Tuesday, January 1, 2013

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ: ĐIỂM HẸN LỊCH SỬ ĐỂ CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC



Nguyễn Việt Nữ

Chiến thắng Điện Biên Phủ là ngày 7 tháng 5 năm 1954 được xem là giai đọan cuối cùng kết thúc chiến tranh Đông Dương I (1946—1954) vì dân Việt Nam và thế giới xem là nhờ chiến thắng quân Pháp tại Điện Biên Phủ mà ngày 21 tháng 7 năm 1954 Pháp mới chịu ký hiệp định Geneve "Chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình tại Đông Dương”. Do đó thế giới, nhất là thế hệ trẻ trong nước tin rằng Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam có công chống Pháp giành độc lập.

Nhưng chính trong hối ức “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử” (ĐHLS) tác giả Võ Nguyên Giáp do Hữu Mai thể hiện, gồm 14 chương, dày 452 trang, do nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân Hà Nội xuất bản năm 2001, đã chứng minh mục đích của trận đánh và chiến thắng vang vội, đầy xương máu này là để gây thế mạnh cho hội nghị Genève, là “Điểm Hẹn Lịch Sử” của Liên Sô, Trung Cộng, chờ tin thắng trận để gây thế mạnh, Pháp chịu chia đôi đất nước với Việt Cộng,
Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh 2 đại tội đồ của dân tộc Việt nam

Tác giả viết: “Ngày 10 tháng 3 năm 1954, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức nhận được lời mời tham dự hội nghị Genevơ bàn về chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương, sẽ khai mạc vào ngày 26 tháng 4 năm 1954. Nava (Tướng Pháp) từng khuyên chính phủ Pháp chỉ ngồi vào bàn đàm phán sau khi đã giành một chiến thắng lớn trên chiến trường. Nước Pháp không thể tới hội nghị Tứ Cường với hai bàn tay trắng.” (Ghi chú của Việt Nữ: Hội nghị Tứ Cường gồm Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô nguyên thủy họp tại Berlin, Đức Quốc từ ngày 25/1/54 để bàn nhiều vấn đề còn tồn động của Âu Châu như việc thống nhất Đông, Tây Đức, việc ký hòa ước với nước Áo.v.v.Trong lần họp nầy mới quyết định tháng 4 tới sẽ họp ở Geneve)

Rồi một ngày sau, tức 11 tháng 3 năm 1954 thì Hồ Chí Minh gửi cho Võ Nguyên Giáp một bức thư như tiếng pháo lệnh xuất quân, (trích): “Các chú sắp ra trận. Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi sẽ có một ảnh hưởng vang dội trong và ngòai nước, sẽ là một cống hiến xứng đáng cho phong trào Hòa Bình thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt, Miên, Lào. Tất cả các binh chủng hãy dũng cảm tiến lên, thi đua lập công, giật lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch”. (ĐHLS, tr. 200, 201)

Phân tích quyển hồi ức nầy, cho ta hiểu nhiều sự thật lịch sử của hai khối Cộng Sản và Tư Bản đối với bán đảo Đông Dương và chiến tranh Việt Nam mà nhiều người, nhất là thế hệ trẻ của ba nước Việt, Miên, Lào chưa hề được biết, nay sự hiểu biết nầy lại do phe Hồ Chí Minh viết lại mới đáng tin cậy. Trước hết là sự thật về:

Tình báo Trung Cộng chuyển kế họach trao trả độc lập của Pháp, nhưng bị bóp méo để gây chiến tranh.
Vào ngay chương I “Cuộc Họp ở Tỉn Keo” của quyển hồi ưc, tác giả cho biết cuộc kháng chiến chống Pháp của Cộng Sản Việt Minh đã sang năm thứ tám. Chuyển kể vào hạ tuần tháng 5 năm 1953 ông từ Sầm Nứa về tới khu căn cứ, có lẽ là để dự cuộc họp?
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp viết, xin trích nguyên văn, dịch dưới và chữ nghiêng do chúng tôi muốn nhấn mạnh: “Sắp có một hiệp định ngừng bắn tại Triều Tiên. (…) Như chúng ta đã dự đóan, nếu tình hình Triều Tiên tạm ổn định, Mỹ sẽ dồn những nổ lực chống Cộng vào Đông Dương.” 
“Ngày 27 tháng 7 năm 1953, hiệp định ngừng bắn ở Triều Tiên được ký tại Bàn Môn Điếm. (…) Hăngry Nava (Henri Navarre) tới Sàigòn ngày 19 tháng 5 năm 1953. Từ khi bắt đầu chiến tranh, nước Pháp đã bảy lần bổ nhiêm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Nava là tướng bốn sao, 55 tuổi, nguyên tham mưu trưởng lục quân Pháp thuộc khối Bắc Đại Tây Dương, đống ở Trung Âu –ghi chú thêm của Việt Nữ: tức khối NATO (Anh, Pháp, Mỹ) căn cứ ở Bruxelles bây giờ đang đánh ở Libya ủng hộ nhóm nổi dậy chống Gadhafi—Báo chí phương Tây ca ngợi Nava như một “danh tướng” có thể “uốn nắn lại tình hình Đông Dương”. (ĐHLS, trang 7, 9, 10, và 10)

Xin độc giả chú ý là Cộng Sản Võ Nguyên Giáp nói rõ mục tiêu của Mỹ là “Chống Cộng” như trên: “Mỹ sẽ dồn những nổ lực chống Cộng vào Đông Dương.” Và người Cộng Sản Giáp còn viết rõ sau khi Tướng Nava tới Sàigòn tháng 5, rồi về Pari, qua lại nhiều lần làm gì không biết, nhưng cuối cùng 4 tháng sau Hồ--Giáp được phe Mao Trạch Đông đưa cho Việt Cộng tài liệu của phe “thực dân Pháp” là Nava. Tướng Việt Cộng Võ Nguyên Giáp viết: “Hạ tuần tháng 9 năm 1953, các đồng chí Trung Quốc chuyển cho ta một bản kế họach Nava với bản đồ do cơ quan tình báo của bạn thu thập được. Nava chủ trương xúc tiến chủ trương mới của chính phủ Pháp là trao “chủ quyền” và “độc lập” cho các quốc gia liên kết, nhằm phát triển các quân đội quốc gia” thành một lực lượng lớn mạnh….”

Đó là mục đích của “thực dân Pháp” do Giáp viết, nhưng những chữ trao chủ quyền và độc lập bị Giáp để trong ngọăc kép vì Hồ Chí Minh không tin như vậy, mà nhất định coi Mỹ là kẻ thù chính ngay từ khi chưa chấm dứt chiến tranh chống Pháp, Hồ đã chủ trương chiến tranh “Chống Mỹ cứu nước” rồi. Vì sao vậy??

