Saturday, January 5, 2013

VĂN HỌC BÁC HỌC

Người ta thường dùng văn học bác học hay văn học thành văn để chỉ cho loại văn học được sáng tác và truyền bá với phương tiện văn tự. Đối với văn học Việt Nam cũng như văn học miền Nam nó gồm cả các thời kỳ lớn là văn học Việt Hán, văn học Nôm và văn học Quốc ngữ. Riêng về miền Nam thì có lúc cả ba thời kỳ này không có giới hạn, nghĩa là chúng được sáng tác trong một thời gian. Từ khi miền Nam được dựng lên thì đã có văn học Việt Hán cùng văn học Nôm được vun quén và đua nhau nở trong vườn văn học miền Nam, cho đến khi người Pháp chiếm miền Nam làm thuộc địa thì lại có thêm Văn học Quốc ngữ từ đó văn học Nôm bắt đầu tàn tạ. Văn học Việt Hán mặc dù cho đến nay vẫn còn nhưng càng ngày càng hiếm hoi bởi vì chữ Hán không còn giữ một vai trò quan trọng về văn tự cũng như khoa cử ở miền Nam này. Trong chương này chỉ đề cập đến văn học Việt Hán và văn học Nôm còn văn học Quốc ngữ sẽ đề cập đến ở chương kế.
Dù thế nào, hoặc chậm hay sớm thì các biến cố lịch sử cũng có tác động mạnh mẽ vào văn học, từ khi cuộc Nam tiến hoàn thành cho đến khi có văn học Quốc ngữ thời gian này có thể chia làm 2 thời kỳ.
1. Thời kỳ sơ khởi.
2. Thời kỳ văn học chính trị.


 THỜI KỲ SƠ KHỞI
Mạc Thiên Tích (1706-1780) và Nhóm Chiêu Anh Các (1736)
Võ Trường Toản ( ? - 1792)
Nguyễn Văn Thành ((1757-1817)
Lê Quang Định (1759-1813)
Ngô Nhân Tịnh (  ?  - 1813)
Trịnh Hoài Đức (1765-1825)
Trong thời kỳ này trước tiên có Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh Các. Mạc Thiên Tích vốn là người Minh Hương, thân phụ ông là Mạc Cữu người đã dựng nên đất Hà Tiên. Mặc dù Mạc Cữu thần phục Chúa Nguyễn, Trấn Hà Tiên là đất Việt Nam từ năm 1714, nhưng Chúa Nguyễn vẫn để cho họ Mạc rất nhiều quyền hành, không khác gì một chư hầu, nay trên núi Bình Sơn vẫn còn có nền Tế Sơn Xuyên, Xã Tắc đủ biết họ Mạc vốn đã nuôi chí lớn.
Mạc Thiên Tích đã dùng thi văn để ca tụng những cảnh đẹp ở Hà Tiên, trước nhất là ông ca tụng công đức lớn lao của Mạc Cữu đã có công khai phá mãnh đất mới này, chí lớn của ông được ký thác qua 2 câu kết trong bài Hà Tiên Thập Cảnh Tổng Vịnh :
Bình san, Thạch động là rường cột,
Sừng sựng muôn năm cũng để dành.
Không thần phục nhà Thanh, còn Chân lạp và Xiêm la thì yếu kém nên họ Mạc đã thức thời qua 2 câu thực trong bài Lộc trỉ cư thôn.
Duỗi co chẳng túng càn khôn hẹp,
Ngửa cúi vì tuân giáo hóa lành.
Đến Võ Trường Toản qua bài Hoài Cổ Phú của ông còn để lại, người ta có thể thấy ông có quan niệm rõ ràng về cuộc sống: tiền tài, danh lợi, giàu sang, phú quý cũng như một đám mây bay, cuộc đời chỉ có: nhân, nghĩa và đạo đức làm trọng.
Lời của ông nằm trong khuôn khổ đạo Nho, nhưng nhờ có sở học uyên thâm, ông mới làm sáng tỏ được đạo thánh hiền, chẳng những ông đã đào tạo cho Chúa Nguyễn một số công thần hữu danh mà còn để lại ảnh hưởng sâu rộng về sau Phan Thanh Giản đã hết lòng ca tụng.
