về được trạm y tế gần đó để kịp thời cứu chữa
. Năm năm sau, Allan Falby lần nầy vẫn tiếp tục làm cảnh sát tuần tra. Vào một đêm tháng 6 năm 1935 trong lúc Allan Falby đang lái xe trên xa lộ El Paso (cũng tại con đường nầy vào tháng nay) thì bỗng thấy một chiếc xe vận tải bị lật bên lề. Allan Falby vội vã xuống xe chạy đến rọi đèn xem thì thấy một nạn nhân là một người đàn ông bị thương nặng, máu ra lênh láng. Falby liền lấy một miếng vải dài siết chặt nơi chỗ mạch máu bị đứt để chờ xe cứu thương đến. Nhìn kỹ lại thì địa điểm chiếc xe tải bị lật chính là nơi mà cách đó 5 năm xe của Falby cũng đã bị tông lề và văng ra xe. Tại trạm y tế, Falby càng kinh ngạc hơn nữa khi thấy nạn nhân không phải là ai xa lạ mà chính là người tài xế năm nào đã làm anh ta bị thương suýt chết và điều càng lạ lùng hơn nữa là cả hai đều bị gảy chân và đứt mạch máu lớn (nhưng sau đó đều được cứu chữa và phục hồi sức khỏe mau lẹ).
Ở đây, câu hỏi được đặt ra có phải đây là một sự trùng hợp hy hữu hay đây là một loại quả báo nhãn tiền? Nếu cho là quả báo nhãn tiền thì thật sự ai là kẻ gây ra tội lỗi? Nếu bảo người tài xế biết có cảnh sát rượt theo sao anh ta không chịu tấp vào lề mà lại ngừng xe để gây tai nạn? Có phải anh ta thật sự sợ quá mà trở nên không kịp suy nghĩ hay là do chủ ý? Nếu chủ ý thì tại sao khi thấy người cảnh sát bị thương lại vội vã xuống xe lo việc cứu giúp?
Sự trùng hợp lạ lùng trên cho đến nay vẫn còn gây nhiều thắc mắc ngay cả cho những nhà nghiên cứu về lãnh vực luân hồi.
Câu chuyện có thật trên nếu được liệt vào trường hợp quả báo tức thì là nhờ có hoàn cảnh, điều kiện thuận tiện để quả báo nhất sinh. Nhưng đôi khi nghiệp quả đã tạo xong mà điều kiện chưa có thì vẫn chưa xuất hiện quả báo được. Điều nầy giải thích vì sao có những người làm ác nhưng vẫn không bị quả báo nào cả. Có khi phải đợi một thời gian rất lâu đương sự mới bị hậu quả của những gì đã làm trước đó trong dân gian có câu "trời có mắt" hay "thiên bất dung gian" hoặc "ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình" hoặc "ác giả ác báo"... đều ám chỉ về quả báo nhãn tiền thấy ngay trước mắt. Còn quả báo chờ đợi mà thời gian rất lâu có khi hết một đời người, qua kiếp khác mới trả hay có khi phải qua nhiều kiếp. Trên cõi trần nầy, đôi khi chúng ta kinh ngạc và nghi ngờ nhiều về thuyết luân hồi quả báo khi thấy những bạo chúa dã man, những kẻ lộng quyền giết người vô tội một cách vô lý cũng như đầy đoạ hàng vạn người... nhưng những kẻ ấy vẫn ung dung sống cuộc đời vương giả, sung sướng hạnh phúc lâu dài cho tới chết và khi chết lại còn được đưa tiễn linh đình, long trọng tới nơi an nghỉ cuối cùng. Điều thắc mắc đó quả thật có lý, nhưng đối với thuyết luân hồi nhân quả thì lại chẳng có gì phải thắc mắc vì theo thuyết luân hồi nầy, mọi sự việc, mọi hành động của bất kỳ ai đều được ghi nhận một cách rõ ràng để rồi được thưởng phạt một cách công minh chính đại. Nếu bình tâm suy xét thì lý luận sau đây chẳng có gì là sai lệch hay gượng ép mơ hồ.
Lấy thí dụ bạo chúa nào đó. Tại sao người ấy lại được làm vua? Phải chăng nếu xét về mặt lý thuyết luân hồi tái sinh nghiệp quả là do tiền kiếp người ấy đã tạo được nghiệp lành, đã có vô số hành động tốt lành và nhờ đó mà y thừa hưởng được ân huệ tối cao làm vua?
Nhưng trong thời gian làm vua, thụ hưởng được mọi lạc thú trong cuộc sống, thay vì y tạo thêm nhân đức, tạo nghiệp lành tiếp tục thì y lại có những hành động tàn ác của kẻ có quyền uy. Tuy nhiên hoàn cảnh, điều kiện và thời gian để y bị quả báo chưa đến. Luật luân hồi nghiệp quả vô cùng công bằng và chi li, có thể thời hạn được hưởng nghiệp quả tốt lành của y chưa hết hạn kỳ nên y vẫn còn tại vị. Ở đây, có thể trong lúc tại vị, y cũng đồng thời bị nghiệp quả xấu tức thì song song. Tuy nhiên đó là trường hợp tội ác hiện tại mà y gây ra không lớn thì sự kiện có thể xảy ra. Nhưng ở đây, vì trong kiếp hiện tại, y tạo nghiệp ác quá lớn như trường hợp của bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, đày đọa hàng vạn người xây Vạn Lý Trường Thành, hoặc trường hợp Hitler, một quỉ vương Đức Quốc Xã đã tiêu diệt mấy triệu người vô tội... vì thế có thể chưa có những cơ hội tương xứng với những tội lỗi tày trời của chúng và hơn nữa nghiệp lành từ kiếp trước của chúng vẫn còn nhiều. Có thể sau khi những kẻ ác nầy chết đi, kiếp sau khi đầu thai trở về chúng vẫn còn hưởng tiếp tục nghiệp lành từ những kiếp trước đó nữa. Lại có những kẻ mà lúc còn sống chúng hành động rất tàn ác, dã man và khi chết hoặc do bị xử tội hay chết sớm, chúng vẫn nuôi trong tâm thức sự tiếc nuối căm hờn không nguôi về những gì chúng đã làm chưa trọn vẹn và chúng thề nguyền với lòng sẽ tiếp tục những hành động dã man tàn ác mà kiếp lai sinh. Cái nghiệp thức và nghiệp lực là động cơ khiến chúng tha hồ mà làm điều tàn nhẫn không gớm tay khi được tái sinh trở lại. Nhà triết học Schopen hauer đã có lần ghi lại một sự kiện tương tự, ở đây lá ý chí phục thù và ý chí phục thù ấy sẽ thể hiện ở kiếp sau khi khi ông kể rằng trong một bài báo Anh (báo The Times) phát hành ngày 29 tháng giêng 1841 mô tả cuộc xử bắn hai người đàn ông Úc Châu về tội giết người: "Hai kẻ sát nhân một già một trẻ mỗi người một phong cách vá ý chí biểu lộ trên nét mặt và cử chỉ. Tên sát nhân trẻ tuổi với gương mắt lầm lì, mắt trắng dã với những đường gân thớ thịt hằn lên ở ngang tai, răng nghiến lại. Cứ nhìn nét mặt hắn bộc lộ lúc đó (bài báo viết) thì "người ta sẽ thấy rõ ràng hắn sẽ tái sinh trở lại một thanh niên da trắng và điều đó làm có cương quyết. Cái cương quyết sẽ thành kẻ sát nhân man dã hơn nữa ở kiếp sắp tới..." Cách đây hơn một thế kỷ, một ác quỷ đã xuất hiện giữa thế gian ngay tại nước Pháp. Tên của hắn là Gilles de Rais với chức vụ Thống chế. Hắn giết người không gớm tay, giết người với hăng say thích thú vùng với sự thèm khát lạ lùng khi trông thấy máu và nhúng tay vào máu. Lúc bị đưa lên giàn hỏa "con quỷ dữ" đã gào lên khủng khiếp cùn với lời nguyền: "Ta sẽ trở lại thế gian nầy 500 năm sau..." và mới đây. tại Hoa Kỳ xuất hiện một kẻ sát nhân kỳ dị đã gieo bao khủng khiếp trong một ngôi nhà vắng lặng thay vì tòa lâu đài bí mất của thời xưa cổ, con quỷ dữ nầy có tên là C. Jeffrey Dahmer, hắn giết trẻ con và người lớn, cách giết người của hắn y hệt ác quỷ Gilles de Rais nhưng kinh khiếp hơn, rùng rợn hơn, ghê tởm hơn khi hắn ăn thịt luôn những nạn nhân hắn giết. Điều nầy khiến người ta nghĩ đến lời nguyền ghê gớm của tên sát nhân cách đây nửa thế kỷ, "ta sẽ trở lại... và tiếp tục công việc của ta hơn cả hôm nay..." Phải chăng Jeffrey Dahner chính là hậu thân của quỷ dữ Gilles de Rais? Ta hãy ngược dòng thời gian để biết cuộc đời ghê tởm của ác quỷ Gilles de Rais:
Các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã ghi lại một số đặc điểm đáng lưu tâm về vấn đề luân hồi quả báo qua đó giải thích được một số thắc mắc của con người từ lâu.
Nghiệp quả đã tạo thành những phản nghiệp hay quả báo có thể phát sinh nhanh hay chậm.
Nếu phát sinh nhanh thì đó là quả báo nhãn tiền. Trong đời sống hàng ngày ai trong chúng ta cũng đều đã hơn một lần chứng kiến rõ ràng sự kiện nầy. Vô số thí dụ có thật đã xảy ra chứng minh điều đó. Năm 1964, báo Sài Gòn có đăng tin vặt về một em bé bị điện giật chết. Nguyên nhân xảy ra tai nạn chết người nầy như sau:
Vườn nhà của gia đình em nầy có một cây ổi xá lị rất nhiều trái nhưng thường bị trẻ em lối xóm hằng đêm đến hái ăn. Người cha trong gia đình thấy vậy đã giăng ngầm dây điện cao thế vào cây ổi quyết trừng trị các trẻ em trong xóm ban đêm đột nhập vào hái trái. Nhưng rủi thay, một hôm trong nhà quyên rút dây điện khỏi ổ cắm điện. Đứa con trai chủ nhà mới 7 tuổi đi học leo lên hái ổi bị điện giật chết thê thảm. Tại Hoa,năm 1930, báo chí đăng một tin hết sức lạ lùng sau đây: Hôm ấy là một đêm tháng 6 năm 1930, một cảnh sát tuần tiểu tên là Allan Falby thấy một chiếc xe tải lớn chạy quá tốc độ trên đường El Paso nên phóng xe đuổi theo. không may, người tài xế chiếc xe vận tải nhìn qua gương chiếu hậu biết có cảnh sát đuổi theo, sợ quá nên vội vả ngừng xe khiến chiếc xe tuần cảnh của viên cảnh sát tuy đã kịp thời lạng sang bên nhưng lại tông vào lề khiến viên cảnh sát văng ra xe gảy chân và đứt một mạch máu lớn làm máu ra quá nhiều. Người tài xế kinh hoảng nhảy xuống xe và đã dùng một sợi dây vải siết chặt chổ mạch máu bị đứt. nhờ đó mà xe cứu thương đưa nạn nhân về được trạm y tế gần đó để kịp thời cứu chữa
. Năm năm sau, Allan Falby lần nầy vẫn tiếp tục làm cảnh sát tuần tra. Vào một đêm tháng 6 năm 1935 trong lúc Allan Falby đang lái xe trên xa lộ El Paso (cũng tại con đường nầy vào tháng nay) thì bỗng thấy một chiếc xe vận tải bị lật bên lề. Allan Falby vội vã xuống xe chạy đến rọi đèn xem thì thấy một nạn nhân là một người đàn ông bị thương nặng, máu ra lênh láng. Falby liền lấy một miếng vải dài siết chặt nơi chỗ mạch máu bị đứt để chờ xe cứu thương đến. Nhìn kỹ lại thì địa điểm chiếc xe tải bị lật chính là nơi mà cách đó 5 năm xe của Falby cũng đã bị tông lề và văng ra xe. Tại trạm y tế, Falby càng kinh ngạc hơn nữa khi thấy nạn nhân không phải là ai xa lạ mà chính là người tài xế năm nào đã làm anh ta bị thương suýt chết và điều càng lạ lùng hơn nữa là cả hai đều bị gảy chân và đứt mạch máu lớn (nhưng sau đó đều được cứu chữa và phục hồi sức khỏe mau lẹ).
Ở đây, câu hỏi được đặt ra có phải đây là một sự trùng hợp hy hữu hay đây là một loại quả báo nhãn tiền? Nếu cho là quả báo nhãn tiền thì thật sự ai là kẻ gây ra tội lỗi? Nếu bảo người tài xế biết có cảnh sát rượt theo sao anh ta không chịu tấp vào lề mà lại ngừng xe để gây tai nạn? Có phải anh ta thật sự sợ quá mà trở nên không kịp suy nghĩ hay là do chủ ý? Nếu chủ ý thì tại sao khi thấy người cảnh sát bị thương lại vội vã xuống xe lo việc cứu giúp?
Sự trùng hợp lạ lùng trên cho đến nay vẫn còn gây nhiều thắc mắc ngay cả cho những nhà nghiên cứu về lãnh vực luân hồi.
Câu chuyện có thật trên nếu được liệt vào trường hợp quả báo tức thì là nhờ có hoàn cảnh, điều kiện thuận tiện để quả báo nhất sinh. Nhưng đôi khi nghiệp quả đã tạo xong mà điều kiện chưa có thì vẫn chưa xuất hiện quả báo được. Điều nầy giải thích vì sao có những người làm ác nhưng vẫn không bị quả báo nào cả. Có khi phải đợi một thời gian rất lâu đương sự mới bị hậu quả của những gì đã làm trước đó trong dân gian có câu "trời có mắt" hay "thiên bất dung gian" hoặc "ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình" hoặc "ác giả ác báo"... đều ám chỉ về quả báo nhãn tiền thấy ngay trước mắt. Còn quả báo chờ đợi mà thời gian rất lâu có khi hết một đời người, qua kiếp khác mới trả hay có khi phải qua nhiều kiếp. Trên cõi trần nầy, đôi khi chúng ta kinh ngạc và nghi ngờ nhiều về thuyết luân hồi quả báo khi thấy những bạo chúa dã man, những kẻ lộng quyền giết người vô tội một cách vô lý cũng như đầy đoạ hàng vạn người... nhưng những kẻ ấy vẫn ung dung sống cuộc đời vương giả, sung sướng hạnh phúc lâu dài cho tới chết và khi chết lại còn được đưa tiễn linh đình, long trọng tới nơi an nghỉ cuối cùng. Điều thắc mắc đó quả thật có lý, nhưng đối với thuyết luân hồi nhân quả thì lại chẳng có gì phải thắc mắc vì theo thuyết luân hồi nầy, mọi sự việc, mọi hành động của bất kỳ ai đều được ghi nhận một cách rõ ràng để rồi được thưởng phạt một cách công minh chính đại. Nếu bình tâm suy xét thì lý luận sau đây chẳng có gì là sai lệch hay gượng ép mơ hồ.
Lấy thí dụ bạo chúa nào đó. Tại sao người ấy lại được làm vua? Phải chăng nếu xét về mặt lý thuyết luân hồi tái sinh nghiệp quả là do tiền kiếp người ấy đã tạo được nghiệp lành, đã có vô số hành động tốt lành và nhờ đó mà y thừa hưởng được ân huệ tối cao làm vua?
Nhưng trong thời gian làm vua, thụ hưởng được mọi lạc thú trong cuộc sống, thay vì y tạo thêm nhân đức, tạo nghiệp lành tiếp tục thì y lại có những hành động tàn ác của kẻ có quyền uy. Tuy nhiên hoàn cảnh, điều kiện và thời gian để y bị quả báo chưa đến. Luật luân hồi nghiệp quả vô cùng công bằng và chi li, có thể thời hạn được hưởng nghiệp quả tốt lành của y chưa hết hạn kỳ nên y vẫn còn tại vị. Ở đây, có thể trong lúc tại vị, y cũng đồng thời bị nghiệp quả xấu tức thì song song. Tuy nhiên đó là trường hợp tội ác hiện tại mà y gây ra không lớn thì sự kiện có thể xảy ra. Nhưng ở đây, vì trong kiếp hiện tại, y tạo nghiệp ác quá lớn như trường hợp của bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, đày đọa hàng vạn người xây Vạn Lý Trường Thành, hoặc trường hợp Hitler, một quỉ vương Đức Quốc Xã đã tiêu diệt mấy triệu người vô tội... vì thế có thể chưa có những cơ hội tương xứng với những tội lỗi tày trời của chúng và hơn nữa nghiệp lành từ kiếp trước của chúng vẫn còn nhiều. Có thể sau khi những kẻ ác nầy chết đi, kiếp sau khi đầu thai trở về chúng vẫn còn hưởng tiếp tục nghiệp lành từ những kiếp trước đó nữa. Lại có những kẻ mà lúc còn sống chúng hành động rất tàn ác, dã man và khi chết hoặc do bị xử tội hay chết sớm, chúng vẫn nuôi trong tâm thức sự tiếc nuối căm hờn không nguôi về những gì chúng đã làm chưa trọn vẹn và chúng thề nguyền với lòng sẽ tiếp tục những hành động dã man tàn ác mà kiếp lai sinh. Cái nghiệp thức và nghiệp lực là động cơ khiến chúng tha hồ mà làm điều tàn nhẫn không gớm tay khi được tái sinh trở lại. Nhà triết học Schopen hauer đã có lần ghi lại một sự kiện tương tự, ở đây lá ý chí phục thù và ý chí phục thù ấy sẽ thể hiện ở kiếp sau khi khi ông kể rằng trong một bài báo Anh (báo The Times) phát hành ngày 29 tháng giêng 1841 mô tả cuộc xử bắn hai người đàn ông Úc Châu về tội giết người: "Hai kẻ sát nhân một già một trẻ mỗi người một phong cách vá ý chí biểu lộ trên nét mặt và cử chỉ. Tên sát nhân trẻ tuổi với gương mắt lầm lì, mắt trắng dã với những đường gân thớ thịt hằn lên ở ngang tai, răng nghiến lại. Cứ nhìn nét mặt hắn bộc lộ lúc đó (bài báo viết) thì "người ta sẽ thấy rõ ràng hắn sẽ tái sinh trở lại một thanh niên da trắng và điều đó làm có cương quyết. Cái cương quyết sẽ thành kẻ sát nhân man dã hơn nữa ở kiếp sắp tới..." Cách đây hơn một thế kỷ, một ác quỷ đã xuất hiện giữa thế gian ngay tại nước Pháp. Tên của hắn là Gilles de Rais với chức vụ Thống chế. Hắn giết người không gớm tay, giết người với hăng say thích thú vùng với sự thèm khát lạ lùng khi trông thấy máu và nhúng tay vào máu. Lúc bị đưa lên giàn hỏa "con quỷ dữ" đã gào lên khủng khiếp cùn với lời nguyền: "Ta sẽ trở lại thế gian nầy 500 năm sau..." và mới đây. tại Hoa Kỳ xuất hiện một kẻ sát nhân kỳ dị đã gieo bao khủng khiếp trong một ngôi nhà vắng lặng thay vì tòa lâu đài bí mất của thời xưa cổ, con quỷ dữ nầy có tên là C. Jeffrey Dahmer, hắn giết trẻ con và người lớn, cách giết người của hắn y hệt ác quỷ Gilles de Rais nhưng kinh khiếp hơn, rùng rợn hơn, ghê tởm hơn khi hắn ăn thịt luôn những nạn nhân hắn giết. Điều nầy khiến người ta nghĩ đến lời nguyền ghê gớm của tên sát nhân cách đây nửa thế kỷ, "ta sẽ trở lại... và tiếp tục công việc của ta hơn cả hôm nay..." Phải chăng Jeffrey Dahner chính là hậu thân của quỷ dữ Gilles de Rais? Ta hãy ngược dòng thời gian để biết cuộc đời ghê tởm của ác quỷ Gilles de Rais:
Chuyện
Ngài Thống Chế Nhân Từ.
Đã mấy
tháng liền, dân chúng quanh vùng Vendée (thuộc nước Pháp) bàn tán cùng nhau
không ngớt về một con người vô cùng giàu có, nhân từ, điềm đạm, gương mẫu, mạnh
khỏe và nhất là rất thương yêu con trẻ. Người ấy là thống chế Gilles de Rais,
ông từ kinh đô về đây và sống trong tòa lâu đài Tiffanges. Mỗi buổi sáng cũng như buổi chiều, ông đều đi dạo
một vòng quanh vùng. Dáng ông cao lớn oai vệ và luôn luôn nghiêm nghị, gặp ai
ông cũng đưa tay chào với chiếc ba toong trên tay có lạm ngọc lóng lánh. Mỗi
khi thấy bọn trẻ, ông thường dừng lại xoa đầu chúng, ngắm nhìn chúng và không
bao giờ giờ quên cho tiền chúng ăn quà. Ông thường âu yếm hỏi chúng có muốn sống
chung lâu đài với ông không? Nơi mà đầy đủ các loại đàn, các loại đồ chơi, các vườn cây lạ với đủ thứ chim muông và
nhất là đủ thứ đồ ăn. Đứa nào cũng híp mắt gật đầu... Thống chế đã
nghiêm túc nói rõ vấn đề nầy cho cha mẹ chúng trong vùng và ai cũng muốn gửi
con mình cho ngài thống chế nuôi dạy. Thống chế Gilles de Rais đã thực hiện điều
hứa đó và để có thể dạy dỗ các đứa trẻ có kết quả hơn, ông đã tìm kiếm các
cô gái có học có tài để phụ giúp dạy dỗ các em về các lãnh vực ca hát, đàn, múa và học chữ.
Kể từ khi đó, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng ca hát, đọc bài của các đứa trẻ phát ra từ các cửa nhỏ của lâu đài. Các bậc cha mẹ có con gửi vào đây đều sung sướng, yên tâm, hãnh diện. Chỉ tội cho những người không có con để gửi đều cảm thấy đau buồn và thua thiệt...
Ai cũng biết thống chế Gilles de Rais là một con người mực thước, nghiêm khắc về việc dạy dỗ dĩ nhiên là ép vào khuôn khổ. Vì thế mặc dầu đã lâu không ai được dịp gặp lại con vào cả những ngày lễ, Tết nhưng ai cũng đều tự an ủi và hy vọng mai sau con cái họ sẽ nên người. Họ chỉ biết tìm con mỗi khi thống chế đi dạo ngang qua. Ông giơ tay lên và nói: "Ồ! con bác ngoan lắm!" thế là họ yên tâm.
Thống chế có ba tòa lâu đài đồ sộ, trang trí cực kỳ xa hoa nhưng không kém phần quái dị. Nhiều cây cối có thân uốn khúc như đang múa bay trên các pho tượng của các vị thánh thần dữ tợn cạnh các hồ nước rêu phong sâu thẳm.
Thế rồi, một đêm trăng sáng, khoảng 11 giờ khuya, một người thợ rừng có việc phải đi qua tòa lâu đài bỗng nghe một tiếng thét vang lên... người thợ rừng kinh hãi chạy lại phía người đàn ông đang gù lưng vừa bò vừa thở, đến bên một mô đất rồi gục xuống. Dưới ánh trăng, người thợ rừng cúi sát xuống cạnh người gù thì thấy người ấy đã chết. Trên lưng ông ta máu chảy đầm đìa, hình như bị đâm nhiều nhát... Người gù chính là gia nhân độc nhất chuyên săn sóc cây cảnh trong tòa lâu đài của thống chế Gilles de Rais.
Ngày hôm sau xác chết biến mất. Một nỗi kinh sợ bao trùm vùng Vendée. Dân chúng sống gần tòa lâu đài bắt đầu lo lắng và bàn tán. Có những điều mà bấy lâu nhiều người nghi ngờ nhưng không dám hé răng... Có người nhất quyết rằng tai mình đã nghe rõ những tiếng rú thất thanh phát ra từ trong tòa lâu đài bí mật vào những đêm khuya thanh vắng và họ còn khẳng định đó là những tiếng thét đầy khủng khiếp chớ không phải tiếng cười hay tiếng hát...
Hãy trở lại từ đầu, nghĩa là từ năm 1427, lúc bấy giờ Gilles de Rais là vị tướng được vua Charles đệ thất vô cùng quý trọng và được phong làm Thống tướng. Năm 1435 ông cáo bệnh xin trở về vùng Vendée và sống ẩn dật trong tòa lâu đài nổi tiếng Tiffanges. Tại đây ông tiêu phí của cải như đổ tiền qua cửa sổ. Ông còn hai toà lâu đài khác nữa là Machecoul và Chambtobe, vợ ông là Catherine de Thouars và con gái là Marie. Thống chế là một người nghiêm nghị và đôi khi dữ tợn. Vợ con ông ít quan tâm đến, về việc gối chăn đối với bà vợ ông lại thường lạnh nhạt. Ông rất thích những gì có tính cách kỳ bí, ma thuật và ghê rợn, sống cạnh ông luôn luôn có hai phụ tá đắc lực đó là Henriet và Poitou, những người nầy cũng như ông đều có cuộc sống vô cùng bí hiểm khó có ai biết được...
Từ khi xảy ra hiện tượng kỳ lạ về xác chết của người gù biến mất như đã nói trên, dân chúng trong vùng đã bắt đầu nghi ngờ và lo sợ. Cuối thu năm 1440, 12 phụ huynh mà con em họ đều gởi vào tòa lâu đài đệ trình lên nhà vua một đơn thỉnh nguyện yêu cầu điều tra về đời sống các trẻ em trong đó. Nhưng không hiểu vì sao bức thư bị ém nhẹm. Trong khi đó tại lâu đài Machecoul một em bé đi ăn xin tình cờ thấy một cảnh tượng hãi hùng ngay giữa phòng đại sảnh đầy các thây ma của các con trai con gái, tuổi từ 10 đến 12. Em bé nầy vừa khóc vừa chạy thục mạng ra khỏi lâu đài...
Tên Sát Nhân Bị Bắt Khắp nơi dân chúng xôn xao bàn tán, phần lớn họ đều cho con vào tòa lâu đài nhờ Thống chế nuôi nấng và dạy dỗ nhưng chẳng có ai thấy con trở về đã mấy năm rồi...
Quận công Jean V ở Bretagner đã nghe báo cáo nầy từ lâu nhưng còn chần chờ, mãi tới khi nhà vua hạ lệnh phải đem nộp ngay Thống chế Gilles de Rais thì ông nầy mới chịu ra tay. Trong khi đó các nhân chứng đều tụ tập cả trong văn phòng của Jean de Malstroit, giám mục ở Nantes và là quan tư pháp thượng thư tại tòa án Bretagner. Tất cả đều buộc tội Gilles de Rais là tên sát nhân ghê tởm nhất trên thế gian và yêu cầu thẳng tay trị tội hắn với bản án khủng khiếp nhất. Thế rồi quân đội và nhân viên điều tra đến các toà lâu đài, lục soát khắp nơi, và tội ác ghê rợn nhất do tên sát nhân quái dị nầy đã được hoàn toàn đưa ra ánh sáng. Ngoài Gilles de Rais người ta còn bắt được đồng bọn trong đó nổi tiếng nhất là Henriet và Poitou.
Trước tòa, bọn sát nhân gục đầu nhận tội và chúng lần lượt khai hết tội ác của mình.
Lời Khai Của Bọn Tội Phạm Theo lời khai của Gilles de Rais thì hắn bị chứng bệnh loạn dâm và thích mùi máu. Mỗi đêm, trong tòa lâu đài hắn và đồng bọn quây quần lại để cùng nhau làm lễ tôn vinh sự tốt lành ở địa ngục. Hắn thường quỳ xuống nhận rượu thánh và nhìn say xưa các cái đầu trẻ em sắp đều giữa nền phòng, những cái đầu xanh lét và bất động. Trước khi giết các đứa bé hắn thường vuốt ve các em thật lâu và hôn da thịt các em. Hắn khai giết hơn 400 trẻ em phần lớn từ 8 đến 12 tuổi. Số trẻ em bị chết hắn bổ sung bằng cách dụ dỗ con cái của các nhà dân mà hắn ghé thăm. Về sau trẻ em hiếm dần hắn nghĩ đến việc lôi kéo các em đi ăn xin hay các em lang thang ngoài đường. Các cô gái mà hắn đưa vào lâu đài để làm cô giáo cũng bị hắn giết không thương tiếc.
Theo lời khai của hai tòng phạm là Henriet và Poitou thì hai tên nầy thường sốt sắng theo lệnh của Gilles de Rais. Sau khi tập trung các trẻ em lại cho Gilles de Rais tuyển chọn lấy một (thường là trẻ em 12 tuổi) thì hắn lùa số còn lại vào một trong phòng khác và đóng kín cửa lại. Trong khi đó Gilles de Rais và bọn hắn làm lễ cầu đạo, gọi hồn thánh thần còn em bé thì bị cởi hết áo quần trói giăng tay trên một cái giường rộng để cho Gilles de Rais ngắm nghía, nói những câu đầy ma quái, vuốt tay chân mặt mũi em ra chiều thích thú, rồi hắn ra lệnh cho hai tên nầy giết em bé. Đôi khi tự tay hắn giết. Sau đó hắn nằm co quắp, trần truồng xuống sàn nhà và ngủ cho tới sáng. Đứa bé bị cắt cổ, cái đầu giữ lại đến sáng hôm sau, còn thân mình thì đem thiêu ngay lò sưởi của căn phòng ngầm trong tòa lâu đài.
Kể từ khi đó, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng ca hát, đọc bài của các đứa trẻ phát ra từ các cửa nhỏ của lâu đài. Các bậc cha mẹ có con gửi vào đây đều sung sướng, yên tâm, hãnh diện. Chỉ tội cho những người không có con để gửi đều cảm thấy đau buồn và thua thiệt...
Ai cũng biết thống chế Gilles de Rais là một con người mực thước, nghiêm khắc về việc dạy dỗ dĩ nhiên là ép vào khuôn khổ. Vì thế mặc dầu đã lâu không ai được dịp gặp lại con vào cả những ngày lễ, Tết nhưng ai cũng đều tự an ủi và hy vọng mai sau con cái họ sẽ nên người. Họ chỉ biết tìm con mỗi khi thống chế đi dạo ngang qua. Ông giơ tay lên và nói: "Ồ! con bác ngoan lắm!" thế là họ yên tâm.
Thống chế có ba tòa lâu đài đồ sộ, trang trí cực kỳ xa hoa nhưng không kém phần quái dị. Nhiều cây cối có thân uốn khúc như đang múa bay trên các pho tượng của các vị thánh thần dữ tợn cạnh các hồ nước rêu phong sâu thẳm.
Thế rồi, một đêm trăng sáng, khoảng 11 giờ khuya, một người thợ rừng có việc phải đi qua tòa lâu đài bỗng nghe một tiếng thét vang lên... người thợ rừng kinh hãi chạy lại phía người đàn ông đang gù lưng vừa bò vừa thở, đến bên một mô đất rồi gục xuống. Dưới ánh trăng, người thợ rừng cúi sát xuống cạnh người gù thì thấy người ấy đã chết. Trên lưng ông ta máu chảy đầm đìa, hình như bị đâm nhiều nhát... Người gù chính là gia nhân độc nhất chuyên săn sóc cây cảnh trong tòa lâu đài của thống chế Gilles de Rais.
Ngày hôm sau xác chết biến mất. Một nỗi kinh sợ bao trùm vùng Vendée. Dân chúng sống gần tòa lâu đài bắt đầu lo lắng và bàn tán. Có những điều mà bấy lâu nhiều người nghi ngờ nhưng không dám hé răng... Có người nhất quyết rằng tai mình đã nghe rõ những tiếng rú thất thanh phát ra từ trong tòa lâu đài bí mật vào những đêm khuya thanh vắng và họ còn khẳng định đó là những tiếng thét đầy khủng khiếp chớ không phải tiếng cười hay tiếng hát...
Hãy trở lại từ đầu, nghĩa là từ năm 1427, lúc bấy giờ Gilles de Rais là vị tướng được vua Charles đệ thất vô cùng quý trọng và được phong làm Thống tướng. Năm 1435 ông cáo bệnh xin trở về vùng Vendée và sống ẩn dật trong tòa lâu đài nổi tiếng Tiffanges. Tại đây ông tiêu phí của cải như đổ tiền qua cửa sổ. Ông còn hai toà lâu đài khác nữa là Machecoul và Chambtobe, vợ ông là Catherine de Thouars và con gái là Marie. Thống chế là một người nghiêm nghị và đôi khi dữ tợn. Vợ con ông ít quan tâm đến, về việc gối chăn đối với bà vợ ông lại thường lạnh nhạt. Ông rất thích những gì có tính cách kỳ bí, ma thuật và ghê rợn, sống cạnh ông luôn luôn có hai phụ tá đắc lực đó là Henriet và Poitou, những người nầy cũng như ông đều có cuộc sống vô cùng bí hiểm khó có ai biết được...
Từ khi xảy ra hiện tượng kỳ lạ về xác chết của người gù biến mất như đã nói trên, dân chúng trong vùng đã bắt đầu nghi ngờ và lo sợ. Cuối thu năm 1440, 12 phụ huynh mà con em họ đều gởi vào tòa lâu đài đệ trình lên nhà vua một đơn thỉnh nguyện yêu cầu điều tra về đời sống các trẻ em trong đó. Nhưng không hiểu vì sao bức thư bị ém nhẹm. Trong khi đó tại lâu đài Machecoul một em bé đi ăn xin tình cờ thấy một cảnh tượng hãi hùng ngay giữa phòng đại sảnh đầy các thây ma của các con trai con gái, tuổi từ 10 đến 12. Em bé nầy vừa khóc vừa chạy thục mạng ra khỏi lâu đài...
Tên Sát Nhân Bị Bắt Khắp nơi dân chúng xôn xao bàn tán, phần lớn họ đều cho con vào tòa lâu đài nhờ Thống chế nuôi nấng và dạy dỗ nhưng chẳng có ai thấy con trở về đã mấy năm rồi...
Quận công Jean V ở Bretagner đã nghe báo cáo nầy từ lâu nhưng còn chần chờ, mãi tới khi nhà vua hạ lệnh phải đem nộp ngay Thống chế Gilles de Rais thì ông nầy mới chịu ra tay. Trong khi đó các nhân chứng đều tụ tập cả trong văn phòng của Jean de Malstroit, giám mục ở Nantes và là quan tư pháp thượng thư tại tòa án Bretagner. Tất cả đều buộc tội Gilles de Rais là tên sát nhân ghê tởm nhất trên thế gian và yêu cầu thẳng tay trị tội hắn với bản án khủng khiếp nhất. Thế rồi quân đội và nhân viên điều tra đến các toà lâu đài, lục soát khắp nơi, và tội ác ghê rợn nhất do tên sát nhân quái dị nầy đã được hoàn toàn đưa ra ánh sáng. Ngoài Gilles de Rais người ta còn bắt được đồng bọn trong đó nổi tiếng nhất là Henriet và Poitou.
Trước tòa, bọn sát nhân gục đầu nhận tội và chúng lần lượt khai hết tội ác của mình.
Lời Khai Của Bọn Tội Phạm Theo lời khai của Gilles de Rais thì hắn bị chứng bệnh loạn dâm và thích mùi máu. Mỗi đêm, trong tòa lâu đài hắn và đồng bọn quây quần lại để cùng nhau làm lễ tôn vinh sự tốt lành ở địa ngục. Hắn thường quỳ xuống nhận rượu thánh và nhìn say xưa các cái đầu trẻ em sắp đều giữa nền phòng, những cái đầu xanh lét và bất động. Trước khi giết các đứa bé hắn thường vuốt ve các em thật lâu và hôn da thịt các em. Hắn khai giết hơn 400 trẻ em phần lớn từ 8 đến 12 tuổi. Số trẻ em bị chết hắn bổ sung bằng cách dụ dỗ con cái của các nhà dân mà hắn ghé thăm. Về sau trẻ em hiếm dần hắn nghĩ đến việc lôi kéo các em đi ăn xin hay các em lang thang ngoài đường. Các cô gái mà hắn đưa vào lâu đài để làm cô giáo cũng bị hắn giết không thương tiếc.
Theo lời khai của hai tòng phạm là Henriet và Poitou thì hai tên nầy thường sốt sắng theo lệnh của Gilles de Rais. Sau khi tập trung các trẻ em lại cho Gilles de Rais tuyển chọn lấy một (thường là trẻ em 12 tuổi) thì hắn lùa số còn lại vào một trong phòng khác và đóng kín cửa lại. Trong khi đó Gilles de Rais và bọn hắn làm lễ cầu đạo, gọi hồn thánh thần còn em bé thì bị cởi hết áo quần trói giăng tay trên một cái giường rộng để cho Gilles de Rais ngắm nghía, nói những câu đầy ma quái, vuốt tay chân mặt mũi em ra chiều thích thú, rồi hắn ra lệnh cho hai tên nầy giết em bé. Đôi khi tự tay hắn giết. Sau đó hắn nằm co quắp, trần truồng xuống sàn nhà và ngủ cho tới sáng. Đứa bé bị cắt cổ, cái đầu giữ lại đến sáng hôm sau, còn thân mình thì đem thiêu ngay lò sưởi của căn phòng ngầm trong tòa lâu đài.
Sáng hôm
sau cả bọn lại vuốt ve cái đầu lạnh ngắt rồi lại làm lễ cầu hồn.
Người gù lo việc săn sóc cây cối trong lâu đài vì tò mò nên đã bị giết chết. Sau đó bọn chúng thủ tiêu xác. Ngoài ra một phù thủy đã giới thiệu cho Gilles de Rais một cô gái tên là Francois Prelati để phụ lực vào việc gọi hồn và thực hiện phép luyện đan nhưng công việc tiếp diễn mãi, công quỹ khô cạn mà chẳng có kết quả gì khả quan cả. Mỗi lần làm phép bọn họ thường kẻ những đường ngang dọc, những vòng tròn trên nền nhà. Trong mỗi vòng tròn có kẻ thập tự giá và những ký hiệu kỳ lạ của người Do Thái xưa cổ. Về sau sự việc bị bại lộ dần lên Gilles de Rais lo sợ cho đem hết xương cốt các em và thiếu nữ đốt ngay tại căn hầm của lâu đài Machecoul. Năm 1440, nhân lễ thánh trong năm. Gilles de Rais lại ra lệnh giết một số lượng rất lớn các trai gái từ 16 đến 18. Đây là những em bé đã đem về nuôi từ năm năm nay. Sai đó lại còn giết thêm nữa. Các xác bị chặt ra làm đôi và bày la liệt trên sàn của căn phòng lớn trong tòa lâu đài để làm lễ tôn vinh các thánh thần.
Giờ Đền Tội Phiên toà kéo dài mấy ngày liên tục trước sự tham dự của hàng vạn dân chúng. Với các tội trạng rành rành đầy ghê tởm của bọn sát nhân. Tòa tuyên án xử tử hình tên Gilles de Rais bằng hình thức treo lên giảo đài và thiêu sống, còn hai tên ác ôn Henriet và Poitou cũng bị hình phạt tương tự. Những người sống trong lâu đài không nhúng tay vào vụ sát nhân thì bị mấy năm tù và hoặc tha bỗng tuỳ theo tội trạng liên quan.
Đúng 11 giờ ngày 26 tháng 10 năm 1440, dân chúng lũ lượt kéo nhau đến một khu đất rộng để xem tận mắt cuộc xử tội ba tên sát nhân mà đứng đầu là tên Gilles de Rais; tên sát nhân quái dị. Sau các lời cầu nguyện Gilles de Rais bước lên giảo đài. Người ta cột dây ở lưng để treo hắn lên giá cao và thòng lọng nơi tròng vào cổ hắn. Dưới chân là đống củi lớn sẳn sàng được bén lửa. Hồi chuông báo tử và gọi hồn vang lên giục giã. Ngọn lửa được châm vào đống củi và bùng cháy hừng hực bốc lên bao lấy tên tử tội. Người ta nghe tiếng hét hắn thất thanh trong lửa và khói "ta sẽ trở lại thế gian nầy năm trăm năm sau... ta sẽ trở lại" Sau đó hai phụ tá ác ôn là Henriet và Poitou cũng lần lượt đưa lên giàn hỏa và bị đốt cháy thành than,kết thúc cuộc đời của những tên độc ác và tàn bạo... Đó là chuyện có thật xảy ra cách đây năm thế kỷ.
Rồi vào năm 1950 báo Paris Match của Pháp lại đăng tin về việc xử tử một tên tội phạm nổi danh giết người không gớm tay. Khi ra pháp trường hắn đã thét lên câu "tao sẽ trở lại, rồi tao sẽ trở lại tàn sát hết!" trước khi gục ngã trước đội hành quyết.
Nghiên cứu về lịch sử các tội phạm đông tây kim cổ, không hiếm những trường hợp tương tự. Những kẻ giết người trước khi đền tội không phải luôn luôn đều ăn năn sám hối, hoặc ghê tởm trước những hành động dã man của mình mà trái lạ, đôi khi còn căm thù, khinh ngạo, tức tối như tuồng những gì chúng đã gây ra và vẫn chưa làm chúng hài lòng và trước khi chết chúng vẫn còn ân hận chưa thực hiện hoài bão tàn khốc của mình và nuôi dưỡng trong tâm lòng khát khao được tiếp tục gây tội ác. Chắc chắn những "ác quỉ" nầy khi tái sinh sẽ làm khổ vô số người. Nhiều người đã tin rằng, những kẻ cuồng sát dã man, kỳ dị ấy khi đầu thai lại, chúng đã làm đúng ước nguyện của chúng. Những kẻ giết người không gớm tay hay cả những đồ tể, những đao phủ say sưa với công việc "xử tử" những tù nhân, những tội phạm, phải chăng đó là những kẻ sát nhân được tái sinh trở lại từ kiếp trước?
Các nhà nghiên cứu về tội ác đã nhận xét rằng những đao phủ từ cổ đại đến nay phần lớn có truyền thống gia đình. André Obrecht là đao phủ nổi tiếng lầm lì nhất thế gian, chỉ riêng trong giai đoạn hành nghề chặt đầu người tại Pháp, ông ta cũng đã chém đầu 322 tử tội. Người cha của Obrecht cũng đã hành nghề đao phủ từ năm 1694. Khi người cha qua đời, Obrecht nối nghiệp cha và đã làm rơi đầu không biết bao nhiêu người từ năm 1922 đến năm 1976. Trong suốt 54 năm trời, Obrecht đã xử tử đủ hạng người; nào là kẻ sát nhân ghê tởm, kẻ phạm tội chính trị, nam có, nữ có, già có, trẻ có và cũng có vô số người vô tội. Mặc dầu không tin thuyết luân hồi tái sanh nhưng qua 54 năm hành nghề đao phủ, Obrecht đã đệ đơn từ chức sau khi chém đứt đầu một nữ tù nhân tên là Louise Giraud mà tiếng kêu gào khủng khiếp của bà nầy hình như không tắt bên tai hắn. Hắn rên rỉ: "tôi chán, tôi sợ và tôi ăn năn!..."
Người gù lo việc săn sóc cây cối trong lâu đài vì tò mò nên đã bị giết chết. Sau đó bọn chúng thủ tiêu xác. Ngoài ra một phù thủy đã giới thiệu cho Gilles de Rais một cô gái tên là Francois Prelati để phụ lực vào việc gọi hồn và thực hiện phép luyện đan nhưng công việc tiếp diễn mãi, công quỹ khô cạn mà chẳng có kết quả gì khả quan cả. Mỗi lần làm phép bọn họ thường kẻ những đường ngang dọc, những vòng tròn trên nền nhà. Trong mỗi vòng tròn có kẻ thập tự giá và những ký hiệu kỳ lạ của người Do Thái xưa cổ. Về sau sự việc bị bại lộ dần lên Gilles de Rais lo sợ cho đem hết xương cốt các em và thiếu nữ đốt ngay tại căn hầm của lâu đài Machecoul. Năm 1440, nhân lễ thánh trong năm. Gilles de Rais lại ra lệnh giết một số lượng rất lớn các trai gái từ 16 đến 18. Đây là những em bé đã đem về nuôi từ năm năm nay. Sai đó lại còn giết thêm nữa. Các xác bị chặt ra làm đôi và bày la liệt trên sàn của căn phòng lớn trong tòa lâu đài để làm lễ tôn vinh các thánh thần.
Giờ Đền Tội Phiên toà kéo dài mấy ngày liên tục trước sự tham dự của hàng vạn dân chúng. Với các tội trạng rành rành đầy ghê tởm của bọn sát nhân. Tòa tuyên án xử tử hình tên Gilles de Rais bằng hình thức treo lên giảo đài và thiêu sống, còn hai tên ác ôn Henriet và Poitou cũng bị hình phạt tương tự. Những người sống trong lâu đài không nhúng tay vào vụ sát nhân thì bị mấy năm tù và hoặc tha bỗng tuỳ theo tội trạng liên quan.
Đúng 11 giờ ngày 26 tháng 10 năm 1440, dân chúng lũ lượt kéo nhau đến một khu đất rộng để xem tận mắt cuộc xử tội ba tên sát nhân mà đứng đầu là tên Gilles de Rais; tên sát nhân quái dị. Sau các lời cầu nguyện Gilles de Rais bước lên giảo đài. Người ta cột dây ở lưng để treo hắn lên giá cao và thòng lọng nơi tròng vào cổ hắn. Dưới chân là đống củi lớn sẳn sàng được bén lửa. Hồi chuông báo tử và gọi hồn vang lên giục giã. Ngọn lửa được châm vào đống củi và bùng cháy hừng hực bốc lên bao lấy tên tử tội. Người ta nghe tiếng hét hắn thất thanh trong lửa và khói "ta sẽ trở lại thế gian nầy năm trăm năm sau... ta sẽ trở lại" Sau đó hai phụ tá ác ôn là Henriet và Poitou cũng lần lượt đưa lên giàn hỏa và bị đốt cháy thành than,kết thúc cuộc đời của những tên độc ác và tàn bạo... Đó là chuyện có thật xảy ra cách đây năm thế kỷ.
Rồi vào năm 1950 báo Paris Match của Pháp lại đăng tin về việc xử tử một tên tội phạm nổi danh giết người không gớm tay. Khi ra pháp trường hắn đã thét lên câu "tao sẽ trở lại, rồi tao sẽ trở lại tàn sát hết!" trước khi gục ngã trước đội hành quyết.
Nghiên cứu về lịch sử các tội phạm đông tây kim cổ, không hiếm những trường hợp tương tự. Những kẻ giết người trước khi đền tội không phải luôn luôn đều ăn năn sám hối, hoặc ghê tởm trước những hành động dã man của mình mà trái lạ, đôi khi còn căm thù, khinh ngạo, tức tối như tuồng những gì chúng đã gây ra và vẫn chưa làm chúng hài lòng và trước khi chết chúng vẫn còn ân hận chưa thực hiện hoài bão tàn khốc của mình và nuôi dưỡng trong tâm lòng khát khao được tiếp tục gây tội ác. Chắc chắn những "ác quỉ" nầy khi tái sinh sẽ làm khổ vô số người. Nhiều người đã tin rằng, những kẻ cuồng sát dã man, kỳ dị ấy khi đầu thai lại, chúng đã làm đúng ước nguyện của chúng. Những kẻ giết người không gớm tay hay cả những đồ tể, những đao phủ say sưa với công việc "xử tử" những tù nhân, những tội phạm, phải chăng đó là những kẻ sát nhân được tái sinh trở lại từ kiếp trước?
Các nhà nghiên cứu về tội ác đã nhận xét rằng những đao phủ từ cổ đại đến nay phần lớn có truyền thống gia đình. André Obrecht là đao phủ nổi tiếng lầm lì nhất thế gian, chỉ riêng trong giai đoạn hành nghề chặt đầu người tại Pháp, ông ta cũng đã chém đầu 322 tử tội. Người cha của Obrecht cũng đã hành nghề đao phủ từ năm 1694. Khi người cha qua đời, Obrecht nối nghiệp cha và đã làm rơi đầu không biết bao nhiêu người từ năm 1922 đến năm 1976. Trong suốt 54 năm trời, Obrecht đã xử tử đủ hạng người; nào là kẻ sát nhân ghê tởm, kẻ phạm tội chính trị, nam có, nữ có, già có, trẻ có và cũng có vô số người vô tội. Mặc dầu không tin thuyết luân hồi tái sanh nhưng qua 54 năm hành nghề đao phủ, Obrecht đã đệ đơn từ chức sau khi chém đứt đầu một nữ tù nhân tên là Louise Giraud mà tiếng kêu gào khủng khiếp của bà nầy hình như không tắt bên tai hắn. Hắn rên rỉ: "tôi chán, tôi sợ và tôi ăn năn!..."
Các Chu Kỳ
Lịch Sử Và Thời Đại Có Liên Hệ Đến Sự Chuyển Sinh.
Nghiên cứu
lịch sử văn minh thế giới, các nhà sử học, địa lý học, xã hội học, phong tục học...
nhận thấy có những giai đoạn thời gian liên quan đến sự phát triển hay suy
thoái về nhiều mặt. Dân số, phong tục, nền văn minh... cũng như cả về mặt khí hậu,
thiên tai (động đất, núi lửa, sóng thần, lũ lụt, đất chuồi, hạn hán).
Đối với các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, qua các tài liệu thu thập được từ cổ đại đến nay, họ đã tìm hiểu phân tích một số trường hợp đặc biệt có liên quan giữa những sự chuyển sinh của hàng loạt linh hồn với những thời gian và thời đại tương ứng. Từ lâu nhiều người đã thắc mắc rằng nếu quả thật có số mệnh, có luân hồi thì tại sao lại có trường hợp hai trái bom nguyên tử của Mỹ đã tiêu diệt hai thành phố Hiroshima và Nagazakji của Nhật Bản và giết chết một lúc hàng chục vạn người? Tại sao hàng triệu người dân Do Thái bị đưa vào phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã để chết một cách tức tưởi? Chỉ riêng ở trại giam Auschwitz cũng đã có trên một triệu người bị giết. Những trường hợp ấy thuyết luân hồi quả báo giải thích ra sao?
Trở lại trường hợp của người Hoa Kỳ có khả năng biết được tiền kiếp của người khác khi ông đưa họ vào giấc ngủ thôi miên ông Edgar Cayce đã thu thập được vô số trường hợp khác nhau về những gì liên hệ tới hiện tượng đầu thai và quả báo mà tài liệu có khoảng 30.000 hồ sơ còn lưu trữ tại viện nghiên cứu các hiện tượng siêu hình ở Virginia Beach thuộc tiểu bang Florida. Chính nhờ các tài liệu nầy mà nhà biên soạn Gina Cerminara đã có thể viết lời giải thích tuy không phải là tất cả và hữu lý tuyệt đối cho những câu hỏi trên. Câu trả lời sẽ là có những nhóm linh hồn đầu thai hàng loạt trở lại để sống trên quả đất và theo thời gian đã định, theo hoàn cảnh thời đại, môi trường, những con người ấy sẽ gặp nhau cùng một nơi chốn nào đó để một lần hay lần lượt chịu quả báo. Điều nầy giải thích được nguyên nhân nào có sự chết đồng loạt: Như trận động đất ở Nhật Bản năm 1923 đã giết hại hơn 140.000 người (đó là chỉ riêng ở thành phố Tokyo thôi). Hay trận động đất ở Lisbon, Portugal năm 1755 đã khiến 60.000 người chết... Riêng ở Ý, trận phun lửa của hỏa diệm sơn Venus chôn vùi toàn bộ thành phố Pompeii với hàng vạn dân cư. Tro nóng của núi lửa đã khiến cho nhiều người chết nhanh đến độ có người vẫn giữ nguyên dáng đứng, ngồi hay biểu lộ các cử chỉ hốt hoảng, kinh hoàng... sau nầy khi khai quật thành phố trở lại mới thấy rõ điều đó.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong trường hợp gọi là chết đồng loạt ấy thật sự đôi khi vẫn còn một số người hoặc duy nhất còn một người sống sót. Trường hợp nầy được giải thích qua nhiều lập luận.
Thứ nhất có thể những người còn sống sót chưa đến hạn kỳ phải chịu đại nạn. Có người còn sống sót nhưng đôi khi họ lại còn bị đau khổ đày đọa hơn những người đã chết trước đó. Trong một trại giam người Do Thái của Đức Quốc Xã, có lần hai tù nhân vượt trại trốn vào rừng. Sau bao gian nan nguy hiểm, một người bị quân Đức bắt lại, người thứ hai thoát được. Khi trở về trại thì những người bị giam trong các căn trại ấy đã bị bỏ vào lò hơi ngạt hết. Bọn Đức liền đẩy người nầy vào nhóm người Do Thái thứ 2 ở những trại kế tiếp để chờ đợi ngày vào phòng hơi ngạt.
Khi ngày ấy đến, trong lúc đoàn người bị đưa lên xe cây chuẩn bị di chuyển thì một người Do Thái nổi điên xông vào đám lính Đức cấu xé. Nhân cuộc lộn xộn xảy ra. người nầy trốn khỏi đám đông chạy vào ẩn trong một nhà kho. Tuy nhiên lính canh bắt được và người nầy bị lính Đức đánh đập vô cùng tàn nhẫn và cuối cùng anh ta cũng bị đưa vào phòng hơi ngạt. Hồ sơ người nầy đã được quân Đức lưu trữ và thường dùng để làm gương cho những người trốn trại. Qua hồ sơ ấy ta thấy rõ rằng người nầy tưởng là may mắn nhưng quả thật anh ta không may mắn chút nào nếu so với những người Do Thái trước đó đã vào lò hơi ngạt. Những người ấy chỉ chết một lần, còn anh ta, trước khi chết lại phải vào sinh ra tử bị đày đọa khổ đau cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy nhiên có khi người sống sót lại được an toàn cho đến mãn đời, ấy là do nghiệp quả báo của họ phải chịu sự lo sợ kinh khiếp nhưng phải chết ngay được. Như trường hợp cô Helen Hix kinh sợ đến độ chết đi sống lại nhiều lần trước khi đưa lên ngồi ghế điện. Khi dòng điện 10.000 volt truyền vào ghế điện thì cô thét lên nhưng kỳ lạ thay điện cao thế ấy lại không giết được cô mà chỉ làm cháy xém một vài nơi ở tay và chân thôi. Điều kỳ lạ nầy cho ta một giải thích mới theo nghĩa quả báo luân hồi là tội nhân phải chịu hình phạt rợn làm khổ đau khiên đảm từ cả tinh thần đến thể xác nhiều lần. Về chu kỳ lịch sử, thời đại và sự xuất hiện vủa những nhân vật lịch sử vào những thời kỳ tương ứng chính là hạn kỳ, giai đoạn mà những linh hồn nào đó đã được luân hồi tái sinh trở lại. Có những linh hồn chờ đợi hoàn cảnh sự kiện thích ứng cho mình để nhắm đúng thời gian để đầu thai. Những nhà thông thái, những người làm nên lịch sử, sáng chế, phát minh, phát triển văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, tạo cuộc sống cách mạng, làm thay đổi thể chế chính trị nào đó. v..v... đều là những người mà trước đây họ cũng đã có những tài năng tương ứng và sự luân hồi là cả một sự tiến hóa, hơn nữa có thể họ chưa đạt ý nguyện về những công việc, những hoài bão từ tiền kiếp nên họ sẽ mong chờ được chuyển sinh trở lại để hoàn tất những gì mà mình đang bỏ dở chưa hoàn thành. Xét về mặt khoa học kỹ thuật, câu hỏi được đặt ra là những nhà khoa học, phát minh tài ba xuất hiện ở những thế kỷ trước và những thế kỷ hiện nay như Galilée, Einstein... có phải là cùng phát xuất chỉ từ một vài người thông minh nào ở thời đại xa xưa và qua sự tiến hoá của hiện tượng luân hồi mà giờ đây họ lại tái sinh và có lẽ trong những thế kỷ kế tiếp họ lại tái sinh?