Vì Hồ là cán bộ Cộng Sản quốc Tế Đệ Tam từ năm 1920, là tình báo chiến lược của Nga –Hoa, mục đích đánh sập chủ nghĩa tư bản do Hoa Kỳ lãnh đạo.

Hồ Chí Minh vắt máu dân cho Đế quốc Cộng Sản

Cho nên dù phải tốn núi xương sông máu thanh niên Việt Nam để tạo chiến thắng Điện Biên Phủ, cán bộ Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh lúc ấy còn ở trong hang Pác Bó, khi trả lời với báo chí Tây Phương là “Chỉ muốn thương lượng để tìm hòa bình” nhưng đã chỉ thị cho tướng Võ Nguyên Giáp (Hình chụp ở trang 31 ĐHLS, có hình hai “vĩ nhân” với ghi chú phía dưới “Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình và nhận chỉ thị của Bác Hồ”. Mà chỉ thị gì? 

Chương hai của hồi ức ĐHLS trả lời với ba chữ lớn 

“Chỉ được thắng” .

Ra trận mà có lệnh “Chỉ được thắng” chứ không được thua, nghĩa là phải tiến tới chứ không được lùi! Còn nhớ trong chiến tranh chống Mỹ, Hồ dựng lên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thanh niên miền Bắc cũng chỉ từ 16 , 17 tuổi vượt Trường Sơn vào Nam, vai, lưng họ có khắc chữ “Sanh Bắc, tử Nam” là từ chỉ thị nầy mà tướng Giáp răng rắc thi hành để được tiếng là “danh tướng” thắng hai cuộc chiến lẫy lừng??

Trở lại áp dụng lệnh nầy trong trận Điện Biên Phủ, có nghĩa là phải “Thắng hay là chết!” Cái chết mà những tử sĩ của “bộ đội cụ Hồ” mà chính Giáp viết, “Nồng súng đỏ rực ngăn chặn hiệu quả những chiếc xe tăng. Nhưng rồi đạn bắt đầu cạn và hết hẳn. Đại đội trưởng và chính trị viên đều bị thương nặng. Xích xe tăng chà lên chiến hào và ụ súng. Các chiến sĩ, kể cả những người đang bị thương, giật dây lựu đạn chờ xì khói rồi mới ném thẳng vào quân địch. Cuối cùng lựu đạn cũng hết. Các chiến sĩ dùng búa, đinh, kèm, lắc lê, chân súng gãy…lăn xả vào quân địch đánh giáp lá cà.”

Giáp còn hảnh diện nêu gương kiên cường của những chiến sĩ quần áo nhuốm đầy máu nhô lên từ những ụ súng, hầm đạn, trong tay họ chỉ có những dụng cụ sửa chữa pháo dùng làm vũ khí chiến đấu. Có khi có các đơn vị đã chiến đấu suốt hai ngày phải rút về phía sau. Có gương những “anh hùng” thiếu sinh quân 17 tuổi vừa vào bộ đội, bị thương cả hai mắt không còn nhìn thấy gì, và người gãy cả hai tay; hai chiến sĩ dựa vào nhau tiếp tục chiến đấu nhiều giờ… Những người mới tới để thay thế, họ thấy những cái hi sinh chết chóc, tật nguyền của đồng đội rồi sẽ là cả chính họ nữa. Để chi? 

Để giết cho kẻ địch thành những “thây ma” mà tác giả Giáp hảnh diện tả rằng đòan quân mới tới “kinh hòang vì mùi hôi thối của những thi thể bắt đầu phân hủy, những đám ruồi nhặn đen đặc. Những xác chết nầy hoặc khô đen, hoặc rữa nát, nhưng lại có những bộ quần áo rất bền chắc, những chiếc áo giáp chống đạn. Những chiếc khẩu trang bịt chặt không thể ngăn chặn mùi ô nhiễm ngấm vào đất, đã bám vào quần áo và thân thể họ. Họ phải xây dựng những đường hào, ụ súng, hầm ngủ, rồi lấy dây thép gai và mìn của địch để xác định ranh giới giữa ta và địch” (ĐHLS, trang 244, 293)

Xin mời độc giả trong nước tìm đoc hối ức “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử” để hửi lại mùi hôi, thấy lại “con đường máu” và hỏi Đại Tướng hiện nằm tại Bệnh viện 108, năm nay thọ 101 tuổi, xem bác Hồ chỉ thị chiến thắng để làm gì mà nay Việt Nam bị Trung Cộng xâm chiếm, chính Đại Tướng 3 lần lên tiếng vụ Bauxít ở Tây nguyên cũng như nước đổ đầu vịt? Vì chính Đại Tướng đã bị Đảng của Bác lột lon khi đi dự đám tang của công thần Điện Biên Phủ Trần Độ?? 

Tiếp theo, chúng tôi xin phân tích thái độ của các cường quốc tây phương (Pháp, Anh, Mỹ) mà trong sách Đại Tướng Võ Nguyên Giáp gọi là “Thực dân, Đế Quốc” nhưng tháng 5/2011 là đánh dấu 57 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, vậy mà từ đầu năm 2011 đến nay các cuộc cách mạng ở Bắc Phi Châu đều trông chờ vào những nước “Thực dân, Đế Quốc” nầy. Điển hình là lực lượng nổi dậy ở Libya hai tháng nay để lật đổ ngai vàng thống trị 42 năm độc tài, tham nhũng của đại tá Moammar Gadhafi mà Liên Hiệp quốc phải ra tay, lực lượng cách mạng phải cậy nhờ khối NATO gồm Anh, Pháp, Mỹ trợ giúp!

Hồ Chí Minh nhận chỉ thị từ Nga-Hoa để chia đôi đất nước:

Tướng Giáp xác nhận tất cả những việc nầy trong quyển hồi ức “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử” [ĐHLS] 
“Hội nghị Giơnevơ đã khai mạc, nhưng còn bàn về Triều Tiên, đại diện của nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa chưa có mặt. Hy vọng cuối cùng của Pháp là đạt được một thỏa thuận ngừng bắn tại Điện Biên Phủ (…) Chính phủ Pháp hòan tòan không muốn thấy một cuộc đầu hàng ở Điện Biên Phủ”
Pháp thì muốn thế, còn phe Cộng Sản thì biết mình sức yếu, nên chia hai đất nước để đình chiến, để những chiến sĩ trong hang, trong rừng được kéo ra thành thị, được có thủ đô, hải cảng v.v., có đủ thì giờ sắp đặt lại lực lượng, chiến lược, chiến thuật cuối cùng là “tổng tấn công” để “thống nhất” đất nước sau, nên phải thắng, thắng đúng ngày, dù phải dùng chiến thuật “biển người”:

“Hội nghị Giơnevơ sắp họp. Ai nấy đều thấy mình đang đứng trước một đòi hỏi to lớn, là không phải chỉ giành thắng lợi trong chặng đua nước rút cuối cùng, mà còn phải về tới đích đúng thời gian.” [ĐHLS, Võ Nguyên Giáp, trang 328]

Từ trước ai cũng tưởng vì Pháp thua trận Điện Biên Phủ nên không còn đủ sức chiến đấu nên bắt buộc phải đầu hàng và “xếp giáp” lui quân. Sự thật là Pháp còn mạnh dù đã thua trận Điện Biên Phủ. Pháp muốn rút lui vì khó khăn nội bộ của riêng nước Pháp sau thế chiến thứ hai, và cũng là khuynh hướng chung của các cường quốc trao dần độc lập cho các thuộc địa như tướng Nava dự định trên mà Hồ--Giáp bóp méo không tin. Nên Pháp muốn lui, nhưng lui trong danh dự.Y như Tổng Thống Mỹ Richard Nixon, phải rút quân vì nhóm phản chiến thiên Cộng đòi rút quân, nhưng rút trong danh dự.