Cho đến cuối thời kỳ này, có Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức nổi danh một thời. Họ được xưng tụng là Gia Định tam gia, Trịnh Hoài Đức với quyển Gia Định thống chí ông đã ghi chép trong năm trấn từ phong thổ, tạp quán, di tích cho đến những nguồn lợi thiên nhiên của miền Nam, không những nhằm mục đích cho mọi người thấu rõ, mà còn có ý để ca tụng miền đất mới do Chúa Nguyễn đã dày công thu phục được.
Mặc dù thời kỳ này thi gia đa số là người Minh Hương, họ đều mang nặng một tấm lòng phản Thanh phục Minh, nhưng họ đều là những khai quốc công thần của Nhà Nguyễn, họ đã hết dạ trung thành với Chúa Nguyễn. Trịnh Hoài Đức có câu đối đề ở Trung Hiếu Từ.
自  家  夫  發  還  中  好
Tự gia phu phát hoàn trung hiếu,
浮  海  波  濤  外  死  生
Phù hải ba đào ngoại tử sinh.
Truy niệm người nhưng phát ra từ tấm lòng mình, cùng tâm hồn thi sĩ, cùng cảnh ngộ, thì chắc hẳn tấm lòng trung hiếu của họ Trịnh có khác gì họ Mạc ở Hà Tiên.
I- MẠC THIÊN TÍCH (1706 – 1780) VÀ CHIÊU ANH CÁC (1736):
Mạc Thiên Tích (Tứ) là con Mạc Cữu, sanh năm 1706 ở Trủng Kè (Réam) Campuchea, Tộc danh là Tông về sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, tự Sĩ Lân, hiệu Sĩ Lân Thị. Năm 1735, Mạc Cữu mất, chúa Nguyễn Phong cho Thiên Tích chức Tổng trấn Hà Tiên lo chấn hưng văn hóa, tổ chức hội thơ, lập thi phái Chiêu Anh Các, lập văn miếu thờ Khổng phu tử.
Năm 1753, khi Nguyễn Cư Trinh cử binh sang chinh phạt Nặc Nguyên vì Nặc Nguyên hà hiếp dân Côn man và thông sứ với đàng ngoài. Đến năm 1755 Nặc Nguyên thua bỏ chạy qua Hà Tiên sống nương náu với Mạc Thiên Tích. Thiên Tích dâng sớ xin với Nguyễn vương cho Nặc Nguyên về làm vua Chân lạp và Nặc Nguyên sẽ hiến đất Tầm Bôn (Mỹ Tho) và Lôi Lạp (Gò Công) để chuộc tội. Nguyễn Cư Trinh cũng dâng sớ về triều xin Chúa Nguyễn dung chính sách “Tàm thực”, chính sách này được Chúa Nguyễn thuận cho.
Năm 1757, Nặc Nguyên mất, Nặc Nhuận làm quốc giám rồi cướp ngôi, đến năm sau bị con rể là Nặc Hinh giết chết. Trong khi ấy con Nặc Nguyên là Nặc Tôn cũng chạy sang Hà Tiên cầu cứu với Mạc Thiên Tích. Mạc Thiên Tích lại dâng số về triều xin với Chúa Nguyễn cho Nặc Tôn về làm vua Chân Lạp. Võ Vương bèn cho Trương Phúc Du ở Gia Định cử quân sang đánh Chân Lạp, Nặc Hinh thua chạy bị kẻ thuộc hạ giết chết. Mạc Thiên Tích đưa Nặc Tôn về làm vua Chân Lạp, lại được Võ Vương phong cho chức Phiên vương. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc năm 1759) cho Chúa Nguyễn, rồi cắt 5 phủ vùng duyên hải từ Sré Ambel đến Réam để tạ ơn họ Mạc. Mạc Thiên Tích bèn dâng cho Võ vương, Võ vương bèn cho sáp nhập vào trấn Hà Tiên.