Theo sự tìm hiểu của ông Edge Cayce khi ông khám bệnh theo phương thức thôi miên để đưa người bệnh nhân về quá khứ xa xăm hay tiền kiếp của bệnh nhân, ông được biết ngày xưa trên quả đất chúng ta đang sống có những đất nước, những dân cư, những nền văn minh phát triển. Nhưng qua những đột biến bất ngờ của quả địa cầu như núi lửa, động đất, đại hồng thủy v.. v. mà nhiều quốc gia, nhiều nền văn minh đã bị xóa tên và biến mất trên bản đồ thế giới. Chẳng hạn Châu Atlantic là một vùng đất rộng lớn có nền văn minh và lịch sử vô cùng phát triển. Khoảng 10.000 năm trước công nguyên, do một cuộc đại biến về địa chất mà lục địa nầy bị chìm xuống đáy đại dương. Hiện nay các nhà hải dương học thỉnh thoảng vẫn còn tìm thấy những vật dụng lạ lùng về châu nầy, những dấu tích kỳ bí cao siêu chứng tỏ xưa kia dân của Châu nầy có nền văn minh phát triển còn hơn cả nền văn minh của con người ngày nay. Cuộc đại biến lớn lao ấy đã khiến cho gần như hầu hết dân cư của Châu Atlantic bị tiêu diệt. Đây cũng có thể xem như sự hủy diệt đồng loạt những nhóm, loài nào đó ở một giai đoạn thời gian và hoàn cảnh nào đó. Rồi qua sự tái sinh những người ở Châu nầy sẽ lại đầu thai vào những thời đại tiếp theo cho đến ngày nay. Dĩ nhiên những linh hồn thông minh, tài năng của Châu Atlantic xưa cổ nầy sẽ trở lại thành những người tài giỏi của các quốc gia sau đó và hiện nay cũng như tương lai qua sự tái sinh luân hồi. Khi trình bày về vấn đề nầy, ông Edgar Cayce gặp sự nghi ngờ của nhiều người vì thắc mắc của họ lại gia tăng về một nền văn minh vượt bậc lại xuất hiện trước nền văn minh bây giờ. Làm sao lại có được điều kỳ lạ đó khi các nhà địa chất, sinh vật học, xã hội học, sử học lại xác định sự xuất hiện của nền văn minh loài người chỉ xuất hiện ở một giai đoạn thời gian nào đó không xa lắm nghĩa là mới đây thôi, trong khi nền văn minh của Châu Atlantic lại ở vào koảng thời gian cổ xưa hơn nữa. Thật ra, những khám phá và xác định của con người từ trước đến nay về quả đất, về sinh vật, về con người về nền văn minh không hẳn là hoàn toàn chính xác. Nhà bác học nổi tiếng Pierre Lecomte du Nouy đã ghi nhận về những nền văn minh xuất hiện vào thời xưa cổ như sau:
"Lịch sử đã cho chúng ta biết về nhiều nền văn minh đã có một trình độ vượt trội nền văn minh của chúng ta hiện nay. Nhưng tất cả chúng đã sụp đổ vào giai đoạn sắp đạt tới mục đích mà đời sống đã quá thuận lợi và tuyệt hảo đến độ những người cầm đầu lại đi vào cuộc sông ham mê nhu nhược và sa đọa khiến họ mất đi những gì về độ phẩm hạnh và làm họ biến thành những kẻ hèn yếu, dã man, tàn bạo, vô lương chỉ biết có xa hoa trụy lạc. Quần chúng khi ấy nhận thức được nguy cơ của sự suy vong nên với những phương tiện sẵn có, dọn đường cho những con người mới xuất hiện, những con người có đủ đức tính mà những người trước đã đánh mất.
Như vậy, chính đời sống tiện nghi cực độ sẽ dẫn đến sự suy tàn..."
Nếu xét về những thời đại lịch sử không xa lắm chúng ta cũng thấy được một vài sự kiện chứng về nhận định trên như sự hủy diệt của toàn bộ thành phố Pompei có nền văn minh phát triển.
Một số nhà khoa học cho rằng sở dĩ từ lâu thế giớ ca ngợi văn minh Ai Cập cổ đại là vì họ đã tìm thấy ở đó những dấu vết, hình ảnh từ kim tự tháp và trong kim tự tháp có những thứ còn may mắn tồn tại qua thời gian, những vật dụng nói lên sự tiến bộ của người Ai Cập có được sự văn minh tiến bộ, chắc hẳn họ phải được kế thừa bởi những nền văn minh nào đã có trước đó. Nhưng không may là những nền văn minh trước đó đã bị hủy diệt bởi nhiều lý do. Ta không thể loại trừ lý do về những đại thiên tai ghê gớm mà ngày xưa Kinh thánh có nhắc lại hay những hiện tượng đại biến của quả địa cầu như Cuvier nêu ra.
Baron Cuvier là một nhà sinh vật học nổi tiếng của Pháp, ông sinh năm 1769 và mất năm 1832. Thuyết nổi tiếng của ông là thuyết biến địa chất (geological catastrophe). Theo ông thì quả đất từ khi được thành lập đến nay đã trải qua nhiều cuộc đại biến vì thế làm thay đổi diện mạo mặt đất và nhất là khiến cho nhiều loài sinh vật bị diệt vong và nhiều loài sinh vật khác xuất hiện. Điều nầy giải thích nguyên nhân vì sao các sinh vật xửa nay không còn tiếp tục phát triển. Những tác nhân gây nên tại biến là những trận động đất khủng khiếp, những sóng thần, những trận phun lửa của hỏa sơn xảy ra rộng khắp quả địa cầu. Cũng theo Cuvier thì những cuộc đại biến nầy thường xảy ra theo từng chu kỳ. Mọi sinh vật sẽ chịu sự biến đổi theo từng chu kỳ ấy. Sinh vật phát sinh, phát triển rồi đồng loạt bị tiêu diệt vì một thảm họa lớn lao nào đó.
Như vậy thì thuyết cho rằng có những thời đại văn minh xuất hiện trước đây trên quả đất và nay đã bị tận diệt cũng không có gì là vô lý hay quá đáng. Trở lại châu Atlantic mà nhiều tài liệu đã xác nhận và mới đây sau khi nhiều nhà hải dương học nghiên cứu những vết tích dung nham do núi lửa phun ra bám trên sợi dây cáp đặt ngầm ở đáy biển, các nhà nghiên cứu đã dùng cầu lặn để thám hiểm và chụp hình đáy Đại Tây Dương nhiều lần, họ thấy nơi đó có đường nứt toạc rất lớn. Ngoài ra những mẫu dung nham được xác nhận là lúc đầu ở đất liền sau mới chìm xuống đáy đại dương, điều nầy chứng tỏ trước đây Đại Tây Dương là một lục địa lớn. Mới đây, một số báo chí, nhất là tại Hoa Kỳ cho rằng nhờ máy quang tuyến cực mạnh trang bị từ những vệ tinh, đã phát giác ra được những đường ngầm rộng từ 400 đến 500 yards cao độ 50 feet nằm ngay trên vùng được mô tả là châu Atlan tiic. Phải chăng đây là những đường nứt toạc ở đáy Đại Tây Dương hay là những con đường đi đến Châu Atlantic. Theo các nhà khoa học đường ngầm nầy đủ sức để một phi thuyến không gian đi qua. Điều nầy cũng giải thích thêm nguyên nhân nào từ lâu các tàu bè hay máy bay khi qua vùng Berrmuda (tam giác quy phần lớn đều bị "hút" mất xuống tận Atlantic. Vấn đề dù sao vẫn còn trong vòng bàn cãi. Tuy nhiên đối với thuyết luân hồi tái sinh thì vẫn khẳng định rằng có những nhóm linh hồn đồng loạt chuyển sinh vào những thời đại, hoàn cảnh, môi trường nào đó thích hợp cho nghiệp quả của họ. Vì thế mà đôi khi có những trường hợp là lùng hàng loạt người chết một lần vì những tai nạn nào đó như thiên tai, bão lụt, rớt máy bay, tàu chìm, bị pháo kích, oanh tạc. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều ngôi làng mà dân chúng bị tàn sát từ người già đến con trẻ không còn một ai. Sự chuyển sin hàng loạt để được thưởng, phạt, trả quả một lần đổi khi thể hiện rất rõ ràng.
Ngay cả trường hợp bệnh lý cũng vậy như trường hợp dưới thời đại vua Charles I ở nước Anh bị ống dẫn tiểu hoặc bị sạn thận. Trong lịch sử nhân loại có nhiều giai đoạn phát sinh chứng bệnh lạ lùng, riêng biệt, chứng ôn dịch v.v... nhân loại trong thế kỷ 20 bị bệnh AID phát triển sẽ đồng loạt tấn công loài người ở một tương lai không x nếu không có phương thuốc nào có khả năng chận đứng. Trong thời kỳ ở Việt Nam có phong trào vượt biển, nhiều ghe tàu đi song suốt nhưng cũng có nhiều chiếc bị chìm kéo theo vô số người trên tàu xuống biển. Trong một chuyến vượt biển như vậy thường quy tụ rất nhiều người có lứa tuổi khác nhau, phái tính, trình độ trí thức, người khác nhau và đặc biệt họ ở những nơi khác nhau, người ở Huế người ở Quy Nhơn, người ở Sóc Trăng người ở Quảng Trị. Họ cùng bỏ hết mọi việc để tập hợp tại một nơi nào đó rồi cùng xuống tàu và cuối cùng đi tất cả cùng chết theo tàu.
Phải chăng những linh hồn nầy cùng trả quả đồng loạt? Tuy nhiên ở kiếp chuyển sinh tiếp theo không phải họ đều đồng loạt đầu thai vì kiếp hiện tại mỗi người đã tạo những nghiệp quả khác nhau nên sẽ đầu thai tiếp theo những hoàn cảnh, thời gian khác nhau để trả quả báo tương ứng. Sự chết đồng loạt của những người nầy chỉ có thể nói lên rằng ở kiếp trước họ đã có những hành động tàn ác tương tự nhau như tàn hại ai khiến họ phải chết vì những nguyên nhân thuộc về sông biển, về nước và khi hoàn cảnh, thời gian, môi trường, sự kiện đang xảy ra, thuận họp cho việc thực hiện sự trả quả thì những người nầy tự nhiên có ý hường đi tìm điều kiện thuận lợi cho quả báo tiến hành. Cũng tho lý luân của triết gia Schopenhauer thì với cái sâu xa vi diệu của thuyết luân hồi, con người có thể thấy lại được mình ngay mặc dù như ẩn trong cái vòng sinh tử và nhờ sự chuyển sinh mà những người sống đồng thời với ta có thể lại tái sinh cùng ta với những thái độ, tình cảm cũng như trước đó.
Khi tim hiểu về vấn đề tái sinh đồng loạt tưởng cũng nên xét về mặt dân số thế giới vầ vấn đề sinh sản.
Xét về mặt dân số thế gới và vấn đề sinh sản:
Theo Casper (năm 1835) khi viết về vấn đề: Luận theo kỳ hạn của kiếp nhân sinh cũng đã cho rằng mỗi quốc gia, số sinh và số tử của dân số liên hệ với nhau và sự thu thai của một số dân tộc nào đó có một ảnh hưởng lớn đối với số sinh và số tử của tộc đó. Theo Schopenhauer thì có một sự liên qua giữa sự sinh ra của những sinh vật mới cùng với cái chết của những sinh vật không còn sống nữavà cũng theo triết học nầy thì sự liên hệ nầy có thể thấy rõ qua những hiện tượng xảy ra trên quả đất như các trận ôn dịch, các trận thế chiến... thì nhân loại lại sinh sản nhiều hơn để bù trừ cho số lượng người đã bị mất đi. Điểm qua lịch sử thời Trung cổ thấy những nạn ôn dịch hoành hành làm mất đi một số lớn dân số, nạn dịch hạch lúc đó được xem như thảm trạng khủng khiếp đối với nhân loại, hàng ngàn người chết mỗi ngày và bệnh dịch lan tràn nhanh như cơn lốc qua nhiều tỉnh, qua nhiều quốc gia... Sau nạn dịch ấy, tự nhiên sinh suất của nhân loại tăng lên một cách mau chóng và đặc biệt, số trẻ con sinh đôi cũng rất nhiều. Điều đặc kỳ lạ là đồng thời với sự gia tăng số lượng trẻ con ra đời, các cháu bé về sau đều thiếu răng nếu so với các trẻ ở thời đại khác cùng lứa tuổi. F. Schnurrer đã trình bày rất rõ vấn đề nầy trong cuốn Chronik der Seuchen (năm 1825) và đã nêu câu hỏi: Phải chăng thiên nhiên, qua sự cố gắng để cố bù trừ số lượng người trên quả đất nầy bị mất đi, đã sử dụng quá nhiều sinh chất cấu tạo nên cơ thể gây sự thiếu hụt một vài phân tử nào đó? Qua thuyết luân hồi, giữa những người mới sinh ra và những người mới chết đi có liên hệ ràng buộc nào đó. Điều nầy, theo Schopenhauer thì rõ ràng thấy rõ khi suy nghĩ, phân tích những thiên tai, ôn dịch số người chết quá nhiều thì tự nhiên số sinh sản lại gia tăng nhất là số trẻ con sinh đôi tự nhiên nhiều lên một cách lạ lùng (điều nầy đã nói đến trong những phần khác của cuốn sách nầy). Triết gia Arthur Schopenhauer đã từng phát biểu như sau: "sự luân hồi tái sanh là hình thức phổ biến thể hiện sự luân chuyển theo vòng tròn của vòng sinh tử và tử sinh, nhờ đó mà có được đời sống trường tồn, một bản chất bất chấp sự tuần hoàn không ngừng nghỉ của thời gian cũng như nội dung của nó. Mỗi khi cá nhân bị tiêu diệt bởi cái chết thì cá nhân mới lại sinh ra do sự sinh dục, và những người chết đi có thể lãi xuất hiện ngay trong số những người mới sinh ra." Đặc tính của cha và mẹ sẽ thấy được nơi con cái của họ "Mỗi khi cái chết làm tiêu diệt sinh vật thì tự nhiên sinh dục lại tái táo những sinh vật mới. Schopenhauer đã trình bày trong cuốn siêu hình sự chết về vấn đề sau đây: "nếu quan sát tìm hiểu khái quát hệ thống sinh vật từ loài thủy sinh vật cho đến loài người theo thứ tự cấp bậc ý thức, ta sẽ thấy nhờ có sợi dây sinh dục phát sinh trong chủng loại mà các sinh vật từ cấp thấp đến cấp cao vẫn duy trì được qua thời gian dù cái chết vẫn không ngừng làm mất đi các cá thể sinh vật..."
Tuy nhiên đôi khi có thể thấy được sự tái sinh luân hồi thể hiện qua những hiện tượng hay hình ảnh trung gian khi xét đến trường hợp trẻ con sống với thú rừng.
Đối với các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, qua các tài liệu thu thập được từ cổ đại đến nay, họ đã tìm hiểu phân tích một số trường hợp đặc biệt có liên quan giữa những sự chuyển sinh của hàng loạt linh hồn với những thời gian và thời đại tương ứng. Từ lâu nhiều người đã thắc mắc rằng nếu quả thật có số mệnh, có luân hồi thì tại sao lại có trường hợp hai trái bom nguyên tử của Mỹ đã tiêu diệt hai thành phố Hiroshima và Nagazakji của Nhật Bản và giết chết một lúc hàng chục vạn người? Tại sao hàng triệu người dân Do Thái bị đưa vào phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã để chết một cách tức tưởi? Chỉ riêng ở trại giam Auschwitz cũng đã có trên một triệu người bị giết. Những trường hợp ấy thuyết luân hồi quả báo giải thích ra sao?
Trở lại trường hợp của người Hoa Kỳ có khả năng biết được tiền kiếp của người khác khi ông đưa họ vào giấc ngủ thôi miên ông Edgar Cayce đã thu thập được vô số trường hợp khác nhau về những gì liên hệ tới hiện tượng đầu thai và quả báo mà tài liệu có khoảng 30.000 hồ sơ còn lưu trữ tại viện nghiên cứu các hiện tượng siêu hình ở Virginia Beach thuộc tiểu bang Florida. Chính nhờ các tài liệu nầy mà nhà biên soạn Gina Cerminara đã có thể viết lời giải thích tuy không phải là tất cả và hữu lý tuyệt đối cho những câu hỏi trên. Câu trả lời sẽ là có những nhóm linh hồn đầu thai hàng loạt trở lại để sống trên quả đất và theo thời gian đã định, theo hoàn cảnh thời đại, môi trường, những con người ấy sẽ gặp nhau cùng một nơi chốn nào đó để một lần hay lần lượt chịu quả báo. Điều nầy giải thích được nguyên nhân nào có sự chết đồng loạt: Như trận động đất ở Nhật Bản năm 1923 đã giết hại hơn 140.000 người (đó là chỉ riêng ở thành phố Tokyo thôi). Hay trận động đất ở Lisbon, Portugal năm 1755 đã khiến 60.000 người chết... Riêng ở Ý, trận phun lửa của hỏa diệm sơn Venus chôn vùi toàn bộ thành phố Pompeii với hàng vạn dân cư. Tro nóng của núi lửa đã khiến cho nhiều người chết nhanh đến độ có người vẫn giữ nguyên dáng đứng, ngồi hay biểu lộ các cử chỉ hốt hoảng, kinh hoàng... sau nầy khi khai quật thành phố trở lại mới thấy rõ điều đó.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong trường hợp gọi là chết đồng loạt ấy thật sự đôi khi vẫn còn một số người hoặc duy nhất còn một người sống sót. Trường hợp nầy được giải thích qua nhiều lập luận.
Thứ nhất có thể những người còn sống sót chưa đến hạn kỳ phải chịu đại nạn. Có người còn sống sót nhưng đôi khi họ lại còn bị đau khổ đày đọa hơn những người đã chết trước đó. Trong một trại giam người Do Thái của Đức Quốc Xã, có lần hai tù nhân vượt trại trốn vào rừng. Sau bao gian nan nguy hiểm, một người bị quân Đức bắt lại, người thứ hai thoát được. Khi trở về trại thì những người bị giam trong các căn trại ấy đã bị bỏ vào lò hơi ngạt hết. Bọn Đức liền đẩy người nầy vào nhóm người Do Thái thứ 2 ở những trại kế tiếp để chờ đợi ngày vào phòng hơi ngạt.
Khi ngày ấy đến, trong lúc đoàn người bị đưa lên xe cây chuẩn bị di chuyển thì một người Do Thái nổi điên xông vào đám lính Đức cấu xé. Nhân cuộc lộn xộn xảy ra. người nầy trốn khỏi đám đông chạy vào ẩn trong một nhà kho. Tuy nhiên lính canh bắt được và người nầy bị lính Đức đánh đập vô cùng tàn nhẫn và cuối cùng anh ta cũng bị đưa vào phòng hơi ngạt. Hồ sơ người nầy đã được quân Đức lưu trữ và thường dùng để làm gương cho những người trốn trại. Qua hồ sơ ấy ta thấy rõ rằng người nầy tưởng là may mắn nhưng quả thật anh ta không may mắn chút nào nếu so với những người Do Thái trước đó đã vào lò hơi ngạt. Những người ấy chỉ chết một lần, còn anh ta, trước khi chết lại phải vào sinh ra tử bị đày đọa khổ đau cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy nhiên có khi người sống sót lại được an toàn cho đến mãn đời, ấy là do nghiệp quả báo của họ phải chịu sự lo sợ kinh khiếp nhưng phải chết ngay được. Như trường hợp cô Helen Hix kinh sợ đến độ chết đi sống lại nhiều lần trước khi đưa lên ngồi ghế điện. Khi dòng điện 10.000 volt truyền vào ghế điện thì cô thét lên nhưng kỳ lạ thay điện cao thế ấy lại không giết được cô mà chỉ làm cháy xém một vài nơi ở tay và chân thôi. Điều kỳ lạ nầy cho ta một giải thích mới theo nghĩa quả báo luân hồi là tội nhân phải chịu hình phạt rợn làm khổ đau khiên đảm từ cả tinh thần đến thể xác nhiều lần. Về chu kỳ lịch sử, thời đại và sự xuất hiện vủa những nhân vật lịch sử vào những thời kỳ tương ứng chính là hạn kỳ, giai đoạn mà những linh hồn nào đó đã được luân hồi tái sinh trở lại. Có những linh hồn chờ đợi hoàn cảnh sự kiện thích ứng cho mình để nhắm đúng thời gian để đầu thai. Những nhà thông thái, những người làm nên lịch sử, sáng chế, phát minh, phát triển văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, tạo cuộc sống cách mạng, làm thay đổi thể chế chính trị nào đó. v..v... đều là những người mà trước đây họ cũng đã có những tài năng tương ứng và sự luân hồi là cả một sự tiến hóa, hơn nữa có thể họ chưa đạt ý nguyện về những công việc, những hoài bão từ tiền kiếp nên họ sẽ mong chờ được chuyển sinh trở lại để hoàn tất những gì mà mình đang bỏ dở chưa hoàn thành. Xét về mặt khoa học kỹ thuật, câu hỏi được đặt ra là những nhà khoa học, phát minh tài ba xuất hiện ở những thế kỷ trước và những thế kỷ hiện nay như Galilée, Einstein... có phải là cùng phát xuất chỉ từ một vài người thông minh nào ở thời đại xa xưa và qua sự tiến hoá của hiện tượng luân hồi mà giờ đây họ lại tái sinh và có lẽ trong những thế kỷ kế tiếp họ lại tái sinh?
Theo sự tìm hiểu của ông Edge Cayce khi ông khám bệnh theo phương thức thôi miên để đưa người bệnh nhân về quá khứ xa xăm hay tiền kiếp của bệnh nhân, ông được biết ngày xưa trên quả đất chúng ta đang sống có những đất nước, những dân cư, những nền văn minh phát triển. Nhưng qua những đột biến bất ngờ của quả địa cầu như núi lửa, động đất, đại hồng thủy v.. v. mà nhiều quốc gia, nhiều nền văn minh đã bị xóa tên và biến mất trên bản đồ thế giới. Chẳng hạn Châu Atlantic là một vùng đất rộng lớn có nền văn minh và lịch sử vô cùng phát triển. Khoảng 10.000 năm trước công nguyên, do một cuộc đại biến về địa chất mà lục địa nầy bị chìm xuống đáy đại dương. Hiện nay các nhà hải dương học thỉnh thoảng vẫn còn tìm thấy những vật dụng lạ lùng về châu nầy, những dấu tích kỳ bí cao siêu chứng tỏ xưa kia dân của Châu nầy có nền văn minh phát triển còn hơn cả nền văn minh của con người ngày nay. Cuộc đại biến lớn lao ấy đã khiến cho gần như hầu hết dân cư của Châu Atlantic bị tiêu diệt. Đây cũng có thể xem như sự hủy diệt đồng loạt những nhóm, loài nào đó ở một giai đoạn thời gian và hoàn cảnh nào đó. Rồi qua sự tái sinh những người ở Châu nầy sẽ lại đầu thai vào những thời đại tiếp theo cho đến ngày nay. Dĩ nhiên những linh hồn thông minh, tài năng của Châu Atlantic xưa cổ nầy sẽ trở lại thành những người tài giỏi của các quốc gia sau đó và hiện nay cũng như tương lai qua sự tái sinh luân hồi. Khi trình bày về vấn đề nầy, ông Edgar Cayce gặp sự nghi ngờ của nhiều người vì thắc mắc của họ lại gia tăng về một nền văn minh vượt bậc lại xuất hiện trước nền văn minh bây giờ. Làm sao lại có được điều kỳ lạ đó khi các nhà địa chất, sinh vật học, xã hội học, sử học lại xác định sự xuất hiện của nền văn minh loài người chỉ xuất hiện ở một giai đoạn thời gian nào đó không xa lắm nghĩa là mới đây thôi, trong khi nền văn minh của Châu Atlantic lại ở vào koảng thời gian cổ xưa hơn nữa. Thật ra, những khám phá và xác định của con người từ trước đến nay về quả đất, về sinh vật, về con người về nền văn minh không hẳn là hoàn toàn chính xác. Nhà bác học nổi tiếng Pierre Lecomte du Nouy đã ghi nhận về những nền văn minh xuất hiện vào thời xưa cổ như sau:
"Lịch sử đã cho chúng ta biết về nhiều nền văn minh đã có một trình độ vượt trội nền văn minh của chúng ta hiện nay. Nhưng tất cả chúng đã sụp đổ vào giai đoạn sắp đạt tới mục đích mà đời sống đã quá thuận lợi và tuyệt hảo đến độ những người cầm đầu lại đi vào cuộc sông ham mê nhu nhược và sa đọa khiến họ mất đi những gì về độ phẩm hạnh và làm họ biến thành những kẻ hèn yếu, dã man, tàn bạo, vô lương chỉ biết có xa hoa trụy lạc. Quần chúng khi ấy nhận thức được nguy cơ của sự suy vong nên với những phương tiện sẵn có, dọn đường cho những con người mới xuất hiện, những con người có đủ đức tính mà những người trước đã đánh mất.
Như vậy, chính đời sống tiện nghi cực độ sẽ dẫn đến sự suy tàn..."
Nếu xét về những thời đại lịch sử không xa lắm chúng ta cũng thấy được một vài sự kiện chứng về nhận định trên như sự hủy diệt của toàn bộ thành phố Pompei có nền văn minh phát triển.
Một số nhà khoa học cho rằng sở dĩ từ lâu thế giớ ca ngợi văn minh Ai Cập cổ đại là vì họ đã tìm thấy ở đó những dấu vết, hình ảnh từ kim tự tháp và trong kim tự tháp có những thứ còn may mắn tồn tại qua thời gian, những vật dụng nói lên sự tiến bộ của người Ai Cập có được sự văn minh tiến bộ, chắc hẳn họ phải được kế thừa bởi những nền văn minh nào đã có trước đó. Nhưng không may là những nền văn minh trước đó đã bị hủy diệt bởi nhiều lý do. Ta không thể loại trừ lý do về những đại thiên tai ghê gớm mà ngày xưa Kinh thánh có nhắc lại hay những hiện tượng đại biến của quả địa cầu như Cuvier nêu ra.
Baron Cuvier là một nhà sinh vật học nổi tiếng của Pháp, ông sinh năm 1769 và mất năm 1832. Thuyết nổi tiếng của ông là thuyết biến địa chất (geological catastrophe). Theo ông thì quả đất từ khi được thành lập đến nay đã trải qua nhiều cuộc đại biến vì thế làm thay đổi diện mạo mặt đất và nhất là khiến cho nhiều loài sinh vật bị diệt vong và nhiều loài sinh vật khác xuất hiện. Điều nầy giải thích nguyên nhân vì sao các sinh vật xửa nay không còn tiếp tục phát triển. Những tác nhân gây nên tại biến là những trận động đất khủng khiếp, những sóng thần, những trận phun lửa của hỏa sơn xảy ra rộng khắp quả địa cầu. Cũng theo Cuvier thì những cuộc đại biến nầy thường xảy ra theo từng chu kỳ. Mọi sinh vật sẽ chịu sự biến đổi theo từng chu kỳ ấy. Sinh vật phát sinh, phát triển rồi đồng loạt bị tiêu diệt vì một thảm họa lớn lao nào đó.
Như vậy thì thuyết cho rằng có những thời đại văn minh xuất hiện trước đây trên quả đất và nay đã bị tận diệt cũng không có gì là vô lý hay quá đáng. Trở lại châu Atlantic mà nhiều tài liệu đã xác nhận và mới đây sau khi nhiều nhà hải dương học nghiên cứu những vết tích dung nham do núi lửa phun ra bám trên sợi dây cáp đặt ngầm ở đáy biển, các nhà nghiên cứu đã dùng cầu lặn để thám hiểm và chụp hình đáy Đại Tây Dương nhiều lần, họ thấy nơi đó có đường nứt toạc rất lớn. Ngoài ra những mẫu dung nham được xác nhận là lúc đầu ở đất liền sau mới chìm xuống đáy đại dương, điều nầy chứng tỏ trước đây Đại Tây Dương là một lục địa lớn. Mới đây, một số báo chí, nhất là tại Hoa Kỳ cho rằng nhờ máy quang tuyến cực mạnh trang bị từ những vệ tinh, đã phát giác ra được những đường ngầm rộng từ 400 đến 500 yards cao độ 50 feet nằm ngay trên vùng được mô tả là châu Atlan tiic. Phải chăng đây là những đường nứt toạc ở đáy Đại Tây Dương hay là những con đường đi đến Châu Atlantic. Theo các nhà khoa học đường ngầm nầy đủ sức để một phi thuyến không gian đi qua. Điều nầy cũng giải thích thêm nguyên nhân nào từ lâu các tàu bè hay máy bay khi qua vùng Berrmuda (tam giác quy phần lớn đều bị "hút" mất xuống tận Atlantic. Vấn đề dù sao vẫn còn trong vòng bàn cãi. Tuy nhiên đối với thuyết luân hồi tái sinh thì vẫn khẳng định rằng có những nhóm linh hồn đồng loạt chuyển sinh vào những thời đại, hoàn cảnh, môi trường nào đó thích hợp cho nghiệp quả của họ. Vì thế mà đôi khi có những trường hợp là lùng hàng loạt người chết một lần vì những tai nạn nào đó như thiên tai, bão lụt, rớt máy bay, tàu chìm, bị pháo kích, oanh tạc. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều ngôi làng mà dân chúng bị tàn sát từ người già đến con trẻ không còn một ai. Sự chuyển sin hàng loạt để được thưởng, phạt, trả quả một lần đổi khi thể hiện rất rõ ràng.
Ngay cả trường hợp bệnh lý cũng vậy như trường hợp dưới thời đại vua Charles I ở nước Anh bị ống dẫn tiểu hoặc bị sạn thận. Trong lịch sử nhân loại có nhiều giai đoạn phát sinh chứng bệnh lạ lùng, riêng biệt, chứng ôn dịch v.v... nhân loại trong thế kỷ 20 bị bệnh AID phát triển sẽ đồng loạt tấn công loài người ở một tương lai không x nếu không có phương thuốc nào có khả năng chận đứng. Trong thời kỳ ở Việt Nam có phong trào vượt biển, nhiều ghe tàu đi song suốt nhưng cũng có nhiều chiếc bị chìm kéo theo vô số người trên tàu xuống biển. Trong một chuyến vượt biển như vậy thường quy tụ rất nhiều người có lứa tuổi khác nhau, phái tính, trình độ trí thức, người khác nhau và đặc biệt họ ở những nơi khác nhau, người ở Huế người ở Quy Nhơn, người ở Sóc Trăng người ở Quảng Trị. Họ cùng bỏ hết mọi việc để tập hợp tại một nơi nào đó rồi cùng xuống tàu và cuối cùng đi tất cả cùng chết theo tàu.
Phải chăng những linh hồn nầy cùng trả quả đồng loạt? Tuy nhiên ở kiếp chuyển sinh tiếp theo không phải họ đều đồng loạt đầu thai vì kiếp hiện tại mỗi người đã tạo những nghiệp quả khác nhau nên sẽ đầu thai tiếp theo những hoàn cảnh, thời gian khác nhau để trả quả báo tương ứng. Sự chết đồng loạt của những người nầy chỉ có thể nói lên rằng ở kiếp trước họ đã có những hành động tàn ác tương tự nhau như tàn hại ai khiến họ phải chết vì những nguyên nhân thuộc về sông biển, về nước và khi hoàn cảnh, thời gian, môi trường, sự kiện đang xảy ra, thuận họp cho việc thực hiện sự trả quả thì những người nầy tự nhiên có ý hường đi tìm điều kiện thuận lợi cho quả báo tiến hành. Cũng tho lý luân của triết gia Schopenhauer thì với cái sâu xa vi diệu của thuyết luân hồi, con người có thể thấy lại được mình ngay mặc dù như ẩn trong cái vòng sinh tử và nhờ sự chuyển sinh mà những người sống đồng thời với ta có thể lại tái sinh cùng ta với những thái độ, tình cảm cũng như trước đó.
Khi tim hiểu về vấn đề tái sinh đồng loạt tưởng cũng nên xét về mặt dân số thế giới vầ vấn đề sinh sản.
Xét về mặt dân số thế gới và vấn đề sinh sản:
Theo Casper (năm 1835) khi viết về vấn đề: Luận theo kỳ hạn của kiếp nhân sinh cũng đã cho rằng mỗi quốc gia, số sinh và số tử của dân số liên hệ với nhau và sự thu thai của một số dân tộc nào đó có một ảnh hưởng lớn đối với số sinh và số tử của tộc đó. Theo Schopenhauer thì có một sự liên qua giữa sự sinh ra của những sinh vật mới cùng với cái chết của những sinh vật không còn sống nữavà cũng theo triết học nầy thì sự liên hệ nầy có thể thấy rõ qua những hiện tượng xảy ra trên quả đất như các trận ôn dịch, các trận thế chiến... thì nhân loại lại sinh sản nhiều hơn để bù trừ cho số lượng người đã bị mất đi. Điểm qua lịch sử thời Trung cổ thấy những nạn ôn dịch hoành hành làm mất đi một số lớn dân số, nạn dịch hạch lúc đó được xem như thảm trạng khủng khiếp đối với nhân loại, hàng ngàn người chết mỗi ngày và bệnh dịch lan tràn nhanh như cơn lốc qua nhiều tỉnh, qua nhiều quốc gia... Sau nạn dịch ấy, tự nhiên sinh suất của nhân loại tăng lên một cách mau chóng và đặc biệt, số trẻ con sinh đôi cũng rất nhiều. Điều đặc kỳ lạ là đồng thời với sự gia tăng số lượng trẻ con ra đời, các cháu bé về sau đều thiếu răng nếu so với các trẻ ở thời đại khác cùng lứa tuổi. F. Schnurrer đã trình bày rất rõ vấn đề nầy trong cuốn Chronik der Seuchen (năm 1825) và đã nêu câu hỏi: Phải chăng thiên nhiên, qua sự cố gắng để cố bù trừ số lượng người trên quả đất nầy bị mất đi, đã sử dụng quá nhiều sinh chất cấu tạo nên cơ thể gây sự thiếu hụt một vài phân tử nào đó? Qua thuyết luân hồi, giữa những người mới sinh ra và những người mới chết đi có liên hệ ràng buộc nào đó. Điều nầy, theo Schopenhauer thì rõ ràng thấy rõ khi suy nghĩ, phân tích những thiên tai, ôn dịch số người chết quá nhiều thì tự nhiên số sinh sản lại gia tăng nhất là số trẻ con sinh đôi tự nhiên nhiều lên một cách lạ lùng (điều nầy đã nói đến trong những phần khác của cuốn sách nầy). Triết gia Arthur Schopenhauer đã từng phát biểu như sau: "sự luân hồi tái sanh là hình thức phổ biến thể hiện sự luân chuyển theo vòng tròn của vòng sinh tử và tử sinh, nhờ đó mà có được đời sống trường tồn, một bản chất bất chấp sự tuần hoàn không ngừng nghỉ của thời gian cũng như nội dung của nó. Mỗi khi cá nhân bị tiêu diệt bởi cái chết thì cá nhân mới lại sinh ra do sự sinh dục, và những người chết đi có thể lãi xuất hiện ngay trong số những người mới sinh ra." Đặc tính của cha và mẹ sẽ thấy được nơi con cái của họ "Mỗi khi cái chết làm tiêu diệt sinh vật thì tự nhiên sinh dục lại tái táo những sinh vật mới. Schopenhauer đã trình bày trong cuốn siêu hình sự chết về vấn đề sau đây: "nếu quan sát tìm hiểu khái quát hệ thống sinh vật từ loài thủy sinh vật cho đến loài người theo thứ tự cấp bậc ý thức, ta sẽ thấy nhờ có sợi dây sinh dục phát sinh trong chủng loại mà các sinh vật từ cấp thấp đến cấp cao vẫn duy trì được qua thời gian dù cái chết vẫn không ngừng làm mất đi các cá thể sinh vật..."
Tuy nhiên đôi khi có thể thấy được sự tái sinh luân hồi thể hiện qua những hiện tượng hay hình ảnh trung gian khi xét đến trường hợp trẻ con sống với thú rừng.
Trường Hợp
Trẻ Con Sống Với Thú Rừng:
Khi xét về
những trường hợp kỳ lạ đặc biệt về những em bé sống với thú trong rừng sâu núi
thẳm thì câu hỏi được đặt ra là tại sao trong hàng triệu con trẻ sinh ra lại có
những đứa bé chịu cuộc sống man dã với loài thú có khi đến cả mười mấy năm trời.
Trên thế giới không hiếm trường hợp trẻ con bị thú rừng bắt đi, đôi khi may mắn
hay một lý do nào đó mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích được
là có những cháu bé bị heo, gấu bắt mang vào rừng nhưng không bị ăn thịt mà để cho sống theo đàn.
Năm 1973 báo Sunday Time ở Hoa Kỳ (ngày 26 tháng 8) có đăng tải một tin liên quan đến một em bé 12 tuổi sống chung với một đàn khỉ trong rừng tại miền nam Sri Lanca. Dân làng sống ở gần đó đã trông thấy cháu bé nầy và mang về làng. Đây là một đứa bé trai, khi di chuyển chỉ bò và nhẩy xổm như khỉ chứ không đi được. Vì khi sinh ra được sáu tháng thì em bé nầy đã bị đàn khỉ bắt theo chúng. Từ đó, trong suốt 11 năm, em bé nầy hoàn toàn sống chung với khỉ nên cách phát âm giống khỉ chớ không nói được tiếng người.
Mới đây, tại một vùng hẻo lánh ở Ấn, một nhân viên kiểm lâm đã gặp một em bé sống lẫn lộn trong đàn sói rừng. May mắn là em bé nầy chỉ mới bị sói rừng bắt đi vài tháng nên khi cha mẹ em đem em về nhà săn sóc chu đáo, em đã trở lại đời sống bình thường của một con người.
Cách đây 9 năm (1980) tại Úc một em bé đã bị chó sói bắt vào rừng. Em bé nầy mới sinh được 3 tuần lễ nhưng thay vì nuôi em bé, chó sói nầy đã giết em. Lúc đầu dân làng không biết rõ chuyện nầy nên khi thấy xác em tưởng là người mẹ đã giết em rồi đem bỏ vào rừng. Nhưng sau đó, qua sự điều tra cẩn thận của cảnh sát, người ta mới biết rằng em bé đã bị chó sói loại Dingo, một loại sói rừng dữ tợn ở Úc Châu giết chết. Thế là người mẹ của em bé được minh oan.
Ngày 11 tháng 12 năm 1954 tại Tân Đề Li cảnh sát Ấn đã bắt được một em bé sống lẫn lút trong rừng. Họ gọi em là "em bé sói" vì em sống với một đàn sói rừng. Tên em là Ramy (khoảng độ 16 tuổi). Em bé được đưa về bệnh viện săn sóc nuôi nấng đàng hoàng nhưng đã qua nhiều năm vẫn không bỏ được tính sói và thích chạy 4 chân hơn là đi bằng 2 chân. Tháng 2 năm 1977, tại Indonêxia, một em bé đi lạc trong rừng khi theo mẹ đi hái nấm. Em bé nầy đã sống chung với một đàn sói và mãi đến 6, 7 năm sau người ta mới phát hiện ra em và đem về nhà. Em đã quên hết cả tiếng người, quên cả cách ăn uống và cách đi đứng. Tại Ấn Độ, trong một cuộc hành quân, một bin sĩ Ấn đã bắt gặp một em bé lẫn trong đàn sói. Khi sói phóng mình vào rừng sâu thì em bị bỏ lại bên bờ suối. Bé sói nầy được đem về nuôi cẩn thận nhưng em chết một năm sau đó (1944). Người mẹ ruột của em đã nhận ra con mình nhờ trên mình em bé có một vết sẹo.
Tuy nhiên, đặc biệt nhất là về chuyện em bé sói là 2 chị em cô gái sống chung với đàn sói đã nhiều năm trong rừng ở Ấn Độ, vào năm 1920. Lúc bấy giớ tại Calcuttua có một vị mục sư tên là Singh, ông nầy thuờng đi giảng đạo nhiều nơi và một hôm đi qua khu rừng để đến một làng hẻo lánh ông bỗng trông thấy trên cành 2 con vật kỳ lạ giống như khỉ giã nhân. Khi nhìn kỹ, mục sư thấy rõ ràng đây là 2 người con gái mái tóc xõa dài, móng tay dài, thường nhe răng ra để hăm dọa. Khi mục sư lại gần, 2 cô chạy theo 5 con chó sói đang ở gần đó. Mục sư thấy làm lạ, liền yêu cầu cảnh sát Ấn tìm cách vây bắt 2 cô gái. Khi vòng vây siết chặt, 2 cô gái và cả bầy sói chống lại rất hăng. Cảnh sát phải nổ súng khiến cả 2 cô gái và 5 con sói bỏ chạy những 2 cô gái tuy đã sống quen với đàn sói những vẫn không chạy theo kịp đồng bạn và cuối cùng bị bắt. Mục sư đưa 2 cô gái về nuôi ở một trại cô nhi và đặt tên cho cô gái lớn độ 7, 8 tuổi là Kamala còn cô gái 6 tuổi là Amala. Mặc dầu được nuôi nấyg và chăm sóc tận tình, 2 cô gái sói vẫn không bỏ được tính sói, thường tru lên vào mỗi đêm khuya khiến mọi người ở trại cô nhi rất sợ. Chỉ một năm sau Kamala chết vì cuộc sống không thích hợp, còn Amala thì chết 10 năm sau đó. Suốt trong 10 năm chăm sóc nuôi dạy, Amala đã tập được nhiều tính người như tự mặc áo mặc quần, ăn uống và tập đọc tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có ý muốn như trốn chạy vào rừng...
Khoảng năm 1985, ở Kenya, một nhóm người Anh đi săn bắn gặp một đứa bé khoảng 9 tuổi đang di chuyển bằng 4 chân theo một đàn voi rừng. Một người trong nhóm đi săn tìm cách rình bắt đứa bé khi nó tách ra khỏi đàn voi đến bên suối nước gần đó. Đứa bé có lớp da sần sùi, nâu đen và có nhiều vết sẹo lớn. Các bác sĩ ở Nakuru hết lòng săn sóc và nuôi nấng. Bác sĩ Batshavre Devoie ghi nhận những cử chỉ lạ lùng của đứa bé vì hầu hết các hành động của nó đều rập khuôn đúc với loài voi. Bác sĩ Devoie cho rằng: có lẽ đứa bé nầy đã bị voi bắt theo sống với chúng ít nhất là 2, 3 năm, và báx sĩ cũng đã kết hợp với sự kiện xảy ra trước đó khoảng 3 năm khi có một báo cáo cho biết một đứa bé tên là Miru Gabon con của hai vợ chồng người Kenya bị Hổ tha mất trong khi cha mẹ nó đang đi đàng các loại củ trong rừng. Các dấu vết trên người đứa bé chứng tỏ nó đã bị thương vì móng vuốt của hổ. Nhưng có lẽ một đàn voi rừng đã tấn công khiến cọp phải thả đứa bé và sau đó đứa bé được voi đem về chăm sóc và dẫn dắt theo đàn.
Đối với các nhà khoa học, thì những trường hợp có thật vừa kể trên chỉ là trường hợp tình cờ, ngẫu nhiên nhưng đối với các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, tái sinh, thì đây không phải là vấn đề ngẫu nhiên. Không phải vì tự nhiên mà trong số hàng triệu trẻ con mới có một trường hợp có trẻ bị thú rừng bắt theo chúng và sống theo đàn với chúng. Phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó mà thuyết luân hồi quả báo gọi là nghiệp. Những trẻ con ấy đã có một liên hệ ràng buộc nào đó trong quá khứ (mà quá khử ở đây phải được hỉeu là tiền kiếp) với loài thú nào đó nên ở kiếp hiện tại còn phải tiếp tục liên lạc qua hình thức sống chung theo đàn... một thời gian nào đó và thời gian ấy chính là giai đoạn mà đứa bé phải trả nghiệp. Thường thì những đứa bé nầy không sống được lâu. Một số sau khi đã sống một thời gian với thú, được đem về sống lại với người chúng cũng khó gột rửa được tính thú và chỉ sống được vài năm rồi cũng qua đời. Như thế những trẻ nầy tuy được sinh ra nhưng rồi cũng không được sống kiếp người như mọi trẻ khác. Có lẽ chúng phải hoàn tất cho xong một kiếpmà kiếp đó chưa thể là kiếp người?
Một câu hỏi khác lại được đặt ra: do đâu mà dân số thế giới ngày nay lại đông lên trong khi thời cổ đại lại không nhiều?
Câu giải đáp của những nhà nghiên cứu về thuyết luân hồi lại nêu thắc mắc ngược lại: "biết đâu ngày xưa, vào thời cổ đại xa xăm, có những vùng đất rộng lớn đông dân cư và những đại tai biến nào đó như trận Đại Hồng thủy chẳng hạn làm tất cả bị tiêu diệt?" Câu trả lời cũng có thể dựa vào thuyết đột biến của Cuvier như đã trình bày từ trước. Rằng qua những cuộc đột biến ấy mà một số rất đông các loài sinh vật, những cổ sinh vật đều bị tiêu diệt. Một số lượng lớn lao các sinh vật xưa cổ ấy chết đi, chúng mất hẳn hay đã đi đâu? khi đứng về mặt luân hồi tái sinh thì phải chăng nhờ sự tiến hóa trong giống sinh tử, tử sinh hay nói cách khác là sự luân hồi chuyển sinh mà chúng có thể tái sinh tiếp tục nhưng xuất hiện ở dạng khác và qua dòng thời gian dài đằng đẵng của nhiều đời sinh vật, sự tiến hóa đã giúp một số lớn thành người?
Năm 1973 báo Sunday Time ở Hoa Kỳ (ngày 26 tháng 8) có đăng tải một tin liên quan đến một em bé 12 tuổi sống chung với một đàn khỉ trong rừng tại miền nam Sri Lanca. Dân làng sống ở gần đó đã trông thấy cháu bé nầy và mang về làng. Đây là một đứa bé trai, khi di chuyển chỉ bò và nhẩy xổm như khỉ chứ không đi được. Vì khi sinh ra được sáu tháng thì em bé nầy đã bị đàn khỉ bắt theo chúng. Từ đó, trong suốt 11 năm, em bé nầy hoàn toàn sống chung với khỉ nên cách phát âm giống khỉ chớ không nói được tiếng người.
Mới đây, tại một vùng hẻo lánh ở Ấn, một nhân viên kiểm lâm đã gặp một em bé sống lẫn lộn trong đàn sói rừng. May mắn là em bé nầy chỉ mới bị sói rừng bắt đi vài tháng nên khi cha mẹ em đem em về nhà săn sóc chu đáo, em đã trở lại đời sống bình thường của một con người.
Cách đây 9 năm (1980) tại Úc một em bé đã bị chó sói bắt vào rừng. Em bé nầy mới sinh được 3 tuần lễ nhưng thay vì nuôi em bé, chó sói nầy đã giết em. Lúc đầu dân làng không biết rõ chuyện nầy nên khi thấy xác em tưởng là người mẹ đã giết em rồi đem bỏ vào rừng. Nhưng sau đó, qua sự điều tra cẩn thận của cảnh sát, người ta mới biết rằng em bé đã bị chó sói loại Dingo, một loại sói rừng dữ tợn ở Úc Châu giết chết. Thế là người mẹ của em bé được minh oan.
Ngày 11 tháng 12 năm 1954 tại Tân Đề Li cảnh sát Ấn đã bắt được một em bé sống lẫn lút trong rừng. Họ gọi em là "em bé sói" vì em sống với một đàn sói rừng. Tên em là Ramy (khoảng độ 16 tuổi). Em bé được đưa về bệnh viện săn sóc nuôi nấng đàng hoàng nhưng đã qua nhiều năm vẫn không bỏ được tính sói và thích chạy 4 chân hơn là đi bằng 2 chân. Tháng 2 năm 1977, tại Indonêxia, một em bé đi lạc trong rừng khi theo mẹ đi hái nấm. Em bé nầy đã sống chung với một đàn sói và mãi đến 6, 7 năm sau người ta mới phát hiện ra em và đem về nhà. Em đã quên hết cả tiếng người, quên cả cách ăn uống và cách đi đứng. Tại Ấn Độ, trong một cuộc hành quân, một bin sĩ Ấn đã bắt gặp một em bé lẫn trong đàn sói. Khi sói phóng mình vào rừng sâu thì em bị bỏ lại bên bờ suối. Bé sói nầy được đem về nuôi cẩn thận nhưng em chết một năm sau đó (1944). Người mẹ ruột của em đã nhận ra con mình nhờ trên mình em bé có một vết sẹo.
Tuy nhiên, đặc biệt nhất là về chuyện em bé sói là 2 chị em cô gái sống chung với đàn sói đã nhiều năm trong rừng ở Ấn Độ, vào năm 1920. Lúc bấy giớ tại Calcuttua có một vị mục sư tên là Singh, ông nầy thuờng đi giảng đạo nhiều nơi và một hôm đi qua khu rừng để đến một làng hẻo lánh ông bỗng trông thấy trên cành 2 con vật kỳ lạ giống như khỉ giã nhân. Khi nhìn kỹ, mục sư thấy rõ ràng đây là 2 người con gái mái tóc xõa dài, móng tay dài, thường nhe răng ra để hăm dọa. Khi mục sư lại gần, 2 cô chạy theo 5 con chó sói đang ở gần đó. Mục sư thấy làm lạ, liền yêu cầu cảnh sát Ấn tìm cách vây bắt 2 cô gái. Khi vòng vây siết chặt, 2 cô gái và cả bầy sói chống lại rất hăng. Cảnh sát phải nổ súng khiến cả 2 cô gái và 5 con sói bỏ chạy những 2 cô gái tuy đã sống quen với đàn sói những vẫn không chạy theo kịp đồng bạn và cuối cùng bị bắt. Mục sư đưa 2 cô gái về nuôi ở một trại cô nhi và đặt tên cho cô gái lớn độ 7, 8 tuổi là Kamala còn cô gái 6 tuổi là Amala. Mặc dầu được nuôi nấyg và chăm sóc tận tình, 2 cô gái sói vẫn không bỏ được tính sói, thường tru lên vào mỗi đêm khuya khiến mọi người ở trại cô nhi rất sợ. Chỉ một năm sau Kamala chết vì cuộc sống không thích hợp, còn Amala thì chết 10 năm sau đó. Suốt trong 10 năm chăm sóc nuôi dạy, Amala đã tập được nhiều tính người như tự mặc áo mặc quần, ăn uống và tập đọc tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có ý muốn như trốn chạy vào rừng...
Khoảng năm 1985, ở Kenya, một nhóm người Anh đi săn bắn gặp một đứa bé khoảng 9 tuổi đang di chuyển bằng 4 chân theo một đàn voi rừng. Một người trong nhóm đi săn tìm cách rình bắt đứa bé khi nó tách ra khỏi đàn voi đến bên suối nước gần đó. Đứa bé có lớp da sần sùi, nâu đen và có nhiều vết sẹo lớn. Các bác sĩ ở Nakuru hết lòng săn sóc và nuôi nấng. Bác sĩ Batshavre Devoie ghi nhận những cử chỉ lạ lùng của đứa bé vì hầu hết các hành động của nó đều rập khuôn đúc với loài voi. Bác sĩ Devoie cho rằng: có lẽ đứa bé nầy đã bị voi bắt theo sống với chúng ít nhất là 2, 3 năm, và báx sĩ cũng đã kết hợp với sự kiện xảy ra trước đó khoảng 3 năm khi có một báo cáo cho biết một đứa bé tên là Miru Gabon con của hai vợ chồng người Kenya bị Hổ tha mất trong khi cha mẹ nó đang đi đàng các loại củ trong rừng. Các dấu vết trên người đứa bé chứng tỏ nó đã bị thương vì móng vuốt của hổ. Nhưng có lẽ một đàn voi rừng đã tấn công khiến cọp phải thả đứa bé và sau đó đứa bé được voi đem về chăm sóc và dẫn dắt theo đàn.
Đối với các nhà khoa học, thì những trường hợp có thật vừa kể trên chỉ là trường hợp tình cờ, ngẫu nhiên nhưng đối với các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, tái sinh, thì đây không phải là vấn đề ngẫu nhiên. Không phải vì tự nhiên mà trong số hàng triệu trẻ con mới có một trường hợp có trẻ bị thú rừng bắt theo chúng và sống theo đàn với chúng. Phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó mà thuyết luân hồi quả báo gọi là nghiệp. Những trẻ con ấy đã có một liên hệ ràng buộc nào đó trong quá khứ (mà quá khử ở đây phải được hỉeu là tiền kiếp) với loài thú nào đó nên ở kiếp hiện tại còn phải tiếp tục liên lạc qua hình thức sống chung theo đàn... một thời gian nào đó và thời gian ấy chính là giai đoạn mà đứa bé phải trả nghiệp. Thường thì những đứa bé nầy không sống được lâu. Một số sau khi đã sống một thời gian với thú, được đem về sống lại với người chúng cũng khó gột rửa được tính thú và chỉ sống được vài năm rồi cũng qua đời. Như thế những trẻ nầy tuy được sinh ra nhưng rồi cũng không được sống kiếp người như mọi trẻ khác. Có lẽ chúng phải hoàn tất cho xong một kiếpmà kiếp đó chưa thể là kiếp người?
