Saturday, January 5, 2013

VĂN HỌC MIỀN NAM THỜI KỲ PHÁT TRIỂN

Phan Thanh Giản (1796-1867)Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872)
Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883)
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Tôn Thọ Tường (1825-1877)
Nguyễn Thông (1827-1884)
Phan Văn Trị (1830-1910)
Nguyễn Hữu Huân (1841- 1875)
Phan Hiển Đạo ( ? - 1862)
Nguyễn Văn lạc ( ? -1915)

Ngược dòng lịch sử, triều vua Minh Mạng (1820-1847) đã cấm dân Việt Nam theo đạo Gia Tô giáo và cấm các giáo sĩ Âu Châu truyền đạo qua các dụ năm 1825,1833,1836, nên có nhiều giáo sĩ và giáo dân bị giết, triều đình còn dùng chánh sách “Bế môn tỏa cảng”. Nên dưới triều Tự Đức, quân Pháp lấy cớ đem Quốc thư của Pháp hoàng sang can thiệp cho các giáo sĩ  truyền đạo và cho tàu bè Âu Châu tự do dập bến các hải cảng của ta để buôn bán, triều đình không trả lời nên quân Pháp bắn phá ở Đà Nẵng năm 1856 rồi bỏ đi.

Năm 1858, quân Pháp lại đánh ở Đà Nẵng, nhưng có Nguyễn Tri Phương đắp đồn lũy kiên cố nên họ vào đánh thành Gia Định năm 1859. Vì có thành tích trong việc đắp đồn lũy kiên cố chống quân Pháp ở Đà Nẵng, nên tháng 7 năm Canh Thân (1860), vua Tự Đức cử ông Nguyễn Tri Phương vào Nam, lo việc chống giữ với quân Pháp và I-pha-nho, ông Nguyễn Tri Phương vào Nam lo xây đồn Kỳ Hòa để chống với quân của Đại tá d’Arìes. Đến tháng Giêng năm Tân Dậu (1861), Đô đốc Charner đem cả thảy 70 tàu  chiến và 3500 bộ binh từ Trung Hoa về Gia Định để đánh đồn Kỳ Hòa, trong trận ấy ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ông là Nguyễn Duy tử trận, quan Tham tán Phạm Thế Hiển cũng bị thương, khi về đến Biên Hòa mấy hôm thì mất, cũng trong trận ấy Thiếu tướng Vassoigne của Pháp và Đại tá Palanca của I-pha-nho bị thương. Sau khi lấy được đồn Kỳ Hòa, quân Pháp tiến đánh Thủ Dầu Một và Tây Ninh.
Đến cuối tháng hai năm Tân Dậu (1861), Đề đốc Page và Trung tá Boudais tiến đánh Mỹ Tho, quan Hộ đốc Nguyễn Công Nhàn phải bỏ chạy. Tháng 11, Đề đốc Bonard đem quân đánh lấy Biên Hòa rồi thẳng ra lấy đồn Bà Rịa. Tháng 03 năm Nhâm Tuất (1862), lại đem 11 tàu chiến và 1.000 quân tiến đánh Vĩnh Long, quân ta chống giữ được hai ngày thì thành bị phá, Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân về phía Tây sông Cửu Long.
Đến tháng tư, triều đình Huế cử Phan Thanh Giản làm Nghị hòa chánh sứ toàn quyền đại thần cùng Lâm Duy Tiếp vào Nam để điều đình với Pháp. Ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1862), Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp phải ký với Bornard hòa ước gồm 12 khoản, trong ấy có khoản quan trọng hơn cả là nước Nam phải nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
Năm 1867, quân Pháp lấy nốt ba tỉnh miền Tây, ông Phan Thanh Giản đang làm Kinh lược sứ toàn quyền phải uống thuốc độc tự tử tại Vĩnh Long ngày 4/8/1867. Từ năm ấy nước Pháp đặt nền đô hộ miền Nam cho đến năm 1954, sau Hiệp định Genève quân Pháp phải rút khỏi miền Nam.
Trong tiết này, chắc chắn có một số ít nhà văn miền Nam không được nói đến, vì các tác phẩm của họ không được truyền tụng. Còn số nhà văn được nói đến, là nhờ văn nghiệp họ đã đi vào văn học sử, họ có ít nhiều liên quan đến giai đoạn lịch sử vong quốc.
Việc xác định thời gian tác phẩm ra đời là một điều quan trọng cho văn học sử, bởi vì thời điểm ấy sẽ cho người ta biết được những quan điểm liên hệ đến thời gian nhất định, liên hệ đến hoàn cảnh đương thời là những chất liệu tạo dựng nên tác phẩm để có thể xếp các tác giả vào những thời kỳ văn học, chớ không thể căn cứ vào tuổi tác, tuy nhiên trong lịch sử này khó xác định đúng thới điểm một số tác phẩm đã được sáng tác. Nhưng dù sao họ cũng trải qua giai đoạn lịch sử vừa kể nên việc xếp đặt các tác giả căn cứ vào tuổi tác để trình bày trước sau mà thôi.
Căn cứ vào quan điểm chánh trị của các thi nhân trong thời kỳ này có thể chia làm 3 nhóm : nhóm tích cực có Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiều, Thủ Khoa Huân... Nhóm tiêu cực có Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa.... và nhóm thỏa hiệp có Tôn Thọ Tường.
Ngoài đặc điểm chánh trị ra, thời kỳ này có sự khác biệt với thời kỳ sơ khởi ở chỗ từ ngữ họ dùng sát với giới bình dân, có lẽ vì họ xuất thân từ giới bình dân như hai câu thực trong bài Vịnh ông Táo của Phan Văn Trị.
Lỏng khỏng cõng nồi da mốc thít
Lum khum đội chảo mặt đen sì
Những bài văn Nôm lời thơ trong sáng như bài “Cảnh trời chiều” của Huỳnh Mẫn Đạt.
Trưa sớm đài danh gió bụi nhiều
Vườn quê vui thú cảnh trời chiều
Nhành chim rải rác đơn bông bạc
Màn ráng xuê xoang trải gấm điều
Ngả ngớn lưng trâu ngơ vót mục
Loi thoi bóng ác khẳm thoàn tiều
Xót người mạng bạc trong chằm nhạn
Ngó mống trông mây biết mấy nhiêu
     Như đà nêu trên, thời kỳ này, chúng tôi gọi là thời kỳ phát triển vì những nhà văn này sinh trưởng, lớn lên và học tập trên dãi đất miền Nam, ít nhiều đã có cá tính Miền Nam, cá tính này do nếp sống, phong thổ vùng đất mới tạo nên.
I- PHAN THANH GIẢN (1796 – 1867) :
Phan Thanh Giản tự Tịnh Bá hay Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu Mai Xuyên sinh năm 1796 tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh nay là làng Bảo Thạnh quận Ba Tri tỉnh Kiến Hòa.
Thân phụ ông là Phan Thanh Ngạn hiệu Mai Dã, năm lên bảy, mẹ ông mất, cha ông cưới bà Trần Thị Dưỡng, bà là một bậc hiền mẫu nên lo cho ông học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở làng Phú Ngãi. Cha ông vì tính cương trực nên bị quan trên hảm hại, bị giam trong ngục ba năm rồi sau lại bị khép tội và kết án thêm một năm tù. Lúc ấy ông được hai mươi tuổi, trong khi cha bị tù, ông lên Vĩnh Long lo việc phụng dưỡng cho cha, thấy ông hiếu thảo nên Hiệp Trấn Lương cảm thương, khi cha ông mãn tù, cha ông trở về quê nhà còn ông thì được Hiệp Trấn Lương khuyên ở lại Vĩnh Long cấp cho sách vỡ đi học và lại được một người đàn bà khác tên Ân, cấp thêm thực phẩm và quần áo.
Năm Ất Đậu 1825, thi Hương tại trường Gia Định, ông đỗ Cử nhân. Năm Bính Tuất 1826, tại kinh đô Huế dự thi Hội ông đỗ Tiến sĩ, ông là vị tiến sĩ đầu tiên của miền Nam, khi đi thi Hội ông đã làm tập Du kinh.
Sau khi thi đỗ, vâng lệnh thân phụ ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Mỹ người làng Mỹ Lộc, huyện Phước Lộc, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là Cần Giuộc).
Tháng 8 năm ấy ông được triệu ra Huế làm Hàn Lâm viện biên tu. Thi văn ông còn để lại bài thơ “Ký nội”, có lẽ ông sáng tác trong lúc này :
Từ thuở vương se mối chỉ hồng,
Tình này ghi tạc có non song.
Đường mây cười kẻ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
Ơn nước nợ trai đành nổi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng.
Mấy lời dặn nhủ khi lâm biệt,
Rằng nhớ, rằng quên lòng hởi lòng?
Năm 1827, bà Nguyễn Thị Mỹ hạ sinh một gái, nhưng không thọ mà sau đó bà cũng qua đời. Năm sau khi lãnh chức Tham hiệp tỉnh Quảng Bình, ông cưới con gái của Án sát trí sĩ Trần Công Án là bà Trần Thị Hoạch ở làng Đơn Duệ, huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị. Sau khi cưới xong, ông nhờ vợ vào Nam nuôi dưỡng cha già.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Phan Thanh Giản được cử làm Hiệp Trấn Quảng Nam, trong tỉnh có giặc do tên Cao Gồng cầm đầu, chúng quấy phá nên Phan Thanh Giản cầm quân đi dẹp, nhưng thua trận nên vua cách hết chức tước và bắt làm lính tiền quân, tuân lệnh vua, mỗi khi ra trận ông lại đi đầu chẳng quảng sinh tử. Khi dẹp giặc yên, ông được cử đi công cán ở Singapour.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), ông được cử làm Phó sứ (đi sứ nhà Thanh), khi đi ngang qua ải Đồng Quan ông có thơ vịnh :
Buổi sứ trình đêm mưa ngày tuyết,
Bạn cố tri mảnh nguyệt quan san.
Rạng ngày đến cửa Đồng Quan,
Tiếng xưa thập khứ nhứt hoàn là đây.
Trong thời gian đi sứ, ông có sáng tác một số thi văn làm thành tập Kim đài thi tập. Tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), sứ bộ trở về vua thăng chức Đại lý Tự khanh (chánh tam phẩm), kiêm Hình bộ sự vụ, sung Cơ mật viện đại thần.
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sau khi Trường Minh Giảng lập công chúa Ang-Mey (con vua Nặc Ông Chân vừa mới mất) lên làm quận chúa và đổi tên Chân Lạp là trấn Tây Thành, vua sai Phan Thanh Giản đi kinh lược, lúc đi ông có gửi thư cho Phan Thanh Ngạn lên Vĩnh Long chờ lúc ông làm xong nhiệm vụ, trên đường về kinh có dịp thăm cha, chớ ông không nghĩ đến việc về quê thăm cha và vợ sợ bê trễ quốc sự, chứng tỏ ông là người trung hiếu vẹn toàn. Sau khi về kinh, ông lại lãnh chức Quảng Nam Bố chánh và quyền lãnh chức Tuần phủ. Tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vua thấy trong nước yên ổn nên muốn viếng thăm tỉnh Quảng Nam, Phan Thanh Giản dâng sớ tâu “Được nghe trong mùa hạ, nhà vua sẽ tuần hạnh Quảng Nam, hạt dân thảy đều mừng rỡ, nhưng năm này trời hạn, dân đói, lại thêm tháng tư, tháng năm là lúc làm mùa, xin nhà vua tạm đình việc ấy....” Vua không được hài lòng về việc này, bèn sai Ngự Sử Võ Duy Tân đi kinh lược. Võ Duy Tân về tâu lại là nhân dân mong vua ngự đến mà trong tỉnh thì việc chánh trị trễ nãi, còn quan lại thì làm điều nhũng tệ, vua Minh Mạng tin lời nên giáng Phan Thanh Giản làm Lục phẩm thuộc viên cũng tại Quảng Nam, công việc của ông lúc ấy là quét dọn bàn ghế ở công đường. Giữ việc giấy tờ để các quan sai phái, vài tháng sau Phan Thanh Giản lại được cất nhắc lên chức Nội các thừa chỉ, sau lại thăng Hộ bộ lang trung, giữ chức Biện lý trong Bộ hộ rồi làm Lễ bộ lang trung.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), vì người trong Quang Lộc tự làm không đúng lễ nên ông bị giáng hai cấp. Sau ông lại thăng Hộ bộ lang trung và được phái làm Thừa thiên đường Phó chủ khảo, cùng năm này ông được thăng Hộ bộ Hữu thị lang, sung Cơ mật viện đại thần, rồi phụng chỉ làm bộ Minh Mạng chánh yếu.
Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), có sớ thuộc về Hộ bộ, sau khi vua phê xong, nhằm ngày ông thị sự mà không đóng ấn vào tờ châu phê ấy, nên vua giáng ông xuống làm Lang trung biện lý bộ vụ, sai vào vùng “Chiên đàn nguyên” (chổ Cao Gồng làm loạn khi trước) thuộc tỉnh Quảng Nam trông coi việc khai mỏ vàng, sau ra Thái Nguyên trông coi việc khai mỏ bạc.
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), vua đòi Phan Thanh Giản về làm thông chánh Phó sứ (Thuộc ty thông chánh sứ, chuyên coi về việc các tỉnh có biểu chương hoặc công văn chuyển về kinh thì Ty này chuyển lại cho các bộ. Trước thuộc bộ binh trông coi, từ năm 1834 mới đặt thành một Ty)
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), khi làm Thừa Thiên trường phó chủ khảo, có sĩ tử Mai Trước Tòng làm bài phú trùng vận mà ông không kiểm soát kỹ, nên bị vua giáng một cấp.
Dưới triều Thiệu Trị (1841-1847), năm đầu ông được thăng Binh bộ hữu tham tri sung cơ mật viện, được cử làm Hà Nội trường chánh chủ khảo.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Phan Thanh Ngạn tạ thế, vua có ban vàng bạc cho ông về Tống táng, sau khi mãn hạn ông phải trở về kinh, có lẽ lúc từ giã Phan Thanh Nhơn bịnh rịn nên ông có làm bài thơ tứ tuyệt :
Thương vua mến chúa phải ra đi,
Bịnh rịn làm chi thói nữ nhi.
Muôn dặm trường an mau trở lại,
Vào chầu bệ ngọc hở (?) lòng suy.
Năm Thiệu Tri thứ 4 (1844), ông được thăng Tả  phó Đô ngự sử, năm 1846 thự Hình bộ Thượng thư, sau đổi làm Thự lễ Bộ thượng thư. Năm Thiệu trị thứ 7 (1847), là năm Đại kế (xét công cán các quan trong triều) vua Thiệu Trị có ra chỉ dụ ban khen Phan Thanh Giản là có công khó nhọc lo lắng việc biên thùy giữ gìn nơi kinh nội đâu đó đều xong. Nên sau đó ông được thăng Hình bộ Thượng thư. Suốt triều vua Thiệu Trị ông đều luôn luôn được sung Cơ mật viện.
Đến Tự Đức nguyên niên (1848), Phan Thanh Giản được bổ qua Lại bộ Thượng thư sung Cơ mật việc đại thần, được bổ làm Hội thí trường chủ khảo và lãnh chức Kinh diên giảng quan để đọc sách, cắt nghĩa cho vua nghe.
Năm 1850, Phan Thanh Giản lãnh chức Tả Kỳ kinh lược đại sứ lãnh Bình phủ Tổng đốc và kiêm cả Thuận khánh đạo.
Năm 1851, Phan thanh Giản được bổ làm Nam kỳ kinh lược phó sứ, đến năm 1853, ông được triệu về kinh thăng Hiệp biện đại học sĩ (Tòng nhất phẩm) lãnh Binh bộ Thượng thư và lãnh làm bộ Khâm định việt sử thông giám cương mục.
Năm 1862, ông được cử làm Nghị hòa chánh sứ toàn quyền đại thần để thương nghị với Pháp ở Gia Định, rồi ông phải ký hòa ước Nhâm Tuất với Đề đốc Bonard (Pháp) và Đại tá Palanca (Y-pha-nho). Sau khi ký hòa ước ông và Phó sứ Lâm Duy Hiệp bị triều đình quở trách và xuống án cách lưu, Phan Thanh Giản làm Tổng đốc Vĩnh Long, còn Lâm Duy Tiếp làm Tuần phủ Khánh Thuận.
Năm 1863, ông được cử làm Như Tây chánh sứ, Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Nguy Khắc Đản, cùng với 60 tùy viên ( 1 ) đi với các quan Pháp và Y-pha-nho, trong phái đoàn Pháp còn có Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường. Nhiệm vụ của Phái bộ Việt Nam là sang Pháp yết kiến Pháp hoàng để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông, Phái bộ được Pháp hoàng là Napoléon đệ tam tiếp kiến, nhưng việc thương lượng Pháp hoàng còn hẹn sẽ bàn lại sau. Phái bộ cũng được Nữ hoàng Tây Ban Nha Isabelle tiếp kiến.
Trong thời gian đi sứ ông có sáng tác hai bài thơ Nôm “Đi sứ sang Pháp” như sau :
I
Chín từng lồng lộng giữa trời thinh,
Phụng chỉ ra đi buổi sứ trình.
Lo nỗi nước kia cơn phiến biến,
Thương bề dân nọ cuộc giao chinh.
Ngàn trùng biển cả sang Tây địa,
Muôn dặm đàng xa thẳng đế kinh.
Mấy bước sang qua cùng Pháp quốc,
Rước đưa mừng rỡ việc hòa ninh.
II
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi,
Tang bồng đành rõ chí nam nhi.
Thuyền ngo phơi phới giăng hòn bạc,
Khói đá phăng phăng lướt tích ti.
La Hán giăng tay hào khách đến,
Nước lũ non sông ngóng lúc về.
Tên cỏ cung dâu là chí trẻ,
Danh mà chi đó lợi mà chi?
Tôn Thọ Tường có họa vận :
Múa gươm quăng chén cất  mà đi,
Bịn rịn đâu màng thói nữ nhi.
Mấy khói một màu thuyền thoát thoát,
Biển trời muôn dặm núi ti ti.
Phương xa xe ngựa ngừa khi đến,
Nước lũ non sông ngóng lúc về.
Tên cỏ cung dâu là chí trẻ,
Danh mà chi đó lợi mà chi.
Thời gian đi sứ ông có sáng tác Sứ trình nhật ký. Đi sứ về năm 1864, sau khi tâu bày mọi lẽ, ông có trình vua Tự Đức biết sự văn minh của Tây phương, trong đó có câu:
Bá ban xảo kể tề thiên địa,
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền.
Nghĩa là : Trăm bề tinh xảo bằng trời đất, chỉ có việc sống chết là quyền của tạo hóa mà thôi. Theo đó ông xin vua thật tình giao hão với người Pháp, giao thiệp với các nước và buôn bán với họ, cho người đi du học sửa đổi việc nước như Pháp để cho quốc gia trở nên hùng mạnh, nhưng vua không y tấu, triều đình cũng không chịu tin lời ông để sửa đổi nên ông có làm bài “Tự thán” :
Từ ngày đi sứ đến Tây kinh,
Thấy việc Âu Châu phải giựt mình.
Kêu tỉnh đồng bang mau kịp bước,
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.
Năm này, ông được cử làm Hộ bộ Thượng thư, rồi được cử làm Chánh sứ toàn quyền đại thần, để nghị hòa với toàn quyền Auberet vừa ở Pháp sang, nhưng cuộc thương nghị không mang lại kết quả.
Năm 1865, có sớ của Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển về tình hình ba tỉnh miền Tây, ông được cử làm Kinh lược sứ vào trấn nhậm tại tỉnh Vĩnh Long. Đến Vĩnh Long, ông ra cáo thị hiểu dụ dân chúng lo làm ăn, học tập và ông lo dời mộ Võ Trường Toản về quê ông.
Năm Tự Đức thứ 20 (1867), nửa đêm 19 tháng 5, Đô đốc De Lagrandière đem binh thuyền từ Định Tường đến Vĩnh Long, đưa tối hậu thơ cho Phan Thanh Giản bảo phải nhường ba tỉnh miền Tây, Tổng đốc Trương Văn Uyễn cùng các quan võ xin chống cự, còn ông cho biết, ông có trách nhiệm giữ thành, khi giặc đến phải liều thân đến thác để giữ thành thì rạng danh, nhưng đem sức đọ nhau thì không bằng họ, rồi cũng thua mà còn làm cho dân chịu nạn đao binh. Nên ông chọn con đường thương thuyết.
Ông cùng với Án sát Võ Đoãn Thanh, xuống tàu L’Ondine thương thuyết với Lagrandière. De Lagrandière buộc ông phải nhường ba tỉnh miền Tây cho Pháp và phải giao tỉnh Vĩnh Long nội trong 2 tiếng đồng hồ. Trước tình hình đó, Phan Thanh Giản bằng lòng và yêu cầu đừng nhiễu hại dân lành, rồi ông trở vào thành viết văn thư gửi cho Tổng đốc An Hà Nguyễn Hữu Cơ để giao thành An Giang và Hà Tiên cho Pháp.
Thế là tỉnh Vĩnh Long mất vào sáng ngày 20/6/1867 (20 tháng 5 Đinh Mão). Còn An Giang mất đêm 21 rạng 22 và Hà Tiên mất sáng sớm ngày 24. các quan lại hai tỉnh sau bị quân Pháp bắt xuống tàu chở về Vĩnh Long. Rồi sau đó quan lại ba tỉnh miền Tây được Pháp đưa ra Bình Thuận giao trả lại cho triều đình Huế.
Sau khi thất thủ, ông xin với Lagrandière cho lấy lại tiền lương cùng binh khí trả lại cho triều đình Huế và ông làm  một tờ sớ, kèm theo triều phục, ấn triện với 23 đạo sắc phong gửi về triều đình. Rồi ông tuyệt thực, trong thời gian này, ông có dặn các người con, sau khi ông chết thì đem linh cửu về an táng tại làng Bảo Thạnh, còn tấm triệu thì ghi “Đại nam hải nhai lão thơ sanh tánh Phan chi cữu” ( 2 )
Dặn ba người con là Phan Hương, Phan Liêm và Phan Tôn gìn giữ mấy bộ sách của ông để lại, lo học hành làm ăn, đừng nhận quan tước của người Pháp, phải hòa thuận, thương mến quê hương và họ hàng thân tộc. Trong thời gian này ông có làm bài “Việc nước không thành”
Trời thời đất lợi lại người hòa,
Há dễ ngồi co phải nói ra.
Lâm trả ơn vua đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng ruổi đường xa.
Lên ghềnh xuống thác thương con trẻ,
Vượt biển trèo non quản phận già.
Cũng tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba.
Sau khi tuyệt thực 17 ngày mà không chết, ông liền hòa một chén thuốc độc hướng về Bắc lạy vọng 5 lạy, rồi ngồi xếp bằng uống cạn chén thuốc độc, để rồi từ giã cõi đời giữa đêm mồng 5 tháng 7 năm Bính Mão (4/8/1867) thọ 62 tuổi.
Chúng ta hãy đọc một sử liệu quý giá của Thiếu tướng Ansart gửi cho Đô đốc De Lagrandière:
Vĩnh Long, Le 4 Aout 1867
Mon cher Commandant,
Nous sommes arrivés au dénoument fatal du drame de l’ empoisonnement de Phan Vang Diang, il a succombé cette nuit et son corps a été transporté ce matin hors de la Citadelle, l’ inhumation aura lieu à Kébon dans quelques jours: ce n’ est pas sans un vif sentiment de chagrin que nous avons vu périn ce remarquable vieillard et je suis sur que ce sentiment sera partagé par tous ceux qui l’ont connu: il a accompli son suicide avec un fermeté de résolution étonnante, ayant déjà préparé son corps au revage du poison par une diète du plus de 15 jours, il prit froidement toutes ses dispositions, fit acheter son cercueil, des habits de deuil pour sa famille et ses serviteurs, régla la cérémonie des fufiérailles dans ses moindres détails et donna à ses enfants de conseils sages et dignes, il les engages à rester avec les Francais mais à n’accepter aucun emploi de leur part, ils doivent vivre dans leur propriétés en gens pacifiques, franchement ralliés à la Franche, sans occuper autrement de politique et pour conseiller partout la paix et le travail : quand à ses petits enfants, pour lesquels les mêmes raisons d’abstention ne sauraient exister, il recommanda de les faire élever avec soin par les Francais et il me témoigna quelques jours avant l’accomplissement de sa funeste résolution le désir de me laisser quelques millions de francs pour subvenir aux frais de leur éducation à Saigon : je ne compris pas alors le sens de ses paroles qui n’eut pas échappé au …” ( 3 )
(Letter du Commandant Ansart à M. le Chef d’ Etat-major général).
Bản dịch của Trường Sơn Chí :
Cùng Đại tướng thân mến,
Chúng tôi đã đi đến kết cuộc não nề tấn thảm kịch tự tử của Phan Thanh Giản. Ngài đã thở hơi cuối cùng trong đêm qua và thi hài của ngài sáng nay đã được dời ra ngoại thành. Lễ an táng đã cử hành tại Kébon (?) trong nay mai. Nhìn cái chết của bậc lão thần đáng quý ấy, tôi không sao tránh đặng nỗi đau sầu than thiết và tôi tin chắc rằng ai đã biết ngài, cũng có một cảm tưởng như tôi.
Ngài thi hành công cuộc tự tử một cách cương quyết lạ lùng. Trước khi trao thân cho độc dược tàn phá, ngài nhịn ăn trong 15 hôm. Ngài thản nhiên cắt đặt mọi điều: dạy mua áo quan, sắm tang phục cho gia quyến và gia thuộc, lo đến các chi tiết nhỏ nhặt trong việc tang chay và khuyên dạy con ngài những điều hay và sáng suốt. Ngài bắt con phải sống chung với người Pháp, song chẳng được thọ lãnh chức tước chi, phải sống yên ổn trong điền đất của họ, thành thật giao tiếp với nước Pháp, không được dự vào quốc chính và phải chuyên dỗ dân tình lo hòa bình và làm việc.
Đối với đoàn cháu của ngài mà những lời trên đây không hạp lắm, ngài dặn dò phải giao chúng nó cho người Pháp nuôi, và mấy ngày trước khi thực hành cái ý định thê thảm của Ngài, Ngài tỏ ý muốn giao lại ít triệu quan để dùng vào việc học của chúng nó ở Sài Gòn. Hồi đó tôi không hiểu ý lời nói của ngài …
Khi đem linh cửu Phan Thanh Giản về làng Bảo Thạnh thì thân bằng cố hữu cũng như dân chúng lục tỉnh đều có đến đưa và chịu tang. Các quan trong ba tỉnh miền Tây đã bị Pháp bắt chở ra Huế, chỉ trừ có Phạm Viết Chánh bị bệnh nên còn ở lại, mọi người thương tiếc một vị lão thần trung hiếu lưỡng toàn. Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ ái quốc của chúng ta khi ấy đang sống tại chợ Ba Tri, có làm một bài thơ :”Điếu Phan Thanh Giản”:
Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao châu : ( 4 )
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cang thường một gánh thâu.
Trạm Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Minh tinh chín chữ ( 5 ) lòng son tạc,
Trời đất từ đây mịt gió thu.
Phạm Viết Chánh, Án sát tỉnh An giang có đôi liễn điếu :
Sổ hàng di biểu lưu thiên địa,
Nhất phiến đan tâm phó sử thư.
Nghĩa :
Đôi hàng biểu để lòa trời đất,
Một tấm lòng son tạc sử xanh.
Và sợ người đời sau không hiểu cho nổi lòng của Phan Thanh Giản nên Phạm Viết Chánh lại có cảm tác một bài thơ để làm sáng tỏ cuộc đời và hành động cuối cùng của bậc công thần trong giai đoạn đen tối của lịch sử :
ĐIẾU PHAN THANH GIẢN
Phan công tiết nghĩa sánh cao dày,
Thương bấy vì đâu khiến chẳng may.
Hết dạ giúp vua trời đất biết,
Nát lòng vì nước quỉ thần hay.
Tuyệt lương một tháng rau xanh mặt,
Bị cách ba phen lửa đỏ mày.
Chỉn sợ sử thần biên chẳng ráo,
Tấm lòng ấm ức phải thày lay.
Triều đình Huế sau khi hay tin mất ba tỉnh miền Tây, vẫn chưa thức thời đem ông ra đình nghị, cho rằng việc mất sáu tỉnh miền Nam là do lỗi của ông, nên tước hết chức tước và đục bỏ tên ông nơi bia Tiến sĩ.
Cho đến Đồng Khánh nguyên niên (1986), đem ra nghị án và khôi phục nguyên chức cho ông là Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Binh bộ Thượng Thư, Nam kỳ kinh lược Chánh sứ toàn quyền đại thần và cho chạm lại tên ông trên bia Tiến sĩ như cũ.
Nhưng người đời vẫn nghĩ đến sứ mệnh khó khăn và tấm gương cao cả của ông, nên có bài “Nhớ Phan Thanh Giản” sau đây :
Học rộng tài cao chẳng gặp thời,
Cho nên đành chịu bó tay thôi.
Gọi hồn non nước công đã uổng,
Thấy cảnh tang thương ứa lệ rơi.
Liều thuốc tiêu hồn rồi một kiếp,
Tấm lòng ái quốc giải muôn đời.
Lương Khê thi tập còn lưu đó,
Đọc đến ai không cảm nhớ người.
 Vô danh.
Và các bài vịnh sau đây :
Tiến sĩ Nam kỳ xướng trước công.
Khôi tinh tỏ rạng khắp non sông.
Ba trào phò chúa không nguôi dạ,
Một cõi chăn dân chẳng mõi lòng.
Gặp lúc trời Nam cơn thế biến,
Tách miền biển Việt nghị hòa xong.
Lòng người đã muốn trời không vậy,
Thà thác mình đây đặng chữ trung.
*
Vận nước trong khi cuộc đổi đời,
Ra vai gánh vác một phương trời.
Thương vua phải chịu lòng đau đớn,
Vì nước cam đành lụy nhỏ rơi.
Nghĩa nặng chẳng từ cơn yếu đuối,
Thân già bao quản chốn đua bơi,
Vài lời dâng sớ liều mình thác,
Tiếng để về sau tiếc mấy đời
*.
Nằng nằng giữ vẹn tấm lòng ngay,
Nặng nhẹ không từ khổ nhọc thay.
Vì nước thương dân trời đất biết,
Thảo cha ngay chúa quỉ thần hay.
Tây kinh phụng sứ cơn già yếu,
Nam trấn cầm cờ lúc trở gay.
Biết trước chẳng cho dân chịu thác,
Một mình chịu trọn nghĩa tôi đây.
Vô danh.
Văn nghiệp Phan Thanh Giản gồm có :
-         Du kinh (1826)
-         Toái cầm thảo (1829)
-         Kim đài thi tập (1832)
-         Minh Mạng chánh yếu (1837)
-         Việt sử thông giám
Và một ít thơ Nôm như :
-         Ký nội.
-         Gần sáng.
-         Đi sứ sang Pháp.
-         Việc nước không thành.
Sau đây là bài biểu của Nguyễn Thông, (bài này ghi ở sau bài biểu của Võ Trường Toản), ghi về cuộc đời và đức độ của Phan Thanh Giản
“Từ Lương khê Phan tiên sinh tới cụ Sùng đức Võ phu tử khoảng thời gian không mấy xa.
Sở học của Phan tiên sinh lấy chữ “Thành” làm chủ đích, trước hết lấy việc trị tính tình làm phương thiết thật.
Thời gian gần đây, tuy các nhà nho chưa xem xét tới sở học ấy, nhưng lời giảng luận xưa kia, câu biên chép còn xót lại của cụ Sùng đức vẫn còn tiêm nhiễm trịu trịu trong lòng. Sở học của Sùng đức thật là thiết thật, thâm uyên, rất hợp với tư tưởng thánh hiền xưa vậy.
Lương khê tiên sinh soạn bài biểu đề mộ cụ Sùng đức ba tháng trước ngày tuẩn tiết. Đương hồi thiên hạ gian nan loạn lạc, tiên sinh lo việc tôn sùng đức nghiệp cụ Võ phu tử. Nhờ bài biểu ấy mà đạo cụ Võ được suy tôn thêm và ý nghĩa của thánh kinh càng thêm sáng tỏ.
Người cầu học trong đời, một khi thể nhận lời của Lương khê tiên sinh sẽ chăm lo việc chí tình để đi đến chỗ sáng suốt, tinh thành kín đáo của đạo học. Chừng ấy, người không còn lầm tục học, dị đoan dời đổi lòng người, trái lại, được nhiều điều bổ ích cho tâm thần người lắm.
Ở đời việc thắng bại, lợi hại, con người đều có mạng, chớ cái mạch đạo vẫn trường tồn với vũ trụ.
Kìa người xưa có người đương thời vẫn khuất thân mà đạo của họ vẫn lưu hành hậu thế, giữa triều đình thì thấp thỏi, không danh vị, không được trọng vọng, thế mà tự chốn nhà hành cửa lá danh tiết được trọng vì như hàng “thi chúc” (thần thi, thần chúc), lâu đời càng sánh tỏ lời khen.
Nay tiên sinh đã ra người thiên cổ mà bậc đồng đạo hoặc đi xa, hoặc quá vãng, nên tôi kính cẩn biên lại đây để duy trì việc người trước, hầu sau chư quân tử có chỗ tra cứu được.”
Tự Đức năm Nhâm thìn (1868), trước thanh minh hai ngày, kẻ hậu học kính biên.
Nguyễn Thông
Mộ Phan Thanh Giản hiện ở tại làng Bảo thạnh, quận Ba tri tỉnh Kiến hòa.Theo ông Nguyễn Huy Oanh ghi trong : Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam.
Ở trước có bức bình phong đấp nổi sen le, hai bên có hai câu đối:
Giang sơn chung tú khí,
Âu Á mộ oai linh.
Mặt trong (mặt sau) đắp tùng lộc với hai câu đối :
Tiết nghĩa lưu thiên địa,
Tinh thần quán Đẩu Ngưu.
Kế đó có mộ bia lớn khắc :
Nam kì hải nhai lão thơ sanh Phan công chi mộ.
Kế đó là tấm bia nhỏ ghi :
Đại Nam Hiệp biện Đại học sĩ  toàn quyền đại thần Phan công chi mộ
Cuối cùng sau nấm mộ hình quy bối trên vách có hai chữ 追 思 (truy tư) và hai bên có đôi liễn :
Xuân lộ thu sương cảm,
Sơn hoa dã thảo bi.
Cho đến nay, ai ở vào hoàn cảnh Phan Thanh Giản mới thấy rằng khó xử, người có trách nhiệm giữ thành, thành bị nguy khốn phải xả thân mà lo chống giữ, nhưng khi lượng sức mình, ông đã tỏ ra một bực tài trí và hết dạ thương dân, bởi vì sự chống trả chỉ làm cho dân chúng bị nạn đạo binh rồi vẫn nước mất nhà tan, nên ông chọn con đường thương thuyết, thế rồi Pháp đã thực hiện đúng cái mộng xâm lăng của mình. Từ kinh nghiệm đó, người Pháp đã đi dần đến cuộc đô hộ cả Việt Nam. Ông giải quyết việc cứu sinh mạng nhân dân miền Nam chỉ là sự giải quyết nhất thời, bởi vì suốt 92 năm kể từ sau Hòa ước Nhâm Tuất (1862), dân miền Nam cũng như dân tộc Việt Nam đã theo Cần vương, các phong trào kháng chiến, bao nhiêu cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học… với hàng nghìn chiến sĩ vô danh, đã phơi thây ở chiến địa hay bị tù đày gian lao khổ sở, ở những ngục tù từ trong cho đến ngoài nước, họ đã hy sinh thân mạng để dành lại độc lập cho nước Việt Nam, mà khi để mất độc lập Phan Thanh Giản chuộc tội mình bằng cả sinh mạng của ông.
Ông không phải là người bán nước, phản quốc, ông đã chọn, một cái chết quả cảm theo trọng trách của ông như là một vị tướng, thành mất thì tướng phải mất theo thành, ông đã làm tròn trách nhiệm của mình nên đã dùng chén thuốc độc quyên sinh sau 17 ngày tuyệt thực và sau 45 ngày thành mất. Đương thời nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình Chiểu đã soi thấu tấm lòng một bậc trung thần nên đã khóc cho ông :
Trạm Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Cuộc đời ông đã quá thăng trầm, lúc làm quan, lúc lại làm quân, lại là người đầu tiên đi sứ sáng Âu châu, đã chính tai nghe, mắt thấy nền văn minh phương Tây và tiến bộ nước Pháp thời bấy giờ. Tiếc rằng ông quá tôn sùng nền văn minh, tiến bộ ấy, ông đã không tổ chức thành lũy, chống chọi với quân xâm lược, để chứng tỏ ý chí bất khuất trước kẻ xâm lăng, nếu không ngăn chặn được cuộc đô hộ của người Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam, thì ít ra cũng làm chậm lại, hay nao lòng quân xâm lăng, nhờ đó biết đâu cuộc cờ còn có đổi thay, nếu không có sự an bày nghiệt ngã của bánh xe định mệnh.
TRÍCH VĂN:
GẦN SÁNG ( 6 )
Một dãi sông Tương suốt mắt mèo,
Thuyền chài ngư phủ thấp leo teo.
Lằn kêu giục chúa chầu sân phụng,
Gà gáy khuyên chồng lắp dấu cheo.
Ải soái thường xuân vừa cất gánh,
Thuyền tên Gia Cát mới gay chèo.
Phương đông vừa lố vầng con ác,
Cửa Khổng Nho sanh nhóm tựa bèo.
LAI KINH
Muôn dặm đường xa mới tới kinh,
Bao nhiêu non nước bấy nhiêu tình.
Rừng không người vắng chim kêu rốn,
Trăng lặng sao mờ gió thổi rinh.
QUÁ CÔN LÔN
過 崑 崙
久  說  崑  崙  島
Cửu thuyết Côn lôn đảo,
孤  舟  今  始  還  眼
Cô chu kim thuỷ hoàn.
眼  窮  滄  海  闊
Nhãn cung thương hải khoát
心  到  碧  山  間
Tâm đáo bích sơn giang
鷄  犬  深  林  裡
Kê Khuyển thâm lâm lý
烟  波  隔  世  間
Yên ba cách thế gian
悠  悠  湖  海  客
Du du hồ hải khách
曾  否  有  相  關
Tăng phủ hữu tương quan
(Lương khê thi thảo, quyển 10 tờ 13a)
QUA ĐẢO CÔN LÔN
Côn lôn nghe nói tự lâu,
Con thuyền cô độc buổi đầu bước qua.
Trông vời biển rộng bao la,
Non xanh gửi tấm lòng ta những ngày.
Muông gà trong khoảng rừng cây,
Thế gian ngăn cách, khói mây chập trùng.
Hởi người hồ hải mông lung,
Có tương quan với non sông thế nào ?
Tô Nam dịch
DƯƠNG LIỄU CHI TỪ
楊  柳  之  詞
斜  倚  東  風  伴  夕  陽
Tà ỷ đông phong bạn tịch dương,
青  青  倩  影  入  池  塘
Thanh thanh thanh ảnh nhập trì đường
多  情  不  與  行  人  說
Đa tình bất dữ hành nhân thuyết
伴  著  流  鶯  說  短  長
Bạn trước lưu oanh thuyết đoản trường.
II
短  長  情  绪  幾  慇  勤
Đoản trường tuần tự kỷ ân cần,
夜  月  朝  煙  認  未  真
Dạ nguyệt triêu yên nhận vị chân.
珍  重  莫  交  行  客  手
Trân trọng mạc giao hành khách thủ,
斷  將  分  贈  別  離  人
Đoạn tương phân tặng biệt ly nhân.
III
別  籬  人  最  是  無  情
Biệt ly nhân tối thị vô tình,
得  意  江  南  馬  上  行
Đắc y Giang-nam mã thường hành.
漠  漠  橋  頭  誰  是  問
Mạc mạc kiều đầu thùy thị vấn?
也  曾  折  處  嫩  枝  生
Dã tăng chiết xứ nộn chi sinh.
IV
嫩  枝  生  處  露  初  乾
Nộn chi sinh xứ lộ sơ can,
無  力  纖  腰  五  夜  寒
Vô lực tiêm yêu ngủ dạ hàn.
獨  立  低  徊  愁  不  語
Độc lập đê hồi sầu bất ngữ,
垂  眉  終  日  待  春  還
Thùy mi chung nhật đãi xuân hoàn.
V
春  還  春  去  幾  時  歸
Xuân hoàn, xuân khứ kỷ thì quy?
長  斷  誰  家  玉  笛  吹
Trương đọan thùy gia ngọc địch xuy.
嬝  娜  那  堪  風  力  倦
Niễu ná na kham phong lực quyện,
可  憐  春  老  有  花  時
Khả liên xuân lão hữu hoa thì
VI
 花  時  輕  薄  幾  人  憐
Hoa thì khinh bạc kỷ nhân liên,
何  日  章  臺  續  舊  缘
Hà nhật chương đài tục cựu duyên
說  得  梅  花  還  不  解
Thuyết đắc mai hoa hoàn bất giải,
却  含  微  意  笑  朝  煙
Khước hàn vi ý tiểu triêu yên.
VII
朝  煙  隱  隱  绿  陰  陰
Triêu yêu ẩn ẩn lục âm âm…
盡  日  蕭  條  著  嫩  金
Tận nhật tiêu điều trước nộn câm.
少  婦  不  知  春  意  暖
Thiếu phụ bất tri xuân ý noãn,
樓  前  不  覺  暗  傷  心
Lâu tiên bất giác ám thương tâm.
VIII
傷  心  多  在  杜  鵑  啼
Thương tâm đa tại đổ quyên đề,
飛  去  飛  來  恨  未  齊
Phi khứ, phi lai, hận vị tề…
昨  日  黄  鶯  聲  未  絕
Tạc nhật, hoàng oanh thanh vị tuyệt,
鷾   鴯  今  又  說  長  堤
Ý nhi kim hựu thuyết trương đê.
IX
堤  上  金  絲  著  地  橋
Đê tự kim ti trước địa kiều,
年  年  贈  別  露  痕  消
Niên niên tặng biệt lộ ngân tiêu,
也  知  多  少  行  人  意
Dã tri đa thiểu hành nhân ý,
纔  得  新  倏  厭  舊  條
Tài đắc tân điều yếm cựu điều.
X
舊  條  新  縷  亂  如  蔴
Cựu điều tân lũ loạn như ma,
盡  日  黄  鶯  機  擲  梭
Tận nhật hoàng oanh cơ trịch thoa.
織  就  春  城  三  月  錦
Chức tựu xuân thành tam nguyệt cầm,
也  應  東  主  作  香  羅
 Dã ưng Đông chủ tác hương la.
(Lương khê thi thảo, Quyển VII-Toái cầm thảo)
LỜI CÂY DƯƠNG LIỂU
I
Phe phẩy đông phong dưới ánh chiều,
Bờ ao, cành biếc bóng xiêu xiêu.
Nặng tình không gửi người qua lại,
Thỏ thẻ con oanh nói ít nhiều.
II
Ít nhiều bao xiết nỗi ân cần…
Khuya sớm trăng xa lẫn khói gần.
Trân trọng dám chuyền tay khách lạ,
Bẻ đem đưa tặng bạn đời chân.
III
Dời chân ai cũng khéo thờ ơ,
Ngựa tới Giang nam, để đợi chờ.
Vắng vẻ bên cầu ai đoái hỏi,
Dấu xưa cành bẻ đã chồi tơ.
IV
Chồi tơ, lóng lánh giọt sương trong
Mưa gió năm canh những lạnh lùng.
Đứng lặng, mây tơ buông ủ rũ.
Tin xuân, chiều sớm luống chờ mong.
V
Chờ mong xuân mấy độ đi qua,
Sáo ngọc nhà ai tiếng thiết tha?
Mềm yếu lả theo cơn gió lốc,
Thương thay hoa nở buổi xuân già.
VI
Xuân già, hoa rụng đã ai nhìn,
Bao thuở Chương đài duyên nối duyên?
Câu chuyện hoa mai khôn tỏ được,
Ngậm cười sương khói ý triền miên.
VII
Triền miên sương khói bóng cành dâm,
Ngày đọan, tơ non đã nẩy mầm.
Cô ấy biết đâu xuân ấm áp,
Trước lầu, bổng gợi mối thương tâm.
VIII
Thương tâm cái quốc giục bên tai,
Nỗi hận chưa nguôi khắc khoải hoài.
Vừa đó, chim oanh còn vẳng tiếng,
Ý nhi ríu rít hót bờ dài.
IX
Bờ dài, tơ mắc nhịp cầu thưa,
Ngấn móc tang bao bận tiễn đưa…
Lòng khách qua đường ai chẳng thế:
Vừa vin cành mới, bỏ cành xưa.
X
Cành xưa, tơ mới rối tơi bời,
Chiều sớm oanh vàng đưa chiếc thoi.
Tô điểm thành xuân, hoa gấm dệt,
Lụa thơm dành để chúa xuân chơi.
MỘNG TUYẾT Thất tiểu muội dịch.