Võ Nguyên Giáp xác nhận điều đó: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm giới cầm quyền Pháp choáng váng, nhưng lực lượng quân địch nhìn chung vẫn còn mạnh. Theo nhà sử học Pháp Yvơ Gra [Yvras] thì sau trận Điện Biên Phủ “So sánh lực lượng không thay đổi và ưu thế của quân viễn chinh về vật chất vẫn ở thế áp đảo như trước trận đánh. Vì nếu tính cả quân đội các quốc gia liên kết đang đối đầu với Việt Minh là 450.000 người, thì Pháp mới mất có một phần tư lực lượng. Nước Pháp tuy lâm vào tình thế cực kỳ khó khăn, nhưng chưa phải đã hết khả năng tăng viện cho chiến trường Đông Dương. Và Mỹ chắc chắn sẽ không để Pháp phải một mình đối phó với tình thế.” [DHLS, tr. 394]

Tổng Thống Eisenhower-Nixon quyết tâm chống Cộng Sản, bảo vệ Đông Dương

Thái độ không hề muốn xâm chiếm Đông Dương nầy của Hoa Kỳ mà Hồ Chí Minh quỉ quyệt xách động hàng triệu con dân chết để “Chống Mỹ cứu nước” cũng được quyển hồi ức vì muốn khoe tài của Hồ Chí Minh và của tướng chỉ huy (là Tướng Giáp) không nghe Trung Cộng “Đánh nhanh đánh mạnh”và khoe Việt Nam là nước Xã Hội Chủ Nghĩa thứ 22 trong thế giới XHCN, rồi nói rằng “Aisănhao tuyên bố chiến tranh là giữa khối Cộng Sản và khối tự do không Cộng Sản” và “không bao giờ lùi bước trước thế giới Cộng Sản”. Sách in năm 2001, tác giả Võ Nguyên Giáp thường dùng quyển “Không có thêm những Việt Nam mới” (No More Vietnams) xuất bản năm năm 1986 của Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon—mà năm 1954 là Phó Tổng Thống của Eisenhower---có nói rõ về thái độ của Hoa Kỳ hầu tố cáo Mỹ muốn dùng bom để thắng ở ĐBP trong khi HCM chỉ muốn “hòa bình” nhưng vô tình đã xác nhận: Hồ nghe lệnh Nga Hoa chia đôi đất nước, Mỹ, ngay cả Pháp, tuy dĩ nhiên vì quyền lợi của họ, nhưng lại chính là chiến sĩ chống Cộng để bảo vệ Việt, Miên, Lào! 

Giáp viết: “Đô đốc Rátpho (Radfort), Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đề nghị chúng ta dùng 60 máy bay ném bom B.29 ở Philippin mở các cuộc đột kích vào ban đêm để tiêu diệt các vị trí của Việt Minh. Và đặt ra kế hoạch mang tên “Cuộc hành binh chim kền kền” (Operation Vautour) nhằm đạt mục tiêu với ba quả bom nguyên tử chiến thuật nhỏ”. Một số tài liệu khác còn cho thấy kế hoạch của Đô Đốc Radpho được Hội Đồng An Ninh phê chuẩn, và “trong thực tế, Mỹ đã có quyết định tạm thời về việc tham chiến ở Đông Dương vào ngày 25 tháng 3 năm 1954”.

Chính trong sách Giáp sưu tra cả tài liệu Mỹ, có ghi rõ: “Theo Marvin Kabb và Elie Abel trong “Roots of Involvments—The U.S. in Asia.” . Và “trên văn bản của Hội Đồng An Ninh quốc gia có ba chữ D.D.E (Dwight D. Eisenhower) phê chuẩn” (Theo Chalmers M. Robert trong bài báo: “The day we didn’t go to War”. [Điểm Hẹn Lịch Sử, Võ Nguyên Giáp, tr. 336)

Và, “Ngày 3 tháng 4 năm 1954, bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đalét (Foster Dulles) và đô đốc Ratpho họp với tám nghị sĩ có thế lực trong Quốc hội, thuộc hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, phổ biến ý định của Tổng Thống muốn có một nghị quyết cho phép sử dụng lực lượng không quân và hải quân Mỹ ở Đông Dương. Đalét nhấn mạnh Đông Dương sụp đổ có thể dẫn tới mất toàn bộ Đông Nam Á, Hoa Kỳ cuối cùng sẽ bị đẩy về quần đảo Haoai (Hawaii). Nếu Mỹ không giúp Pháp thì hậu quả sẽ là Pháp phải từ bỏ chiến tranh Đông Dương.” [DHLS, tr. 337].

“Ngày 26 tháng 4 năm 1954, các đòan đại biểu đã có mặt tại Geneve. Hội nghị sẽ bàn về chiến tranh ở Triều Tiên và Đông Dương. Trên bán đảo Triều Tiên đã có ngừng bắn, nhưng vẫn chưa đạt được một hiệp ước hòa bình.Vấn đề sẽ không dễ giải quyết. Sự chú ý của các cường quốc tập trung vào tình hình chiến tranh nóng bỏng tại Đông Dương. Anh Phạm Văn Đồng (…) là Phó Thủ tướng Chính phủ, chuẩn bị lên đường sang Geneve” (ĐHLS, tr.347)

Nhưng cuối cùng, hội nghị nói Mỹ phải chi phí 92% chiến phí trong chiến tranh Triều Tiên, một hành động đơn phương của Mỹ trong thời gian này không thể được Quốc Hội chấp thuận (…). Cuộc họp đi đến kết luận: Cuộc hành binh Chim kền kền hay những hành động tương tự, chỉ có thể được Quốc Hội cho phép với ba điều kiện:

--Hoa Kỳ tham gia như là một trong những nước tự do ở Đông Nam Á cùng với Vương Quốc Anh

--Người Pháp đồng ý xúc tiến chương trình trao độc lập cho các quốc gia liên kết.

--Nước Pháp cam kết không rút khỏi cuộc chiến. 