Một câu hỏi khác lại được đặt ra: do đâu mà dân số thế giới ngày nay lại đông lên trong khi thời cổ đại lại không nhiều?
Câu giải đáp của những nhà nghiên cứu về thuyết luân hồi lại nêu thắc mắc ngược lại: "biết đâu ngày xưa, vào thời cổ đại xa xăm, có những vùng đất rộng lớn đông dân cư và những đại tai biến nào đó như trận Đại Hồng thủy chẳng hạn làm tất cả bị tiêu diệt?" Câu trả lời cũng có thể dựa vào thuyết đột biến của Cuvier như đã trình bày từ trước. Rằng qua những cuộc đột biến ấy mà một số rất đông các loài sinh vật, những cổ sinh vật đều bị tiêu diệt. Một số lượng lớn lao các sinh vật xưa cổ ấy chết đi, chúng mất hẳn hay đã đi đâu? khi đứng về mặt luân hồi tái sinh thì phải chăng nhờ sự tiến hóa trong giống sinh tử, tử sinh hay nói cách khác là sự luân hồi chuyển sinh mà chúng có thể tái sinh tiếp tục nhưng xuất hiện ở dạng khác và qua dòng thời gian dài đằng đẵng của nhiều đời sinh vật, sự tiến hóa đã giúp một số lớn thành người?
Vấn Đề
Chuyển Sinh Giữa Người Và Thú:
Ở đây đây
cần lưu ý đến một vấn đề thường gây tranh luận lớn lao đó là vấn đề cho rằng
sinh vật nầy có thể chuyển sinh thành sinh vật khác sau khi chết do nghiệp quả.
Con người có thể tái sinh thành loài sinh vật thấp kém hay loài thú có thể chuyển
sinh thành người.
Theo thuyết luân hồi của Phật giáo thì chính nghiệp lực đã làm phát sinh chuyển hóa biến đổi, như đã nói trên. Đại Đức K. Sri Dhammananda cho rằng: Kiếp sống của mọi sinh vật diễn tiến qua nhiều hình thức một cách liên tục không ngừng nghỉ. Tuy nhiên tất cả chỉ là sự biểu lộ thoe từng giai đoạn tạm thời của nghiệp lực mà thôi. Hiện tại, xác thân không phải phát sinh một cách trực tiếp từ hình thể vật chất có từ quá khứ mà là sự thừa kế của sinh mạng trong quá khứ và nối tiếp cùng nó theo cùng một dòng nghiệp lực.
Về nghiệp lực thì có nghiệp lực được thể hiện dưới hình thức con người hay có khi biểu lộ dưới hình thức con vật. Do đó nếu sinh vật sống mang dạng thể con người nhưng có hành động và ý nghĩ thấp hèn, man dã, ngu si như loài thú, và biểu lộ theo bản năng giống loài thú thì cái nghiệp xấu xa hạ đẳng ấy sẽ dẫn họ thọ sanh chuyển sinh dưới hình thức của loài thú là lẽ tự nhiên. Nhưng sua khi họ chuyển sinh làm kiếp thú thì những gì tốt lành, phước thiên mà họ đã có từ quá khứ hay tồn trữ từ nhiều kiếp trong quá khứ tuy đang tiềm tàng, ẩn náu trong trạng thái bất động nhưng rồi khi gặp điều kiện thuận lợi lại phát lộ ra và theo sự tiến hóa ấy họ lại dần dần thoát khỏi khuôn khổ, kiếp sống của loài vật để rồi ở kiếp kếp tiếp có thể lại chuyển sinh thành người. Trong xã hội, cuộc đời mỗi chúng ta thường gặp khá nhiều con người dáng dấp, cử chỉ, cá tánh... tầm thường xấu xa đê hèn đôi khi còn thua cả loài vật nhưng đôi khi chúng ta cũng gặp một số con vật như chó, mèo, ngựa, khỉ có phong cách chững chạc, thông minh, hiện thực, hiền dịu, trung thành còn hơn cả người...
Nhiều người đã thắc mắc khi bắt gặp lý luận vừa qua vì họ cho rằng loài vật không thể có tư tưởng và lý trí như người được vì thế chúng không thể so sánh với con người, hơn nữa loài vật làm sao có khả năng và ý tưởng làm việc thiện, việc tốt lành. Ở đây vấn đề được đặt ra không nhằm vào kiếp hiện tại của loài vật đó ma chỉ nói đến những gì ở quá khứ, ở nhiều kiếp trước đó của nó nghĩa là những hành động từ kiếp trước nó đã gây ra trong vòng luân hồi nghiệp báo sanh tử mà thời gian ấy có khi rất lâu nhưng chưa có cơ hội phát sinh ra kết quả. Theo đại Đức K. Sri Dhammamda thì "khi con vật sắp lìa đời, điều thiện ở quá khứ xa xăm bất chợt theo "chập tư tưởng" đi vào nó và đó đã tạo duyên khởi thọ sanh tốt lành và hy vọng chuyển sinh làm người".
Xét về mặt sinh vật học thì từ lâu, các nhà khoa học đã quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu về khả năn trí tuệ của loài vật. Trong thập niên 1970 nhiều cuộc tranh cãi xoay quanh vấn đề trí thông minh của thú vật nhất là loài khỉ đã xảy ra vô cùng sôi nổi. Điều nầy đã khiến một số lớn nhà khoa học đi sâu hơn nữa vào lãnh vực tìm hiểu trí thông minh của loài vật và mong có lời giải đáp thỏa đáng sau những quyết định chính xác. Mới đây nhiều nhóm khoa học gia ở Anh, Pháp, Nhật, Đức và Hoa Kỳ đã vô tình đưa ra một nhận xét rằng: có nhiều bằng chứng cho thấy các loài động ật cũng có khả năng trí tuệ cao.
Viện Đại Học Georgia ở Hoa Kỳ đã có một số báo cáo đầy khích lệ về trí thông minh của loài vật. Tại đây, một số nhà khoa học đã nuôi nấy tìm hiểu, qua sát và nghiên cứu về loài vật. Đặc biệt, loài khỉ được lưu ý nhiều. Hai nhà nghiên cứu nổi tiếng thuộc lãnh vực nầy là bà Savage và nhà tâm lý học Rose Sevcik đã theo dõi chú khỉ Kanzi. Đây là chú khỉ được xem là có khả năng trí tuệ cao vì đã học được rất nhan các hình ảnh và các chữ, sau đó thường biểu lộ ý muốn hay "nói chuyện" với người thì chú khỉ Kanzi nầy chỉ việc chỉ tay vào dấu hiệu, hình ảnh hay chữ trên bảng. Điều kỳ lạ là Kanzi cón biết quy luật văn phạm mà nó đã được chỉ dạy nên khi sắp xếp câu nói ít khi bị nhầm lẫn về thứ tự các chữ. Từ kết quả thành công vượt ngoài sự tưởng tượng nầy đã giúp đánh tan mối nghi ngờ từ lâu về khả năng hiểu biết của loài vật. Thật vậy, từ lâu không những các nhà khoa học mà ngay cả những người bình thường cũng đều nghĩ rằng loài vật không có sự thông minh và nếu chúng làm những điều gì theo ý người chỉ là do chúng đã phản ứng trước những mệnh lệnh phát sinh bởi những tín hiểu của người dạy chúng mà thôi.
Mặc dầu vậy, vẫn không thiếu người cho rằng chỉ có loài khỉ, vì sống gần gũi với người nên chúng dễ bắt chước những hành động, cử chỉ, việc làm của người. Các nhà khoa học đã chứng minh ý nghĩ trên không đúng hoàn toàn bằng cách nghiên cứu những loài sinh vật khác không phải là khỉ. Nhà huấn luyện loài động vật nổi tiếng không phải là khỉ. Nhà huấn luyện loài vật nổi tiếng đều có khả Herman đã cho biết rằng phần lớn các loài động vật đều có khả năng tri thức. Ông Herman nghĩ rằng nếu nghiên cứu, huấn luyện loài khỉ thì dễ bị phê bình là cho loài sinh vật có sự tiến hóa cao và gần gũi với người. Vì thế ông chọn một loài sinh vật mà sự tiến hóa của tổ tiên chúng phát sinh từ những động vật có vú trong khoảng thời gian gần 46 triệu năm đó là loài cá heo. Các nhà huấn luyện cá heo thuộc nhóm Herman cho biết cá heo rất thông minh, chúng có thể hoạt động theo các dấu hiệu của các nhà huấn luyện, sự nhận thức của chúng rất nhanh và chúng còn có khả năng giữ lại trong bộ óc những hình ảnh mà chúng đã học được vì thế chúng có thể canh giữ, chờ đợi hay làm một việc gì đúng theo sự "dặn dò" của con người. Điều đáng nói là mỗi khi hoàn thành một việc, cá heo thường tỏ ý vui mừng hớn hở giống như một con người cảm thấy thỏa thích khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Trái lại mỗi khi làm sai, chúng tỏ vẻ âu sầu buồn bã và lắc cái đầu như con người lắc đầu vì chán nản thất vọng vậy. Cho đến nay các nhà sinh vật học và các nhà khoa học phần lớn đều thừa nhận rằng loài vật có khả năng hiểu biết và sự hiểu biết ấy cũng tùy theo cấp độ tiến hóa của các loài vật. Từ lâu con người biết những con vật có khả năng trí óc, người ta không cần căn cứ vào bộ óc to hay nhỏ của chúng mà tùy vào khả năng "nhận thức" với các sự việc. Con chuột tuy nhỏ những không ranh, con voi to lớn và khôn theo kiểu khôn của người nhiều kinh nghiệm chững chạc. Con chó vừa nhớ lâu vừa có khả năng trí óc cao. Con mèo cũng vậy...
Tất cả những điều vừa trình bày ở trên mà chính các nhà khoa học đã thừa nhận, đã giúp cho luận cứ rằng có nghiệp lực được thể hiện dưới hình thức con người hay có khi biểu lộ dưới hình thức con vật và tùy theo sự tiến hóa của hành động và tư tưởng mà sự chuyển sinh sẽ được tốt lành ở kiếp kế tiếp.
Theo thuyết luân hồi của Phật giáo thì chính nghiệp lực đã làm phát sinh chuyển hóa biến đổi, như đã nói trên. Đại Đức K. Sri Dhammananda cho rằng: Kiếp sống của mọi sinh vật diễn tiến qua nhiều hình thức một cách liên tục không ngừng nghỉ. Tuy nhiên tất cả chỉ là sự biểu lộ thoe từng giai đoạn tạm thời của nghiệp lực mà thôi. Hiện tại, xác thân không phải phát sinh một cách trực tiếp từ hình thể vật chất có từ quá khứ mà là sự thừa kế của sinh mạng trong quá khứ và nối tiếp cùng nó theo cùng một dòng nghiệp lực.
Về nghiệp lực thì có nghiệp lực được thể hiện dưới hình thức con người hay có khi biểu lộ dưới hình thức con vật. Do đó nếu sinh vật sống mang dạng thể con người nhưng có hành động và ý nghĩ thấp hèn, man dã, ngu si như loài thú, và biểu lộ theo bản năng giống loài thú thì cái nghiệp xấu xa hạ đẳng ấy sẽ dẫn họ thọ sanh chuyển sinh dưới hình thức của loài thú là lẽ tự nhiên. Nhưng sua khi họ chuyển sinh làm kiếp thú thì những gì tốt lành, phước thiên mà họ đã có từ quá khứ hay tồn trữ từ nhiều kiếp trong quá khứ tuy đang tiềm tàng, ẩn náu trong trạng thái bất động nhưng rồi khi gặp điều kiện thuận lợi lại phát lộ ra và theo sự tiến hóa ấy họ lại dần dần thoát khỏi khuôn khổ, kiếp sống của loài vật để rồi ở kiếp kếp tiếp có thể lại chuyển sinh thành người. Trong xã hội, cuộc đời mỗi chúng ta thường gặp khá nhiều con người dáng dấp, cử chỉ, cá tánh... tầm thường xấu xa đê hèn đôi khi còn thua cả loài vật nhưng đôi khi chúng ta cũng gặp một số con vật như chó, mèo, ngựa, khỉ có phong cách chững chạc, thông minh, hiện thực, hiền dịu, trung thành còn hơn cả người...
Nhiều người đã thắc mắc khi bắt gặp lý luận vừa qua vì họ cho rằng loài vật không thể có tư tưởng và lý trí như người được vì thế chúng không thể so sánh với con người, hơn nữa loài vật làm sao có khả năng và ý tưởng làm việc thiện, việc tốt lành. Ở đây vấn đề được đặt ra không nhằm vào kiếp hiện tại của loài vật đó ma chỉ nói đến những gì ở quá khứ, ở nhiều kiếp trước đó của nó nghĩa là những hành động từ kiếp trước nó đã gây ra trong vòng luân hồi nghiệp báo sanh tử mà thời gian ấy có khi rất lâu nhưng chưa có cơ hội phát sinh ra kết quả. Theo đại Đức K. Sri Dhammamda thì "khi con vật sắp lìa đời, điều thiện ở quá khứ xa xăm bất chợt theo "chập tư tưởng" đi vào nó và đó đã tạo duyên khởi thọ sanh tốt lành và hy vọng chuyển sinh làm người".
Xét về mặt sinh vật học thì từ lâu, các nhà khoa học đã quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu về khả năn trí tuệ của loài vật. Trong thập niên 1970 nhiều cuộc tranh cãi xoay quanh vấn đề trí thông minh của thú vật nhất là loài khỉ đã xảy ra vô cùng sôi nổi. Điều nầy đã khiến một số lớn nhà khoa học đi sâu hơn nữa vào lãnh vực tìm hiểu trí thông minh của loài vật và mong có lời giải đáp thỏa đáng sau những quyết định chính xác. Mới đây nhiều nhóm khoa học gia ở Anh, Pháp, Nhật, Đức và Hoa Kỳ đã vô tình đưa ra một nhận xét rằng: có nhiều bằng chứng cho thấy các loài động ật cũng có khả năng trí tuệ cao.
Viện Đại Học Georgia ở Hoa Kỳ đã có một số báo cáo đầy khích lệ về trí thông minh của loài vật. Tại đây, một số nhà khoa học đã nuôi nấy tìm hiểu, qua sát và nghiên cứu về loài vật. Đặc biệt, loài khỉ được lưu ý nhiều. Hai nhà nghiên cứu nổi tiếng thuộc lãnh vực nầy là bà Savage và nhà tâm lý học Rose Sevcik đã theo dõi chú khỉ Kanzi. Đây là chú khỉ được xem là có khả năng trí tuệ cao vì đã học được rất nhan các hình ảnh và các chữ, sau đó thường biểu lộ ý muốn hay "nói chuyện" với người thì chú khỉ Kanzi nầy chỉ việc chỉ tay vào dấu hiệu, hình ảnh hay chữ trên bảng. Điều kỳ lạ là Kanzi cón biết quy luật văn phạm mà nó đã được chỉ dạy nên khi sắp xếp câu nói ít khi bị nhầm lẫn về thứ tự các chữ. Từ kết quả thành công vượt ngoài sự tưởng tượng nầy đã giúp đánh tan mối nghi ngờ từ lâu về khả năng hiểu biết của loài vật. Thật vậy, từ lâu không những các nhà khoa học mà ngay cả những người bình thường cũng đều nghĩ rằng loài vật không có sự thông minh và nếu chúng làm những điều gì theo ý người chỉ là do chúng đã phản ứng trước những mệnh lệnh phát sinh bởi những tín hiểu của người dạy chúng mà thôi.
Mặc dầu vậy, vẫn không thiếu người cho rằng chỉ có loài khỉ, vì sống gần gũi với người nên chúng dễ bắt chước những hành động, cử chỉ, việc làm của người. Các nhà khoa học đã chứng minh ý nghĩ trên không đúng hoàn toàn bằng cách nghiên cứu những loài sinh vật khác không phải là khỉ. Nhà huấn luyện loài động vật nổi tiếng không phải là khỉ. Nhà huấn luyện loài vật nổi tiếng đều có khả Herman đã cho biết rằng phần lớn các loài động vật đều có khả năng tri thức. Ông Herman nghĩ rằng nếu nghiên cứu, huấn luyện loài khỉ thì dễ bị phê bình là cho loài sinh vật có sự tiến hóa cao và gần gũi với người. Vì thế ông chọn một loài sinh vật mà sự tiến hóa của tổ tiên chúng phát sinh từ những động vật có vú trong khoảng thời gian gần 46 triệu năm đó là loài cá heo. Các nhà huấn luyện cá heo thuộc nhóm Herman cho biết cá heo rất thông minh, chúng có thể hoạt động theo các dấu hiệu của các nhà huấn luyện, sự nhận thức của chúng rất nhanh và chúng còn có khả năng giữ lại trong bộ óc những hình ảnh mà chúng đã học được vì thế chúng có thể canh giữ, chờ đợi hay làm một việc gì đúng theo sự "dặn dò" của con người. Điều đáng nói là mỗi khi hoàn thành một việc, cá heo thường tỏ ý vui mừng hớn hở giống như một con người cảm thấy thỏa thích khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Trái lại mỗi khi làm sai, chúng tỏ vẻ âu sầu buồn bã và lắc cái đầu như con người lắc đầu vì chán nản thất vọng vậy. Cho đến nay các nhà sinh vật học và các nhà khoa học phần lớn đều thừa nhận rằng loài vật có khả năng hiểu biết và sự hiểu biết ấy cũng tùy theo cấp độ tiến hóa của các loài vật. Từ lâu con người biết những con vật có khả năng trí óc, người ta không cần căn cứ vào bộ óc to hay nhỏ của chúng mà tùy vào khả năng "nhận thức" với các sự việc. Con chuột tuy nhỏ những không ranh, con voi to lớn và khôn theo kiểu khôn của người nhiều kinh nghiệm chững chạc. Con chó vừa nhớ lâu vừa có khả năng trí óc cao. Con mèo cũng vậy...
Tất cả những điều vừa trình bày ở trên mà chính các nhà khoa học đã thừa nhận, đã giúp cho luận cứ rằng có nghiệp lực được thể hiện dưới hình thức con người hay có khi biểu lộ dưới hình thức con vật và tùy theo sự tiến hóa của hành động và tư tưởng mà sự chuyển sinh sẽ được tốt lành ở kiếp kế tiếp.
Vấn Đề
Linh Hồn Chuyển Vào Bào Thai
Đây là vấn
đề mà quả thật cho đến nay các nhà khoa học nhất là giới y khoa chưa có được những
chứng cớ rõ ràng trong thực tế. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu về hiện tượng
luân hồi, tái sinh có những nhận định theo luận cứ của họ:
Linh hồn đã nhập vào thể xác mới, theo nhiều trường hợp. Có khi bào thai vừa thành hình trong bụng linh hồn đã nhập vào đầu thai. Đôi khi đứa bé vừa lọt lòng mẹ linh hồn mới nhập vào.
Khi vừa thụ thai nghĩa là lúc tinh trùng của người cha kết hợp với noãn châu của người mẹ để thành trứng thụ tinh thì lúc ấy linh hồn chưa có thể xâm nhập vào để đầu thai. Nguyên nhân đầu tiên là lúc bấy giờ bộ não và hệ thần kinh chưa được tạo lập, nếu vào giai đoạn trứng thụ tinh thì trừng ấy chỉ tuân theo hiện tượng sinh lý học để tiếp tục đi vào giai đoạn chuyển hóa của phôi (Embryon) để rồi thành bào thai có dạng ban đầu của thai nhi chưa rõ rệt.
Ở đây cầu lưu ý rằng, không hiểu người xưa đã quan tâm ra sao về luận cứ nầy, hay chỉ là một sự trùng hợp khi họ cho rằng lúc người mẹ có thai, nên có những tư tưởng những hình ảnh đẹp đẽ tốt lành trong tâm trí để có được đứa bé xinh đẹp thông minh nhân hậu khi sanh ra. Phải chăng đây là chủ ý muốn dùng tư tưởng, cảm nghĩ tốt lành để lôi cuốn linh hồn tươi sáng nhập vào bào thai? Trường hợp khi hai nhi vừa lọt lòng mẹ thì linh hồn mới nhập vào thường rất hiếm và lý do có thể là đứa bé sinh thiếu tháng, sinh non. Nếu đúng thật với thời gian ấy trùng lắp với sự hội nhập của linh hồn vào để đầu thai, nhưng vì vào giai đoạn ấy thai nhi đã chào đời nên xem như linh hồn nhập vào lúc đứa bé sinh ra. Bác sĩ Bandyo là nhà giải phẫu nổi danh ở Ấn Độ đã có lần đưa ra nhận xét như sau về vấn đề linh hồn đầu thai: "Khi đứa bé qua đời vì một lẽ gì đó, linh hồn chúng không chịu đi xa mà thường lẩn quẩn bên cạnh người mẹ để chờ điều kiện thuận tiện đầu thai lai khi người mẹ có thai lần nữa."
Vấn đề tái sinh luân hồi làm phát sinh nhiều thắc mắc và nghi vấn. Sau đây là một số giải thích đại cương từ các nhà nghiên cứu về hiện tượng chuyển sinh:
Một số giải thích về hiện tượng chuyển sinh:
- Trường hợp có những sự tái sinh kiếp người xa cách nhau đến cả trăm năm là do sự chuyển sinh qua nhiều kiếp thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như có thể chuyển sinh làm loài sinh vật thấp kém hoặc có khi chuyển vao cõi giới phi nhân loại. Các nhà thôi miên khi tìm hiểu về tiền kiếp của những người nào đó, đôi khi họ bắt gặp một giai đoạn rất xa mới thấy người nầy chuyển sinh trở lại. Ngoài ra từ lâu, các nhà nghiên cứu về luân hồi nhận thấy rằng có những trường hợp các tử tội đôi khi trước khi chết còn ước nguyện sẽ trở lại phục thù hay mong gặp lại người thân. Cũng có khi những người nầy còn quy định cả thời gian như trường hợp tện sát nhân Giles Derais trước khi bị lửu ở giàn hỏa thiêu đốt cháy cơ thể hắn bỗng nói lên lời nguyền là sẽ trở lại 500 năm sau. Vậy phải chăng hắn phải bị một thời gian 500 năm không được đầu thai thành người?
Những đứa trẻ nhớ được quá khứ xa xăm của mình thường cho biết "thuở xa xưa ấy" chúng đã qua đời trong khoảng tuổi 30 và 40.
Khi chết thường "ấm ức" bất ngờ (do tai nạn) hay bị sát hại (chết oan) thì sự nhớ lại tiền kiếp dễ phát sinh một cách bất ngờ.
Sau khi qua đời, các nhân vật nầy lại chuyển qua giai đoạn sống tiếp theo từ một cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác nhưng đôi khi nhớ lại quá khứ mình. Ở đây, dù muốn dù không, các nhà nghiên cứu cũng buộc lòng phải "lật lại hồ sơ tôn giáo" theo đó họ phải nghiền ngẫm nghiên cứu kỹ dưới mắt của nhà khoa học và các thuyết của Ấn Độ giáo hay đạo Bà la môn (Brahmminism) và nhất là Phật giáo. Sự tương ứng được đưa ra theo cách gọi như sau: sau khi qua đời, người chết lại trải qua giai đoạn sống tiếp theo từ một cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác. Ở đây theo lý thuyết về vấn đề luân hồi nhân quả thì sau khi qua đời, người chết để lại "đằng sau" mình cái được gọi là "tiền kiếp" và chuyển qua cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác tức là đi vào "hậu kiếp". Hậu kiếp nầy không phải là chấm dứt mà sẽ còn tiếp diễn mãi, (chữ hậu chỉ là làm rõ nghĩa cho chữ tiền kiếp mà thôi).
Thường thì sự chuyển đổi "cuộc đời" từ kiếp nầy đến kiếp khác bắt đầu sau vài năm.
Nguyên nhân làm nhớ lại "quá khứ xa xăm" hay "tiền kếp" là do nỗi lo sợ qua hình ảnh một lời nói nào đó bất chợt khơi dậy từ ký ức. Trong một hồ sơ lưu trữ ở viện nghiên cứu về tiền kiếp ở Virginia (Hoa Kỳ) có ghi lại trường hợp một em bé gái sống ở Mã Lai, mỗi lần thấy cái thau nước đầy là tái xanh mặt và khóc thé lên. Nhiều lần như thế khiến cha mẹ bé phải dùng roi để trừng phạt em và hỏi nguyên nhân. Năm em 6 tuổi, em mới cho biết: "ngày trước (tiền kếp) con là một người đàn bà làm việc ở một cửu hàng ăn và bị vợ ông chủ ghen giết bằng cách dìm đầu con vào một thùng nước đầy cho ngạt thở."
Về giới tính thì cho đến nay có thuyết cho rằng giới tính ít thay đổi khi chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Tuy nhiên qua các sưu tầm nghiên cứu tìm hiểu của tiến sĩ Ian Stevenson thì đôi khi có sự thay đổi phái tính khi tái sinh.
Về vấn đề liên hệ họ hàng thân thuộc dòng giống sắc tộc tôn giáo, chính kiến v..v... không ảnh hưởng. Có người kiếp trước là dân Á Châu, kiếp sau lại là người Âu Châu, hay Phi Châu. Có người kiếp trước theo Ky Tô giáo kiếp sau lại theo Phật giáo. (Điều nầy thấy rõ ràng khi xét đến trường hợp những vị có chức sắc lớn trong tôn giáo nào đó, đôi khi lại chuyển đổi niềm tin để theo một tôn giáo khác ngay trong cuộc đời của họ. Để giải thích sự kiện nầy, các nhà nghiên cứu luân hồi, tái sinh cho rằng nguyên nhân là những niềm tin hình ảnh và lý thuyết tôn giáo mà người ấy đã theo từ tiền kiếp đã được khơi dậy ở kiếp hiện tại qua lời rao giảng hay nghiên cứu các kinh sách liên quan.
Khi ngành sinh vật học ngày càng tiến bộ, các nhà khoa đã cho rằng cha mẹ con cái có những di truyền về huyết thống, về tái sinh về bệnh lý, cá tính, dạng thể... do các gen là chính. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn thấy không phải hoàn toàn đúng theo chiều hướng của lời giải thích thuần về di truyền học như vậy. Trái lại, vẫn có những gia đình mà sự khác biệt giữa cha mẹ, con cái, anh em rất xa nhau. Đôi khi cha mẹ rất thông minh tài giỏi nhưng con cái lại rất đần độn. Đôi khi cha mẹ rất độc ác nhưng con cái lại hiền đức... đối với các anh chị em trong gia đình cũng vậy, nhiều khi khác biệt nhau về đủ mọi lãnh vực, ngay cả trong trường hợp cặp sinh đôi Chang Buhner và Eng dính liền nhau ở hông khi sinh ra nhưng khi lớn lên lại rất xung khắc về tính tình tài năng và thể chất. Điều đặc biệt kỳ lạ hơn nữa là có những cặp sinh đôi lại không giống nhau về gương mặt và nhất là màu da như một số lớn trường hợp đã xảy ra tại Đan Mạch (Denmark), Đức, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại (Canada)... Năm 1978 ở Tây Đức (West Germany) và năm 1939 ở North Carolina có những cặp sinh đôi một da đen một da trắng. Đặc biệt những cháu nầy lại rất thương yêu nhau. Cũng về di truyền, huyết thống, đôi khi có trường hợp một người con không giống cha hay mẹ lại rất ông nội. Đại Đức K. Sri Dhammanada đã cho rằng có những nghiệp phát sinh trong quá khứ tưởng đã mất hẳn dù ở trạng thấi bất động nhưng chờ cơ hội để bộc lộ rõ nét ra. Do đó ngay cả bệnh lý, cũng theo Đại Đức thì chính nhà văn Pháp Poussin cũng đã giải thích sự kiện tương tự theo định luật di truyền khi nhiều căn bệnh ấp ủ qua nhiều thế hệ bỗng nhiên bộc phát một cách bất ngờ.
Về vấn đề thiện ác, nhiều kẻ chọc trời khuấy nước, giết người không gớm tay nhưng sau đó lại đi tu. Có kẻ sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, đạo đức hay đã trải qua một quãng đời trong tu viện nhưng sau đó lại trở thành kẻ sát nhân tàn bạo. Như thế trong mỗi người có tàng trữ cái tốt và cái xấu và những cái tốt xấu ấy chắc chắn phải có từ trược. Nhìn một đứa bé mới chập chững biết đi nhưng nó lại có cử chỉ sành sỏi trong hành động dùng chân dẫm nát con ruồi, con gián bị gẫy cánh khập khễnh bò dưới đất thì người ta mới tự hỏi rằng do đâu mà ác tính đã len vào trong đứa trẻ thơ ngây ấy? Có phải cái tàn ác ấy đã phát khởi từ tiền kiếp của nó rồi và giờ đây được thể hiện khi có điều kiện. Ở đứa trẻ chúng ta còn thấy sự phát khởi tự nhiên về tánh tham lam vị kỷ, sâm si ganh tỵ... không ai dạy mà đứa trẻ nhỏ đã nuốt vú mẹ sau khi sanh ra và nếu không cho bú nó sẽ khóc thét lên.
Một vấn đề có liên quan đến thiện ác làm thắc mắc nhiều người là tại sao mọi người đều giống nhau nhưng lại có kẻ hiền lương người gian ác. Điều trái ngược hơn nữa là kẻ ác đôi khi lại được ưu đãi và sống thọ còn kẻ hiền lương lại bị đọa đày có khi chết sớm?
Về lãnh vực giàu nghèo sang hèn cũng vậy, đôi khi kẻ ác lại được giàu sang còn người hiền lương thì mãi chịu cảnh bần hàn. Tại sao có sự bất công vô lý ấy? Các thắc mắc thật sự còn nhiều nhưng tất cả các thắc mắc ấy, ngay cả những bất công vô lý mà loài người đều đã thấy rõ và xuất hiện trên cõi đời, tất cả đều có nguyên nhân và nếu biết rằng sự sung sướng hay đau khổ, sự giàu sang hay nghèo khó, sự thông minh hay ngu muội, sự tàn ác hay hiền lương... thể hiện trong đời mỗi người đều do nghiệp báo thì con người chẳng còn gì phải thắc mắc lo âu. Nếu biết vấn đề đau khổ hay hạnh phúc đều do ta tạo lấy từ kiếp trước thì vấn đề vẫn chưa quá muộn khi ta còn sống, hay tự mình tự mình tạo lấy nhân lành thì có thể ta sẽ nhận được quả tốt tức thì trong đời nầy hay chậm hơn là ở đời sau. Đó là luật tự nhiên của nhân quả vậy.
Điều đáng quan tâm hơn nữa về vấn đề của những cặp sinh đôi là từ lâu các nhà y học đã lưu ý về các trường hợp nầy vì họ càng ngày càng thấy các điều thật lạ lùng khó giải thích.
Các nhà tâm sinh lý học đã nghiên cứu hàng ngàn vụ sinh đôi và rút ra những trường hợp rất đặc biệt.
Vấn đề những cặp sinh đôi sống cách ly nhau: Thoe tài liệu của Times Life Book (1991), thì có đến 62 trường hợp sinh đôi trên thế giới. Nhưng có những hoàn cảnh khác nhau. Có khi mỗi người sống một nơi. Đôi khi hai anh em hay hai chị em sinh đôi ở cách xa đến nửa vòng quả đất. Báo Der Spiegel của Đức đã cho biết hiện nay, giáo sư bác sĩ Thomas Bouchard là người nghiên cứu kỹ nhất về những trường hợp cặp sinh đôi sống ly thân và theo dõi quá trình phát triển về công danh địa vị, tài năng nghề nghiệp cùng tương lai của họ. Vấn đề gây kinh ngạc mọi người khi bác sĩ Thomas đưa ra trong một họi nghị về những cặp sinh đôi cho biết là tuy những cặp sinh đôi nầy sống xa cách nhau có khi từ nhỏ họ đã bị tách rời mỗi người một phương trời nên không nhớ mặt nhau hay không liên lạc với nhau. Ấy vậy mà thường thì những người nầy lại thường gặp nhau ở một nơi nào đó một cách tình cờ không hẹn mà đến. Ngoài ra nhưng cặp sinh đôi tuy sống cách biệt nhau nhưng lại có cử chỉ, sở thích, tài năng và bệnh lý giống nhau. Bác sĩ Thomas Bouchard nêu trường hợp của cặp sinh đôi Gim Levis và Gim Spring. Cặp sinh đôi nầy xa lìa nhau từ lúc mới chào đời. Thời gian xa cách nhau gần 40 năm trời. Trong suốt thời gian đó, họ không biết nhau vì không liện lạc nhưng cả hai người đều có những điểm rất giống nhau như người nào cũng có hai vợ mà điểm kỳ lạ nổi bật là hai người vợ trước của họ đều có cùng tên là Linda và hai người vợ sau của họ của họ cùng có tên là Bety. Hai người cùng sinh hạ con trai đầu lòng. Tên đứa con trai của Gim Levis là Alan còn của Gim Spring là Ailen (có sự tương tự) và điều lạ sau cùng hai gia đình đều nuôi chó mà tên con chó cũng giống nhau (cùng tên Toy). Về nghề nghiệp, cả hai rất khéo tay và làm thợ thủ công, rồi năm 30 tuổi, cả hai đều là công nhân tại một cơ sở bán xăng và sau cùng làm phụ tá cho cảnh sát trưởng ở quận hạt mình ở. Về sở thích: thích tắm biển, bơi lội và đặc biệt cả hai đều có tật gặm móng tay.
Mỗi năm cả hai đều đến vùng biển Saint, Petersburg để tắm vào mùa hè, trong mấy năm như thế nhưng không ai biết ai. Bốn năm sau, trong một cuộc hội ngộ bất ngờ, họ gặp nhau và cảm thấy tâm đầu ý hiệp về mọi mặt. Họ trở thành bạn thân và sau cùng mới phát giác ra rằng họ là hai anh em sinh đôi đã xa cách nhau trong gần nữa đời người. Về sau, Gim Levis phát biểu như sau: "Ngày đầu tiên gặp gỡ Spring tôi có cảm giác ngờ ngợ một cách lạ lùng và tôi có cảm tưởng như đã gặp nhau từ thuở nào đó rồi..."
Bác sĩ Thomas Bouchard còn nêu lên trường hợp một cặp sinh đôi khác ở Trinida. Cặp sinh đôi Oskar Stoehr và Jack Yute sinh năm 1933. Từ lúc mới chào đời, cặp sinh đôi nầy đã xa cách nhau rồi. Oskar Stoehr theo mẹ còn Jak Yute thì theo cha. Họ ở xa nhau, người ở Do Thái, người ở Đức. Sau 46 năm cách biệt, tình cờ họ gặp lại nhau tại Mineapoli. Khi biết được nhau, cả hai không khỏi kinh ngạc khi thấy họ cùng mặc một bộ đồ giống nhau: áo sơ mi trắng sọc xanh, đeo kính mát, để râu giống nhau và thường hắt xì là tật cố hữu của cả hai vì cả hai đều bị dị ứng. Tại hội nghi khoa học tổ chức tại Tân Orléan, bác sĩ Thomas Bouchard đã cho biết là ông đã tìm thấy những nét đặc trưng như vậy ở 105 cặp sinh đôi đượv theo dõi cẩn thận từ lúc họ ra đời cho đến khi họ khôn lớn. Theo bác sĩ Thomas thì ngoài đặc điểm về cấu tạo gen còn có những nguyên nhân sâu xa nào đó ảnh hưởng lên các hiện tượng kỳ lạ đó.
Linh hồn đã nhập vào thể xác mới, theo nhiều trường hợp. Có khi bào thai vừa thành hình trong bụng linh hồn đã nhập vào đầu thai. Đôi khi đứa bé vừa lọt lòng mẹ linh hồn mới nhập vào.
Khi vừa thụ thai nghĩa là lúc tinh trùng của người cha kết hợp với noãn châu của người mẹ để thành trứng thụ tinh thì lúc ấy linh hồn chưa có thể xâm nhập vào để đầu thai. Nguyên nhân đầu tiên là lúc bấy giờ bộ não và hệ thần kinh chưa được tạo lập, nếu vào giai đoạn trứng thụ tinh thì trừng ấy chỉ tuân theo hiện tượng sinh lý học để tiếp tục đi vào giai đoạn chuyển hóa của phôi (Embryon) để rồi thành bào thai có dạng ban đầu của thai nhi chưa rõ rệt.
Ở đây cầu lưu ý rằng, không hiểu người xưa đã quan tâm ra sao về luận cứ nầy, hay chỉ là một sự trùng hợp khi họ cho rằng lúc người mẹ có thai, nên có những tư tưởng những hình ảnh đẹp đẽ tốt lành trong tâm trí để có được đứa bé xinh đẹp thông minh nhân hậu khi sanh ra. Phải chăng đây là chủ ý muốn dùng tư tưởng, cảm nghĩ tốt lành để lôi cuốn linh hồn tươi sáng nhập vào bào thai? Trường hợp khi hai nhi vừa lọt lòng mẹ thì linh hồn mới nhập vào thường rất hiếm và lý do có thể là đứa bé sinh thiếu tháng, sinh non. Nếu đúng thật với thời gian ấy trùng lắp với sự hội nhập của linh hồn vào để đầu thai, nhưng vì vào giai đoạn ấy thai nhi đã chào đời nên xem như linh hồn nhập vào lúc đứa bé sinh ra. Bác sĩ Bandyo là nhà giải phẫu nổi danh ở Ấn Độ đã có lần đưa ra nhận xét như sau về vấn đề linh hồn đầu thai: "Khi đứa bé qua đời vì một lẽ gì đó, linh hồn chúng không chịu đi xa mà thường lẩn quẩn bên cạnh người mẹ để chờ điều kiện thuận tiện đầu thai lai khi người mẹ có thai lần nữa."
Vấn đề tái sinh luân hồi làm phát sinh nhiều thắc mắc và nghi vấn. Sau đây là một số giải thích đại cương từ các nhà nghiên cứu về hiện tượng chuyển sinh:
Một số giải thích về hiện tượng chuyển sinh:
- Trường hợp có những sự tái sinh kiếp người xa cách nhau đến cả trăm năm là do sự chuyển sinh qua nhiều kiếp thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như có thể chuyển sinh làm loài sinh vật thấp kém hoặc có khi chuyển vao cõi giới phi nhân loại. Các nhà thôi miên khi tìm hiểu về tiền kiếp của những người nào đó, đôi khi họ bắt gặp một giai đoạn rất xa mới thấy người nầy chuyển sinh trở lại. Ngoài ra từ lâu, các nhà nghiên cứu về luân hồi nhận thấy rằng có những trường hợp các tử tội đôi khi trước khi chết còn ước nguyện sẽ trở lại phục thù hay mong gặp lại người thân. Cũng có khi những người nầy còn quy định cả thời gian như trường hợp tện sát nhân Giles Derais trước khi bị lửu ở giàn hỏa thiêu đốt cháy cơ thể hắn bỗng nói lên lời nguyền là sẽ trở lại 500 năm sau. Vậy phải chăng hắn phải bị một thời gian 500 năm không được đầu thai thành người?
Những đứa trẻ nhớ được quá khứ xa xăm của mình thường cho biết "thuở xa xưa ấy" chúng đã qua đời trong khoảng tuổi 30 và 40.
Khi chết thường "ấm ức" bất ngờ (do tai nạn) hay bị sát hại (chết oan) thì sự nhớ lại tiền kiếp dễ phát sinh một cách bất ngờ.
Sau khi qua đời, các nhân vật nầy lại chuyển qua giai đoạn sống tiếp theo từ một cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác nhưng đôi khi nhớ lại quá khứ mình. Ở đây, dù muốn dù không, các nhà nghiên cứu cũng buộc lòng phải "lật lại hồ sơ tôn giáo" theo đó họ phải nghiền ngẫm nghiên cứu kỹ dưới mắt của nhà khoa học và các thuyết của Ấn Độ giáo hay đạo Bà la môn (Brahmminism) và nhất là Phật giáo. Sự tương ứng được đưa ra theo cách gọi như sau: sau khi qua đời, người chết lại trải qua giai đoạn sống tiếp theo từ một cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác. Ở đây theo lý thuyết về vấn đề luân hồi nhân quả thì sau khi qua đời, người chết để lại "đằng sau" mình cái được gọi là "tiền kiếp" và chuyển qua cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác tức là đi vào "hậu kiếp". Hậu kiếp nầy không phải là chấm dứt mà sẽ còn tiếp diễn mãi, (chữ hậu chỉ là làm rõ nghĩa cho chữ tiền kiếp mà thôi).
Thường thì sự chuyển đổi "cuộc đời" từ kiếp nầy đến kiếp khác bắt đầu sau vài năm.
Nguyên nhân làm nhớ lại "quá khứ xa xăm" hay "tiền kếp" là do nỗi lo sợ qua hình ảnh một lời nói nào đó bất chợt khơi dậy từ ký ức. Trong một hồ sơ lưu trữ ở viện nghiên cứu về tiền kiếp ở Virginia (Hoa Kỳ) có ghi lại trường hợp một em bé gái sống ở Mã Lai, mỗi lần thấy cái thau nước đầy là tái xanh mặt và khóc thé lên. Nhiều lần như thế khiến cha mẹ bé phải dùng roi để trừng phạt em và hỏi nguyên nhân. Năm em 6 tuổi, em mới cho biết: "ngày trước (tiền kếp) con là một người đàn bà làm việc ở một cửu hàng ăn và bị vợ ông chủ ghen giết bằng cách dìm đầu con vào một thùng nước đầy cho ngạt thở."
Về giới tính thì cho đến nay có thuyết cho rằng giới tính ít thay đổi khi chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Tuy nhiên qua các sưu tầm nghiên cứu tìm hiểu của tiến sĩ Ian Stevenson thì đôi khi có sự thay đổi phái tính khi tái sinh.
Về vấn đề liên hệ họ hàng thân thuộc dòng giống sắc tộc tôn giáo, chính kiến v..v... không ảnh hưởng. Có người kiếp trước là dân Á Châu, kiếp sau lại là người Âu Châu, hay Phi Châu. Có người kiếp trước theo Ky Tô giáo kiếp sau lại theo Phật giáo. (Điều nầy thấy rõ ràng khi xét đến trường hợp những vị có chức sắc lớn trong tôn giáo nào đó, đôi khi lại chuyển đổi niềm tin để theo một tôn giáo khác ngay trong cuộc đời của họ. Để giải thích sự kiện nầy, các nhà nghiên cứu luân hồi, tái sinh cho rằng nguyên nhân là những niềm tin hình ảnh và lý thuyết tôn giáo mà người ấy đã theo từ tiền kiếp đã được khơi dậy ở kiếp hiện tại qua lời rao giảng hay nghiên cứu các kinh sách liên quan.
Khi ngành sinh vật học ngày càng tiến bộ, các nhà khoa đã cho rằng cha mẹ con cái có những di truyền về huyết thống, về tái sinh về bệnh lý, cá tính, dạng thể... do các gen là chính. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn thấy không phải hoàn toàn đúng theo chiều hướng của lời giải thích thuần về di truyền học như vậy. Trái lại, vẫn có những gia đình mà sự khác biệt giữa cha mẹ, con cái, anh em rất xa nhau. Đôi khi cha mẹ rất thông minh tài giỏi nhưng con cái lại rất đần độn. Đôi khi cha mẹ rất độc ác nhưng con cái lại hiền đức... đối với các anh chị em trong gia đình cũng vậy, nhiều khi khác biệt nhau về đủ mọi lãnh vực, ngay cả trong trường hợp cặp sinh đôi Chang Buhner và Eng dính liền nhau ở hông khi sinh ra nhưng khi lớn lên lại rất xung khắc về tính tình tài năng và thể chất. Điều đặc biệt kỳ lạ hơn nữa là có những cặp sinh đôi lại không giống nhau về gương mặt và nhất là màu da như một số lớn trường hợp đã xảy ra tại Đan Mạch (Denmark), Đức, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại (Canada)... Năm 1978 ở Tây Đức (West Germany) và năm 1939 ở North Carolina có những cặp sinh đôi một da đen một da trắng. Đặc biệt những cháu nầy lại rất thương yêu nhau. Cũng về di truyền, huyết thống, đôi khi có trường hợp một người con không giống cha hay mẹ lại rất ông nội. Đại Đức K. Sri Dhammanada đã cho rằng có những nghiệp phát sinh trong quá khứ tưởng đã mất hẳn dù ở trạng thấi bất động nhưng chờ cơ hội để bộc lộ rõ nét ra. Do đó ngay cả bệnh lý, cũng theo Đại Đức thì chính nhà văn Pháp Poussin cũng đã giải thích sự kiện tương tự theo định luật di truyền khi nhiều căn bệnh ấp ủ qua nhiều thế hệ bỗng nhiên bộc phát một cách bất ngờ.
Về vấn đề thiện ác, nhiều kẻ chọc trời khuấy nước, giết người không gớm tay nhưng sau đó lại đi tu. Có kẻ sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, đạo đức hay đã trải qua một quãng đời trong tu viện nhưng sau đó lại trở thành kẻ sát nhân tàn bạo. Như thế trong mỗi người có tàng trữ cái tốt và cái xấu và những cái tốt xấu ấy chắc chắn phải có từ trược. Nhìn một đứa bé mới chập chững biết đi nhưng nó lại có cử chỉ sành sỏi trong hành động dùng chân dẫm nát con ruồi, con gián bị gẫy cánh khập khễnh bò dưới đất thì người ta mới tự hỏi rằng do đâu mà ác tính đã len vào trong đứa trẻ thơ ngây ấy? Có phải cái tàn ác ấy đã phát khởi từ tiền kiếp của nó rồi và giờ đây được thể hiện khi có điều kiện. Ở đứa trẻ chúng ta còn thấy sự phát khởi tự nhiên về tánh tham lam vị kỷ, sâm si ganh tỵ... không ai dạy mà đứa trẻ nhỏ đã nuốt vú mẹ sau khi sanh ra và nếu không cho bú nó sẽ khóc thét lên.
Một vấn đề có liên quan đến thiện ác làm thắc mắc nhiều người là tại sao mọi người đều giống nhau nhưng lại có kẻ hiền lương người gian ác. Điều trái ngược hơn nữa là kẻ ác đôi khi lại được ưu đãi và sống thọ còn kẻ hiền lương lại bị đọa đày có khi chết sớm?
Về lãnh vực giàu nghèo sang hèn cũng vậy, đôi khi kẻ ác lại được giàu sang còn người hiền lương thì mãi chịu cảnh bần hàn. Tại sao có sự bất công vô lý ấy? Các thắc mắc thật sự còn nhiều nhưng tất cả các thắc mắc ấy, ngay cả những bất công vô lý mà loài người đều đã thấy rõ và xuất hiện trên cõi đời, tất cả đều có nguyên nhân và nếu biết rằng sự sung sướng hay đau khổ, sự giàu sang hay nghèo khó, sự thông minh hay ngu muội, sự tàn ác hay hiền lương... thể hiện trong đời mỗi người đều do nghiệp báo thì con người chẳng còn gì phải thắc mắc lo âu. Nếu biết vấn đề đau khổ hay hạnh phúc đều do ta tạo lấy từ kiếp trước thì vấn đề vẫn chưa quá muộn khi ta còn sống, hay tự mình tự mình tạo lấy nhân lành thì có thể ta sẽ nhận được quả tốt tức thì trong đời nầy hay chậm hơn là ở đời sau. Đó là luật tự nhiên của nhân quả vậy.
Điều đáng quan tâm hơn nữa về vấn đề của những cặp sinh đôi là từ lâu các nhà y học đã lưu ý về các trường hợp nầy vì họ càng ngày càng thấy các điều thật lạ lùng khó giải thích.
Các nhà tâm sinh lý học đã nghiên cứu hàng ngàn vụ sinh đôi và rút ra những trường hợp rất đặc biệt.
Vấn đề những cặp sinh đôi sống cách ly nhau: Thoe tài liệu của Times Life Book (1991), thì có đến 62 trường hợp sinh đôi trên thế giới. Nhưng có những hoàn cảnh khác nhau. Có khi mỗi người sống một nơi. Đôi khi hai anh em hay hai chị em sinh đôi ở cách xa đến nửa vòng quả đất. Báo Der Spiegel của Đức đã cho biết hiện nay, giáo sư bác sĩ Thomas Bouchard là người nghiên cứu kỹ nhất về những trường hợp cặp sinh đôi sống ly thân và theo dõi quá trình phát triển về công danh địa vị, tài năng nghề nghiệp cùng tương lai của họ. Vấn đề gây kinh ngạc mọi người khi bác sĩ Thomas đưa ra trong một họi nghị về những cặp sinh đôi cho biết là tuy những cặp sinh đôi nầy sống xa cách nhau có khi từ nhỏ họ đã bị tách rời mỗi người một phương trời nên không nhớ mặt nhau hay không liên lạc với nhau. Ấy vậy mà thường thì những người nầy lại thường gặp nhau ở một nơi nào đó một cách tình cờ không hẹn mà đến. Ngoài ra nhưng cặp sinh đôi tuy sống cách biệt nhau nhưng lại có cử chỉ, sở thích, tài năng và bệnh lý giống nhau. Bác sĩ Thomas Bouchard nêu trường hợp của cặp sinh đôi Gim Levis và Gim Spring. Cặp sinh đôi nầy xa lìa nhau từ lúc mới chào đời. Thời gian xa cách nhau gần 40 năm trời. Trong suốt thời gian đó, họ không biết nhau vì không liện lạc nhưng cả hai người đều có những điểm rất giống nhau như người nào cũng có hai vợ mà điểm kỳ lạ nổi bật là hai người vợ trước của họ đều có cùng tên là Linda và hai người vợ sau của họ của họ cùng có tên là Bety. Hai người cùng sinh hạ con trai đầu lòng. Tên đứa con trai của Gim Levis là Alan còn của Gim Spring là Ailen (có sự tương tự) và điều lạ sau cùng hai gia đình đều nuôi chó mà tên con chó cũng giống nhau (cùng tên Toy). Về nghề nghiệp, cả hai rất khéo tay và làm thợ thủ công, rồi năm 30 tuổi, cả hai đều là công nhân tại một cơ sở bán xăng và sau cùng làm phụ tá cho cảnh sát trưởng ở quận hạt mình ở. Về sở thích: thích tắm biển, bơi lội và đặc biệt cả hai đều có tật gặm móng tay.
Mỗi năm cả hai đều đến vùng biển Saint, Petersburg để tắm vào mùa hè, trong mấy năm như thế nhưng không ai biết ai. Bốn năm sau, trong một cuộc hội ngộ bất ngờ, họ gặp nhau và cảm thấy tâm đầu ý hiệp về mọi mặt. Họ trở thành bạn thân và sau cùng mới phát giác ra rằng họ là hai anh em sinh đôi đã xa cách nhau trong gần nữa đời người. Về sau, Gim Levis phát biểu như sau: "Ngày đầu tiên gặp gỡ Spring tôi có cảm giác ngờ ngợ một cách lạ lùng và tôi có cảm tưởng như đã gặp nhau từ thuở nào đó rồi..."
Bác sĩ Thomas Bouchard còn nêu lên trường hợp một cặp sinh đôi khác ở Trinida. Cặp sinh đôi Oskar Stoehr và Jack Yute sinh năm 1933. Từ lúc mới chào đời, cặp sinh đôi nầy đã xa cách nhau rồi. Oskar Stoehr theo mẹ còn Jak Yute thì theo cha. Họ ở xa nhau, người ở Do Thái, người ở Đức. Sau 46 năm cách biệt, tình cờ họ gặp lại nhau tại Mineapoli. Khi biết được nhau, cả hai không khỏi kinh ngạc khi thấy họ cùng mặc một bộ đồ giống nhau: áo sơ mi trắng sọc xanh, đeo kính mát, để râu giống nhau và thường hắt xì là tật cố hữu của cả hai vì cả hai đều bị dị ứng. Tại hội nghi khoa học tổ chức tại Tân Orléan, bác sĩ Thomas Bouchard đã cho biết là ông đã tìm thấy những nét đặc trưng như vậy ở 105 cặp sinh đôi đượv theo dõi cẩn thận từ lúc họ ra đời cho đến khi họ khôn lớn. Theo bác sĩ Thomas thì ngoài đặc điểm về cấu tạo gen còn có những nguyên nhân sâu xa nào đó ảnh hưởng lên các hiện tượng kỳ lạ đó.
Vấn Đề Sự
Trùng Hợp Lạ Lùng Giữa Những Người Không Cùng Huyết Thống.
Theo các
nhà nghiên cứu về hiện tượng tái sinh thì vấn đề vừa nêu trên trở nên phức tạp
khi lý theo lãnh vực luân hồi vì không riêng gì trường hợp những anh chị em
sinh đôi mà trên thế giới, những con người hoàn toàn xa lạ, đôi khi vẫn có một
số điểm trùng hợp lạ lùng kỳ dị mà cho đến nay chưa có ai có thể giải thích được.
Sau đây là một số trường hợp có thật đã xảy ra trên thế giới, những trường hợp
mà cho đến nay các nhà phân tập học, xã hội học, di truyền học, nhân chủng học,
đều chưa có một giải thích thỏa đáng cho vấn đề.
Như trường
hợp hai con người xa lạ John Adams sinh năm 1743 và mất năm 1826 là vị tổng thống
thứ hai của vị chủng quốc Hoa Kỳ. Còn Thomas Jefferson sinh năm 1743 và mất năm
1826 là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ. Hai người nầy không phải là anh em nhưng
lại coi nhau còn hơn là ruột thịt. Hai người qua đời cùng một ngày và cùng một
năm, đó là ngày mùng 4 tháng 7 năm 1826.
Chuyện hoàng đế Umberto đệ nhất và người chủ quán.