Ghi chú :
1. Sứ đoàn Việt Nam đi Pháp gồm có 63 người:
Chánh sứ: Phan Thanh Giản.
Phó sứ: Phạm Phú Thứ.
Bồi sứ: Ngụy Khắc Đản.
Sĩ quan phụ trách lễ vật: Nguyễn Văn Chất.
Hai thư ký phái bộ: Hồ Văn Luông (hay Hồ Văn Long)
                                Trần Văn Cư (hay Nguyễn Văn Cư)
Bốn văn nhân: Hoàng Ky
                         Tạ Hữu Kế
                         Phạm Hữu Độ
                         Trần Tê
Một thông dịch viên: Nguyễn Văn Trường (chết ở Aden)
Hai võ quan: Nguyễn Mậu Bình
                     Hồ Văn Huân (hay Nguyễn Văn Huân)
Bốn sĩ quan tháp tùng: Nguyễn Hữu Tước
                                     Lương Văn Thế (hay Thái)
                                     Nguyễn Hữu Thần
                                     Nguyễn Hữu Cấp
Hai y sĩ: Nguyễn Văn Huy (chết ở Alexandrie)
               Ngô Văn Nhuận
Hai mươi lăm người lính.
Mười chín người tùy dịch.
2. Theo nhà sử học Lê Thọ Xuân, qua bài viết về Phan Thanh Giản đăng trong Đại Việt tạp chí số 1 (năm 1942) thì ông có được xem một tờ giấy hoa tiên và cho rằng đó là thủ bút của Phan Thanh Giản, trong đó có ghi 3 dòng chữ Hán như sau :
    銘  旌  請  省  若  無  應  書
大  南  海  厓  老  書  生  姓  潘  之  柩  亦  以  此
    誌  墓
Phiên âm : Minh tinh thỉnh tỉnh nhược vô ưng thư : Đại nam hải nhai lão thơ sanh tánh Phan chi cữu diệc dĩ thử chí mộ.
Dịch nghĩa: Xin giảm tấm triệu, nếu không được nên đề: Quan tài thơ già họ Phan ở góc biển Đại Nam, rồi cũng lấy câu này ghi ở mộ.
Vì câu: “Minh tinh chín chữ lòng son tạc” của Nguyễn Đình Chiểu nên ông Lê Thọ Xuân phải đi tìm cho rõ”. Theo sách Lễ - theo lời những người viết minh sanh thì trên minh sanh ghi thế nào mặc lòng nhưng người ta đếm theo chu kỳ 4 chữ Quỷ, Khốc, Linh, Thính mà chữ cuối cùng phải ở vào chữ Linh nếu người chết là đàn ông và chữ Thính nếu người chết là đàn bà cho đúng với câu :
“Nam Linh, Nữ Thính, bất khả dụng Quỷ, Khốc nhị tự”.
Như vậy, câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu có thể vì âm điệu thơ, mà cũng có thể vì 9 chữ đó là quan hệ vừa được ghi ở Minh tinh và ghi ở mộ. Ngày nay thì mộ bia của Phan Thanh Giản được ghi “ Nam kỳ hải nhai lão thơ sanh Phan công chi mộ”.
Tóm lại, chúng ta thấy những dòng chữ Hán viết  trên tờ giấy hoa tiên, nó là ước nguyện của Phan Thanh Giản, đó là thủ bút của ông, nó gồm có 11 chữ.
3. Bức thư này có triển lãm ở Hội chợ Sài Gòn năm 1943, còn một đoạn nữa dịch giả bỏ bớt vì không được rõ.
4. Ngao Châu: Là cửa sông Hàm Luông, bao trùm cả Gãnh Bà Hiền, Gãnh mù u thuộc tỉnh Bến Tre, là quê hương của Phan Thanh Giản.
5. Đúng ra phải 11 chữ – xem lời chú 1.
6. Bài này có lẽ Phan Thanh Giản sáng tác lúc làm Hà Nội trường chánh phủ khảo năm 1841.

II. BÙI HỮU NGHĨA (1807-1872)
Bùi Hữu Nghĩa hiệu Nghi Chi, vì đậu đầu kỳ thi Hương nên có biệt danh là Thủ khoa Nghĩa, sinh năm 1807 tại làng Long Tuyền (Bình Thủy), Cần Thơ, thân sinh của ông là Bùi Hữu Vi làm nghề chài lưới.
Thuở nhỏ, sau khi đã học khá ở quê nhà, ông được cha mẹ cho lên Biên Hòa ở nhà ông Nguyễn Văn Lý và học với ông Đồ Hoành (có thuyết nói ông Đỗ Hoành người ở Gia Định, Bùi Hữu Nghĩa có xuống thỉnh giáo, xin ghi vào để tồn nghi)
Năm 1835, ông thi Hương ở Gia Định đậu thủ khoa, ông có dự thi Hội nhưng bị hỏng, tuy vậy vẫn được tập sự ở bộ Lễ, ít lâu ông được bổ làm tri huyện, ở phủ Phước Long tỉnh Biên Hòa, sau đó lập gia đình với bà Nguyễn Thị Tồn là con ông Nguyễn Văn Lý.
Về sau ông có lệnh bổ nhậm Tri huyện tại phủ Trà Vang (Trà Vinh), vì tính cương trực nên bị quan trên hãm hại, mất chức và ở tù. Nguyên khi chúa Nguyễn chống với Tây Sơn, lúc ở miền Nam được người Miên ở Trà Vinh giúp lương thực và có người tong quân nữa, nên khi Gia Long lên ngôi có ban chiếu miễn thuế thủy lợi vĩnh viễn ở rạch Láng Thé. Sau có bọn khách trú lo lót, nên Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện cho bọn họ khai thác, vì thế người Miên ở đây kiện thưa bọn họ với Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa. Ông tuyên bố:   “Việc tha thuế thủy lợi là ân huệ của vua Thái Tổ, ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà đứng bán rạch ấy, thì có chém đầu cũng không sao”. Người Miên được thế bèn phá đập của khách trú, nên hai bên có cuộc xô xát gây ra án mạng. Tổng đốc và Bố chánh bắt dân Miên và Bùi Hữu Nghĩa giam ở Vĩnh Long, rồi sau đem về giam ở Gia Định cùng đệ sớ về triều.
Trong thời gian này, ông có làm bài thơ “Bị giam ở Vĩnh Long”(1848).
Nhượng chăng là nhượng kẻ cày voi,
Lục lục thường tài cũng một mòi.
Mịt mờ bởi mây che bóng nguyệt,
Âm thầm vì trống lấp hơi còi.
Kìa câu  ích kỷ, kinh còn tạc,
Nọ kẻ khi nhân, thánh hởi roi.
Lẫn thẫn hết suy thì đến thới,
Ngày qua tháng lại bước đường thoi.
Vợ ông, bà Nguyễn Thị Lý, xuống Mỹ Tho quá giang ghe bầu ra kinh đô Huế, kêu oan cho chồng, may nhờ có Phan Thanh Giản lúc ấy làm Lại bộ Thượng thư (1848), nên Phan Thanh Giản dạy cho bà cách kêu oan. Vua Tự Đức xét nỗi oan tình của Bùi Hữu Nghĩa, giao cho bộ hình tuyên án : “Tha cho Bùi Hữu Nghĩa khỏi tội tử hình, song phải quân tiền hiệu lực đái công thục tội”. Từ Dũ thái hậu khi biết việc, đòi bà vào cung và ban cho tấm biển “Liệt phụ khả gia”. Khi khỏi tội tử hình, thủ khoa Nghĩa phải đi trấn thủ ở Châu Đốc, lúc ấy vợ ông mất ở Biên-Hòa, ông không được phép về tống táng, nên phải quàn quan tài bà rất lâu. Khi ông đươc về, ông có đọc bài văn tế thống thiết để khóc vợ, rồi bà được an táng tại làng Tân Hiệp, tổng Mỹ Chánh thượng, tỉnh Biên Hòa, ngoài ra ông cũng có làm câu đối Nôm khóc vợ:
Đất phải chẳng chồng, bao nở thịt xương đem gởi đất,
Trời như có vợ, đặng coi gan ruột thử cho trời? ( 1 )
Và đôi liễn để thờ vợ:
“Ngã chi bần, khanh độc năng trợ, ngã chi oan khanh độc năng minh, triều quận cộng xưng  khanh thị phụ,
Khanh chi bệnh, ngã bất đắc dưỡng, khanh chi tử ,ngã bất đắc táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.”
Ông Nguyễn Văn Nghĩa dịch:
“Tớ nghèo mình lo giúp, tớ oan mình lo kêu, chồm xóm đều khen mình đáng vợ.
 Mình đau tớ chẳng nuôi, mình chết tớ chẳng táng, non sông thẹn phận tớ làm chồng”.
Trong thời gian trấn thủ đồn Vĩnh Thông (Châu Đốc), ông có sáng tác bài “Trấn đồn Vĩnh Thông”:
Độc tọa cao lâu tứ liệu nhiên,
Thiên không đã khoán, thảo thiên nhiên.
Gian biên phàm quá cô thôn võ,
Lãnh ngoại xa hồi viễn thọ yên.
Mộ sắc sô gian y trúc lũy,
Ca thinh nhất đạo tải bồ thuyền.
Tu mi tự đắc bá phu trưởng,
Tái thượng ta đà niên hựu niên.
Ông Nguyễn Văn Nghĩa dịch:
Lầu cao ngồi rổi ngó tứ bề,
Cỏ loáng chân trời,  đồng ruộng ghê
Mưa phía bờ sông, buồm lướt tới,
Khói mờ cây núi bóng xa về.
Trại căn bên lũy màu trơ trễn,
Hát trổi trên thuyền giọng tỉ tê.
Thầm nghĩ phận trai hơn được chúng,
Quang năm luốn dạo cảnh say mê.
Khi giăc Miên nổi loạn, ông bi bắt nhưng sau được thả về Bắc Nam (Châu Đốc) rồi lần hồi về Tịnh Biên. Ở Tịnh Biên một thời gian thấy có kẻ ỷ quyền cậy thế, nên ông xin hồi hưu, có lẽ lúc trở về ông bị cảm xúc vì cảnh mình bị lưu thú gian nan, ở nhà thì mồ mả vợ quạnh hiu, nên ông có cảm tác bài thơ “Khóc vợ”:
      Đã chẳn ba năm mới đặng thăm,
      Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm.
      Gió  đưa đâu thấy hình dương liễu,
      Đêm vắng ai hoài tiếng sắt cầm.
      Chồng nhớ vợ, lòng tơ bối rối,
      Con thương mẹ, lụy ngọc tuôn dằm
      Có linh chín suối đừng sao lãng,
      Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.
Khi về hưu rồi, ông trở về Bình Thủy mở trường dạy học, hốt thuốc, bấy giờ ông lấy hiệu là Liễu Lâm  chủ nhân.
Về sau, ông cưới con gái ông Lưu Văn Dụ ở An Giang là Lưu Thị Ý, chính ra ông đinh hỏi cưới người em là Lưu Thị Chi, nhưng bị tráo hôn với người chị, vì thế mà Lưu Thị Ý còn có tên không chính thức là Lưu Thị Hoán. Việc làm thuốc và sự tráo hôn chính là chất liệu, để ông tạo nên bốn tuồng Kim thạch kỳ duyên.
Trong gia đình ông Huỳnh Mẫn Đạt cũng có truyền lại một bản, nhưng thật ra thì quan  Tuần phủ họ Huỳnh có đủ phương tiện lập một đoàn hát bộ để giải trí, bản mà họ Huỳnh truyền lại, chẳng qua trong giao thiệp với Bùi Hữu Nghĩa ông có giúp ý, sữa văn nên gia đình Huỳnh Mẫn Đạt có một bản truyền lại sau nầy, đấy chẳng qua là bản sao chép lại trong tủ sách của ông ta, chứ ông ta không phải là tác giả
Cốt truyện tuồng Kim thạch kỳ duyên gồm có ba hồi tóm lược như sau:
 Hồi thứ nhất: Kim Ngọc, con trai của Kim Ngạn Yêm, tri huyện Bồ Thành đã đính hôn với Ái Châu con của Lâm Vượng, một nhà giàu ở gần Tô Châu.
Lợi Đồ, tri huyện Tô châu mời thầy thuốc Thạch Đạo Toàn đến chữa bệnh cho vợ cả, bị người vợ thứ tráo thuốc độc cho người vợ cả uống nên chết. Do đó, Thạch Đạo Toàn bị bắt, con gái là Thạch Vô Hà phải bán mình làm thị tì cho Ái Châu trong gia đình Lâm Vượng để lấy tiền chuộc cha.
Ở vùng Đại Lư có giặc Tiêu Hóa Long, dưới trướng có quân sư Thiết Hoan đang hùng cứ nơi đây. Có tri phủ Tri An Thiết Đình Quý cùng với phu nhân Giải thị đi ngang qua bị giặc bắt, ông trối với vợ hãy cố gắng sống, để bảo vệ cái bào thai, vì bà đang thai nghén, rồi ông nhảy xuống sông tuẩn tiết.
Ngạn Yêm đi nhậm chức tri phủ cũng bị Tiêu Hóa-Long bắt, nhờ Giải thị xin cho khỏi bị chết. Lúc cha bị bắt, Kim Ngọc nhảy xuống sông trốn, nhờ tiểu đồng trung tín là Dũ Đức cứu đặng, song mắc bệnh phung, dưỡng bệnh ba năm trong một ngôi chùa mà không mạnh. Rồi chàng đến xin cưới Ái Châu, mong nương tựa vào gia đình vợ, nhưng lại bị gia đình họ Lâm tráo hôn, bằng cách đem nữ tỳ Thạch Vô Hà vào thay.
Hồi thứ nhì: Kim Ngọc nhờ cha vợ là lương y Thạch Đạo Toàn chữa cho lành bệnh. Kim Ngọc thi đỗ Trạng nguyên và được cử đi dẹp giặc Tiêu Hóa Long. Hóa Long thua chạy vào thành, bị Giải thị phục rượu rồi cùng con là Thiết Thuần Cương hiệp với Ngạn Yêm giết chết Hóa Long. Kim Ngọc vào thành gặp cha, còn Giải thị lấy đầu Hóa Long làm lễ tế chồng, rồi nhảy xuống sông trầm mình cho trọn đạo cùng chồng.
Ái Châu sau kết duyên cùng Ái Lang, con trai tri huyện Lợi Đồ, vì tri huyện tham lam nên về sau bị kiện, bị giam, gia sản của tri-huyện Lợi Đồ cùng với thông gia là Lâm Vượng đều bị tịch biên. Ái Châu cũng bị bắt đem bán.
Hồi thứ ba: Vô Hà vợ Kim-Ngọc sinh con, mướn thêm người giúp việc, người ấy lại là Ái Châu, Vô Hà tỏ ý nhường địa vị vợ cả cho Ái Châu, nhưng Kim Ngọc không thuận. Ái Châu tìm cách lung lạc  và lừa dối Kim Ngọc, bị chàng biết rõ nên hài tội và định giết, may nhờ có Vô Hà xin cho nên nàng bị đuổi đi. Nàng vào sống ở thanh lâu, nàng bị bệnh phong tình nên bị xua đuổi, cuối cùng nàng tự tử trước cửa chùa. Kim Ngọc lại đi dẹp giặc ở Đài Loan. Sau khi giặc yên, trên đường về kinh chàng gặp xác Ái Châu, chàng lo chôn cất. Khi về đến triều được Tống vương phong thưởng.
Trong tuồng, Bùi Hữu Nghĩa vẫn dựng bối cảnh ở đất Trung Hoa, nhân vật gồm quan lại và nho sinh, những tình tiết cùng một mô thức  của những nhà dựng truyện cũ, những cái gút được cột ở hồi thứ nhất rồi gở lần lần ra ở hồi nhì và cuối cùng kết cuộc có hậu ở hồi ba; những kẻ ăn hiền ở lành thì được phong thưởng, còn người mưu mẹo phải đền tội, dù con người có thể tha thứ nhau để sống trong xã hội loài người, nhưng thiện, ác và quả báo, con người phải đền trả trước luật của hóa công. Bùi Hữu Nghĩa dùng nhiều chữ Hán nhưng rất hay về văn chương lẫn sự tích, ông khéo dùng bút pháp để mỗi nhân vật đều có một ngôn ngữ riêng, biểu lộ được tính tình và nghề nghiệp của họ. Chẳng hạn Kim Ngọc lúc theo cha đi nhậm chức, chàng thả hồn theo cảnh vật :
Trời xanh nguyệt rạng,
Gió mát sông trong,
Trăng thanh mặt nước rơi vàng,
Sao tỏ da trời nhận ngọc.
Hồi I cảnh V lớp 2
Và đây là nhân vật Trùm Việc :
Lãnh tờ cử giữa làng,
Trùm ấp xưng chức mỗ.
(Như ta) Nghe quan đòi rút cổ,
Thấy lệ tới lắc đầu.
Điền lính thì tôi giả mới đau,
Đóng thuế lại mỗ rằng chưa mạnh.
Ở dưới làng chảnh ngoảnh.
Lên đến tỉnh bần xừ,
Lính nói không dám ừ,
Lê kêu thời (tôi) phải dạ.
(Ấy là việc quan : chớ còn việc ve, tôi thời giỏi lắm mà !)
Chẳng chừa con gái góa,
Nào luận gái có chồng;
Chứng máu dê, người đã tỏ lòng,
Sanh bụng chó, chúng đều biết mặt.
Hồi II Cảnh X lớp 5
Và ngôn-ngữ của thầy thuốc Thạch Đạo Toàn, mỗi câu nói đều có tên một vị thuốc bắc:
(Úy này !) Bi Kỳ Chi Tử.
Sản xuất Kỳ nam
Dụng CÀNG CƯƠNG, QUẾ NHỤC trị hàn
Cùng QUI VĨ, HỒNG HOA trục huyết.
(thôi mà)
(Ta coi phu nhơn người ít sữa ; vậy ta cậy mụ bà một chuyện)
Mụ bà đà CHỈ THIỆT
(Vậy thời) có HƯƠNG PHU phục Lao.
Giá dầu có THÁCH CAO,
Tôi không cần BÁN HẠ.
Hồi III. Cảnh II. lớp 4
Tác phẩm này Bùi Hữu Nghĩa đã đề cao vai trò đạo Nho, cùng vạch ra cái ung nhọt của xã hội thời bấy giờ, ông muốn dùng nó để truyền thông đến giới Bình-dân miền Nam, giới rất thích thưởng thức hát bội thời bấy giờ.
Lúc gần lâm chung Bùi Hữu Nghĩa cũng còn sáng tác bài “Ngọa bịnh ngâm thi”:
Ngàn vàng khôn dễ sánh mình nầy,
Sanh có ngày âu thác có ngày.
Non nước hãy còn đang bấy bá,
Đất trời sao nỡ khiến lay vay.
Kho phong nguyệt hỡi chan chan đó,
Vườn cúc tong còn  thới thới đây.
Bịnh cũ vừa an đành lại dậy,
Mặc dầu ngăm ngợi mặc dầu say.
Năm 1872 Bùi Hữu Nghĩa mất tại Bình Thủy (Cần-Thơ). Năm 1943 Hội khuyến học Cần Thơ có đứng ra trùng tu ngôi mộ của ông.
Thủ khoa Nghĩa là một bậc cự phách trong làng thi miền Nam vào thế kỷ 19, nên người ta có truyền tụng hai câu thơ :
Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàng, Nghĩa thi.
Và :
Đồng Nai có cặp rồng vàng,
Nhất Bùi Hữu Nghĩa nhì Phan tuẩn thần. ( 2 )
Người ta biết ông nhiều nhờ tuồng Kim thạch kỳ duyên và Văn nghiệp ông gồm có :
Về tuồng :
- Kim thạch kỳ duyên
- Tây du.
- Mậu Tòng.
Văn tế :
- Văn tế vợ,
- Văn tế con gái.
- Văn vợ Thổ tế chồng Chệt.
Một số thơ Hán và Nôm :
- Bị giam ở Vĩnh Long.
- Trấn đồn Vĩnh Thông.
- Khóc vợ.
- Kinh quá Hà Âm cảm tác.
- Đi thuyền qua Thoại Sơn.
- Ngủ tử tư xuy tiêu.
- Quan công thất thủ
- Vịnh cây bần, Cây vông, Thợ bạc, Đôi đũa bếp.
Và một số câu đối.
Văn tài của ông lỗi lạc hơn người đương thời, đường công danh lại lận đận lao đao, gia cảnh khóc vợ, khóc con rồi bị cuộc tráo hôn. Có tài là một chuyện, nhưng những nghịch cảnh mà ông trải qua, đã là những cảm xúc sâu đậm nhất, để tự đáy lòng mình tạo ra sự rung cảm chân thành. Đây là những thi văn truyền cảm, còn về thái độ của ông đối với vận nước đương thời, tưởng cũng nên đọc lại hai câu thực của ông được sáng tác lúc gần lân chung :
Non nước hãy còn đang bấy bá,
Đất trời sao nỡ khiến lay vay.
Và ông cũng bày tỏ rõ rệt thái độ của mình trong bài họa Thập thủ liên hoàn, bài “Tự thuật” của Tôn Thọ Tường, tiếc rằng ngày nay chỉ còn có một bài họa đầu mà thôi :
Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây,
Đâu để giang san đến thế này.
Ngọn lửa tam Tần phừng đất cháy,
Chờ mây Ngủ quý lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thuở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa
Đền Nam trụ cả dễ lung lay.
Tuy chỉ còn lại một bài, nhưng thêm vào đó với bài “Ngủ Tử Tư xuy tiêu”“Quan Công thất thủ hạ bì”, chúng ta cũng thấy được thái độ của ông.
TRÍCH-VĂN:
VĂN TẾ VỢ ( 3 )
Hỡi ơi !
Gió Nữ phất phơ ;
 Mưa ngâu lác đác.
 Duyên bình thủy ( 4 ) sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao; Đuốc loan phòng tỏ rạng lúc khêu lờ, sáng suốt ngọn đèn gió tạc.
Nhớ Linh xưa :
Tính đức son vàng; Tình không đen bạc.
Chen với nguyệt vóc tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong; Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu ( 5 ) khỏi lắm nhơ bụi cát.
Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước nào màng; Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duuyên đầm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác.
Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chiều lòng theo tâm lý ( 6 ) với anh em; Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tùy, đẹp đẻ với xóm giềng cùng chú bác.
Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi; Thảo thời thân vẹn phận chưng lê ( 7 ), nữ công trọn giềng nhà gánh vác.
Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đều rở mặt với non sông; Nhà hàn vi bậu đốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác.
Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi; Cậu cô hòa một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác.
Công danh lỡ vì manh bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ( 8 ) ngày trước, thời chưa nên làm thói dễ duôi; Khó hèn cam nào giám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần (9 ) ngày nọ, vận chưa bạc mà đem lòng khi bạc.
Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa; Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ qủi ( 10 ) không rời thước tấc.
Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia ( 11 ); Bay kịp chúng, nhảy kịp thời, mới đặng hưởng gió thần đưa các ( 12 ).
Nghiệp tiên thế anh lo gầy dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân ( 13 ); Đạo thánh hiền bậu đốc khuyến dương, gắn vó đã nên gương cùng hậu giác (14).
Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua; Mua nghĩa chuốc nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt.
Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công; Câu phu tác tử thừa (15) bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác.
Ốc đà hết lúc gian truân; Hay chưa tới chừng hạnh đạt.
Bổng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạt lánh trầm trầm; Nào hay nổi vật đổi sao dời, cửa số ngựa qua thoát thoát ( 16 ).
Ôi sông lệ ( 17 ) vàng chìm; Non côn ( 18 ) ngọc nát.
Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau; Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chát người sao tráo chát.
Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bao đành nhắm mắt tầm tiên; Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nở sắp lưng cởi hạc.
Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã rất ức oan; Ai mượn ngươi Quỉ bá ( 19 ) đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.
Chữ “Đại đức tất đắc kỳ thọ” ( 20 ) độc tới phát buồn; Câu “Tích phước tất hữu dư khương” ( 21 ) nghe càng thêm lạt.
Qua để bậu chẳng bằng tiền đưa, phận phân gương ( 22 ) chẳng kịp nữa giờ; Trời giết người chi xá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát
Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩa từ cơn ruột tợ kim châm; Ngày ra vào vắng vẻ không em, nhớ từng chặn, gang đường muối xát.
Cuộc long hổ ( 23 ) lấp rồi ba tất đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan; Bạn phụng loan phân rẻ phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc.
Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành dư bảy tuần chay; Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn  lạt.
- Hởi ôi ! Tiếc thay ! Hởi ôi ! Thương thay!