Năm 1767, nước Xiêm bị Miến Điện xâm lấn, vua Xiêm bị giết, hoàng tử Chiêu Thùy chạy sang Hà Tiên tá túc với Mạc Thiên Tích. Trịnh Tân (Người Trung Hoa). Sau khi dẹp yên giặc trong nước, liền lên ngôi vua nước Xiêm, rồi có ý đòi Mạc Thiên Tích đưa hoàng tử Chiêu Thùy về để giết đi mà trừ hậu hoạn, trong lúc đó thì Mạc Thiên Tích muốn giúp Chiêu Thùy khôi phục lại ngai vàng, nên hai lần sai con rể và cháu cử binh sang đánh, mỗi lần như thế Trịnh Tân đều dùng thế cầm chân, quân của họ Mạc vì không quen phong thổ phải bỏ mạng rất nhiều, hoặc bị bão đánh đắm chiến thuyền nên phải rút quân về.
Đến năm 1771, quân Xiêm đã mạnh, Trịnh Tân bèn cử binh sang đánh, quân của họ Mạc yếu kém nên Hà Tiên thất thủ, Mạc Thiên Tích bỏ thành chạy về Gia Định. Mãi đến năm 1773 theo lệnh Định Vương, Thiên Tích cử người sang Xiêm thương thuyết, Trịnh Tân mới giao trả lại Hà Tiên.
Năm 1774, Tây Sơn nổi lên và Trịnh Sâm lại cử binh đánh lấy Phú Xuân, Định Vương thua chạy vào Gia Định. Thiên Tích đem các con về Gia Định ra mắt Định Vương, trong dịp này được Định vương phong cho là Quốc lão Đô đốc Quận công và cũng phong chức cho ba người con của Thiên Tích là Tử Hoàng, Tử Thượng và Tử Dung.
Thiên Tích sai Tử Dung theo Tống Phúc Hợp đem quân đánh Tây Sơn, lấy lại được ba phủ Bình Thuận, Diên Thuận và Bình Khánh.
Năm 1776, Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, không còn dùng chiêu bài của Đông cung Nguyễn Phúc Dương nữa, nên Đông cung lén trốn được về Gia Định, Định Vương được tôn lên làm Thái Thượng vương và Đông cung làm Tân Chính vương.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vào đánh Gia Định, Chúa Nguyễn thua, Nguyễn Huệ đuổi theo bắt được Thái Thượng vương ở Long Xuyên (Cà Mau) và Tân Chính vương ở Ba Vát (Vĩnh Long), cả hai bị đưa về Gia Định giết. Còn Nguyễn Ánh chạy theo sông Ông Đốc rồi trốn qua đảo Thổ Châu (Poulo Panjang), còn Mạc Thiên Tích và Hoàng thân Xuân trước chạy qua Lan Xan (khỏi Chantaboun – nước Xiêm), chưa có ý định tá túc ở Xiêm thì Trịnh Tân hay được bèn cho sứ đến mời ông về ngụ tại Vọng Các. Bên ngoài ra chiêu tiếp đãi tử tế, mà thật tâm thì giam lỏng ông, nên năm 1977, Nguyễn Ánh khôi phục được Gia Định rồi, có cử sứ sang Xiêm để rước Thiên Tích về nhưng Trịnh Tân không cho. Năm 1780, sau khi xưng vương, Nguyễn Ánh cử người sang rước Thiên Tích, Hoàng thân Xuân, một lần nữa Trịnh Tân cũng không thuận cho, còn bày mưu đánh khảo Hoàng thân Xuân và thuộc hạ, nên Thiên Tích phẩn chí nuốt vàng lá tự tử. Sau triều Nguyễn sắc phong cho ông là Hà Tiên trấn, Tổng binh Đại Đô đốc, Quốc lão Sùng quận công.