Câu chuyện kỳ dị đầy vẻ huyền bí khác cũng đã một thời làm xôn xao dân chúng Ý Đại Lợi. Nguyên tại thành phố Monza ở Ý có một người chủ quán tên là Umberto người nầy có gương mặt giống hoàng đế nước Ý lúc bấy giờ và đặc biệt vị hoàng đế nầy cũng có tên là Umberto (Umberto đệ nhất). Một hôm, phái đoàn hoàng đế đến vùng nầy thì trời tối, nhà vua tình cờ chọn quán của Umberto để dùng bữa. Những người trong phái đoàn khi thấy chủ quán đều vô cùng ngạc nhiên vì gương mặt nhà vua và chủ quán giống nhau như tạc. Hoàng đế Umberto khi nghe chủ quán xưng tên thì lại càng kinh ngạc nên cho hỏi về gia thế, cuộc đời thì được biết người chủ quán nầy có ngày sinh tháng đẻ và cả năm sinh đều cùng giống hoàng đế, đó là ngày 14 tháng 3 năm 1844. Mọi người còn bàng hoàng hơn nữa khi người chủ quán cho biết là anh ta có vợ có tên là Margherita, một cái tên hoàn toàn giống hệt tên của hoàng hậu Margherita và lại cùng tổ chức lễ cưới vào cùng một ngày giống nhau là ngày 22 tháng 4 năm 1966. Từ ngạc nhiên nầy lại kéo theo ngạc nhiên khác khi người chủ quán cho biết là ông ta có người con trai đầu lòng tên là Vittoria hoàn toàn phù hợp với con trai của nhà vua cũng tên là Vittoria. Hoàng đế Umberto thấy chuyện quá lạ lùng bèn hỏi thêm các chi tiết khác nữa thì được biết những sự trùng hợp lạ lùng chưa từng thấy nữa, đó là:
Khi người chủ quán Umberto tổ chức lễ khánh thành quán mình thì lúc đó Umberto lên ngôi vua và tổ chức lễ đăng quang. Hai buổi lễ tuy khác nhau nhưng cùng tổ chức vào đúng ngày giờ tháng năm.
Năm 1866, cả hai đều được gắn huy chương. Thời gian nầy chủ quán Umberto phục vụ trong quân đội còn vua Umberto cũng phục vụ trong quân đội với cấp bậc đại tá.
Năm 1870 cả hai người đêu được thăng chức. Chủ quán Umberto lên chức trung sĩ còn vua Umberto lúc đó lên chức tổng tư lệnh quân đội.
Sau khi biết rõ được những sự trùng hợp lạ lùng giữa người chủ quán và mình, đêm đó nhà vua suy nghĩ rất nhiều và tự hỏi lòng rằng là tại sao mình và người chủ quán đều có chung những điểm tương đồng như mỗi người lại quá cách biệt nhau về địa vị? Phải chăng mình là kẻ may mắn nhất trần gian còn người chủ quán kia là người bị thua thiệt? Phải chăng mỗi người có một định mệnh khác nhau, ai đã cân nhắc lẽ thưởng phạt? và phải chăng đã có sự bất công hay nhầm lẫn nào đó? Sáng hôm sau, hoàng đế Umberto ra quyết định để triều đình lo thủ tục đặc trách phong chức hiệp sĩ hoàng gia nước Ý cho người chủ quán Umberto.
Thế rồi ngày hôm sau, khi chủ quán Umberto lên đường đến hoàng cung yết kiến hoàng đế thì vừa đặt chân xuống xe ngựa, ông ta bị một kẻ sát nhân nhảy đến bắn ba phát đạn vào ngực khiến ông chết tức khắc. Hung tin được trình lên nhà vua, hoàng đế Umberto kinh hãi vội vã lên đường đến nơi đặt thi thể người chủ quán để thăm viếng con người kỳ lạ. Nhưng khi nhà vua vừa bước xuống xe song mã thì lại một tên sát nhân điên loạn không biết từ đâu xuất hiện bắn vào ngực nhà vua ba phát đạn. Sự việc diễn tiến nhanh không thể tưởng tượng đến nỗi không ai phản ứng kịp thời nên nhà vua đã ngã nhào xuống đất chết ngay. Câu chuyện có thật về hoàng đến Umberto và chủ quán lạ lùng đã làm cả nước Ý xôn một dạo.
Các nhà sưu tập chuyện lạ có thật trên thế giới còn cho biết thêm về những hiện tượng lạ lùng mà cho đến nay những nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh siêu hình vẫn chưa tìm được lời giải thích.
B. Những chuyện trùng hợp lạ lùng Chuyện thứ nhất xảy ra ngay tại tiểu bang California (Hoa Kỳ) Donald Chapman ra đời ngày 5 tháng 9 năm 1976 thì cũng vào ngày tháng và năm đó một người tên là Donald Brazil cũng ra đời.
Vào ngày 5 tháng 9 năm 1976 hai người nầy tuy ở hai nơi khác nhau nhưng lại tổ chức lễ sinh nhật cùng vào buổi tối và sau đó 5 hôm họ lái xe chơi xa, Donald Brazil dùng xe hơi khởi hành từ Femdale còn Donald Chapman cũng dùng xe hơi và khởi hành từ Eurecka. Hai xe đi ngược chiều nhau và đã đụng vào nhau. Cả hai đều tử nạn cùng ngày, cùng tháng và cùng năm.
Chuyện thứ hai cũng xảy ra tại tiểu bang California (Hoa Kỳ). Hai người có tên khác nhau là Fred Schokley và Baraette Woodruff sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm và cùng giờ (6 giờ sáng ngày 19 tháng 7 năm 1944). Cả hai lại là cùng bạn học sau đó và họ rất thân nhau. Lạ nhất là trong đời họ cùng vinh cùng nhục, cùng thành, cùng bại giống nhau. Còn sức khỏe, bệnh tật tuy hai mà lại giống nhau như một, người nầy đau thì người kia cũng đau (bệnh). Thế rồi, ngày 23 tháng 3 năm 1964 cả hai đều vào đại học Oakland, điều kỳ lạ là cả hai đi trễ giờ và mặc dầu hai người đi hai chiếc xe hơi khác nhau nhưng bỗng nhiên họ cùng tông vào một chiếc xe vận tải lớn và đều qua đời đúng ngày giờ, tháng, năm đó.
Ngoài ra, lịch sử Hoa Kỳ còn ghi lại vô cùng chi tiết trường hợp đặc biệt về tiểu sử của hai vị tổng thống Abraham Linciln và John Kennedy về những sự trùng hợp kỳ dị giữa hai nhân vật nổi danh sống cách nhau một trăm năm tại Hoa Kỳ và qua sự trùng hợp đó, những nhà nghiên cứu, về hiện tượng huyền bí đã cho rằng: Phải chăng tổng thống Kennedy là hậu thân của chính tổng thống Abraham Lincoln?
Qua các tài liệu xác thực thu thập được về hai vị tổng thống, người ta đã liệt kê ra các điểm trùng hợp nhau một cách chính xác về hai con người ấy như sau:
1) Về mặt hôn nhân, con cái:
Tổng thống Lincoln và Kennedy đều cưới vợ vào năm 30 tuổi và hai bà vợ ấy đều nói tiếng Pháp. Điều kỳ lạ là hai bà lúc đó vừa đúng 24 tuổi và cả hai đều có màu tóc nâu. Trong đời, ông bà Lincoln và ông bà Kennedy đều có một đứa con chết lúc họ sống ở tòa Bạch Ốc.
2) Về mặt người thân thuộc:
Chuyện hoàng đế Umberto đệ nhất và người chủ quán.
Câu chuyện kỳ dị đầy vẻ huyền bí khác cũng đã một thời làm xôn xao dân chúng Ý Đại Lợi. Nguyên tại thành phố Monza ở Ý có một người chủ quán tên là Umberto người nầy có gương mặt giống hoàng đế nước Ý lúc bấy giờ và đặc biệt vị hoàng đế nầy cũng có tên là Umberto (Umberto đệ nhất). Một hôm, phái đoàn hoàng đế đến vùng nầy thì trời tối, nhà vua tình cờ chọn quán của Umberto để dùng bữa. Những người trong phái đoàn khi thấy chủ quán đều vô cùng ngạc nhiên vì gương mặt nhà vua và chủ quán giống nhau như tạc. Hoàng đế Umberto khi nghe chủ quán xưng tên thì lại càng kinh ngạc nên cho hỏi về gia thế, cuộc đời thì được biết người chủ quán nầy có ngày sinh tháng đẻ và cả năm sinh đều cùng giống hoàng đế, đó là ngày 14 tháng 3 năm 1844. Mọi người còn bàng hoàng hơn nữa khi người chủ quán cho biết là anh ta có vợ có tên là Margherita, một cái tên hoàn toàn giống hệt tên của hoàng hậu Margherita và lại cùng tổ chức lễ cưới vào cùng một ngày giống nhau là ngày 22 tháng 4 năm 1966. Từ ngạc nhiên nầy lại kéo theo ngạc nhiên khác khi người chủ quán cho biết là ông ta có người con trai đầu lòng tên là Vittoria hoàn toàn phù hợp với con trai của nhà vua cũng tên là Vittoria. Hoàng đế Umberto thấy chuyện quá lạ lùng bèn hỏi thêm các chi tiết khác nữa thì được biết những sự trùng hợp lạ lùng chưa từng thấy nữa, đó là:
Khi người chủ quán Umberto tổ chức lễ khánh thành quán mình thì lúc đó Umberto lên ngôi vua và tổ chức lễ đăng quang. Hai buổi lễ tuy khác nhau nhưng cùng tổ chức vào đúng ngày giờ tháng năm.
Năm 1866, cả hai đều được gắn huy chương. Thời gian nầy chủ quán Umberto phục vụ trong quân đội còn vua Umberto cũng phục vụ trong quân đội với cấp bậc đại tá.
Năm 1870 cả hai người đêu được thăng chức. Chủ quán Umberto lên chức trung sĩ còn vua Umberto lúc đó lên chức tổng tư lệnh quân đội.
Sau khi biết rõ được những sự trùng hợp lạ lùng giữa người chủ quán và mình, đêm đó nhà vua suy nghĩ rất nhiều và tự hỏi lòng rằng là tại sao mình và người chủ quán đều có chung những điểm tương đồng như mỗi người lại quá cách biệt nhau về địa vị? Phải chăng mình là kẻ may mắn nhất trần gian còn người chủ quán kia là người bị thua thiệt? Phải chăng mỗi người có một định mệnh khác nhau, ai đã cân nhắc lẽ thưởng phạt? và phải chăng đã có sự bất công hay nhầm lẫn nào đó? Sáng hôm sau, hoàng đế Umberto ra quyết định để triều đình lo thủ tục đặc trách phong chức hiệp sĩ hoàng gia nước Ý cho người chủ quán Umberto.
Thế rồi ngày hôm sau, khi chủ quán Umberto lên đường đến hoàng cung yết kiến hoàng đế thì vừa đặt chân xuống xe ngựa, ông ta bị một kẻ sát nhân nhảy đến bắn ba phát đạn vào ngực khiến ông chết tức khắc. Hung tin được trình lên nhà vua, hoàng đế Umberto kinh hãi vội vã lên đường đến nơi đặt thi thể người chủ quán để thăm viếng con người kỳ lạ. Nhưng khi nhà vua vừa bước xuống xe song mã thì lại một tên sát nhân điên loạn không biết từ đâu xuất hiện bắn vào ngực nhà vua ba phát đạn. Sự việc diễn tiến nhanh không thể tưởng tượng đến nỗi không ai phản ứng kịp thời nên nhà vua đã ngã nhào xuống đất chết ngay. Câu chuyện có thật về hoàng đến Umberto và chủ quán lạ lùng đã làm cả nước Ý xôn một dạo.
Các nhà sưu tập chuyện lạ có thật trên thế giới còn cho biết thêm về những hiện tượng lạ lùng mà cho đến nay những nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh siêu hình vẫn chưa tìm được lời giải thích.
B. Những chuyện trùng hợp lạ lùng Chuyện thứ nhất xảy ra ngay tại tiểu bang California (Hoa Kỳ) Donald Chapman ra đời ngày 5 tháng 9 năm 1976 thì cũng vào ngày tháng và năm đó một người tên là Donald Brazil cũng ra đời.
Vào ngày 5 tháng 9 năm 1976 hai người nầy tuy ở hai nơi khác nhau nhưng lại tổ chức lễ sinh nhật cùng vào buổi tối và sau đó 5 hôm họ lái xe chơi xa, Donald Brazil dùng xe hơi khởi hành từ Femdale còn Donald Chapman cũng dùng xe hơi và khởi hành từ Eurecka. Hai xe đi ngược chiều nhau và đã đụng vào nhau. Cả hai đều tử nạn cùng ngày, cùng tháng và cùng năm.
Chuyện thứ hai cũng xảy ra tại tiểu bang California (Hoa Kỳ). Hai người có tên khác nhau là Fred Schokley và Baraette Woodruff sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm và cùng giờ (6 giờ sáng ngày 19 tháng 7 năm 1944). Cả hai lại là cùng bạn học sau đó và họ rất thân nhau. Lạ nhất là trong đời họ cùng vinh cùng nhục, cùng thành, cùng bại giống nhau. Còn sức khỏe, bệnh tật tuy hai mà lại giống nhau như một, người nầy đau thì người kia cũng đau (bệnh). Thế rồi, ngày 23 tháng 3 năm 1964 cả hai đều vào đại học Oakland, điều kỳ lạ là cả hai đi trễ giờ và mặc dầu hai người đi hai chiếc xe hơi khác nhau nhưng bỗng nhiên họ cùng tông vào một chiếc xe vận tải lớn và đều qua đời đúng ngày giờ, tháng, năm đó.
Ngoài ra, lịch sử Hoa Kỳ còn ghi lại vô cùng chi tiết trường hợp đặc biệt về tiểu sử của hai vị tổng thống Abraham Linciln và John Kennedy về những sự trùng hợp kỳ dị giữa hai nhân vật nổi danh sống cách nhau một trăm năm tại Hoa Kỳ và qua sự trùng hợp đó, những nhà nghiên cứu, về hiện tượng huyền bí đã cho rằng: Phải chăng tổng thống Kennedy là hậu thân của chính tổng thống Abraham Lincoln?
Qua các tài liệu xác thực thu thập được về hai vị tổng thống, người ta đã liệt kê ra các điểm trùng hợp nhau một cách chính xác về hai con người ấy như sau:
1) Về mặt hôn nhân, con cái:
Tổng thống Lincoln và Kennedy đều cưới vợ vào năm 30 tuổi và hai bà vợ ấy đều nói tiếng Pháp. Điều kỳ lạ là hai bà lúc đó vừa đúng 24 tuổi và cả hai đều có màu tóc nâu. Trong đời, ông bà Lincoln và ông bà Kennedy đều có một đứa con chết lúc họ sống ở tòa Bạch Ốc.
2) Về mặt người thân thuộc:
Tổng thống
Lincoln có một người anh em làm thị trưởng (thành phố Boston), một người khác
làm thượng nghị sĩ, một người nữa là tổng trưởng tư pháp (Levi Lincoln tốt nghiệp
đại học Harvard), và một người nữa là (Robert Lincoln) làm đại sứ Mỹ tại Anh.
Tổng thống Kennedy có một người thân làm thượng nghị sĩ (Teddy Kennedy), một người làm tổng trưởng tư pháp (Robert Kennedy, cũng tốt nghiệp đại học Harvard). Phụ thân của T.T. Kennedy đã từng làm đại sứ tại Anh. Riêng chức vụ thị trưởng thì trong dòng họ Kennedy cũng đã có người làm thị trưởng tại thành phố Boston, đó là ông nội của T.T Kennedy.
Tổng thống Lincoln có một người thư ký riêng tên là Kennedy còn T.T Kennedy lại có một người thư ký tên là Lincoln.
3) Về mặt công danh sự nghiệp:
Tổng thống Lincoln được đắc cử vào quốc hội năm 1847 và tổng thống Kennedy đắc cử vào quốc hội năm 1947. Như vậy có sự trùng hợp về con số 47, khi xét về khoảng cách thời gian mà hai tổng thống đã sống là đúng 100 năm. Và sau đó cả hai cùng tranh chức phó tổng thống.
Tổng thống Lincoln lên làm tổng thống Hoa Kỳ năm 1860. Tổng thống Kennedy làm tổng thống năm 1960. Sự trùng hợp thấy rõ ở con số 60. (Cả hai T.T sống cách đúng 100 năm).
4) Về mặt chánh sách:
Cả hai vị tổng thống Lincoln và Kennedy đều chú trọng đến vấn đề quyền công dân và vấn đề chủng tộc nhất là vấn đề người da đen.
5) Về tuổi thọ và sự kiện xảy ra qua hai cuộc ám sát:
Cả hai vị tổng thống đều bị ám sát và chết vào cùng ngày thứ sáu.
Cả hai vị T.T. đều bị bắn vào phía sau đầu.
Lúc bị bắn, cả hai vị tổng thống đều có vợ bên cạnh.
Hung thủ ám sát tổng thống Lincoln sinh năm 1839 còn hung thủ ám sát tổng thống Kennedy sinh năm 1939 (trùng hợp năm 39).
Cả hai hung thủ đứng bắn và chạy đến trú ẩn là nhà kho và rạp hát. Có điều lạ là hung thủ bắn tổng thống Lincoln thì núp sau cánh gà rạp hát và khi bắn xong thì lại bỏ chạy vào nhà kho để trốn, còn hung thủ bắn tổng thống Kennedy thì núp trong nhà kho để bắn rồi sau đó chạy vào nhà hát để trốn.
6) Về lãnh vực người kế vị.
Phó tổng thống lên kế vị T.T Lincoln là Andrew Johnson, còn phó T.T kế vị T.T Kennedy là Lyndon Johnson. Cả hai vị phó tổng thống nầy tuy sống cách nhau đến 100 năm nhưng đều cùng tên là Johnson và cả hai trước đó giữ chức thượng nghị sĩ và cùng quê hương miền nam nước Mỹ.
Hai phó tổng thống có sự trùng hợp 1808 của năm sinh cách nhau 100 năm chẵn. Andrew Johnson sinh năm 1808 còn Lyndon Johnson sinh năm 1908. Nếu đếm họ tên của hai người nầy sẽ có một sự trùng hợp khác nữa: đều gồm 13 chữ cái.
Những nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã cố gắng đưa ra một số giải thích nào đó về những hiện tượng lạ kỳ nầy như sau: Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đôi khi thấy có những người tuy không phải là bà con họ hàng hoặc anh chị em ruột thịt nhưng họ thương yêu nhau rất mực. Họ sống với nhau như bóng với hình. Người nầy gặp bệnh tật hoạn nạn thì người kia lo lắng không yên., Luôn luôn như có một sợi dây vô hình nào đó ràng buộc họ lại với nhau. Có người giữ mãi tình khắng khít ấy cho đến mãn đời. Những con người ấy khi chết đi, linh hồn họ vẫn nhớ mãi những tình cảm cũ của người xưa và khi đầu thai lại, tùy theo nghiệp quả thuận lợi hay không cho ý muốn được thể hiện của họ mà họ sẽ gặp được hình ảnh của thân xác mới dưới hình thức hai người xa lạ gặp nhau và giống nhau về cá tính, sở thích. Đôi khi còn giống nhau về gương mặt và cử chỉ hoặc do sự "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" mà họ cùng được tái sanh một lần được thuận tiện gặp gỡ nhau. Do đó có trường hợp có những người cùng ra đời vào những năm, tháng, ngày, giờ giống nhau và đôi khi đã hoàn tất được ý nguyện hay đã xong nghiệp quả họ lại phải xa nhau cùng đúng vào ngày giờ tháng năm nào đó.
Có những người ở kiếp trước thương yêu nhau nhưng đôi khi lại xung khắc về cá tính. Xa thì nhớ, gần thì lại hay cãi nhau. Có khi vì quá thương nhau mà trở nên quá ghen. Đôi khi họ là hai anh em hay hai chị em hoặc là cặp bạn trai hay cặp bạn gái. Đôi khi họ là cặp tình nhân nhưng vì quá ghen hờn, nghi kỵ nhau mà sinh ra xung khắc. Cũng có khi họ là hai người thân thiết, nửa bước khó rời nhưng họ đã hợp đồng với nhau để làm khổ người khác... Đến kiếp sau, cái nhân duyên và nghiệp quả về những gì xảy ra giữa hai con người ấy với nhau và với kẻ khác lại được thể hiện qua sự kiện họ là hai kẻ sinh đôi trong cùng một gia đình để có thể cùng nhận một nghiệp quả lớn lao nào đó. Tuy nhiên, tùy theo ước nguyện của linh hồn khi đầu thai được cơ hội thuận tiện hay không mà sẽ có những trường hợp khác xảy ra:
Hoặc hai trẻ sinh đôi mới lọt lòng mẹ thì đã bị chia lìa vì lý do nào đó. Họ phải chịu một thời gian xa cách nhau đã rồi sau mới hội ngộ. Có thể đó là một hình thức trừng phạt phát sinh do nghiệp quả nào đó ở tiền kiếp họ đã gây ra. Nhưng cuối cùng họ lại gặp gỡ nhau nhờ lý do nào đó, mà từ đó họ gần gũi và yêu mến nhau hơn hay đôi khi (thường hiếm) lại xung khắc, bất hợp nhau...
Hoặc hai trẻ sinh đôi sống với nhau hòa thuận, vui vẻ là do nghiệp lực từ tiền kiếp của họ không có gì sai trái xấu xa nên ước nguyện đầu thai lại đó được thể hiện thuận lợi.
Hoặc cặp sinh đôi sống mãi mãi bên nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về sở thích, tánh tình, cử chỉ. Đôi khi họ ghét nhau và thường gây gổ nhau. Trường hợp hai anh em sinh đôi người Thái Lan thường gọi là cặp anh em Xiêm (Siam) dính nhau suốt đời (dính ở hông). Hai người nầy sinh năm 1811. Một người tên là Chang và một người tên là Eng.
Mặc dầu dạng thể và khuôn mặt giống nhau như khuôn đúc và sống mãi bên nhau, nhưng hai người rất xung khắc nhau. Một người ít nói, thâm trầm, còn người kia lại nóng tính và nghiêm khắc, khó khăn. Đối với người mẹ đã sinh ra cặp sinh đôi thì rõ ràng đã có sự liên quan nhân quả nào đó giữa người mẹ và hai đứa con ấy. Sự liên quan không những đối với người mẹ mà còn đối với người con nữa. Bác sĩ R. Halley có lần kể chuyện một bé trai sinh đôi ở nước Anh tên là Cook, một hôm tự nhiên nói với mẹ một câu thật lạ lùng "mẹ biết không, trước đây mẹ sống cô đơn thui thủi một mình, không chồng con, bè bạn suốt cả đời. Bây giờ mẹ sinh đôi là để bù trừ cho những thời gian đau buồn ấy..." Chữ trước đây có nghĩa là tiền kiếp vì nếu dùng cho đời hiện tại của mẹ bé trai ấy thì bà ta hoàn toàn không có gì đáng gọi là cô độc cả. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự sinh đôi và sự liên hệ giữa cha mẹ con cái cặp sinh đôi còn rất nhiều, nếu xét về mặt luân hồi nghiệp quả.
Riêng sự trường hợp đặc biệt về hai vị tổng thống Hoa Kỳ A.Lincoln và Kennedy thì câu trả lời vẫn còn ở sự suy đoán rằng đó là một trong những hình ảnh của sự đầu thai hay là một sự hóa thân của chính tổng thống Lincoln. Điều mà cách đây mấy ngàn năm, trong bộ sách tử thư của Tây Tạng và Ai Cập thường nhắc đến: "Có những người, khi chết họ cảm thấy chưa làm đủ bổn phận nơi cõi chết mà họ quyết tâm đầu thai lại, thường những vị đó thường được gọi là Bồ tát. Phải chăng tổng thống Abraham Lincoln đã cả đời mình đấu tranh cho công bằng bác ái vị tha, chống kỳ thị da màu, chủng tộc, cảm thấy mình chưa hoàn tất ý nguyện nên quyết tâm trở lại cõi trần lần nữa qua hậu thân của tổng thống Kennedy và chu kỳ kiếp sống đã được diễn lại như đang chiếu một cuốn phim của tiền thân T.T Lincoln vậy...
Qua những lý luận và giải thích trên, chưa hẳn đã là những giải thích hợp lý và rõ ràng. Tuy nhiên, dù sao, một số giải thích ấy cũng nói lên được một phần nào những mối tương quan nhân quả giữa các hiện tượng với nhau. Nếu ngày nay ta thấy xuất hiện trên quả đất nầy những hình ảnh, sự kiện, thì chắc chắn những gì mà ta thấy đó đều phải có nguyên nhân. Nhưng trở ngại ở điểm làđôi khi nguyên nhân ấy không thể nhận rõ bằng các giác quan bình thường của loài người và cũng không thể chứng minh bằng khoa học nên sự giải thích cũng từ đó mà bị hạn chế, trở ngại.
Tổng thống Kennedy có một người thân làm thượng nghị sĩ (Teddy Kennedy), một người làm tổng trưởng tư pháp (Robert Kennedy, cũng tốt nghiệp đại học Harvard). Phụ thân của T.T. Kennedy đã từng làm đại sứ tại Anh. Riêng chức vụ thị trưởng thì trong dòng họ Kennedy cũng đã có người làm thị trưởng tại thành phố Boston, đó là ông nội của T.T Kennedy.
Tổng thống Lincoln có một người thư ký riêng tên là Kennedy còn T.T Kennedy lại có một người thư ký tên là Lincoln.
3) Về mặt công danh sự nghiệp:
Tổng thống Lincoln được đắc cử vào quốc hội năm 1847 và tổng thống Kennedy đắc cử vào quốc hội năm 1947. Như vậy có sự trùng hợp về con số 47, khi xét về khoảng cách thời gian mà hai tổng thống đã sống là đúng 100 năm. Và sau đó cả hai cùng tranh chức phó tổng thống.
Tổng thống Lincoln lên làm tổng thống Hoa Kỳ năm 1860. Tổng thống Kennedy làm tổng thống năm 1960. Sự trùng hợp thấy rõ ở con số 60. (Cả hai T.T sống cách đúng 100 năm).
4) Về mặt chánh sách:
Cả hai vị tổng thống Lincoln và Kennedy đều chú trọng đến vấn đề quyền công dân và vấn đề chủng tộc nhất là vấn đề người da đen.
5) Về tuổi thọ và sự kiện xảy ra qua hai cuộc ám sát:
Cả hai vị tổng thống đều bị ám sát và chết vào cùng ngày thứ sáu.
Cả hai vị T.T. đều bị bắn vào phía sau đầu.
Lúc bị bắn, cả hai vị tổng thống đều có vợ bên cạnh.
Hung thủ ám sát tổng thống Lincoln sinh năm 1839 còn hung thủ ám sát tổng thống Kennedy sinh năm 1939 (trùng hợp năm 39).
Cả hai hung thủ đứng bắn và chạy đến trú ẩn là nhà kho và rạp hát. Có điều lạ là hung thủ bắn tổng thống Lincoln thì núp sau cánh gà rạp hát và khi bắn xong thì lại bỏ chạy vào nhà kho để trốn, còn hung thủ bắn tổng thống Kennedy thì núp trong nhà kho để bắn rồi sau đó chạy vào nhà hát để trốn.
6) Về lãnh vực người kế vị.
Phó tổng thống lên kế vị T.T Lincoln là Andrew Johnson, còn phó T.T kế vị T.T Kennedy là Lyndon Johnson. Cả hai vị phó tổng thống nầy tuy sống cách nhau đến 100 năm nhưng đều cùng tên là Johnson và cả hai trước đó giữ chức thượng nghị sĩ và cùng quê hương miền nam nước Mỹ.
Hai phó tổng thống có sự trùng hợp 1808 của năm sinh cách nhau 100 năm chẵn. Andrew Johnson sinh năm 1808 còn Lyndon Johnson sinh năm 1908. Nếu đếm họ tên của hai người nầy sẽ có một sự trùng hợp khác nữa: đều gồm 13 chữ cái.
Những nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã cố gắng đưa ra một số giải thích nào đó về những hiện tượng lạ kỳ nầy như sau: Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đôi khi thấy có những người tuy không phải là bà con họ hàng hoặc anh chị em ruột thịt nhưng họ thương yêu nhau rất mực. Họ sống với nhau như bóng với hình. Người nầy gặp bệnh tật hoạn nạn thì người kia lo lắng không yên., Luôn luôn như có một sợi dây vô hình nào đó ràng buộc họ lại với nhau. Có người giữ mãi tình khắng khít ấy cho đến mãn đời. Những con người ấy khi chết đi, linh hồn họ vẫn nhớ mãi những tình cảm cũ của người xưa và khi đầu thai lại, tùy theo nghiệp quả thuận lợi hay không cho ý muốn được thể hiện của họ mà họ sẽ gặp được hình ảnh của thân xác mới dưới hình thức hai người xa lạ gặp nhau và giống nhau về cá tính, sở thích. Đôi khi còn giống nhau về gương mặt và cử chỉ hoặc do sự "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" mà họ cùng được tái sanh một lần được thuận tiện gặp gỡ nhau. Do đó có trường hợp có những người cùng ra đời vào những năm, tháng, ngày, giờ giống nhau và đôi khi đã hoàn tất được ý nguyện hay đã xong nghiệp quả họ lại phải xa nhau cùng đúng vào ngày giờ tháng năm nào đó.
Có những người ở kiếp trước thương yêu nhau nhưng đôi khi lại xung khắc về cá tính. Xa thì nhớ, gần thì lại hay cãi nhau. Có khi vì quá thương nhau mà trở nên quá ghen. Đôi khi họ là hai anh em hay hai chị em hoặc là cặp bạn trai hay cặp bạn gái. Đôi khi họ là cặp tình nhân nhưng vì quá ghen hờn, nghi kỵ nhau mà sinh ra xung khắc. Cũng có khi họ là hai người thân thiết, nửa bước khó rời nhưng họ đã hợp đồng với nhau để làm khổ người khác... Đến kiếp sau, cái nhân duyên và nghiệp quả về những gì xảy ra giữa hai con người ấy với nhau và với kẻ khác lại được thể hiện qua sự kiện họ là hai kẻ sinh đôi trong cùng một gia đình để có thể cùng nhận một nghiệp quả lớn lao nào đó. Tuy nhiên, tùy theo ước nguyện của linh hồn khi đầu thai được cơ hội thuận tiện hay không mà sẽ có những trường hợp khác xảy ra:
Hoặc hai trẻ sinh đôi mới lọt lòng mẹ thì đã bị chia lìa vì lý do nào đó. Họ phải chịu một thời gian xa cách nhau đã rồi sau mới hội ngộ. Có thể đó là một hình thức trừng phạt phát sinh do nghiệp quả nào đó ở tiền kiếp họ đã gây ra. Nhưng cuối cùng họ lại gặp gỡ nhau nhờ lý do nào đó, mà từ đó họ gần gũi và yêu mến nhau hơn hay đôi khi (thường hiếm) lại xung khắc, bất hợp nhau...
Hoặc hai trẻ sinh đôi sống với nhau hòa thuận, vui vẻ là do nghiệp lực từ tiền kiếp của họ không có gì sai trái xấu xa nên ước nguyện đầu thai lại đó được thể hiện thuận lợi.
Hoặc cặp sinh đôi sống mãi mãi bên nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về sở thích, tánh tình, cử chỉ. Đôi khi họ ghét nhau và thường gây gổ nhau. Trường hợp hai anh em sinh đôi người Thái Lan thường gọi là cặp anh em Xiêm (Siam) dính nhau suốt đời (dính ở hông). Hai người nầy sinh năm 1811. Một người tên là Chang và một người tên là Eng.
Mặc dầu dạng thể và khuôn mặt giống nhau như khuôn đúc và sống mãi bên nhau, nhưng hai người rất xung khắc nhau. Một người ít nói, thâm trầm, còn người kia lại nóng tính và nghiêm khắc, khó khăn. Đối với người mẹ đã sinh ra cặp sinh đôi thì rõ ràng đã có sự liên quan nhân quả nào đó giữa người mẹ và hai đứa con ấy. Sự liên quan không những đối với người mẹ mà còn đối với người con nữa. Bác sĩ R. Halley có lần kể chuyện một bé trai sinh đôi ở nước Anh tên là Cook, một hôm tự nhiên nói với mẹ một câu thật lạ lùng "mẹ biết không, trước đây mẹ sống cô đơn thui thủi một mình, không chồng con, bè bạn suốt cả đời. Bây giờ mẹ sinh đôi là để bù trừ cho những thời gian đau buồn ấy..." Chữ trước đây có nghĩa là tiền kiếp vì nếu dùng cho đời hiện tại của mẹ bé trai ấy thì bà ta hoàn toàn không có gì đáng gọi là cô độc cả. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự sinh đôi và sự liên hệ giữa cha mẹ con cái cặp sinh đôi còn rất nhiều, nếu xét về mặt luân hồi nghiệp quả.
Riêng sự trường hợp đặc biệt về hai vị tổng thống Hoa Kỳ A.Lincoln và Kennedy thì câu trả lời vẫn còn ở sự suy đoán rằng đó là một trong những hình ảnh của sự đầu thai hay là một sự hóa thân của chính tổng thống Lincoln. Điều mà cách đây mấy ngàn năm, trong bộ sách tử thư của Tây Tạng và Ai Cập thường nhắc đến: "Có những người, khi chết họ cảm thấy chưa làm đủ bổn phận nơi cõi chết mà họ quyết tâm đầu thai lại, thường những vị đó thường được gọi là Bồ tát. Phải chăng tổng thống Abraham Lincoln đã cả đời mình đấu tranh cho công bằng bác ái vị tha, chống kỳ thị da màu, chủng tộc, cảm thấy mình chưa hoàn tất ý nguyện nên quyết tâm trở lại cõi trần lần nữa qua hậu thân của tổng thống Kennedy và chu kỳ kiếp sống đã được diễn lại như đang chiếu một cuốn phim của tiền thân T.T Lincoln vậy...
Qua những lý luận và giải thích trên, chưa hẳn đã là những giải thích hợp lý và rõ ràng. Tuy nhiên, dù sao, một số giải thích ấy cũng nói lên được một phần nào những mối tương quan nhân quả giữa các hiện tượng với nhau. Nếu ngày nay ta thấy xuất hiện trên quả đất nầy những hình ảnh, sự kiện, thì chắc chắn những gì mà ta thấy đó đều phải có nguyên nhân. Nhưng trở ngại ở điểm làđôi khi nguyên nhân ấy không thể nhận rõ bằng các giác quan bình thường của loài người và cũng không thể chứng minh bằng khoa học nên sự giải thích cũng từ đó mà bị hạn chế, trở ngại.
|
CHƯƠNG 8:
PHẦN KẾT
Những Bằng
Chứng Về Tái Sinh
Sự Tái
Sinh Của Những Vị Hóa Thân.
Những Bằng Chứng Về Tái Sinh Qua Những Trường Hợp Có Thật Đã Xảy Ra Khắp Nơi Trên Thế Giới:
Lịch sử về nguồn gốc của thuyết tái sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết nầy xuất hiện từ khởi thủy của nền văn minh nhân loại, như Đại Đức Dhammananda đã phát biểu, tuy nhiên trước đây thuyết nầy vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có tính cách tôn giáo mà thôi. Mãi đến sau nầy, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, phiêu linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ thứ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề, vì khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sanh mãi mãi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Trường Hợp Của Chính Nhà Nghiên Cứu Hiện Tượng Tái Sinh Ruth Simmons.
Paris Match là tạp chí có tiếng không những ở nước Pháp mà còn khắp thế giới đã đăng tải câu chuyện lạ kỳ có thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sanh. Cô đã nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Bernstein giúp lại tiền kiếp của mình. Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên cô Ruth Simmons đã thấy rõ từng giai đoạn thời gian mà cô đã trải qua nhất là từ năm 1 tuổi đến năm 10 tuổi. Cô mô tả tiền kiếp của mình một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước mình là một cô gái trẻ bình thường thuộc dòng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1898 cô lấy chồng. Người chồng tên là Brian Mac Carthy một giáo sư Luật. Nguyên quán của cô là Cork. Năm 1921 cô qua đời nhưng năm 1923 cô mới lại tái sanh vào làm người con gái thuộc dòng họ Simmons với tên là Ruth tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao cô qua đời năm 1921 nhưng tái sinh vào năm 1923 thì cô Ruth cho biết như sau: "Một người chết đi không chắc là được tái sinh liền mà đôi khi còn trải qua nhiều năm chờ đợi, điều kiện thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn, vì thế mà đôi khi có sự mất liên tục. Cô còn cho biết: Sau khi đã được an táng, tôi chưa thể đầu thai trở lại nên phải ở tình trạng dật dờ vô định, trạng thái mà con người thường gọi là ma".
Ruth Simmons về sau nổi tiếng, các nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc sách của người đàn bà nầy vì chính cô là người vừa nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu hình, vừa là người có kinh nghiệm về những gì liên quan với lãnh vực ấy.
Trường Hợp Người Con Gái Con Ông Cả Hiêu Ở Cà Mau (Việt Nam).
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã nêu lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng nầy được ghi lại trong cuốn Phật học Phổ Thông, xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990. Sau đây là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật nầy xảy ra tại làng Tân Việt ở Cà Mau (vùng Đầm Giơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ chồng và 3 người con. Người cha trong gia đình nầy là ông Cả Hiêu. Cô con gái trong gia đình được ông Hiêu cưng chìu nhưng trứng mỏng, nhưng không may, cô bị bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn, thương xót, ông Cả Hiêu thì như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu vì do sự trùng hợp nào đó, (mà sau nầy người trong hai vùng nầy mới tìm thấy thêm chi tiết), ở làn Tân Việt khoảng 100 cây số là làng Vĩnh Mỹ Bạc Liêu cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời. Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm thì bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại, làm mọi người vừa mừng vừa sợ, cô gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi là đau ốm bệnh hoạn cả. Điều lạ lùng là từ khi sống lại, cô gái nầy cứ một mực đòi người trong gia đình đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc nhiên vì không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu, người làng Tân Việt. Người nhà nghĩ rằng cô gái có lẽ bị ma nhập, quỉ ám, nên lo sợ, đi tìm thầy về cúng và trừ tà. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp cha mình và bảo rằng cô biết đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của mình, cuối cùng cha mẹ cô gái buộc lòng phải cùng đi theo chuyến xe đò đến làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư. Khi đến bến xe, mọi người xuống xe còn đang bở ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu thì cô gái nói: "Đừng có ngại, để con dẫn đường cho". Thế rồi khi đến cổng nhà ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Cô gái chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói: "Ba ơi, con đây ba ơi!". Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng kể lại chuyện con gái mình bị bệnh qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông còn chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là người đã ở đó lâu lắm rồi. Câu chuyện đã đến hồi kết thúc khi sự kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ mình và ông bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết mà ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó ai có thể biết rõ chuyện gia đình ông bà. Thế là hai gia đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mau, Bạc Liêu biết được một chuyện lạ lùng hãn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con gái của ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người làng Vĩnh Mỹ.
Trường Hợp Của Nhà Báo Ray Bryant (Anh Quốc).
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những bằng chứng của tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh, 44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì khoảng năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã tham dự nhiều trận đánh kinh hồn trong đó có trận Crimée vô cùng khủng khiếp. Đó là trận chiến dữ dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận nầy quân Anh bị quân Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã là một thời làm xôn xao nước Anh.
Lúc bấy giờ chính bộ quốc phòng Anh phải nhờ đến đại tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Đại tá nầy đã cùng với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha văn khố, quốc phòng bảo tàng viện chiến tranh, các thư viện quốc gia, các tài liệu xưa và đã đi đến kết luận là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của một trung sĩ tên là Reuben Stafford. Điều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh nầy còn cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ Stafford, đã chết ở Sebastopol thì trong tài liệu tìm được tại bảo tàng viện chiến tranh Anh quốc cũng có sự kiện nầy. Đó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì mà nhà báo Anh nầy đã mô tả vào thời đó: nào là chuyện gia đình, đời sống trong quân đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
Trường Hợp Của Bé Gái Jimmy Ở Canada.
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà nầy đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi rằng: tại sao không có gì mà chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
- Bà biết không? Chính người chết ấy đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó!
Những Bằng Chứng Về Tái Sinh Qua Những Trường Hợp Có Thật Đã Xảy Ra Khắp Nơi Trên Thế Giới:
Lịch sử về nguồn gốc của thuyết tái sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết nầy xuất hiện từ khởi thủy của nền văn minh nhân loại, như Đại Đức Dhammananda đã phát biểu, tuy nhiên trước đây thuyết nầy vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có tính cách tôn giáo mà thôi. Mãi đến sau nầy, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đã bắt đầu đi sâu vào lãnh vực tìm hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, phiêu linh và có khi còn gọi là mơ hồ nữa lại đã và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ thứ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lý, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo... Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong tìm được lời giải đáp cho vấn đề, vì khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng gì một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sanh mãi mãi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí tò mò của họ.
Trường Hợp Của Chính Nhà Nghiên Cứu Hiện Tượng Tái Sinh Ruth Simmons.
Paris Match là tạp chí có tiếng không những ở nước Pháp mà còn khắp thế giới đã đăng tải câu chuyện lạ kỳ có thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sanh. Cô đã nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Bernstein giúp lại tiền kiếp của mình. Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên cô Ruth Simmons đã thấy rõ từng giai đoạn thời gian mà cô đã trải qua nhất là từ năm 1 tuổi đến năm 10 tuổi. Cô mô tả tiền kiếp của mình một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước mình là một cô gái trẻ bình thường thuộc dòng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1898 cô lấy chồng. Người chồng tên là Brian Mac Carthy một giáo sư Luật. Nguyên quán của cô là Cork. Năm 1921 cô qua đời nhưng năm 1923 cô mới lại tái sanh vào làm người con gái thuộc dòng họ Simmons với tên là Ruth tại Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao cô qua đời năm 1921 nhưng tái sinh vào năm 1923 thì cô Ruth cho biết như sau: "Một người chết đi không chắc là được tái sinh liền mà đôi khi còn trải qua nhiều năm chờ đợi, điều kiện thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn, vì thế mà đôi khi có sự mất liên tục. Cô còn cho biết: Sau khi đã được an táng, tôi chưa thể đầu thai trở lại nên phải ở tình trạng dật dờ vô định, trạng thái mà con người thường gọi là ma".
Ruth Simmons về sau nổi tiếng, các nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc sách của người đàn bà nầy vì chính cô là người vừa nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu hình, vừa là người có kinh nghiệm về những gì liên quan với lãnh vực ấy.
Trường Hợp Người Con Gái Con Ông Cả Hiêu Ở Cà Mau (Việt Nam).
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đã nêu lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng nầy được ghi lại trong cuốn Phật học Phổ Thông, xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990. Sau đây là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật nầy xảy ra tại làng Tân Việt ở Cà Mau (vùng Đầm Giơi). Ở đây có một gia đình gồm hai vợ chồng và 3 người con. Người cha trong gia đình nầy là ông Cả Hiêu. Cô con gái trong gia đình được ông Hiêu cưng chìu nhưng trứng mỏng, nhưng không may, cô bị bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn, thương xót, ông Cả Hiêu thì như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu vì do sự trùng hợp nào đó, (mà sau nầy người trong hai vùng nầy mới tìm thấy thêm chi tiết), ở làn Tân Việt khoảng 100 cây số là làng Vĩnh Mỹ Bạc Liêu cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời. Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm thì bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại, làm mọi người vừa mừng vừa sợ, cô gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có gì gọi là đau ốm bệnh hoạn cả. Điều lạ lùng là từ khi sống lại, cô gái nầy cứ một mực đòi người trong gia đình đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc nhiên vì không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái thì cô cho biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu, người làng Tân Việt. Người nhà nghĩ rằng cô gái có lẽ bị ma nhập, quỉ ám, nên lo sợ, đi tìm thầy về cúng và trừ tà. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đòi đi gặp cha mình và bảo rằng cô biết đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của mình, cuối cùng cha mẹ cô gái buộc lòng phải cùng đi theo chuyến xe đò đến làng Tân Việt để tìm hiểu thực hư. Khi đến bến xe, mọi người xuống xe còn đang bở ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu thì cô gái nói: "Đừng có ngại, để con dẫn đường cho". Thế rồi khi đến cổng nhà ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Cô gái chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói: "Ba ơi, con đây ba ơi!". Hai vợ chồng ông Cả Hiêu còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra thì vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe. Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng kể lại chuyện con gái mình bị bệnh qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông còn chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là người đã ở đó lâu lắm rồi. Câu chuyện đã đến hồi kết thúc khi sự kiện đã rõ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ mình và ông bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó vì cô gái nói rõ những chi tiết mà ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó ai có thể biết rõ chuyện gia đình ông bà. Thế là hai gia đình kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mau, Bạc Liêu biết được một chuyện lạ lùng hãn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con gái của ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người làng Vĩnh Mỹ.
Trường Hợp Của Nhà Báo Ray Bryant (Anh Quốc).
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những bằng chứng của tiền kiếp. Theo đó thì Ray Bryant là nhà báo người Anh, 44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình rất rõ. Theo Ray Bryant thì khoảng năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đã tham dự nhiều trận đánh kinh hồn trong đó có trận Crimée vô cùng khủng khiếp. Đó là trận chiến dữ dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận nầy quân Anh bị quân Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đã là một thời làm xôn xao nước Anh.
Lúc bấy giờ chính bộ quốc phòng Anh phải nhờ đến đại tá John Bird đích thân tìm hiểu sự thật. Đại tá nầy đã cùng với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha văn khố, quốc phòng bảo tàng viện chiến tranh, các thư viện quốc gia, các tài liệu xưa và đã đi đến kết luận là câu chuyện không phải bịa đặt vì họ đã tìm thấy tên của một trung sĩ tên là Reuben Stafford. Điều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh nầy còn cho biết tiền kiếp của mình là trung sĩ Stafford, đã chết ở Sebastopol thì trong tài liệu tìm được tại bảo tàng viện chiến tranh Anh quốc cũng có sự kiện nầy. Đó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những gì mà nhà báo Anh nầy đã mô tả vào thời đó: nào là chuyện gia đình, đời sống trong quân đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
Trường Hợp Của Bé Gái Jimmy Ở Canada.
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà nầy đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi rằng: tại sao không có gì mà chuông nhà thờ đổ, thì bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
- Bà biết không? Chính người chết ấy đã thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó!
Bà Emma
ngạc nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
- Tại sao
con lại thốt lên những lời kỳ dị ấy?
Bé Jimmy
ngồi lên ghế rồi nói như phân trần:
- Để con kể cho bà nghe về chuyện một người cậu, ông cậu nầy là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người nầy bị đánh chết và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong gia đình bà có người đã bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xuống sông và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Điều cần lưu ý là gia đình dòng dõi của bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu, họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái sinh ấy thường quay lại trong gia đình dòng họ.
Trường Hợp Thai Nhi Có Dấu Tích Luân Hồi.
Câu chuyện có thật nầy xảy ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới ra đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ chồng rất buồn.Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời,bà Traveed lại chuyển bụng.Đây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gaí, con nào cũng được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khoẻ sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.Quả thật trời không phụ lòng họ,đúa con sinh ra lần nầy trông vui vẽ, khoẻ mạnh.Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Điều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ýtheo dõi là trên ngực Paulcó cái vết giống cái vết mà đứa cun thứ hai của bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa con đã chết nầy vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai nầy chết đi thì đứa co kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Travee làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Travee vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và nói:
- Anh ơi, xem nầy, thằng bé cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm nầy là gì? Có phải là dấu trước đây không? Hay là... Paul chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paul lại còn có thêm một vết thẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình đã thấy đó. Người chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paul rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đăng đẳng, Paul vẫn khỏe mạnh, ăn ngủ, học hành đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ lời nói của Paul lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paul thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại có những câu nói như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngõ vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã trước khi Paul ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paul:
- Tại sao con lại biết cây nầy vì lúc ba con đốn ngả nó thì con chưa ra đời mà?
Paul nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! Là tại vì cây nầy dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paul dằn từng tiếng rõ ràng:
- Trong số những đứa trộm ấy có đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Đứa bị đâm chết ấy tên là Jainqeville.
- Để con kể cho bà nghe về chuyện một người cậu, ông cậu nầy là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người nầy bị đánh chết và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong gia đình bà có người đã bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xuống sông và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Điều cần lưu ý là gia đình dòng dõi của bà Emma Michell là một gia đình kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu, họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái sinh ấy thường quay lại trong gia đình dòng họ.
Trường Hợp Thai Nhi Có Dấu Tích Luân Hồi.
Câu chuyện có thật nầy xảy ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới ra đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ chồng rất buồn.Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời,bà Traveed lại chuyển bụng.Đây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gaí, con nào cũng được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khoẻ sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.Quả thật trời không phụ lòng họ,đúa con sinh ra lần nầy trông vui vẽ, khoẻ mạnh.Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Điều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ýtheo dõi là trên ngực Paulcó cái vết giống cái vết mà đứa cun thứ hai của bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa con đã chết nầy vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai nầy chết đi thì đứa co kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Travee làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Travee vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và nói:
- Anh ơi, xem nầy, thằng bé cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm nầy là gì? Có phải là dấu trước đây không? Hay là... Paul chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paul lại còn có thêm một vết thẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình đã thấy đó. Người chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paul rõ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đăng đẳng, Paul vẫn khỏe mạnh, ăn ngủ, học hành đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ lời nói của Paul lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paul thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại có những câu nói như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngõ vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã trước khi Paul ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paul:
- Tại sao con lại biết cây nầy vì lúc ba con đốn ngả nó thì con chưa ra đời mà?
Paul nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! Là tại vì cây nầy dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paul dằn từng tiếng rõ ràng:
- Trong số những đứa trộm ấy có đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Đứa bị đâm chết ấy tên là Jainqeville.
Bà Traveed
vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paul dồn dập.
- Nầy con! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai? nói cho mẹ biết đi...
Paul nói như phân bua:
- Việc nầy đã xảy ra lâu rồi má à! Con biết rõ điều nầy. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc là ba dùng dao đâm Jainquevill chết gục nơi gốc cây ấy. Jainquevill có một vết sẹo ở bắp đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paul vẫn tiếp tục nói có vẻ hằn học:
- Con phải nói: vì đó là sự thật. Con cũng có vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paul đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rõ. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainquville đã nhập vào thân xác Paul để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paul thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông bà Traceed thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paul từ đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paul gì thế con, có việc gì xảy ra thế? Paul vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có chữ viết. Trong thư lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết Paul để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà lo sợ quá nói với Paul: Trời ơi! có chuyện gì xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu cả. Paul vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ, Sáng hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàn tỉnh dậy, bà không thấy Paul đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paul cũng không như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paul. Cánh cửa mở toang, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paul đều nằm chết dưới sàn nhà, máu lênh láng. Nơi ngược ông Traveed, con dao mà thằng Paul thường mân mê hàng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đã được tờ báo của Pháp tên là Revue des Deux Mondes đăng tải vào năm 1989 và mới đây được tác giả Thiện Nhựt lược thuật lại trong một đặc san Phật Đản xuất bản tại Hoa Kỳ.
Trường Hợp Cậu Bé George Fild.
George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ. Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những gì giống như mình đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh tên là Williams. Ông nầy yêu cầu được giúp George Gild khơi dậy các hình ảnh từ tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đã kể lại rất rành rọt những gì của tiền kiếp mình như sau:
- Lúc bấy giờ tôi là người dân vùng Bắc Carolina tôi là một nhà nông bận rộn đủ mọi thứ việc đồng áng. Trên tôi lúc đó là Jonathan Powell, cuộc sống thật buồn bã vô vị. Tôi sống lẻ loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh vào năm 1832 tại thị trấn Jefferson và 31 năm sau tức là vào 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào quân ngũ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi nhớ mãi những nơi tôi đã đi qua và nhất là vùng đồng cỏ Bắc Carolina hiu quạnh.
Nhà thôi miên Williams đã kiểm soát lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng những gì cậu bé mô tả đều đúng cả. Điều kiểm chứng lại rõ ràng hơn, nhà thôi minh đã cùng George Fild đến ngay thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong thị trấn, cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần nữa và lần nầy cậu bé còn nêu tên cả những địa danh trong thị trấn cùng những người có tiếng ở đó, đặc biệt, cậu bé còn mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá của thị trấn rõ ràng. Tất cả những gì George đã kể đều đã được nhà Địa phương chí hiện diện xác nhận là đúng. Ngoài ra cậu bé còn cho biết danh tánh của bà nội Jonathan là Mary Powell. Trong tài liệu còn lưu trữ tại nhà văn khố thì Mary Powell là một người đàn bà đã đứng tên mua một khu đất ở vùng Jefferson. Hồ sơ ghi năm 1803. Điểm đáng quan tâm là về sau, cậu bé George Fild có nhận được một lá thư của người trong dòng họ Jonathan Powell gởi đến kể lại rất chi tiết về cuộc đời sự nghiệp của Jonathan Powell. Trong thư có đoạn viết như sau: "Các tư liệu nầy được lưu giữ cẩn thận trong gia phả dòng họ tôi. Theo nhưng gì ghi trong gia phả thì ông Jonathan chính là ông của tôi và ông bị những người lính Mỹ giết năm 1963."
Trường Hợp Cậu Bé Nicola Khoảng năm 1800 tại thành phố Haworth Anh Quốc, có một gia đình mà người chồng tên là Benson. Hai vợ chồng Benson có hai người con gái và một người con trai. Người con trai tên là John Henry. Một hôm John Henry chạy băng qua đường rầy xe lửa thì bị xe lửa cán chết thê thảm. Sự kiện đáng thương tâm nầy rồi cũng theo thời gian mà xóa mờ dần. Nhưng không lâu sau đó, một gia đình ở vùng kế cận HaWorth có người đàn bà tên là Kathleen Wheaters, bà bày sinh hạ được một bé gái đặt tên là Nicola. Bé Nicola sống bình thường như bao nhiêu bé khác nhưng điều lạ lùng là lúc lên 5 tuổi. Nicola có cử chỉ và lời nói chững chạc giống như người lớn. Vào một buổi trưa, bé Nicola đang ngồi chơi với mẹ bỗng nhiên bé hỏi một câu:
- Nầy con! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai? nói cho mẹ biết đi...
Paul nói như phân bua:
- Việc nầy đã xảy ra lâu rồi má à! Con biết rõ điều nầy. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc là ba dùng dao đâm Jainquevill chết gục nơi gốc cây ấy. Jainquevill có một vết sẹo ở bắp đùi.