KINH QUÁ HÀ ÂM CẢM TÁC ( 24 )
Mịt mịt mây đen kéo tối dầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Am.
Đống xương vô định sương phao trắng,
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm.
Gió trốt dật dờ cơn chiến lũy,
Đèn trời leo lét dậm u lâm.
Nôm na xin mượn câu thơ điếu,
Dắn dõi đêm trường tiếng dế ngâm.
ĐI THUYỀN QUA THOẠI SƠN ( 25 )
Một thuyền cầm hạc một mình ta,
Đường hiểm gian nan khắp trải qua.
Núi sập sấm rền vang tiếng muổi,
Vàm Nao ( 26 ) nước chảy đứt đuôi xà.
Văn chương mới thử năm hay bảy ( 27 ),
Võ lược chưa truyền sáu với ba ( 28 ).
Gà gáy học đòi người dạy múa,
Luống e năm tháng để ta đà ( 29 ).
NGỦ TỬ TƯ XUY TIÊU
Lạc loài nước bước đã trăm chiều,
Ngơ ngẩn nơi người một ống tiêu.
Trời Sở oán theo mây cuồn cuộn,
Đất Ngô buồn giục gió hiu hiu.
Tám ơn tơ tóc so dày mỏng,
Ngàn dặm non sông cám ít nhiều.
Cái bạn tri âm chưa gặp gỡ,
Thẹn thùng cuối giữa biết bao nhiêu.
QUAN CÔNG THẤT THỦ HẠ BÌ
Hạ Bì thuở nọ chẳng màng nao,
Gương rạng chi lầm chước túng tao.
Chén rượu anh em keo gắn chặt,
Tấm son tôi chúa đuốc chong cao.
Theo rồng dốc nhóm mây trời Hán,
Xuống ngựa đâu tham bạc đất Tào.
Hai mối cang thường gồm đặng cả,
Ngàn năm thơm để miệng người rao.
VỊNH CÂY BẦN
Cao lớn làm chi bần hởi bần ?
Uổng sanh trong thế đứng chần ngần !
Lá xanh tợ liễu, nhành thư thớt,
Bông bạc dường mai, nhụy sượng sần.
Quyến luyến bầy cò theo sập sận,
Chiêu quy đoàn khỉ tới dần lân.
Rường soi cột trổ chưa nên mặt,
Cao lớn làm chi bần hởi bần.
VỊNH CÂY VÔNG
Uổng sanh trong thế mấy thu đông ?
Cao lớn làm chi vông hởi vông ?
Da thịt càng già càng lộp xộp,
Ruột gan chẳng  có, có gai chông.
Rường soi cột trổ chưa nên mặt,
 Giậu mỏng ràu thưa phải dụng lòng.
Mới biết cây nào sanh giống nấy,
Xuân qua bốn tốn cũng đơm bông.
THỢ BẠC
Lò tạo nghe ra thú cũng nhàn,
Chơi bời quên những khách giàu sang.
Dát, hàn, theo thế hình long hổ,
Đậu, chạm dầu ai cách phụng loan.
Lắm thuở cầm cung day mủi bạc,
Từng phiên lên ngựa trải gan vàng.
Ra tài búa với oai lừng lẫy,
Nghề nghiệp lâu dài vững đặt an.
ĐÔI ĐŨA BẾP ( 30 )
Đã đẽo không nên cái búa voi,
Để làm đũa bếp nhắm ra mòi.
So lò ngũ đảnh chi sờn nóng,
Quấy vạc tam thai chẳng sợ còi.
Gặp cục than hồng đà sẳn gắp,
Giận con đòi dại khỏi cần roi.
Xông cơn nước lửa dư trăm trận,
Công nghiệp nay đà đáng mấy thoi.
Ghi chú:
1. Trên đại việt tạp chí số 18 (1943) ông Nguyễn Văn Y ghi 2 câu này như sau :
“Đất chẳng phải chồng, chốn ấy thịt sương bao nở gửi
Trời mà có vợ buổi này gan ruột biết dường bao”.
2. Phan Thanh Giản.
3. Bài này gồm 26 liên và độc vận.
4. Bình thủy: Bèo nước.
5. Vườn dâu: Nơi trai gái nước Trịnh, Vệ hẹn nhau tới đó để tư tình.
6. Lân lý: Xóm giềng, xưa cứ năm nhà là một lân, năm lân là một lý.
7. Chưng lê: Lo lắng đỡ đần, giỗ quảy.
8. Mãi Thần: Chu Mãi Thần, người ở Cối Kê (đất Ngô), đời hán, tự là Ông tử, nhà nghèo, chăm học, thường bán củi nuôi thân, vừa đi vừa đọc sách. Vợ lấy làm xấu hổ xin ly dị. Mãi Thần nói: “Ta năm mươi tuổi sẽ giàu sáng, nay bốn mươi chin rồi, nàng khổ sở đã lâu, nên cố đợi, ta thành đạt sẽ đền báo”. Vợ không nghe, đi theo một người nông phu. Sau Hán Võ đế cất Mãi Thần lên làm Trung đại phu Thi trung. Gặp khi Đông Việt phản, Mãi Thần ra làm Thái Thú Cối Kê, dẹp loạn có công được thăng Đô Úy. Khi vào đất Ngô, gặp lại vợ cũ với chồng là người nông phu ở dọc đường. Mãi Tha6`n truyền dẫn cả hai về dinh, để ở trong vườn và chu cấp tử tế, sau người vợ hổ thẹn phẩn uất nên tự tử.
9. Tô Tần: Là người nước Triệu đời nhà Chu khởi thuyết “Hợp Tung”, lại có Trương Nghi bạn Tô Tần khởi thuyết “Liên Hoành”, cả hai đều là học trò của Quỉ Cốc tiên sinh. Thuở Tô Tần còn nghèo, bị vợ đối đãi tàn tệ, mỗi khi chàng đi đâu về nhà, vợ ngồi dệt cửi không thèm đứng dậy chào. Sauk hi du thuyết, Tô Tần được đeo ấn vàng của sáu nước vinh quy, vợ trông thấy sợ hãi.
10. Chủ quỹ: Coi sóc việc nhà.
11. Tích có người học trò nghèo dâng thơ cho danh sĩ Phạm Trọng Yêm, than rằng chưa từng được ăn no một lần nào. Trọng Yêm thương tình, cho tiền mua giấy để vổ bia Tiến phúc mà bán.Nưng vận cùng, nên việc sắp đặt vừa xong thì sét đánh vỡ bia.
12. Do câu thơ cổ: “Thời lai phong tống Đằng Vương các” nghĩa là vận đến nơi thì gió đưa vào gác Đằng Vương tức là nhà lầu của Nguyên Anh, con của Đường Cao Tổ xây cất, về sau Nguyên Anh được phong là Đằng Vương, nên lầu mới có tên là Đằng Vương các. Tương truyền Đô đốc Hồng Châu là Diêm Bá Dư đặc tiệc ở Đằng Vương các, để khoe tài chàng rể là Ngô Tử Chương, ông bảo Ngô Tử Chương làm sẵn bài Tự Đằng Vương các, rồi mời các nhà quyền quý cùng văn sĩ xa gần đến dự yến tiệc, để rồi ông yêu cầu mỗi người, ngay trong buổi tiệc làm một bài Tự. Vương Bột tự Tử An, quê huyện Long Môn đất Giang Châu, ba anh em đều đỗ Tiến sĩ nên người đời tôn xưng “Vương gia tam châu thụ”, có thân phụ làm Thái Thú Giao châu. Vương Bột tuy còn nhỏ tuổi nhưng nổi tiếng nên cũng được mời. Vì ở xa, định là không kịp đến dự, có người khuyên chàng cứ sửa soạn ra đi, may thay chuyến đi gặp gió lớn nên chàng đến kịp lúc. Khi ấy Vương Bột chừng 15, 16 tuổi, Diêm Đô Đốc có ý không tin tài chàng. Nhưng cuối cùng thì bài Tự của Vương Bột hay hơn cả, thật là danh bất hư truyền, rất tiếc ông tài hoa nhưng bạc mệnh.
Năm 28 tuổi, sang Giao Châu thăm cha, Vương Bột bị đắm tuyền chết đuối ở biển Nam Hải.
13, Hương lân: Chòm xóm.
14. Hậu giác: Người sau hiểu rộng hơn người trước.
15. Tử thừa: Con nối nghiệp cha.
16. Do câu: “Bạch câu quá khích”
17 & 18. Sông Lệ, non Côn: Hai nơi có vàng và ngọc quý.
19: Quỉ bá: Người ta tin đó là kẻ chuyên bắt hồn người chết về Âm phủ.
20. Có đức lớn ắt được sống lâu.
21. Chứa phúc ắt có nhiều điều tốt đẹp.
22. Phân gương: Chia rẽ.
23. Long hổ: Về phép địa lý, chọn đất để chôn người chết, có cuộc đất tên là Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ.
24. Huyện Hà Âm: xưa thuộc phủ Tịnh Biên tỉnh An Giang nay thuộc tỉnh Châu Đốc.
25. Thoại Sơn: Núi Sập, mang tên của Thoại Ngọc Hầu, do ông có công đào kinh Thoại hà đi từ Long Xuyên đến Rạch Giá năm 1818.
26. Vàm Nao : Là khúc song Tiền Giang và Hậu Giang giao nhau ở vùng Thánh địa Hòa Hảo.
27. Năm kinh, bảy truyện: Năm Kinh là kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Dịch, kinh Xuân Thu.
28. Ba lược, sáu thao: Ba lược gồm thượng lược, trung lược và hạ lược tương truyền của Huỳnh Thạch Công. Còn sáu thao gồm : Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao, Khuyển thao tương truyền của Thái Công Vọng, cả hai đều là sách binh thơ.
30. Theo bài “Từ thứ quy tào” của Tôn Thọ Tường có vần : voi, mòi, còi, roi, thoi nên những bài nào làm theo vần của bài này, đều được gọi là vần Từ thứ.

III. HUỲNH MẪN ĐẠT (1807-1883)
Huỳnh Mẫn Đạt người Rạch Giá, sinh năm 1807. Có sách nói ông sinh tại làng Tân Hội, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương Phiên Trấn dinh (Gia định) ( 1 )
Năm Tân mão1831, ông thi đậu Cử nhân, làm quan đến chức Tuần phủ, trấn nhậm ở Hà tiên. Khi Pháp lấy Hà tiên ngày 24-6-1867, ông bèn về ở ẩn tại Vĩnh Hòa, Rạch Giá. Trong thời gian này ông có sang tác một số thơ văn tả cảnh, vịnh vật đã ký thác tâm sự của ông về thế sự như bài “Vịnh cây dừa” :
Ba xuân đào lý phải duyên ưa,
Cây trái liền năm chẳng kịp dừa.
Đuôi phượng vẻ vang che nắng gió,
Mình rồng chan chứa gọi mây mưa.
Dãi dầu giúp kẻ khi soi tối,
Giúp nước vui người buổi khát trưa.
Rường cột miếu đường không xứng mặt,
Chống ngăn bờ cõi cũng bưa bưa.
Sống ẩn dật, mượn trăng thanh gió mát, tiếng chuông mõ gọi lòng trần, để nuôi dưỡng tính tình, với mục đích nầy qua bài “Kỹ nữ quy y” chúng ta thấy ông đạt đến phần nào triết lý sống, lời thơ nhẹ nhàng và đạo vị :
Lầu xanh thánh thót tiếng chuông truyền,
Tỉnh giấc Cao Đường ( 2 ) lúc ngữa nghiêng.
Mượn chiếc thuyền tình qua bể ái,
Đưa con sóng-sắc tới rừng thiền.
Trong gương Trí-tuệ lau lòng tục,
Lần chuổi Bồ đề kết trái duyên.
Mát-mẻ cửa không trăng gió sẵn,
Dầu chưa nên Phật cũng nên Tiên.
Ông giao du với những người đồng tâm, đồng chí như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị nhất là Bùi Hữu Nghĩa, nên ông có góp ý, sửa tuồng Kim thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa, chính trong gia đình ông còn lưu lại bổn tuồng này, nên có người lầm tưởng ông là tác giả.
Lúc ở ẩn, có lần đi Sài gòn vào buồi chiều, ông đi ngang qua chỗ ban quân nhạc của  Pháp hòa tấu nhạc ở bồn hoa (nên còn gọi là bồn kèn) nơi góc đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi thì gặp Tôn Thọ Tường. Cuộc gặp gở này cả ông và Tôn Thọ Tường mỗi người còn để lại hai bài Đường luật và nhiều người có lẽ căn cứ theo Nguyễn Liên Phong trong quyển Điếu cổ hạ kim thi tập, cho rằng vì tính thích ngâm vịnh nên Huỳnh Mẫn Đạt khi gặp Tôn Thọ Tường, có ngâm trước một bài thơ “Núp chào cùng hổ”. Nay xét ra lời thơ và địa vị của Hùynh Mẫn Đạt là một vị quan cựu trào, làm đến chức Tuần phủ có cung cách một vị quan lại thời xưa, hai nữa đã là bạn thì ít khi nào lúc mới gặp nhau, lại dùng lời lẽ quá mạnh để kích bác nhau, và trong hai câu kết :
Sự đời thấy vậy thì hay vậy,
Thà ẩn non cao chẳng thấy nghe.
Thấy và nghe những gì ? Chắc hẳn là thấy Tôn Thọ Tường đi chơi với bạn của ông, còn nghe tức là nghe thơ của Tôn Thọ Tường, nghe những lời dị nghị của người khác, chớ nếu mới gặp quan tri phủ tân trào đi chơi với những người bạn, mà ông  lại hạ câu kết:
Thà ẩn non cao chẳng thấy nghe
Như thế thì không đúng cốt cách của một thi nhân, chớ chưa nói đến cốt cách của một vị quan cựu trào. Do đó chúng tôi nghĩ sau khi gặp nhau một thời gian, Tôn Thọ Tường có bài sau đây :
Tình cờ xãy gặp bạn tiền liêu,
Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều.
Thế cuộc đổi đời đà lắm lắm,
Thiên cơ màu nhiệm hãy nhiều nhiều.
Nước non dường ấy tình dường ấy,
Xe ngựa bao nhiêu bụi bấy nhiêu.
Hăm hở nhạc tây hơi trổi mạnh,
Nghe qua ngùi nhớ giọng tiêu thiều.
 Sau đó một thời gian, Huỳnh Mẫn Đạt mới có bài thơ “Núp chào cùng hổ” sau đây:
Cừu mã ( 3 ) năm ba dạo cặp kè,
Duyên sao giải cấu ( 4 ) kéo đè ne. ( 5 )
Đã cam bít mặt cùng trời đất,
Đâu giám nghiêng mày với ngựa xe.
Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu, ( 6 )
Lơ thơ già núp cội cây hòe. ( 7 )
Sự đời thấy vậy thì hay vậy,
Thà ẩn non cao chẳng thấy nghe.
Rồi sau này, Tôn Thọ Tường còn có bài “Thà gặp cọp chẳng thà gặp bạn”.
Sau khi Nguyễn Trung Trực bị Pháp bắt và xử tử hình ở Rạch Giá, Huỳnh Mẫn Đạt đã khóc ông bằng một bài thơ chữ Hán, ngày nay chỉ còn có bốn câu :
…………………………………
Hỏa hồng Nhật Tảo ( 8 ) oanh thiên địa,
Kiếm bạt Kiên Giang ( 9 ) khấp quỷ thần.
………………………………
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ,
Tu sát đê đầu vị tử nhân.
Dịch ngĩa :
…………………………………
Lửa hòa Nhật Tảo rung trời đất,
Kiếm lấp Kiên Giang khóc quỷ thần.
…………………………………
Anh hùng cứng cổ danh thơm thọ,
Thẹn chết bao nhiêu lũ cúi đầu.
Năm 1883, Huỳnh Mẫn Đạt mất ở Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá. Thơ ông còn truyền tụng lại những bài :
- Vịnh cảnh chiều.
- Mưa đêm.
- Cành Móm.
- Chó già.
- Trâu già.
- Cây dừa.
- Kỹ nữ quy y
- Chiêu quân xuất tái
- Núp chào cùng hổ.
Ngoài sự ưu tư về thời thế, thơ ông còn gây cho người đọc một nổi bâng khuâng về cuộc đời.
TRÍCH VĂN:
CẢNH TRỜI CHIỀU
Trưa sớm đài danh gió bụi nhiều,
Vườn quê vui thú cảnh trời chiều.
Nhành chim rải rác đơm bông bạc,
Màn ráng xuê xong trải gấm điều.
Ngả ngớn lưng trâu ngơ vọt mục,
Loi thoi bóng ác khẳm thoàn tiều.
Xót người phận bạc trong chằm nhạn,
Ngó mống trông mây biết mấy nhiêu.
MƯA ĐÊM
Mới vừa bụng núi dấu thêm voi,
Kìa phải mưa đêm đã ló mời.
Mượn sấm đánh tan vầng nguyệt rạng,
Xua sương tưới sống cụm hoa còi.
Say cần câu nguyệt ngư lên nón,
Lở dặm mang sao mục ướt roi.
Hỏi kẻ Trường An trời biết chẳng,
Tấm lòng quế ngọc nhộn đường thoi.
CHÓ GIÀ
Tuy rằng muôn cấu có ân ba, ( 10 )
Răng rụng lâu năm nó phải già.
Bởi đuổi hưu Tần nên mỏi gối, ( 11 )
Vì lo khỉ Sở ( 12 ) mới dùn da.
Không ai trấn Bắc ngăn bầy báo,
Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà.
Mạnh mẻ như xưa còn hớn hở,
Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
TRÂU GIÀ
Một nắm xương, một nắm da,
Bao nhiêu cái ách đã từng qua.
Đuôi cùng biếng vẩy Đơn Điền hỏa, ( 13 )
Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca. ( 14 )
Sớm dạo nội sằn ( 15 ) đi khắp khởi,
Tối về tử lý ( 16 ) thở hê ha,
Bôi chuông nhớ thuở qua đường hạ,
Ân đội Tề vương bắt lại tha.
II
Kể từ hội Sửu đã sinh ra,
Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.
Mấy chốn kỳ thần ra sức cả,
Đòi nơi bái xã rán thân già.b
Rửa tai Dĩnh Thủy ( 17 ) nhường ngôi báu,
Cõi ách Đào Lâm biếng gác xa.
Tề chúa bôi chuông còn chẳng nở,
Có đâu khó nhọc với nông gia.
CÀNH MÓM
Tượng mắng non sông tác chẳng tà,
Cớ sao Cành Móm lại do ra ?
Chòm rong lộp xộp râu Bành Tổ, ( 18 )
Kẹt đá gio gie nướu Tử Nha. ( 19 )
Miệng súc trêu trao cơn sóng dợn,
Khăn lau quẹt quẹt thức mây qua.
Thày lay thử hỏi Xuân, Thu mấy ?
Rằng thuở khai thiên đã có ta.
CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI
Tráo chát khôn lường mũi bút gian,
Trăm năm quấy rối phận hồng nhan.
Chín trùng ứa lụy rưng đôi mắt,
Ngàn dặm ôm tì tím lá gan.
Cật giã thành che bờ cõi vắng,
Lụy làm mưa rưới lửa binh tàn.
Người trên nhà Hán đi đâu lẫn,
Xuôi trận ôn nhu tới dẹp loàn.
Ghi chú:
1. Có người cho rằng ông là một học trò của Võ Trường Toản là lầm vì Võ Trường Toản mất năm 1792, còn ông sinh năm 1807.
2. Cao Đường: Tích Sở Trang vương ra chơi ở Cao Đường, ban đêm nằm mộng thấy một người thiếu nữ tự xưng là gái ở núi Vu San, nghe vua ngự đến nên tới chầu, vua Sở lưu nàng lại cùng nhau chăn gối. Cuộc vui tàn, thiếu nữ ấy cho biết mình là thần nữ ở núi Vu San, chốn Dương Đài, sớm làm mây, tối làm mưa.
3. Cừu mã: Cừu: áo da; mã: ngựa, ý nói quan quyền sang trọng.
4. Giải cấu: Gặp gở
5. Đè ne: Đưa đẩy đến chỗ không nghĩ tới.
6. Châu Á Phu đời Hán, đóng quân ở Tế Liễu, nên đời sau gọi chỗ đóng quân là Liễu dinh. Có ý nói đắc ý, được đi trên đường êm ái.
7. Thuần Vu Phần uống rượu say, an giấc dưới cội cây hòe, chiêm bao thấy hai sứ giả vời vào làm Phò mã, rồi được phong làm Thái Thú đất Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Đến khi thức giấc, chỉ thấy có một đám kiến bên mình. Ý nói chán đường danh lợi.
8. Nhật Tảo: Thuộc địa phận Tân An, nơi nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt được tàu chiến “Espérance” của Pháp vào ngày 10/12/1861.
9. Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đánh đồn Pháp ở Kiên Giang hồi 4 giờ ngày 16/6/1868, giết được nhiều quân Pháp.
10. Chó có ba tánh đáng quý là: giữ nhà, liều chết vì chủ, không bao giờ quên chủ.
11. Do sách có câu: “ Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục” nghĩa là nhà Tần xổng mất con hưu, thiên hạ đua nhau tranh. Con hưu là nói về đất nước.
12. Ám chỉ Sở bá vương Hạng Võ là “Khỉ đội nón”.
13. Đơn Điền hỏa : Đời chiến quốc, nước Yên đánh nước Tề đã hạ được hơn 70 thành, chỉ còn một thành Cừ Tức Mặc. Sau đó người nước Tề là Điền Đơn dụng mưu bắt một nghìn con trâu mình khoác gấm 5 sắc, sừng đeo gươm giáo, rồi buộc cỏ vào đuôi mà đốt lên, trâu bị nóng chạy lung tung, quân Yên thua chạy, Tề khôi phục lại được các thành đã mất.
14. Nịnh Thích ca : Còn gọi là Phạm Ngưu ca. Nịnh Thích người thời Xuân Thu tài rất giỏi, nhưng quẩn bách khốn cùng không biết làm thế nào để tự đạt. Sau Nịnh Thích lập kế đi buôn, đánh xe trâu sang nước Tề, ngày đi bán hàng, tối về ngủ bên cửa thành. Một tối kia gặp vua Hoàng Công mở cửa thành đi đón khách, anh ta bèn gỏ vào sừng trâu mà ca Nam sơn xán, bạch thạch lạn! Sinh bất thuần Nghiêu dữ Thuấn thiện. Đoản bố đan y tài chi cán. Trường dạ mạn mạn hà thời đán?” Nghĩa là: Núi Nam rực rỡ, đá trắng sáng sủa! Sinh ra không gặp lúc vua Nghiêu nhường, ngôi cho vua Thuấn. Vải ngắn áo đơn bó chặt cái thân gầy mòn. Cứ lan man ở trong chỗ đêm tối biết đến ngày nào?. Vua Hoàng Công nghe hát cho rằng không phải người thường, rồi gọi Nịnh Thích lên xe cho đi theo. Sau Nịnh Thích được làm quan to.
15. Nội sằn: Đồng ruộng
16. Tử lý: quê hương, ý nói nơi chuồng trâu.
17. Đời thượng cổ có ông Hứa Do ở ẩn trong chằm Bái Trạch. Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra xin nhường ngôi để trị thiên hạ. Húa Do từ chối rồi lui về ở ẩn nơi núi Trung nhạc, phía Nam sông Dĩnh Thủy.
Sau vua Nghiêu lại tìm đến để mời ông nữa, ông cũng từ chối và tỏ ý không muốn nghe chuyện ấy nữa, nên ra bờ song Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc ấy, có ông Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ song, gặp Hứa Do đang rửa tai nên hỏi cho biết nguyên do. Hứa Do thuật lại chuyện vua Nghiêu nhường ngôi, Sào phủ liền kéo trâu lại mà nói.
- Ta toan cho trâu uống nước tại đây, lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói xong, dắt trâu lên trên dòng nước rồi mới cho trâu uống.
18. Bành tổ: Tức là Bàn cổ, theo thần thoại Trung Hoa cho rằng buổi  đầu trong vũ trụ hỗn mang chưa chia ra trời, đất, chỉ có một khối lộn xộn như cái trứng. Ông Bàn cổ tự trong ấy sinh ra, được chừng 18000 năm thì trời đất mới có. Về sau trời càng ngày càng cao, đất càng ngày càng dày ông Bàn cổ ngày một lớn.
19. Tử Nha: Khương Thái Công hay Thái Công Vọng hoặc Khương Thượng, tự là Tử Nha, tên chử là Lữ Vọng.
Theo sử Tàu, trước khi Tây bá muốn đánh vua Trụ, có mở một cuộc đi săn. Một nhà tiên tri báo trước rằng, vua chẳng săn được thú, mà sẽ gặp được một vị thần tướng.
Thật quả như thế, khi đến gành sông Vị, vua gặp một ông già đang ngồi câu cá,  vua hỏi chuyện, ông ta đối đáp thật trôi chảy, vua rất vừa ý nên rước Khương Tử Nha về để giúp Chu diệt Trụ, ông sống đến 90 tuổi mới mất.