Về Chiêu Anh Các, một hội tao đàn mà nơi ấy cũng là văn miếu được thành lập như sau: “Mùa xuân năm 1736, có Trần Trí Khải hiệu Hoài Thủy từ Trung Quốc sang Hà Tiên chơi, Mạc Thiên Tích trọng đãi vào hàng thượng khách, trong khi nhàn hạ ngâm vịnh với nhau, Thiên Tích có đem “Hà Tiên thập cảnh” cho Trần Trí Khải xem, rồi Trần Trí Khải dựng nên Tao Đàn, gọi là Chiêu Anh Các. Sau đó Trần Trí Khải về Quảng Đông đưa ra những bài xướng họa, được một số văn nhân họa them, rồi ông ta gom thành tập gởi về Hà Tiên, thượng tuần tháng sáu năm Định Vị (1737) Mạc Thiên Tích đề bài Tự ở Thụ Đức Hiên để in mộc bản. Trong trận giao tranh với quân Xiêm năm 1771, dưới ngọn lửa bạo tàn của Trịnh Tân, đã thiêu đốt phần nào cơ nghiệp của Mạc Cữu khai phá tạo dựng nên đất Phương Thành, chẳng những là một sự hủy họai công trình họ Mạc mà văn học sử Việt Nam cũng mất một kho tàng quý giá, ngày nay chúng ta không còn có đủ tài liệu để mô tả của nhóm Chiêu Anh Các thật sự là bao nhiêu, nếu căn cứ vào hai câu thơ còn truyền tụng lại :
Tài hoa lam lập trứ Phương Thành,
Nam Bắc hàm vạn thập bát anh.
Thì những bậc tài hoa ở Phương Thành đông đúc, nhưng Nam Bắc xưng tụng 18 vị.
Theo sách “Phủ hiên tạp lục” của Lê Quý Đôn (khắc bản năm 1776) ông cho biết có giữ được sách in bản “Hà Tiên Thập Vịnh” do Mạc Thiên Tích xướng 10 bài có 31 danh sĩ khác họa lại, nên tổng cộng 320 bài đường luật.
Mười cảnh đó được Mạc Thiên Tích đặt tên như sau :
1- Kim dự lan đào (Hòn đảo vàng ngăn chận sóng to)
金  嶼  欄  濤
2- Bình san điệp thúy (Núi dựng một màu xanh)
屏  山  疊  翠
3- Tiêu tự thần chung (Tiếng chuông sớm ở ngôi chùa tịch mịch)
蕭  寺  晨  鐘
4- Giang thành dạ cổ (Tiếng trống đêm ở thành lính ven sông)
江  城  夜  鼓
5- Thạch động thôn vân (Động đá nuốt mây)
石  洞  吞  雲
6- Châu nham lạc lộ (Núi ngọc cò đậu)
珠  岩  落  鹭
7- Đông hồ ấn nguyệt (Hồ Đông in bóng trăng)
東  湖  印  月
8- Nam phố trừng ba (Bờ biển Nam lặng sóng)
南  浦  澄  波
9- Lộc trỉ thôn cư (Thôn trại ở Mũi Nai)
鹿  峙  村  居
10- Lư khê ngư bạc (Thuyền đỏ ở rạch Vượt)
鱸  溪  漁  泊
Lê Quý Đôn có chép rõ danh sách 31 vị đã họa 10 bài vịnh “Hà Tiên thập vịnh”, gồm có 25 danh sĩ Trung Hoa :
1- Chu Phác
2- Ngô Chi Hàn
3- Đan Bỉnh Ngự
4- Lý Nhân Trường
5- Vương Xướng
6- Vương Đắc Lộ
7- Lộ Phùng Cát
8- Từ Hiệp Phỉ
9- Trần Dược Uyên
10- Trần Minh Hạ
11- Trần Diễn Tú
12- Tôn Văn Trân
13- Tôn Thiên Thụy
14- Tôn Quý Mậu
15- Lâm Duy Tắc
16- Từ Hoằng
17- Lâm Kỳ Nhiên
18- Trần Duy Đức
19- Từ Đăng Cơ
20- Dương Ngọc Sùng
21- Trần Bá Phát
22- Hoàng Kỳ Trân
23- Châu Cảnh Dương
24- Trần Thụy Phượng
25- Trần Tự Hương
Và 6 danh sĩ Việt Nam :
1- Trịnh Liên Sơn
2- Phan Thiên Quảng
3- Nguyễn Nghi
4- Trần Trinh
5- Đặng Minh Bản
6- Mạc Triêu Đán
Về sau khi Nguyễn Cư Trinh vào Nam chinh phạt Nặc Nguyên năm 1753 có đến Hà Tiên thảo luận sách lược và có ngâm vịnh với Mạc Thiên Tích nên ông có họa thêm 10 bài, như thế trong ấn bản kỳ đầu khắc năm 1737 chỉ có 320 bài xướng họa và sau này thêm phần của Nguyễn Cư Trinh vào nâng lên tổng số là 330 bài và cũng có thể còn nhiều hơn số mà chúng ta được biết, chỉ tiết rằng cuộc chinh chiến năm 1771 tại Phương Thành, đã thiêu rụi Chiêu Anh Các, nên ngày nay chúng ta chỉ còn biết 33 vị có làm thơ xướng họa thôi.