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paul vẫn tiếp tục nói có vẻ hằn học:
- Con phải nói: vì đó là sự thật. Con cũng có vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paul đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rõ. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainquville đã nhập vào thân xác Paul để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paul thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông bà Traceed thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paul từ đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paul gì thế con, có việc gì xảy ra thế? Paul vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có chữ viết. Trong thư lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết Paul để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà lo sợ quá nói với Paul: Trời ơi! có chuyện gì xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu cả. Paul vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ, Sáng hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàn tỉnh dậy, bà không thấy Paul đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paul cũng không như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paul. Cánh cửa mở toang, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paul đều nằm chết dưới sàn nhà, máu lênh láng. Nơi ngược ông Traveed, con dao mà thằng Paul thường mân mê hàng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đã được tờ báo của Pháp tên là Revue des Deux Mondes đăng tải vào năm 1989 và mới đây được tác giả Thiện Nhựt lược thuật lại trong một đặc san Phật Đản xuất bản tại Hoa Kỳ.
Trường Hợp Cậu Bé George Fild.
George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ. Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những gì giống như mình đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh tên là Williams. Ông nầy yêu cầu được giúp George Gild khơi dậy các hình ảnh từ tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đã kể lại rất rành rọt những gì của tiền kiếp mình như sau:
- Lúc bấy giờ tôi là người dân vùng Bắc Carolina tôi là một nhà nông bận rộn đủ mọi thứ việc đồng áng. Trên tôi lúc đó là Jonathan Powell, cuộc sống thật buồn bã vô vị. Tôi sống lẻ loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh vào năm 1832 tại thị trấn Jefferson và 31 năm sau tức là vào 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào quân ngũ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi nhớ mãi những nơi tôi đã đi qua và nhất là vùng đồng cỏ Bắc Carolina hiu quạnh.
Nhà thôi miên Williams đã kiểm soát lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng những gì cậu bé mô tả đều đúng cả. Điều kiểm chứng lại rõ ràng hơn, nhà thôi minh đã cùng George Fild đến ngay thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong thị trấn, cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần nữa và lần nầy cậu bé còn nêu tên cả những địa danh trong thị trấn cùng những người có tiếng ở đó, đặc biệt, cậu bé còn mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá của thị trấn rõ ràng. Tất cả những gì George đã kể đều đã được nhà Địa phương chí hiện diện xác nhận là đúng. Ngoài ra cậu bé còn cho biết danh tánh của bà nội Jonathan là Mary Powell. Trong tài liệu còn lưu trữ tại nhà văn khố thì Mary Powell là một người đàn bà đã đứng tên mua một khu đất ở vùng Jefferson. Hồ sơ ghi năm 1803. Điểm đáng quan tâm là về sau, cậu bé George Fild có nhận được một lá thư của người trong dòng họ Jonathan Powell gởi đến kể lại rất chi tiết về cuộc đời sự nghiệp của Jonathan Powell. Trong thư có đoạn viết như sau: "Các tư liệu nầy được lưu giữ cẩn thận trong gia phả dòng họ tôi. Theo nhưng gì ghi trong gia phả thì ông Jonathan chính là ông của tôi và ông bị những người lính Mỹ giết năm 1963."
Trường Hợp Cậu Bé Nicola Khoảng năm 1800 tại thành phố Haworth Anh Quốc, có một gia đình mà người chồng tên là Benson. Hai vợ chồng Benson có hai người con gái và một người con trai. Người con trai tên là John Henry. Một hôm John Henry chạy băng qua đường rầy xe lửa thì bị xe lửa cán chết thê thảm. Sự kiện đáng thương tâm nầy rồi cũng theo thời gian mà xóa mờ dần. Nhưng không lâu sau đó, một gia đình ở vùng kế cận HaWorth có người đàn bà tên là Kathleen Wheaters, bà bày sinh hạ được một bé gái đặt tên là Nicola. Bé Nicola sống bình thường như bao nhiêu bé khác nhưng điều lạ lùng là lúc lên 5 tuổi. Nicola có cử chỉ và lời nói chững chạc giống như người lớn. Vào một buổi trưa, bé Nicola đang ngồi chơi với mẹ bỗng nhiên bé hỏi một câu:
- Mẹ ơi!
Con đâu phải là con gái? Con là con trai mà? Trước đây con là John Henry, mẹ
con là bà Benson rất mộ đạo và hay đi nhà thờ. Ba con là thợ đường rầy xe lửu.
Con bị xe lưu cán chết và bây giờ con trở thành bé Nicola của mẹ. Tại sao mẹ
không dẫn con đến nơi mà trước đây con đã ở. Con biết ngôi nhà đó mà.
Bà Kathleen nghe con nói rất kinh ngạc cứ tưởng Nicola nói mê sảng nên sợ lắm. Nhưng Nicola cứ thỉnh thoảng lại nêu lên câu hỏi tương tự khiến bà Kathleen quyết định tìm thử thật hư. Hai tháng sau, bà cùng Nicola đến Haworth để dò la tin tức về gia đình nhà Benson. May mắn là bà Kathleen có quen biết với một vị chức sắc torng Đạo Cơ Đốc nên nhờ nhà thờ chính cổ xưa ở Harworth lục lại hồ sơ và biết được gia đình Benson có ba người con nhưng có một người con bị tai nạn xe lửa mà qua đời. Người con ấy là John Henry.
Trường Hợp Của Bé Gái Manju Sharma Đây là một trường hợp tái sinh khá lạ lùng. Câu chuyện có thật nầy do bác sì Pasricha thuật lại như sau:
Manju Sharma là một cô gái Ấn Độ, sinh ra và lớn lên ở tại thành phố Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju Sharma thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ đời mình mà là những gì đã xảy ra ở kiếp trước. Manju kể như sau:
"Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh mình bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi tên là Krishna chớ không phải là Manju Sharma như bây giờ. Tôi đã tái sinh trở lại.
Tôi đã gặp chú tôi, người chú tiền kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất lâu với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếng thương vô cùng. Tuy không tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người mẹ tiền kiếp của tôi gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nỗi bất hành đã đến trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi nghe tôi nhắc đến Kishna. Tôi ngỏ ý muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi được thỏa mãn và tôi đã trải qua mười năm sống với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung vì hai người luôn luôn nhìn tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.
Bà Kathleen nghe con nói rất kinh ngạc cứ tưởng Nicola nói mê sảng nên sợ lắm. Nhưng Nicola cứ thỉnh thoảng lại nêu lên câu hỏi tương tự khiến bà Kathleen quyết định tìm thử thật hư. Hai tháng sau, bà cùng Nicola đến Haworth để dò la tin tức về gia đình nhà Benson. May mắn là bà Kathleen có quen biết với một vị chức sắc torng Đạo Cơ Đốc nên nhờ nhà thờ chính cổ xưa ở Harworth lục lại hồ sơ và biết được gia đình Benson có ba người con nhưng có một người con bị tai nạn xe lửa mà qua đời. Người con ấy là John Henry.
Trường Hợp Của Bé Gái Manju Sharma Đây là một trường hợp tái sinh khá lạ lùng. Câu chuyện có thật nầy do bác sì Pasricha thuật lại như sau:
Manju Sharma là một cô gái Ấn Độ, sinh ra và lớn lên ở tại thành phố Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju Sharma thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ đời mình mà là những gì đã xảy ra ở kiếp trước. Manju kể như sau:
"Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh mình bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi tên là Krishna chớ không phải là Manju Sharma như bây giờ. Tôi đã tái sinh trở lại.
Tôi đã gặp chú tôi, người chú tiền kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất lâu với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếng thương vô cùng. Tuy không tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người mẹ tiền kiếp của tôi gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nỗi bất hành đã đến trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi nghe tôi nhắc đến Kishna. Tôi ngỏ ý muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi được thỏa mãn và tôi đã trải qua mười năm sống với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung vì hai người luôn luôn nhìn tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.
Bác sĩ
Pasricha và một số nhà khoa học Ấn Độ đã đến gặp Manju lúc đó Manju đã là một
người đàn bà có chồng và đã có 2 con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối
với Manju ra sao thì ông nầy cho biết như sau:
- Chúng tôi gọi Manju là Kishna Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất thuận hòa.
Theo bác sĩ Pasricha thì Manju là con gái trong một gia đình người Bà La Môn (Brahmin) là một người đẳng cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tấp cấp ở Ấn Độ và một thời vượt lên trên các tập cấp khác (theo Will Durang) trong xã hội Ấn. Nhưng Manju lại chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều. Như vậy không thể nào nghĩ rằng trường hợp Mánju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình được vì thông thường nghèo thường muốn tìm đến nơi người giàu. Ở đây, trường hợp của Manju thì ngược lại.
Trường Hợp Tái Sinh Của Sudeih Babu Tại thành phố Baranes (Balanại) thuộc xứ Ấn Độ (lúc bấy giờ Ấn Độ là thuộc địa của người Anh) có nhiều nhà chiêm tinh, nhiều Đạo sĩ nhiều vị chân tu nhưng nổi tiếng nhất về lãnh vực chiêm tinh, ngoài Bhrigu ra, kế đến phải kể Sudeih Babu. Sudeih Babu là một nhà hiền triến cũng là một nhà chiêm tinh lừng danh của Ấn Độ. Dân chúng Ấn, nhất là người Ấn Độ giáo đã xem Sudeih Babu như một vị Thánh Sống. Ông thường ngày xem sách cổ và tĩnh tọa trong một ngôi nhà nhiều phòng với hàng vạn cuốn sách cổ bí truyền. Chính vào thời đó một phái đoàn khoa học gia người Anh Gồm các giáo sư tiến sĩ đến xin gặp ông và đã nghe ông thuyết giảng về mọi vấn đề thuộc lãnh vực khoa học, kỹ thuật, sinh vật tự nhiên và các hiện tượng siêu nhiên, chính Sudeih Babu đã tiên đoán rằng từ năm 1957 trở đi thế giới vẫn tưởng rằng chủ nghĩa duy vật sẽ phát triển bành trướng khắp nơi. Nhưng sự thật, thuyết duy vật chỉ cực thịnh vào thời kỳ đầu và giữa của thế kỷ 20 mà thôi. Dần dần phong Duy tâm lại bắt đầu nở rộ hơn và đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Duy vật sẽ hoàn toàn sụp đổ khi đó những gì thuộc về Tâm linh sẽ nẩy nở và phát triển nhanh. Nhiều nhà khoa học đã quay về nghiên cứu các hiện tượng siêu hình với tinh thần hăng say thẳng thắn vì theo Sudeih Babu thì những nhà khoa học nầy chính là những hạt giống đang được gieo để sau nảy mầm đơm hoa kết quả phát tán khắp thế giới. Cũng theo nhà chiêm tinh nầy thì trong vòng 25 năm cuối thế kỷ 20 (kể từ năm 1975) thế giới sẽ có nhiều thay đổi lớn.
Sudeih Babu ngoài tài tiên tri ông còn là người cứu giúp vô số những người cùng khổ ở Ấn Độ bằng nhiều phương các khác nhau theo những tài liệu và những lời truyền khẩu thì Sudeih Babu đã từng làm nhiều phép lạ. Ông còn biết trước ngày qua đời và ghi rõ từng ngày giờ tháng năm và những gì ông căn dặn mọi người sau khi ông mất. Vị Thánh Sống Sudeih Babu đã viên tịch đúng vào năm ông loan báo truớc, đó là năm 1918. Lời di chúc của ông là Dân tộc Ấn nên đoàn kết và nếu cần, nên hợp nhất tôn giáo. Ông cho hay: đất nước Ấn Độ sẽ còn nhiều xáo trộn và đau khổ, nạn đó và sự phân chia giai cấp, kỳ thị tôn giáo còn nhiều và sẽ có nhiều xô xát đẫm máu xảy ra. Ông khẳng định với các tín đồ Ấn Độ giáo rằng sẽ tái sinh vào năm 1926.
Thời gian trôi qua, lời di chúc như chìm dần vào quên lãng. Nhưng thời gian vẫn tiến và năm 1926 nhằm ngày 23 tháng 11, có một cháu bé chào đời tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, cháu được đặt tên là Satyanarayana Raju cháu bé mạnh khỏe không đau ốm gì. Sau khi bỏ bú sữa cháu lớn nhanh nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chịu ăn thịt. Tuy còn nhỏ nhưng dáng dấp của chỉ của Raju giống người lớn, thường có vẻ đăm chiêu, tư lự và thích chơi một mình. Mỗi lần trông thấy người ăn xin qua đường là Raju vội vã chạy ra dẫn vào nhà lấy cơm cho ăn. Càng lớn Raju càng thích đến lễ bái ở các đền thờ và cung cách hành lễ rất rành rẽ mặc dù chưa học qua lần nào, điều nầy đã khiến cha mẹ Raju và ngáy các bà con bạn bè cũng lấy làm kinh ngạc. Dân chúng quanh vùng đều bắt đầu bàn tán về chú bé lạ lùng Raju. Thế rồi việc gì đến sẽ đến... năm Satyanarayana Raju đúng 13 tuổi bỗng có một sự kiện lạ lùng xảy ra. Câu bé đang ngồi suy tư thì bỗng nhiên vụt kêu thét lên một tiếng lớn rổi lại đi đứng tự nhiên như không có gì xảy ra. Người nhà lo sợ hỏi nguyên do thì chú bé chỉ lắc đầu im lặng. Qua đến chiều hôm sau, bỗng nhiên chú bé té xuống đất bất tỉnh nhân sự. Gia đình lo việc chạy chữa đến gần khuya chú bé Raju mới tỉnh lại. Lần nầy Raju có vẻ ngỡ ngàng xa lạ. Mọi việc quá khứ Raju đều không nhớ. Ngay cả đồ vật dùng hàng ngày cũng không biết để đâu. Rõ ràng lần nầy Raju đã là con người khác, chỉ có thể xác hình hài là của Raju mà thôi. Từ ngày đó trở đi, người nhà chứng kiến chuyện lạ nầy đến chuyện lạ khác nào Raju hát những bài hát xa xưa lạ lùng hay đọc những câu kinh dài và khó đọc. Đặc biệt nhiều khi Raju yêu cầu cả nhà ngồi quanh mình để nghe thuyết giảng những bài kinh bằng tiếng Phạn, thứ tiếng mà ngay cả cha mẹ Raju cũng công nhận là rất khó thì làm sao Raju đọc được? Cha mẹ sợ cậu bé bị ma nhập nên tìm thầy hóa giải nhưng mọi cố gắng đều vô hiệu. Trong khi đó, càng ngày cậu bé Raju vàng có nhiều hành động lạ lùng hơn nữa. Rồi vào một buổi trưa đứng bóng, cậu bé Raju bước ra sân, dang 2 tay rộng ra như hít thở dưỡng khí và chậm rãi tuyên bố:
- Tôi không phải là Satyanarayana Raju, tôi chính là Sudeih Babu.
Sau đó, để mọi người tin chắc mình là hóa thân của Sudeih Babu, Raju đã mô tả những gì mà trước kia mình đã sống như cảnh tượng thành phố Ben nares, ngôi nhà nhiều phòng của vị thánh sống, các tủ gỗ đầy ắp sách cổ, tên tuổi nhưng người nổi tiếng vào lúc đó nhất là đọc lại lời di chúng mà Sudeih Babu đã viết trước khi qua đời vào năm 1918... Và hình như để tăng cường cho niềm tin của mọi người, vị thánh sống nầy đã dùng tay không lấy từ không khí ra nhiều đồ vật và yêu cầu mọi người lần lượt nêu tên những thứ mình ưa thích để ông biếu tặng cũng bằng cách lấy từ không khí ra. Chính các ảo thuật gia nổi danh thế giới khi nghe tiếng của Babu đã không ngại xa xôi tốn kém tìm đến để quan sát và tìm hiểu vì họ nghĩ rằng Babu cũng chỉ là một ảo thuật gia và đã áp dụng một phương cách biểu diễn khác lạ nào đó mà họ cần phải đến quan sát tận mắt để phê phán hay học hỏi. Tuy nhiên, khi đối diện trước con người kỳ lạ đó, những nhà ảo thuật đã phải lắc đầu thán phục vì dù họ có tài ba điệu nghệ trong màn trình diễn lấy đồ vật từ không khí thì họ cũng chỉ giới hạn trong vài thứ mà họ đã định sẵn. Còn riêng Sudeih Babu (tức là Raju hóa thân) thì có thể lấy bất cứ thứ gì mà người khác yêu cầu. Có lần giữa đám đông người có một Fakir tỏ ý thách thức nên yêu câu Babu hãy lấy từ không khí ra cho mình một thứ đồ vật trong vòng 5 phút. Babu đưa tay ra lấy từ không khí ra một nắm đinh sắt và vui vẻ nói:
"Đây là vật ông bị thiếu chứ không phải bị mất, tất cả 5 cái đinh và ở bàn chông của ông".
Vị Fakir giật mình khiếp sợ vì quả thật ông đang kiếm vật đó. Hiện nay qua thân xác Satyanarayana Raju, Sudeih Babu đã có hàng triệu tín đồ theo ông. Ông có tài tiên tri và thường nhắdc nhở các tín đồ làm việc thiện cứu giúp người cùng khổ. Ông thường dùng đôi tay chữa bệnh nan y cho nhiều bệnh nhân và nhiều tín đồ còn cho biết có lần một người chết đuối quá lâu, bác sĩ vô phương cứu chữa, ông nghe tin vôi vã đến bên giường xoa nắn lưng ngực và mũi người chết, chỉ trong 15 phút người ấy cựa quậy thở ra hơi và sống lại. Những sự kiện về Raju đã làm sôi nổi dư luận Ấn và cả thế giới. Nhiều khoa học gia đã tìm đến quan sát, nghiên cứu và hầu hết đều cho rằng: "Đây là vấn đề vượt khỏi lằn ranh của khoa học thực nghiệm" Chính Colin wilson, một người luôn tìm tòi nghiên cứu những vấn đề khúc mắc cũng đã viết như sau:
- Chúng tôi gọi Manju là Kishna Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất thuận hòa.
Theo bác sĩ Pasricha thì Manju là con gái trong một gia đình người Bà La Môn (Brahmin) là một người đẳng cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tấp cấp ở Ấn Độ và một thời vượt lên trên các tập cấp khác (theo Will Durang) trong xã hội Ấn. Nhưng Manju lại chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều. Như vậy không thể nào nghĩ rằng trường hợp Mánju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình được vì thông thường nghèo thường muốn tìm đến nơi người giàu. Ở đây, trường hợp của Manju thì ngược lại.
Trường Hợp Tái Sinh Của Sudeih Babu Tại thành phố Baranes (Balanại) thuộc xứ Ấn Độ (lúc bấy giờ Ấn Độ là thuộc địa của người Anh) có nhiều nhà chiêm tinh, nhiều Đạo sĩ nhiều vị chân tu nhưng nổi tiếng nhất về lãnh vực chiêm tinh, ngoài Bhrigu ra, kế đến phải kể Sudeih Babu. Sudeih Babu là một nhà hiền triến cũng là một nhà chiêm tinh lừng danh của Ấn Độ. Dân chúng Ấn, nhất là người Ấn Độ giáo đã xem Sudeih Babu như một vị Thánh Sống. Ông thường ngày xem sách cổ và tĩnh tọa trong một ngôi nhà nhiều phòng với hàng vạn cuốn sách cổ bí truyền. Chính vào thời đó một phái đoàn khoa học gia người Anh Gồm các giáo sư tiến sĩ đến xin gặp ông và đã nghe ông thuyết giảng về mọi vấn đề thuộc lãnh vực khoa học, kỹ thuật, sinh vật tự nhiên và các hiện tượng siêu nhiên, chính Sudeih Babu đã tiên đoán rằng từ năm 1957 trở đi thế giới vẫn tưởng rằng chủ nghĩa duy vật sẽ phát triển bành trướng khắp nơi. Nhưng sự thật, thuyết duy vật chỉ cực thịnh vào thời kỳ đầu và giữa của thế kỷ 20 mà thôi. Dần dần phong Duy tâm lại bắt đầu nở rộ hơn và đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Duy vật sẽ hoàn toàn sụp đổ khi đó những gì thuộc về Tâm linh sẽ nẩy nở và phát triển nhanh. Nhiều nhà khoa học đã quay về nghiên cứu các hiện tượng siêu hình với tinh thần hăng say thẳng thắn vì theo Sudeih Babu thì những nhà khoa học nầy chính là những hạt giống đang được gieo để sau nảy mầm đơm hoa kết quả phát tán khắp thế giới. Cũng theo nhà chiêm tinh nầy thì trong vòng 25 năm cuối thế kỷ 20 (kể từ năm 1975) thế giới sẽ có nhiều thay đổi lớn.
Sudeih Babu ngoài tài tiên tri ông còn là người cứu giúp vô số những người cùng khổ ở Ấn Độ bằng nhiều phương các khác nhau theo những tài liệu và những lời truyền khẩu thì Sudeih Babu đã từng làm nhiều phép lạ. Ông còn biết trước ngày qua đời và ghi rõ từng ngày giờ tháng năm và những gì ông căn dặn mọi người sau khi ông mất. Vị Thánh Sống Sudeih Babu đã viên tịch đúng vào năm ông loan báo truớc, đó là năm 1918. Lời di chúc của ông là Dân tộc Ấn nên đoàn kết và nếu cần, nên hợp nhất tôn giáo. Ông cho hay: đất nước Ấn Độ sẽ còn nhiều xáo trộn và đau khổ, nạn đó và sự phân chia giai cấp, kỳ thị tôn giáo còn nhiều và sẽ có nhiều xô xát đẫm máu xảy ra. Ông khẳng định với các tín đồ Ấn Độ giáo rằng sẽ tái sinh vào năm 1926.
Thời gian trôi qua, lời di chúc như chìm dần vào quên lãng. Nhưng thời gian vẫn tiến và năm 1926 nhằm ngày 23 tháng 11, có một cháu bé chào đời tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, cháu được đặt tên là Satyanarayana Raju cháu bé mạnh khỏe không đau ốm gì. Sau khi bỏ bú sữa cháu lớn nhanh nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chịu ăn thịt. Tuy còn nhỏ nhưng dáng dấp của chỉ của Raju giống người lớn, thường có vẻ đăm chiêu, tư lự và thích chơi một mình. Mỗi lần trông thấy người ăn xin qua đường là Raju vội vã chạy ra dẫn vào nhà lấy cơm cho ăn. Càng lớn Raju càng thích đến lễ bái ở các đền thờ và cung cách hành lễ rất rành rẽ mặc dù chưa học qua lần nào, điều nầy đã khiến cha mẹ Raju và ngáy các bà con bạn bè cũng lấy làm kinh ngạc. Dân chúng quanh vùng đều bắt đầu bàn tán về chú bé lạ lùng Raju. Thế rồi việc gì đến sẽ đến... năm Satyanarayana Raju đúng 13 tuổi bỗng có một sự kiện lạ lùng xảy ra. Câu bé đang ngồi suy tư thì bỗng nhiên vụt kêu thét lên một tiếng lớn rổi lại đi đứng tự nhiên như không có gì xảy ra. Người nhà lo sợ hỏi nguyên do thì chú bé chỉ lắc đầu im lặng. Qua đến chiều hôm sau, bỗng nhiên chú bé té xuống đất bất tỉnh nhân sự. Gia đình lo việc chạy chữa đến gần khuya chú bé Raju mới tỉnh lại. Lần nầy Raju có vẻ ngỡ ngàng xa lạ. Mọi việc quá khứ Raju đều không nhớ. Ngay cả đồ vật dùng hàng ngày cũng không biết để đâu. Rõ ràng lần nầy Raju đã là con người khác, chỉ có thể xác hình hài là của Raju mà thôi. Từ ngày đó trở đi, người nhà chứng kiến chuyện lạ nầy đến chuyện lạ khác nào Raju hát những bài hát xa xưa lạ lùng hay đọc những câu kinh dài và khó đọc. Đặc biệt nhiều khi Raju yêu cầu cả nhà ngồi quanh mình để nghe thuyết giảng những bài kinh bằng tiếng Phạn, thứ tiếng mà ngay cả cha mẹ Raju cũng công nhận là rất khó thì làm sao Raju đọc được? Cha mẹ sợ cậu bé bị ma nhập nên tìm thầy hóa giải nhưng mọi cố gắng đều vô hiệu. Trong khi đó, càng ngày cậu bé Raju vàng có nhiều hành động lạ lùng hơn nữa. Rồi vào một buổi trưa đứng bóng, cậu bé Raju bước ra sân, dang 2 tay rộng ra như hít thở dưỡng khí và chậm rãi tuyên bố:
- Tôi không phải là Satyanarayana Raju, tôi chính là Sudeih Babu.
Sau đó, để mọi người tin chắc mình là hóa thân của Sudeih Babu, Raju đã mô tả những gì mà trước kia mình đã sống như cảnh tượng thành phố Ben nares, ngôi nhà nhiều phòng của vị thánh sống, các tủ gỗ đầy ắp sách cổ, tên tuổi nhưng người nổi tiếng vào lúc đó nhất là đọc lại lời di chúng mà Sudeih Babu đã viết trước khi qua đời vào năm 1918... Và hình như để tăng cường cho niềm tin của mọi người, vị thánh sống nầy đã dùng tay không lấy từ không khí ra nhiều đồ vật và yêu cầu mọi người lần lượt nêu tên những thứ mình ưa thích để ông biếu tặng cũng bằng cách lấy từ không khí ra. Chính các ảo thuật gia nổi danh thế giới khi nghe tiếng của Babu đã không ngại xa xôi tốn kém tìm đến để quan sát và tìm hiểu vì họ nghĩ rằng Babu cũng chỉ là một ảo thuật gia và đã áp dụng một phương cách biểu diễn khác lạ nào đó mà họ cần phải đến quan sát tận mắt để phê phán hay học hỏi. Tuy nhiên, khi đối diện trước con người kỳ lạ đó, những nhà ảo thuật đã phải lắc đầu thán phục vì dù họ có tài ba điệu nghệ trong màn trình diễn lấy đồ vật từ không khí thì họ cũng chỉ giới hạn trong vài thứ mà họ đã định sẵn. Còn riêng Sudeih Babu (tức là Raju hóa thân) thì có thể lấy bất cứ thứ gì mà người khác yêu cầu. Có lần giữa đám đông người có một Fakir tỏ ý thách thức nên yêu câu Babu hãy lấy từ không khí ra cho mình một thứ đồ vật trong vòng 5 phút. Babu đưa tay ra lấy từ không khí ra một nắm đinh sắt và vui vẻ nói:
"Đây là vật ông bị thiếu chứ không phải bị mất, tất cả 5 cái đinh và ở bàn chông của ông".
Vị Fakir giật mình khiếp sợ vì quả thật ông đang kiếm vật đó. Hiện nay qua thân xác Satyanarayana Raju, Sudeih Babu đã có hàng triệu tín đồ theo ông. Ông có tài tiên tri và thường nhắdc nhở các tín đồ làm việc thiện cứu giúp người cùng khổ. Ông thường dùng đôi tay chữa bệnh nan y cho nhiều bệnh nhân và nhiều tín đồ còn cho biết có lần một người chết đuối quá lâu, bác sĩ vô phương cứu chữa, ông nghe tin vôi vã đến bên giường xoa nắn lưng ngực và mũi người chết, chỉ trong 15 phút người ấy cựa quậy thở ra hơi và sống lại. Những sự kiện về Raju đã làm sôi nổi dư luận Ấn và cả thế giới. Nhiều khoa học gia đã tìm đến quan sát, nghiên cứu và hầu hết đều cho rằng: "Đây là vấn đề vượt khỏi lằn ranh của khoa học thực nghiệm" Chính Colin wilson, một người luôn tìm tòi nghiên cứu những vấn đề khúc mắc cũng đã viết như sau:
"Raju
là hiện thân của vị Thánh Sống Ấn Độ"
Trường Hợp Của Michael Wright Walter Miller là một thanh niên bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin bất tỉnh mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày suốt đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đêm liên cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đức trước mặt cô nét mặt hớn hở và nói: "Em à! anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ vì không bao giờ người yêu của cô lại có thể trở về với cô lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ biết bao lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Michael Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi nó trở nên khôn ngoan lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Michael nói: "Con chính là Walter Miller. Các đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vỡ tan..." Sau đó, Michael kể hết tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Michael) và còn nói rõ ràng tên người em gái của Walter Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành phố mà Walter Miller đã cùng bạn người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lại xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện nầy đã được tác giả Quỳnh Châu lược thuật trong Tiền Phong (1991 Hoa Kỳ).
Trong cuốn Have We lived beford của Linda Atkinson, vị nữ giáo sư triết học nầy đã nêu lên một số bằng chứng về sự kiện luân hồi tái sinh (tác giả Nguyên Minh đã dịch lại năm 1995 do hội Phật học Quan Âm ở Canada ấn hành). Chúng tôi xin tóm lược 5 trường hợp tái sinh có thật như sau:
Trường Hợp Bà Bridey Murphy Nhà thôi miên nổi tiếng Monrey Bernstein đã dùng phương pháp thôi miên để dẫn dụ bà Virgina Tighe đi vào giấc ngủ và tìm về quá khứ xa xăm của mình. Bà Virgina Tighe là một người đàn bà trẻ đẹp thông minh, sáng trí. Qua giấc ngủ thôi miên bà đã nhớ lại một tiền kiếp của mình lúc đó bà là một cô gái trẻ tên là Bridey Murphy. Cô là người Ái Nhĩ Lan, sinh năm 1798 tại Cork. cha cô tên là Duncan Murphy và mẹ tên là Kathleen. Cô có một người anh cũng có tên là Duncan. Vào thời đó gia đình Bridey sống hạnh phúc trong một căn nhà gỗ xinh xắn. Về sau Bridey lấy chồng. Người chồng là một luận sư tên là Brian Mc Carthy. Cả hai đến Belfast sinh sống. Số phận không may, Bridey qua đời khiến người chồng đau khổ không nguôi. Qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe cho biết rằng: "Lúc bấy giờ tôi (Bridey Murphy) tuy đã chết nhưng linh hồn tôi vẫn lẫn quất trong nhà, ở ngay đấy với Brian một thời gian nên biết Brian đau khổ vì nhớ thương tôi nhưng anh ta lại chẳng bao giờ thấy được tôi. Tôi cũng trở về Cork thăm anh tôi, tôi ở ngay bên cạnh anh ấy, nói chuyện với anh ấy nhưng anh ta chẳng thấy tôi và chẳng nghe được tôi nói.
Nhà thôi miên Morey Bernstein đã đưa bà Virginia Tighe vào giấc ngủ thôi miên nhiều lần nữa. Ông đã ghi âm lại tất cả những lời kể của bà. Và hỏi ý kiến những nhà luật sư, bác sĩ, giáo sư, ký giả về trường hợp lạ lùng nầy bằng cách để những người nầy nghe những lời kể của bà Virginia Tighe về tiền kiếp của mình qua các cuộn băng ghi âm lại. Sau đó, nhà thôi miên Morey quyết định viết một cuốn sách về trường hợp Virginia và Bridey Murphy. Để cuốn sách có giá trị trung thực chớ không phải là viết chuyện bịa đặt, một nhà xuất bản đã đứng ra lãnh nhiệm vụ kiểm chứng sự việc. Nhà xuất bản nầy đã liên lạc với các cơ sở có liên hệ trong việc kiểm chứng sự kiện và hợp tác với một số nhân vật đáng tin cậy khác ở Ái Nhĩ Lan, như thư viện để kiểm tra về nhân vật Bridey Murphy cùng những sự kiện cùng liên quan mà qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe kể lại rõ ràng.
Kết quả cho biết rằng các tài liệu sổ bộ ở Cork ghi rõ năm 1800 có luật sư tên John Mc Carthy làm việc ở đó. Ngoài ra trong cuốn niên giám có ghi tên 2 tiệm tạp hóa mà qua giấc ngủ thôi miên bà Virginia có nhắc đến. Đó là tiệm tạp hóa ở Belfast tên là Fari's và một tiệm tên là John Carrigan's. Về những địa danh khác mà bà Virginia nhắc đến qua giấc ngủ thôi miên thì phần lớn đều được xác nhận là đúng.
Cuốn sách do nhà thôi miên Morey viết nhan đề là The Search for Bridey Murphy lúc bấy giờ (khoảng thập niên 1950) được coi là sách bán chạy nhất. Các báo chí đua nhau đăng tải và bình luận về chuyện lạ của Virginia Tighe, người đã nhớ lại tiền kiếp mình. Hồi đó tại Hoa Kỳ, phát sinh hai phe, một phe chống đối, bài bác, một phe bênh vực, ủng hộ mạnh mẽ về chuyện bà Virginia Tighe và cho hiên tượng tái sinh là có thật. Chuyện tái sinh của bà Virginia mới đây còn được đăng tải lại trong cuốn The People's Almanac của David Wallechinsky và Irving Wallace Battaw Books xuất bản.
Trường Hợp Của Hai Người Không Quen Biết Nhau: Phil và Ann Đây là một trường hợp ngẫu nhiên, lạ lùng đã xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai người chưa từng quen biết nhau bao giờ, một người tên là Phil một người kia tiên là Ann.
Một hôm Phil lái xe hơi đến Maliba thì bị lạc đường. Phil còn đang ngơ ngác thí thấy một người đang đứng bên lề phố nên dừng xe hỏi thăm. Mặc dầu người nầy không biết rõ đường để chỉ vì thật ra cô ta không phải là dân ở đây nhưng vào lúc nầy tự nhiên Phil không quan tâm nhiều vào chuyện lạc đường nữa vì hai người tự nhiên cảm thấy cảm tình với nhau ngay mặc dầu mới gặp nhau lần đầu. Cô gái tự giới thiệu tên là Ann. Họ rủ nhau đi chơi đến chiều thì chia tay Phil về Los Angeles còn Ann thì về Monterey. Hai người lại gặp nhau và tuần kế tiếp, lần nầy, trước khi chia tay Ann buồn rầu bảo rằng nàng sẽ về trường học tại tiển bang Arizona. Hai người đều buồn bả và họ thấy thật sự đã thương yêu nhau rất nhiều, một thứ tình cảm lạ lùng đồng điệu giữa hai người thật hiếm thấy trên đời, đặc biệt họ có cảm tưởng lạ lùng như đã quen biết nhau từ thuở nào rồi và họ cảm tấhy bằng mọi cách phải sống bên nhau...
Thế rồi trong giấc mơ tự nhiên Phil thấy Ann xuất hiện. Trong mơ rõ ràng Phil và Ann sống vui vẻ bên nhau. Phil lúc ấy có tên là Walter Morris và Ann là Martha Williams. Walter Morris là một mục sư thường đi diễn thuyết ở nhiều nơi và được nhiều người kính nể. Walter Morris có vợ nhưng ông ta ly dị vợ để theo sống với Martha Williams và Walter đã cùng Martha qua Trung Hoa làm việc chung với nhau trong Giáo Hội cứu giúp những người đau khổ bệnh tật. Thế rồi quân Nhật tiến chiếm Trung Hoa. chúng bắt bớ và sát hại vô số người. Mục sư Walter và Martha đã tính đến chuyện đưa một số trẻ em mồ côi xuống tàu để đến Hoa Kỳ nhưng tàu vừa rời bến đã bị chiến hạm Nhật chận bắt và giết hại trong số đó có cả Martha. Mục sư vô cùng đau xót và uất hận nên đã liên kết với những người bị Nhật bắt trói trên tàu nửa đêm thình lình tấn công các thủy thủ Nhật. Cuộc tàn sát diễn ra, nhưng sau một chiếu tàu khác của Nhật đã đến tiếp ứng nên toàn thể người nổi loạn đều bị chết. Mục sư bị rơi xuống biển và cố bơi thật xa torng đêm. Sáng hôm sau được một chiếc tàu bi qua vớt lên và qua bao gian khổ, mục sư đến được Hoa Kỳ và chết ở đó sáu tháng sau. Cái chết của mục sư Walter, tự nhiên làm Phil tỉnh giấc và từ đó giấc mơ cứ ám ảnh Phil hoài. Phil tự hỏi đó có phải chính là cuộc đời của mình không? Đó có phải là tiền kiếp của mình không? Nhưng đó chỉ là giấc mơ. Tuy nhiên tại sao giấc mơ lại đủ chi tiết như thế? Cái tên Walter Morris hiện ra rõ ràng trong trí Phil, các hình ảnh sự việc, địa danh, năm tháng đều đầy đủ. Chỉ có cách kiểm chứng lại qua các sổ bộ thành phố tỉnh hạt liên quan, thế rồi Phil viết thư hỏi phòng sổ bộ thành phố nầy và được trả lời rằng Walter Morris là một mục sư sống ở đây khoảng thập niên 1930. Phil còn được cho biết tại thành phố nầy vẫn còn cháu chắt họ hàng liên quan đến mục sư Walter Morris. Phil liền nghĩ việc gửi thư liên lạc với những người nầy theo những địa chỉ đã được các viên chức trả lời thư của Phil trước đây cho biết.
Một thời gian sau, Phil nhận được một số thư trả lời trong đó có thư của một người đàn bà cho biết trong khoảng thập niên 1930 bà ở gần Walter Morris từ lúc mục sư đi qua Trung Hoa cứu giúp những người nghèo và trẻ mồ côi cho đến khi người Nhật xâm lăng Trung Hoa. Một người đàn bà khác tên là Crawley ở South Carolina thì cho biết bà ta là con gái của Mục sư Walter Morris. Khi đọc thư của người đàn bà tên Crawley nầy, Phil vừa kinh ngạc vừa hồi hộp vừa lạ lùng vì bà cho biết: "cha tôi đã bỏ mẹ tôi khi bà còn đang mang thai để theo một người đàn bà khác, mặc dầu vậy, ba tôi lại thường gởi thư về cho má tôi. Ông tả rất chi tiết những gì ông đã trải qua...
Thế rồi, Phil yêu cầu được đến South Carolina để gặp mặt Crawley. Phil được bà nầy trao cho một xấp thư dày của mục sư Walter Morris gởi cho mẹ bà lúc đó. Đọc cẩn thận cả tập thư Phil vô cùng kinh ngạ vì tất cả những gì mục sư viết trong thư đều giống hệt các sự việc mà Phil đã thấy rõ từng chi tiết trong giấc mơ. Tự nhiên Phil linh cảm được rằng mình chính là mục sư Walter Morris chính nhờ sự gặp Ann mà châu chuyện hiện ra rõ ràng từ đầu tới cuối trong ký ức của Phil. Như thế Ann và Phil đã có một thời sống bên nhau ở kiếp trước... và bà Crawley phải chăng là con của Phil ở kiếp trước?
Trường Hợp Người Đàn Bà Diane Strom.
Bà Diane Strom có chồng, gia đình sung túc nhưng luôn luôn bà bị một nỗi lo âu dằn vặt trong lòng về vấn đề tiền bạc. Mỗi khi có điều gì liên quan đến tiền là bà sợ sệt lo lắng mất ăn mất ngủ nhất là phải nợ ai dù số tiền nhỏ mọn bà cũng vẫn canh cánh bên lòng vì bà linh cảm như mắc nợ ai thì rồi sẽ có một sự khủng khiếp ghê rợn xảy đến với bà. Nổi lo lắng lạ lùng ấy cứ xảy ra mãi làm bà Diane Strom trở lên một con người luôn luôn suy nghĩ, sợ hãi, hồi hộp như bà bị bệnh về giáp trạng tuyến bị tổn thương. Nhưng khi đến bác sĩ khám nghiệm thì kết quả bà chẳng có bệnh gì cả. Cuối cùng người bạn mách cho bà đến bác sĩ Morris Netherton người đã từng áp dụng phương pháp khơi dậy ký ức xa xăm hay nói khác đi là tiền kiếp của những người bị khủng hoảng tinh thần vô căn cứ. Khi truy nguyên được nguyên nhân thì sự khủng hoảng ấy sẽ mất dần đi.
Trường Hợp Của Michael Wright Walter Miller là một thanh niên bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin bất tỉnh mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày suốt đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đêm liên cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đức trước mặt cô nét mặt hớn hở và nói: "Em à! anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ vì không bao giờ người yêu của cô lại có thể trở về với cô lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ biết bao lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Michael Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi nó trở nên khôn ngoan lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Michael nói: "Con chính là Walter Miller. Các đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vỡ tan..." Sau đó, Michael kể hết tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Michael) và còn nói rõ ràng tên người em gái của Walter Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành phố mà Walter Miller đã cùng bạn người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lại xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện nầy đã được tác giả Quỳnh Châu lược thuật trong Tiền Phong (1991 Hoa Kỳ).
Trong cuốn Have We lived beford của Linda Atkinson, vị nữ giáo sư triết học nầy đã nêu lên một số bằng chứng về sự kiện luân hồi tái sinh (tác giả Nguyên Minh đã dịch lại năm 1995 do hội Phật học Quan Âm ở Canada ấn hành). Chúng tôi xin tóm lược 5 trường hợp tái sinh có thật như sau:
Trường Hợp Bà Bridey Murphy Nhà thôi miên nổi tiếng Monrey Bernstein đã dùng phương pháp thôi miên để dẫn dụ bà Virgina Tighe đi vào giấc ngủ và tìm về quá khứ xa xăm của mình. Bà Virgina Tighe là một người đàn bà trẻ đẹp thông minh, sáng trí. Qua giấc ngủ thôi miên bà đã nhớ lại một tiền kiếp của mình lúc đó bà là một cô gái trẻ tên là Bridey Murphy. Cô là người Ái Nhĩ Lan, sinh năm 1798 tại Cork. cha cô tên là Duncan Murphy và mẹ tên là Kathleen. Cô có một người anh cũng có tên là Duncan. Vào thời đó gia đình Bridey sống hạnh phúc trong một căn nhà gỗ xinh xắn. Về sau Bridey lấy chồng. Người chồng là một luận sư tên là Brian Mc Carthy. Cả hai đến Belfast sinh sống. Số phận không may, Bridey qua đời khiến người chồng đau khổ không nguôi. Qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe cho biết rằng: "Lúc bấy giờ tôi (Bridey Murphy) tuy đã chết nhưng linh hồn tôi vẫn lẫn quất trong nhà, ở ngay đấy với Brian một thời gian nên biết Brian đau khổ vì nhớ thương tôi nhưng anh ta lại chẳng bao giờ thấy được tôi. Tôi cũng trở về Cork thăm anh tôi, tôi ở ngay bên cạnh anh ấy, nói chuyện với anh ấy nhưng anh ta chẳng thấy tôi và chẳng nghe được tôi nói.
Nhà thôi miên Morey Bernstein đã đưa bà Virginia Tighe vào giấc ngủ thôi miên nhiều lần nữa. Ông đã ghi âm lại tất cả những lời kể của bà. Và hỏi ý kiến những nhà luật sư, bác sĩ, giáo sư, ký giả về trường hợp lạ lùng nầy bằng cách để những người nầy nghe những lời kể của bà Virginia Tighe về tiền kiếp của mình qua các cuộn băng ghi âm lại. Sau đó, nhà thôi miên Morey quyết định viết một cuốn sách về trường hợp Virginia và Bridey Murphy. Để cuốn sách có giá trị trung thực chớ không phải là viết chuyện bịa đặt, một nhà xuất bản đã đứng ra lãnh nhiệm vụ kiểm chứng sự việc. Nhà xuất bản nầy đã liên lạc với các cơ sở có liên hệ trong việc kiểm chứng sự kiện và hợp tác với một số nhân vật đáng tin cậy khác ở Ái Nhĩ Lan, như thư viện để kiểm tra về nhân vật Bridey Murphy cùng những sự kiện cùng liên quan mà qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe kể lại rõ ràng.
Kết quả cho biết rằng các tài liệu sổ bộ ở Cork ghi rõ năm 1800 có luật sư tên John Mc Carthy làm việc ở đó. Ngoài ra trong cuốn niên giám có ghi tên 2 tiệm tạp hóa mà qua giấc ngủ thôi miên bà Virginia có nhắc đến. Đó là tiệm tạp hóa ở Belfast tên là Fari's và một tiệm tên là John Carrigan's. Về những địa danh khác mà bà Virginia nhắc đến qua giấc ngủ thôi miên thì phần lớn đều được xác nhận là đúng.
Cuốn sách do nhà thôi miên Morey viết nhan đề là The Search for Bridey Murphy lúc bấy giờ (khoảng thập niên 1950) được coi là sách bán chạy nhất. Các báo chí đua nhau đăng tải và bình luận về chuyện lạ của Virginia Tighe, người đã nhớ lại tiền kiếp mình. Hồi đó tại Hoa Kỳ, phát sinh hai phe, một phe chống đối, bài bác, một phe bênh vực, ủng hộ mạnh mẽ về chuyện bà Virginia Tighe và cho hiên tượng tái sinh là có thật. Chuyện tái sinh của bà Virginia mới đây còn được đăng tải lại trong cuốn The People's Almanac của David Wallechinsky và Irving Wallace Battaw Books xuất bản.
Trường Hợp Của Hai Người Không Quen Biết Nhau: Phil và Ann Đây là một trường hợp ngẫu nhiên, lạ lùng đã xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai người chưa từng quen biết nhau bao giờ, một người tên là Phil một người kia tiên là Ann.
Một hôm Phil lái xe hơi đến Maliba thì bị lạc đường. Phil còn đang ngơ ngác thí thấy một người đang đứng bên lề phố nên dừng xe hỏi thăm. Mặc dầu người nầy không biết rõ đường để chỉ vì thật ra cô ta không phải là dân ở đây nhưng vào lúc nầy tự nhiên Phil không quan tâm nhiều vào chuyện lạc đường nữa vì hai người tự nhiên cảm thấy cảm tình với nhau ngay mặc dầu mới gặp nhau lần đầu. Cô gái tự giới thiệu tên là Ann. Họ rủ nhau đi chơi đến chiều thì chia tay Phil về Los Angeles còn Ann thì về Monterey. Hai người lại gặp nhau và tuần kế tiếp, lần nầy, trước khi chia tay Ann buồn rầu bảo rằng nàng sẽ về trường học tại tiển bang Arizona. Hai người đều buồn bả và họ thấy thật sự đã thương yêu nhau rất nhiều, một thứ tình cảm lạ lùng đồng điệu giữa hai người thật hiếm thấy trên đời, đặc biệt họ có cảm tưởng lạ lùng như đã quen biết nhau từ thuở nào rồi và họ cảm tấhy bằng mọi cách phải sống bên nhau...
Thế rồi trong giấc mơ tự nhiên Phil thấy Ann xuất hiện. Trong mơ rõ ràng Phil và Ann sống vui vẻ bên nhau. Phil lúc ấy có tên là Walter Morris và Ann là Martha Williams. Walter Morris là một mục sư thường đi diễn thuyết ở nhiều nơi và được nhiều người kính nể. Walter Morris có vợ nhưng ông ta ly dị vợ để theo sống với Martha Williams và Walter đã cùng Martha qua Trung Hoa làm việc chung với nhau trong Giáo Hội cứu giúp những người đau khổ bệnh tật. Thế rồi quân Nhật tiến chiếm Trung Hoa. chúng bắt bớ và sát hại vô số người. Mục sư Walter và Martha đã tính đến chuyện đưa một số trẻ em mồ côi xuống tàu để đến Hoa Kỳ nhưng tàu vừa rời bến đã bị chiến hạm Nhật chận bắt và giết hại trong số đó có cả Martha. Mục sư vô cùng đau xót và uất hận nên đã liên kết với những người bị Nhật bắt trói trên tàu nửa đêm thình lình tấn công các thủy thủ Nhật. Cuộc tàn sát diễn ra, nhưng sau một chiếu tàu khác của Nhật đã đến tiếp ứng nên toàn thể người nổi loạn đều bị chết. Mục sư bị rơi xuống biển và cố bơi thật xa torng đêm. Sáng hôm sau được một chiếc tàu bi qua vớt lên và qua bao gian khổ, mục sư đến được Hoa Kỳ và chết ở đó sáu tháng sau. Cái chết của mục sư Walter, tự nhiên làm Phil tỉnh giấc và từ đó giấc mơ cứ ám ảnh Phil hoài. Phil tự hỏi đó có phải chính là cuộc đời của mình không? Đó có phải là tiền kiếp của mình không? Nhưng đó chỉ là giấc mơ. Tuy nhiên tại sao giấc mơ lại đủ chi tiết như thế? Cái tên Walter Morris hiện ra rõ ràng trong trí Phil, các hình ảnh sự việc, địa danh, năm tháng đều đầy đủ. Chỉ có cách kiểm chứng lại qua các sổ bộ thành phố tỉnh hạt liên quan, thế rồi Phil viết thư hỏi phòng sổ bộ thành phố nầy và được trả lời rằng Walter Morris là một mục sư sống ở đây khoảng thập niên 1930. Phil còn được cho biết tại thành phố nầy vẫn còn cháu chắt họ hàng liên quan đến mục sư Walter Morris. Phil liền nghĩ việc gửi thư liên lạc với những người nầy theo những địa chỉ đã được các viên chức trả lời thư của Phil trước đây cho biết.
Một thời gian sau, Phil nhận được một số thư trả lời trong đó có thư của một người đàn bà cho biết trong khoảng thập niên 1930 bà ở gần Walter Morris từ lúc mục sư đi qua Trung Hoa cứu giúp những người nghèo và trẻ mồ côi cho đến khi người Nhật xâm lăng Trung Hoa. Một người đàn bà khác tên là Crawley ở South Carolina thì cho biết bà ta là con gái của Mục sư Walter Morris. Khi đọc thư của người đàn bà tên Crawley nầy, Phil vừa kinh ngạc vừa hồi hộp vừa lạ lùng vì bà cho biết: "cha tôi đã bỏ mẹ tôi khi bà còn đang mang thai để theo một người đàn bà khác, mặc dầu vậy, ba tôi lại thường gởi thư về cho má tôi. Ông tả rất chi tiết những gì ông đã trải qua...
Thế rồi, Phil yêu cầu được đến South Carolina để gặp mặt Crawley. Phil được bà nầy trao cho một xấp thư dày của mục sư Walter Morris gởi cho mẹ bà lúc đó. Đọc cẩn thận cả tập thư Phil vô cùng kinh ngạ vì tất cả những gì mục sư viết trong thư đều giống hệt các sự việc mà Phil đã thấy rõ từng chi tiết trong giấc mơ. Tự nhiên Phil linh cảm được rằng mình chính là mục sư Walter Morris chính nhờ sự gặp Ann mà châu chuyện hiện ra rõ ràng từ đầu tới cuối trong ký ức của Phil. Như thế Ann và Phil đã có một thời sống bên nhau ở kiếp trước... và bà Crawley phải chăng là con của Phil ở kiếp trước?
Trường Hợp Người Đàn Bà Diane Strom.
Bà Diane Strom có chồng, gia đình sung túc nhưng luôn luôn bà bị một nỗi lo âu dằn vặt trong lòng về vấn đề tiền bạc. Mỗi khi có điều gì liên quan đến tiền là bà sợ sệt lo lắng mất ăn mất ngủ nhất là phải nợ ai dù số tiền nhỏ mọn bà cũng vẫn canh cánh bên lòng vì bà linh cảm như mắc nợ ai thì rồi sẽ có một sự khủng khiếp ghê rợn xảy đến với bà. Nổi lo lắng lạ lùng ấy cứ xảy ra mãi làm bà Diane Strom trở lên một con người luôn luôn suy nghĩ, sợ hãi, hồi hộp như bà bị bệnh về giáp trạng tuyến bị tổn thương. Nhưng khi đến bác sĩ khám nghiệm thì kết quả bà chẳng có bệnh gì cả. Cuối cùng người bạn mách cho bà đến bác sĩ Morris Netherton người đã từng áp dụng phương pháp khơi dậy ký ức xa xăm hay nói khác đi là tiền kiếp của những người bị khủng hoảng tinh thần vô căn cứ. Khi truy nguyên được nguyên nhân thì sự khủng hoảng ấy sẽ mất dần đi.
Nghe lời
bạn, bà Diane đến gặp bác sĩ ẩn khuất trong lòng cho bác sĩ nghe. Bác sĩ Morris
thuyết phục và khuyên dụ bà Diane xem thử nghĩ sâu xa về cuộc đời mình ngược về
quá khứ để xem thử nguyên nhân nào đã gây nên sự lo sợ lạ lùng trong cuộc sống
hiện nay của bà. Nhiều tuần lễ trôi qua. Nhờ phương pháp dẫn dụ ấy của bác sĩ
Morris mà bà Diane có thể tập trung được tư tưởng mình và phát hiện được những
cảm giác và hình ảnh lạ mà từ lâu bà chưa từng biết tới. Bà thấy mình là một bé
gái ngây thơ tên là Rita. Rita là một đứa con rơi vì bị mẹ là một nữ kịch sĩ ở
NewYork bỏ rơi khi vừa hai tuổi. Lúc ấy Rita được một cặp vợ chồng ở
Pensylvania nhận về nuôi. Năm lên 13 tuổi, Rita lại bơ vơ lần nữa vì cha mẹ
nuôi bị tai nạn xe hơi qua đời. Bé Rita sống lạc loài không nơi nương tựa đến 6
năm trời và đến năm 20 tuổi Rita gặp một người đàn ông tên là Keith Mc Culluw, họ yêu nhau và cưới nhau. Rita
sinh hạ một trai, nàng cảm thấy hạnh phúc về mọi mặt vào lúc nầy, nàng lại có một
công ăn việc làm đàng hoàng. Rita chuyên vẽ kiểu thời trang và tự cắt may lấy một
tiệm may mặc tại đại lộ thức bảy ở New York. Nhưng cuộc sống sung sướng hạnh
phúc không kéo dài được bao lâu. Mùa đông năm 1928 chồng Rita qua đời rồi năm
sau đứa con nàng cũng bị bệnh rồi mất. Trong khi đó, khắp Hoa Kỳ, tình trạng khủng
hoảng kinh tế gia tăng trầm trọng. Rita bị vỡ nợ, số nợ quá lớn khiến phải phá
sản và Rita tuyệt vọng đến độ phải tìm cái chết để giải quyết vấn đề. Nàng thắt
cổ tự vẫn ngay trong phòng làm việc hôm đó là ngày 11 tháng 6 năm 1933, lúc ấy
Rita vừa đúng 30 tuổi...
Sau khi biết rõ chi tiết về cuộc đời mình, tự nhiên bà Diane Strom cảm thấy thoải mái trong lòng, giống như một người đang đau khổ uất ức được òa lên rồi sau cơn nức nở ấy bỗng cảm thấy được vơi đi phần nào đau khổ.
Nhờ các sự kiện xảy ra rất gần và các chi tiết rất rõ ràng nên bác sĩ Morris đã nhờ các nhân viên ở văn phòng lưu trữ hồ sơ, các sổ bộ ở New York kiểm chứng lại xem về những gì mà bà Diane đã cho biết như cửa tiệm may mặc ở đường số 7 tại New York, tên của người đàn ông Keith Mc Culluw, cái chết của nữ chủ tiệm may mặc tên là Rita.v.v... Tất cả những gì đã được trả lời đều phù hợp với những điều mà bác sĩ Morris đã ghi nhận được từ bà Diane sau mỗi lần dùng phép dẫn dụ để ký ức bà trở về đời sống quá khứ hay nói khác đi là quay về những sự kiện xảy ra từ kiếp trước. Theo bác sĩ Morris Netherton thì tái sinh là câu giải đáp của vấn đề và Rita là tiền thân của bà Diane Strom.