IV. NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU (1822-1888):
Sự đời thà mất đôi tròng mắt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ và Hối Trai, biệt danh Đồ Chiểu sinh năm 1822 tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, Phiên An trấn (Gia-định). Cha là Nguyễn Đình Huy và mẹ là Trương Thị Thiệt.
Nguyên năm 1820, Tả quân Lê Văn Duyệt ( 1 ) vào thị trấn nhậm Tổng Trấn Gia Định thành lần thứ hai, lần này có ông Nguyễn Đình Huy sinh năm 1793 là người xã Thương An, (Trung phần) được bổ làm thơ lại ở Văn hàn Ty. Nguyễn Đình Huy vốn đã có gia đình, có hai con, nhưng khi vào Nam ông không mang gia đình theo. Để có người lo nâng khăn, sửa trấp nên ông đã kiếm thêm thứ-thiếp là Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới (vùng Đô thành Sài Gòn ngày nay). Cuộc hôn nhân này, Nguyễn Đình Huy có thêm bảy người con, Nguyễn Đình Chiểu là con lớn nhất, ông sinh ra ngày 1-7-1822 .
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng bãi chức Tổng trấn, đặt ra chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bổ chánh, An sát, Lãnh-binh như các tỉnh khác, Trấn Phiên an đổi thành tỉnh Gia định, bổ Nguyễn Văn Quế làm Tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm Bố chánh, Nguyễn Đạt Chương làm Án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn là người tham lam, nên lợi dụng chức vụ Bố chánh Gia Định để tham nhũng bằng cách nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, khảo tra bọn tôi tớ của Tả quân. Trong số ấy có Lê Văn Khôi là con nuôi của Tả quân cũng bị bắt. Vì phẩn uất nên Khôi làm loạn cùng với những người thân cận vào đêm 18 tháng năm Quí tị (1833), phá ngục rồi tìm giết Bạch Xuân Nguyên, Tổng đốc Nguyễn Văn Quế rồi chiếm thành Phiên an và lan rộng cả các tỉnh, triều đình phải mất ba năm mới dẹp yên, thuở đó có Ca-dao ghi lại cuộc loạn này :
     Giặc nay là tại giặc Khôi,
Nên dân Gia định không vôi ăn trầu.
*
     Bao giờ bắt được giặc Khôi,
Cho yên việc nước, chồng tôi đặng về.
Những người không theo Lê Văn Khôi phải trốn về kinh, trong số đó có Nguyễn Đình Huy. Về đến kinh đô vì là quan lại, nên được triều đình tha tội tử hình nhưng đều bị bãi chức. Nguyễn Đình Huy lại trốn vào Nam để đem Nguyễn Đình Chiểu về kinh đô, gửi cho một người bạn để được học tập.
Năm 1841, Nguyễn Đình Chiểu về Nam thăm mẹ và đến 1843 dự kỳ thi Hương tại Gia-Định, ông đổ Tú-Tài.
Năm 1847,  ông trở ra Kinh đô Huế để dự kỳ thi Hội, chuyến đi nầy ông có dắt theo Nguyễn Đình Tựu (sinh năm 1837), đến kinh đô chưa kịp dự thi, đến mùa ghe bầu từ Trung vào Nam buôn bán, khi ghe bầu trở ra năm 1849 ông được tin thân mẫu đã mất vào tháng 11 năm Mậu thân (1848) và đã an táng tại làng Tân Triêm (nay thuộc địa phận Cầu kho Sài Gòn). Khi được tin, hai anh em ông theo đường bộ vào Quảng Nam, để quá giang ghe bầu về Nam. Nỗi nhớ thương người mẹ xấu số đang vằn vật tâm hồn, lại thêm trên đường đi có lam sơn, chướng khí nên ông thọ bệnh, phải ở lại Quảng Nam nhờ thầy chữa thuốc, bệnh chữa đã khỏi nhưng mắt ông bị mù và trể mùa ghe bầu năm ấy, nên ông phải ở lại chờ đến năm sau. Trong thời gian này, ông đã học nghề thuốc với ông thầy đã trị bệnh và cho ông tá túc.
Rồi ông cũng về đến Sài gòn năm 1850, chờ cho mãn tang xong, ông mở trường dạy học ở Tân Thuận. Sĩ tử ở nhiều nơi như Mỹ Tho, Gò Công nghe danh tiếng ông, tìm đến thọ giáo.
Cùng muc đích giáo dục ấy, có lẽ trong thời gian này, ông sáng tác truyện Lục Vân Tiên:
Hởi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Truyện Lục Vân Tiên vẫn theo ước lệ cổ điển là truyện phải có hậu, nhân vật chánh bao giờ cũng bị gian nan, tình duyên ngăn cách nhưng cuối cùng vẫn đoàn tụ và vinh hiển. Đồ Chiểu đã tạo dựng nhân vật Lục Vân Tiên có dáng dấp hình ảnh tác giả.
Về cốt truyện, mở đầu giới thiệu chàng nho sĩ Lục Vân Tiên từ tạ thầy đi thi, dọc đường chàng dẹp bọn giặc cỏ Phong Lai, cứu được Kiều Nguyệt Nga, là con gái quan tri huyện Hà khê, sau khi cứu Nguyệt Nga, hai người có làm thơ trao đổi với nhau rồi chia tay, Nguyệt Nga tiến về Hà Khê thăm cha, còn Vân Tiên tiếp tục lên đường, dọc đường chàng lại kết bạn với Hớn Minh cũng trên đường đi dự thi, tiện đường Vân Tiên ghé thăm nhà, cha mẹ chàng lại cho một tiểu đồng đi theo và đưa một bức thư dặn chàng ghé thăm Võ công, Võ công trông thấy diện mạo Vân Tiên ông rất hài lòng, ông cũng muốn thử tài nên mời nho sinh Vương Tử Trực ở gần đó đến nhà, ông để hai chàng có dịp thi thố tài nghệ. Rồi Vân Tiên lại lên đường với Vương Tử Trực, dọc đường lại kết thêm hai người bạn nữa là Trịnh Hâm và Bùi Kiệm. Lúc sắp sửa tới giờ thi thì Vân Tiên được tin mẹ mất, nên quày quả trở về thọ tang. Dọc đường vì khổ cực, vì sầu thương mẹ, nên bị bệnh và mù mắt, tiểu đồng dẫn chàng đi xin ăn, lại gặp Trịnh Hâm ở giữa rừng, Trịnh-Hâm nói dối là đưa Vân Tiên về quê chàng ở Đông Thành, nhưng lại thi hành độc kế là trói tiểu đồng ở trong rừng, rồi xô Vân Tiên xuống sông. May nhờ ngư ông vớt được Vân Tiên rồi đưa chàng về nhà Võ công, nhưng lòng người thay trắng đổi đen, thấy Vân Tiên đui mù nên lại giả đưa chàng về Đông Thành, nhưng thật ra lại bỏ chàng vào hang Thương Tòng:
Nghe rằng : Trong núi Thương-tòng,
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Ở đây Vân Tiên được Du thần cứu ra khỏi hang, có lão tiều đi ngang qua đó gặp chàng, lão tiều cõng Vân-Tiên về nhà, mới ra khỏi rừng tới ngã ba đường thì gặp Hớn-Minh, rồi hai người dắt díu nhau nương tựa cửa chùa.
Còn Nguyệt Nga, nghe tin Vân Tiên mất sinh ra buồn rầu, rồi quan Thái sư nghe đồn Nguyệt Nga đẹp nên cầu hôn cho con, việc cầu hôn không được Kiều công ưng thuận, nên lập mưu xin vua cho đòi nàng cống hồ qua nước Ô Qua, nàng bắt buộc phải tuân lệnh vua, nhưng thuyền đến Đồng Quan thì nàng nhảy xúông biển tự tử, được Phật bà cứu đem vào vườn củi của Bùi ông. Bùi ông nuôi nàng ở trong nhà lại bị Bùi Kiệm trêu ghẹo, nên nàng phải bỏ trốn, may gặp lão bà đem về nuôi.
Vân Tiên nhờ thuốc tiên được sáng mắt, từ giã Hớn Minh về thăm cha, rồi đi thi đậu Trạng Nguyên, vua sai đi dẹp giặc với Hớn Minh, chàng ra trận rong ngựa rượt chém tướng Cốt Đột của nước Ô Qua nhưng lại lạc lối về … chàng lại bất ngờ gặp Nguyệt Nga, rồi chàng về triều tâu vua, ân cũ chàng báo đáp, oán cũ chàng tha thứ hết, nhưng Trịnh Hâm bị chìm thuyền chết ở Hà giang, hai mẹ con Võ Thể Loan bị hổ bắt tha vào hang Thương  Tòng. Vân Tiên gặp lại gã tiểu đồng và xum họp với Kiều Nguyệt Nga.
Trong truyện này, tác giả và nhân vật lẫn lộn nhau nên người ta cho rằng, trước khi Nguyễn Đình Chiểu bị bệnh đau mắt, cha mẹ ông cũng có hứa hôn với cô gái của gia đình nào đó, nhưng sau khi bị mù nhà gái từ hôn :
Rể đâu có rể đui mù thế ni ?
Rồi trong môn đệ của ông có Lê Tăng Quýnh người Cần Giuộc, cám cảnh thân tàn tật cô đơn, nên đã thưa chuyện với cha mẹ, để gã người em gái là Lê Thị Điền cho Nguyễn Đình Chiểu. Không rõ đám cưới xảy ra năm nào, nhưng đến năm 1855 thì ông có con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Hương.
Năm 1859, quân Pháp và Tây Ban Nha đánh lấy thành Sài gòn, nổi kinh hoàng của dân miền Nam trong trận ấy, được ông ghi lại trong bài “Chạy giặc” :
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút xa tay !
Bỏ nhà lũ chó lăng xăng chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây,
Hởi trang dẹp loạn rày đâu vắng ?
Nở để dân đen mắc nạn nầy.
Để lánh nạn binh đao, gia đình ông phải lìa bỏ Sài gòn, chạy về quê vợ ở xã Thanh Ba, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Gia Định (nay là Mỹ Lộc, quận Cần Giuộc). Thời gian lánh cư ở đây, ông đã sáng tác tập Dương Từ Hà Mậu, tập này ông đề cao đạo Nho như đoạn sau đây:
Phút đâu trên chốn Tây lâu,
Nổ ba tiếng sấm nhóm chầu các cung.
Ao xiêm, đai mảo, lạnh lùng,
Tinh quân các vị ròng ròng tới nơi.
Hai người đứng núp coi chơi,
Những người chầu chực nhà trời là ai?
Thấy đi có tam thẻ bài,
Đề rằng :”Khổng Tử đại tài thánh vương”.
Ngồi trong kiệu ngọc tán vàng,
Một ông Khổng Tử dung nhan tốt lành.
Theo sau biết mấy thần linh,
Coi trong thẻ bạc đề danh đại hiền.
Dương Từ coi thẻ khen liền,
Hèn chi vua chúa chính chuyên miễu thờ.
Rồi ngày 12-4-1861 Pháp lấy Mỹ-Tho, tháng chín Biên Hòa và tháng chạp lấy nốt Gò Công, Cần Giuộc, Tân An, một lần nữa Nguyễn Đình Chiểu phải ra đi lánh nạn, ông có sáng tác bài “Từ biệt cố nhân”.
Vì câu danh nghĩa phải ra đi,
Day mũi thuyền Nam dạ xót xa.
Người dễ muốn chi nương đất khách,
Trời đã khiến vậy mến vua ta.
Một phương thà tránh đường gai góc,
Trăm tuổi cho tròn phận tóc da.
Chén rượu đỏ lòng xin cạn chén,
Nhớ nhau : ngày khác …biết sao mà !
Cuộc lánh cư lần này, chắc chắn là sau hòa ước năm Nhâm tuất (1862) và Nguyễn Đình Chiểu về quê hương của cụ Phan Thanh Giản tức là ở Bến Tre, nhưng ông ngụ tại làng An Đức quận Ba Tri.. Ở nơi đây nghĩ đến cảnh đất nước bị phân chia cho ngọai bang, ông đã làm bài “Xúc cảnh”:
Cây cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi có hay không ?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn ,
Ngày xế non Nam bặt bóng hồng.
Bờ cõi xưa còn chia đất khác,
Nắng sương nay dễ đội trời chung.
Bao giờ thánh đế ơn soi thấu,
Một nhánh mưa nhuần rửa núi sông.
Ở đây Nguyễn Đình Chiểu là một thầy thuốc danh tiếng, và đã sáng tác Ngư tiều y thuật vấn đáp, ông mang sẵn một tâm niệm tốt đẹp, đã ký thác trong tác phẩm mình :
Từ đây sóng gió ra thuyền,
Khỏi nơi lặn lội, lên miền sạch thơm.
Đặng theo sâm quế mùi thơm.
Dầu cho bữa cháo, bữa cơm cũng đành.
Nguyện làm một kẻ y sanh,
Lấy câu âm đức đổi danh lão chài.
Vì tật nguyền ông không thể đứng lên theo nghĩa quân, dù vậy ông đã làm nhiều bài thơ, văn-tế để khóc các nhà ái quốc như Trương Định ( 2 ), Phan Thanh Giản ( 3 ), Phan Công Tòng ( 4 ), để thấy rõ ông là một nhà ái quốc, đóng góp tích cực trong việc chống Pháp, bằng cách dùng lời lẽ văn thơ của mình kích động lòng dân. Văn thơ của ông có tác động mạnh mẽ chẳng những được truyền tụng trong Nam, mà cả bộ Lễ ở triều đình Huế cũng phổ biến. Ngày nay, đọc lại văn tế của ông, chúng ta thấy rõ lời văn trầm hùng, giọng văn ai oán và ý văn chân thành.
Năm 1864, Gabriel Aubaret đã đem truyện Lục Vân Tiên dịch ra Pháp văn đăng vào tờ Journal Asiatique-Paris và đến năm 1867 chính là năm Pháp lấy trọn sáu tỉnh miền Nam. Ông G.Jannean đã cho xuất bản tại Sài gòn quyển truyện Lục Vân Tiên, đây là bản chữ quốc ngữ đầu tiên. Chắc người Pháp biết ông là nhà thơ ái quốc, thường dùng văn thơ để tác động tinh thần kháng chiến của nghĩa quân, nên họ định tâm mua chuộc ông, và họ cũng dùng chiêu bài mỵ dân là chiêu hiền đãi sĩ, nên vào năm 1884, chủ tỉnh Bến Tre (Tỉnh trưởng) là Michel Ponchon, lấy cớ đến gặp ông để “ tưởng lệ văn sĩ” và xin nhuận chính cho quyển Lục Vân Tiên, đã xuất bản bằng quốc ngữ đã nói ở trên, và sau đó còn đến gặp ông ba lần nữa, có ngỏ ý muốn giúp đỡ ông bằng cách cấp dưỡng, hay lo vụ đất đai ở Sài gòn trả lại cho ông, nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã từ chối, việc từ chối này chứng tỏ ông đã theo đúng tôn chỉ do mình vạch ra từ trước:
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
(Lục Vân Tiên)
Vừa dạy học, vừa làm thuốc trị bệnh cho dân chúng, vừa luôn luôn để tâm theo dõi thời cuộc nước nhà. Năm 1884, triều đình ký hòa ước Patenôtre, rồi vua Hàm Nghi lên ngôi, năm sau ngài rời bỏ cung điện, truyền hịch Cần Vương chống Pháp, sau bị tên quan Trương Quang Ngọc bắt nộp cho Pháp, Nguyễn Đình Chiểu hết sức đau lòng cho vận nước, rồi vì trong người có sẵn bệnh nên suy yếu đi, và ông đã trút hơi thở cuối cùng ở tại làng An Đức quận Ba Tri ngày 3-7-1888 thọ 66 tuổi.
Văn nghiệp ông còn để lại :
Về truyện : - Lục Vân Tiên.
                   - Dương Từ Hà Mậu.
                   - Ngư tiều vấn đáp.
                   - Ngũ kinh gia huấn ca.
Văn biền ngẫu:     - Văn tế nghĩa sĩ  Cần giuộc (Hồn dân mộ nghĩa)
                           - Nghĩa sĩ trận vong trong sáu tỉnh.
                           - Văn tế Phó Quản Cơ Trương Định.
                           - Thảo thử hịch.
Và một số thơ nôm: - Điếu Phan Thanh Giản
                                 - Điếu Phan Công Tòng.
                                 - Điếu Trương Định.
                                 - Chạy giặc.
                                 - Xúc cảnh.
                                 - Từ biệt cố nhân.
                                 - Tự-thuật.
                                 - Ngựa tiêu sương.
                                 - Con dê.
                                 - Trời bão.
                                - Nước lụt.
Cuộc đời ông đã để lại cho chúng ta một tấm gương sáng chói, về lòng yêu nước mang nặng trong tấm thân tật nguyền, ông là một thi sĩ ái quốc và có khuynh hướng đạo lý, về điểm này ông đã hăng say truyền bá đạo lý thánh hiền, làm cho nó ăn sâu vào tâm hồn người bình dân, cũng như muốn dùng nó làm một thứ lợi khí sắc bén, để chống đỡ với thứ văn hóa Âu Tây, đang manh nha xâm nhập vào đời sống người miền Nam, tác phẩm của ông cũng chữa được phần nào, về căn bệnh tâm lý của con người trong thời kỳ loạn ly, nó giúp cho người ta quân bình được đời sống tâm lý trong những cơn sợ hãi, lo âu và cũng để an ủi những người chọn con đường đạo lý Khổng Mạnh làm lý tưởng cho cuộc sống của mình. Là một vị thầy thuốc, vừa là để có phương tiện sống cho chính bản thân mình nhưng cũng vừa ra tay tế độ người, với xã hội ông là một người đáng được ca ngợi, bởi vì là một kẻ tàn tật, chẳng những không ăn bám vào xã hội, trái lại còn đóng góp cho xã hội những điều rất hữu ích trong buổi đương thời, chẳng những thế, văn nghiệp của ông còn đóng góp phong phú thêm cho Văn học Việt Nam. Riêng tác phẩm Lục Vân Tiên, là một đóa hoa nở rực rở vào cuối mùa Văn học Nôm ở miền Nam.
TRÍCH VĂN:            
TỰ THUẬT
Xe ngựa lao xao giữa cõi trần,
Biết ai thiên tử, biết ai thần ?
Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng, ( 5 )
Sách lỗ biên rồi khó thấy lân. ( 6 )
Khỏe mắt Hi Di trời Ngũ quí, ( 7 )
Mõi lòng Gia-Cát đất tam phân.
Công danh chi nữa ăn rồi ngủ,
 Mặc lượng cao dày xử với dân.
NGỰA TIÊU SƯƠNG ( 8 )
Tiếng đồn ngàn dặm ngựa Tiêu sương,
Lầm đứa gian mưu nghĩ khá thương.
Giậm vó chẳng màn ăn cỏ Tống,
Quày đầu lại hí nhớ tàu Lương.
Chẳng cho chủ khác ngồi lưng cổ,
Thà chịu vua ta nắm khớp cương.
Ngựa nghĩa còn cưu nhà nước cũ,
Làm người bao nỡ phụ quê hương.
LÀM THUỐC
Trời đông sùi sụt gió mưa tây,
Đau ốm lòng dân cậy có thầy.
Phương cũ vua tôi ( 9 ) gìn trước mắt,
Mạng này già trẻ gởi trong tay.
Trận đồ tám quẻ ( 10 ) còn ra dấu,
Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.
Hởi bạn y lâm! Ai muốn hỏi,
Đò xưa bến cũ có ta đây.
ĐẠO NGƯỜI
Đạo trời nào phải ở đâu xa, ( 11 )
Gội tấm lòng người có giải ra.
Mến nghĩa bao đành làm phản nước,
Có nhân nào nở phụ tình nhà.
Xưa nay đều chọn đường trung nghĩa,
Sách vở còn ghi lẽ chánh tà.
Năm phẩm rừng nhu săn sóc lấy, ( 12 )
Ấy là đạo vị ở lòng ta.
(Dương Hà Từ Mậu)
HOÀI CỖ
Từ thuở Đông Châu ( 13 ) xuống đến nay,
Đạo trời rậm rạp mấy ai hay.
Hạ, Thương ( 14 ) đường cũ gai bò lấp,
Văn, Võ ( 15 ) nền xưa lúa trổ đầy,
Năm bá ( 16 ) mượn vay nhân nghĩa mọn,
Bảy hùng ( 17 )  giành xé lợi danh bay.
Kinh luân ( 18 ) mong dẹp tối con loạn,
Sử Mã ( 19 ) khôn ngăn mọi rợ bầy.
Giùi mõ Mặc Dương ( 20 ) khua rộn rực,
Tiếng chuông Phật, Lão gióng vang vầy.
Lửa Tần ( 21 ) tro Hạng ( 22 ) vừa nguôi dấu,
Am Hán, chùa Lương ( 23 ) nổi tiếng ngầy.
Trong đám cửu lưu ( 24 ) đều nói tổ,
Bên đường tam giáo cũng xưng thầy.
Khe đào động lý nhiều đường trốn,
Rừng trúc ( 25 ) đến mai lắm bạn say.
Pháp báu Thi, Thư sâu mọt nát,
Màu xuê Lễ, Nhạc bụi tro dày.
Mấy dòng bến cũ chia nguồn nước,
Trăm đám rừng hoang bít cội cây.
Hơi chánh ngàn năm về cụm núi,
Thói tà bốn biển động vừng mây.
Đất trời ngày khác an ngôi cũ,
Mừng thấy non sông bặt gió tây.
DẸP NGHỀ CHÀI LƯỚI
Đã nên chài lưới dẹp nghề,
Khỏi lo tôm cá chở về chợ tan.
Đã cho bầy thủy tộc an,
Long Vương nào giận quăng bàn thầy Viên.
Từ đây  sóng gió ra thuyền,
Khỏi nơi lặn lội lên miền sạch thơm.
Đặng theo sâm quế mùi thơm,
Dầu cho bửa cháu bửa cơm cũng đành.
Nguyện làm một kẻ y  sanh,
Lấy câu âm đức đổi danh lão chài.
(Ngư Tiều vấn đáp)
NƯỚC LỤT
Mưa từ chặn, gió từ hồi,
Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi.
Lũ kiến bạt tài đòi chỗ khắp,
Củi rều vô dụng kết bè trôi.
Lao xao cụm luộc ( 26 ) nghe chim óng,
Lổm xổm giường cao thấy chỗ ngồi.
Nở để dân đen trên gác yếu,
Nào vua Hạ Võ ở đâu ôi  !
ĐIẾU PHAN CÔNG TÒNG ( 27 )
(Thập thủ liên hoàn)
II
Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây,
Một giấc sa trường phận rủi may.
Viên đạn nghịch thần treo trước mắt,
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.
Đầu tang ba tháng trời riêng đội,
Lòng giận ngàn thu đất nổi dày.
Tiết mới một lòng ra đất trụm,
Cái xên con rã nghĩ thương thay !
ĐIẾU TRƯƠNG-ĐỊNH
IX
Tướng quân đâu hỡi có hay chăng ?
Sáu tỉnh cơ đồ, nữa đã ngăn.
Cám nổi kiến ong ra sức dẹp,
Quản bao sâu mọt chịu lời nhăng.
Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp,
Cỏ úa hoa tàn mả Lý Lăng. ( 28 )
Thôi vậy thời vầy, thôi cũng vậy,
Anh hùng đến thế dễ ai dằn ?
ĐIẾU SĨ DÂN LỤC TỈNH
Hỡi ôi !
Tủi phận biên manh, Căm loài gian tặc.
Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui. Trong một phương sao mặc chữ lục trầm ( 29 ), người vì nước rũ nhau chết ngặc.
Nhớ linh xưa :
Tiếng đồn trung nghĩa đến xa - Thói dữ cang thường ( 30 ) làm chắc.
Từ thuở Tây qua cướp đất, xưng tân-trào gây nợ oán cừu - Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.
Các bậc sĩ, nông, công, cổ liền mang tay với súng song tâm ( 31 ) – Mấy nơi tổng, lý, xã, thôn đều mắc hại cùng cờ tam sắc ( 32 ).
Bọn tam giáo ( 33 ) quen theo đường cũ, riêng thân bất hạnh lâm nghèo – Bầy cữu lưu ( 34 ) cứ giữ nghề xưa, thầm tủi vô cô ( 35 ) chịu cực.
Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quảy treo – Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.
Kể mười mấy năm trời khốn khó, bị khảo bị tù bị đày bị giết, trẻ già nào xiết đến tên – Đem ba tấc lưỡi mỏn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.
Khá thương thay :
Dân sa nước lửa bấy chầy – Giặc ép mở dầu hết sức.
Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam – Cực cho người vợ yếu con cô, gây đoạn thảm sầu không đứt.
Man mát trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời – Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm thân cho đất.
Nghĩ nổi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu ( 36 ) nào thấy kẻ khóc than – Tưởng câu danh lợi luân đời, trường quỉ lũ mặc dầu ai náo nức.
Thời :
Lòng nghĩa dân thảo với ngô quân – Tiếng nghịch đảng lổi cùng địch vức. ( 37 )
Gần Côn Nôn, xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn – Hàng Cai đội, bậc Quản cơ, xương thịt rã rời ai cất.
Sống thì chịu tuyết sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ –Thác rồi theo mưa ngút bể muôn trùng, khôn mượn thư nhàn ( 38 ) đem tin tức.
Thấp thoáng hồn ma bóng quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu – Bơ vơ nước quỉ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.
Như vậy thì :
Số dẫu theo sáu nẻo luân hồi, - Khí sao để trăm năm uất ức.
Trời Gia Định ngày chiều rạng sáng, âm hồn theo con bóng ác dật dờ – Đất Biên Hòa đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.
An Hà quận đang khi bạch trú ( 39 ), gió cây vụt thổi, cát xoáy  bay, con trốt dậy bên thành –Long Tường giang mỗi lúc huỳnh hôn, khói nước xông mù, lửa đóm nháng binh ma chèo dưới vực.
Ôi !
Nhìn mấy chặn cờ lau trống sấm, nữa mai trần nghĩa gỡi binh tình - Thảm đòi ngằn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiếu lật.
Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao, lầu thần, đành một câu thân thế phù cầm - Kẽ du hồn ở cỡi sơn lâm, lũy kiến, đồn ông, còn bốn chữ âm dung phảng  phất.
Trời đất ôi!
Sống muốn cho an- Thác sao rằng bức.
Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn - Chưa kịp  nghe tiếng trống an nhượng, nghĩa quân phụ nào dè thoạt mất.
Hoặc là sợ như đất triêu Tần, mộ Sở, cuộc can qua sống cũng ghê mình – Hoặc là e cho trời Nam Tống, Bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.
Tiếc non nước ấy, nhân dân dường ấy, gây sự nầy nào thấy phép tẩy oan – Biết cha mẹ đâu, tộc lọai đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu truất.
Tuy uổng mạng, hãy chờ khi sách mệnh, sẳn vòng quả báo vấn vương –Song oan hồn chửa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài ( 40 ) bực tức.
Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan – So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.
Đến nay :
Cám cảnh Nam trung – Trách lòng tạo vật.
Ví như Vĩ Sinh đời Đông Hán, nay đánh Hồ, mai dẹp Yết, thì phơi gan trong đám tinh chuyên – Nào phải dân cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối đầu Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức ( 41 ).
Phải Trời cho mượn cán huyền phá Lỗ, Trương tướng quân ( 42 ) còn cuộc nghĩa binh –  Ít người xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ ( 43 ) hết lòng mưu quốc.
Muôn dặm giang sơn triều thánh đó, giang sơn còn hơi thánh hãy còn – Nghìn năm hồn phách nạn dân nầy, Hồn phách mất tiếng dân nào mất.
Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt ( 44 ), cơn trị bình mới thấy đạo vương – Muốn cho phép với linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.
Ôi!
Trời xuống màn quỷ trắng ( 45 ) mấy năm – Người uống giận suối vàng lắm bực.
Kiểng Nam thổ phơi màu hoa thảo, động tình oan nữa úa nữa tươi – Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.
Ngày gió thổi lao xao tin dã mã, thoạt nhóm, thoạt tan, thoạt lui, thoạt tới, như tuồng bán dạng linh-tinh – Đêm trăng lờ déo dắt tiếng đề quyên, dường hờn, dường mếu, dường khóc, dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.
Xưa nghe có bến sông Vị Thủy, lấy lẻ nhơn đầu tế đảng hồn oan, - Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phủ độ bầy quỷ ức.
Đốt lọn nhang trần trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãng vong – Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.
THẢO THỬ HỊCH
Tượng mảng:
Lẽ trời sanh vật –Vật ấy nhiều loài.
Lấy câu thuận tánh làm lành –Thấy chữ nghịch thường mà ngán.
Nhỏ là loài ong kiến còn biết nghĩa  quân thần – Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.
Kìa như nha báo tai, thước báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin – Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.
Lò tạo hóa nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà – Thợ hóa công đúc nắn nhiều loài, loài nào giám xoi hao mạch nước ?
Nay có con chuột:
Lông mọc xồm xàm, - Tục kêu xù, lắt.
Tánh hay ăn vặt – Lòng chẳng kiêng dè.
Chổ ở ăn hang ổ nhiều bề - Đường qua lại đào ra hai ngách.
Nghe hơi động vội vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo - Chờ đêm khuya sẽ lén lút nhau, liến  hơn cha khỉ.
Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em giồng họ nhiều tên – Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.
Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu - Vắn dài râu mọc hai chia, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc .
Vả sáu mươi giáp hoa  đứng trước, lẻ thì thiện tính linh tâm – Thì mười hai chi tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.
Cớ sao lại đem lòng quỉ quái? – Cớ sao còn làm thói gian tham.
Túi Đông Pha từng bửa tha gừng – Ruộng Đông Quách ghe phen cắn lúa.
Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang – Nệm mềm của chúng che thân, cắn nát hết rồi lại tha vào lỗ.
Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chiu đòn oan - Hoặc leo dây ngóng cổ gặm dò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.
Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ - Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.
Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu - Lại quen thói lần mò bên vách.
Sách Lổ sử biên câu “thực giác”, vì miệng ai cho nên vua lỗi đạo thờ trời - Thơ Quốc phong để chữ “thực miêu” vì miệng ai nên dân xa làng bỏ đất?
Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau. Nhiều chỗ than vách ngã thềm xiêu, vì miệng ai cho nên cha con dứt bẩn ?
Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mà đào lỗ đào hang? - Chốn miếu đường là chỗ thanh tân, cớ chi ngươi cắn màn cắn sáo ?
Kẻ trinh nữ ghét thằng cường bạo, cũng còn mang tiếng “thử dâm” – Án Long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu “thư thủ”.
Gối ngỏa chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỉ quái chẳng chừa - Gậy phi long Linh kiết đả tưng bừng, sao hãy ỵêu tinh không gớm?
Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay Thuần Hậu thiệt tướng gian - Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết Hư Nhựt là sao dữ.
Sâu hiếm bấy tấm lòng nghiệt thử, cục cức ra cũng nhọn hai đầu - Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không dầy ba tấc.
Tuy là tướng hữu bì hữu chất - Thật là loài vô lễ vô nghì.
Luận tội kia đã đáng phân thi - Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.
Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương - Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.
Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào Ô Thước phanh phui - Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Huỳnh Hà ráo cạn.
Ví có ngàn dòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm. - Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.
Tột dường ấy đã nên ác quá - Ta tới đây há để nhiêu dung.
Ấn tiên phuông nấy gã rắn rồng - Phi hậu tập sai chim bò cắc.
Sắm sữa binh sương giáp sắt – Trao giồi ngựa gió xe trăng.
Giống trống sấm xuất binh - Phất cờ lau lập trận.
Đuốc Điền Đơn sắm sẳn, để phòng khi un đốt ngách u vi - Đèn Lý Bạch đái tùy, đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.
Hàng hàng bố liệt thương đau - Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột !
Phải nghe ta dặn - Sắm sửa đủ đồ.
Cuốc xuổng đào hang - Phảng mai chặn ngách.
 Trả, trách, nồi, niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm – Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khấu.
Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành – Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.
Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình – Thiên hạ cũng vui câu án đổ./.