Lúc đầu Nava lo ngại cuộc hành binh Vantour sẽ dẫn tới những phản ứng của không quân Trung Cộng, nhưng ngay hôm sau, tức ngày 4 tháng 4 Nava điện khẩn về Paris, rằng “cuộc can thiệp của Mỹ chỉ có thể có hiệu quả quyết định nếu được thực hiện trước cuộc tiến công cuối cùng của Việt Minh.” Plêven (thủ tướng Pháp) lập tức mời đại sứ Mỹ tới trình bày tình hình nghiêm trọng tại cứ điểm Điện Biên Phủ, chỉ có sự can thiệp bằng máy bay hạng nặng của Mỹ mới có khả năng loại trừ pháo binh Việt Minh ở những quả đồi chung quanh để cứu nguy cho quân đội đồn trú. Ely cũng điện cho Valluy đang có mặt ở lầu Lầu Năm Góc, thông báo ngay cho Radpho để có những biện pháp quân sự thật khẩn trương.

Lập tức, cũng ngày 4 tháng 4, Tổng Thống Eisenhao viết một lá thư khá dài gửi Thủ Tướng Sớcsin (Churchill, Anh quốc) với tư cách là người bạn chiến đấu chống phát xít trong thế chiến thứ hai: “Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng Sản, tác động chủ yếu đối với thế chiến lược tòan cầu của chúng tôi và các ngài cùng với sự thay đổi trong cán cân quyền lực do nó gây ra ở khắp châu Á và Thái Bình Dương có lẽ sẽ thảm khốc…Điều đó dẫn chúng tôi đến kết luận không thể bác bỏ được là tình hình Đông Nam Á đòi hỏi chúng ta một cách khẩn cấp phải có những quyết định nghiêm chỉnh và có tầm xa..” [ĐHLS, tr. 339).

“Ngày 3 tháng 6 năm 1954, chính phủ Pháp chỉ định Paul Ely là Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy tại Đông Dương, Tổng tham mưu trưởng Pháp, có quan hệ tốt với Mỹ, được phái tới Oasinhtơn, ngày 20 tháng 3 năm 1954, phát biểu công khai: “Pháp không thể thắng được với phương tiện sẳn có trong tay” và yêu cầu Mỹ tăng cường giúp đở vũ khí, đặc biệt là máy bay ném bom B.26 và can thiệp bằng không quân.” 
Phá vỡ huyền thọai Việt Cộng cho “Mỹ là thực dân mới”

Thực dân cũ là Pháp. Thời kháng chiến phần đông người Việt Nam đều thù hận thực dân Pháp. Nhưng ngay cả “thực dân Pháp”cũng không quá ác độc như Hồ Chí Minh; vì chính Võ Nguyên Giáp viết trước đây, rằng Hồ nhận tin tình báo của Mao Trạch Đông cho hay rằng “Nava chủ trương xúc tiến chủ trương mới của chính phủ Pháp là trao “chủ quyền” và “độc lập” cho các quốc gia liên kết..”. Vậy mà cả hai trùm Cộng Sản Hồ-Mao nầy không chịu, mà còn xuyên tạc để gây chiến tranh. Và chính Pháp đã hai, ba lần gửi thư và cả tới ngay thủ đô Hoa Kỳ để xin Mỹ trợ giúp, nhưng Tổng Thống Mỹ Eisenhower lúc ấy biết Quốc Hội Mỹ chỉ cho phép giúp Pháp với ba điều kiện:

--Hoa Kỳ tham gia ở Đông Nam Á cùng với Vương Quốc Anh.
--Nước Pháp cam kết không rút khỏi cuộc chiến.

Còn điều thứ ba là Mỹ tiếp tục đòi Phải thực hiện chủ trương của tướng Henri Navarre:

--Người Pháp đồng ý xúc tiến chương trình trao độc lập cho các quốc gia liên kết.

Vậy rõ rệt, Mỹ bước vào Đông Dương là do thế chiến lược tòan cầu chống Cộng ở khắp châu Á và Thái Bình Dương của họ. Còn Mỹ bước hẳn vào ủng hộ chính phủ miền Nam là do Pháp rút lui năm 1954 chứ Mỹ không vì tranh giành quyền lợi gì với Pháp để trở thành “Thực dân mới” cả. Huyền thọai nầy do Hồ Chí Minh vâng lệnh quan Thầy Nga-Hoa đưa ra như một vũ khí chiến lược trong chiến tranh “Chống Mỹ cứu nước” tức chiến tranh Đông Dương II. 
Chính trong “Điểm Hẹn Lịch Sử”, Võ Nguyên Giáp cũng nhìn nhận Pháp trao trả độc lập cho Bảo Đại, nhưng lại quay ra buộc “tội” CIA Mỹ chọn Ngô Đình Diệm từ lâu:

“Ngày 4 tháng 6, chính phủ Pháp chính thức trao quyền độc lập cho ngụy quyền Bảo Đại. Ít ngày sau đó, trước áp lực của Mỹ, Pháp buộc Bảo Đại gạt Bửu Lộc ra khỏi ghế thủ tướng và thay thế bằng Ngô Đình Diệm, một lá bài đã được CIA chuẩn bị từ năm 1950. Đã có dấu hiệu rõ rệt Pháp bắt đầu chuyển giao dần dần quyền lực ở Việt Nam cho Mỹ qua ngụy quyền ở Saigon” (ĐHLS, tr. 398-399)

Sự “bẻ quặc” Ngô Đình Diệm do Pháp rồi sang Mỹ chọn chỉ “ít ngày sau đó” là một bôi bẩn lịch sử trắng trợn của Cộng Sản Mao-Hồ mà Võ Nguyên Giáp là thầy giáo Sử lại quên lịch sử Việt Nam. Quốc Tế đọc bản dịch nầy sẽ rất tin tưởng rằng hết nghe Tây rồi Mỹ.., như vậy Bảo Đại là “Bù Nhìn”. May thay cựu hòang Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam có để lại quyển “Con Rồng Việt Nam” (CRVN), nói rõ nhờ kiến thức học được 10 năm ở Pháp, nên trước khi lên ngôi Hòang Đế, năm 1932, Ngài đã công bố đạo dụ về lập thể chế quân chủ lập hiến (Ghi chú của Việt Nữ: nhiều chục quốc gia tân tiến bây giờ vẫn còn hòang gia như Anh, Nhật v.v.) Rồi năm 1933, Hòang Đế Bảo Đại còn thêm một đạo dụ nữa đặt cơ cấu của sự cải cách tiến bộ nầy, mà đầu tiên là tìm nhân vật gánh trọng trách Thủ Tướng chính phủ: “Tôi cho vời một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhất, là Ngô Đình Diệm, lúc ấy làm Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết để đảm trách bộ Lại. Diệm năn ấy mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh, liêm khiết (…) Tôi còn giao bộ Hình (Tư pháp) cho một người Bắc là Bùi Bằng Đòan, có bằng Luật khoa, đã 51 tuổi…(CRVN, tr.91) Trong sách, cựu hòang Bảo Đại ghi một người 31 tuổi như Ngô Đình Diệm mà làm đến quan Thượng Thư, nhưng Vua phải mời đến 4 lần mà chỉ nhận 2 lần thôi, là năm 1933 và năm 1954 đó.