Trường Hợp Của Dolores Jay Hai vợ chồng Carroll và Dolores Jay sống yên vui hạnh phúc trong một căn nhà lớn ở Hoa Kỳ. Ông Carroll là một mục sư có khả năng thôi miên và thường giúp nhiều người bị bệnh nhức đầu nhờ phương pháp thôi miên nầy. Riêng bà Dolores Jay, vợ ông thì có nhiều lần nằm ngủ và mơ thấy nhiều chuyện lạ lùng và bà thường la, hét, rên rỉ và nói năng qua giấc mơ.
Ông Carroll quyết định áp dụng phương pháp thôi miên để tìm nguyên nhân sự việc đã khiến vợ ông nói mê sảng trong giấc ngủ. Qua nhiều lần thực hiện phương pháp thôi miên, bà Dolores Jay đã được đưa vào giấc ngủ và trả lời bằng những câu hỏi của chồng rất có mạch lạc. Bà Dolores cho biết rằng trước đây bà là cô gái Đức tên là Gretchen Gottlieb. Lúc 16 tuổi Gretchen cùng người cậu ruột cởi ngựa đi dạo thì bất thần bị một bọn cướp giết chêt. Giờ đây, bà là Dolores nhưng hình ảnh về cuộc giết chóc khủng khiếp ấy cứ xuất hiện ngày càng rõ nét trong mộng dữ. Điều kỳ lạ là phần lớn khi hỏi về hoàn cảnh, thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện thì bà Dolores đều trả lời qua giấc ngủ thôi miên bằng tiếng Đức mà thôi. Ông Carroll đã mời một số chuyên viên biết tiếng Đức tới dự những buổi thôi miên của mình cho vợ là Dolores. Chính những người nay đã nêu những câu hỏi mà họ tin chắc là bình thường bà Dolores không biết, không thấy, không nghe được vì nó thuộc về lịch sử, về những gì liên quan đến nước Đức cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán, nghĩa là đời sống hàng ngày tại Đức khoảng thời gian mà bà bảo mình là cô gái Gretchen. Tuy nhiên những câu hỏi trả lời của bà Dolores qua giấc ngủ thôi miên đều rất phù hợp với những sự thật vào hoàn cảnh đó ở Đức, mặc dầu bà Dolores sống ở Mỹ và chưa bao giờ học tiếng Đức hay đặt chân tới nước Đức.
Để được chắc chắn hơn, hai vợ chồng Carroll và Dolores đến gặp chủ tịch Hội Kiểm Nghiệm, dò xét người nói dối (Scientific Life Detection Inc ở New York vào năm 1974). Sau những câu hỏi hóc búa và đầy tính cách kiểm chứng của những nhân viên trong hội tập chú vào bà Dolores, với sự hỗ trợ của máy dò thì kết luận được đưa ra là bà Dolores hoàn toàn trung thực, tự nhiên và quả quyết trong các câu trả lời và đó là sự thật. Sự thật rõ ràng nhất cho thấy là chưa bao giờ bà Dolores nói tiếng Đức vì bà đã chưa bao giờ học tiếng Đức cả, bà cũng chưa bao giờ sống ở Đức. Vậy mà trong giấc ngủ thôi miên bà lại nói tiếng Đức và nói đúng giọng (các cuộn băng ghi âm được thu trực tiếp). Vậy phải chăng bà Dolores Jay là hậu kiếp của cô gái Đức nầy?
Mặc dù ông Carroll là một mục sư chuyên phục vụ ở nhà thờ Methodist và cũng là nhà giáo nhưng ông tin rằng: Sở dĩ vợ ông là bà Dolores nói tiếng Đức một cách kỳ diệu như thế là do bà đã từng là một cô gái Đức ở tiền kiếp.
Trường Hợp Bé Imad Elawar Đây là trường hợp mà nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi Ian Stevenson xem như bằng chứng rõ rệt nhất chứng minh sự tái sinh là có thật.
Sự kiện xảy ra tại một ngôi làng ở nước Liban. Tại đây có một cháu bé trái tên là Imad Elawar. Bé Imad rất thông minh, mau biết đi và biết nói. Nhưng khi nói câu đầu tiên rõ ràng thì đó là chữ Jamileh.
Trong nhà không hiểu bé Imad nói chữ đó là nghĩa là gì. Bé Imad bảo đó là tên của một đứa con gái trẻ đẹp. Bé còn bảo rằng nó có hai người em tên là Amin và Huda nhưng những người em hiện nay không còn nữa. Imad cho biết nó là con của gia đình Bouhamzy ở Khriby. Trong đời nó trước đây nó đã trải qua một kiếp sống với nhiều sự kiện đáng sợ. Nó đã chứng kiến cảnh rùng rợn chết chóc khi một người láng giềng bị xe vận tải cán chết một cách khủng khiếp rồi khi nó làm tài xế lái xe buýt, có lần ngừng xe lại vừa nhảy xuống xe thì bất ngờ chiếc xe vẫn tiếp tục chạy làm bị thương nhiều người, nó còn kể mình thường đi săn, có lần cải lẩy của một người, và tức giận dùng súng bắn người ấy... Nó nhớ đủ chuyện, và tự nhiên kể cho mọi người trong nhà nghe, khiến ai cũng ngạc nhiên cứ tưởng rằng thằng bé Imad bị nhiễu loạn thần kinh.
Một hôm bé Imad đi dạo với bà nó, lúc còn bé vừa lên bốn. Giữa đường nó gặp một người đàn ông đi ngược chiều nó chạy lại và kêu lên co vẽ vui mừng:
- A! Đây là người láng giềng ngày xưa của tôi.
Người đàn ông kia ngơ ngác chẳng hiểu gì cứ tưởng bé nói đùa. Câu chuyện được bà của Imad kể lại cho gia đình nghe, về sau cha của Imad mới biết được rằng người đàn ông nầy ở làng Khriby, nhà ông ở gần nhà của gia đình Bouhamzy sống. Chính nhà nghiên cứu Ian Stevenson đã tìm hiểu kỷ chuyện lạ về bé Imad. Ông cho biết ngôi làng hiện nay bé Imad đang ở cách xa Khriby khoảng 30 cây số. Bác sĩ Stevenson đã đề nghị kiểm chứng sự kiện bằng cách đi với Imad và cha của cháu đến Khriby. Mặc dầu là nơi xa lạ nhưng bé Imad có vẻ quen thuộc đường sá trong chuyến đi ấy. Tại đây có gia đình Bouhamzy. Bác sĩ Stevenson tìm hiểu và biết rằng trong gia đình nầy có một người bị chết vì tai nạn xe hơi thật rùng rợn giống như điều bé Imad đã kể trước đó. Người cha trong gia đình nầy là Haffez Bouhamzy cho biết họ có một người anh em họ tên là Ibrahim Bouhamzy. Khi đến căn nhà của Ibrahim, vừa bước vào sân, Imad đã dừng lại chỉ tay vào cuối sân và nói:
- Đây là chỗ của con chó ở. Chỗ kia là chỗ nuôi dê. Nơi đây có một căn nhà nhỏ để lưu trữ các dụng cụ. Khi bước lên lầu tới căn phòng của Ibrahim, bé Imad chỉ một cái giường và nói:
- Cái giường nầy xưa kia tôi nằm ngủ. Imad còn cho biết giường đã đổi chỗ vì ngày xưa giường nầy để ở chỗ khác. Bà Bouhamzy hỏi thử bé Imad một điều mà bà nghĩ rằng chỉ khi nó ở đây trong tiền kiếp thì nó mới biết được thôi. Bà hỏi như sau:
- Nầy! cháu có nhớ là tại đây cháu đã thường xuyên chuyện trò với bạn bè bằng cách nào không? Imad chỉ cái cửa sổ và trả lời một cách tự nhiên khiến bà Bouhamzy kinh ngạc:
- Qua cái cửa sổ ấy.
Theo lời bà Bouhamzy thì trước khi Ibrahim qua đời, bệnh tình ngày càng nặng không ai có thể đến thăm. Ibrahim lúc bấy giờ chỉ nằm trên giường và nói chuyện với bạn bè qua cửa sổ ấy mà thôi.
Người nhà thường nghe Imad nhắc đến cân súng săn nên sẵn dịp hỏi Imad thử cây súng cất ở đâu. Imad cho biết cây súng giấu sau tủ. Điều nầy hoàn toàn đúng. Lúc đó người em gái của Ibrahim là Huda bước đến hỏi Imad một câu:
- Có biết tôi không?
Imad cười nói:
Sau khi biết rõ chi tiết về cuộc đời mình, tự nhiên bà Diane Strom cảm thấy thoải mái trong lòng, giống như một người đang đau khổ uất ức được òa lên rồi sau cơn nức nở ấy bỗng cảm thấy được vơi đi phần nào đau khổ.
Nhờ các sự kiện xảy ra rất gần và các chi tiết rất rõ ràng nên bác sĩ Morris đã nhờ các nhân viên ở văn phòng lưu trữ hồ sơ, các sổ bộ ở New York kiểm chứng lại xem về những gì mà bà Diane đã cho biết như cửa tiệm may mặc ở đường số 7 tại New York, tên của người đàn ông Keith Mc Culluw, cái chết của nữ chủ tiệm may mặc tên là Rita.v.v... Tất cả những gì đã được trả lời đều phù hợp với những điều mà bác sĩ Morris đã ghi nhận được từ bà Diane sau mỗi lần dùng phép dẫn dụ để ký ức bà trở về đời sống quá khứ hay nói khác đi là quay về những sự kiện xảy ra từ kiếp trước. Theo bác sĩ Morris Netherton thì tái sinh là câu giải đáp của vấn đề và Rita là tiền thân của bà Diane Strom.
Trường Hợp Của Dolores Jay Hai vợ chồng Carroll và Dolores Jay sống yên vui hạnh phúc trong một căn nhà lớn ở Hoa Kỳ. Ông Carroll là một mục sư có khả năng thôi miên và thường giúp nhiều người bị bệnh nhức đầu nhờ phương pháp thôi miên nầy. Riêng bà Dolores Jay, vợ ông thì có nhiều lần nằm ngủ và mơ thấy nhiều chuyện lạ lùng và bà thường la, hét, rên rỉ và nói năng qua giấc mơ.
Ông Carroll quyết định áp dụng phương pháp thôi miên để tìm nguyên nhân sự việc đã khiến vợ ông nói mê sảng trong giấc ngủ. Qua nhiều lần thực hiện phương pháp thôi miên, bà Dolores Jay đã được đưa vào giấc ngủ và trả lời bằng những câu hỏi của chồng rất có mạch lạc. Bà Dolores cho biết rằng trước đây bà là cô gái Đức tên là Gretchen Gottlieb. Lúc 16 tuổi Gretchen cùng người cậu ruột cởi ngựa đi dạo thì bất thần bị một bọn cướp giết chêt. Giờ đây, bà là Dolores nhưng hình ảnh về cuộc giết chóc khủng khiếp ấy cứ xuất hiện ngày càng rõ nét trong mộng dữ. Điều kỳ lạ là phần lớn khi hỏi về hoàn cảnh, thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện thì bà Dolores đều trả lời qua giấc ngủ thôi miên bằng tiếng Đức mà thôi. Ông Carroll đã mời một số chuyên viên biết tiếng Đức tới dự những buổi thôi miên của mình cho vợ là Dolores. Chính những người nay đã nêu những câu hỏi mà họ tin chắc là bình thường bà Dolores không biết, không thấy, không nghe được vì nó thuộc về lịch sử, về những gì liên quan đến nước Đức cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán, nghĩa là đời sống hàng ngày tại Đức khoảng thời gian mà bà bảo mình là cô gái Gretchen. Tuy nhiên những câu hỏi trả lời của bà Dolores qua giấc ngủ thôi miên đều rất phù hợp với những sự thật vào hoàn cảnh đó ở Đức, mặc dầu bà Dolores sống ở Mỹ và chưa bao giờ học tiếng Đức hay đặt chân tới nước Đức.
Để được chắc chắn hơn, hai vợ chồng Carroll và Dolores đến gặp chủ tịch Hội Kiểm Nghiệm, dò xét người nói dối (Scientific Life Detection Inc ở New York vào năm 1974). Sau những câu hỏi hóc búa và đầy tính cách kiểm chứng của những nhân viên trong hội tập chú vào bà Dolores, với sự hỗ trợ của máy dò thì kết luận được đưa ra là bà Dolores hoàn toàn trung thực, tự nhiên và quả quyết trong các câu trả lời và đó là sự thật. Sự thật rõ ràng nhất cho thấy là chưa bao giờ bà Dolores nói tiếng Đức vì bà đã chưa bao giờ học tiếng Đức cả, bà cũng chưa bao giờ sống ở Đức. Vậy mà trong giấc ngủ thôi miên bà lại nói tiếng Đức và nói đúng giọng (các cuộn băng ghi âm được thu trực tiếp). Vậy phải chăng bà Dolores Jay là hậu kiếp của cô gái Đức nầy?
Mặc dù ông Carroll là một mục sư chuyên phục vụ ở nhà thờ Methodist và cũng là nhà giáo nhưng ông tin rằng: Sở dĩ vợ ông là bà Dolores nói tiếng Đức một cách kỳ diệu như thế là do bà đã từng là một cô gái Đức ở tiền kiếp.
Trường Hợp Bé Imad Elawar Đây là trường hợp mà nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi Ian Stevenson xem như bằng chứng rõ rệt nhất chứng minh sự tái sinh là có thật.
Sự kiện xảy ra tại một ngôi làng ở nước Liban. Tại đây có một cháu bé trái tên là Imad Elawar. Bé Imad rất thông minh, mau biết đi và biết nói. Nhưng khi nói câu đầu tiên rõ ràng thì đó là chữ Jamileh.
Trong nhà không hiểu bé Imad nói chữ đó là nghĩa là gì. Bé Imad bảo đó là tên của một đứa con gái trẻ đẹp. Bé còn bảo rằng nó có hai người em tên là Amin và Huda nhưng những người em hiện nay không còn nữa. Imad cho biết nó là con của gia đình Bouhamzy ở Khriby. Trong đời nó trước đây nó đã trải qua một kiếp sống với nhiều sự kiện đáng sợ. Nó đã chứng kiến cảnh rùng rợn chết chóc khi một người láng giềng bị xe vận tải cán chết một cách khủng khiếp rồi khi nó làm tài xế lái xe buýt, có lần ngừng xe lại vừa nhảy xuống xe thì bất ngờ chiếc xe vẫn tiếp tục chạy làm bị thương nhiều người, nó còn kể mình thường đi săn, có lần cải lẩy của một người, và tức giận dùng súng bắn người ấy... Nó nhớ đủ chuyện, và tự nhiên kể cho mọi người trong nhà nghe, khiến ai cũng ngạc nhiên cứ tưởng rằng thằng bé Imad bị nhiễu loạn thần kinh.
Một hôm bé Imad đi dạo với bà nó, lúc còn bé vừa lên bốn. Giữa đường nó gặp một người đàn ông đi ngược chiều nó chạy lại và kêu lên co vẽ vui mừng:
- A! Đây là người láng giềng ngày xưa của tôi.
Người đàn ông kia ngơ ngác chẳng hiểu gì cứ tưởng bé nói đùa. Câu chuyện được bà của Imad kể lại cho gia đình nghe, về sau cha của Imad mới biết được rằng người đàn ông nầy ở làng Khriby, nhà ông ở gần nhà của gia đình Bouhamzy sống. Chính nhà nghiên cứu Ian Stevenson đã tìm hiểu kỷ chuyện lạ về bé Imad. Ông cho biết ngôi làng hiện nay bé Imad đang ở cách xa Khriby khoảng 30 cây số. Bác sĩ Stevenson đã đề nghị kiểm chứng sự kiện bằng cách đi với Imad và cha của cháu đến Khriby. Mặc dầu là nơi xa lạ nhưng bé Imad có vẻ quen thuộc đường sá trong chuyến đi ấy. Tại đây có gia đình Bouhamzy. Bác sĩ Stevenson tìm hiểu và biết rằng trong gia đình nầy có một người bị chết vì tai nạn xe hơi thật rùng rợn giống như điều bé Imad đã kể trước đó. Người cha trong gia đình nầy là Haffez Bouhamzy cho biết họ có một người anh em họ tên là Ibrahim Bouhamzy. Khi đến căn nhà của Ibrahim, vừa bước vào sân, Imad đã dừng lại chỉ tay vào cuối sân và nói:
- Đây là chỗ của con chó ở. Chỗ kia là chỗ nuôi dê. Nơi đây có một căn nhà nhỏ để lưu trữ các dụng cụ. Khi bước lên lầu tới căn phòng của Ibrahim, bé Imad chỉ một cái giường và nói:
- Cái giường nầy xưa kia tôi nằm ngủ. Imad còn cho biết giường đã đổi chỗ vì ngày xưa giường nầy để ở chỗ khác. Bà Bouhamzy hỏi thử bé Imad một điều mà bà nghĩ rằng chỉ khi nó ở đây trong tiền kiếp thì nó mới biết được thôi. Bà hỏi như sau:
- Nầy! cháu có nhớ là tại đây cháu đã thường xuyên chuyện trò với bạn bè bằng cách nào không? Imad chỉ cái cửa sổ và trả lời một cách tự nhiên khiến bà Bouhamzy kinh ngạc:
- Qua cái cửa sổ ấy.
Theo lời bà Bouhamzy thì trước khi Ibrahim qua đời, bệnh tình ngày càng nặng không ai có thể đến thăm. Ibrahim lúc bấy giờ chỉ nằm trên giường và nói chuyện với bạn bè qua cửa sổ ấy mà thôi.
Người nhà thường nghe Imad nhắc đến cân súng săn nên sẵn dịp hỏi Imad thử cây súng cất ở đâu. Imad cho biết cây súng giấu sau tủ. Điều nầy hoàn toàn đúng. Lúc đó người em gái của Ibrahim là Huda bước đến hỏi Imad một câu:
- Có biết tôi không?
Imad cười nói:
- À Huda
em tôi đây mà.
Huda ngạc nhiên vô cùng chỉ bức hình vẽ treo trên tường hỏi:
- Hình của ai đấy?
Imad trả lời:
- Đó là hình của em trai tôi, Fuad đó!
Huda lại đi lấy một tấm ảnh chụp của Ibrahim hỏi Imad.
- Còn đây là hình của ai?
Imad nhìn kỹ hình rồi nói:
- Đây là hình tôi trước đây!
Bỗng Huda như chợt nhớ ra điều gì, đến gần Imad và nói:
- Nếu quả là Ibrahim thì trước khi chết, Ibrahim nói câu gì?
Imad trả lời với giọng buồn buồn:
- Huda ơi! hãy kêu Fuad đi!
Huda ngạc nhiên vô cùng chỉ bức hình vẽ treo trên tường hỏi:
- Hình của ai đấy?
Imad trả lời:
- Đó là hình của em trai tôi, Fuad đó!
Huda lại đi lấy một tấm ảnh chụp của Ibrahim hỏi Imad.
- Còn đây là hình của ai?
Imad nhìn kỹ hình rồi nói:
- Đây là hình tôi trước đây!
Bỗng Huda như chợt nhớ ra điều gì, đến gần Imad và nói:
- Nếu quả là Ibrahim thì trước khi chết, Ibrahim nói câu gì?
Imad trả lời với giọng buồn buồn:
- Huda ơi! hãy kêu Fuad đi!
Nghe Imad
trả lời như thế, Huda nổi gai ốc khắp người.
Quả thật
lúc đó, trước khi tắt hơi, Ibrahim đã kêu lên như thế. Như vậy, mọi người có mặt,
kể cả bác sĩ Stevenson cũng đều thừa nhận rằng Imad chính là Ibrahim tái sinh.
Trong cuốn Bạn Tin có Tái Sanh, tác giả Minh Tuệ (1974) đã viết lại một số trường hợp có thực về tái sanh (tài liệu được cung cấp bởi Đại Đức Narada Maha Thera, ông Francis Story và Amarasiri Weerarartna) xin tóm lượt như sau:
Trường Hợp Nam Tài Tử Nổi Danh Glenn Ford Giới điện ảnh quốc tế và giới mộ điệu phim ảnh không ai là không biết đến nam tài tử gạo cội Glenn Ford của màn bạc Hoa Kỳ. Cuộc sống sôi động qua các vai của Glenn Ford trong cuộc đời hiện tại cũng tượng như trong "Những cuộc đời tiền kiếp" của ông. Glenn Ford nói: "Tôi không mê tín dị đoan, tôi không tin những điều mù quáng vớ vẩn, nhưng tôi tin vào cái gọi là đầu thai".
Glenn Ford ngoài say mê đóng phim, ông còn một say mê khác là tìm hiểu những vấn đề có tính cách huyền bí nhưng đầy tính khoa học. Ông say mê lý thuyết về Thiền học, và đồn ý ới phương pháp yên tĩnh tâm hồn qua thuật thôi miên. Chính nhờ sự giúp đỡ của một chuyên gia tài giỏi về khoa thôi miên Glenn Ford đã ghi lại qua băng ghi âm lời thuật về chính tiền kiếp của mình như sau:
"Năm 1774 tôi chào đời tại Egin (thuộc xứ Scotland). Tên tôi lúc ấy là Charles Stewart, là một nhạc sư, tôi thường dạy nhạc cho nhiều người. Về sau tôi bị bệnh phổi và qua đời n8m 1812".
Tôi còn biết là tôi cũng đã trải qua một kiếp làm người nữa vào thời đại vua Louis thứ 14 của nước Pháp nghĩa là khoảng những năm 1643 đến 171.
Lúc bấy giở tôi là một sĩ quan kỵ binh bảo vệ hoàng cung tên tôi là Lanvaux. Trong thời gian bảo vệ điện Versailles, tôi đã để ý và yêu tha thiết một phụ nữ quý tộc đã có chồng. Không may là câu chuyện yêu đương tuy chưa thành sự thật, nhưng lại bị chồng người đàn bà nầy biết và thách thức đấu súng. Kết quả là tôi bị bắn trọng thương và tôi phải trải qua một thời gian dài đau đớn quằn quại trước khi chết..."
Điều kỳ lạ là sau nầy khi nam tài tử Glenn Ford còn sống, ông thường hay bị đau nhức ngưới, chỗ đau nầy chính Glenn Ford cảm nhận rõ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của mình về vết đau kỳ lạ ấy. Chính Glenn Ford đã viết trong tập hồi ký đời mình về vấn đề nầy như sau:
"Vết thương từ cuộc đấu súng tay đôi từ "kiếp trước" ấy vẫn thỉnh thoảng làm tôi đau đớn ngay ở "đời hiện tại" và chỉ có mình tôi cảm nhận đều được đó thôi."
Trường Hợp Cậu Bé Michael Croston Machael Croston sanh tại Liverpool (nước Anh). Năm Michael đước 11 tuổi tự nhiên cậu bé có phong thái của một người lớn chững chạc và cậu cảm nhận được rằng mình chính là ông ngoại của đã qua đời trước trước khi Michael chào đời. Chính mọi người trong gia đình của Michael cũng thấy rõ điều đó. Cậu bé thuộc nằm lòng các đường phố lớn, nhỏ, mòn, đường tắt vùng hoang giã.
Yorkshire nơi quê nhà của cậu, nhưng cậu chưa bao giờ đặt chân tới. Vậy mà cậu đã dẫn người nhà đến đó và chỉ những ngã tắt, cửa sau, đường băng như một người đã sống ở đó lâu đời. Chỉ có ông ngoại của cậu mới có khả năng ấy thôi.
Một điều lạ lùng đã xảy ra là có một đêm, Michael trằn trọc không ngủ được nơi căn trại khi chiết đồng hồ quả lắc to lớn cứ tích tắc như nhắc nhở cậu điều gì. Rồi khi đồng hồ điểm 2 giờ khuya, cậu cảm thấy như có cái gì đó thôi thúc khiến phải vùng dậy chạy nhanh xuống dưới cầu thang và lần tay sau chiếc đồng hồ, cậu gặp một cái nút kéo ra. Trong một cái hốc, tay cậu chạm vào những tờ giấy bạc để trong chiếc hộp kim loại. Về sau hiện tượng lạ lùng nầy đã được biết rõ nguyên nhân hơn về sự khám phá món tiền mà ngày xưa ông ngoại cậu đã cất dấu. Nguyên nhân khêu gợi quá khứ chính là tiếng đồng hồ kêu và khi đồng hồ vang lên 2 tiếng thì dó là giờ mà xưa kia ông ngoại cậu đã chết.
Trường Hợp Edith Oliver (Người Anh) Bà Edith Oliver là nữ ký giả Anh đã có lần viếng ngôi làng Avenbury. Khi đến địa điểm nầy bà bỗng nhiên nhớ lại rằng nơi đây có chợ búa với những khối đá to lớn. Tuy nhiên rằng dân làng bảo rằng ở Avenbury không có như vậy nhưng cuối cùng các tài liệu địa phương chí lại cho thấy vào những năm 1800 đến 1850 quả thật ở đây có những điều mà bà Edith Oliver đã mô tả. Như vậy chỉ có một kết luận là kiếp trước bà Edith Oliver sống tại đó?
Trường Hợp Cô Bé Gnanatilaka Gnanatilaka sinh năm 1956 tại Kotamale (Tích Lan) khi gần năm tuổi cô bé nầy đòi cha mẹ dẫn đi tìm cha mẹ ruột chính thức của mình. Lời yêu cầu ấy cứ mãi lập đi lập lại nhiều lần nhưng cha mẹ cô bé vẫn cho là con mình nói cho vui miệng hoặc nghĩ rằng người trong xóm làng bày vẽ nó nói mà thôi. Tuy nhiên càng lớn đứa bé càng van nài khẩn thiết được gặp mặt cha mẹ nó. Chuyện lạ lùng nầy đến tai một số nhà khoa học, tâm lý và tôn giáo trong vùng. Cuối cùng, lời yêu cầu của bé Gnanatilaka được thực hiện. Phái đoàn đi chung với cô bé đến vùng Talawakele. Cô bé dẫn đường rất rành rẽ. Họ bước vào một căn nhà mà cô bé gọi là nhà cha mẹ mình. Bé giới thiệu hai vợ chồng ngôi nhà nầy là cha mẹ kiếp trước của mình. Lúc ấy có một giáo viên nhà trong vùng nghe chuyện đến xem thì cô bé bảo là thầy cô. Cô bé cho biết kiếp trước cô là con trai tên la Tilakaratna. Cô còn chỉ nghĩa trang và mộ chí của mình tức là của bé trai Tilakaratna cho mọi người thấy. Khi kiểm tra lại mọi chi tiết của bé Gnanatillaka ra đời, vùng TalaWakele có cậu bé tên là Tilakaratna và cậu bé chính là con của hai ông bà mà cô bé nhận là cha mẹ tiền kiếp. Cậu bé Tilakaratna chết yểu vào ngày 9 tháng 11 năm 1945 chôn tại nghĩa trng mà bé Gnanatillka đã dẫn mọi người đến chỉ đúng mộ chí và bảo đó là mộ chí của mình ngày xưa (ý nói đến tiền kiếp).
Trong cuốn Bạn Tin có Tái Sanh, tác giả Minh Tuệ (1974) đã viết lại một số trường hợp có thực về tái sanh (tài liệu được cung cấp bởi Đại Đức Narada Maha Thera, ông Francis Story và Amarasiri Weerarartna) xin tóm lượt như sau:
Trường Hợp Nam Tài Tử Nổi Danh Glenn Ford Giới điện ảnh quốc tế và giới mộ điệu phim ảnh không ai là không biết đến nam tài tử gạo cội Glenn Ford của màn bạc Hoa Kỳ. Cuộc sống sôi động qua các vai của Glenn Ford trong cuộc đời hiện tại cũng tượng như trong "Những cuộc đời tiền kiếp" của ông. Glenn Ford nói: "Tôi không mê tín dị đoan, tôi không tin những điều mù quáng vớ vẩn, nhưng tôi tin vào cái gọi là đầu thai".
Glenn Ford ngoài say mê đóng phim, ông còn một say mê khác là tìm hiểu những vấn đề có tính cách huyền bí nhưng đầy tính khoa học. Ông say mê lý thuyết về Thiền học, và đồn ý ới phương pháp yên tĩnh tâm hồn qua thuật thôi miên. Chính nhờ sự giúp đỡ của một chuyên gia tài giỏi về khoa thôi miên Glenn Ford đã ghi lại qua băng ghi âm lời thuật về chính tiền kiếp của mình như sau:
"Năm 1774 tôi chào đời tại Egin (thuộc xứ Scotland). Tên tôi lúc ấy là Charles Stewart, là một nhạc sư, tôi thường dạy nhạc cho nhiều người. Về sau tôi bị bệnh phổi và qua đời n8m 1812".
Tôi còn biết là tôi cũng đã trải qua một kiếp làm người nữa vào thời đại vua Louis thứ 14 của nước Pháp nghĩa là khoảng những năm 1643 đến 171.
Lúc bấy giở tôi là một sĩ quan kỵ binh bảo vệ hoàng cung tên tôi là Lanvaux. Trong thời gian bảo vệ điện Versailles, tôi đã để ý và yêu tha thiết một phụ nữ quý tộc đã có chồng. Không may là câu chuyện yêu đương tuy chưa thành sự thật, nhưng lại bị chồng người đàn bà nầy biết và thách thức đấu súng. Kết quả là tôi bị bắn trọng thương và tôi phải trải qua một thời gian dài đau đớn quằn quại trước khi chết..."
Điều kỳ lạ là sau nầy khi nam tài tử Glenn Ford còn sống, ông thường hay bị đau nhức ngưới, chỗ đau nầy chính Glenn Ford cảm nhận rõ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của mình về vết đau kỳ lạ ấy. Chính Glenn Ford đã viết trong tập hồi ký đời mình về vấn đề nầy như sau:
"Vết thương từ cuộc đấu súng tay đôi từ "kiếp trước" ấy vẫn thỉnh thoảng làm tôi đau đớn ngay ở "đời hiện tại" và chỉ có mình tôi cảm nhận đều được đó thôi."
Trường Hợp Cậu Bé Michael Croston Machael Croston sanh tại Liverpool (nước Anh). Năm Michael đước 11 tuổi tự nhiên cậu bé có phong thái của một người lớn chững chạc và cậu cảm nhận được rằng mình chính là ông ngoại của đã qua đời trước trước khi Michael chào đời. Chính mọi người trong gia đình của Michael cũng thấy rõ điều đó. Cậu bé thuộc nằm lòng các đường phố lớn, nhỏ, mòn, đường tắt vùng hoang giã.
Yorkshire nơi quê nhà của cậu, nhưng cậu chưa bao giờ đặt chân tới. Vậy mà cậu đã dẫn người nhà đến đó và chỉ những ngã tắt, cửa sau, đường băng như một người đã sống ở đó lâu đời. Chỉ có ông ngoại của cậu mới có khả năng ấy thôi.
Một điều lạ lùng đã xảy ra là có một đêm, Michael trằn trọc không ngủ được nơi căn trại khi chiết đồng hồ quả lắc to lớn cứ tích tắc như nhắc nhở cậu điều gì. Rồi khi đồng hồ điểm 2 giờ khuya, cậu cảm thấy như có cái gì đó thôi thúc khiến phải vùng dậy chạy nhanh xuống dưới cầu thang và lần tay sau chiếc đồng hồ, cậu gặp một cái nút kéo ra. Trong một cái hốc, tay cậu chạm vào những tờ giấy bạc để trong chiếc hộp kim loại. Về sau hiện tượng lạ lùng nầy đã được biết rõ nguyên nhân hơn về sự khám phá món tiền mà ngày xưa ông ngoại cậu đã cất dấu. Nguyên nhân khêu gợi quá khứ chính là tiếng đồng hồ kêu và khi đồng hồ vang lên 2 tiếng thì dó là giờ mà xưa kia ông ngoại cậu đã chết.
Trường Hợp Edith Oliver (Người Anh) Bà Edith Oliver là nữ ký giả Anh đã có lần viếng ngôi làng Avenbury. Khi đến địa điểm nầy bà bỗng nhiên nhớ lại rằng nơi đây có chợ búa với những khối đá to lớn. Tuy nhiên rằng dân làng bảo rằng ở Avenbury không có như vậy nhưng cuối cùng các tài liệu địa phương chí lại cho thấy vào những năm 1800 đến 1850 quả thật ở đây có những điều mà bà Edith Oliver đã mô tả. Như vậy chỉ có một kết luận là kiếp trước bà Edith Oliver sống tại đó?
Trường Hợp Cô Bé Gnanatilaka Gnanatilaka sinh năm 1956 tại Kotamale (Tích Lan) khi gần năm tuổi cô bé nầy đòi cha mẹ dẫn đi tìm cha mẹ ruột chính thức của mình. Lời yêu cầu ấy cứ mãi lập đi lập lại nhiều lần nhưng cha mẹ cô bé vẫn cho là con mình nói cho vui miệng hoặc nghĩ rằng người trong xóm làng bày vẽ nó nói mà thôi. Tuy nhiên càng lớn đứa bé càng van nài khẩn thiết được gặp mặt cha mẹ nó. Chuyện lạ lùng nầy đến tai một số nhà khoa học, tâm lý và tôn giáo trong vùng. Cuối cùng, lời yêu cầu của bé Gnanatilaka được thực hiện. Phái đoàn đi chung với cô bé đến vùng Talawakele. Cô bé dẫn đường rất rành rẽ. Họ bước vào một căn nhà mà cô bé gọi là nhà cha mẹ mình. Bé giới thiệu hai vợ chồng ngôi nhà nầy là cha mẹ kiếp trước của mình. Lúc ấy có một giáo viên nhà trong vùng nghe chuyện đến xem thì cô bé bảo là thầy cô. Cô bé cho biết kiếp trước cô là con trai tên la Tilakaratna. Cô còn chỉ nghĩa trang và mộ chí của mình tức là của bé trai Tilakaratna cho mọi người thấy. Khi kiểm tra lại mọi chi tiết của bé Gnanatillaka ra đời, vùng TalaWakele có cậu bé tên là Tilakaratna và cậu bé chính là con của hai ông bà mà cô bé nhận là cha mẹ tiền kiếp. Cậu bé Tilakaratna chết yểu vào ngày 9 tháng 11 năm 1945 chôn tại nghĩa trng mà bé Gnanatillka đã dẫn mọi người đến chỉ đúng mộ chí và bảo đó là mộ chí của mình ngày xưa (ý nói đến tiền kiếp).
Điều kỳ lạ
là hai gia đình không liên lạc quen biết nhau và ở rất xa nhau vậy mà tất cả những
gì cô bé đã mô tả về gia đình mà cô bé đòi đến hoàn toàn đúng.
Chính bác sĩ Stevenson cũng đã đích thân đến Tích Lan để theo dõi và tìm hiểu vấn đề nầy và bác sĩ đã bảo rằng, đây là một trường hợp đặc biệt trong các trường hợp lạ lùng về hiện tượng tái sinh.
Nhà nghiên cứu về sự chết và những hiện tượng tiếp diễn sau khi chết là Jeffrey Iverson đã thu thập nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề, trong đó có vấn đề Luân Hồi và Tái Sinh. Trong cuốn In Search of the Death xuất bản năm 1992, Jeffrey Iverson đã đưa ra một số trường hợp tái sinh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là những chuyện có thật được xem như những bằng chứng rõ ràng nhất về hiện tượng luân hồi.
Chính bác sĩ Stevenson cũng đã đích thân đến Tích Lan để theo dõi và tìm hiểu vấn đề nầy và bác sĩ đã bảo rằng, đây là một trường hợp đặc biệt trong các trường hợp lạ lùng về hiện tượng tái sinh.
Nhà nghiên cứu về sự chết và những hiện tượng tiếp diễn sau khi chết là Jeffrey Iverson đã thu thập nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề, trong đó có vấn đề Luân Hồi và Tái Sinh. Trong cuốn In Search of the Death xuất bản năm 1992, Jeffrey Iverson đã đưa ra một số trường hợp tái sinh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là những chuyện có thật được xem như những bằng chứng rõ ràng nhất về hiện tượng luân hồi.
Sau đây
là vài chuyện điển hình:
Trường Hợp Cô Bé Shanti Devi ở Ấn Độ Câu chuyện có thật sau đây về cô bé Shanti Devi đã một thời làm xôn xao dư luận Ân đến độ báo chí, đài phát thanh, các phái đoàn khoa học và ngay cả Ghandi, người cha của dân tộc Ấn cũng phải đích thân tới gặp mặt Shanti để hỏi chuyện. Chính bác sĩ Ian Stevenson, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng liên quan đến luân hồi tái sinh ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới cũng đã phát biểu như sau:
- Trường hợp của bé Shanti Devi có thể nói là một trường hợp cổ điển nhất về hiện tượng đầu thai.
Nhà nghiên cứu và biên soạn các sách chuyên về các vấn đề huyền bí siêu linh là Jeffrey Iverson cũng đã tìm hiểu kỹ câu chuyện theo từng chi tiết một vào năm 1988. Các nhà nghiên cứu đã đến Đê li (Delhi) để gặp Shanti và hy vọng khám phá thêm nhiều điều lý thú lạ lùng khác nhưng không may cho họ là Shanti Devi đã qua đời trước đó 2 tháng hưỡng thọ 61 tuổi. Mặc dầu vậy, tại Delhi, hầu như ai cũng biết chuyện bé Shanti tái sanh. Họ biết được câu chuyện rất rõ ràng từ năm 1935 là năm khởi phát ra sự kiện lạ lùng. Về sau trong gia đình Shanti, ông Viresh Narair là người anh ruột đã thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới đến tìm hiểu và ông đã kể lại mọi chi tiết về trường hợp Shanti Devi, em gái ông. Nhưng năm sau đó vấn đề chưa lắng dịu. Nhiều nhà nghiên cứu sự kiện nêu nhiều ý kiến như Bal Chand Nahata thuộc Hiệp Hội Phân Tích Tâm Lý ở Ấn Độ cho rằng cần phải có sự tiếp tay hỗ trợ của những nhà tâm lý học, những nhà khoa học trong ủy ban điều tra thì mới hy vọng đem lại những khám phá trung thực. Qua những cuộc tìm hiểu, phỏng vấn, đối chiếu các sự kiện từ năm 1935 đến năm 1938 các nhà nghiên cứu vẫn chưa hài lòng vì có nhiều điểm chưa được rõ ràng. Phải đến 3 năm sau, một nhân vật có tiếng khác là ông Sushil Bose đã bỏ khá nhiều thời gian để tìm hiểu về trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đã tìm ra được bằng chứng xác thực chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là có thật.
Shanti đã kể về tất cả những diễn tiến của tiền kiếp mình, lúc đó Shanti là người đàn bà tên Ludgi. Theo Sushi Bose nhà nghiên cứu hiện tượng Shanti thì trước tiên, ông tìm gặp người cha của Shanti tên là Rang Bahadur Mathur ở Cheerakhana và được biết rằng bé Shanti Devi biết nói chậm hơn các trẻ khác cùng lứu tuổi. Phải đến năm 3 tuổi Shanti mới nói được. Bé luân luôn trầm tư mặc tưởng, đăm chiêu tư lư lạ thường. Đôi khi những trẻ con khác chọc ghẹo hay làm điều sai quấy, ồn ào gây bất hòa xích mích thì Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng, nghiêm trang, trông giống như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp thần tình. Một chuyện lạ đã xảy ra sau đó khi Shanti ngồi chung với gia đình trong bữa cơm chiều. Shanti đã hỏi người mẹ một câu như sau:
- Mẹ ơi! Con thấy mẹ nấu những món ăn khác với những gì con đã ăn lúc ở thị trấn Mathura quá nhiều. Những món nầy con ăn không quen. Còn quần áo cũng vậy cũng có khác với nơi con đã sống trước đây. Mẹ biết không, gia đình con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn nhà con đã ở thì sơn màu vàng.
Mọi người trong lúc đầu còn ngạc nhiên về câu nói kỳ lạ đó, nhưng sau đó trở thành thói quen và không ai còn quan tâm đến một đứa bé con đôi khi hay phát ngôn những câu "bậy bạ"... Tuy nhiên, càng về sau Shanti càng tỏ vẻ nôn nóng và năn nỉ cha mẹ dẫn mình đến thăm căn nhà cũ ở Mathura và nhất là để thăm người chồng ngày xưa hiện còn sống ở đó.
Một nhà giáo ở Đề Li (Delhi) nghe chuyện lạ về Shanti nên đã tìm gặp tìm hiểu. Lúc đó Shanti đúng 8 tuổi. Nhà giáo nầy cố gắng tìm cách để Shanti nhớ lại rằng nếu kiếp trước quả thật bé đã sống ở thị trấn Mathura có chồng ở đó thì hãy thử nhớ lại tên chồng xem sao. Khi nghe lời yêu cầu nầy, Shanti liền trả lời như sau: "Nếu tôi thấy được anh ấy tôi sẽ nhận ra ngay". Theo báo cáo ghi lại thì sở dĩ Shanti không nhắc đến tên chồng là do phong tục ngày xưa của người Ấn khi theo đạo Hindu thì người vợ không bao giờ nói tên chồng mình cho người khác biết. Nhà giáo nầy đã tìm cách mua chuộc Shanti (vì Shanti chỉ là một cô bé nhỏ dại) bằng một vài quà tặng và còn hứa rằng nếu bé nói rõ tên chồng lúc đó thì ông ta sẽ giúp bé đến thị trấn Mathura. Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà giáo và nói nhỏ vào tai ông ta: "Ông nhớ giữ in nhé! tên chồng tôi lúc đó là Pandit Kedernath Chowbey".
Trong khi đó người cha của bé Shanti lại cho biết như sau: "Chẳng có ai trong gia đình biết về những gì bé Shanti đã nói cả. Chẳng có ai hay biết thăm dò, điều tra gì về căn nhà ở Mathura hay người được gọi là chồng của Shanti nói ra đều có thật! Chúng tôi toàn thể gia đình đều mong soa cho Shanti quên đi những gì mà cháu thường nhắc nhở đến má thôi".
Về sau, nhà giáo nầy lại đến lần nữa và lần nầy đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lalá Kishan Chand, hai người nầy yêu cầu Shanti mô tả thất rõ ràng căn nhà ở Mathura, cả số nhà, con đường nữa. Họ ghi lại cẩn thận và hỏi về người đàn ông mà Shanti đã bảo là chồng tiền kiếp của mình. Rồi chẳng chờ đợi lâu, ông Chand viết một lá thư trình bày sự việc gởi ngay đến cho Pandit Kedenmath Chowbey là người chồng kiếp trước của Shanti theo địa chỉ ấy ở thị trấn Mathura. Họ gọi đây là "một bức thư may rủi" vì họ không chắc có người và địa chỉ như Shanti đã nói.
Một thời gian không lâu, họ nhận được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia đình Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc vì trên phong bì có ghi rõ họ người gởi là tên của người Shanti đã từng bảo là chồng mình. Khi đọc lá thư, ông Chand hoàn toàn sửng sốt, vì những gì viết trong thư đều phù hợp với những gì mà Shanti đã mô tả. Người viết thư nầy chính là Chowbey. (đúng tên người mà Shanti thường bảo là chồng mình ở tiền kiếp) Chowbey có cho ông Chand biết là anh ta có một người vợ tên là Lugdi đã chết. Chính anh ta cũng rất ngạc nhiên về những điều mà ông Chand đã viết trong thư về chuyện Shanti. Chowbey viết thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Đề Li (Delhi) đến gặp mặt Shanti để tỏ rõ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey tên là Pandit Kanjimall đã tìm đến nhà Shanti đã nhận ra ngay là người em họ của chồng mình và Shanti đã hỏi thăm đủ chuyện nào là chuyện con cái, chuyện ngôi nhà ở Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo, cửa tiệm nầy ở trước ngôi đền Dwarikadesh. Thấy Shanti còn nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn. Vả lại người nhà Shanti còn cho biết là Shanti cũng như mọi người trong gia đình chưa ai từng đặt chân tới thị trấn Mathura thì Kanjimall lại càng kinh ngạc hơn nữa vì tất cả những gì mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 1935, người đàn ông tên là Chowbey ở Mathura sau khi nhận được thư do người em họ kể lại chuyện lạ lùng về Shanti và còn cho biết là Shanti có thể là hiện thân của Lugdi Devi, vợ của Chowbey nên anh ta vừa bán tín bán nghi, vừa nôn nao hồi hộp, vội vã đáp tàu hỏa đến Đề Li để gặp Shanti, người tự nhận là vợ anh.
Chowbey khi đi còn dẫn theo một cháu bé trai chính là con của Lugdi Devi, tên là Nabanita Lall (hiện tại thì đứa con trai nầy lớn tuổi hơn Shanti). Ngoài ra, đi theo Chowbey còn có người em họ là Kanjimall và người vợ mới sau nầy mà Chowbey đã cưới sau khi Lugdi Devi qua đời. Khi cả bốn người nầy vào nhà thì Shanti còn đi học chưa về.
Trong khi chờ đợi, người nhà trong gia đình Shanti sau khi nghe Chowbey thuật lại mọi việc có liên quan đến Shanti thì vội vã mời khách ngồi chơi và cũng kể hết những gì đã xảy ra về trường hợp lạ lùng khó hiểu của con gái họ là bé Shanti. Khoảng một giờ sau Shanti đi học về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên vì thấy có nhiều người nơi phòng khách, Shanti vừa chào khách vừa nhìn lén từng người. Khi Shanti nhìn Chowbey thì bỗng nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên Chowbey với thái độ bẻn lẻn e thẹn. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo dõi. Người nhà Shanti liền chỉ Chowbey và nói:
Trường Hợp Cô Bé Shanti Devi ở Ấn Độ Câu chuyện có thật sau đây về cô bé Shanti Devi đã một thời làm xôn xao dư luận Ân đến độ báo chí, đài phát thanh, các phái đoàn khoa học và ngay cả Ghandi, người cha của dân tộc Ấn cũng phải đích thân tới gặp mặt Shanti để hỏi chuyện. Chính bác sĩ Ian Stevenson, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng liên quan đến luân hồi tái sinh ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới cũng đã phát biểu như sau:
- Trường hợp của bé Shanti Devi có thể nói là một trường hợp cổ điển nhất về hiện tượng đầu thai.
Nhà nghiên cứu và biên soạn các sách chuyên về các vấn đề huyền bí siêu linh là Jeffrey Iverson cũng đã tìm hiểu kỹ câu chuyện theo từng chi tiết một vào năm 1988. Các nhà nghiên cứu đã đến Đê li (Delhi) để gặp Shanti và hy vọng khám phá thêm nhiều điều lý thú lạ lùng khác nhưng không may cho họ là Shanti Devi đã qua đời trước đó 2 tháng hưỡng thọ 61 tuổi. Mặc dầu vậy, tại Delhi, hầu như ai cũng biết chuyện bé Shanti tái sanh. Họ biết được câu chuyện rất rõ ràng từ năm 1935 là năm khởi phát ra sự kiện lạ lùng. Về sau trong gia đình Shanti, ông Viresh Narair là người anh ruột đã thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới đến tìm hiểu và ông đã kể lại mọi chi tiết về trường hợp Shanti Devi, em gái ông. Nhưng năm sau đó vấn đề chưa lắng dịu. Nhiều nhà nghiên cứu sự kiện nêu nhiều ý kiến như Bal Chand Nahata thuộc Hiệp Hội Phân Tích Tâm Lý ở Ấn Độ cho rằng cần phải có sự tiếp tay hỗ trợ của những nhà tâm lý học, những nhà khoa học trong ủy ban điều tra thì mới hy vọng đem lại những khám phá trung thực. Qua những cuộc tìm hiểu, phỏng vấn, đối chiếu các sự kiện từ năm 1935 đến năm 1938 các nhà nghiên cứu vẫn chưa hài lòng vì có nhiều điểm chưa được rõ ràng. Phải đến 3 năm sau, một nhân vật có tiếng khác là ông Sushil Bose đã bỏ khá nhiều thời gian để tìm hiểu về trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đã tìm ra được bằng chứng xác thực chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là có thật.
Shanti đã kể về tất cả những diễn tiến của tiền kiếp mình, lúc đó Shanti là người đàn bà tên Ludgi. Theo Sushi Bose nhà nghiên cứu hiện tượng Shanti thì trước tiên, ông tìm gặp người cha của Shanti tên là Rang Bahadur Mathur ở Cheerakhana và được biết rằng bé Shanti Devi biết nói chậm hơn các trẻ khác cùng lứu tuổi. Phải đến năm 3 tuổi Shanti mới nói được. Bé luân luôn trầm tư mặc tưởng, đăm chiêu tư lư lạ thường. Đôi khi những trẻ con khác chọc ghẹo hay làm điều sai quấy, ồn ào gây bất hòa xích mích thì Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng, nghiêm trang, trông giống như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp thần tình. Một chuyện lạ đã xảy ra sau đó khi Shanti ngồi chung với gia đình trong bữa cơm chiều. Shanti đã hỏi người mẹ một câu như sau:
- Mẹ ơi! Con thấy mẹ nấu những món ăn khác với những gì con đã ăn lúc ở thị trấn Mathura quá nhiều. Những món nầy con ăn không quen. Còn quần áo cũng vậy cũng có khác với nơi con đã sống trước đây. Mẹ biết không, gia đình con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn nhà con đã ở thì sơn màu vàng.
Mọi người trong lúc đầu còn ngạc nhiên về câu nói kỳ lạ đó, nhưng sau đó trở thành thói quen và không ai còn quan tâm đến một đứa bé con đôi khi hay phát ngôn những câu "bậy bạ"... Tuy nhiên, càng về sau Shanti càng tỏ vẻ nôn nóng và năn nỉ cha mẹ dẫn mình đến thăm căn nhà cũ ở Mathura và nhất là để thăm người chồng ngày xưa hiện còn sống ở đó.
Một nhà giáo ở Đề Li (Delhi) nghe chuyện lạ về Shanti nên đã tìm gặp tìm hiểu. Lúc đó Shanti đúng 8 tuổi. Nhà giáo nầy cố gắng tìm cách để Shanti nhớ lại rằng nếu kiếp trước quả thật bé đã sống ở thị trấn Mathura có chồng ở đó thì hãy thử nhớ lại tên chồng xem sao. Khi nghe lời yêu cầu nầy, Shanti liền trả lời như sau: "Nếu tôi thấy được anh ấy tôi sẽ nhận ra ngay". Theo báo cáo ghi lại thì sở dĩ Shanti không nhắc đến tên chồng là do phong tục ngày xưa của người Ấn khi theo đạo Hindu thì người vợ không bao giờ nói tên chồng mình cho người khác biết. Nhà giáo nầy đã tìm cách mua chuộc Shanti (vì Shanti chỉ là một cô bé nhỏ dại) bằng một vài quà tặng và còn hứa rằng nếu bé nói rõ tên chồng lúc đó thì ông ta sẽ giúp bé đến thị trấn Mathura. Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà giáo và nói nhỏ vào tai ông ta: "Ông nhớ giữ in nhé! tên chồng tôi lúc đó là Pandit Kedernath Chowbey".
Trong khi đó người cha của bé Shanti lại cho biết như sau: "Chẳng có ai trong gia đình biết về những gì bé Shanti đã nói cả. Chẳng có ai hay biết thăm dò, điều tra gì về căn nhà ở Mathura hay người được gọi là chồng của Shanti nói ra đều có thật! Chúng tôi toàn thể gia đình đều mong soa cho Shanti quên đi những gì mà cháu thường nhắc nhở đến má thôi".
Về sau, nhà giáo nầy lại đến lần nữa và lần nầy đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lalá Kishan Chand, hai người nầy yêu cầu Shanti mô tả thất rõ ràng căn nhà ở Mathura, cả số nhà, con đường nữa. Họ ghi lại cẩn thận và hỏi về người đàn ông mà Shanti đã bảo là chồng tiền kiếp của mình. Rồi chẳng chờ đợi lâu, ông Chand viết một lá thư trình bày sự việc gởi ngay đến cho Pandit Kedenmath Chowbey là người chồng kiếp trước của Shanti theo địa chỉ ấy ở thị trấn Mathura. Họ gọi đây là "một bức thư may rủi" vì họ không chắc có người và địa chỉ như Shanti đã nói.
Một thời gian không lâu, họ nhận được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia đình Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc vì trên phong bì có ghi rõ họ người gởi là tên của người Shanti đã từng bảo là chồng mình. Khi đọc lá thư, ông Chand hoàn toàn sửng sốt, vì những gì viết trong thư đều phù hợp với những gì mà Shanti đã mô tả. Người viết thư nầy chính là Chowbey. (đúng tên người mà Shanti thường bảo là chồng mình ở tiền kiếp) Chowbey có cho ông Chand biết là anh ta có một người vợ tên là Lugdi đã chết. Chính anh ta cũng rất ngạc nhiên về những điều mà ông Chand đã viết trong thư về chuyện Shanti. Chowbey viết thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Đề Li (Delhi) đến gặp mặt Shanti để tỏ rõ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey tên là Pandit Kanjimall đã tìm đến nhà Shanti đã nhận ra ngay là người em họ của chồng mình và Shanti đã hỏi thăm đủ chuyện nào là chuyện con cái, chuyện ngôi nhà ở Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo, cửa tiệm nầy ở trước ngôi đền Dwarikadesh. Thấy Shanti còn nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn. Vả lại người nhà Shanti còn cho biết là Shanti cũng như mọi người trong gia đình chưa ai từng đặt chân tới thị trấn Mathura thì Kanjimall lại càng kinh ngạc hơn nữa vì tất cả những gì mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 1935, người đàn ông tên là Chowbey ở Mathura sau khi nhận được thư do người em họ kể lại chuyện lạ lùng về Shanti và còn cho biết là Shanti có thể là hiện thân của Lugdi Devi, vợ của Chowbey nên anh ta vừa bán tín bán nghi, vừa nôn nao hồi hộp, vội vã đáp tàu hỏa đến Đề Li để gặp Shanti, người tự nhận là vợ anh.
Chowbey khi đi còn dẫn theo một cháu bé trai chính là con của Lugdi Devi, tên là Nabanita Lall (hiện tại thì đứa con trai nầy lớn tuổi hơn Shanti). Ngoài ra, đi theo Chowbey còn có người em họ là Kanjimall và người vợ mới sau nầy mà Chowbey đã cưới sau khi Lugdi Devi qua đời. Khi cả bốn người nầy vào nhà thì Shanti còn đi học chưa về.