Ghi chú:
1. Khi chúa Nguyễn đánh với Tây Sơn, chia quân ra cho những Tướng sau đây điều khiển: Tiền quân Nguyễn Văn Thành, Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức, Tả quân Lê Văn Duyệt, Hậu quân Võ Tánh.
2. Trương Định: Làm Quản cơ nên cũng còn gọi là Quản Định, sau khi Sàigòn thất thủ và các tỉnh miền Đông lọt vào tay liên quân Pháp-Tây Ban Nha, Trương Định chiêu tập binh sĩ kháng chiến với Pháp, có mời Nguyễn Đình Chiểu vào bộ Tham Mưu, Nguyễn Đình Chiểu từ chối vì tật nguyền. Sau Trương Định bị Huỳnh Công Tấn bắn chết ngày 20-8-1864 tại Kiểng Phước (Gò Công).
3. Phan Thanh Giản: Xem bài thơ “Điếu Phan Thanh Giản” trong phần Phan Thanh Giản.
4. Phan Công Tòng: người làng Bình Đông, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tử trận ngày 17/11/1967 ở Giồng Gạch, cách chợ Ba Tri chừng hai cây số ngàn.
5. Đời Ngu Thuấn thiên hạ thái bình, có phụng gái trên núi, nhân đó chế ra nhạc Thiều.
6. Khổng tử làm Kinh Xuân thu, năm 481 TTL, nghe có người bắn què chân con lân liền than “Ngô đạo cùng hỷ” rồi ngưng lại không chép nữa.
7. Hy Di tức Trần Đoàn, tự Đồ Nam, người đời Tống, gặp thời ngũ quí hay là ngũ đại (Hậu Lương, Đường, Tần, Hán, Chu) là thời loạn lạc, bèn ngủ vùi ở Hoa Sơn.
8. Ngựa tiêu sương : Ngựa quý của vua Lương, bị vua Tống sai người bắt lén, nó nhớ chủ cũ mà bỏ ăn đến chết. Bài này có ý trách Tôn Thọ Tường đã ra làm quan với Pháp.
9. Phép thuốc có vị cho làm quân (vua) có vị cho làm thần (tôi).
10. Y lý cũng dựa vào kinh dịch, trị bệnh cũng dựa theo đó.
11. Sách trung dung có câu: “Đạo bất viễn nhân”, nghĩa là đạo không xa người.
12. Chỉ cho ngũ kinh : Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân thu.
13. Đông chu :Nhà Chu trước đóng đô ở Cảo kinh từ (1134 – 770 TTL) người sau gọi thời kỳ này là Tây chu. Đến Chu Bình vương thấy kinh đô hay bị rợ Khuyển nhung xâm lấn, nên dời đô sang Lạc dương (thuộc tỉnh Hà Nam), từ đây trở về sau được gọi là Đông chu. (770 – 247 TTL)
14. Hạ, Thượng : Nhà Hạ (2205 – 1784 TTL), nhà Thương (1783 – 1135).
15. Văn, Võ: Văn vương là chư hầu của nhà Ân (Thương) là bậc hiền minh, thánh đức nên được các chư hầu khác quy phục, sau bị vua Trụ bắt giam ở Dũ Lý, rồi được tha và phong làm Tây bá. Đến đời con là Vũ Vương họp các chư hầu lại, diệt nhà Ân mà lập nên nhà Chu.
16.  Năm bá: Hay Ngũ bá vào thời Đông chu, gồm có: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công và Tần Mục Công.
17 Bảy hùng: Chỉ cho bảy nước thời Chiến Quốc (403-221 TTL), gồm có: Tần (gồm khu vực Tân Châu, Cam Túc và Thiểm Tây ngày nay), Hàn (huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Ty), Triệu (gồm Nm bộ tỉnh Trực Lệ và Tây Bắc bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay), Yên (gồm khu vực Phụng Thiên, Trực Lệ và Bắc bộ Đại Hàn ngày nay), Sở ( gồm Nam bộ tỉnh Hà Nam, Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang, Giang Tô), Tề (tên nước Chu Vũ vương phong cho Thái Công Vọng gồm một phần tỉnh Sơn Đông và Hồ Bắc ngày nay).
18. Kinh Lân: Khổng Tử chép kinh Xuân Thu từ Lỗ Ân Công (721 TTL) đến năm thứ 15 đời Lỗ Ai Công (481 TTL) , nghe có người bắn què chân con lân, bèn than: “Ngô đạo cùng hỷ”, rồi ngưng không chép nữa.
19. Sử Mã: Bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145-86 TTL) viết khi làm quan Thái sử nhà Hán.
20. Mặc, Dương: Mặc tức Mặc Địch tác giả sách Mặc Tử hiện truyền có 71 chương, ông sống khoảng 480-400 TTL. Theo thuyết của ông cho rằng thiên hạ nhiễu loạn vì người ta không biết thương yêu nhau, nên chủ trương Kiêm Ái. Dương tức Dương Chu, một triết gia Trung Quốc tiểu sử chưa được sang rõ, có người cho rằng sớm ông có thể gặp Lão Đam, muộn có thể thấy Lương Vương. Đại khái niên đại của ông vào khoảng 400 TTL hay 350 TTL. Theo Mạnh Tử cho rằng vào thời bấy giờ, học phái của Dương Chu  cùng với Nho, Mặc về mặt triết học chia 3 Trung Quốc, Dương Chu đưa ra thuyết Vô Danh và chủ nghĩa Vị Ngã.
21. Lửa Tần: Năm 221 nước Tề bị diệt vong, sau năm nước kia bị Tần gồm thâu, thống nhất Trung Hoa, rồi đốt sách và chôn sống học trò, gọi là “Thi thư, phần khanh”.
22. Tro Hạng: Hạng Võ vào đất Quang Trung, kinh đô nhà Tần liền đốt cung A Phòng, do Tần Thủy Hoàng xây trên song Vị, Tần Thủy Hoàng bắt dân làm đường qua núi cho đến cung A Phòng, trang trí nhiều báu vật, rất tốn kém.
23. Chùa Lương: Tức Lương Võ Đế là ông vua tin Phật đạo đứng hang thứ nhất trong lịch đại hoàng đế Trung Quốc. Lương Võ Đế lên ngôi năm 502 và mất năm 549 sau 48 năm trị vì. Ông cho xây chùa Đồng Thái, Đại Ái Kính, Đại Trí Độ … Riêng chùa Đại Ái Kính ghi trong “Lạc Dương Già Lam ký” là vĩ đại hơn cả, gồm có 36 viện, hơn một ngàn tăng chúng tu trì và học đạo.
24. Cửu lưu: Gồm có Lục gia (Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia và Âm Dương gia) cộng them Tạp gia, Tung Hoành gia, Nông gia. Chín phái ấy gọi là Cửu lưu. Nếu them Tiểu Thuyết gia thì thành Thập gia.
25. Rừng trúc: Đời Tấn, các nhà học Đạo gồm có: Sơn Đào, Nguyên Tịch, Kê Khang, Hớng Tú, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Vương Nhung thườg họp nhau trong rừng trúc để uống rượu, mặc sức say sưa, người đời gọi họ là “Trúc lâm thất hiền”.
26. Luộc: Biến âm của chữ lục là màu xanh
27. Phan Công Tòng: Xem ghi chú 4
28. Lý Lăng: Tướng đời Hán Võ Đế, năm 99 TTL đánh Hung nô, kiệt lực phải qui hàng.
29. Lục Trầm: Chìm đắm trên cạn.
30. Cang thường: Theo Nho giáo đó là ba giềng mối trong đạo làm người: một là vua tôi, hai là cha con, ba là vợ chồng, còn ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
31. Súng song tâm: Súng có hai lòng để nạp mỗi lần hai viên và bắn được hai phát.
32. Cờ tam sắc: Cũng gọi là cờ tam tài đó là cờ Pháp có ba màu: xanh, trắng, đỏ.
33. Tam giáo: Ba tôn giáo là Nho, Lão, Phật.
34. Cửu lưu: Chín học phái đời Chiến quốc đã ghi ở chú 24, là: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia và Nông gia.
35. Vô cô : Tức là vô cố, không có gì.
36. Bãi khô lâu: Đầu lâu khô, chỗ chiến trường đã lâu ngày.
37. Địch vức: nước địch
38. Thư nhàn: Thư do chim nhạn mang đi
39. Bạch trú: Ban ngày
40. Linh đài: Đài thiêng, tâm linh.
41. Kinh cức: Chông gai, ý chỉ việc binh đao.
42. Trương Tướng Quân: Trương Định, xem ghi chú 2
43. Phan học sĩ: Phan Thanh Giản
44. Khô cốt: Xương khô
45. Quỷ trắng: Chỉ cho người Âu Châu, dân da trắng xưa kia được gọi là Bạch quỉ