Ở đây không phải lúc nói về quyển Con Rồng Việt Nam, chỉ dùng một trang đó để ông thầy Sử học nhớ thêm rằng Thượng Thư Bùi Bằng Đòan chính là cha của cựu Đại Tá Bùi Tín, cùng phục vụ dưới trướng của Hồ Chí Minh với Đại Tướng cả đấy, nên nếu ông Đại Tướng còn liêm sĩ thì đừng nghe Ồ Chí Minh mà bóp méo lịch sử, tuổi trẻ đọc không hề biết chuyện Bảo Đại tin tưởng ông Diệm từ năm 1933, tưởng phải chờ tới Hồ-Giáp chia đôi đất nước năm 1954 mới để Pháp rồi Mỹ lôi tên Diệm ở kẹt hóc nào của phương Tây ra, khiến Bảo Đại là “Bù Nhìn”?

Từ nay phải gọi Hồ Chí Minh là Bù Nhìn Nga-Hoa mới đúng. Vì chính cựu hòang Bảo Đại còn được “chính phủ Pháp chính thức trao quyền độc lập” và trong quyển “Con Rồng Việt Nam”, vua Bảo Đại viết rằng chính Ngài mời ông Ngô Đình Diệm vì ông từng là Thượng Thư Đại thần xin từ quan và có tinh thần chống Cộng quyết liệt, bởi khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, Phạm Quỳnh, cựu thủ tướng của cựu hòang, rồi đến Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm cùng bị bắt, sau nầy biết là bị giết (CRVN, tr.205). Chính vì vậy mà Vua Bảo Đại mời lập chính phủ chống Cộng cho miền Nam, làm gì lại “Xịa” vào là hết Pháp rồi tới Mỹ chọn, ngòai mục đích để đưa những thanh niên VN như Dương Thu Hương vượt Trường Sơn vào Nam để đánh “Mỹ--Diệm”?

Càng rõ ràng là chính nhờ quyển hồi ức “Điện Biên Phủ” nầy ta thấy, từ năm 1954, Hoa Kỳ đã được Pháp cầu cứu trong trận Điện Biên Phủ nhưng từ chối tham dự, vì không thích cách cai trị của Pháp thời ấy, mà đến năm 1985, vì chứng kiến sự phản bội trắng trợn của Cộng Sản trong tất cả các hiệp ước quốc tế (Geneve 1954) đưa đến chiến tranh “Chống Mỹ cứu nước”, rồi phản bội hiệp định Paris 1973… Tổng Thống Mỹ Richard Nixon, trong quyển “No More Vietnams” kết luận rằng: “Cái lỗi trầm trọng đầu tiên của Hoa Kỳ là không can thiệp vào trận Điện Biên Phủ” (Our first critical Mistake in Vietnam was not to have intervened in the battle of Dien Bien Phu.) Nixon cho rằng tình thế quân sự lúc ấy hoàn toàn thích hợp để sử dụng không lực: Trận vây hãm của Việt Minh đòi hỏi sự tập trung kho vật liệu khổng lồ và quân số đông đảo trên một vùng tương đối nhỏ mà vì địa thế vùng ấy, sự tiếp tế bị giới hạn chỉ có vài con đường. Không lực Pháp lúc ấy yếu quá, không khai thác được yếu điểm này của Việt Minh. Nếu Mỹ cho máy bay [từ hạm đội Thái Bình Dương] thả vài bom loại nhỏ thì lực lượng Việt Minh sẽ bị thảm hại chỉ trong vài ngày. 

Vậy đọc kỷ, sách của Võ Nguyên Giáp đã đập vỡ huyền thọai “Mỹ là thực dân mới”.

Đánh trận Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh sắp sập tiệm, cầu cứu Trung Cộng đem quân vào Việt Nam

Tổng Thống Richard Nixon cũng viết rằng Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Nikita Khrushchev viết trong hồi ký của ông ta rằng, vào năm 1954, “lực lượng Việt Minh suy yếu trầm trọng”. Rằng quân đội Pháp lúc ấy còn mạnh và nguyên vẹn khắp cả ba nước Đông Dương chứ không phải chỉ tại một đồn hẻo lánh ở Điện Biên Phủ.” 

Tác giả Võ Nguyên Giáp cũng nhìn nhận như vậy trong hồi ức. Thủ Tướng Chu Ân Lai của Trung Cộng cũng nói với Khrushchev rằng “trừ khi Hội Nghị Genève sớm kết thúc bằng cách ngưng bắn, lực lượng Việt Minh không thể nào chống cự lại Pháp.”

Nhận định này rất chính xác vì xin quí vị tham khảo trong hồi ký của Khrushchev, chương 19, (Ho Chi Minh and the War in Vietnam, trang 481),chính Khrushchev viết rằng quả thật tình hình năm 1954 vô cùng trầm trọng cho Việt Minh. Khrushchev nói lúc ấy tình giao hảo giữa Liên Sô—Trung Cộng còn tốt đẹp, ông ta gặp Hồ Chí Minh nhiều lần trước hội nghị Geneve. Căn cứ trên đà sắp sụp đổ của lực lượng kháng chiến Việt Nam, một meeting trước khi có hội nghị Geneve diễn ra tại Moscow. Tàu do Chu Ân Lai đại diện, Việt Nam do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, để cùng bàn thảo trước sẽ nói gì khi dự hội nghị Geneve. Sau một buổi họp ở điện Cẩm Linh, Chu Ân Lại kéo áo Khrushchev ra một góc phòng, thì thầm riêng rằng “Đồng chí Hồ Chí Minh đã thú nhận không thể chống nổi Pháp, trừ phi hội nghị Geneve phải có ngưng bắn sớm, nếu không, Hồ đã quyết định lực lượng Việt Minh phải đào thóat qua Tàu (Ghi chú thêm của Việt Nữ: Không nước Tây phương nào nêu lên việc nầy). 

Và “Hồ đồng chí còn thúc chúng tôi cứ mang quân sang tấn công Pháp y như trận ở Triều Tiên vậy. Nhưng chúng tôi không thể làm việc nầy, vì đã mất quá nhiều binh sĩ ở Triều Tiên rồi. Cuộc chiến ấy đã làm chúng tôi tổn thất quá trầm trọng.” (..) 

Khrushchev viết tiếp: “Kế đến là một nhiệm mầu đã xảy ra. Khi chúng tôi đến dự hội nghị Geneve thì tin chiến thắng ĐBP vừa bay tới, chúng tôi ôm nhau mừng rỡ, kinh ngạc, há hóc, hả hê….”