Trong khi chờ đợi, người nhà trong gia đình Shanti sau khi nghe Chowbey thuật lại mọi việc có liên quan đến Shanti thì vội vã mời khách ngồi chơi và cũng kể hết những gì đã xảy ra về trường hợp lạ lùng khó hiểu của con gái họ là bé Shanti. Khoảng một giờ sau Shanti đi học về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên vì thấy có nhiều người nơi phòng khách, Shanti vừa chào khách vừa nhìn lén từng người. Khi Shanti nhìn Chowbey thì bỗng nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên Chowbey với thái độ bẻn lẻn e thẹn. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo dõi. Người nhà Shanti liền chỉ Chowbey và nói:
- Đây là
người anh cả của chồng cháu ngày xưa, vậy cháu có nhận ra không?
Shanti vừa mân mê vạt áo vừa trả lời:
- Không phải đâu, đây là chồng của con. Con đã nói chuyện nầy nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai tin con cả.
Mọi người nghe Shanti nói đều hết sức lạ lùng. Người nầy nhìn người kia, còn Chowbey thì nhìn Shanti chăm chăm. Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc mơ. Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey thì nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm vừa hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi tìm đồ chơi cho nó và có lẽ sợ mẹ đi tìm chậm nên Shanti đã hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà đem lại cho "con".
Về sau người cha của Shanti đã kể lại hình ảnh lạ lùng nầy mà ông đã chứng kiến rõ ràng. Mặc dầu Shanti còn nhỏ nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt biểu lộ rõ nét những đức tính của một người mẹ thương con. Đó là cả một sự lạ lùng khó hiểu.
Theo lời người cha của Shanti kể lại thì không ai còn cho Shanti là một đứa bé con nữa cả. Còn Shanti thì nước mắt trào ra vì sung sướng mà khóc. Mọi người khi đó thấy cảnh tượng ấy cũng tự nhiên mủi lòng rơi lệ...
Mặc dầu câu chuyện được dấu kỷ không để lộ ra ngoài nhưng ở Ấn Độ cũng như ở những nước Đông Nam Á khác không có chuyện nhà nào dù kín đáo bí mật đến đâu mà hàng xóm láng giềng lại không biết.
Vì thế mà câu chuyện về bé Shanti chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người tụ tập lại nhà Shanti để xem chuyện "lạ nhất thế gian nhưng có thật".
Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ thúc mẹ làm cơm mời gia đình Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường thích. Khi thấy người vợ mới của Chowbey ngồi gần bên người em họ có đeo nhiều nữ trang ấy trước đây là của mình (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi), sau khi Lugdi mất, Chowbey đã lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo.
Sau bữa cơm, Shanti quay lại hỏi Chowbey:
- Anh Chowbey, tại sao anh lại cưới chị ấy? Có phải chúng ta đã đồng ý với nhau trước khi tôi nhắm mắt là anh sẽ không cưới vợ lần nữa?
Cả nhà lại một phen kinh ngạc vì câu nói hoàn toàn là của người lớn đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn, lý lẽ luật lệ mà ngoài người lớn ra, tuyệt đối không thể một đứa trẻ nào có thể phát ngôn một cách tự nhiên như vậy được.
Trong khi mọi người còn đang ngơ ngác thì Chowbey đưa hai tay ôm lấy đầu cúi gục xuống không nói gì cả. Có lẽ Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của mình cùng những gì mà hai người đã ước hẹn thề nguyền với nhau hồi trước đó.
Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt lên nhìn Shanti và hỏi:
- Shanti đã tả lại ngôi nhà trước đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có thể biết được những gì trong vườn nhà ấy chứ?
Shanti gật đầu nói:
- Phải, tôi còn nhớ rất rõ ngôi nhà và cả khu vườn. Nơi khu vườn, ở phía góc có một cái giếng. Tôi thường ngồi bên giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa...
Chowbey lại hỏi:
Shanti vừa mân mê vạt áo vừa trả lời:
- Không phải đâu, đây là chồng của con. Con đã nói chuyện nầy nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai tin con cả.
Mọi người nghe Shanti nói đều hết sức lạ lùng. Người nầy nhìn người kia, còn Chowbey thì nhìn Shanti chăm chăm. Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc mơ. Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey thì nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm vừa hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi tìm đồ chơi cho nó và có lẽ sợ mẹ đi tìm chậm nên Shanti đã hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà đem lại cho "con".
Về sau người cha của Shanti đã kể lại hình ảnh lạ lùng nầy mà ông đã chứng kiến rõ ràng. Mặc dầu Shanti còn nhỏ nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt biểu lộ rõ nét những đức tính của một người mẹ thương con. Đó là cả một sự lạ lùng khó hiểu.
Theo lời người cha của Shanti kể lại thì không ai còn cho Shanti là một đứa bé con nữa cả. Còn Shanti thì nước mắt trào ra vì sung sướng mà khóc. Mọi người khi đó thấy cảnh tượng ấy cũng tự nhiên mủi lòng rơi lệ...
Mặc dầu câu chuyện được dấu kỷ không để lộ ra ngoài nhưng ở Ấn Độ cũng như ở những nước Đông Nam Á khác không có chuyện nhà nào dù kín đáo bí mật đến đâu mà hàng xóm láng giềng lại không biết.
Vì thế mà câu chuyện về bé Shanti chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người tụ tập lại nhà Shanti để xem chuyện "lạ nhất thế gian nhưng có thật".
Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ thúc mẹ làm cơm mời gia đình Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường thích. Khi thấy người vợ mới của Chowbey ngồi gần bên người em họ có đeo nhiều nữ trang ấy trước đây là của mình (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi), sau khi Lugdi mất, Chowbey đã lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo.
Sau bữa cơm, Shanti quay lại hỏi Chowbey:
- Anh Chowbey, tại sao anh lại cưới chị ấy? Có phải chúng ta đã đồng ý với nhau trước khi tôi nhắm mắt là anh sẽ không cưới vợ lần nữa?
Cả nhà lại một phen kinh ngạc vì câu nói hoàn toàn là của người lớn đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn, lý lẽ luật lệ mà ngoài người lớn ra, tuyệt đối không thể một đứa trẻ nào có thể phát ngôn một cách tự nhiên như vậy được.
Trong khi mọi người còn đang ngơ ngác thì Chowbey đưa hai tay ôm lấy đầu cúi gục xuống không nói gì cả. Có lẽ Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của mình cùng những gì mà hai người đã ước hẹn thề nguyền với nhau hồi trước đó.
Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt lên nhìn Shanti và hỏi:
- Shanti đã tả lại ngôi nhà trước đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có thể biết được những gì trong vườn nhà ấy chứ?
Shanti gật đầu nói:
- Phải, tôi còn nhớ rất rõ ngôi nhà và cả khu vườn. Nơi khu vườn, ở phía góc có một cái giếng. Tôi thường ngồi bên giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa...
Chowbey lại hỏi:
- Làm thế
nào mà Shanti lại nhận được Nabanita là con mình vào giờ phút Shanti sắp qua đời
lúc đó vì thằng Nabanita chỉ mới được có 9 ngày thôi?
Shanti suy nghĩ một lúc rồi trả lời Chowbey:
- Bởi vì Nabanita chính là cuộc sống của tôi, là cuộc đời tôi...
Ngày 24 tháng 11 năm 1935, một nhóm người trong ủy ban điều tra những sự kiện về Shanti đến nhà Shanti để cùng đáp tàu hỏa đến thị trấn Mathura để nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề. Lúc bấy giờ chuyện Shanti lan truyền khắp nước. Báo chí Ấn đăng tải nhiều chuyện rất lạ lùng mà học điều tra được về Shanti nhất là nhà báo Indian Press, The Tej... thường dành nhiều trang lớn để kể về chuyện lạ Shanti.
Cùng đi với phái đoàn có Shanti và cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, những người trong ủy ban điều tra đã ghi nhận một sự kiện là khi gần đến nơi, Shanti đã thốt lên một câu như sau:
- Đã 11 giờ rồi, cổng đền Dwarikadesk sắp đóng đấy.
Trong câu nói ấy, người ta thấy có một điều lạ là Shanti đã dùng một từ ngữ đặc biệt có tính cách hoàn toàn địa phương và nhất là từ ngữ mà người Hindi hay dùng.
Dân chúng ở thị trấn Mathura trong những ngày hôm ấy nôn nóng loan truyền với nhau về chuyện cô bé tái sinh Shanti sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đã sống. Báo chí Ấn Độ loan tin ngày hôm đó có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để xem mặt cô bé tái sinh.
Trong khi đó, Shanti ngồi gọn trong lòng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn. Bỗng Shanti thấy một người đàn ông bước tới phía mình, liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với vẻ kính trọng xong đứng sang một bên nói cho Deshbandu nghe rằng: "đây là người anh chồng lớn tuổi nhất lúc xưa của tôi". Mọi người nghe Shanti nói thì hết sức kinh ngạc vì quả thật người đàn ông nầy chính là anh ruột của Chowbey. Anh nầy ở Delhi và đáp tàu đến Mathura thăm gia đình Chowbey vì đã nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người nầy.
Khi bước xuống sân ga, ông Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và nói người đáng xe là cứ theo sự chỉ dẫn đường đi tới nhà của bé Shanti thử xem sao. Trên đường đi, Shanti cho biết là ngày xưa (khi Shanti còn là Lugdi, vợ của Chobey) con đường dẫn tới nhà mình không được rải đá tráng nhựa gì cả.
Đến nơi, Shanti bảo người đáng xe ngựa ngừng lại rồi leo xuống đất rẻ vào một con đường để vào ngôi nhà nhiều cây cối. Shanti gặp một người Bà La Môn (Brahmin) già liền dừng lại kính cẩn chào, xong quay lại nói với những người đi theo sau:
- Đây là ông bố chồng của tôi!
Trong khi đó, hai bên đường làng, dân chúng nghe tin đồn từ trước về chuyện "Shanti về nhà cũ của tiền kiếp" đã tụ tập rất đông để xem cho được cô bé tái sinh.
Còn Shanti sau khi chào bố chồng thì đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của người bố chồng, nơi mà trong tiền kiếp, lúc đó Shanti là Lugdi đã cùng Chowbey đến ở một thời gian.
Shanti đã chỉ nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi mình đã treo, móc, cất quần áo. Shanti còn tỏ ra quen thuộc tự nhiên với những người ở trong ngôi nhà nầy. Điều kỳ lạ nhất là trong đám đông đứng gần nhà, Shanti đã phân biệt rõ ràng được một thanh niên khoảng 25 tuổi là anh ruột của mình ở tiền kiếp (lúc Shanti và Lugdi) và một người đàn ông lớn tuổi mà Shanti gọi là anh của bố chồng.
Đến trưa, những người ở trong ủy ban bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng shanti lúc Shanti là Lugdi đã chỉ đường rõ ràng và đến ngay ngôi nhà đó. Tại đây, Shanti nhớ lại rằng mình đã có nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường ngôi tắm ở đó. Nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối và suy nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói:
- Nơi nầy nầy! tôi nhớ rõ chính nơi nầy ngày trước có cái giếng mà...
Những người có mặt tại chỗ đến ngay nơi Shanti đã dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỷ và khám phá ra rằng đã có một phiến đá lớn đặt lên đó và từ lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không còn thấy miệng giếng nữa. Hai ba người đàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng lộ ra rõ ràng.
Shanti suy nghĩ một lúc rồi trả lời Chowbey:
- Bởi vì Nabanita chính là cuộc sống của tôi, là cuộc đời tôi...
Ngày 24 tháng 11 năm 1935, một nhóm người trong ủy ban điều tra những sự kiện về Shanti đến nhà Shanti để cùng đáp tàu hỏa đến thị trấn Mathura để nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề. Lúc bấy giờ chuyện Shanti lan truyền khắp nước. Báo chí Ấn đăng tải nhiều chuyện rất lạ lùng mà học điều tra được về Shanti nhất là nhà báo Indian Press, The Tej... thường dành nhiều trang lớn để kể về chuyện lạ Shanti.
Cùng đi với phái đoàn có Shanti và cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, những người trong ủy ban điều tra đã ghi nhận một sự kiện là khi gần đến nơi, Shanti đã thốt lên một câu như sau:
- Đã 11 giờ rồi, cổng đền Dwarikadesk sắp đóng đấy.
Trong câu nói ấy, người ta thấy có một điều lạ là Shanti đã dùng một từ ngữ đặc biệt có tính cách hoàn toàn địa phương và nhất là từ ngữ mà người Hindi hay dùng.
Dân chúng ở thị trấn Mathura trong những ngày hôm ấy nôn nóng loan truyền với nhau về chuyện cô bé tái sinh Shanti sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đã sống. Báo chí Ấn Độ loan tin ngày hôm đó có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để xem mặt cô bé tái sinh.
Trong khi đó, Shanti ngồi gọn trong lòng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn. Bỗng Shanti thấy một người đàn ông bước tới phía mình, liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với vẻ kính trọng xong đứng sang một bên nói cho Deshbandu nghe rằng: "đây là người anh chồng lớn tuổi nhất lúc xưa của tôi". Mọi người nghe Shanti nói thì hết sức kinh ngạc vì quả thật người đàn ông nầy chính là anh ruột của Chowbey. Anh nầy ở Delhi và đáp tàu đến Mathura thăm gia đình Chowbey vì đã nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người nầy.
Khi bước xuống sân ga, ông Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và nói người đáng xe là cứ theo sự chỉ dẫn đường đi tới nhà của bé Shanti thử xem sao. Trên đường đi, Shanti cho biết là ngày xưa (khi Shanti còn là Lugdi, vợ của Chobey) con đường dẫn tới nhà mình không được rải đá tráng nhựa gì cả.
Đến nơi, Shanti bảo người đáng xe ngựa ngừng lại rồi leo xuống đất rẻ vào một con đường để vào ngôi nhà nhiều cây cối. Shanti gặp một người Bà La Môn (Brahmin) già liền dừng lại kính cẩn chào, xong quay lại nói với những người đi theo sau:
- Đây là ông bố chồng của tôi!
Trong khi đó, hai bên đường làng, dân chúng nghe tin đồn từ trước về chuyện "Shanti về nhà cũ của tiền kiếp" đã tụ tập rất đông để xem cho được cô bé tái sinh.
Còn Shanti sau khi chào bố chồng thì đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của người bố chồng, nơi mà trong tiền kiếp, lúc đó Shanti là Lugdi đã cùng Chowbey đến ở một thời gian.
Shanti đã chỉ nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi mình đã treo, móc, cất quần áo. Shanti còn tỏ ra quen thuộc tự nhiên với những người ở trong ngôi nhà nầy. Điều kỳ lạ nhất là trong đám đông đứng gần nhà, Shanti đã phân biệt rõ ràng được một thanh niên khoảng 25 tuổi là anh ruột của mình ở tiền kiếp (lúc Shanti và Lugdi) và một người đàn ông lớn tuổi mà Shanti gọi là anh của bố chồng.
Đến trưa, những người ở trong ủy ban bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng shanti lúc Shanti là Lugdi đã chỉ đường rõ ràng và đến ngay ngôi nhà đó. Tại đây, Shanti nhớ lại rằng mình đã có nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường ngôi tắm ở đó. Nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối và suy nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói:
- Nơi nầy nầy! tôi nhớ rõ chính nơi nầy ngày trước có cái giếng mà...
Những người có mặt tại chỗ đến ngay nơi Shanti đã dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỷ và khám phá ra rằng đã có một phiến đá lớn đặt lên đó và từ lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không còn thấy miệng giếng nữa. Hai ba người đàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng lộ ra rõ ràng.
Bỗng
Shanti như chợt nhớ ra điều gì nên vội vã quay vào trong nhà. Shanti gọi những
người trong ủy ban theo mình. Lúc nầy có thêm sự hiện diện của Chowbey (chồng của
Shanti kiếp trước). Bước vào một căn phòng, Shanti chỉ xuống đất và nói:
- Đây là phòng ngủ của hai vợ chồng tôi lúc đó, tôi có đào xuống nền nhà của phòng nầy để chôn dấu một số tiền. Hãy đào chỗ nầy lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền...
Khi nền nhà được đào bới lên, mọi người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp ra thì không thấy có gì trong hộp cả.
Shanti nhíu mày tỏ vẻ suy nghĩ và kinh ngạc nhưng cương quyết nói:
- Tôi đã để tiền vào trong cái hộp nầy mà! vậy ai đã lấy tiền đó vậy? Khi đó Chobey có mặt tại chỗ liền nói ngay:
- Vợ tôi là Lugdi có chôn hộp tiền xuống nền nhà của phòng nầy. Khi Lugdi chết, tôi đã phải đào lấy tiền trong hộp để trang trải mọi thứ.
Shanti nghe Chowbey nói liền cúi đầu im lặng.
- Đây là phòng ngủ của hai vợ chồng tôi lúc đó, tôi có đào xuống nền nhà của phòng nầy để chôn dấu một số tiền. Hãy đào chỗ nầy lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền...
Khi nền nhà được đào bới lên, mọi người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp ra thì không thấy có gì trong hộp cả.
Shanti nhíu mày tỏ vẻ suy nghĩ và kinh ngạc nhưng cương quyết nói:
- Tôi đã để tiền vào trong cái hộp nầy mà! vậy ai đã lấy tiền đó vậy? Khi đó Chobey có mặt tại chỗ liền nói ngay:
- Vợ tôi là Lugdi có chôn hộp tiền xuống nền nhà của phòng nầy. Khi Lugdi chết, tôi đã phải đào lấy tiền trong hộp để trang trải mọi thứ.
Shanti nghe Chowbey nói liền cúi đầu im lặng.
Shanti
còn chỉ căn nhà của cha mẹ mình ở tiền kiếp cho những ngưới trong ủy ban điều
tra xem. Shanti bước những bước chân rất tự nhiên và vững vàng quen thuộc lên
các bậc cấp của ngôi nhà tựa hồ như đã ở đây hàng chục năm rồi. ngay tại nhà nầy,
đã có hàng mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà vừa con trẻ ngồi đứng chờ Shanti có thể nhận ra cha mẹ ruột
tiền kiếp của mình không.
Tưởng cũng nên nhớ rằng khi chuyện Shanti loan thuyền khắp nơi. Gia đình Lugdi vẫn còn nhiều ngờ vực. Sau đó ngươi nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông để khi Shanti tới xem cô bé có nhận ra được cha mình ở kiếp trước không? Thế rồi khi Shanti đến, cô bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và phải đi ngang qua đám đông sắp thành hàng ngang đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ đám đông, tiến lại nắm tay một người đàn bà kêu lên:
- Mẹ! Mẹ...
Sau đó, Shanti lại nhận được người cha tiền kiếp của mình đứng trong đám đông. Hai người Shanti nhận là cha ruột của mình ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người có mặt lúc bấy giờ đã la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt vì đã chứng kiến tận mắt một chuyện lạ lùng nhất thế gian về hiện tượng tái sinh kỳ diệu. Shanti còn đưa ủy ban đi thăm những nơi mà trước đây mà Shanti đã sinh sống qua thân xác của Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng phái đoàn trở lại Đê-Li. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti càng tỏ vẽ u buồn rồi vì quá mệt mỏi, Shanti đã ngủ thiếp rất lâu trên đường về.
Có một điều đáng lưu ý khi gặp Chowbey, ông Sushil Bose đã có dịp hỏi Chowbey, chồng của Lugdi về tình trạng sức khỏe và bệnh tình của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết rằng vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương. Sau đó khi trở về Đê-Li, ông Bose hỏi Shanti một câu như sau:
Shanti bảo rằng trước đây Shanti là Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc mình là Lugdi, thì đã bị thương tích, đau ốm nguy hiểm gì trước khi qua đời không? Shanti suy nghĩ một hồi rồi trả lời:
Lúc ấy tôi ( tức là Lugdi rất sùng đạo( đạo Hindu) tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục, đôi khi còn vượt xa các thủ tục đã đề ra. Một hôm, tôi đã đi bộ bằng chân không( chân đất không mang giày dép gì cả) để đi bộ quanh ngôi đền hiển linh rộng lớn ở Harchapiri cả trăm lần không mỏi mệt. Nhưng không may là tôi đã dẫm phải một mảnh xương sắc lẽm và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ đành phải bó tay. Khi nghe Shanti kể song sự việc, ông Bose đã ghi vào cuốn sổ tay của mình một câu như sau:
Không còn nghi ngờ gì nữa về hiện tượng tái sinh luân hồi của Shati Devi và Shanti là một trường hợp điển hình. Tất cả những gì chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn. Đó là điều khẳng định sự thật hiển nhiên rằng Shanti là hậu thân của Lugdi và Lugdi chính là tiền kiếp của bé Shanti.
Người Ấn từ ngàn xưa đã tin vào thuyết luân hồi nên khi chứng kiến rõ ràng sự kiện cô bé Shanti thì họ lại càng tin tưởng nhiều hơn nữa về hiện tượng tái sinh.
Riêng câu chuyện có thật về Shanti thì từ năm 1935 đến nay các sách vở và các tài liệu viết về Shanti được lưu trữ tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới rất nhiều. Tài liệu "Shanti" được coi như là tài liệu mẫu mực nhất cho các nhà nghiên cứu về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo và tiếp tục nghiên cứu thêm.
Mới đây người ta còn bổ sung thêm vào tài liệu Shanti một số sự kiện mới thí dụ những ghi chép trong gia đình về dòng họ Shanti có ghi rằng trước khi Shanti lìa đời 3 hôm, Shanti đã nói với anh mình rằng: "Em nghĩ em luôn luôn là kẻ trung thành, trước sau như một với chồng em, cho dù anh ta (Chowbey) là chồng kiếp trước của em đi nữa. Hơn nữa anh ta vẫn còn đó, vì thế em không muốn tái sinh lại lần nữa."
Được biết là suốt đời Shanti vẫn độc thân không chịu lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt (hưởng thọ 61 tuổi).
Tưởng cũng nên nhớ rằng khi chuyện Shanti loan thuyền khắp nơi. Gia đình Lugdi vẫn còn nhiều ngờ vực. Sau đó ngươi nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông để khi Shanti tới xem cô bé có nhận ra được cha mình ở kiếp trước không? Thế rồi khi Shanti đến, cô bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và phải đi ngang qua đám đông sắp thành hàng ngang đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ đám đông, tiến lại nắm tay một người đàn bà kêu lên:
- Mẹ! Mẹ...
Sau đó, Shanti lại nhận được người cha tiền kiếp của mình đứng trong đám đông. Hai người Shanti nhận là cha ruột của mình ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người có mặt lúc bấy giờ đã la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt vì đã chứng kiến tận mắt một chuyện lạ lùng nhất thế gian về hiện tượng tái sinh kỳ diệu. Shanti còn đưa ủy ban đi thăm những nơi mà trước đây mà Shanti đã sinh sống qua thân xác của Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng phái đoàn trở lại Đê-Li. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti càng tỏ vẽ u buồn rồi vì quá mệt mỏi, Shanti đã ngủ thiếp rất lâu trên đường về.
Có một điều đáng lưu ý khi gặp Chowbey, ông Sushil Bose đã có dịp hỏi Chowbey, chồng của Lugdi về tình trạng sức khỏe và bệnh tình của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết rằng vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương. Sau đó khi trở về Đê-Li, ông Bose hỏi Shanti một câu như sau:
Shanti bảo rằng trước đây Shanti là Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc mình là Lugdi, thì đã bị thương tích, đau ốm nguy hiểm gì trước khi qua đời không? Shanti suy nghĩ một hồi rồi trả lời:
Lúc ấy tôi ( tức là Lugdi rất sùng đạo( đạo Hindu) tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục, đôi khi còn vượt xa các thủ tục đã đề ra. Một hôm, tôi đã đi bộ bằng chân không( chân đất không mang giày dép gì cả) để đi bộ quanh ngôi đền hiển linh rộng lớn ở Harchapiri cả trăm lần không mỏi mệt. Nhưng không may là tôi đã dẫm phải một mảnh xương sắc lẽm và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ đành phải bó tay. Khi nghe Shanti kể song sự việc, ông Bose đã ghi vào cuốn sổ tay của mình một câu như sau:
Không còn nghi ngờ gì nữa về hiện tượng tái sinh luân hồi của Shati Devi và Shanti là một trường hợp điển hình. Tất cả những gì chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn. Đó là điều khẳng định sự thật hiển nhiên rằng Shanti là hậu thân của Lugdi và Lugdi chính là tiền kiếp của bé Shanti.
Người Ấn từ ngàn xưa đã tin vào thuyết luân hồi nên khi chứng kiến rõ ràng sự kiện cô bé Shanti thì họ lại càng tin tưởng nhiều hơn nữa về hiện tượng tái sinh.
Riêng câu chuyện có thật về Shanti thì từ năm 1935 đến nay các sách vở và các tài liệu viết về Shanti được lưu trữ tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới rất nhiều. Tài liệu "Shanti" được coi như là tài liệu mẫu mực nhất cho các nhà nghiên cứu về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo và tiếp tục nghiên cứu thêm.
Mới đây người ta còn bổ sung thêm vào tài liệu Shanti một số sự kiện mới thí dụ những ghi chép trong gia đình về dòng họ Shanti có ghi rằng trước khi Shanti lìa đời 3 hôm, Shanti đã nói với anh mình rằng: "Em nghĩ em luôn luôn là kẻ trung thành, trước sau như một với chồng em, cho dù anh ta (Chowbey) là chồng kiếp trước của em đi nữa. Hơn nữa anh ta vẫn còn đó, vì thế em không muốn tái sinh lại lần nữa."
Được biết là suốt đời Shanti vẫn độc thân không chịu lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt (hưởng thọ 61 tuổi).
Trường Hợp
Bé Dilukshi Ở Sri-Lanka Chuyện bé Dilukshi ở Sri Lanka nhớ lại tiền kiếp
mình cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi quay phim và viết
thành sách. Chính giáo sư Erlendur Haraldson tại đại học Iceland đã là người
theo dõi sát về vấn đề nầy.
Câu chuyện có thật về bé Dilukshi xảy ra như sau:
Năm 1986, bé Dilukshi vừa tròn hai tuổi, mặc dầu với chừng ấy tuổi nhưng bé lại ăn nói những câu còn hơn cả người lớn nữa. Trong các câu nói có những câu làm cha mẹ Dilukshi cảm thấy lo lắng, bối rối. Mỗi lần nói với mẹ, Dilukshi chỉ gọi bằng Dì chớ không gọi bằng mẹ. Bé lại còn năn nỉ cha mẹ hãy đem bé đến cho người mẹ ruột của bé đang ở tại ngôi nhà thuộc vùng Dawbulla. Địa điểm nầy ở cách xa chỗ bé Dilukshi đang sống khoảng 100 cây số. Mỗi lần nghe bé nói là cả nhà vừa ngạc nhiên vừa bực tức vì cứ nghĩ rằng bé đã học của ai, nhưng kiểm soát lại thì trong gia đình chẳng có người nào chỉ bày cho bé Dilukshi nói những câu như thế cả. Tuy nhiên cha mẹ Dilukshi vẫn la rầy và bảo bé hãy câm miệng lại kẻo bị đánh đòn. Bé Dilukshi vẫn không chịu bỏ câu nói và cách gọi mẹ bằng Dì, mà trái lại mỗi lần bị rầy la thì bé Dilukshi lại trả lời như sau:
- Cha mẹ con trước đây không bao giờ la rầy con mà thường nói với con những lời âu yếm nhẹ nhàng thôi:
Ngoài ra Dilukshi còn khẳng định rằng nó đã có lần bị rơi xuống sông Dawbulla.
Cuối cùng, cha mẹ Dilukshi không thể yên tâm, mỗi ngày nghe con mình nói những điều mà họ cho là "vô nghĩa lý". Họ nghĩ có thể con họ bị ma nhập, quỉ ám gì đó, vì thế cha mẹ Dilukshi đã đến tiếp xúc với một vị cao tăng ở một ngôi chùa thuộc vùng Dawbulla. Chẳng bao lâu, câu chuyện về bé Dilukshi được lan truyền khắp nơi. Báo chí đã đưa tin tức về "bé gái Dilukshi lạ kỳ, nói về tiền kiếp của mình". Dân chúng địa phương đua nhau đọc. Trong số đó có một người đàn ông lớn tuổi, sinh sống ở Dawbulla khi theo dõi câu chuyện của bé Dilukshi thì tự nhiên cảm thấy có sự trùng hợp lạ lùng với các tình huống đã xảy ra cho con gái anh ta. Con gái của anh nầy tên là Shiromi đã bị rơi xuống gần sông Dawbulla và đã chết (hôm đó là ngày 16 tháng 9 năm 1983; một năm trước khi Dilukshi chào đời). Sau khi đọc bài báo, hai vợ chồng người nầy nôn nóng muốn được gặp Dilukshi vì họ nghĩ rằng có thê Dilukshi là người con gái của họ tái sinh. Dilukshi chính là Shiromi.
Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà báo, nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Hai gia đình vừa kể có điều kiện gặp nhau. Theo I. W. Abeypala, người đã viết bài tường thuật và đưa tin trên báo chí về câu chuyện bé Dilukshi thì đây quả là một câu chuyện kỳ lạ hiếm có về một người đã chết rồi được tái sinh trở lại và đi tìm gặp cha mẹ mình ở tiền kiếp. Chính Abeypala đã chứng kiến tận mắt bé Dilukshi nhận diện ra những người mà bé khẳng định chắc chắn rằng đó là cha mẹ, anh chị em, cô dì, bà ngoại, của mình...
Rồi những đồ chơi trước đây của bé Shiromi được lấy từ tủ ra đã được Dilukshi lắp ráp lại với sự thành thạo như đã từng chơi những thứ đó. Ngoài ra bé còn đi tìm thêm những thứ đã bị thiếu trong những thùng đồ khác một các hết sức tự nhiên. Thỉnh thoảng bé Dilukshi còn kiểm điểm lại đồ chơi "lúc xưa" của mình xem thử có mất mát cái nào không. Dilukshi còn lấy ở tủ sách một tập vở vẽ rồi lấy bút chì để vẽ tiếp vào phần còn lại chưa vẽ hết. Mọi người chứng kiến các hành động và cử chỉ của Dilukshi đều thấy rõ ràng rằng Dilukshi đã quá quen thuộc gia đình nầy và theo như lời nói trước đây của bé khi chưa đến đây thì chính bé Shiromi, cô bé đã rơi xuống sông chết ở Dawbulla.
Điều kỳ lạ là khi kéo các tủ đựng quần áo, mặc dù các áo quần để không có thứ lớp,lẫn lộn nhưng Dilukshi,vẫn lựa ra được những thứ áo quần nào là của Shiromi, người mà Dilukshi cho là tiền kiếp của mình.
Khi mọi người cùng đến bên bờ sông, Dilukshi đã đưa tay chỉ con sông bảo rằng năm Shiromi lên 9 tuổi đã bị rơi xuống sông nầy. Abeypala kể lại rằng: Dilukshi đã nhặt một hòn đá nhỏ và liệng xuống sông rồi bảo:
- Đó! đó chính là nơi con đã té xuống.
Dilukshi còn nhớ lại những gì mà mình (lúc đó là Shiromi) đã sống trước đó. Bé nhớ lại lúc chơi đùa với người anh trai trên phiến đá nhô cao khỏi mặt đất và đã gọi đó là khối đá nhỏ nhắn dễ thương Dawbulla mà từ trên đỉnh mỏm đá nầy, bé có thể trông thấy rõ mái nhà của cha mẹ mình ẩn trong tàng cây. Khi những người đi theo Dilukshimô tả lại cảnh ấy họ liền đi tìm thử ở cạnh bờ sông có khối đá nào như thế không thì quả nhiên họ trông thấy một khối đá nhỏ nổi cao lên ở một vị trí nằm ngay giữa đoạn đường từ con sông đến ngôi nhà của cha mẹ Shiromi khi leo lên đứng trên mỏm đá nầy họ đều thấy rõ mái nhà của Shiromi lấp ló sau hàng cây.
Sự hội ngộ giữa hai gia đình Shiromi và Dilukshi đã đem lại kết quả là cha mẹ của cháu bé Shiromi bất hạnh nhận Dilukshi làm con gái của mình. Dilukshi được xem như Shiromi tái sinh. Còn cha mẹ hiện nay của Dilukshi thì vẫn xem bé là con gái của mình, vì thế, giờ đây, Dilukshi là người con của hai gia đình. Các người trong đoàn đi theo đã quay phim và chụp ảnh hai gia đình chung cùng với nhau và sau đó họ tổ chức một bữa tiệc mừng sự hội ngộ lạ lùng chưa từng có nầy.
Trường Hợp Bé Subashini.
Sonaw Gyatso là một bé gái 13 tuổi sống với cha mẹ tại Sri - Lanka. Căn nhà Sonaw Gyatso ở gần vùng rừng núi. Theo lời thuật của cha mẹ Sonaw Gyatso thì cô bé thường hay sợ tiếng động. Nhiều lần Sonaw Gyatso đã kể lại cho gia đình nghe rằng trước đây bé đã bị chôn vùi vì đất lở do trận giông tố tạo mưa lớn gây nên. Năm Sonaw Gyatso 13 tuổi, bé bắt đầu nói về kiếp trước của mình một cách rất tự nhiên.
Lúc đó con tôi là một cô gái hái trà (hái trè) nơi đồn điền rộng lớn ở Sinhapitiya (Gampola). Thế rồi, vào một đêm kia, trong một trận giông bão lớn đến khủng khiếp mẹ con lúc đó bảo con hãy đốt đuốc lên và ra ngoài xem thử tình hình ra sao. Có thể đất, núi, đồi quanh đó lở và sụp đổ không chừng... khi con cầm đuốc bước ra khỏi nhà, trời tối đen, giông tố nổi lên và con đã bị phủ ngập trong những khối đá sụp đổ từ cao xuống.
Sonaw Gyatso đã chỉ rõ nơi mà thảm họa đã diễn ra và cả gia đình của Sonaw Gyatso lúc đó cũng đều bị chết.
Câu chuyện có thật về bé Dilukshi xảy ra như sau:
Năm 1986, bé Dilukshi vừa tròn hai tuổi, mặc dầu với chừng ấy tuổi nhưng bé lại ăn nói những câu còn hơn cả người lớn nữa. Trong các câu nói có những câu làm cha mẹ Dilukshi cảm thấy lo lắng, bối rối. Mỗi lần nói với mẹ, Dilukshi chỉ gọi bằng Dì chớ không gọi bằng mẹ. Bé lại còn năn nỉ cha mẹ hãy đem bé đến cho người mẹ ruột của bé đang ở tại ngôi nhà thuộc vùng Dawbulla. Địa điểm nầy ở cách xa chỗ bé Dilukshi đang sống khoảng 100 cây số. Mỗi lần nghe bé nói là cả nhà vừa ngạc nhiên vừa bực tức vì cứ nghĩ rằng bé đã học của ai, nhưng kiểm soát lại thì trong gia đình chẳng có người nào chỉ bày cho bé Dilukshi nói những câu như thế cả. Tuy nhiên cha mẹ Dilukshi vẫn la rầy và bảo bé hãy câm miệng lại kẻo bị đánh đòn. Bé Dilukshi vẫn không chịu bỏ câu nói và cách gọi mẹ bằng Dì, mà trái lại mỗi lần bị rầy la thì bé Dilukshi lại trả lời như sau:
- Cha mẹ con trước đây không bao giờ la rầy con mà thường nói với con những lời âu yếm nhẹ nhàng thôi:
Ngoài ra Dilukshi còn khẳng định rằng nó đã có lần bị rơi xuống sông Dawbulla.
Cuối cùng, cha mẹ Dilukshi không thể yên tâm, mỗi ngày nghe con mình nói những điều mà họ cho là "vô nghĩa lý". Họ nghĩ có thể con họ bị ma nhập, quỉ ám gì đó, vì thế cha mẹ Dilukshi đã đến tiếp xúc với một vị cao tăng ở một ngôi chùa thuộc vùng Dawbulla. Chẳng bao lâu, câu chuyện về bé Dilukshi được lan truyền khắp nơi. Báo chí đã đưa tin tức về "bé gái Dilukshi lạ kỳ, nói về tiền kiếp của mình". Dân chúng địa phương đua nhau đọc. Trong số đó có một người đàn ông lớn tuổi, sinh sống ở Dawbulla khi theo dõi câu chuyện của bé Dilukshi thì tự nhiên cảm thấy có sự trùng hợp lạ lùng với các tình huống đã xảy ra cho con gái anh ta. Con gái của anh nầy tên là Shiromi đã bị rơi xuống gần sông Dawbulla và đã chết (hôm đó là ngày 16 tháng 9 năm 1983; một năm trước khi Dilukshi chào đời). Sau khi đọc bài báo, hai vợ chồng người nầy nôn nóng muốn được gặp Dilukshi vì họ nghĩ rằng có thê Dilukshi là người con gái của họ tái sinh. Dilukshi chính là Shiromi.
Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà báo, nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Hai gia đình vừa kể có điều kiện gặp nhau. Theo I. W. Abeypala, người đã viết bài tường thuật và đưa tin trên báo chí về câu chuyện bé Dilukshi thì đây quả là một câu chuyện kỳ lạ hiếm có về một người đã chết rồi được tái sinh trở lại và đi tìm gặp cha mẹ mình ở tiền kiếp. Chính Abeypala đã chứng kiến tận mắt bé Dilukshi nhận diện ra những người mà bé khẳng định chắc chắn rằng đó là cha mẹ, anh chị em, cô dì, bà ngoại, của mình...
Rồi những đồ chơi trước đây của bé Shiromi được lấy từ tủ ra đã được Dilukshi lắp ráp lại với sự thành thạo như đã từng chơi những thứ đó. Ngoài ra bé còn đi tìm thêm những thứ đã bị thiếu trong những thùng đồ khác một các hết sức tự nhiên. Thỉnh thoảng bé Dilukshi còn kiểm điểm lại đồ chơi "lúc xưa" của mình xem thử có mất mát cái nào không. Dilukshi còn lấy ở tủ sách một tập vở vẽ rồi lấy bút chì để vẽ tiếp vào phần còn lại chưa vẽ hết. Mọi người chứng kiến các hành động và cử chỉ của Dilukshi đều thấy rõ ràng rằng Dilukshi đã quá quen thuộc gia đình nầy và theo như lời nói trước đây của bé khi chưa đến đây thì chính bé Shiromi, cô bé đã rơi xuống sông chết ở Dawbulla.
Điều kỳ lạ là khi kéo các tủ đựng quần áo, mặc dù các áo quần để không có thứ lớp,lẫn lộn nhưng Dilukshi,vẫn lựa ra được những thứ áo quần nào là của Shiromi, người mà Dilukshi cho là tiền kiếp của mình.
Khi mọi người cùng đến bên bờ sông, Dilukshi đã đưa tay chỉ con sông bảo rằng năm Shiromi lên 9 tuổi đã bị rơi xuống sông nầy. Abeypala kể lại rằng: Dilukshi đã nhặt một hòn đá nhỏ và liệng xuống sông rồi bảo:
- Đó! đó chính là nơi con đã té xuống.
Dilukshi còn nhớ lại những gì mà mình (lúc đó là Shiromi) đã sống trước đó. Bé nhớ lại lúc chơi đùa với người anh trai trên phiến đá nhô cao khỏi mặt đất và đã gọi đó là khối đá nhỏ nhắn dễ thương Dawbulla mà từ trên đỉnh mỏm đá nầy, bé có thể trông thấy rõ mái nhà của cha mẹ mình ẩn trong tàng cây. Khi những người đi theo Dilukshimô tả lại cảnh ấy họ liền đi tìm thử ở cạnh bờ sông có khối đá nào như thế không thì quả nhiên họ trông thấy một khối đá nhỏ nổi cao lên ở một vị trí nằm ngay giữa đoạn đường từ con sông đến ngôi nhà của cha mẹ Shiromi khi leo lên đứng trên mỏm đá nầy họ đều thấy rõ mái nhà của Shiromi lấp ló sau hàng cây.
Sự hội ngộ giữa hai gia đình Shiromi và Dilukshi đã đem lại kết quả là cha mẹ của cháu bé Shiromi bất hạnh nhận Dilukshi làm con gái của mình. Dilukshi được xem như Shiromi tái sinh. Còn cha mẹ hiện nay của Dilukshi thì vẫn xem bé là con gái của mình, vì thế, giờ đây, Dilukshi là người con của hai gia đình. Các người trong đoàn đi theo đã quay phim và chụp ảnh hai gia đình chung cùng với nhau và sau đó họ tổ chức một bữa tiệc mừng sự hội ngộ lạ lùng chưa từng có nầy.
Trường Hợp Bé Subashini.
Sonaw Gyatso là một bé gái 13 tuổi sống với cha mẹ tại Sri - Lanka. Căn nhà Sonaw Gyatso ở gần vùng rừng núi. Theo lời thuật của cha mẹ Sonaw Gyatso thì cô bé thường hay sợ tiếng động. Nhiều lần Sonaw Gyatso đã kể lại cho gia đình nghe rằng trước đây bé đã bị chôn vùi vì đất lở do trận giông tố tạo mưa lớn gây nên. Năm Sonaw Gyatso 13 tuổi, bé bắt đầu nói về kiếp trước của mình một cách rất tự nhiên.
Lúc đó con tôi là một cô gái hái trà (hái trè) nơi đồn điền rộng lớn ở Sinhapitiya (Gampola). Thế rồi, vào một đêm kia, trong một trận giông bão lớn đến khủng khiếp mẹ con lúc đó bảo con hãy đốt đuốc lên và ra ngoài xem thử tình hình ra sao. Có thể đất, núi, đồi quanh đó lở và sụp đổ không chừng... khi con cầm đuốc bước ra khỏi nhà, trời tối đen, giông tố nổi lên và con đã bị phủ ngập trong những khối đá sụp đổ từ cao xuống.
Sonaw Gyatso đã chỉ rõ nơi mà thảm họa đã diễn ra và cả gia đình của Sonaw Gyatso lúc đó cũng đều bị chết.
Theo các
tài liệu kiểm tra được về những thảm họa xảy ra ở vùng nầy thì khoảng tháng 10
năm 1977 (khoảng hơn 2 năm trước khi Sonaw Gyatso chào đời) đã có một trận đất
chuồi (sụp lở) làm chôn vùi dân cư ở đây. Báo hàng ngày Ceylon Daily Mirror đã
đăng tải truyện nầy và còn cho thấy những nấm mồ của những nạn nhân bị chết
trong vụ đất lở nầy, tổng số người bị chết là 28 người cả người lớn và trẻ con.
Điều kỳ diệu là Sonaw Gyatso mặc dầu ra đời sau cuộc thảm họa ây nhưng lại mô tả lại thật rõ ràng những gì đã xảy ra. Cha mẹ Sonaw Gyatso cho biết là chính họ cũng không hiểu rõ chi tiết như con họ đã mô tả. Như vậy Sonaw Gyatso đã nhớ lại kiếp trước của mình và nhớ luôn cả những gì đã xảy ra lúc đó. Sonaw Gyatso còn cho biết là chỗ ở của mình lúc đó cách xa chỗ ở hiện nay 100 cây số. Sonaw Gyatso còn tả chi tiết về những người trong nhà làm gì trước khi trận chuồi đất xảy ra. Theo Sonaw Gyatso thì người anh cả tối đó có về nhà nhưng rồi lại đi ngay trước khi cơn thảm họa kéo tới nhờ đó mà anh thoát chết. Ngoài ra người chị của Sonaw Gyatso tối hôm đó cũng không có mặt ở nhà. Các nhà nghiên cứu sự kiện tái sinh đã cố gắng đi sâu vào vấn đề. Họ nghĩ tại vùng xảy ra đất chuồi năm 1977, những thân nhân của những người bị nạn chắc chắn vẫn còn sinh cơ lập nghiệp quanh đó và hy vọng sẽ tìm ra được người đàn ông mà Sonaw Gyatso đã bảo là người anh cả trong nhà đã thoát chết khi thảm họa xảy ra. Sau đó chính Sonaw Gyatso đã nhận ra được người nầy và khi hỏi lại thì chính anh ta còn nhớ rõ ràng trước khi xảy ra tai nạn đất lở, anh ta có về nhà và đã rời khỏi nhà tức thì có công việc riêng. Khi hỏi về người em gái của anh ta thì anh ta buồn rầu trả lời:
- Em tôi cũng đã bị chết trong trận bão tối hôm đó rồi. Em tôi tên là Mallika (Devi Mallika). Để tìm đúng nơi mà Sonaw Gyatso đã mô tả, đoàn nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của ông I.B.Herath đã leo lên ngọn núi, từ đó nối liền với những đồi chè thoai thoải. Mọi vật chẳng có gì thay đổi ngoài một vài nơi đất sụt lở dưới chân đồi, dưới có nhiều ngôi nhà bị chôn vùi trong đất đá, Herath đã đúc kết lại những gì đã xảy ra trong thảm họa đó. Lúc đó khoảng 8 giờ tối ngày 27 tháng 10 năm 1977 sấm sét càng lúc càng mãnh liệt tiếp theo sau 4 ngày mưa tầm tả. Bất thình lình một tảng đá hoa cương (granite) khổng lồ nặng hàng ngàn tấn sụt lở từ trên cao lôi cuốn theo đất, bùn sụt lở ào ào đổ xuống sường núi và chôn vùi tất cả những gì nằm ở bên dưới, trong đó có bé Mallika và gia đình của bé.
Trong bản ghi các tài liệu về trường hợp của Sonaw Gyatso có một đoạn mô tả cách uống trà của Sonaw Gyatso khá lạ lùng. Thường ngày Sonaw Gyatso đều uống trà, đó là thói quen khó bỏ nhưng cách uống trà lại có phần kỳ dị. Mỗi lần uống, Sonaw Gyatso đổ một ít đường vào lòng bàn tay rồi khi uống một hớp trà thì lại dùng lưỡi liếm một tí đường cho ngọt miệng. Cha mẹ Subashini đã ngạc nhiên về cách uống trà của con mình và chẳng hiểu vì sao Subashini lại thích uống trà theo kiểu lạ lùng như vậy. Mãi về sau, khi người đàn ông mà Subashini bảo là anh cả của mình từ kiếp trước kể chuyện uống trà trong gia đình anh ta thi khi đó mới vỡ lẽ ra rằng: Sở dĩ Subashini uống trà theo cách vừa mô tả là do khi Subashini còn là Mallika (tiền kiếp) thì trong gia đình nầy vì quá nghèo không đủ khả năng mua nhiều đường pha vào tách trà để uống thường lệ mà phải "chấm mút" nhỏ giọt theo phương cách đã kể. Cái thói quen uống trà kiểu đó vẫn còn lưu giữ đối với Subashini khi tái sinh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu không còn nghi ngờ gì nữa về những gì mà chính Subashini đã kể về đời sống tiền kiếp của mình, về những gì đã xảy ra cho mình và cho gia đình, tất cả đều phù hợp với những gì mà các nhà nghiên cứu đã tìm thấy. Ngoài ra sự kiện Subashini uống trà theo những cách thức liếm đường trong lòng bàn tay và nhất là kinh hoàng hốt hoảng, lo sợ khi nghe tiếng sấm vang đều là những bằng chức hết sức rõ ràng chứng minh rằng bé Millika đã tái sinh trở lại qua bé Subashini vậy.
Trường Hợp Duminda Hậu Thân Của Một Vị Sư Trưởng Hay Ven Gunnepara Tái Sinh? Tại Sri Lanka có một bé trai tên là Duminda. Khi sinh ra và lớn lên, cháu bé cũng giống như bao nhiêu em bé khác, chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đến năm 3 tuổi tự nhiên Duminda biết tụng kinh như một chú tiểu và lạ lùng hợn nữa là bé tụng kinh theo nguyên văn tiếng Pali một thứ tiếng rất khó thuộc về ngôn ngữ cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ.
Gia đình Duminda trước đó cũng đã có ý định muốn gởi bé vào một tu viện địa phương và họ muốn chuẩn bị cho con mình trở thành một chú tiểu để dần dần trở nên một nhà chân tu sau nầy.
Duminda được bố mẹ dẫn đến thủ đô của một vùng đảo nổi danh được xem như là trung tâm tôn giáo nổi tiếng nơi mà Đền thờ Răng Thiêng của Phật được xây cất, địa điểm nầy ở gần với tu viện Asgiry.
Trong thời gian còn bé, Duminda sống với ông bà chớ không ở với cha mẹ. Ngay từ tấm bé, Duminda thường ăn mặc rất khác người. Thường ngày bé khoác bên mình một miếng vải màu vàng (vắt ngang qua vai giống kiểu áo choàng của những nhà sư thường mặc). Cứ mỗi ngày, Duminda đến viếng nơi Đền Thiêng. Nơi đây bé Duminda tụng kinh Pali.
Cha mẹ Duminda cho biết: Năm lên ba tuổi, Duminda tự nhiên nói một câu như sau:
- Trước đây tôi là một nhà sư ở đền Asgirya.
Ông ngoại của Duminda cũng cho biết là thường khi đứa cháu nầy thúc giục mọi người trong gia đình hãy đến Đền Asgirya để lễ bái.
Sáng nào Duminda cũng dậy sớm, khoát tấm vải màng như đắp y lên mình rồi bước ra cửa đứng trước mặt nhà nhìn người qua lại. Mỗi lần thấy bóng dáng một vị sư bước lên xe bus là Duminda kêu to lên như nhắc nhở:
- Kìa, kìa, nhà sư đã lên đường rồi, tôi cũng muốn đến Đền Asgirya, hãy để tôi đi!
Những gì mà cá nhà sư thường làm như giờ trai tăng, giờ tụng kinh, giờ đọc sách, lễ phật... thì Duminda đều làm đúng theo như một vị sư đã tu trì lâu ngày trong chùa vậy. Người mẹ Duminda thì kể rằng: Duminda rất sạch sẽ, thường căn dặn mẹ là không nên đụng tay vào một vị sư nào vì đó là điều cấm kỵ. Ngay cả khi người mẹ tắm cho Duminda thì chỉ có múc nước xối lên người bé thôi chớ không được kỳ cọ đụng tay vào da thịt bé. Duminda cũng không chơi với những trẻ con khác vì tự nhận mình là người lớn, luôn luôn tỏ ra đàng hoàng nghiêm túc. Bé thường dặn người trong nhà hãy gọi mình là chú tiểu hay sư nhỏ cũng được hoặc gọi bằng hai chữ Podi Sadhu. Duminda dần dần không còn là đứa bé kỳ dị đối với gia đình nữa. Cha mẹ Duminda chẳng còn ngạc nhiên hay lo lắng về những cử chỉ, lời nói lạ lùng của bé nữa vì họ xem Duminda như có "căn cơ" "nghiệp lực" tu trì từ nhỏ và chắc chắn sẽ thành vị sư tài ba sau nầy. Vì thế họ dự định gởi Duminda vào tu viện, ở Tích Lan cũng có tục lệ gần giống với Tây Tạng về vấn đề con trẻ thường được cha mẹ gởi vào tu viện để được đào tạo và trở thành tu sĩ sau nầy.
Duminda thường dùng cái quạt cầm tay để che trước mặt giống như những nhà sư thường làm và ngâm thơ một cách thành thạo. Khi gặp các nhà sư ngoài đường hay đến nhà. Duminda luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng mình trước kia (kiếp trước) cũng là một nhà sư tu hành ở Asgirya. Duminda còn cho biết là tại đó có một tu viện lớn và mình có một ở với đầy đủ đồ đạc và của cải. Ngoài ra, còn có một chiếc xe mô tô nữa. Duminda thường ngỏ ý muốn được đến Asgirya thể thăm ngôi Đền Thiêng và coi lại căn phòng, đồ đạc và chiếc xe của mình.
Những nhà sư đã có lần gặp Duminda đều có nhận xét rằng: "Đây là một đứa trẻ có phong cách, cử chỉ, lời nói lạ lùng hoàn toàn khác xá với những đứa trẻ khác. Nhiều người đề nghị là nên đưa Duminda đến Asgirya một chuyến thử xem sao.
Điều kỳ diệu là Sonaw Gyatso mặc dầu ra đời sau cuộc thảm họa ây nhưng lại mô tả lại thật rõ ràng những gì đã xảy ra. Cha mẹ Sonaw Gyatso cho biết là chính họ cũng không hiểu rõ chi tiết như con họ đã mô tả. Như vậy Sonaw Gyatso đã nhớ lại kiếp trước của mình và nhớ luôn cả những gì đã xảy ra lúc đó. Sonaw Gyatso còn cho biết là chỗ ở của mình lúc đó cách xa chỗ ở hiện nay 100 cây số. Sonaw Gyatso còn tả chi tiết về những người trong nhà làm gì trước khi trận chuồi đất xảy ra. Theo Sonaw Gyatso thì người anh cả tối đó có về nhà nhưng rồi lại đi ngay trước khi cơn thảm họa kéo tới nhờ đó mà anh thoát chết. Ngoài ra người chị của Sonaw Gyatso tối hôm đó cũng không có mặt ở nhà. Các nhà nghiên cứu sự kiện tái sinh đã cố gắng đi sâu vào vấn đề. Họ nghĩ tại vùng xảy ra đất chuồi năm 1977, những thân nhân của những người bị nạn chắc chắn vẫn còn sinh cơ lập nghiệp quanh đó và hy vọng sẽ tìm ra được người đàn ông mà Sonaw Gyatso đã bảo là người anh cả trong nhà đã thoát chết khi thảm họa xảy ra. Sau đó chính Sonaw Gyatso đã nhận ra được người nầy và khi hỏi lại thì chính anh ta còn nhớ rõ ràng trước khi xảy ra tai nạn đất lở, anh ta có về nhà và đã rời khỏi nhà tức thì có công việc riêng. Khi hỏi về người em gái của anh ta thì anh ta buồn rầu trả lời:
- Em tôi cũng đã bị chết trong trận bão tối hôm đó rồi. Em tôi tên là Mallika (Devi Mallika). Để tìm đúng nơi mà Sonaw Gyatso đã mô tả, đoàn nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của ông I.B.Herath đã leo lên ngọn núi, từ đó nối liền với những đồi chè thoai thoải. Mọi vật chẳng có gì thay đổi ngoài một vài nơi đất sụt lở dưới chân đồi, dưới có nhiều ngôi nhà bị chôn vùi trong đất đá, Herath đã đúc kết lại những gì đã xảy ra trong thảm họa đó. Lúc đó khoảng 8 giờ tối ngày 27 tháng 10 năm 1977 sấm sét càng lúc càng mãnh liệt tiếp theo sau 4 ngày mưa tầm tả. Bất thình lình một tảng đá hoa cương (granite) khổng lồ nặng hàng ngàn tấn sụt lở từ trên cao lôi cuốn theo đất, bùn sụt lở ào ào đổ xuống sường núi và chôn vùi tất cả những gì nằm ở bên dưới, trong đó có bé Mallika và gia đình của bé.