V-TÔN THỌ TƯỜNG (1825-1877)
Tôn Thọ Tường sinh năm 1825, tại huyện Bình Dương, trấn Phiên An (Gia Định) là con của Tôn Thọ Đức, ông này đậu Cử nhân năm 1821 làm quan đến chức Tuần phủ Thuận Khánh, mất tại chức năm 1840. Là cháu nội của Tôn Thọ Vinh, là quan võ đến chức Hậu dinh Phó Đô Thống chế, có theo chúa Nguyễn Ánh sang Vọng Các năm 1784, nên năm 1810, vua Gia Long cho thờ trong Trung hưng công thần miếu.
Lúc nhỏ, Tôn Thọ Tường có ra Huế theo học với ông Nguyễn Hữu Quang. Năm 1842, Tôn Thọ Tường phải về Nam thọ tang cha, sau khi mãn tang năm 1843, ông kết duyên cùng bà Trần Thị Lê ở chợ Lách quận Vũng Liêm, Vĩnh Long.
Sau khi an bề gia thất, Tôn Thọ Tường ra Huế xin tập ấm, triều đình xét thấy ông là cháu công thần thuộc phái võ quan, nên ban cho ông Võ hàm Án kỵ úy, ông không được hài lòng vì sở trường của ông là văn chương, nên ông xin cải hàm văn, nhưng triều đình không thuận, nên ông bỏ về Gia Định.
Năm 1855, ông dự thi Hương tại Gia Định nhưng bị hỏng, tới 30 tuổi sự nghiệp lận đận, nhưng ông cũng tin tưởng nơi tài năng của mình, nên có làm bài “Hỏng thi cảm tác”:
                     Bắc thang lên hỏi số Nam-tào,
Cái số như tôi số thế nào ?
Mà nợ mà nần mà lắm thế !
Tại căn tại kiếp tại làm sao ?
Mong vin nhành quế tay còn thấp,
Rắp bước thang mây gót chữa cao.
Thấp thấp, cao cao rồi cũng bước,
Mới ba mươi tuổi có là bao !
Qua bài thơ trên, chúng ta cũng thấy là Tôn Thọ Tường ngòai việc lận đận về công danh, ông cũng còn theo đòi thú phong lưu nên vướng phải nợ nần, nên ông có hai câu đối làm phỏng theo Nguyễn Công Trứ ( 1 ) :
Chị em ơi! Đã ba mươi bốn tuổi rồi, mấy năm Bến Nghé, Sàigòn, hết sức rạng danh công tử xác ;
Trời đất hỡi! Ngàn dặm năm dinh Phố lỡ, quyết một phen này nữa, làm cho rõ mặt trượng phu kềnh.
Nhưng đến khoa thi Hương năm 1858, ông không đi thi cho ông, trái lại đi thi mướn cho một người khác. Việc gian lận bị phát giác, nên bị bắt giải về kinh, để triều-đình định tội. Trên đường bị áp giải về kinh, nỗi xót xa thân phận là nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài “Lai kinh thọ tội”:
Trải bảy mươi hai trạm tới kinh,
Bao nhiêu non nước bấy nhiêu tình.
Vì nhà túng rối nên quyền biến,
Phép nước răn he há dám khinh.
Gió bụi, đất từng quen với mặt,
Nắng mưa trời có thấu cho mình.
Chín trùng cao vọi dầu soi xét,
Ơn xuống may khi gặp phước linh.
May thay cho ông, vua Tự Đức là một ông vua chuộng văn chương, bài thơ trên thấu tai vua, nên vua mến tài và cảm thông cảnh ngộ của ông mà không khép tội, còn dạy chu cấp tiền cho ông trở về Nam.
Trở về Nam, ông lấy văn chương làm phương tiện tiêu khiển, chiêu tập văn nhân, chọn chùa Cây Mai làm trụ sở và lấy tên nhóm là Bạch Mai Thi Xã. Sau khi Pháp chiếm Sài gòn có làm đồn binh ở đây (nên ngày nay vẫn còn gọi là Đồn Cây Mai ở đường Lục Tỉnh Chợ Lớn), từ đó nhóm Bạch Mai Thi Xã tan rã,  Tôn Thọ Tường có làm bài “Vịnh chùa Cây Mai”:
Đau đớn cho Mai cách dưới bèo,
Mười phần trong sạch phận cheo leo.
Sương in tuyết đóng nhành thưa thớt,
Xuân đến thu về Sải quạnh hiu !
Lặng lẽ chuông quen con bóng xế,
Tò le kèn lạ mặt trời chiều.
Những tay rượu thánh thi thần cũ,
Trông cảnh bao nhiêu, tiếc bấy nhiêu.
Năm 1861, Pháp lấy trọn ba tỉnh miền Đông, đến khi ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862), ông ra làm quan với Pháp, được người Pháp ban cho chức Tri phủ ở quận Tân Bình (tháng 7-1862)
Năm 1863, nhà cầm quyền Pháp ở Sài gòn cho 9 nhân viên theo Phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp, gồm có Pétrus Ký, Nguyễn Văn Sang, Tôn Thọ Tường, Phan Quang Hiếu, Trần Văn Luông, Simon Của và 3 người giúp việc. Trong sứ trình, ông có họa thơ cùng Phan Thanh Giản và khi tới Aden thuộc xứ Yemen, ông có gửi thơ về cho vợ làm theo thể lục bát. Sau khi ở Pháp về, ông vẫn ngồi quận Tân Bình và có diễn quốc âm tập Như Tây sứ trình nhật ký của Phan Thanh Giản ra Tây phù nhật ký.
Năm 1871, ông được thăng Đốc phủ sứ, năm này lại được bổ vào trường Hậu bổ dạy chữ Hán, sau đó ông được bổ đi ngồi quận Vũng Liêm, nơi đây có kháng chiến, nên ông có làm “Lời truyền thị”, căn cứ vào bài này, nhiều người đã phê phán thái độ chính trị của ông.
Năm 1873, ông được đổi về Sài gòn làm ở phòng Tư pháp bổn xứ. Cũng trong năm này, ông được cử sang Trung quốc trong phái đoàn của Philastre, ông được xuống tàu đi trước sang Quảng Châu, sau Philastre bãi bỏ chuyến đi ông lại trở về.
Năm 1876, ông được bổ theo Kergaradec ra Bắc quan sát miền Thượng du, trong chuyến đi nầy, ông bị bệnh sốt rét nên phải vào nằm trong Quân y viện Hà Nội, rồi mất ngày 5-5-1877. Năm sau, linh cửu ông mới được rước về an táng tại làng Phú Nhuận, Tổng Bình Trị thượng tỉnh Gia Định.
Việc ra làm quan với Pháp, ông đã bị các quan cũ xa lánh, ông bị những lời gièm pha khinh miệt, dù là những lời lẽ rất văn chương, vì thế ông lại mượn văn chương để ký thác tâm sự mình gửi đến người tri âm, trong số những người khoa bảng cũ có hàng tao nhân mặc khách là Cử Trị, luôn luôn họa lại thơ của ông, để bài xích thái độ chánh trị và cá nhân ông. Có thể cho đó là cuộc bút chiến theo danh từ ngày nay. Chẳng hạn như bài :
TÔN PHU NHƠN QUY THỤC ( 2 )
(Nguyên xướng)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.
Lìa Ngô luống chạnh chòm râu bạc,
Về Hớn trao tria mảnh má hồng.
Son phấn thà đem vầy gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông ?
Ai về nhắn với Châu công Cẩn,
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
Được Phan Văn Trị họa :
Cài trăm sửa trấp vẹn câu tòng,
Mặt giả trời chiều biệt cỏi Đông.
Ngút tỏa vần Ngô in sắc bóng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cang thường nặng núi sông.
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết ?
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
Tôn Thọ Tường khéo mượn tình cảnh đáng thương của người con gái, có chồng phải theo chồng cho trọn đạo làm người. Cử Trị cũng nương vào đó để mắng khéo là trai phải thờ một chúa, và gái thờ một chồng, nhưng mĩa mai hơn là Tôn chẳng thờ một chúa mà ông chỉ là phận má hồng! Chỉ có son phấn, còn núi sông kia thì mặc cho kẻ khác, vì thế mà Tôn Thọ Tường còn có bài “Từ Thứ quy Tào”. Đặc biệt người ta hay dùng vận của bài này làm thơ, nên nó có tên là Vận Từ Thứ : Voi, mòi, còi, roi, thoi.
Thảo đâu giám sánh kẻ cày voi,
Muối xát lòng ai những mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi.
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,
Bịn rịn trông vua biếng dở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu thà dại Ngụy, ( 3 )
Thân nay xin gác ngoại vòng thoi.
Bài họa của Phan Văn Trị nay chỉ còn bốn câu:
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Đất hứa nhớ thân sa giọt tủi,
Thành tương mến chúa nhẹ tay roi.
Về Tàu miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi.
Ở phần Huỳnh Mẫn Đạt, chúng ta đã biết hai câu thơ trước về cuộc gặp gở của họ ở gần công trường Lam Sơn Sài Gòn ngay nay. Về sau Huỳnh Mẫn Đạt lại có thêm một bài nữa:
Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe,
Cuộc lợi đường danh ỏi giọng vè.
Hớn hở trẻ giong qua dặm liễu,
Thẩn thơ già núp cọi cây hoè
Đã cam dấu mặt cùng non nước.
Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
Chớ nói đổi đời sao cốt cách,
Xưa nay nát giỏ hãy còn tre.
Tôn Thọ Tường phải ngặm đắng nuốt cay với những người xung quanh, qua văn thơ ông còn để lại, ta vẫn thấy ông dùng lời văn nhẹ nhàng để ký thác tâm sự mà thôi. Ít khi dùng lời văn quá đáng, tuy kính trọng họ Huỳnh nhưng ông cũng khá bực mình nên đã làm bài “Thà gặp cọp chẳng thà gặp bạn” :
Kết lũ dăm ba dạo dặp kè,
Duyên đâu giải cấu khéo thè be.
Đã bưng bít mặt cùng trời đất,
Sao hổ hang lòng với ngựa xe.
Trẻ lẫn thân dạo qua đàng Liểu,
Già bơ vơ dạo dưới cội hòe.
Núp nom cũng hổ chào thêm hổ,
Hùm dữ non cao cũng chẳng thè.
Tương truyền khi Phó Quản cơ Trương Định chiêu quân khởi nghĩa, có mời Tôn Thọ Tường giúp bộ tham mưu, trước ông đã bằng long, nhưng về sao ông ra làm quan với Pháp nên có làm bài thơ “Tự Thuật”:
Vường xuân vắng chúa lâu tin mai,
Hoa cũ, ong xưa dễ ép nài.
Lời hẹn đã đành toan kiếp khác,
Tình thương nên mới trở bề ngoài.
Gió trăng quến khách e nhiều nổi,
Đinh sắt gìn lòng dễ mấy ai!
Canh gỗ gom cho con tạo hóa,
Phanh phui nên nổi sắc xa tài.
Về sau Trương Định bị ông Huỳnh Công Tấn bắn chết ngày 20-8-1964, Tôn Thọ Tường có đi điếu một câu đối:
“Phú quý thị thẳng lai, oanh liệt hùng tâm khinh nhất trích,
Thanh danh ưng bất tử, ức dương công luận phú thiên thu.”
Dịch nghĩa :
Giàu sang ấy thoáng qua, oanh liêt hùng tâm khinh một ném,
Tiếng tâm đành chẳng mục, chê khen công luận phú thiên thu.
Rồi đến khi Thủ Khoa Huân bị tử hình tại Định Tường năm 1875, ông có làm bài thơ “Bái Công khóc Hạng Võ” ( 4 ) để khóc Thủ khoa Huân.
Trăm hai non nước một gương thần, ( 5 )
Hêt giận thôi mà khóc cố nhân.
Con mắt bốn ngươi ( 6 ) nhìn với mắt,
Cái thân tám thước ( 7 ) tủi cùng cùng thân.
Bát canh Quãng Võ ( 8 ) ơn còn nhớ,
Chén rượu Hồng Môn ( 9 ) lệ khó ngăn.
Giọt lệ anh hùng lau chẳng ráo,
Mặc ai rằng giả, mặc  ai chân.
Gẫm người để lại nghĩ đến hoàn cảnh của mình, Tôn Thọ Tường đã làm bài “Vịnh Kiều”:
Mười mấy năm trời nhục rửa xong,
Sông Tiền Đường đục hóa ra trong.
Mảnh duyên bình lãng còn nong nả
Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.
Chữ hiếu ít nhiều trời đất biết,
Mảnh tình nặng nhẹ chị em chung.
Soi gương thiên cổ, thương mà trách,
Chẳng trách chi Kiều, trách hóa công.
Văn nghiệp Tôn Thọ Tường còn để lại :
- Thơ gửi vợ
- Tây phù nhật ký.
- Lời truyền thị.
Và những bài Đường luật :
- Trăng rằm.
- Đá vọng phu.
- Vịnh chùa Cây Mai.
- Đờn bà dệt gấm.
- Ăn mày chết.
- Kỵ nữ quy y.
- Bá Di Thúc Tề
- Vịnh Kiều.
- Bái Công khóc Hạng Võ.
- Tự thuật.
- Lai kinh thọ tội.
- Thà gặp cọp chẳng thà gặp bạn.
- Từ Thứ quy Tào
- Tôn phu nhận quy Thục.
Thái độ chánh trị của ông, qua văn thơ thường ký thác tâm sự của mình, vì nghịch cảnh mà phải làm việc với Pháp, đứng về phía ái quốc thì thái độ chánh trị của Tôn Thọ Tường đáng cho người ta khinh miệt, vì ông là một nhà nho. Tuy ra làm việc với Pháp, nhưng ông ta không để lại thành tích nào, gọi là hại dân bán nước như là Tổng đốc Phương hay Huỳnh Công Tấn. “Lời truyền thị” được coi như một sự cảnh tỉnh, kháng chiến như châu chấu đá xe, chỉ làm khổ thêm cho dân lành, đó cũng là một quan điểm sai lầm thời bấy giờ. Ngoài việc đó ra, ông chỉ là một thi sĩ đi lạc vào con đường chánh trị, vì thất chí hay vì hoàn cảnh cá nhân, ông không cầu cạnh Pháp để được vinh thân phì gia, năm 1867, ông cất nhà thì phải đi vay tiền, khi chết còn để lại một số nợ. Chẳng qua chỉ vì tính phong lưu rỡm mà ông ra làm quan với Pháp, tiếc thay chỉ vì miếng ăn mà để tiếng muôn đời !
Là thi sĩ, ông đã chứng tỏ tài năng mình, luật thơ tề chỉnh, giọng thanh tao, lời thơ điêu luyện. Tài của ông đã chứng tỏ qua bài “Lai kinh thọ tội” đã được vua Tự Đức cảm thông hoàn cảnh và tỏ lòng ưu ái đối với ông. Đọc những bài “Vịnh chùa Cây Mai”, “Bái Công khóc Hạng Võ”“Vịnh Kiều” lời thơ của ông đã truyền thông đến chúng ta một rung cảm êm đềm, đừng nhìn qua lăng kính chánh trị, ông đích thực là một thi sĩ tài ba.
TRÍCH VĂN :
TRĂNG RẰM
Ớ ớ Hằng Nga dám hỏi đon,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Đường qua Đông Hớn ( 10 ) bao nhiêu dặm,
Nẽo lại Tây Di ( 11 ) ước mấy hòn ?
Trộm thuốc trường sanh đà bấy lượng,
Có chồng Hậu Nghệ ( 12 ) đặng nhiêu con ?
Ba mươi mồng một đi đâu vắng,
Hay có tư tình với nước non.
ĐÁ VỌNG PHU ( 13)
Hình đá ai đem đặt biển đông,
In hình nhi nữ dạng ngồi trông.
Da mồi phấn tuyết pha màu trắng,
Tóc gội dầu mưa giũ bụi hồng.
Ngày ngắm gương ô soi đáy nước,
Đêm cày lược thỏ ở trên không.
Đến nay tuổi đã bao nhiêu hử ?
Trạc trạc bền gan chẳng lấy chồng.
II
Đá tạc hình ai đã mấy công,
Con thơ tay ẳm luống trông chồng.
Mưa Ngâu ( 14 ) nhâm lụy tuôn ngàn bắc,
Gió Nữ ( 15 ) riêu sầu dợn khắp đông.
Rạng đất, rạng trời thêm rạng tiết,
Cùng non, cùng nước chẳng cùng lòng.
Khá khuyên má phấn trăm thu dưới,
Lấy đó làm gương sửa tính lung.
BÁ DI, THÚC TỀ ( 16 )
Danh chẳng tham mà lợi chẳng mê,
Ấy gang hay sắt hỡi Di Tề ?
Gặp xe vua Võ tay cầm lại,
Thấy thóc nhà Châu mặt ngoảnh đi.
Cô Trúc hồn về sương mịt mịt,
Thú Dương danh để đá tri tri.
Cầu nhơn chỉ đắc nhơn mà chớ,
Chẳng oán ai, ai lại oán chi.
KỸ NỮ QUY Y
Chày kình động tỉnh giấc Vu-san, ( 17 )
Mái tóc quy y nữa trắng vàng.
Đài cảnh thức soi màu phấn lợt,
Cửa không đành gởi cái xuân tàn.
Tỉnh hồn dương liễu vài câu kệ,
An cảnh tang du một chữ nhàn.
Đoái lại lầu xanh thuơng mấy trẻ,
Trầm luân còn phải kiếp hồng nhan.
ĂN MÀY CHẾT
Của trong thiên hạ một tay thâu,
Thác xuống âm cung sự nghiệp đâu.
Hòm sẵn đất trời dành liệm cốt,
Đèn nhờ nhựt nguyệt để chong dầu.
Cỏ cây tạm tế đền ơn nặng,
Chim chóc theo đưa đáp ngãi sâu.
Một nhắm xác tàn còn rõ dấu,
Gặp đời Tây Bá ( 18 ) biết bao lâu.
TỰ THUẬT
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây, ( 19 )
Trời đất ai xui tới nỗi nầy ?
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu hay.
Xăn văn thầm kín thương đòi chỗ,
Khớp khởi riêng lo biết những ngày,
Miệng cọp, hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay.
II
Thày lay muốn chuốc danh nhơ,
Ai mượn mình lo việc bá vơ ?
Trẻ dại, giếng sâu lòng chẳng nở,
Đàng xa ngày tối tuổi không chờ.
Áo xiêm chán thấy xăn tay thợ,
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ,
Rủi rủi, may may đâu đã chắc,
Nhẹ chì nặng bấc hãy tai ngơ.
III
Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành,
Nghĩ sự đời thêm hổ việc mình.
Nghi ngút tro tàn dân đạo nghĩa,
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh.
Hai bên vai gánh ba giềng nặng,
Trăm tạ chuông treo một sợi mành.
Trâu ngựa dầu kêu kêu cũng chịu,
Thân còn chẳng kể, kể gì danh.
IV
Kể gì danh phận lúc tan hoang,
Biển rộng trời cao nghĩ lại càng.
Lên núi bắt hùm chưa dễ láo,
Vào sông đánh cá há rằng ngoan ?
Người thương mắt ngạo đôi tròng bạc,
Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng.
Chiu chít thương bầy gà mất mẹ,
Cũng là gắng gỗ dám khoe khoang.
V
Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn,
Bán dạng khua môi cũng một phồn.
Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện,
Gió đưa oai cọp khiến hơi chồn.
Siêng lo há để cơm kề miệng,
Vụng tính nào dè nước đến trôn.
Hay giở chuyện trò còn lắm lối,
Múa men khuyên hãy chớ bôn chôn.
VI
Hãy chớ bôn chôn việc cửa nhà,
Sau này còn hẹn nổi đường xa.
Ma duồng cơn ngặt dung hai trẻ,
Trời mỏn lòng thương xót một già.
Lái đã vững vàng cơn sóng lượng,
Ổ toan ràngrịt buổi mưa sa.
Ở đời chưa dễ quên đời đặng,
Tính thiệt so hơn cũng gọi là.
VII
Cũng gọi là người ắt phải lo,
Từng hay chịu khó mới nên trò.
Bạc mênh mông biển cầu toan bắc,
Xanh mịt mù trời thước rắp đo.
Nước ngược chống lên thuyền một chiếc,
Các cao bó lại sách trăm pho.
Lòng này đâu hỏi mà không hổ,
Lặng xét thầm xoi đã biết cho.
VIII
Đã biết cho chưa hỡi những người ?
Khuyên đừng tích hận chớ chê cười.
Ví dầu vật ấy còn rơi dấu,
Bao quản thân nầy chịu dễ ngươi.
Trăng giữa ba thu mây cũng tỏ,
Hoa trong chín hạ nắng còn tươi.
Khó lòng mình biết lòng mình khó,
Lòn lõi công tình kể mấy mươi.
IX
Kể mấy mươi năm nước lễ văn,
Rắn dài heo lớn thế khôn ngăn.
Bốn đời chung đợi ơn nuôi dưỡng,
Ba tỉnh riêng lo việc ở ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp,
Hoài công chim lấp biển khôn bằng.
Cho hay đã vậy thôi thì chớ,
Nhắm mắt đưa chơn lỗi đạo hằng.
X
Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay,
Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy.
Đất quét đã đành chia lỗ miệng,
Chén tràn e nổi trở bàn tay.
Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp,
Mắt trắng xem trời cánh khó bay,
Chí muốn ngày nào cho đặng toại,
Giang sang ba tỉnh hãy còn đây !
THƠ GỞI VỢ ( 20 )
Chí học hành lướt xong ngàn dặm,
Đạo vợ chồng xa đắp trăm năm,
Chân trời mặt biển tăm tăm,
Cánh hồng phới nhẹ ruột tằm héo don.
Trải đất khách nước non xa cách,
Tình vợ chồng thương nhớ ngậm ngùi.
Từ ngày mười chín tàu lui,
Máy gài chưn vịt buồm xuôi cánh hồng.
Nước minh mông lước xông lượn sóng,
Trời ủ ê xa đắm từng mây,
Biển êm tàu chạy như bay,
Côn Nôn đã khỏi đến ngày hai mươi.
Còn vui cười chơi cùng chúng bạn,
Trong ba ngày thấy dạng cù lao.
Địa bàn núi ấy xanh xao,
Qua truông quân mạo lại vào quan âm.
Thảy đông tây om sòm sóng bũa,
Hêu mẹ con từng đá chập chồng.
Trông trên non nước mấy từng,
Ai mà chẳng động tấm lòng thất gia.
Tân-gia-ba thiệt là phố mới,
Ngày hăm hai tàu tới giờ Thân,
Trong tàu hai nước quan quân,
Thảy đều dõng mạnh mười phân vui cười.
Nỗi tưng bừng mướn đò lên đất,
Tàu chất than khói ngất trong ngoài,
Nước bèo quen biết những ai,
Tìm nơi khách ngụ nghĩ vài ba đêm.
Ngày hai mươi bốn trời êm biển lặng,
Lịnh quan truyền thủng thẳng kéo neo.
(Có lẽ bị khuyết vài câu)
Trong ba ngày thấy nhiều non núi,
Lửa cùng buồm thay đổi chạy hoài.
Hết chiều sáng lại rạng mai,
Mây mịt mù biển, nước lai láng trời.
Nghĩ cuộc đời ăn chơi cũng mấy,
Vì nỗi chi chuốc lấy buồn nầy.
Cũng chẳng đặng thỏa chí đây,
Sắt son một tấm nước mây ngàn trùng.
Qua tháng sáu chạy trong biển cả,
Tàu khác nào chiếc lá vọng khơi.
Ngày hai mươi bốn rạng mời,
Đồng không cỏ cháy thấy trời A-đen ( 21 )
Đất lắm phèn nào quen xứ lạ,
Nước màng không cây lá chẳng sinh.
Đường đi tính lại cho minh,
Trong tuần tháng bảy tới thành Paris.
Những kẻ đi đã đành một nỗi,
Người ở nhà sớm tối hằng trông.
Ra vào nệm chích phòng không,
Ngày nào cho ngớt tấm lòng sầu bi.
Nỗi biệt ly siết chi trông đợi,
Dặm quan san xa gửi một phong.
LỜI TRUYỀN THỊ
Ra lời truyền thị, tỏ với nhân dân,
Làm người phải biết giả chân,
Chớ khá nghe lời huyễn hoặc.
Xưa sáu tỉnh súng đồng giáo sắt,
Binh lương tiền túc chứa chan,
Ô-lê tàu hải rỡ ràng,
Thành tỉnh pháo đài nghiêm ngặt ;
Chân-lạp, Xiêm-la chư quốc,
Bộ binh, thủy chiến thảy kiên nhường.
Chẳng trọn ngày, đất vở ngói tan !
Xứ Gia Định là đầu sáu tỉnh.
Sau những: Đại đồn Lãnh Định,
Cùng là: Mỹ Quý Tháp mười.
Có lương, có súng, sẵn đông người,
Làm hết sức cũng không nên dáng.
Chẳng những là thiên mạng,
Cùng hiệp với nhân mưu :
Nên triều đình trước đã hòa hưu
Sau Kinh lược cũng đành giao cát.
Thiếu chi kẻ anh hùng lỗi lạc,
Cũng phục tùng mà hộ quốc tí dân.
Còn như người minh triết bảo thân,
Thì thối độn mà an sinh lạc nghiệp.
Có chăng phường đạo kiếp,
Bày ra cuộc mộ quyên,
Ấy là chước kiếm tiền,
Ấy là mưu trốn nợ,
Kiếm chổ vắng mà bắt lính đòi lương tở mở ;
Khoe trong rừng bụi, khen cho hay múa gậy rừng hoang ;
Lừa hờ cơ mà phất cờ giống trống nhộn nhàng,
Muốn địch với quan binh, ví chẳng khác bắt cầu qua biển cả.
Bắn một hiệp chết nghiêng chết ngã;
Chạy tư bề trốn ngược trốn xuôi.
Việc ấu hãy chưa nguôi.
Gương còn treo trước mắt.
Hể một người làm giặc,
Thì lụy đến họ hàng,
Nhà cửa tan hoang,
Xóm làng hư hại.
Luật xưa để lại,
Phép nước không tha,
Dẫu nay việc Lang-sa,
Cũng noi theo luật lệ.
Chớ thấy rộng dung mà lờn dễ,
Rộng dung vì thương thuở dân lành.
Một hai lần dặn bảo đinh ninh.
Một làng hơn nữa đạo binh,
Binh lính lại nhiều bề tân khổ.
Lúc xưa hàng dân bộ,
Một năm người đóng góp kể trăm.
Đào vong điều hòa rằm rằm !
Lúc trước hoang tàn lắm nỗi,
Mấy năm nay đã khỏi,
Ăn mặc cũng rỡ ràng.
Lính quân phép đã nhẹ nhàng,
Thì dân xã ắt an điều sinh kế.
Thuở xưa nộp thuế,
Chở lúa đăng thương,
Khổ cực trăm đường,
Nặng nề quá thể ;
Bây giờ thiệt dễ,
Đóng bạc nhẹ nhàng,
Giá lúa đằng ngang,
Ruộng vườn thong thả.
Bốn mươi tám ngày xâu dân xã,
Mười sáu ngày nay đã giảm cho.
Trong làng Sưu lính nhẹ lo,
Ngoài ruộng đất mềm lúa tốt.
Thuở trước hãy mùa màng sùi sụt,
Mấy năm chừ điền mẫu phong thêm.
Việc dân cần kiệm làm đầu,
Hay cần kiệm chẳng giàu cũng đủ.
Đất sáu tỉnh lắm người hiền ngỏ,
Ruộng đất mềm dân đủ lễ văn.
Có nghiệp hằng, ắt có lòng hằng,
Lời hiểu dụ phải toan ghi dạ.
Muốn cho đặng an trong xã,
Thì phải lo giữ kẻ gian tà.
Hể thấy ai bày mẹo nghịch ra,
Bắt lấy nó mà ngăn ngừa trước.
Nếu làng ta thế nhược,
Chúng nó tới hùng hào,
Thì phải liệu mưu nào cầm lại đó,
Rồi báo quan tập nã,
Như vậy mới khỏi điều di họa.
Chi cũng không hơn chước giữ mình,
Lũ hoang đàng đã chẳng giám khinh,
Mà nhà nước lại càng thêm trọng.
Lẽ phải chăng, ta đã suy đong
Lời hơn thiệt ta đà kể rõ.
Khuyên các làng các tổng,
Đều khá hết lòng hết dạ,
Nếu đem lòng khi trá,
Mà làm mẹo dị tùng
Lời ta dặn, nhược chẳng rèn lòng,
Họa sau tới khôn bề cắn rún.

Ghi chú:
1. Câu đối : “Tự thuật” của Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858)
Chị em ơi! Ba mươi sáu tuổi rồi, khắp Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác – Trời đất nhẻ! Gắn một năm này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh.
2. Tôn phu nhân, em gái Ngô Tôn Quyền vua nước Ngô dưới trướng có Châu Công Cẩn tự Châu Du văn võ toàn tài phò giúp, mưu gã Tôn phu nhân cho Lưu Bị nhà Hán, đóng đô ở Ba Thục để liên kết đánh nước Ngụy của Tào Tháo.
3. Tào Tháo muốn cho Từ Thứ đang ở dưới trướng của Lưu Bị về với mình, nên bắt Từ mẫu là mẹ của Từ Thứ, bảo viết thư gọi con về hàng, bà không làm theo, chúng bèn làm thư giả, Từ Thứ được thư về đầu Tào, bà mẹ liền tự tử.
4. Có người cho rằng bài này Tôn Thọ Tường làm ra để khóc Cử trị, xét về mặt “tri âm” qua những bài thơ xướng họa của hai ông, cũng như là những trận so tài giữa Bái Công và Hạng Võ thì không đúng vì Cử Trị mất sau ông (Cử Trị mất năm 1910). Những tiệc rượu của Tổng đốc Phương đãi các bạn bè, có cả Thủ khoa Huân và chắc có Tôn Thọ Tường với hai người ở hai chiến tuyến thì hợp với ý bài thơ hơn.
5. Chỉ đất Hán Trung (Thiếm Tây) là đất hiểm yếu, hai người ở trong có thể chống lại cả trăm người ở bên ngoài.
6. Gươm thần: Chỉ cây gươm của Hớn bái công (Lưu bang) giết rắn ở Mang Dịch, trước khi cùng với Sở Bá vương (Hạng Võ) nổi lên đánh Tần.
7. Thân tám thước: Là thân kẻ anh hùng. Bảy thước là kẻ làm trai. Năm thước là thân ngũ đoản của người thấp kém.
8. Con mắt bốn người: Chỉ cho con mắt của Hạng Võ, mỗi mắt có hai con ngươi.
9. Bát canh Quãng Võ: Nơi núi Quãng Võ đất Huỳnh Dương, quân Sở của Hạng vương và quân Hán của Bái công dàn trận đánh nhau. Hạng vương bắt Thái công là cha của Bái công viết thư bảo Bái công lui quân, nhưng Bái công được thư mà không lui quân. Sau Hạng vương đưa Thái công ra trận, sai quân nấu vạt dầu và bảo với quân Hán: “Nếu quân Hán không lui thì Thái công sẽ bị mổ ruột bỏ vào vạt dầu”. Bái công liền ra trận nói : “Lúc trước cả hai cùng thờ Sở Hoài vương, có cùng nhau kết nghĩa anh em, vậy cha của ta tức là cha của Bá vương, nếu Bá vương luộc cha ta, xin cho ta một bát nước luộc với”. Do đó có điển tích là bát canh Quãng Võ. Sau đó, Hạng Võ giao trả Thái công cùng Lã hậu cho Bái công để hai bên bãi binh.
10. Chén rượu Hồng Môn: Hạng Võ bày ra Hồng Môn hội, mời Bái công đến để bắt giết đi, Bái công cũng biết trước, nhưng vẫn đến và dùng lời nhỏ nhẹ nên Hạng Võ không giết.
11. Đông Hớn: Thuộc nhà Hán (Trung Hoa) đặt kinh đô ở Lạc Dương, nay là Hà Nam, vua là Quang Võ.
12. Tây Di: Người Trung Hoa cho họ là trung tâm tinh hoa của vũ trụ, vì vậy mà những nước lân bang họ cho là man ri, mọi rợ, dân tộc phía Bắc thì họ gọi là Rợ Hồ, phía Tây gọi là Tây Di (nay là vùng đất Tân Cương).
13. Hậu Nghệ: Theo cổ tích Trung Hoa vợ của Hậu Nghệ trộm thuốc trường sinh của chồng rồi lên cung trăng ở.
14. Tục truyền ở Trung Hoa có người chồng đi đánh giặc, vợ ở nhà lên núi Vũ xương trông chồng lâu ngày hóa đá, tích Tô thị lên núi Kỳ lừa (ở Đồng Đăng) ngóng chồng cũng thành đá. Núi vọng phu ở Qui Nhơn cũng là người hóa đá, bồng con trông chồng.
15. Tích Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau, có mưa ngày 7 tháng 7 âm lịch.
16. Bá Di, Thúc Tề : hai người con vua Cô Trúc, khi Võ vương kéo quân phạt Trụ vương, Bá Di và Thúc Tề ra cản đầu ngựa can vua Võ. Võ vương không nghe, sau khi diệt trụ rồi lên ngôi lập nên nhà Chu, Bá Di, Thúc Tề không ăn gạo nhà Chu, kéo núi Thú dương hái rau vi mà ăn thay cơm, sau hai ông nhịn ăn rau nhà Chu mà chết.
17. Sở Vương đi chơi nơi Vân mộng, ngủ ở quán Cao Đường, dưới núi Vu sơn (Hồ Bắc) nằm mộng thấy một người đàn bà nói rằng nghe vua ngự ra đây nên tới hầu. Vua lưu trong hành cung để cùng chăn gối. Lúc ra về nàng nói mình là thần nữ núi Vu Giáp sớm làm mây, tối làm mưa. Vua bèn cho lập đền thờ ở chân núi Dương Đài.
18. Tây Bá: Văn vương là chư hầu của nhà Ân (Thương) là bậc hiền minh, thánh đức nên được các chư hầu khác quy phục, sau bị vua Trụ bắt giam ở Dũ Lý, rồi được tha và phong cho làm Tây bá. Đến đời con là Vũ Vương họp các chư hầu lại, diệt nhà Ân mà lập nên nhà Chu.
19. Bài thơ này làm trong khoảng 1862 – 1867, tức là Pháp mới lấy ba tỉnh miền Đông.
20. Tôn Thọ Tường đi theo phái bộ của Phan Thanh Giản sang Pháp năm 1863.
21. E-đen: Một hải cảng thuộc xứ Yémen.

VI- NGUYỄN THÔNG (1827-1884)
Nguyễn Thông tự Hi Phần, hiệu Kỳ Xuyên, người quê quán huyện Tân Thạnh, tỉnh Gia Định (nay là Kỳ Son, Long An), ông sinh năm 1827, đến năm Tự Đức thứ 2 (1849) được 22 tuổi ông thi đổ cử nhân cùng khoa với Phan Văn Trị .
Đầu tiên ông được bổ Huấn đạo huyện Phong phú, phủ Tuy Biên tỉnh An Giang, sau vào Hàn Lâm viện tu soạn ,ông có dự vào việt soạn sánh Nhơn sự kim giám, sách soạn xong ông được thưởng và thăng lên Hàn Lâm viện trước tác.
Năm Tự Đức thứ 12 (1859), quân Pháp đánh Gia Định, ông xin đi tòng quân.
Đến năm 1862, Phan Thanh Giản  được cử làm Nghị hòa chánh sứ toàn quyền đại thần vào Nam để thương  thuyết với quân Pháp, nhân biết tài văn học của ông, nên tiến cử Nguyễn Thông thăng chức Đốc học tỉnh Vĩnh Long. Năm 1865, ông hội họp các nhân  sỉ ở Lục tỉnh lập ra văn miếu để thờ đức Khổng Tử tại Vĩnh Long, bên cạnh lại xây dựng thêm Túy văn lâu để làm nơi giảng học. Trong năm này, ông cũng được cử làm chủ tang trong việc cải táng cho Võ Trường Toản.
Sau ông được thăng Thị giảng học sĩ, được bổ làm Án sát sứ tỉnh Khánh Hòa trong năm 1867, sau khi Phan Thanh Giản dùng độc dược quyên sinh, ông có dâng sớ xin vua ban cho Phan Thanh Giản tên thụy, nhưng vua Tự Đức đã ban chiếu cho đình thần nghị án của 17 vị quan trọng trách về việc mất 3 tỉnh miền Tây, trong chiếu vua Tự Đức đã kết tội Phan Thanh Giản phần nào, và cho biết không được ban tên thụy.
 Đến năm 1870, ông được bổ về kinh lãnh chức Biện lý Bộ Hình, vào mùa Đông năm ấy ông được thăng Quan lộc tự khanh, lãnh chức Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi, trong lúc này, ông có dâng sớ điều trần về việc thủy lợi, tài thực xin định lại sự học ở các trường và ban cấp sách sử cho sĩ tử, các điều ấy đều được vua phê chuẩn.
Trong tỉnh Quảng Ngãi lúc bấy giờ đất xấu dân nghèo, hơn một năm sau khi nhậm chức, ông lo khai mương rảnh, đấp bờ đê, cấm nhặt nạn tham nhũng do bọn nha lại tạo ra, chế trị bọn cường hào áp bức người nghèo, thế cô, dân chúng được hưởng nhiều điều lợi, nhưng việc chưa thành mà vì một vụ án mạng thất xuất (kêu án nhẹ), ông bị tội ly chức. Tin ấy làm rung động lòng dân trong tỉnh, Nhân khâm-sai Nguyễn Bính có việc đi qua tỉnh Quảng Ngãi, dân chúng bèn kêu nài xin lưu ông lại, để thực hành xong công việc đã khởi, việc can thhiệp của Khâm sai chưa có kết quả, thì ông bị triệu hồi về kinh làm việc ở Tàng thơ lâu, lo việc kiểm biên sách vở để đái công chuộc tội.
Rồi lâm bệnh, ông xin nghĩ lui về sơn trại tại Bình Thuận, lập ra thi xã, lấy việc ngâm vịnh làm vui.
Năm Tự Đức thứ 27 (1874), ông được phục chức Tư vụ rồi thăng Chủ sự bộ lễ, triều đình biết tài văn học của ông, bèn tiến cử do đó ông lại được thăng Quốc tử giám tư nghiệp, thời gian này cùng với Bùi Ước, Huỳnh Dụng Tân khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Năm Tự Đức thứ 30 (1877), ông dâng sớ xin về Bình Thuận khẩn đất lập đồn điền ở miền Cao nguyên, ông được cải sang Thị giảng học sĩ, sung chức Dinh điền sứ, sau lại cải Quan lộc tự thiếu khanh, lãnh Bình Thuận Bố chánh sứ, nhưng chưa được bao lâu ông lại bị bệnh nên được nghỉ dưỡng bệnh. Trong năm này, quyển Việt sử cương giám khảo lược được in ra.
Năm Tự Đức thứ 32 (1879), ở Bình Thuận có loạn gọi là Mang dân, vua ra lệnh cho Nguyễn Thông cùng quan Điển nông sứ Phan Trung xử lý. Dẹp loạn xong, ông được thăng Hồng lô tự khanh, sung Điển nông phó sứ kiêm chức Học chánh. Kế đó ông mất năm 1884 thọ được 57 tuổi.
Nguyễn Thông là người học thức uyên bác, lúc làm quan, các quan tại triều đều trọng vì ông.
Các tác phẩm ông còn để lại :
- Việt sử cương giám khảo lược (in năm 1877)
- Ngọa Sào thi tập (in năm 1884)
- Kỳ Xuyên thi văn sao
- Độn Am văn tập
- Kỳ Xuyên công độc
Và một ít thơ Nôm.
TRÍCH VĂN :
NAM KỲ THẤT THỦ
Bến Nghé gây nên cuộc chiến trường,
Làng say mấy lúc lại qua thường.
Cùng về xứ cũ người còn khoẻ,
Chạm mãi cơn nguy tớ muốn cuồng.
Chầu chợ đồn rầm mồi lợi lớn,
Bể khơi bao thuở cánh buồm trương.
Chỉ lưa ca khúc người Yên Triệu,
Lửa nóng sôi lòng tóc nhuộm sương.
KHÁCH ĐỊA TƯ GIA
Óng ánh nhạn kêu thu,
Trời xanh lẫn một màu.
Nước non nhìn cảnh lạ,
Cây cỏ chạnh lòng sầu.
Một gánh đồ thơ đó,
Ngàn trùng xứ sở đâu ?
Chử nhàn ai bán rẻ,
Trăm lượng cũng nên câu.
LUẬN VỀ NÚI
(Tiển ông Nguyễn Tuấn làm huyện doãn Tân Định, Khánh Hòa. Tự Đức năm thứ 9, Đinh Tỵ 1855)
Trong vũ trụ không có chi lạ bằng núi. Có núi thinh thang khoáng đạt mà khúc chiếc, có núi bàn khuất, uyển diêu mà thẳn thắn, có núi sắc xanh xanh mà đáng yêu thương, có núi cao vời vợi mà đáng kinh sợ, có núi trơ trụi mà cổ lão, có núi thon vót mà xinh xắn.
Bên trong núi có dãy xuyên qua bình nguyên, dãy độ qua đãnh khác, trông ra như rừng vượt lên, như biển phục xuống, có dãy sừng sựng như đứng quày đầu, có dãy lài lài như nằm ngửa mặt. Hình dáng trăm thể, dường như có tay tinh xảo khéo đặt bày.
Mé trên lại có suối chảy bay, có đá kỳ quái, có mây bạc, có cội hồng, có vượn hót, chim kêu, có hoa bay, lá rụng, dường như tất cả làm ra kỳ lạ để giải thích cho thắng cảnh, nên núi danh gọi là kỳ. Núi trong thiên hạ danh gọi là kỳ nên cổ kim bậc cao sĩ ẩn chốn lam tuyền từng tạm đắc cho núi là thâm, nhưng không bày tỏ trọn tâm đắc mình cho người được. Vì sao ? Vì bực đồng chí rất hiếm hoi vậy.
Tôi bình sanh không yêu núi, nhưng chốn Nam trung, sao Bắc đẩu soi rốt một góc cùng, xưa là nước Thủy chân lạp. Bình nhựt tôi chưa được để dấu chơn tới đâu, khi xãy gặp một hòn núi nào, thì tấc dạ bồi hồi, cúi ngử ngắm trông suốt ngày không thể về được. Nhưng tôi vốn vương nhiều bịnh, không được du lịch đâu xa, thường ước ao núi non trong thiên hạ đầu tụ lại một nơi, để tôi được du lãm khắp cùng, mới thỏa mãn lòng ham muốn. Nhưng không thể nào được cả. Tôi bèn ngao du với người.
Con người trong thiên hạ; hoặc vì mạng cùng mà không gặp hội, hoặc vì hàn vi mà không danh phận, hoặc ẩn trú trong hang đồ điếu, hoặc tụ tập trong đám ti tiện xướng ca : con người sánh như đất bằng chìm dưới nước, mai một cả danh tích, thường thường vẫn có vậy. Muốn cùng hạnh ấy giao lưu, nhưng thế nào được.
Nay lịnh thiên tử từ ngày lên ngôi báu, hằng chiêu mộ kẻ sĩ anh tuấn, biệt tài, mở rộng con đường sĩ tấn. Tình cảm vì ý triệu, thần động vì lễ bày. Trước kia vì cùng mà không gặp hội, hèn mà vô danh, hoặc hạng đồ điếu xướng hiền nên ẩn dật, đều bôn tẩu tới, chỉ hy vọng vào một hội ấy. Vì vậy mà người trong thiên hạ, tựu lại kinh sư, ví như núi non trong chín châu, bốn biển gom về một xứ vậy: mà tôi cũng may tựu về tại chỗ. Nhân đó tôi được quan sát tận tường điều lạ trong thiên hạ :”Có người cao đàm, hoạt luận sắc diện hiền nhân mà tánh tình trái ngược, ví như núi thinh thang, khoáng đạt mà khúc chiết vậy.
Có người thiệt thà kém văn võ, tướng mạo xấu mà tấm lòng son, ví như núi bàn khuất uyển diên mà thẳng thắn vậy.
Có người đạo đức cao siêu mà đạm bạc đáng hâm mộ, ví như sắc xanh  xao mà đáng yêu đương vậy.
Có người khẳng khái quyết liệt, cang cường vì việc nghĩa, ví như núi cao vòi vọi mà đáng kính sợ vậy.
Có bực lão thành sâu xa, kính cẩn mà chất phác, ví như núi trơ trụi mà lão vậy.
Có trẻ thiếu niên anh tuấn, tinh nhuệ mà văn vẻ, ví như núi thon thọt mà xinh xắn vậy.
Đến như có người quyền hành, xảo quyệt như quỷ, như vức ( 1 ) , biến ảo, khuynh trắc thái thậm, thì không có núi kỳ lạ nào có thể hình dung hết cái thái độ ấy được. Tuy trong vòng thiên hạ có cái lạ mà hiền, có cái lạ mà chẳng hiền, nhưng cũng là cái lạ của tai nghe mắt thấy, thì tóm lại chỉ có một cái lạ mà thôi.
Trong vũ trụ không có chi lạ bằng núi. Nhưng theo sở kiến hiện nay, thì hợp lại các cái lạ nhỏ mà làm ra cái lạ to. Nên chi kẻ sĩ hiếu kỳ trong thiên hạ, hể không du lãm ở núi, tất giao du với người.
Nguyễn hầu hay vẽ lối giao du, mà hiếu kỳ, giao thiệp rộng mà tuyển chọn người. Bình sanh thường muốn du lịch khắp danh sơn. Đối với những nhân vật cao thấp, chỗ sở hữu của ngài vẫn phát lộ ra luôn. Tuy chưa được nghe ngài nói, nhưng quan sát ý tứ, tôi được biết ngài như vậy.
Năm nay ngài được lịnh ra trấn nhậm huyện Tân Định. Ngài đi buồn bực dường như có chổ chẳng thỏa mãn. Tôi được nghe nói tới núi non tỉnh Khánh Hòa lớn thì có Đại Lãnh, Cù Sơn, nhỏ thì có núi Xuân, núi Bút, có núi vô danh mà lạ, trên đường bộ, dãy đầy như rừng sừng sựng, mà huyền bí kỳ lạ. Chính huyện lỵ lại ở trong các chòm núi non. Mở cửa sổ nằm trông ra thấy hòn lạ, chót xa la liệt trước cửa sổ. Vậy thì núi trong thiên hạ tụ vào một nơi, chính là huyện lỵ ấy chứ còn nơi nào ? Chỉ có điều đất đai hẹp, dân cư ít mà thôi. Nhưng trong một huyện, có người tài ba làm kẻ sĩ, có người chất phát làm nô phu, có kẻ trú giòng nước biếc làm anh ngư phủ, có người nương chốn non xanh làm chú tiều phu. Thế thì ít mà không phải không có vậy. Nhưng tinh thần ý khí của họ sánh được sự lạ với núi non. Vậy thì chỗ nhiều ít bất tất phải hỏi đến ? Núi Khánh Hòa kỳ lạ, mà dân Tân Định thì ít, nhưng chẳng phải chẳng có, thành thử điều lạ của người cũng là điều lạ núi non.
Tôi biết Nguyễn hầu chẳng vì chỗ Tân Định nhỏ, mà lại vì chỗ sở cầu điều lạ. Nhơn lấy hết điều tâm đắc đối với điều lạ trong thiên hạ, tôi có vài ý kiến phải chăng được gần với mối đạo ít nhiều ?
(Dịch bài “Sơn thuyết” trong Ngọa du sào văn tập, quyển V, của Kỳ Xuyên, Nguyễn Thông)
Ngạc Xuyên biên dịch. Đại Việt tạp chí, năm 1942