Còn “thực dân” Pháp đón nhận tin thất trận thế nào? 
Chương thứ Mười Bốn, chương cuối cùng của “Điểm Hẹn Lịch Sử”, tác giả trả lời:

Tin Điện Biên Phủ thất thủ đến thủ đô Pháp vào trưa ngày 7 tháng 5 năm 1954, đúng lúc chuẩn bị kỷ niệm lần thứ chín Đồng minh chiến thắng phát xít Đức.. Thủ tướng Lanien xuất hiện trước Quốc hội Pháp với bộ đồ đen, nói giọng nghẹn ngào: “.. Điện Biên Phủ thất thủ sau 20 giờ kịch chiến liên tục”. Trừ các nghị viên cộng sản và một số nghị sĩ cấp tiến, tòan bộ cử tọa đều đứng dậy, bàng hòang. Hội trường lặng phắc bật lên tiếng nức nở của một nữ nghị sĩ…(..) Ngày 8 tháng 8 năm 1954, hội nghị Giơnevơ chuyển sang bàn về chiến tranh Đông Dương. (…) Sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên, người dân Mỹ không muốn có một cuộc phiêu lưu mới ở Viễn Đông. Chính quyền Aixenhao vẫn khước từ bất cứ hình thức nhân nhượng nào đối với thế giới cộng sản (…) 

Cuộc họp tiến hành dưới sự chủ tọa của hai đồng chủ tịch: Iđơn (Eden), Ngọai trưởng Anh, Molôtốp (Molotov), Ngọai trưởng Liên Xô. (ĐHLS, tr. 387, 388, 389)

Chính phủ Lanien đổ, Quốc hội Pháp bầu Măngđét Phrăng (Mandès France)—một nghị viên nổi tiếng trong phái chủ hòa-- làm thủ tướng. Tổng thống Pháp Côty (René Coty) chỉ định Măngđét Phrăng thành lập chính phủ mới. Măngđét Phrăng tuyên bố ông ta sẽ đạt được một hiệp định ngưng chiến ở Đông Dương trong vòng một tháng, tức tới ngày 20 tháng 7 năm 1954 mà chưa thực hiện được lời hứa nầy, ông ta sẽ xin từ chức. (401)

Hồ Chí Minh: Thắng lợi Điện Biên Phủ tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Là gì?

Đó là lời tuyên bố của Hồ Chí Minh trong thư gửi mừng chiến thắng Điện Biên Phủ.

Giáp viết: “Sau 55 ngày đêm chiến đấu ác liệt, chiến dịch lịch sử đã thu được tòan thắng. Bác và Trung ương—Đảng—đã được tin, chắc bộ đội sẽ nhận được thư khen của Bác. Các đồng chí Liên Xô, Trung Quốc đều mong đợi tin nầy hàng giờ.(…) Hôm sau, cơ quan hậu cần tổ chức một bữa “tiệc” ăn mừng bánh cuốn. Đồng chí Vi Quốc Thanh, đồng chí Mai Gia Sinh cùng dự tiệc liên hoan với Bộ chỉ huy….”

Lâu nay ta nghe Cộng Sản Việt Nam tức Việt Minh hay đảng Lao Động làm gì cũng có cố vấn Tàu bên cạnh, kể cả màn trình diễn “đấu tố” trong Cải Cách Ruộng Đất cũng có cố vấn Tàu mặc y phục Việt ngồi sau lưng nhắc lớp. Trong trận Điện Biên Phủ mà Giáp tả nước mưa tràn xuống ngập hầm địa hào tới ngực, tức xương máu, xác người hôi thúi cũng dâng cao cở ấy, làm sao ai biết được có ai khéo léo kề bên nếu không được Đại Tướng Võ Nguyên Giáp xác nhận bằng những dòng trên đây, các đồng chí đại diện Mao Trạch Đông nầy có mặt ngay mặt trận, cùng dự tiệc liên hoan với Bộ chỉ huy bên cạnh Tướng Giáp, còn có thêm tên ít nghe là Mai Gia Sinh nữa!

Cũng nhờ tác giả ta mới biết thêm về kế họach “Trường kỳ kháng chiến” theo Bác Mao của Bác Hồ và Đảng: “Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1954, chúng tôi nhận được thư Bác viết: Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và chính phủ thân ái gửi lời ngợi khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẽ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu…” (ĐHLS tr.376,377,378)

Ghê thật! Từng bao nhiêu máu xương, mồ hôi nước mắt của những thành phần trên đây của dân tộc tuông ra, để được một tiếng khen của Bác, chỉ một ngày là phải chuẩn bị một cuộc đổ máu mới! Đó là cuộc chiến chống Mỹ. Rồi sau khi vùi chôn cả triệu sinh linh trong chiến tranh “Giải Phóng Miền Nam”, con dân chưa vui hưởng Hòa bình được bao lâu, là bị Liên Xô lôi vào chết để đánh Miên Cộng Pol Pot theo Mao, và cai trị Cao Miên 10 năm mới chịu rút về cũng nhờ áp lực của Tổng Thống Mỹ George Bush (Bush cha)
Lịch sử đã mở ra cho ta thấy về phương diện gây chiến tranh, bằng lời lẽ “yêu chuộng hòa bình”, phải khen 

Hồ Chí Minh “đã nói là làm”! Xin đọc tiếp để hiểu không những chiến thắng Điện Biên Phủ chỉ để chia hai đất nước bằng Hiệp Định Geneve 1954, chỉ chấm dứt chiến tranh Đông Dương I (chống Pháp, 1946—1954), mà còn để Bác Hồ chuẩn bị bắt đầu chiến tranh Đông Dương II (chống Mỹ, 1954—1975) như thế nào? Cũng nhờ hồi ức của Tướng Giáp ghi lại, chúng tôi ghi rõ số trang, xin đồng bào trong nước tìm đọc kỷ mà quyết định cho chính thân phận mình.

Chẳng hạn, tại sao hội nghị Geneve, Mỹ và đại diện Quốc Trưởng Bảo Đại, rồi sau đó là chính phủ Ngô Đình Diệm có tham dự, nhưng không ký vào; chỉ có phe Hồ Chí Minh một mình ký cho Việt Nam, mà còn ký nhân danh đại diện Lào và còn ký với Miên nữa?? 

Vì chính Hồ Chí Minh tổ chức, dạy dỗ Cộng Sản Miên từ năm 1930. Hồ là đầu não của Khmer Rouge gây ra 2 triệu dân Miên chết trong vụ “The Killing Fields” sau khi Mỹ bỏ rơi Đông Dương, Xe tăng Liên Sô do khủng bố Bắc Việt lái tràn vào Sàigon “Giải Phóng miền Nam 30-4 -1975” thì Khmer Rouge chiếm Nam Vang còn trước hơn Việt Nam nửa tháng và cai trị chỉ 4 năm (1975—1979) mà giết cả 2 triệu người Miên vô tội. 