Đến năm 1977, Lê Quý Đôn viết “Kiến văn tiểu lục”, cho biết Mạc Thiên Tích còn có thơ hồi văn, vịnh bốn mùa ở Thụ Đức hiên, ông không chép bài nào của họ Mạc xướng, mà lại chép 9 bài họa của 9 danh sĩ, có lẽ đó là những bài thích ý mà Lê Quý Đôn đã chọn lựa. Ông có kê rõ 32 danh sĩ có thơ họa và kể thêm Mạc Thiên Tích là 33 vị bằng với số các danh sĩ xướng họa theo “Hà Tiên Thập Vịnh”. Sau đây là danh sách do Lê Quý Đôn ghi lại :
1- Dư Tích Thuần
2- Uông Hề Lai (Đ)
3- Thái Đạo Pháp (T)
4- Lê Giản Tư
5- Lý Sĩ Liên
6- Trần Thành Bích (T)
7- Phương Thu Bạch (X)
8- Tư Trù
9- Trương Giai
10- Trần Đình Tảo
11- Nghê Nguyên Khâm
12- Trần Trí Khải (T)
13- Nhan Chung Hòang
14- Chung Vĩnh Hòa
15- Lê Dự
16- Lương Loan
17- Lưu Chương (H)
18- Phương Lộ
19- Trần Diệu Liên (H)
20- Tráng Huy Diệu (X)
21- Trần Xuân
22- Lương Thừa Tuyên
23- Đỗ Văn Hổ (Đ)
24- Lê Chương Húc
25- Đàm Tương
26- Hòang Đỗ
27- Mã Văn Chấn
28- Ngô Điển
29- Hòang Nguyên Hội
30- Ngư Đình Hiền
31- Phương Dự
32- Phùng Diễn
Sách Gia Định Thông Chí của Trịnh Hòai Đức có ghi đến 36 văn nhân.
Văn nhân tỉnh Phúc Kiến, gồm 15 vị :
1- Chu Phác
2- Trần Minh Hạ
3- Châu Cảnh Dương
4- Ngô Chi Hàn
5- Lý Nhân Trường
6- Trần Duy Đức
7- Trần Diệu Uyên
8- Trần Tự Nam
9- Trần Huyễn
10- Lâm Duy Tắc
11- Tạ Chương (+)
12- Đan Bỉnh Ngự
13- Vương Đắc Lộ
14- Từ Hiệp Bùi
15- Từ Đăng Cơ

Văn nhân tỉnh Quảng Đông, gồm 13 vị :
1- Lâm Kỳ Nhiên
2- Tôn Thiên Thụy
3- Lương Hoa Phong (+)
4- Tôn Văn Trân
5- Lộ Phùng Cát
6- Thang Ngọc Vinh
7- Dư tích Thuần
8- Trần Thụy Phượng
9- Lư Triệu Huynh (+)
10- Trần Thiệp Tú
11- Vương Xưởng
12- Hòang Kỳ Trân
13- Trần Bá Phát
Văn nhân phủ Triệu Phong, gồm 4 vị :
1- Phan Đại Quảng
2- Nguyễn Nghi
3- Trần Ngoan
4- Đặng Minh Bản

Văn nhân phủ Gia Định, gồm 2 vị :
1- Trịnh Liên San
2- Lê Bá Bình (+)
Văn nhân phủ Qui Nhơn, gồm 2 vị :
1- Hòa thượng Hoàng Long (+)
2- Đạo sĩ Tô Dần (+) – gốc tỉnh Phúc Kiến
Với 3 danh sách này, kể cả Mạc Thiên Tích và Nguyễn Cư Trinh thì gồm cả thảy 71 vị văn nhân.