Trong bản ghi các tài liệu về trường hợp của Sonaw Gyatso có một đoạn mô tả cách uống trà của Sonaw Gyatso khá lạ lùng. Thường ngày Sonaw Gyatso đều uống trà, đó là thói quen khó bỏ nhưng cách uống trà lại có phần kỳ dị. Mỗi lần uống, Sonaw Gyatso đổ một ít đường vào lòng bàn tay rồi khi uống một hớp trà thì lại dùng lưỡi liếm một tí đường cho ngọt miệng. Cha mẹ Subashini đã ngạc nhiên về cách uống trà của con mình và chẳng hiểu vì sao Subashini lại thích uống trà theo kiểu lạ lùng như vậy. Mãi về sau, khi người đàn ông mà Subashini bảo là anh cả của mình từ kiếp trước kể chuyện uống trà trong gia đình anh ta thi khi đó mới vỡ lẽ ra rằng: Sở dĩ Subashini uống trà theo cách vừa mô tả là do khi Subashini còn là Mallika (tiền kiếp) thì trong gia đình nầy vì quá nghèo không đủ khả năng mua nhiều đường pha vào tách trà để uống thường lệ mà phải "chấm mút" nhỏ giọt theo phương cách đã kể. Cái thói quen uống trà kiểu đó vẫn còn lưu giữ đối với Subashini khi tái sinh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu không còn nghi ngờ gì nữa về những gì mà chính Subashini đã kể về đời sống tiền kiếp của mình, về những gì đã xảy ra cho mình và cho gia đình, tất cả đều phù hợp với những gì mà các nhà nghiên cứu đã tìm thấy. Ngoài ra sự kiện Subashini uống trà theo những cách thức liếm đường trong lòng bàn tay và nhất là kinh hoàng hốt hoảng, lo sợ khi nghe tiếng sấm vang đều là những bằng chức hết sức rõ ràng chứng minh rằng bé Millika đã tái sinh trở lại qua bé Subashini vậy.
Trường Hợp Duminda Hậu Thân Của Một Vị Sư Trưởng Hay Ven Gunnepara Tái Sinh? Tại Sri Lanka có một bé trai tên là Duminda. Khi sinh ra và lớn lên, cháu bé cũng giống như bao nhiêu em bé khác, chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đến năm 3 tuổi tự nhiên Duminda biết tụng kinh như một chú tiểu và lạ lùng hợn nữa là bé tụng kinh theo nguyên văn tiếng Pali một thứ tiếng rất khó thuộc về ngôn ngữ cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ.
Gia đình Duminda trước đó cũng đã có ý định muốn gởi bé vào một tu viện địa phương và họ muốn chuẩn bị cho con mình trở thành một chú tiểu để dần dần trở nên một nhà chân tu sau nầy.
Duminda được bố mẹ dẫn đến thủ đô của một vùng đảo nổi danh được xem như là trung tâm tôn giáo nổi tiếng nơi mà Đền thờ Răng Thiêng của Phật được xây cất, địa điểm nầy ở gần với tu viện Asgiry.
Trong thời gian còn bé, Duminda sống với ông bà chớ không ở với cha mẹ. Ngay từ tấm bé, Duminda thường ăn mặc rất khác người. Thường ngày bé khoác bên mình một miếng vải màu vàng (vắt ngang qua vai giống kiểu áo choàng của những nhà sư thường mặc). Cứ mỗi ngày, Duminda đến viếng nơi Đền Thiêng. Nơi đây bé Duminda tụng kinh Pali.
Cha mẹ Duminda cho biết: Năm lên ba tuổi, Duminda tự nhiên nói một câu như sau:
- Trước đây tôi là một nhà sư ở đền Asgirya.
Ông ngoại của Duminda cũng cho biết là thường khi đứa cháu nầy thúc giục mọi người trong gia đình hãy đến Đền Asgirya để lễ bái.
Sáng nào Duminda cũng dậy sớm, khoát tấm vải màng như đắp y lên mình rồi bước ra cửa đứng trước mặt nhà nhìn người qua lại. Mỗi lần thấy bóng dáng một vị sư bước lên xe bus là Duminda kêu to lên như nhắc nhở:
- Kìa, kìa, nhà sư đã lên đường rồi, tôi cũng muốn đến Đền Asgirya, hãy để tôi đi!
Những gì mà cá nhà sư thường làm như giờ trai tăng, giờ tụng kinh, giờ đọc sách, lễ phật... thì Duminda đều làm đúng theo như một vị sư đã tu trì lâu ngày trong chùa vậy. Người mẹ Duminda thì kể rằng: Duminda rất sạch sẽ, thường căn dặn mẹ là không nên đụng tay vào một vị sư nào vì đó là điều cấm kỵ. Ngay cả khi người mẹ tắm cho Duminda thì chỉ có múc nước xối lên người bé thôi chớ không được kỳ cọ đụng tay vào da thịt bé. Duminda cũng không chơi với những trẻ con khác vì tự nhận mình là người lớn, luôn luôn tỏ ra đàng hoàng nghiêm túc. Bé thường dặn người trong nhà hãy gọi mình là chú tiểu hay sư nhỏ cũng được hoặc gọi bằng hai chữ Podi Sadhu. Duminda dần dần không còn là đứa bé kỳ dị đối với gia đình nữa. Cha mẹ Duminda chẳng còn ngạc nhiên hay lo lắng về những cử chỉ, lời nói lạ lùng của bé nữa vì họ xem Duminda như có "căn cơ" "nghiệp lực" tu trì từ nhỏ và chắc chắn sẽ thành vị sư tài ba sau nầy. Vì thế họ dự định gởi Duminda vào tu viện, ở Tích Lan cũng có tục lệ gần giống với Tây Tạng về vấn đề con trẻ thường được cha mẹ gởi vào tu viện để được đào tạo và trở thành tu sĩ sau nầy.
Duminda thường dùng cái quạt cầm tay để che trước mặt giống như những nhà sư thường làm và ngâm thơ một cách thành thạo. Khi gặp các nhà sư ngoài đường hay đến nhà. Duminda luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng mình trước kia (kiếp trước) cũng là một nhà sư tu hành ở Asgirya. Duminda còn cho biết là tại đó có một tu viện lớn và mình có một ở với đầy đủ đồ đạc và của cải. Ngoài ra, còn có một chiếc xe mô tô nữa. Duminda thường ngỏ ý muốn được đến Asgirya thể thăm ngôi Đền Thiêng và coi lại căn phòng, đồ đạc và chiếc xe của mình.
Những nhà sư đã có lần gặp Duminda đều có nhận xét rằng: "Đây là một đứa trẻ có phong cách, cử chỉ, lời nói lạ lùng hoàn toàn khác xá với những đứa trẻ khác. Nhiều người đề nghị là nên đưa Duminda đến Asgirya một chuyến thử xem sao.
Chuyến đi
được sắp đặt chu đáo. Ngày khởi hành là ngày chủ nhật, tháng 10 năm 1987. Cùng
đi với Duminda đến Asgirya có một số nhà báo và bhàm khoa học. Một số nhà báo của
tờ báo nổi tiếng Island là Oliver Silva cũng tháp tùng theo. Suốt cuộc hành
trình. Duminda rất tành về đường sá dẫn đến tu viện chính ở Asgirya Duminda còn
nhắc lại những tập tục ở đó nhất là những phương thức, nghi lễ cầu nguyện.
Duminda nhắc lại là lúc còn là vị sư ở đó, Duminda đã dược tôn kính và nể trọng.
Khi tới nơi, một vị sư đã nghe qua chuyện kể về Duminda và nêu lên câi hỏi như sau:
- Chào Duminda, chẳng hay Duminda có biết cây Bồ Đề nơi dấu tích Linh Thiêng của phật ở đâu chăng?
Duminda nghe vị sư hỏi mình câi đó thì im lặng không trả lời nhưng bước đi thật nhanh không do dự qua một nơi với nhiều bậc cấp quanh co và đến nơi có ngôi điện nằm dưới cây Bồ Đề.
Khi vào trong tu viện, Duminda tự nhiên đi qua các phòng như người đã ở đây từ lâu rồi. Đến một phòng khá khang trang gần tu viện Dumind mởp cửa và chỉ vào trong nói với mọi người:
- Đây là căn mà xưa kia tôi đã ở.
Các nhà sư có mặt ở tu viện vô cùng kinh ngạc, họ không dám coi thường Duminda, họ tỏ vẻ kính nể ra mặt. Một vị tu sĩ mời Dumimda ngồi cho đỡ mỏi nhưng Duminda vẫn đứng yên chờ cho đến ki có người đem miếng khăn trắng phủ lên ghế mới chịu ngồi xuống vì đó là tục lệ đặc biệt dành cho một vị cao tăng.
Duminda lúc bấy giờ mới chững chạc, chậm rãi kể về thân của mình cho mọi người nghe.
- Trước đây tôi là một vị sư và đã qua đời sau một lần té ngã xuống đất. Lúc đó tôi cảm thấy đau tức ở ngực thật dữ dội và được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu chữa được nữa.
Khi một bức ảnh xưa chụp 12 vị sư được đem ra trao cho Duminda xem thì Duminda nhìn ản một hồi lâu rồi đưa ngón tay chỉ một vị sư đứng trong ảnh và nói:
- Người nầy chính là tôi!
Lúc bấy giờ hai vị sư già và vị cao tăng trong tu viện xem lại người mà Duminda đã chỉ trong bức ảnh thì họ đều xác nhận được chính là vị sư trưởng của tu viện tên là Ven Gunnepana. Vị nầy đã qua đời năm 1929. Điều trùng hợp lạ lùng với những gì mà Duminda đã nói trước đó là vị sư trưởng nầy có của cải, tiền bạc và có một chiếc xe mô tô nữa.
Duminda còn chỉ cho mọi người thấy nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi treo các quần áo.
Trước bàn thờ Phật. Duminda kính cẩn quỳ xuống làm lễ tụng kinh bằng tiếng Pali. Có lần một người trong đoàn nghiên cứu hiện tượng Dumimda tái sinh đã hỏi: ‘’Duminda học những bài kinh tiếng Pali nầy ở đâu?’’ thì Duminda trả lời như sau: ‘’ở đây.’’
Bác sĩ Ian Stevenson đã phát biểu như sau khi nghiên cứu kỷ hiện tượng lạ lùng về cậu bé Duminda.
Đây là một trường hợp ly kỳ và lý thú về hiện tượng được gọi là hiện tượng luân hồi tái sinh. Một hiện tượng cho đến nay rõ ràng khoa học chưa có thể giải thích nhưng càng ngày con người càng gặp nhiều hiện tượng tương tự xảy ra khắp nơi trên thế giới...
Sự kiện vừa kể trên được xem như trường hợp thuộc về hiện tượng hoá thân trở lại của những vị chân tu để hoàn tất một tâm nguyện như tiếp tục cứu độ chúng sinh chẳng hạn. Và sự kiện nầy đã trở thành thông thường nơi xứ Tây Tạng.
Khi tới nơi, một vị sư đã nghe qua chuyện kể về Duminda và nêu lên câi hỏi như sau:
- Chào Duminda, chẳng hay Duminda có biết cây Bồ Đề nơi dấu tích Linh Thiêng của phật ở đâu chăng?
Duminda nghe vị sư hỏi mình câi đó thì im lặng không trả lời nhưng bước đi thật nhanh không do dự qua một nơi với nhiều bậc cấp quanh co và đến nơi có ngôi điện nằm dưới cây Bồ Đề.
Khi vào trong tu viện, Duminda tự nhiên đi qua các phòng như người đã ở đây từ lâu rồi. Đến một phòng khá khang trang gần tu viện Dumind mởp cửa và chỉ vào trong nói với mọi người:
- Đây là căn mà xưa kia tôi đã ở.
Các nhà sư có mặt ở tu viện vô cùng kinh ngạc, họ không dám coi thường Duminda, họ tỏ vẻ kính nể ra mặt. Một vị tu sĩ mời Dumimda ngồi cho đỡ mỏi nhưng Duminda vẫn đứng yên chờ cho đến ki có người đem miếng khăn trắng phủ lên ghế mới chịu ngồi xuống vì đó là tục lệ đặc biệt dành cho một vị cao tăng.
Duminda lúc bấy giờ mới chững chạc, chậm rãi kể về thân của mình cho mọi người nghe.
- Trước đây tôi là một vị sư và đã qua đời sau một lần té ngã xuống đất. Lúc đó tôi cảm thấy đau tức ở ngực thật dữ dội và được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu chữa được nữa.
Khi một bức ảnh xưa chụp 12 vị sư được đem ra trao cho Duminda xem thì Duminda nhìn ản một hồi lâu rồi đưa ngón tay chỉ một vị sư đứng trong ảnh và nói:
- Người nầy chính là tôi!
Lúc bấy giờ hai vị sư già và vị cao tăng trong tu viện xem lại người mà Duminda đã chỉ trong bức ảnh thì họ đều xác nhận được chính là vị sư trưởng của tu viện tên là Ven Gunnepana. Vị nầy đã qua đời năm 1929. Điều trùng hợp lạ lùng với những gì mà Duminda đã nói trước đó là vị sư trưởng nầy có của cải, tiền bạc và có một chiếc xe mô tô nữa.
Duminda còn chỉ cho mọi người thấy nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi treo các quần áo.
Trước bàn thờ Phật. Duminda kính cẩn quỳ xuống làm lễ tụng kinh bằng tiếng Pali. Có lần một người trong đoàn nghiên cứu hiện tượng Dumimda tái sinh đã hỏi: ‘’Duminda học những bài kinh tiếng Pali nầy ở đâu?’’ thì Duminda trả lời như sau: ‘’ở đây.’’
Bác sĩ Ian Stevenson đã phát biểu như sau khi nghiên cứu kỷ hiện tượng lạ lùng về cậu bé Duminda.
Đây là một trường hợp ly kỳ và lý thú về hiện tượng được gọi là hiện tượng luân hồi tái sinh. Một hiện tượng cho đến nay rõ ràng khoa học chưa có thể giải thích nhưng càng ngày con người càng gặp nhiều hiện tượng tương tự xảy ra khắp nơi trên thế giới...
Sự kiện vừa kể trên được xem như trường hợp thuộc về hiện tượng hoá thân trở lại của những vị chân tu để hoàn tất một tâm nguyện như tiếp tục cứu độ chúng sinh chẳng hạn. Và sự kiện nầy đã trở thành thông thường nơi xứ Tây Tạng.
Sự Tái
Sinh Của Những Vị Hóa Thân
Sự tái
sinh luân hồi được hiểu đơn giản là sự đầu thai lại và người Tây Tạng tin tưởng
rằng có những vị cao tăng, những vị sư trưởng, khi chết thường có ý nguyện được
tái sinh trở lại để giúp đỡ chúng sinh. Các vị Bồ Tát mặc dù đã thoát khỏi vòng luân hồi Nhân Quả nhưng họ vẫn muốn được đầu
thai trở lại để hoàn tất ước nguyện cứu độ những kẻ còn chìm đắm trong mê mờ tối
tăm ở cõi thế.
Danh từ Hóa Thân được dịch từ chữ Tulkus và được hiểu như đã nói trên. Thật ra từ Hóa Thân chỉ dùng cho những vị Bồ Tát còn muốn tái sinh trở lại. Nhiều sách vỡ đôi khi còn dịch chữ Hoá Thân qua từ Reincamation. Từ Reincamation chỉ sự đầu thai của tất cả những chúng sinh còn bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai trở lại theo ý muốn, vì những người đầu thai nầy thật sự đã thoát khỏi sự ràng buộc của luân hồi. Những vị nầy sau khi đã đầu thai rồi, họ vẫn ý thức được rõ ràng về tiền kiếp của mình và biết rằng mình tái sinh trở lại là để thực hiện một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng sinh.
Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đại Lai Lạt Ma Tây Tạng (mà chúng tôi may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung viết về đề tài nầy trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993) thì từ năm 1419 Tây Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời. Vị nầy đã chỉ định sư Gedum Truppa thay thế mình. Chính vị sư nầy đã nguyện rằng sau khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh và hoàn tất những gì mình chưa làm xong cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng lúc đó đang gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Theo Đại Sư Gedun Truppa thì hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hằng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được 2 năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái sinh của Đại Sư.
Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận Thủ Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin nầy, các đệ tử của Đại Sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy cậu bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại Sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật khác của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:
- Hãy cho biết những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả các thứ rồi lựa chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:
- Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.
Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa Thân của Đại Sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư Trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đã được huấn luyện rất kỷ về giáo lý quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau nầy. Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình nên đã nói một câu như sau:
- Thế các người không biết ta chính là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đã lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bệnh bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng nầy đã trăn trối lại mình sẽ tái sinh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần nầy, ông để lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào. Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được một ngôi làng ở rất xa thủ đô có một cháu bé ra đời trong một gia đình nghèo. Bé nầy có những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu về đến được chính tu viện để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đã báo cho gia đình biết là: "Ngày mai sẽ có khách quý đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách". Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện, cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở tu viện cùng những việc mà lúc sinh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã biết qua. Các vị sư lại bày ra các di vật của sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường dùng và còn chỉ vào một vật thứ ba rồi bảo rằng:
- Vật nầy ta thường dùng hằng ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu bé đọc song suốt và còn bảo rằng: "bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trữ tại tu viện chứ?"
Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại Sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại Sư tài ba nỗi lạc còn hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều nầy được các vị Trưởng Lão giải thích rằng: qua nhiều lần tái sinh và học hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự Hóa thân nên các vị nầy luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình. Đại sư Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ Đại Hãn và cũng từ đó mà tướng Mông Cổ nầy đã phong Đại Sư làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu mong Đại Sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại Sư Sonaw Gyatso qua đời, lần nầy vị Đại Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái sinh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đã để lại một số di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.
Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới tìm gặp một bé trai 5 tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Bé trai nầy được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso Tưởng nên biết rằng bé trai nầy gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ Về sau, bé trai nầy trở thành Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị nầy mà nhân dân Mông Cổ trải qua được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 nầy qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như trình bày từ trước để tìm người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo đức đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt. Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.
Danh từ Hóa Thân được dịch từ chữ Tulkus và được hiểu như đã nói trên. Thật ra từ Hóa Thân chỉ dùng cho những vị Bồ Tát còn muốn tái sinh trở lại. Nhiều sách vỡ đôi khi còn dịch chữ Hoá Thân qua từ Reincamation. Từ Reincamation chỉ sự đầu thai của tất cả những chúng sinh còn bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai trở lại theo ý muốn, vì những người đầu thai nầy thật sự đã thoát khỏi sự ràng buộc của luân hồi. Những vị nầy sau khi đã đầu thai rồi, họ vẫn ý thức được rõ ràng về tiền kiếp của mình và biết rằng mình tái sinh trở lại là để thực hiện một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng sinh.
Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đại Lai Lạt Ma Tây Tạng (mà chúng tôi may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung viết về đề tài nầy trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993) thì từ năm 1419 Tây Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời. Vị nầy đã chỉ định sư Gedum Truppa thay thế mình. Chính vị sư nầy đã nguyện rằng sau khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh và hoàn tất những gì mình chưa làm xong cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng lúc đó đang gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Theo Đại Sư Gedun Truppa thì hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hằng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được 2 năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái sinh của Đại Sư.
Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận Thủ Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin nầy, các đệ tử của Đại Sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy cậu bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại Sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật khác của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:
- Hãy cho biết những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả các thứ rồi lựa chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:
- Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.
Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa Thân của Đại Sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư Trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đã được huấn luyện rất kỷ về giáo lý quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau nầy. Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình nên đã nói một câu như sau:
- Thế các người không biết ta chính là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đã lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bệnh bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng nầy đã trăn trối lại mình sẽ tái sinh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần nầy, ông để lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào. Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được một ngôi làng ở rất xa thủ đô có một cháu bé ra đời trong một gia đình nghèo. Bé nầy có những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu về đến được chính tu viện để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đã báo cho gia đình biết là: "Ngày mai sẽ có khách quý đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách". Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện, cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở tu viện cùng những việc mà lúc sinh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã biết qua. Các vị sư lại bày ra các di vật của sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường dùng và còn chỉ vào một vật thứ ba rồi bảo rằng:
- Vật nầy ta thường dùng hằng ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu bé đọc song suốt và còn bảo rằng: "bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trữ tại tu viện chứ?"
Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại Sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại Sư tài ba nỗi lạc còn hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều nầy được các vị Trưởng Lão giải thích rằng: qua nhiều lần tái sinh và học hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự Hóa thân nên các vị nầy luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình. Đại sư Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ Đại Hãn và cũng từ đó mà tướng Mông Cổ nầy đã phong Đại Sư làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu mong Đại Sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại Sư Sonaw Gyatso qua đời, lần nầy vị Đại Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái sinh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đã để lại một số di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.
Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới tìm gặp một bé trai 5 tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Bé trai nầy được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso Tưởng nên biết rằng bé trai nầy gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ Về sau, bé trai nầy trở thành Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị nầy mà nhân dân Mông Cổ trải qua được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 nầy qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như trình bày từ trước để tìm người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo đức đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt. Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.
Nhưng rồi
tai họa lại xảy đến cho toàn dân vì Tây Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn
như Nga và Trung Cộng, ngoài ra còn chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy
giờ vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi cách
để chống đỡ đất nước nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang nhòm ngó. Ngài
biết trước thế nào đất nước ngài cũng gặp thảm họa nhưng ngài lại không thể sống
thêm để cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung Cộng tung quân xâm lược, đàn áp người dân Tây Tạng và tìm cách triệt hạ tôn giáo.
Tục truyền rằng khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đã chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh. Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhắm hướng Đông Bắc mà đi. Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm họ nghe đồn về một cháu độ 3 tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi nhà xây bằng đất tọa lạc bên cạnh một cây cổ thụ sum xuê. Khi phái đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị trưởng lão hòa thượng vì vị nầy có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:
-Tên ngươi là gì?
-Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo
- Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
- Cháu bé đáp:
-Đây là Lạt Ma Scra.
Phái đoàn đã biết được một phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau họ đưa ra một số xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng xâu chuỗi không đúng của Đạt Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu sĩ đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dầu đường sá khó khăn lại thêm quân đội Trung Cộng gây cản trở nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện Potala. Đến năm gần 5 tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị phật sống nầy phải được huấn luyện về mọi mặt. Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải vượt qua nhiều thử thách cam go về giờ giấc, học hành, và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lý Phật giáo... Trong khi đó, tình hình chính trị không yên. Trung Cộng tìm đủ mọi cách để gây hấn vì thế năm 1959 Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt biên giới để lánh nạn ở Ấn Độ. Trên đây là những giai đoạn Hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự thì sự hóa thân được xem như khởi đầu từ Đại Sư Gedun Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma qua đời, vị nầy thường có được ước nguyện tái sinh trở lại, việc đi tìm cho đúng ai là người Hóa thân của những vị nầy là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi khi phải mất 3, 4 năm hay hơn mới tìm ra được vị hóa thân. Vì thế mỗi khi một vị lãnh đạo tôn giáo cao cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ đầu thai trở lại.
Mới đây các vị sư Tây Tạng trú tại Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu bé 5 tuổi tên là Simon cậu bé nầy có lời nói và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi( viện trưởng của trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở San Dioge) cậu bé đã bước tới nói một câu rất tự nhiên:
- À! Tôi biết ông nhưng có lẽ ông không nhận ra tôi?! Chính tôi là người mà ông thường ở kề cận.
Lúc đầu tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu người lớn nhưng khi ông nầy cuối xuống nhìn vào mắt cậu bé Simon và hỏi lại một câu rằng: "vừa rồi Simon đã nói gì?" thì bé vẫn trả lời: "tôi biết ông!" vừa nói Simon vừa đưa tay mân mê chiếc còng của tu sĩ Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ nầy sau đó, trở lại hỏi người trong gia đình nầy về trường hợp của bé Simon thì được cha mẹ Simon cho biết thêm chi tiết như sau:
Bé Simon rất khác thường nếu so sánh với các trẻ con khác, suốt ngày Simon chỉ ngắm trời mây, đi dạo trong nhà hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm, thường tư lự như một người đứng tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiện lạ lùng như tự nhiên nói những lòi tiên tri. Có lần Simon khuyến cáo trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm để đi xa thì thật sư nơi đó chẳng có gì. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là rất xấu cho ông. Quả hôm đó chỗ ông định tới lại bị lụt lớn, gãy cầu, nếu ông đi sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sinh tại California Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel khi vị nầy đến thăm Victoville thuộc vùng sa mạc Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu hiện lạ lùng, vị tu sĩ nầy trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của mình thuở trước. Đó là Lạt Ma Lobsang Phakpa, người đã viên tịch tại Trung Quốc vào đầu thập niên 1950, trong giấc mơ, vị Lạt Ma nầy như có điều gì nhắn gởi với tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình thức dậy, ông tự nhiên có ý nghĩ rằng có lẽ bà Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng vì ngày xưa tu sĩ Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma nầy và vị nầy mỗi khi nói điều gì cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm tu sĩ Geshe Lobsang giống như bé Simon đã làm. Sau đó, tu sĩ nầy đã viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ để thỉnh ý quý vị lãnh đạo tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Sau một thời gian tìm hiểu, trắc nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu viện đã quyết định gởi bé Simon qua Ấn để tìm hiểu thêm và nếu quả thật thì bé Simon sẽ được giáo dục theo phương pháp và chương trình giáo dục của tu viện Tây Tạng.
Cũng cần biết thêm là trước đó vài năm, tại Tây Ban Nha người ta cũng phát hiện được một cháu bé được nghi ngờ là một Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được một bé trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống Đức Phó Tăng Thống Tây Tạng. Sau đó Đạt Lai Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ tìm hiểu thêm đó có phải là một Hóa thân của vị Tăng Thống ấy không.
Tục truyền rằng khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đã chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh. Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhắm hướng Đông Bắc mà đi. Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm họ nghe đồn về một cháu độ 3 tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi nhà xây bằng đất tọa lạc bên cạnh một cây cổ thụ sum xuê. Khi phái đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị trưởng lão hòa thượng vì vị nầy có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:
-Tên ngươi là gì?
-Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo
- Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
- Cháu bé đáp:
-Đây là Lạt Ma Scra.
Phái đoàn đã biết được một phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau họ đưa ra một số xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng xâu chuỗi không đúng của Đạt Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu sĩ đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dầu đường sá khó khăn lại thêm quân đội Trung Cộng gây cản trở nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện Potala. Đến năm gần 5 tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị phật sống nầy phải được huấn luyện về mọi mặt. Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải vượt qua nhiều thử thách cam go về giờ giấc, học hành, và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lý Phật giáo... Trong khi đó, tình hình chính trị không yên. Trung Cộng tìm đủ mọi cách để gây hấn vì thế năm 1959 Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt biên giới để lánh nạn ở Ấn Độ. Trên đây là những giai đoạn Hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự thì sự hóa thân được xem như khởi đầu từ Đại Sư Gedun Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma qua đời, vị nầy thường có được ước nguyện tái sinh trở lại, việc đi tìm cho đúng ai là người Hóa thân của những vị nầy là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi khi phải mất 3, 4 năm hay hơn mới tìm ra được vị hóa thân. Vì thế mỗi khi một vị lãnh đạo tôn giáo cao cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ đầu thai trở lại.
Mới đây các vị sư Tây Tạng trú tại Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu bé 5 tuổi tên là Simon cậu bé nầy có lời nói và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi( viện trưởng của trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở San Dioge) cậu bé đã bước tới nói một câu rất tự nhiên:
- À! Tôi biết ông nhưng có lẽ ông không nhận ra tôi?! Chính tôi là người mà ông thường ở kề cận.
Lúc đầu tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu người lớn nhưng khi ông nầy cuối xuống nhìn vào mắt cậu bé Simon và hỏi lại một câu rằng: "vừa rồi Simon đã nói gì?" thì bé vẫn trả lời: "tôi biết ông!" vừa nói Simon vừa đưa tay mân mê chiếc còng của tu sĩ Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ nầy sau đó, trở lại hỏi người trong gia đình nầy về trường hợp của bé Simon thì được cha mẹ Simon cho biết thêm chi tiết như sau:
Bé Simon rất khác thường nếu so sánh với các trẻ con khác, suốt ngày Simon chỉ ngắm trời mây, đi dạo trong nhà hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm, thường tư lự như một người đứng tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiện lạ lùng như tự nhiên nói những lòi tiên tri. Có lần Simon khuyến cáo trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm để đi xa thì thật sư nơi đó chẳng có gì. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là rất xấu cho ông. Quả hôm đó chỗ ông định tới lại bị lụt lớn, gãy cầu, nếu ông đi sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sinh tại California Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel khi vị nầy đến thăm Victoville thuộc vùng sa mạc Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu hiện lạ lùng, vị tu sĩ nầy trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của mình thuở trước. Đó là Lạt Ma Lobsang Phakpa, người đã viên tịch tại Trung Quốc vào đầu thập niên 1950, trong giấc mơ, vị Lạt Ma nầy như có điều gì nhắn gởi với tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình thức dậy, ông tự nhiên có ý nghĩ rằng có lẽ bà Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng vì ngày xưa tu sĩ Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma nầy và vị nầy mỗi khi nói điều gì cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm tu sĩ Geshe Lobsang giống như bé Simon đã làm. Sau đó, tu sĩ nầy đã viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ để thỉnh ý quý vị lãnh đạo tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Sau một thời gian tìm hiểu, trắc nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu viện đã quyết định gởi bé Simon qua Ấn để tìm hiểu thêm và nếu quả thật thì bé Simon sẽ được giáo dục theo phương pháp và chương trình giáo dục của tu viện Tây Tạng.
Cũng cần biết thêm là trước đó vài năm, tại Tây Ban Nha người ta cũng phát hiện được một cháu bé được nghi ngờ là một Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được một bé trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống Đức Phó Tăng Thống Tây Tạng. Sau đó Đạt Lai Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ tìm hiểu thêm đó có phải là một Hóa thân của vị Tăng Thống ấy không.
Kết Luận
Nhà triết
học nổi danh Schopenhauer đã có một suy nghĩ về số kiếp sinh vật khi ông bàn về
vấn đề siêu hình của sự chết: "Nếu ta nghĩ lại một cách khách quan và vô
tư rằng khi ta giết một sinh vật nào đó, hoặc là con chó, con chim, con ếch hay
là một con côn trùng nhỏ nhoi... thì quả thật ta không thể nào tưởng tượng được
sinh vật ấy mà trước đây đầy sinh lực và kỳ diệu đến thế bỗng nhiên lại bị giết
đi một cách tức tưởi vì một hành động tàn ác dửng dưng hay xuẩn ngốc của ta và
trước mắt ta hàng triệu sinh linh khác đủ cỡ đủ loại đầy sức sống và đầy ham muốn, chúng được sinh ra và trước khi sinh, không thể là
một cái gì cả và từ không ấy lại khởi đầu mọi thứ. Như thế ta không thể không
ngạc nhiên tự hỏi rằng: "cái gì biến đi và cái gì lại thay thế chúng khi
ta mãi thấy chung quanh mình sinh vật nầy mất đi thì sinh vật khác xuất hiện
cũng như phải thắc mắc về điều sinh vật ấy từ đâu đến nhất là những sinh vật
cùng hình dạng, cùng đời sống và tập tính, chỉ khác ở thể chất mà thôi?"
Đại Đức Dhammananda đã có lần phát biểu như sau: "Nếu trong vũ trụ hay trong đời nầy chỉ có một kiếp sống độc nhất thì tại sao Thượng Đế nhân từ bác ái vô biên lại dửng dưng trước đau khổ trước sự sống chết, thọ yểu của con người. Tại sao lại có sự bất công vô lý khi người nầy mới ra đời đã chết còn người khác lại sống thọ? Hay người nầy bệnh hoạn khổ đau, nghèo nàn, còn người kia lại mạnh khỏe, giàu sang, hạnh phúc? Làm sao Ngài lại bất công đến như vậy được? Hay phải chăng tất cả đều có nguyên nhân và nguyên nhân đó có phải phát sinh từ những hành động xấu xa tội lỗi hoặc tốt lành của con người đã tạo ra hay không? Nói khác đi họ đã tạo nhân thì nhân sẽ phát sinh quả? Nếu thế thì những gì xảy ra trong cuộc đời người nầy hoặc người kia đều không phải do sự tình cờ ngẫu nhiên mà chính là do hậu quả của mọi hành động và sự bất đồng đều, bất tương xứng hay bất công trong cuộc sống giữa kẻ nầy, người kia, giữa người giàu, người nghèo, người sung sướng người đau khổ, người cô đơn, người hạnh phúc, người bệnh nan y tật nguyền người mạnh khỏe... đều do nghiệp báo, tái sinh mới giải thích được một cách hợp lý đối với sự bất công vô lý trong cuộc sống của mỗi con người mà thôi."
Rõ ràng hiện tượng tái sinh đã mở ra cho con người chúng ta những cánh cửa mới khác để từ đó giúp ta hiểu rõ hơn về cuộc đời, về cuộc sống của con người và đặc biệt nhất là ngay chính bản thân mình về những gì từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai. Trong cuốn Life After Life của Raymond A. Moondy có một đoạn nói đến sự hiểu biết về sống chết, về luân hồi tái sinh đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống trong hiên tại của mỗi con người chúng ta. Dịch giả Hoàng Phi Lưu Hoàng Nguyên đã dịch lại đoạn ấy như sau: (trong Giai Phẩm Pháp Duyên Bộ mới số 3)
"Ảnh hưởng của kinh nghiệm túc lâm chung đối với đời họ dường như hiện ra dưới dạng những dạng tế nhị, thầm lặng hơn. Nhiều người cho tôi biết nhờ kinh nghiệm đó, đời họ trở thành sâu rộng hơn, họ trở nên trầm tư hơn và quan tâm nhiều đến những vấn đề triết lý cơ bản.
"Lúc đó trước khi lên học trường cao đẳng tôi sống tại một tỉnh nhỏ với những người trí óc hẹp hòi, những người mà dù muốn dù không tôi cũng từng cộng tác. Tôi là một thằng nhóc điển hình của hội học sinh trung học. Bạn sẽ không giống như thế, trừ phi bạn gia nhập hội chúng tôi.
Nhưng sau khi chuyện đó xảy ra, tôi muốn biết nhiều hơn nữa. Song lúc ấy tôi nghĩ chắc không ai biết rành chuyện nầy bởi lẽ tôi chưa ra khỏi thế giới nhỏ bé của mình. Tôi nào biết chi về tâm lý học hoặc những gì tương tự. Tôi nào biết chi về tâm lý học hoặc những gì tương tự. Tôi chỉ biết đã cảm thấy bỗng chốc trở nên già dặn sau khi chết hụt, vì nó đã mở ngõ cho tôi cả một thế giới mới mà tôi đâu ngờ nó có thể hiện hữu. Tôi cứ mãi băn khoăn: "Quả có nhiều điều mình cần khám phá." Nói cách khác, cuộc sống phong phú hơn là việc xem chiếu bóng tối thứ sáu và chơi đá banh. Tôi thấy có nhiều cái mình mù tịt. Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ: "Đâu là giới hạn của con người, của tâm thức?" Nó chỉ hé mở ngõ cho tôi thấy một thế giới mới mà thôi"
Có người lại nhận định:
"Từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ đến những gì mình đã làm trong đời và những gì mình sẽ làm. Tôi tự mãn với quá khứ. Tôi không nghĩ là cõi đời có nợ tôi chi, vì tôi đã làm tất cả những điều mình muốn, tôi đã làm theo ý mình, và tôi hiện còn sống, còn có thể làm thêm nữa. Nhưng từ khi chết hụt, bỗng nhiên ngay sau lúc hồi sinh, tôi bắt đầu hỏi mình đã làm những điều trước kia từng làm vì chúng là điều thiện, hay vì chúng ích lợi cho tôi.
Xưa kia tôi phản ứng khi có sự xúc động, nay thì tôi suy nghĩ chậm rãi, kỹ lưỡng trước đã. Mọi việc dường như phải qua tâm trí tôi và được tiêu hóa cái đã.
Tôi cố gắng làm những việc có nhiều ý nghĩa hơn, điều nầy làm hôn tôi thoải mái hơn. Tôi có gắng không có thành kiến, tránh phê phán người khác. Tôi muốn làm những việc thiện chứ chẳng phải những việc ích kỷ. Và dường như tôi trở nên lịch lãm hơn. Tôi cảm thấy thế vì những gì đã xảy ra cho tôi, và những nơi tôi đã đến và những điều mình thấy trong cơn thập tử nhất sinh."
Những người khác cho biết có sự thay đổi thái đô đối với cuộc sống dương trần mà họ đã trở lại. Chẳng hạn một bà đã nói thật đơn giản: "Nó làm đời tôi trở nên quý báu hơn nhiều đối với tôi."
Người khác kể:
"Về phương diện nào đó, nó đã rất hữu ích trước khi bị cơn đứng tim, tôi quá quân rộn hoạch định tương lai cho lũ con và lo nghĩ chuyên đã qua, nên lỡ dịp vui sống những giây phút hiện tại. Giờ tôi có thái độ khác biệt nhiều."
Nhiều người cho rằng việc trải qua kinh nghiệm chết sống đã thay đổi quan niệm của họ về tâm thức, về tầm quan trọng tương đối của thể xác đối với tinh thần. Đoạn văn sau đây của một bà từng xuất hồn trong cơn thập tử nhất sinh minh họa khá rõ ràng điều nầy:
"Lúc tôi ý thức về tâm hồn mình nhiều hơn về thể xác. Tâm hồn là phần quan trọng nhất, thay vì hình dáng của cơ thể. Thế mà trước đây, trong suốt cuộc đời, nó hoàn toàn ngược lại. Tôi đã chủ yếu chú trọng đến thân thể, còn cái gì đang lướt qua trí chỉ là những điều đang lướt qua, thế thôi.
Nhưng sau khi sự việc xảy ra tâm hồn tôi là cái đáng chú ý, hình hài là thứ yếu. Hình hài chỉ có cái vỏ để bọc tâm hồn. Có hay không có thể xác tôi cóc cần, điều đó không thành vấn đề vì mới thái độ hoàn toàn dửng dưng, tâm hồn tôi vẫn là cái quan trọng."
Qua mấy trăm trang sách, tuy không đủ vào đâu so với vấn đề huyền vi rộng lớn vô cùng của hiện tượng được gọi là luân hồi, tái sinh, tiền kiếp, hậu kiếp nhưng một phần nào cũng giúp làm rõ nét những gì có liên quan đến vấn đề trọng đại của những kiếp người. Những kiếp người liên hệ nhân quả với nhau hay tổng quát hơn là sự luân hồi chuyển kiếp qua những đời sinh vật. Tuy nhiên có nhiều người đã nghĩ sai lạc về sự luân hồi chuyển kiếp. Chẳng hạn họ cho rằng ta cứ việc sát sinh càng nhiều càng tốt vì làm như thế là đã "hóa kiếp" cho các loài sinh vật. Đây là một sự hiểu lầm tai hại vì luân hồi được xem như một định luật tự nhiên, khi ta giết một con vật với ý nghĩ giúp hóa kiếp sớm cho nó thì chẳng khác nào hành động vặn kim đồng hồ hay xé từng xấp lịch cho thời gian, ngày tháng tới nhanh hơn.
Đã là sinh vật thì luôn luôn chịu ảnh hưởng của sự tái sinh mà nguyên do chính hành động, nó là nguyên lý tác động làm phát sinh sự luân hồi chuyển hóa tái sinh. Kinh Bhagavad Gita có câu:
"Nghiệp chính là lực sáng tạo, vì lực sáng tạo ấy mà vạn vật có được đời sống của chúng."
Sự luân hồi tái sinh thật sự không do ai gây ra ngoài chính bản thân sinh vật. Tại sao tôi lại sinh ra, tôi lại phải chịu nhiều trong cõi đời, đau khổ, bệnh tật, rồi chết? Khi chết lại không phải là chấm dứt đời đời? Cái nguyên nhân sâu xa ấy có thể thấy được hoặc qua giấc ngủ thôi miên, qua giấc mộng, tự nhiên thấy được hoặc sâu xa hơn có thể suy diễn từ những gì mà con người đang gánh lấy. Đọc qua các chương chúng ta có được một số khái niêm sơ lược về những giải thích vì sao xon người lại phải khổ đau? Tại sao có người giàu người nghèo, tại sao có người trường thọ có người chết yểu, tại sao có kẻ tài hoa có người đần độn, tại sao có người hạnh phúc?... Đi xa hơn nữa ta còn suy đoán được một sự kiện thường gây thắc mắc từ biết bao đời nay. Như nguyên nhân nào kẻ làm ác đôi khi lại được sống lâu còn được giàm sang phú quý còn kẻ hiền lương, thường làm việc thiện đôi khi lại chịu cảnh oan trái, nghèo khổ, đắng cay? Tất cả mọi sự kiện xảy ra ở mỗi đời người đều có nguyên nhân. Nguyên nhân nầy quả thật vô cùng sâu xa và thuộc về quá khứ xa xăm hay gọi là tiền kiếp. Biết được cái nguyên nhân phát sinh ấy khiến ta suy đoán thêm rằng ngay trong cuộc sống hiện tại, mình phải sống và hành động thế nào để tạo nhân cho quả của đời sau (hậu kiếp). Nhân tốt thì quả tốt và ngược lại. Có những việc mà lúc sống, chúng ta đã hăng say mong chu toàn vì lo sợ cái chết đến sẽ làm ta không hoàn tất được. Nhưng khi ta đã hy vọng có cuộc sống mai sau thì điều nầy sẽ giúp ta tiếp tục đạt sở nguyện.
Luân hồi là định luật tự nhiên, định luật nầy tác động lên mọi kiếp người nhưng kiếp người chuyển hóa tốt lành hạnh phúc, giàu sang hay nghèo hèn, bệnh tật hay mạnh khỏe đều có nguyên nhân và việc đinh số kiếp như thế rõ ràng là do chính ta. Định luật luân hồi cho thây có sự tự do của chính con người. Nếu con người biết mình khổ đau là do những hành động xấu xa tội lỗi của chính mình đã tạo ra từ tiền kiếp thì trong kiếp hiện tại ta có toàn quyền định đoạt phần nào số phận kế tiếp của mình.
Sự hiểu biết về định luật luân hồi nghiệp báo đã giúp con người tin tưởng và chịu đựng trong cuộc sống, cố gắng làm điều thiện, sẵn sàng quên mình và giúp đỡ người. Không còn tiếp nuối cho tuổi đời đi qua vì cuộc đời còn tiếp nối qua nhiều kiếp và con người có thể tạo được sự hạnh phúc tốt lành cho mình ở kiếp lại sinh.
Đại Đức Dhammananda đã có lần phát biểu như sau: "Nếu trong vũ trụ hay trong đời nầy chỉ có một kiếp sống độc nhất thì tại sao Thượng Đế nhân từ bác ái vô biên lại dửng dưng trước đau khổ trước sự sống chết, thọ yểu của con người. Tại sao lại có sự bất công vô lý khi người nầy mới ra đời đã chết còn người khác lại sống thọ? Hay người nầy bệnh hoạn khổ đau, nghèo nàn, còn người kia lại mạnh khỏe, giàu sang, hạnh phúc? Làm sao Ngài lại bất công đến như vậy được? Hay phải chăng tất cả đều có nguyên nhân và nguyên nhân đó có phải phát sinh từ những hành động xấu xa tội lỗi hoặc tốt lành của con người đã tạo ra hay không? Nói khác đi họ đã tạo nhân thì nhân sẽ phát sinh quả? Nếu thế thì những gì xảy ra trong cuộc đời người nầy hoặc người kia đều không phải do sự tình cờ ngẫu nhiên mà chính là do hậu quả của mọi hành động và sự bất đồng đều, bất tương xứng hay bất công trong cuộc sống giữa kẻ nầy, người kia, giữa người giàu, người nghèo, người sung sướng người đau khổ, người cô đơn, người hạnh phúc, người bệnh nan y tật nguyền người mạnh khỏe... đều do nghiệp báo, tái sinh mới giải thích được một cách hợp lý đối với sự bất công vô lý trong cuộc sống của mỗi con người mà thôi."
Rõ ràng hiện tượng tái sinh đã mở ra cho con người chúng ta những cánh cửa mới khác để từ đó giúp ta hiểu rõ hơn về cuộc đời, về cuộc sống của con người và đặc biệt nhất là ngay chính bản thân mình về những gì từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai. Trong cuốn Life After Life của Raymond A. Moondy có một đoạn nói đến sự hiểu biết về sống chết, về luân hồi tái sinh đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống trong hiên tại của mỗi con người chúng ta. Dịch giả Hoàng Phi Lưu Hoàng Nguyên đã dịch lại đoạn ấy như sau: (trong Giai Phẩm Pháp Duyên Bộ mới số 3)
"Ảnh hưởng của kinh nghiệm túc lâm chung đối với đời họ dường như hiện ra dưới dạng những dạng tế nhị, thầm lặng hơn. Nhiều người cho tôi biết nhờ kinh nghiệm đó, đời họ trở thành sâu rộng hơn, họ trở nên trầm tư hơn và quan tâm nhiều đến những vấn đề triết lý cơ bản.
"Lúc đó trước khi lên học trường cao đẳng tôi sống tại một tỉnh nhỏ với những người trí óc hẹp hòi, những người mà dù muốn dù không tôi cũng từng cộng tác. Tôi là một thằng nhóc điển hình của hội học sinh trung học. Bạn sẽ không giống như thế, trừ phi bạn gia nhập hội chúng tôi.
Nhưng sau khi chuyện đó xảy ra, tôi muốn biết nhiều hơn nữa. Song lúc ấy tôi nghĩ chắc không ai biết rành chuyện nầy bởi lẽ tôi chưa ra khỏi thế giới nhỏ bé của mình. Tôi nào biết chi về tâm lý học hoặc những gì tương tự. Tôi nào biết chi về tâm lý học hoặc những gì tương tự. Tôi chỉ biết đã cảm thấy bỗng chốc trở nên già dặn sau khi chết hụt, vì nó đã mở ngõ cho tôi cả một thế giới mới mà tôi đâu ngờ nó có thể hiện hữu. Tôi cứ mãi băn khoăn: "Quả có nhiều điều mình cần khám phá." Nói cách khác, cuộc sống phong phú hơn là việc xem chiếu bóng tối thứ sáu và chơi đá banh. Tôi thấy có nhiều cái mình mù tịt. Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ: "Đâu là giới hạn của con người, của tâm thức?" Nó chỉ hé mở ngõ cho tôi thấy một thế giới mới mà thôi"
Có người lại nhận định:
"Từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ đến những gì mình đã làm trong đời và những gì mình sẽ làm. Tôi tự mãn với quá khứ. Tôi không nghĩ là cõi đời có nợ tôi chi, vì tôi đã làm tất cả những điều mình muốn, tôi đã làm theo ý mình, và tôi hiện còn sống, còn có thể làm thêm nữa. Nhưng từ khi chết hụt, bỗng nhiên ngay sau lúc hồi sinh, tôi bắt đầu hỏi mình đã làm những điều trước kia từng làm vì chúng là điều thiện, hay vì chúng ích lợi cho tôi.
Xưa kia tôi phản ứng khi có sự xúc động, nay thì tôi suy nghĩ chậm rãi, kỹ lưỡng trước đã. Mọi việc dường như phải qua tâm trí tôi và được tiêu hóa cái đã.
Tôi cố gắng làm những việc có nhiều ý nghĩa hơn, điều nầy làm hôn tôi thoải mái hơn. Tôi có gắng không có thành kiến, tránh phê phán người khác. Tôi muốn làm những việc thiện chứ chẳng phải những việc ích kỷ. Và dường như tôi trở nên lịch lãm hơn. Tôi cảm thấy thế vì những gì đã xảy ra cho tôi, và những nơi tôi đã đến và những điều mình thấy trong cơn thập tử nhất sinh."
Những người khác cho biết có sự thay đổi thái đô đối với cuộc sống dương trần mà họ đã trở lại. Chẳng hạn một bà đã nói thật đơn giản: "Nó làm đời tôi trở nên quý báu hơn nhiều đối với tôi."
Người khác kể:
"Về phương diện nào đó, nó đã rất hữu ích trước khi bị cơn đứng tim, tôi quá quân rộn hoạch định tương lai cho lũ con và lo nghĩ chuyên đã qua, nên lỡ dịp vui sống những giây phút hiện tại. Giờ tôi có thái độ khác biệt nhiều."
Nhiều người cho rằng việc trải qua kinh nghiệm chết sống đã thay đổi quan niệm của họ về tâm thức, về tầm quan trọng tương đối của thể xác đối với tinh thần. Đoạn văn sau đây của một bà từng xuất hồn trong cơn thập tử nhất sinh minh họa khá rõ ràng điều nầy:
"Lúc tôi ý thức về tâm hồn mình nhiều hơn về thể xác. Tâm hồn là phần quan trọng nhất, thay vì hình dáng của cơ thể. Thế mà trước đây, trong suốt cuộc đời, nó hoàn toàn ngược lại. Tôi đã chủ yếu chú trọng đến thân thể, còn cái gì đang lướt qua trí chỉ là những điều đang lướt qua, thế thôi.
Nhưng sau khi sự việc xảy ra tâm hồn tôi là cái đáng chú ý, hình hài là thứ yếu. Hình hài chỉ có cái vỏ để bọc tâm hồn. Có hay không có thể xác tôi cóc cần, điều đó không thành vấn đề vì mới thái độ hoàn toàn dửng dưng, tâm hồn tôi vẫn là cái quan trọng."
Qua mấy trăm trang sách, tuy không đủ vào đâu so với vấn đề huyền vi rộng lớn vô cùng của hiện tượng được gọi là luân hồi, tái sinh, tiền kiếp, hậu kiếp nhưng một phần nào cũng giúp làm rõ nét những gì có liên quan đến vấn đề trọng đại của những kiếp người. Những kiếp người liên hệ nhân quả với nhau hay tổng quát hơn là sự luân hồi chuyển kiếp qua những đời sinh vật. Tuy nhiên có nhiều người đã nghĩ sai lạc về sự luân hồi chuyển kiếp. Chẳng hạn họ cho rằng ta cứ việc sát sinh càng nhiều càng tốt vì làm như thế là đã "hóa kiếp" cho các loài sinh vật. Đây là một sự hiểu lầm tai hại vì luân hồi được xem như một định luật tự nhiên, khi ta giết một con vật với ý nghĩ giúp hóa kiếp sớm cho nó thì chẳng khác nào hành động vặn kim đồng hồ hay xé từng xấp lịch cho thời gian, ngày tháng tới nhanh hơn.
Đã là sinh vật thì luôn luôn chịu ảnh hưởng của sự tái sinh mà nguyên do chính hành động, nó là nguyên lý tác động làm phát sinh sự luân hồi chuyển hóa tái sinh. Kinh Bhagavad Gita có câu:
"Nghiệp chính là lực sáng tạo, vì lực sáng tạo ấy mà vạn vật có được đời sống của chúng."
Sự luân hồi tái sinh thật sự không do ai gây ra ngoài chính bản thân sinh vật. Tại sao tôi lại sinh ra, tôi lại phải chịu nhiều trong cõi đời, đau khổ, bệnh tật, rồi chết? Khi chết lại không phải là chấm dứt đời đời? Cái nguyên nhân sâu xa ấy có thể thấy được hoặc qua giấc ngủ thôi miên, qua giấc mộng, tự nhiên thấy được hoặc sâu xa hơn có thể suy diễn từ những gì mà con người đang gánh lấy. Đọc qua các chương chúng ta có được một số khái niêm sơ lược về những giải thích vì sao xon người lại phải khổ đau? Tại sao có người giàu người nghèo, tại sao có người trường thọ có người chết yểu, tại sao có kẻ tài hoa có người đần độn, tại sao có người hạnh phúc?... Đi xa hơn nữa ta còn suy đoán được một sự kiện thường gây thắc mắc từ biết bao đời nay. Như nguyên nhân nào kẻ làm ác đôi khi lại được sống lâu còn được giàm sang phú quý còn kẻ hiền lương, thường làm việc thiện đôi khi lại chịu cảnh oan trái, nghèo khổ, đắng cay? Tất cả mọi sự kiện xảy ra ở mỗi đời người đều có nguyên nhân. Nguyên nhân nầy quả thật vô cùng sâu xa và thuộc về quá khứ xa xăm hay gọi là tiền kiếp. Biết được cái nguyên nhân phát sinh ấy khiến ta suy đoán thêm rằng ngay trong cuộc sống hiện tại, mình phải sống và hành động thế nào để tạo nhân cho quả của đời sau (hậu kiếp). Nhân tốt thì quả tốt và ngược lại. Có những việc mà lúc sống, chúng ta đã hăng say mong chu toàn vì lo sợ cái chết đến sẽ làm ta không hoàn tất được. Nhưng khi ta đã hy vọng có cuộc sống mai sau thì điều nầy sẽ giúp ta tiếp tục đạt sở nguyện.
Luân hồi là định luật tự nhiên, định luật nầy tác động lên mọi kiếp người nhưng kiếp người chuyển hóa tốt lành hạnh phúc, giàu sang hay nghèo hèn, bệnh tật hay mạnh khỏe đều có nguyên nhân và việc đinh số kiếp như thế rõ ràng là do chính ta. Định luật luân hồi cho thây có sự tự do của chính con người. Nếu con người biết mình khổ đau là do những hành động xấu xa tội lỗi của chính mình đã tạo ra từ tiền kiếp thì trong kiếp hiện tại ta có toàn quyền định đoạt phần nào số phận kế tiếp của mình.
Sự hiểu biết về định luật luân hồi nghiệp báo đã giúp con người tin tưởng và chịu đựng trong cuộc sống, cố gắng làm điều thiện, sẵn sàng quên mình và giúp đỡ người. Không còn tiếp nuối cho tuổi đời đi qua vì cuộc đời còn tiếp nối qua nhiều kiếp và con người có thể tạo được sự hạnh phúc tốt lành cho mình ở kiếp lại sinh.
HẾT
|
No comments:
Post a Comment