Thủ Tướng Miên Hunsen hiện giờ là đảng viên của Pol Pot Khmer Rouge chạy qua Bắc Việt, là “học trò” do Hà Nội dạy dỗ, đưa về Miên, hiện là “sân sau”, là láng giềng thân yêu của Hà Nội và Trung Cộng! Hunsen lâu nay đã và đang gây chiến với Thái Lan, đồng minh của Hoa Kỳ giùm cho Việt Cộng và Trung Cộng. 
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cho ta thấy Hồ Chí Minh quả thật phóng lưới Cộng Sản “chài” cả 2 con cá Lào, Miên để sử dụng theo nhu cầu từ lâu, y như vậy khi ghi lại bằng chứng lịch sử nầy: “Ngày 21 tháng 7 năm 1954 hiệp định đình chiến ở Việt Nam và hiệp định đình chiến ở Lào được ký kết giữa Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đồng thời thay mặt Pathét Lào, với thiếu tướng Đentây (Delteil), đại diện Bộ Tổng chỉ huy Quân đội liên hiệp Pháp ở Đông Dương. Sau đó, hiệp định đình chiến ở Campuchia được ký giữa đồng chí Tạ Quang Bửu với Nhích Tiêu Long, đại diện chính phủ Vương quốc Campuchia.” .”(ĐHLS, tr. 411)

Nhờ Chu Ân Lai mà Miên không bị chia hai theo ý muốn của Hồ-Đồng mà ở trang sau, Giáp vô tình cho ta thấy bộ đội Cụ Hồ đã “nằm vùng” ở Miên vì…tình nguyện (??) năm 1954 phải tập kết về Hà Nội cho Hồ nuôi: “Lệnh đình chiến đã được thực hiện nghiêm chỉnh trên tòan bán đảo Đông Dương. Thi hành Hiệp định Giơnevơ, bộ đội ta ở nam vĩ tuyến 17, (Ghi chú riêng, ngang tầm với miền Nam VN), bộ đội tình nguyện của ta ở Campuchia và Lào lần lượt chuyển quân ra Bắc tập kết…” (ĐHLS, tr. 414)

Ta biết lúc ấy, lực lượng Việt Minh ở miền Nam VN cũng đi tập kết ra Hà Nội mà còn chôn giấu vũ khí và để lại cán bộ ở lại miền Nam để quậy phá tiếp; thì bộ đội cụ Hồ “tình nguyện” ở Miên và Lào cũng vậy thôi, nói về Hà Nội nhưng vẫn còn “nằm vùng” ở hai xứ hiền hòa ấy, là bao nhiêu?? Bao nhiêu có vợ chồng, sanh con đẻ cái thành Việt- Miên, Việt-Lào, nhưng hướng về Việt Nam??

Chính người dân Miên, cũng không biết đền Sọ người “ S—21 Prison” tại Nam Vang, hiện xây thành nhiều tầng rất cao, chứa đầy sọ người, có bản đề là “The Tuol Sleng Genocide Museum” (Viện Bảo Tàng Tội Ác Diệt Chủng Tuol Sleng) là có bàn tay vấy máu của Hồ Chí Minh nữa đó! Lịch sử Đông Dương cần ghi thêm tên Hồ Chí Minh mới đủ.

Giáp nói “Lệnh đình chiến đã được thực hiện nghiêm chỉnh”, vậy hãy xem HĐ Geneve nói gì và Cộng Sản thi hành “nghiêm chỉnh” tới đâu, ai cũng biết. Võ Nguyên Giáp viết:

“Hội nghị thông qua Tuyên bố chung về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương gồm 13 điều.” Ở đây chúng tôi xin chép y hai điều thôi để ai cũng biết mà trả lời được khi đọc tới:

Điều 9: “Cam kết không có hành động trả thù đối với những người thuộc phía đối phương trong thời kỳ chiến tranh.” .”(ĐHLS, tr. 411&412)

Khi Hồ Chí Minh rời hang, trở về thủ đô Hà Nội năm 1955, một số dân chúng reo mừng lúc đầu, rồi sau đó, đừng nói gì công chức cũ của chánh quyền Bảo Đại mà họ gọi là “ngụy” bị trù dập thế nào, mà những vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, như Trần Dần cũng là chiến sĩ trong trận Điện Biên Phủ phải cứa cổ tự tử; vụ án “Xét lại, chống Đảng” mà danh tướng của Điện Biên Phủ là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị lôi ra; rồi sau đó những công thần, tướng tá mà chính Tướng Giáp nêu tên trong hồi ức như Lê Liêm, Nguyễn Kiên Giang, Nguyễn Trọng Tấn, Hòang Văn Thái bị hạ bệ hay bị tử nạn gì đó mà tiêu hết??

Điều 9 nầy cũng tương tự như điều 9 của Hiệp định Paris năm 1973, là cũng “hai bên đối nghịch trong chiến tranh, khi ngưng bắn rồi, không đựợc trả thù trả óan nhau, không xâm phạm sinh mạng và tài sản nhau..”Mà thự tế là Cộng Sản Bắc Việt giam tù tất cả quân nhân, công chức VNCH ở tù “cải tạo”. Mở “Cải tạo tư sản” cướp tài sản tư nhân…

Đó là mức thi hành “Nghiêm chỉnh” lịch sử của Hồ Chí Minh và đảng CSVN!

Điều 12:”Quy định những nguyên tắc quan hệ giữa ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào, tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, không can thiệp vào nội bộ của nhau.”(ĐHLS, tr. 412)

Ghi là ba nước độc lập, có chủ quyền riêng, nhưng Cộng Sản Bắc Việt là anh Cả, có bộ đội “tình nguyện” phục vụ ở Miên, Lào, tòan quyền “quậy” theo chỉ thị của Hà Nội như tan chứng Võ Nguyên Giáp lôi đầu ra cho thế giới thấy.

Từ năm 2010, Mỹ trở lại Việt Nam tuyên bố “tái khẳng định” chủ quyền trên Đông Nam Á, thì trái tim “tình nguyện” của Hà Nội đang họat động tích cực ở Miên, Lào, Miến Điện, cả Thái Lan, để rước Trung Cộng vào làm ăn…

Những nhà tranh đấu khắp thế giới muốn đem Cách Mạng Hoa Lài, Hoa Lan vào Việt Nam, ngòai việc biểu tình, biểu dương khí thế rất cần thiết, còn cần làm được thêm hai chuyện:

1.Thổi cao dân trí bằng những tài liệu có sẳn trong nước, như “Điểm Hẹn Lịch Sử” chẳng hạn, nhưng kèm với hướng dẫn của ta để người dân không bị nhồi sọ.

2. Đạo đạt khía cạnh nầy tới tận tai các chính phủ và dân chúng nơi mình sinh sống nữa, đừng tưởng họ, như Hoa Kỳ, Anh, Pháp…biết hết rồi.