Có lẽ Chiêu Anh Các là nơi tập hợp các cuộc xướng họa của nhiều văn nhân không đến Hà Tiên nhưng có thơ trong nhóm Chiêu Anh Các như các văn nhân Trung Hoa đã gửi các bài họa sang mà thôi, vậy thì số hội viên trong nhóm Chiêu Anh Các là bao nhiêu? Cho đến nay khó mà xác định được, tạm thời chúng ta gọi là nhóm Chiêu Anh Các, nhưng thật ra có lẽ không phải là Hội Tao Đàn, chẳng qua Mạc Thiên Tích đã tập trung những bài xướng họa gọi chung là Chiêu Anh Các, để ghi lại nơi phát xuất các bài thơ đã nói tới mà thôi.
Căn cứ vào bài tân Tự của Trịnh Hoài Đức viết trong tập “Minh bột di ngư” do ông trùng bản năm 1821 tại kinh đô Huế, thì Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu anh Các gồm có những tác phẩm sau đây:
1- Hà Tiên toàn cảnh tập 1
2- Minh bột di ngư thi thảo
3- Hà Tiên Vịnh vật thi tuyển
4- Châu Thị trinh liệt tặng ngôn
5- Thi truyện tặng Lưu tiết phụ
6- Thi thảo cách ngôn vị lập
Và nội dung quyển “Minh bột di ngư” này gồm có 32 bài thơ đường luật mà trước kia nó là tập “Lư khê nhàn điếu phú”. Đây là tác phẩm riêng của Mạc Thiên Tích và đây là bài tân Tự của Trịnh Hoài Đức.
“Mạc đô đốc, Tôn quận công, tên là Thiên Tứ, hiệu Sĩ Lân, làm quan Tổng trấn Hà Tiên.
Thân sinh của Ngài là Mạc Cữu người ở Lôi Châu, Việt Đông, đem cả gia quyến trú phương Nam, ở đất Chân Lạp, chiếm cứ Hà Tiên, quy thuận triều Nguyễn, được phong chức Thống binh, tước hầu.
Đến Mạc đô đốc càng thêm hiển đạt. Ngài tính khí khái, thông minh hơn người, học thức uyên bác. ngài có công ruồng gai mở nẽo, lập nên thành lũy, mộ dân lưu lạc, xây dựng nhà cửa, lập ra làng xóm, nơi thâm sơn cùng cốc, ngài điểm tô xây dựng ra lâu đài, chốn biên cảnh hoang tàn, ngài giáo hóa, mở mang nền văn vật.
Ngài cầu bậc hiền tài, kỳ sĩ, từ Phú Xuân tới Quảng Đông, để hỏi han về chính trị, giảng luận về thi văn, mở nền lễ giáo tận nơi duyên hải, tạo cảnh Bồng lai tự chốn lâm san.
Ngài thường lo trù họach việc bảo vệ biên cương, có thì giờ nhàn hạ lại hay bày tiệc khoản đãi khách quý.
Hà Tiên là xứ sở, ngài phân ra làm mười thắng cảnh.
1- Kim dự lan đào
2- Bình sơn diệp thúy
3- Tiêu tự thần chung
4- Giang thành dạ cổ
5- Thạch động thôn vân
6- Châu nham lạc lộ
7- Đông hồ ấn nguyệt
8- Nam phố trừng ba
9- Lộc trỉ thôn cư
10- Lư khê nhàn điếu.