Ghi chú:
1. Vức: Loại cá mực to

VII- PHAN VĂN TRỊ (1830-1910)
Phan Văn Trị tục gọi là Cử Trị, sinh năm 1830 tại làng Hanh Thông tỉnh Gia Định, cha ông vốn là bạn thân với Phan Thanh Giản. ( 1 ).
Gia cảnh nghèo, tánh thông minh, học giỏi nên năm 1849, ông thi đậu Cử nhân cùng một khoa với Nguyễn Thông.
Sau khi thi đậu, người ta vẫn chưa hiểu nguyên do nào ông không ra làm quan, tuy có giai thoại cho rằng khi Phan Thanh Giản vào Nam làm Kinh lược phó sứ (1831-1853), có đến thăm thân phụ ông, muốn thử tài Cử Trị, nhân thấy có con mèo nhảy lên sà nhà, Phan Thanh Giản liền ra đề con mèo. Cử Trị sáng tác ngay:
Mấy từng đài cát say chân leo,
Nhảy lẹ chi cho bẳng giống mèo.
Chợt ngoảnh mặt hùm nhìn trực thị,
Chi cho lũ chuột dám vang reo.
Lung lăng sẵn có nhiều nanh vuốt,
Vằn vện đành không chút bụi meo.
Trăm tuổi hồn đâu về chín suối,
Nắm lông để lại giúp trò nghèo.
Phan Thanh Giản phải khen tài làm thơ của ông, nhưng lại không được hài lòng vì cho rằng ông bị ám chỉ trong bài thơ ấy. Ngoài ra, Phan Thanh Giản cũng được nghe qua bài “Đá cá lia thia”, hay bài “Vịnh hột lúa” :
Giả từ đồng ruộng dạo xa chơi,
Lớn nhỏ ai mà chẳng mượn chơi.
Cởi giáp vàng kia phơi chốn chốn,
Bày da ngọc nọ rạng nơi nơi.
Ông cha giúp nước đà ghe thuở,
Dòng giống nuôi dân biết mấy đời.
Vì thế liều mình cơn nước lửa,
Ai mà có biết hỡi ai ơi!
Cả hai bài ông cũng khen hay, nhưng bài “Vịnh hột lúa”, Phan Thanh Giản cho rằng hột lúa không có ông cha, hơn nữa so sánh hột lúa vào hoàn cảnh Phan Văn Trị, thì Phan Văn Trị chưa ra làm quan, tại sao lại có ý trách triều đình quá đáng qua hai câu kết:
Vì thế liều mình cơn nước lửa,
Ai mà có biết, hỡi ai ơi !
Với giai thọai này, người ta đã cho rằng Phan Văn Trị đã không làm cho Phan Thanh Giản  vừa ý, nên không được tiến cử làm quan. Không ra làm quan, ông là một văn nhân tài tử, đi đó đi đây, ngâm thơ vịnh với bạn bè rồi đến năm 1861 quân Pháp lấy ba tỉnh miền Đông, rồi đến năm 1867, lấy nốt ba tỉnh miền Tây, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẩn Đạt, với ông là những người đồng tâm, đồng chí, ông là người chống đối mạnh mẽ về thái độ thỏa hiệp với Pháp của Tôn Thọ Tường. Ngày nay, còn lại 12 bài họa vận của ông đối với 12 bài nguyên xướng của Tôn Thọ Tường. Có thể coi đây là bút chiến về lập trường chính trị của hai phe ở giai cấp nho sĩ thời ấy.
Xét thái độ Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường qua 12 bài bài họa trên người ta phải nhận rằng Phan Văn Trị đã hết lời khinh rẻ Tôn Thọ Tường.
Sau khi Pháp lấy ba tỉnh miền Đông, Phan Văn Trị dời về ở Vĩnh long rồi sau đó đến làng Nhân Ai, huyện Phong Điền tỉnh Cần Thơ dạy học và mất tại đây năm 1910.
Ông là nhà nho có tấm lòng ái quốc tiêu cực, có lẽ ông chịu nhiều ảnh hưởng của Phan Thanh Giản, một người đã đỗ tiến sĩ đầu tiên của miền nam, làm quan đại thần trong triều, còn đi sứ qua các nước Pháp và Tây Ban Nha, hiển nhiên Phan Thanh Giản thức thời hơn những người khác, thế mà sau khi đi sứ về họ Phan đã thốt :
Bá bang xảo kế tề thiên địa,
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền.
Một nhận định đúng đắn về nền văn minh cơ giới, và sức mạnh vũ lực của Âu Châu thời bấy giờ, hơn chúng ta bội phần, nhưng không thể nào đàn áp nổi ý chí bất khuất của dân tộc ta. Có phải Phan Văn Trị nhìn khía cạnh thời thế quốc gia chúng ta, qua lăng kính của Phan Thanh Giản, ông đã bày tỏ tấm lòng mình trong bài Cảm Hoài:
……………………………………..
Nhìn Nam chạnh tuổi cành hoa ủ,
Gió Bắc ngùi thương đám bạch vân.
Cái nợ tang bồng than thở phận,
Đành đem dập dã giữa phong trần.
Hay ở một câu kết khác:
Cung kiếm cầm thơ cam hổ phận,
Sao cho tỏ rạng bậc tài năng.
Ông rất hổ phận mình và cũng muốn ngữa vai gánh vác sơn hà trong lúc ngữa nghiêng, nhưng có lẽ như đã nói: ông đã nhìn qua lăng kính của Phan Thanh Giản, điều đó làm cho ông không biết phải làm thế nào, để hành động theo chí nam nhi của kẻ sĩ trước sức mạnh của người Pháp, nhưng không thể chối cải lại lòng yêu nước của ông. Ngoài sắc thái chính trị trong văn thơ ông, còn đượm nét ưu tư về thời thế, tinh thần Khổng Mạnh và không chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
Văn thơ ông còn để lại nhiều bài đường luật như sau:
- Bến An Giang (Châu Đốc).
- Quán nước.
- Chùa Hư.
- Nhương địa.
- Cảm hoài (mười bài).
- Đá cá thia thia.
- Vịnh ông Táo.
- Vịnh con mèo.
- Vịnh con cóc.
- Vịnh con cào cào.
- Vịnh con rận.
- Vịnh cái cối xay.
- Vịnh hột lúa.
- Vịnh người câu cá.
- Vịnh Hát bộ.
- Vịnh Thợ may.
- Vịnh ông làng hát bộ.
Và những bài họa thơ của Tôn Thọ Tường.
TRÍCH VĂN:
BẾN AN GIANG
Linh đinh bèo nước biết là đâu ?
Đậu bến An  Giang thấy những rầu.
Bảy núi mây liền chim nhíp cánh,
Ba dòng nước chảy cá vinh râu.
Có rao nội vận dân xanh mặt,
Không trái bần khô khỉ bạc đầu.
Xem hết cảnh tình rồi nghĩ nghị,
Thú vui chỉ có một cần câu.
QUÁN NƯỚC
Trà khô đãi khách giải công lao,
Gây dựng cơ đồ tâm thảo mao. ( 2 )
Mấy cấp lên đài ra sửa nước,
Một tay chế bọt chẳng lo trào.
Lời nhờ trăm họ khi nóng nực,
Ơn chịu muôn dân buổi khát khao.
Thương khách vãng lai đều phải biết,
Một mình tri thức đủ anh hào.
CHÙA HƯ
Nam mô hai chữ biết biết về đâu !
Cảm nỗi chùa hư Phật phải rầu,
Nắng dọi mỏ chuông khô nứt mặt,
Mưa sa kinh kệ ướt mem đầu.
Rầm ngươn chẳng kẻ dưng vùa nếp,
Ngày tháng không ai cúng phụng dầu.
Đức cả từ bi xin sớm liệu,
Ngồi chờ Lương võ ( 3 ) thế còn lâu.
ÔNG TÁO
Vóc là đất cục chẳng là chi ?
Ong Táo danh xưng tự thuở ni.
Lỏng khỏng cỏng nồi da móc thích,
Lum khum đội chảo mặt đen xì.
Cháy da với chủ đà ghe thuở,
Phỏng trán cùng dân đã mấy khi.
Sau trước họ hàng chưa rõ đặng,
Ba đầu đụng lại giống đi gì ?
CON CÓC
Cóc hỡi mầy sao cứ một ngồi ?
Vợ chồng đông mặt cả và đôi.
Nghiến răng nhiều thuở oai trời động,
Mở miệng đòi pheng lũ kiến lui.
Phận khó bốn mùa nhờ chiếu đất,
Danh vang tám tiết biết thời trời.
Mưa tuôn một trận đầy lay láng,
Còn nhảy ra ngồi khuấy nước chơi.
CỐI XAY
Công danh trong thế đố ai tài,
Ra gạo cũng nhờ cái cối xay.
Nhiều trận dễ sờn cơn gió bụi,
Trăm vòng nào nại sức lông lay.
Mòn răng nợ chủ lòng trông trả,
Trặc họng khen ai tiếng khéo bày.
Bao quản thớt trên mòn thớt dưới,
Hiềm vì con giặt ( 4 ) phải xa tay.
CÂU CÁ
I
Ngươi hỡi Nghiêm Lăng ( 5 ) có biết chăng,
Tình ta chí gã đố ai bằng.
Nữa cần thú vị trời trời nước,
Một sợi kinh luân gió gió trăng.
Thao lược ( 6 ) đành quăng ngàn dặm bữa,
Gian sang kéo rốt một tay phăng.
Xưa nay cũng một lòng sông Vị, ( 7 )
Mơ tưởng xe Châu biến nói rằng.
II
Lỗi phải thây ai chẳng lụy cầu,
Sao bằng thong thả một cần câu.
Dòng ngân thả lưới đâu chưa sớm,
Đái bích dòng tơ mặc tóm thâu.
Dựa bãi Nghiêm Lăng chờ đĩa tới,
Neo gành Lữ Vọng ( 8 ) nhấp công hầu.
Giang sang thế để mình là thợ,
Sanh sát quyền ta thế biết đâu.
NHƯỢNG ĐỊA
Tò le kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng ve thành Phụng ủ sầu hoa.
Tan nhà cám nổi câu ly hận,
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa.
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.
HÁT BỘ
Đưa mắt ghẻ ruồi đứa lát voi,
Bao nhiêu xiêm, áo, cũng trơ mòi.
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc,
Đứa nịnh hàm râu mấy sợi còi.
Trên trính có nhà còn lợp lọng,
Dưới chân không ngựa lại dơ roi.
Hèn chi chúng nói bội là bạc,
Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi.
ÔNG LÀNG HÁT BỘ
Chi chi trong khám sắp ngang hàng,
Ngó lại mới hay mấy nộm làng.
Trong bụng trống trớn mang áo giữa,
Trên đầu trọc lóc bịt khăn ngang.
Vào buồng gọi tổ chui đầu lại,
Ra rạp làm con nịt nách mang.
Dám hỏi hàm ân ngươi lớp trước,
Phải làm một lũ những quân hoang.
THỢ MAY
Dõi lề Huỳnh Đế ( 9 ) chước toan tìm,
Nghề nghiệp trong tay đỡ vận chìm.
Chấp nối âm dương (  10 ) vài sợi chỉ,
Mở mang trời đất một đàng kim.
Nhờ công cá nước che sương gió,
Giúp sức nhà vương xủ áo xiêm.
Một thuở ra tay người đặng ấm,
Trăm năm đẹp mắt kẻ quang chim.
CẢM HOÀI
I
Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình,
Trời đất gây nên cuộc chiến tranh.
Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách,
Nước non vung quén nước non mình.
Những trang vụn thế đành ngơ mặt,
Mấy gã trung quân nỡ phụ tình.
Bao thuở đem về cơ nhứt thống ?
Ngàn thu bia tạc đấng  trung trinh.
II
Trung trinh dốc trọn đạo tôi dân,
Nạn khổ xưa nay biết mấy lần.
Ở Hán dốc lòng phò vạc Hán,
Oán Tần ra sức đuổi hươu Tần. ( 11 )
Nhìn Nam chạnh tuổi cành hoa ủ,
Ngó Bắc ngùi thương đám bạch vân.
Cái nợ tang bồng than thở phận,
Đành đem dập dã phận phong trần.
III
Phong trần lắm lúc luống sầu riêng,
Biết mượn tay ai gỡ mối phiền.
Áo mũ ba đời ( 12 ) ơn rất trọng,
Can qua một cuộc nghĩa chưa tuyền.
Trớ trêu con tạo lòng đa xảo,
Tráo trở anh hùng buổi thiếu niên.
Phất phới bụi hồng đà trải dấu,
Tâm tình chìu uốn thú hàn huyên.
IV
Hàn huyên nghĩ phận luống bâng khuâng,
Tình cảnh xen qua lệ ngập ngừng.
Roi vọt dứt phần chưa phải vận,
Dây oan rối mối hãy lo chừng.
Nở nghe tiếng loạn đem tai rửa, ( 13 )
Đành thấy thằng gian để mắt trừng.
Mấy mặt anh hùng sao nép dấu,
Vạc nghiêng há dám một tay nâng.
V
Tay nâng há giám một mình đây,
Kẻ Bắc người Nam bấn dạ nầy.
Thế xự băng xăng cờ túng nước,
Nhân tình tráo chác gió rung cây.
Gia hòa bởi sóng mưu mô cạn,
Cắt đứt nên kiêng trí lực dày.
Gớm hỏi những người trên đất Việt,
Tấm lòng thiết thạch há như vầy?
VI
Như vầy chung nghĩa bấy lâu nay,
Dầu những người xưa cũng sánh tày.
Trướng vải lai rai cơn gió thổi,
Cành thu hiu hắt hột mưa bay.
Sông sâu sóng cả thuyền câu dập,
Đồng rộng hùm xa lũ chó vây.
Kìa nước nợ non cờ cuộc thế,
Đầy vơi tròn khuyết có sai rầy.
VII
Sai rầy cũng bởi cuộc phân băng,
Quỉ dự nhơn vì lúc ái tăng.
Gió bụi trăm chiều quen mặt cũ,
Đá bia một tiết giữ lòng hằng.
Hòn Nghê gọi chút tình mây nước,
Bến Nghé buồn riêng phận cỏ săng.
Cung kiếm cầm thơ cam hổ phận,
Sao cho tỏ rạng bậc tài năng.
VIII
Tài năng chi đó khéo trêu người,
Cái phận nam nhi luống nực cười.
Ngược đậu xuôi đi hiềm thế nước,
Sâu dầm cạn vén thuận tình đời.
Quang san dặm thẳng đường liền bước,
Tùng cúc vườn xưa cảnh nhớ người.
Tạo hóa một bầu xoay khí vận,
Đông qua xuân lại trở màu tươi.
IX
Màu tươi sắc tốt dám se sua,
Giàu cũng không khoe khó chẳng dua.
Mấy kỷ tuyết sương bền chí trẻ,
Chín từng mây móc gội ơn vua.
Thủy lưu xa ruổi ngoài ngàn dặm,
Tòng bá cao xây giữa bốn mùa.
Lời sáng nết cao từng thuở biến,
Mặc người lưỡi múa lại môi khua.
X
 Môi khua khéo học dạng cầu vinh,
Tiêu trưởng cơ trời dễ giám khinh.
Ấn hổ ( 14 ) sa ban miền Bắc khuyết, ( 15 )
Cờ triêu an dẹp mé Nam minh.( 16 )
Trăm năm bởi gặp khi nguy biến,
Bốn biển chưa vây cuộc diễm (vĩnh) tình.
Nhà nước một mai xoay vận thái,
Cõi Nam chung hưởng một thăng bình.
TỰ THUẬT
(Nguyên xướng Tôn Thọ Tường ( 17 ), Phan Văn Trị họa vận)
I
Hơn thua chưa khuyết đó cùng đây,
Chẳng đã nên ta phải thế này.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng ( 18 )  dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở.
Bủa lưới săn nai cũng có ngày,
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ.
Lòng ta sắt đá há lung lay,
II
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Người trí mãi lo danh chẳng chói,
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn in tay thợ,
Việc đánh hơn thua giống cuộc chờ.
Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Giám đâu mắt lấp lại tai ngơ.
III
Tai ngơ sao được lúc tan tành,
Luống biết trách người chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi của trâm anh.
Khe sầu vịnh tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có ất danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.
IV
Thân danh chẳng kể thật thằng hoang,
Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giáo xáo tang hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăn văn mới gặp vàng.
Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc,
Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.
V
Khoe khoang việc phải mới rằng khôn,
Kẻ vạy người ngay há một phồn.
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Người Nhan ( 19 ) há sợ dao kề lưỡi,
Họ Khuất  ( 20 ) nào lo nước đến trôn.
Tháy máy gặp thời ta sẽ động,
Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn.
VI
Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Dám trách người xưa chẳng tính xa.
Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Chìu lòn e cũng mõn hơi già.
Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Cung yếu chim cao bắn chẳng sa.
Đáy giếng trông trời thương mắt ếch,
Làm người như vậy cũng rằng là …
VII
Rằng là người trí cũng xa lo,
Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Ngày vạy nẻ ra cho biết mực,
Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Xe Châu ( 21 ) nào đợi kinh năm bộ,
Niếp Tống ( 22 ) vừa đầy sách nữa pho.
Chuốc miệng khen người nên cắc cớ,
Đạo trời ghét vậy há soi cho.
VIII
Soi cho cũng biết ấy là người,
Chẳng tiếc thân danh luống sợ cười.
Ba cõi may đâu in lại cũ,
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Ngọc lành nhiều vít coi không lịch,
Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Đứa dại trót già đời cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi.
IX
Một đôi mươi uống tính xăn văn,
Đất lở ai mà dễ dám ngăn.
Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa,
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Thương người vì nước ngồi không vững,
Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Gió xẳng mới hay cây cỏ cứng,
Dõi theo người trước giữ năm hằng. ( 23 )
                               X
Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nổi chìm mặc thế tình dày mỏng,
Cao thấp dù ta sức nhảy bay.
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.
ĐÁ CÁ THIA THIA
I
Đồng lọai sao ngươi chẳng ngỡ ngàng,
Hay là một lứa phải nung gan ?
Trương vi so đọ vài ngang nước,
Đâu miệng hơn thua nữa tấc nhang.
Ráng sức giây lâu đà tróc vảy,
Nín hơi trót buổi lại phùng mang.
Ra tài cửa Võ chưa nên mặt,
Cắc cớ khen cho khéo nhộn nhàng.
II
Đằm thắm mưa xuân trổ mấy màu,
Vì tài, vì sắc mới kình nhau.
Đua chen hai nước toan  giành trước,
Lừng lẫy đưa hơi chẳng chịu sau.
Mường tượng rồng đưa nơi biển thẳm,
Mỉa mai cù dậy dưới sông sâu.
Thuở hơi sóng dợn nhăn lòng nước,
Mắt thấy ai ai cũng cúi đầu.
Ghi chú:
1. Theo quyển Phan Thanh Giản của Nam Xuân Thọ thì Phan Thanh Giản có người bạn nghèo là Phan Dĩ Thứ ở làng Hạnh Thông tỉnh Gia Định, theo đây có thể suy đoán là Phan Văn Trị con của Phan Dĩ Thứ ở làng Hạnh Thông, tỉnh Gia Định.
2. Thảo mao : nhà cỏ, nhà lá.
3. Lương võ : Lương Võ Đế là ông vua tin theo đạo Phật đứng hàng thứ nhất trong lịch đại hoàng đế Trung Quốc. Lương Võ Đế lên ngôi năm 502 và mất năm 549 sau 48 năm trị vì.
4. Con giặt : chỉ cho hột lúa tốt, cho gạo trọng (tục ngữ : ăn tấm trả giặt)
5. Nghiêm Lăng: Cao sĩ đời Hán, giúp Quang Vũ đế trung hưng hiệp Hán, rồi cáo quan về ở ẩn núi Phú Xuân, sớm cày, tối câu.
6. Thao lược: Là ba lược, sáu thao: Ba lược gồm Thượng lược, Trung lược và Hạ lược tương truyền của Huỳnh Thạch Công. Còn sáu thao gồm : Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao, Khuyển thao tương truyền của Thái Công Vọng, cả hai đều là sách binh thơ.
7. Sông vị: Sông chảy qua kinh đô Hàm Dương, tỉnh Thiêm Tây. Chỗ Lữ Vọng ngồi câu cá, câu cá chờ thời, sau gặp vua Văn vương vời ra giúp để diệt nhà Ân mà lập nên nhà Châu.
8. L Vọng: Là Khương Thái Công hay Thái Công vọng hoặc Khương Thượng, tự là Tử Nha, tên chử là Lữ Vọng.
Theo sử Tàu, trước khi Tây bá muốn đánh vua Trụ, có mở một cuộc đi săn. Một nhà tiên tri báo trứơc rằng, vua chẳng săn được thú, mà sẽ gặp được một vị thần tướng.
Thật quả như thế, khi đếng gành sông vị, vua gặp một ông già đang ngồi câu  vua hỏi chuyện, ông ta đối đáp rất trôi chảy, rất vừa ý và rước Khương Tử Nha để giúp Chu diệt Trụ, ông sống đến 90 tuổi mới mất.
9. Huỳnh Đế: Theo truyền thuyết Trung Hoa, sau Bàn cổ đến Tam hoàng là Thiên hoàng, Địa hoàng, Tần hoàng. Đó là theo sử lý của Tư Mã Thiên, còn theo Thượng thư đại truyện thì Tam hoàng là Toại nhân, Phục hy và Thần nông. Sau Tam hoàng đến Ngũ đế là Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Đời Hoàng Đế hay là Huỳnh Đế biết làm nhà cửa, dệt cửi may mặc...
10. Âm dương: Chỉ miếng vải trên và dưới.
11. Hưu Tần: Do câu “Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục” (nhà Tần mất con hưu, thiên hạ đều theo đuổi).
12. Ba đời: Có ý chỉ Phan Thanh Giản thờ ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
13. Tích Hứa Do rửa tai sau khi nghe vua Nghiêu muống truyền ngôi cho ông.
14. Ấn hổ: Ấn vua ban cho quan võ.
15. Bắc khuyết: Cửa hướng Bắc chỉ triều đình.
16 Nam minh: Biển ở Nam.
17. Xem phần Tôn Thọ Tường.
18. Cồn rồng: Cù lao rồng ở Mỹ Tho. Y nói trận tấn công của Pháp.
19. Người Nhan: Nhan Cảo Khanh bị giặc bắt mà vẫn thoát quân giặc, không sợ cái chết kề bên.
20. Họ Khuất: Khuất Nguyên, tên Bình (243 – 277?), hoàng tộc nước Sở, được Sở Hoài vương tin dùng, sau bị thất sủng, ông thường can Sở Hoài vương nhưng vua Sở không nghe, nên sau thua Tần và bị chết ở đất Tần.
21. Xe Châu: Xe của Văn vương nhà Châu dùng đi dẹp Trụ.
22 Niếp Tống: Do tích một chiến sĩ nhà Tống, khi Tống mất, chịu chết chớ không chịu theo giặc.
23. Năm hằng: Tức là ngũ thường : Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