Số phận danh tướng Võ Nguyên Giáp

Ngày 7 tháng 5 năm nào Hà Nội cũng ăn mừng chiến thắng Điện Biên Phủ.

Công bình mà nói, một nước nhược tiểu mà thắng được một cường quốc trong trận chiến vang lừng khắp thế giới thì dù đứng ở quan điểm chính trị nào, không cần phải là người Việt Nam, mà người ngoại quốc cũng thán phục.

Nhưng vì người Việt Nam đã đau khổ tận cùng với nhiều lần phản bội hiệp ước quốc tế mà Cộng Sản đã ký kết, rồi phân tích tài liệu lịch sử, đúng là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản của ông đã bán nước, bán máu con dân để cầu vinh mà nhân chứng cuối cùng còn sống sót là danh tướng Võ Nguyên Giáp.

Mùa tháng Năm nầy có nhiều chuyện để nói về Hồ Chí Minh để những ai theo đảng Cộng Sản, ỷ thời tham nhũng, lộng quyền..phải coi chừng tấm gương lịch sử Võ Nguyên Giáp và Cù Huy Hà Vũ…Đã có quá nhiều người nói rồi, nhưng tưởng cần thêm về tướng Giáp.

Còn nhớ tháng Năm năm 2004, Hà Nội rầm rộ ăn mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

Từ đầu năm 2004, Hà Nội được mời tới Paris họp với Pháp để rút kinh nghiệm về cuộc chiến họ thảm bại nửa thế kỷ trước. Nhưng lạ là người hùng Điện Biên là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp người từng là giáo sư sử thời Pháp thuộc, tức rành tiếng Pháp mà lại là vai chánh chỉ huy trận Điện Biên Phủ thì lại không được đi. Đoàn người đi thì chỉ duy một người biết tiếng Pháp nhưng lại không hề dự trận chiến bao giờ. 

Lâu nay có tin đồn là tướng Giáp vì văn võ song toàn như vậy nên bị trù dập từ thời Hồ Chí Minh còn trị vì. Rồi sau này bị nghi ngờ là dính líu đến nhóm “xét lại chống đảng” . Nhưng vì tướng Giáp quá nổi tiếng qua trận Điện Biên Phủ, nên Hồ, Duẩn, Thọ không dám cho đi tù như các đảng viên kỳ cựu khác. Nhưng không cho thăng chức mà còn mất ghế trong Bộ Chính trị. Chỉ khi nào có khách quốc tế tới thì Đại Tướng Võ Nguyên Giáp được cho phép mang quân hàm với hàng huy chương dài trước ngực ra tiếp khách để làm cảnh rồi lui vào hậu trường. 

Thỉnh thoảng tướng Giáp được phép cho xuất bản vài quyển sách như 
“Những Năm Tháng không Thể Nào Quên”, “Đường Tới Điện Biên Phủ” v.v. và có lẽ cuốn mới nhất là hối ức “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử” do Hữu Mai thể hiện, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân Hà Nội xuất bản năm 2001.

Chính trong hồi ức nầy mà người đọc mới hiểu sâu thêm mục đích của trận đánh và chiến thắng vang vội này là để gây thế mạnh cho hội nghị Genève, là “Điểm Hẹn Lịch Sử” của tứ cường họp lại bàn chuyện lợi ích cho khối Cộng Sản Quốc Tế mà buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam, bằng mọi giá phải giành được thế thượng phong khi “Đảng ta”… đề nghị chia cắt đất nước!.

Chính hồi ức cũng cho ta thấy ngay như “thực dân Pháp” cũng là lực lượng chống Cộng chịu chết sình vì đánh với Việt Cộng trong giao thông hào Điện Biên Phủ.

Và chính tướng Giáp gọi Mỹ là “đế quốc” nhưng lại chỉ chứng minh Tổng Thống Eisenhower—Nixon không hề nhân nhượng với Cộng Sản và muốn giải cứu những vùng bị khủng bố Cộng Sản bóp nghẹt chứ không xâm lược như đế quốc Liên Xô.

Trong hồi ức, tướng Giáp còn ghi rõ, cho tới năm 1941, Mỹ chưa chú ý tới Á Châu, khi biết Pháp có chiến tranh với Việt Minh thì chỉ ủng hộ tài chánh, đòi Pháp phải trả độc lập…; trong khi lực lượng bộ đội cụ Hồ thì huấn luyện đảng Cộng Sản Miên và đã nhanh chóng đi “giải phóng” nước Lào rồi, y như năm 1975 đã “Giải phóng” miền Nam vậy! 

Bài ghi nhớ khá cặn kẽ về trận Điện Biên phủ nầy để cầu nguyện cho linh hồn tử sĩ cả hai phe để an ủi vong linh người chết; còn người sống, là để tự mình làm cuộc “Cách Mạng chuyển hóa tâm linh”, nhất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hiện nằm tại bệnh viện 108 Hà Nội, năm nay được 101 tuổi thọ, thư ký riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Đại tá Nguyễn Văn Huyên nói với hảng thông tấn BBC rằng sức khỏe đại tướng "yếu hơn trước" nhưng "vẫn tỉnh táo, ổn định"; rằng Đại tướng hiện nay không nghe rõ mà ông phải viết lại thông tin để Tướng Giáp đọc.

Vậy xin Đại tá Nguyễn Văn Huyên đọc bài nầy cho danh tướng bị Đảng của ông lột lon, coi như mất danh rồi, để xin trước khi về chầu tổ Mác-Lê và sum họp với bác Hồ mà Đại Tướng từng bao che tội ác, xem Cụ Võ Nguyên Giáp có can đảm làm “Cách Mạng Chuyển Hóa” mình, là, so sánh những gì đảng Cộng Sản xưa và nay mang lại cho đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Tư Bản chủ nghĩa, thì Cụ Giáp dám nói lên lời thống hối, không còn thù hận “thực dân” Pháp, “đế quốc” Mỹ mà thấy rõ, tội ác gây ra cho Dân Tộc, Tổ Quốc là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam? 

Can đảm Sám Hối nầy làm gương cho các đảng viên biết, dù cố lập công cách mấy cũng sẽ bị đảng bỏ như Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà lo “bỏ đảng” trước. Mỗi người cần làm một cuộc “Cách Mạng Hóan Chuyển Tâm Linh”, đừng thù “Thức Dân Pháp”, “Đế Quốc Mỹ” nữa mà học kỷ bài học lịch sử nầy để biết SỰ THẬT mà Xóa BỎ HẬN THÙ và quyết tâm SÁM HỐI.

Nhưng nếu ai còn thù, thì thù cho ĐÚNG KẺ THÙ!
Được vậy thì tòan dân ta mới chống nổi giặc ngọai xâm Trung Cộng. 

Nguyễn Việt Nữ

(Ngày 25/4/2011)

No comments:

Post a Comment