VIII. NGUYỄN HỮU HUÂN (1841-1875)
Nguyễn Hữu Huân tục gọi là Thủ Khoa Huân, Sanh tại làng Tịnh Hà, tỉnh Định Tường. Năm 1841, đổ thủ khoa dưới triều Tự Đức. Khi quân pháp chiếm miền Nam , ông chiêu mộ nghĩa quân, nổi lên kháng chiến tại Cai Lậy, không bao lâu uy thế ông lan rộng dến vùng Mỹ Quý, Thuộc Nhiêu, Tam Bình, tháng 6 năm 1863 bị quân Pháp vây đánh rất gắt, ông phải chạy qua An Giang, nhưng dưới áp lực của Pháp, nên tổng đốc An Giang phải bắt ông nạp cho Pháp.
Ông bị đày ra Côn Lôn ( 1 ), khi đi dày ông có sáng tác bài này.
Muôn việc cho hay số tại trời,
Chiếc thân hồ hải biết đâu nơi.
Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
Chén rượu Tân đình ( 2 ) nào luận tiếc,
Vầng thơ cố quốc chẳng ra lời.
Cương thường bởi biết mang nên nặng,
Hể đứng làm trai trả nợ đời.
Về sau pháp dày ông sang đảo Reunion ở Nam phi, cho đến năm 1873, ông được pháp tha cho về, nhưng bị quản thúc tại nhà Tổng đốc, Đổ Hữu Phương vốn là bạn cũ của ông.
Trong thời gian bị quản thúc, có lần Tổng đốc Phương mở tiệc vui, có người yêu cầu ông làm thơ, ông đã sáng tác bài “Khi được tha về” sau đây:
Nghĩ thẹn râu mày với nước non,
Nhìn nay tùng cúc, bạn xưa còn.
Miếu đường cách trở đường tôi chúa,
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
Áo Hán ( 3 ) nhiều phen thay vẻ lạ,
Rượu Hồ ( 4 ) một mặt đám mùi ngon.
Giang Đông ( 5 ) nổi tiếng nhiều tay giỏi,
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon.
Sau khi được ân xá ông lại dấy binh và gây thiệt hại nhiều cho quân Pháp, ông hoạt động ở cả Hà Tiên và Châu Đốc, là tham mưu của thiên hộ Nguyễn Duy Dương ở Đồng Tháp Mười.
Tháng tư năm 1875, ông lại bị quân Pháp bắt và kết án tử hình, để xử bản án này, người Pháp đưa ông về quê để hành quyết tại chợ Thân Trong tức chợ Phú Kiết tỉnh Định  Tường.
Tương truyền khi đó ông có ngâm bài thơ “Khi Bị Đóng Gông” ( 6 ) sau đây:
Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một gánh cang thường há phải gông.
Oằn oại đôi vai quân tử trúc,
Long lay một cổ trượng phu tòng. 
Thác về đât Bắc danh còn rạng,
Sống ở thành Nam tiếng bỏ không.
Thắng bại doanh thâu trời khiến chịu
Phản thần đéo hỏa đứa cười ông
Tới phút cuối cùng viên đại tá Pháp, người chỉ huy vùng Định Tường khuyên ông hứa không chống đối nữa là chúng tha ngay, nhưng ông chọn cái chết vinh hơn là sống nhục.
Trước khi bị hành quyết ông có yêu cầu vợ con tế sống một tuần và xin vải để viết bài thơ tuyệt mạng như sau:
汗  馬  難  堪  為  國  仇
Hãn mã nan kham vị Quốc cừu,
只  因  兵  敗  致  身  休
Chỉ nhân binh bại trí nhân hưu.
英  雄  莫  把  贏  偷  論
Anh hung mạc bả doanh thâu luận,
宇  宙  長  看  節  義  留
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu
無  怖  已  驚  胡  虜  魄
Vô bổ dĩ kinh hồ lổ phách,
不  降  甘  斷  將  軍  頭
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
當  年  萩  水  波  流  血
Đương niên Tho thủy ba lưu huyết,
龍  島  秋  風  起  暮  愁
Long đảo thu phong khởi mộ sầu.
Phan Bội Châu dịch:
Ruổi dong vó ngựa trả thù chung,
Binh bai cho nên mang phải cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vủ trụ,
Hơn thua xá kể với anh hùng!
Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ,
Quyết thác không hàng rạng núi song.
Tho thủy ngày nay pha máu đỏ,
Đảo rồng hiu hắt ngọn thu phong.
Diêp văn kỳ dịch:
Bâng khuâng thù nước mỏn hơi câu,
Bại trận nên chi phận dãi dầu.
Tuấn kiệt đâu màng cơn được mất,
Trung trinh nào sợ bước lờ lu,
Rơi đầu chẳng chịu hàng quân gic,
Lớn mật làm cho rúng lũ thù.
Sông Mỷ năm xưa tràn giọt máu,
Cồn Rồng đen tối gió buồn thu.
Nàng Út dịch:
Ngựa dẫm mồ hôi báo quốc cừu,
Binh tàn, thân chết, xiết ưu tư.
Miển còn tiết nghĩa trong trời đất,
Đừng nghĩ anh hùng chuyện được thua.
Tai giặc hoảng nghe lời khẳng khái,
Đầu rơi ông tướng chẳng hàng đầu.
Năm xưa sông Mỹ tuôn dòng máu,
Long đảo chiều thu nổi gió sầu.
Và đôi câu đối đ thờ:
有  志  難  申  空  枉  百  年  昭  物  議
Hửu chí nan thân  uổng banh niên chiêu vật nghị
雖  功  不  就  亦  將  一  死  報  君  恩
Tuy công bất tựu diệc tương nhất tử báo quân ân
Nghĩa: Có chí không bày, không uổng trăm năm lời nghị chúng,
            Tuy công chưa lập, cũng đành một thác báo ơn vua.
Sau khi ông bị hành huyết, như ta đã biết Tôn thọ Tường có khóc ông qua bài thơ “Bái công khóc Hạng Võ”, tưởng một lần nửa cũng nên ghi lại đây, để thấy thái độ Tôn Thọ Tường với những nhà ái quốc Miền Nam thời bây giơ.
Trăm hai non nước một gươm thần,
Hết giận thôi mà khóc cố nhân.
Con mắt bốn người nhìn với mắt
Cái thân tám thước tủi cùng thân.
Bát canh Quãng Võ ân còn nhớ,
Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn.
Giọt lệ anh hùng lau chẵng ráo,
Mặc ai rằng giả , mặc ai chân!
Văn thơ ông chắc có nhiều, nhưng truyền tụng có giới hạn rồi dần dần mai một bớt đi, ngày nay còn lại :
- Khi bị lưu đày.
- Khi được tha về.
- Vịnh cây bắp.
- Tuyệt mạng ( bằmg chữ Hán )
- Tế văn cẩu ( văn tế )
TRÍCH VĂN:
VỊNH CÂY BẮP
Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Hiềm vì thương chút chúng dân thơ.
Nương oai thích lịch ôm con đỏ,
Vâng lịnh Nam phong ( 7 ) phất ngọn cờ.
Miển đặng an nhà thêm lợi nước,
Chĩ nài dãi gió  lại dầm mưa.
Biển hồ dầu lặng tăm kình bặt,
Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.
TẾ CẨU VĂN
Bày vóc mình thoạt đã nằm trơ,
Bặt tăm tiếng sao không dậy sửa!
Hỡi ôi:
Hết tưởng ba ơn,
Đã về một ngỏ.
Nhớ chó xưa:
Tánh khí vốn ngừ nghè, - Nết na hay cử cỏ.
Ở trời Nghiêu an phận, đem thân nhờ người Chích chẳng dời, - Nằm đắt Thục khoanh đuôi, giật mình sửa vầng hồng đương lố.
 Lạc đường ngàn dặm , dẫn chủ nhân chẳng lộn đường về,- Giữ cửa năm canh, ngăn đạo giả đã khua tai mỏ.
Nào mấy ai hết sức, nương mây xanh theo Ngủ Bị ngày xưa, - Cũng có kẻ toan mưu, trộm áo trắng cứu Mạnh Thường thuở nọ.
Lòng không quên chủ, gặp người quen ngồi lại liếm quanh, - Tánh ỷ gần nhà, thấy kẻ lạ chạy ra nhảy bổ.
Ngươi bao quản lời qua cửa miệng, gã Tôn Thông chê lũ cẩu du, -    Mầy đã đành ôn tạc trong xương , ông Hán tổ vì công Quan Võ
Khi thanh vắng ở nhà gìn giữ, dấy oai phong khiếp chuột kiêng mào, - Lúc thảnh thơi theo chủ săn chơi, dở kỵ nghệ rượt chồn bắt thỏ.
Những tưởng ở miền thế tực, sống trăm năm rộng vóc dài lưng, - Nào hay đâu bị lũ ân chơi, rủi môt phút nhăn răng méo mỏ.
Ôi :
                      Hồn xuống chín sông, -  Thịt ra một rổ.
 Thương ơi thương, mình rướm mở vàng, - Thảm ỷ thảm, thịt sa lửa đỏ.
Đồ tống táng có tương, có mè, có sả, có đậu, nấu nướng rồi dọn đầy mâm, - Việc tế chay nầy hầm, nầy xáo, nầy lụi, nầy phay, muối mè đủ múc rồi khỏa tộ.
 Trên trước các thầy liêu lại, đủa đôi cây khều gã vào mồm, - Dưới sau mấy đứa em hầu, rượu ba chén đưa mầy vào cổ.
 Chẳng sống chi nằm chái nằm hè, - Thà thác đặng lên mâm lên cỗ.
 Thời nào thuở, cơm thì thừa, canh thì mặn, thấy ốm đau nào kẻ có màng, -  Đến lúc này, thịt thì béo, hơi thì thơm, nghe xào xáo nhiều người hỏi dọ.
Dầu có ức mi lên thưa cùng Phật Tổ, - Sao Trí Thâm thành Phật ngũ đài ?
Như có oan, gã kiện xuống Diêm La, - Sao Phàn Khoái phong hầu vạn hộ ?
Phải tánh ngươi thuần hậu, dễ ai tài chẳng thương tày, - Bởi nết gã lăng loan, nên phải sống sao đáng số !

Ghi chú:
1. Pháp lập khám đường Côn Lôn ngày 01/12/1862.
2. Tân đình: Nước Sở bị quân nước Ngô vây đánh rất ngặt, Thân Bao Tự vì nước Sở mà sáng nước Tần cầu cứu. Vua Tần không tỏ ra từ chối mà chẳng hứa giúp gì cả. Ngày lại ngày vua Tần lưu Bao Tự lại đãi yến tiệc ở Tân Đình. Bao Tự không thiết gì ăn uống, khóc lóc thảm thiết suốt 7 ngày. Vua Tần là Ái công thấy bề tôi mà trung với vua như thế, nên bằng lòng và cử quân sang cứu nước Sở, nhờ thế nước Sở được cứu khỏi quân Ngô. Vua Chiêu vương nước Sở trở về ngôi cũ, cho tìm thân Bao Tử để thưởng công. Nhưng Thân Bao Tử đã lánh đi mất.
3. Áo Hán: Chỉ cho nhà Hán ở Trung Hoa, một triều đại rạng rỡ nhất. Và người Trung Hoa họ tự nhận là Hán tộc là giống dân chính thống của Trung Hoa.
4. Rượu Hồ: Ý muốn chỉ cho thứ rượu của dân Hồ mà người Trung Hoa gọi là rợ Hồ, vì người Trung Hoa coi mình là người văn minh nhất đối với các giống dân khác.
5. Giang Đông: Đất Hạng Võ dấy binh rồi nổi lên cùng với Lưu Bang đánh Tần, sau Hạng Võ và Lưu Bang tranh nhau, Hạng Võ thất trận, khi thế cùng lực tận ông tự cắt đầu ở Ô Giang. Đỗ Mục có làm thơ đề ở Ô Giang đình, (đây là hai câu dịch của bài thơ trên), mà Giang Đông ở dây có ý chỉ, phe Tôn Thọ Tường tác giả bài “Tôn phu nhân quy Thục”, Tôn phu nhân người đất Giang Đông
6. Theo quyển Truyện khôi hài của Trương Vĩnh Ký in năm 1882, được ông Vương Hồng Sễn in lại trong Chuyện cười cổ nhân bài “Người can đảm” như sau :
Ông tiền quân Trắm (Tổng Trắm), nguyên là người Bắc, bị đày vô Nam với ông Khôi. Sau giặc Khôi nổi lên mà bị binh trào hạ thành được, bắt đóng gông bỏ vô củi điệu về kinh.
Người ta thấy bị mang gông, người ta xúm lại, người ta coi, thì Tổng Trắm bèn làm một bài thơ như vầy :
Thiên hạ ai ai có thấy không?
Cang thường một gánh chả phải gong!
Oằn oại hai vai quân tử trước,
Nghinh ngang một cổ trượng phu tong.
Sống về đất Bắc danh thơm ngợi,
Thác ở trời Nam tiếng hãy không.
Nên hư cũng bởi trời mà chớ,
Sá dễ là ai hại đặng ông?
Sau ngồi củi điệu về Huế ra tới Bình Thuận, ông cắn lưỡi chết đi. Như vậy bài thơ này của Tổng Trắm mà Nguyễn Hữu Huân có thể ngâm hoặc người sau nhầm lẫn ghép cho ông.
7. Trong kinh thi có câu :
“Nam phong chi huân hề, khá dĩ giãi ngô dân chi uân hề
Nam phong chi thời hề, khá dĩ phụ ngô dân chi tài hề”
Nghĩa là :
Gió phương Nam ẩm hề, có thể cởi mở được cơn nổi giận của dân ta.
Gió phương Nam thổi phải lúc hề, có thể thêm của cải cho dân ta.

IX- PHAN HIỂN ĐẠO (  ? -1862)
Phan Hiển Đạo là con ông Phan Hiển Tần, sinh quán tại Vĩnh Kim Đông nay là Vĩnh Kim, quân Long Định tỉnh Định Tường.
Năm Tự Đức thứ 9 (1855), Phan Hiển Tần đang làm Án sát tại tỉnh Gia Định, để chuẩn bị khoa thi sắp mở tại Kinh Đô, ông viết một phong thư rồi cho Phan Hiển Đạo quá giang ghe bầu ra Huế, để trao cho Phan Thanh Giản, xin gửi Phan Hiển Đạo chờ ngày dự thi. (lúc nầy Phan Thanh Giản là Hiệp biện đại học sĩ, Lãnh Binh Bộ Thượng Thư )
Trong khoa thi năm Bính Thìn (1856) Phan hiển Đạo đỗ tiến sĩ, sau khi vừa thi xong, ông được Phan Thanh Giản báo tin cho biết là thân mẫu ông đã từ trần, mặc dù tin này đến trước, nhưng Phan Thanh Giản không cho Phan Hiển Đạo hay, chờ thi xong mới báo tin .
Được hung tin, Phan Hiển Đạo bèn làm sớ kèm theo lá thư báo tang, dâng lên vua Tự Đức, để xin khước việc nhận áo mão, và dự yến tiệc do vua ban cho các vị tiến sĩ.
Vua Tự Đức thấy thơ báo tin ra trước ngày thi mà sao Phan Hiển Đạo không bỏ cuộc thi, lại dự thi rồi mới bỏ việc dự yến tiệc và nhận áo mão, nên nhà vua có phê: “Hà hửu Phan Hiển Đạo vi tử thế như, vi thần nhược hà?” Nghĩa là: Tại sao Phan Hiển Đạo làm con như thế, làm tôi thế nào?”
Mặc dù vậy, vua cũng gửi thánh chỉ cho quan Bố Chánh Định Tường để chủ lễ thọ phong Tiến Sĩ của Phan hiển Đạo .
Ông được bổ Đốc học Định Tường, sau đó tình hình Nam Kỳ rối reng, năm 1859 quân Pháp đánh Gia Định, tháng giêng năm 1861 quân Pháp lấy Kỳ Hòa.
Đến cuối tháng 2 năm 1861, quân Pháp đánh thành Mỹ Tho. Quan Hộ đốc Nguyễn Công Nhàn phải bỏ thành chạy, rồi sau đó Hòa ước Nhâm Tuất ra đời, Phan Hiển Đạo bỏ sở Học chánh Định Tường trở về quê quán ở Vĩnh Kim Đông mà nương náu, ở đấy bị uất khí vì cảnh nước mất nhà tan, rồi ông kết liểu đời mình bằng chén thuốc độc ( 1 ) có lẻ ông mất vào năm 1862.
Mộ ông hiện nằm tạiVĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, quận Long Định, tỉnh Định Từơng. Mộ xây bằng đá ong, tấm bia xây bằng đá trắng có khắc mấy dòng chữ Hán.
“Công húy Hiển Đạo, tánh Phan thị, dĩ tiến sĩ ly quan chí Định Tường học chánh.
Tự Đức niên, Pháp lan khâu quốc thông vang, công bất khuất, tử táng Vĩnh Kim Đông chi hương.
Ô hô ! Sĩ cùng tiến kiết nghĩa, thế loạn thức trung thần.
Đường Cử nhân Phan Bộ Tam”
Văn thơ ông ngày nay chỉ thấy còn có hai câu chữ Hán :
Long đảo vân trình văn bút chỉ,
Sầm giang ba tĩnh mặc trì hương.
Nghĩa là :
Long đảo mây bay dệt áng văn,
Sông Sầm sóng lặn ao thơm mực.
Và người sau có làm bài Ca dao sau đây :
Lớp sau Thanh Giản tiếng đồn,
Là Phan Hiến Đạo với Tôn Thọ Tường.
Ông thời nho nhã văn chương,
Ông thời thi phú tốt đường diệu công.
Ông về thác Vĩnh Kim đông,
Ông ra giúp nước bụng đồng tương tri.
Một còn một mất trọn nghì,
Nghìn thu bia tạc Nam kỳ danh nho.
Với lời ghi trên mộ bia, ca dao và bài thơ điếu của Nguyễn Liên Phong ( 2 ), chắc Phan Hiến Đạo không có ý thỏa hiệp với Pháp như Tôn Thọ Tường, nhưng có một sự hiểu lầm nào đó, nên có một truyền thuyết như ông Khuông Việt đã cho chúng ta biết, tưởng người sau cũng nên gỡ tiếng hàm oan cho ông. Ở miền Nam chỉ có vài ông Tiến sĩ ( 3 ), tiếc rằng Phan Hiển Đạo mất sớm văn nghiệp không là bao, những gì đã có thì ngày nay không thấy truyền tụng lại.

Ghi chú:
1. Theo ông Khuông Việt viết trong sách Tôn Thọ Tường, khi quân Pháp lấy Nam Kỳ, ông có ý định cùng Tôn Thọ Tường ra làm quan với Pháp, rồi có một hôm ông xin yết kiến Phan Thanh Giản. Phan Thanh Giản không tiếp mà phê: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh”. Nghĩa là : Người con gái đã bị chúng lấy còn gì là trinh.
Đọc mấy lời ấy Phan Hiển Đạo đau xót chẳng cùng, hối hận cho việc làm của mình nên ông trở về Vĩnh Kim Đông uống thuốc độc tự vẫn.
2. Ông Nguyễn Liên Phong trong Điếu cổ hạ kim thi tập có thơ điếu:
Nối dấu văn tinh mạnh vẽ son ,
Rủi ro thời thế tiếng không tròn.
Cõi bờ chủ mới lăng vun quén,
Cờ biển ân xưa nghĩ héo don .
Dạ đài một giấc nín hơi ngon.
Khúc đàn lưu thủy trôi giòng bích,
Mà giọng đàn tranh điệu Huế còn
3. Các vị Tiến sĩ miền Nam
             - Phan Thanh Giản (1796 – 1867) đậu khoa Bính Tuất 1826
             - Phan Hiển Đạo (? – 1862?) đậu khoa Bính Thìn 1856
             - Nguyễn Chánh (1834 - ?) đậu khoa Nhâm Tuất 1862. ông người thôn Phú Mỹ, làng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định.

X- NGUYỄN VĂN LẠC ( ? -1915)
Nguyễn Văn Lạc hiệu Sầm Giang, tục danh Học Lạc, ông sanh tại làng Tân Mỹ Chánh, quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường, không biết vào năm nào, nhưng có lẽ mất vào năm 1915 tại Thuộc Nhiêu, Định Tường.
Khi Pháp Đánh lấy Mỹ Tho, ông có làm bài thơ “Có quan hùng dũng” để chăm biếm quan hộ đốc Nguyễn Công Nhàn bị quân của tướng Page đánh lấy thành Mỹ Tho năm 1861, quân ta thất trận, Nguyễn Công Nhàn bỏ thành chạy :
Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn,
Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan.
Giặc tới Bến Tranh lun lập cập,
Tàu vô cửa Tiểu chạy bò càng.
Mưu thần trước biết ngang sông chắn,
Kế dữ sau toan đống củi hàng.
Thất thủ muốn liều cho vẹn tiết,
Ngặt vì con vợ bận chưa an.
Sau khi Nam kỳ thụôc Pháp, ông sống bằng nghề dạy học và làm thuốc, vì ông có tính hay làm thơ châm biếm người, nên nhiều người bị châm biếm ghét ông, do đó nhân có vụ chơi bông vụ bị làng bắt, không rõ vì nguyên nhân nào mà ông bị bắt chung với khách trú, dù sao thì chúng ta cũng thấy rằng ban Hội tề làng Thuộc Nhiêu không vị nễ ông. Sau khi được tha, ông có làm bài thơ trào phúng “Cùng nhau bị bắt” :
Hóa An Nam lứ Khách trú,
Trăng ( 1 ) trói lằng nhằng chung một lũ.
Ngoài mặt ngỡ ngàng lạ Bắc Nam,
Trong tay cắc cớ xui đoàn tụ.
Bợm làng chẳng vị sĩ Nam kinh,
Ông Bổn ( 2 ) không thương người bảy phủ.
Phạt tạ xong rồi trở lộn về,
Hóa thì hốt thuốc, lứ bông vụ.
Bị ép phải làm Hương Văn ( 3 ) trong làng, khi cúng Kỳ yên ở đình, mỗi vị Hương chức đều đóng góp phần mình một mâm xôi, để tránh nhầm lẫn khi đem mâm xôi đến đình, phải để chức vị hay tên Hương chức ấy, ông chỉ đề: “Thằng Lạc” nên bị làng bắt lỗi và ông phải làm bài thơ “Tạ hương đảng” để chuộc lỗi ấy, tuy để giải bày việc làm của mình không có ý khinh khi Ban Hộ tề, nhưng lời lẽ vẫn châm biến :
Vành mâm xôi đề thằng Lạc ,
Nghĩ mình ti tiểu không đài các .
Văn chương chẳng phải bọn mèo quào,
Danh phận không ra cái cóc rác.
Bởi thế bơ thờ thẹn núi sông,
Dám đâu vúc vắc ngạo cô bác .
Việc này dầu có thấu lòng chăng,
Trong có ông thần ngoài cặp hạc.
Sở dĩ ông được kể đến trong phần này, vì thơ ông có giọng chầm biếm, lợi khí của những người sức yếu, thế cô dùng để chỉ trích hạng người ỷ lại quyền thế, hiếp đáp dân lành. Ông mỉa mai làng, tức là những người có theo Pháp, dùng mệnh lệnh ở sức mạnh của kẻ cai trị để trị dân, để hà hiếp nhưng người dân ngu khu đen. Mặc dù không phải là tất cả, nhưng bất cứ ở đâu cũng có những người như thế, và cũng để châm biến hạng người nầy, ông còn sáng tác bài  “Con trâu”:
Mài sừng cho lắm cũng là trâu ,
Gẫm lại mà coi thật lớn đầu.
Trong bụng lam nham ba lá lách ,
Ngoài càm lém đém một chòm râu.
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm giây đờn khảy biết nghe đâu?
Thơ của Nguyễn Văn Lạc ngày nay còn truyền tụng lại những bài Đường luật, để có một giọng châm biếm cao độ mà người ta thường nói là “Nói xóc”, nên ông đã đặc biệt dùng vần trắc, như bài “Cùng nhau bị bắt” hay “Tạ hương đảng” ngoài ra cũng có vài bài trữ tình như “Tức cảnh ban chiều” sau đây:
Ngó ra ngoài ngõ gió hiu hiu,
Xem thấy cảnh trời, trời đã chiều.
Hăm hở trẻ con múa lại hát,
Đứa thì làm tướng, đứa làm yêu.
ĂN TIÊN LẦU Ở MỸ THO
Dễ muốn ăn chơi thế vậy à?
Người đời thắm thoát ngựa cu qua
Tháng ngày thoi trở năm càng thúc
Râu tóc sương bay tóc đã già
Khiển hứng no nê mùi Quảng Tống
Tiêu sầu quay quắt rượu Lang sa
Trải xem ai nấy đều mê mệt
Há để mình ta tỉnh đặng mà.
Đến thời kỳ của Nguyễn Văn Lạc, miền Nam là đất thuộc địa của Pháp như là một chuyện đã rồi của người bình dân, nên trong lúc này, văn chương của ông đã bị chìm sâu vào cái mênh mông của chánh sách thuộc địa. Không khí chánh trong khung cảnh lắng chìm nhưng những bài thơ của ông cũng biểu hiện được thế chánh trị của ông. Dám chống đối Ban Hội Tề, tức là ông có cái can đàm của nhà Nho, nhận cái trách nhiệm nơi mình, không sợ hậu quả miễn là mình hành động đúng với bổn phận, từ đó ông dám vượt khỏi câu tục ngữ “Phép vua thua lệ làng”.
TRÍCH VĂN
Về thơ chữ Hán có câu :
Mạc vị quán trung vô Phiếu mẫu ( 4 )
Chỉ hiềm lộ thượng thiếu Vương Tôn ( 5 )
Nghĩa :
Đừng nói quán này không Phiếu mẫu,
Chỉ hiềm khách lại thiếu Vương Tôn
CHÓ CHẾT TRÔI
Sống từng bắt thỏ, thỏ kêu rêu,
Thác thả dòng sông xác nổi phều.
Vằn vện sắc còn phơi lểnh đểnh,
Thối tha danh hãy tấp lều bều.
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,
Đưa đón lao xao lũ quạ diều.
Gặp lúc mưa giông cơn sóng dữ,
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu.

Ghi chú:
1. Trăng: tức là đóng trăng dụng cụ bằng sắt như hình chữ U ở hai đầu có vòng để kẹp vào chân rồi lấy cây sắt xỏ ngang qua.
2. Ông Bổn: Người Trung Hoa thờ ở Đình.
3. Hương Văn: chức việc ngoài Ban Hội Tề (Ban Hộ tề chỉ có 12 người).
4. Phiếu mẫu: Người đàn bà ở đất Hà âm, nuôi cơm Hàn Tín khi chàng chưa nên danh phận, sau khi giúp Lưu Bang được phong làm Nguyên soái có danh phận, chàng đem ngàn lượng vàng đền ơn Phiếu mẫu.
5. Vương Tôn: Tức là Hàn tín, trước phò dưới trướng Hạng Võ chỉ làm một vị quan nhỏ, sau Trương Lương đưa vào đất Hán Trung được Lưu Bang phong làm Nguyên soái, đem quân về đánh lấy đất Quang Trung. Hàn Tín rất có công đối với nhà Hán.

XI- TỔNG KẾT
Thời kỳ này được chấm dứt vào năm 1867, khi quyển Chuyện đời xưa được in bằng chữ Quốc ngữ, văn học miền Nam đã bưc sang một giai đoạn mới sẽ được bàn đến ở chương sau. Riêng trong thời kỳ này, văn học Việt Hán, Nôm của miền Nam cho chúng ta thấy các văn sĩ miền Nam phần đông đã bày tỏ lập trường chánh trị của mình, họ đã dùng văn chương để đối kháng với bọn thực dân Pháp, để bài xích những người theo Pháp, để un đúc tinh thần kháng chiến mà Nguyễn Đình Chiểu và Phan Văn Trị được coi là hai nhà văn tích cực dùng văn chương làm phương tiện như là một loại khí giới cho mục tiêu vừa kể. Nhưng người có hành động cụ thể và quả cảm có thể nói đó là Nguyễn Hữu Huân mà qua bài thơ Tuyệt mạng chúng ta thấy rõ ý chí của ông :
………………………………
Vô bố dĩ kinh hồ lỗ phách
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu
Đương niên Tho thủy ba lưu huyết
Long đảo thu phong khởi mộ sầu
Nếu sau này, chúng ta thấy có những nhà văn dấn thân, thì Nguyễn Hữu Huân đã vượt lên sự dấn thân ấy.
Việc xướng họa của Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường để làm sáng tỏ hướng chánh trị, cũng như bày tỏ hành động hay tư thế của mỗi người trong thời kỳ này. Tôn Thọ Tường là văn nhân, dĩ nhiên, ông muốn dùng văn chương để bày tỏ hành động của mình trong giai cấp Nho sĩ thời đó, còn Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt và Bùi Hữu Nghĩa với tình thần quốc gia đã gạt Tôn Thọ Tường ra ngoài giai cấp Nho sĩ trong giai đọan vong quốc theo quan niệm trung quân, ái quốc của nhà Nho. Bởi vì theo họ, cứu cánh việc làm của Tôn Thọ Tường không thể biện minh cho phương tiện của ông được.
Đến nay, với dữ kiện lịch sử đã qua, cho chúng ta thấy hành động của Phan Thanh Giản trong việc giao 3 tỉnh miền Tây cho Pháp, về mặt chánh trị là hành động sai lầm, nhưng về phương diện chiến tranh, là một hành động hết dạ nhân từ thà mình chịu chết, để dân chúng khỏi bị lằn tên mũi đạn, khỏi lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, con không mất cha, vợ khỏi mất chồng.
Phan Thanh Giản là một nhân vật bao trùm hết thời kỳ này, nói khác hơn ông có một ảnh hưởng rộng lớn đối với sĩ phu miền Nam, mà Án sát Phạm Viết Chánh thời đó đã viết:
Sổ hàng di biểu lưu thiên địa,
Nhất phiến đang tâm phó sử thư.
Về văn chương, đây là một thời kỳ rực rỡ của văn học miền Nam, ngoài văn chương là một thú tiêu khiển tao nhã, nó còn được sử dụng đúng với quan niệm của Hàn Dũ “Văn dĩ tải đạo”, các tác phẩm Lục Vân TiênNgư Tiều vấn đáp y thuậtDương Từ Hà Mậu của Nguyễn Đình Chiểu hay tuồng Kim thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa đã được sáng tác theo đúng quan điểm ấy. Đặc biệt truyện Lục Vân Tiên đã được phổ biến rộng rãi trong văn giới, và lớp bình dân miền Nam cũng nhiệt liệt đón nhận, để làm món ăn tinh thần trong đời sống của họ, vừa giải trí cũng vừa để giáo dục, như tác giả đã ghi rõ quan niệm của mình khi sáng tác.
………………………….
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Giữ răng việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
………………………….
Về sử thì có Minh Mạng chánh yếu (1837) và Khâm Định Việt Sử cương giám khảo lược do Phan Thanh Giản làm tổng tài biên soạn năm 1853. Sau này có Nguyễn Thông sọan Việt Sử cương giám khảo lược in năm 1877.
Về Du Ký thì có Tôn Thọ Tường diễn Nôm Tây phù nhật ký.
Nói chung đến thời kỳ này văn học miền Nam đã viết nhiều thể tài. Dĩ nhiên miền Nam là đất mới, không thể nào đem so sánh với miền Bắc về lượng và phẩm được, nhưng ít ra văn học miền Nam trong thời kỳ này, cũng đủ góp công tô điểm cho nền Văn học Việt Nam.


No comments:

Post a Comment