Ngài cùng khách xướng họa thi thơ, hiệp thành 320 chương, tập thi này trao cho thợ in khắc thành bản.
Lư Khê chính là một trong mười cảnh Hà Tiên vậy. Về cảnh này có bài phú hơn trăm lời, thi 32 vận, đều là của ngài làm ra, rồi hiệp cả lại cho nhàn đề là “Minh bột di ngư” gọi là ngụ mối u hoài cảm khái tự chốn thâm tâm, chớ nào phải vì chén rượu câu thi má xướng họa hão đâu.
Mạc công vốn thọ bẩm một khối tinh thành, phụ vào một tâm hồn nghệ sĩ, khác nào một bức danh họa, trước khi được tô điểm xinh tươi, đã chịu một màu trắng tinh làm nền họa : chớ lúc ấy há phải là thời buổi để ngài nhả ngọc phun châu, dương mây, thổ khí, được tỏ điều đắc chí đâu.
Chính vì ngài canh cánh nỗi cảm hoài cố quốc, đô thành mất tích, biến thành khuôn cảnh “thử ly” (1) ngài tư lương uất ức: dằn lòng trung phẫn hư vô, gửi dòng sóng bạc, muôn mắt tử phần muôn dặm, trông đám mây ngàn, nên ngài mượn lối thi thơ để giải bày tâm sự, ta há nên bình nghị ngài về chỗ vui chơi, nhàn hạ như ai đâu.
Tôi vào tuổi thành đồng (2) đã từng thấy :
- Hà Tiên thập cảnh toàn tập
- Minh bột di ngư thi thảo
- Châu thị trinh liệt tặng ngôn
- Thi truyện tặng Lưu tiết phụ
- Thi thảo cách ngôn vị tập.
Phàm sáu bộ sách đã xuất bản lưu hành.
Gần xa các bậc sĩ phu đọc từng bài, thưởng thức và thán phục.
Dầu ở tận cõi Nam thùy, Hà Tiên cũng nhờ đó mà trở thành trời Châu, đất Lỗ, nổi dậy tiếng tăm.
Từ Hà Tiên gặp cảnh binh hỏa, bản phiến sách xưa đều bị ngọn lửa cay nghiệt cháy thiêu, sách lưu hành cũng vì đó mà lần lần thất lạc.
Đến lúc ra giúp nước, tôi (Trịnh Hòai Đức) cố tìm các sách  ấy mà không được gặp. Thường trằn trọc thâu đêm, trí mãi vẫn vơ lo nghĩ về việc sưu tầm sách mất.
Tuy nhiên nhớ tới Mạc Công có phải chỉ vì một việc văn chương phong nhã đó đâu.
Toàn thể công nghiệp lớn lao của ngài, tài đức cao siêu chói lọi của ngài từ xưa đến nay, công luận thảy đều xưng tụng, xét ra thật là chẳng ít.
Kìa chiếc thân bèo giạt, khai thác muôn dặm đất đai, khéo chọn minh quân mà phụng sự, tự làm rào dậu cho quốc gia, biết trước an toàn cho con cháu, nay cháu ngài là Du hiện đang kế chức. Vậy đủ rõ trí thức của ngài sáng suốt, rộng rãi là dường nào.
Kìa thời kỳ thảo muội, cương đường lắm việc, ngài cùng với gia đình khẩn súy tham mưu Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh tới lui bàn luận, trù tính việc quốc kế dân sinh, được tỏa hiệp nhiều phương, nay hãy còn roi dấu tích bao nhiêu công trình xưa để ngự phòng ngoại xâm, chỉnh tu nội trị. Vậy đủ rõ tài lược kinh tế của ngài là dường nào!
Kìa năm Tân Mão (1771) đầu mùa đông, quân Xiêm xâm lược, thành côi không binh viện, Ngài phơi thân chốn rừng tên mũi đạn khuyến khích sĩ khí, quân tâm, chống giữ thành trì vững vàng suốt tháng. Đến lúc Thập thành bị công hãm, ngài tự đốc chiếm nơi ngõ hẽm, đường nguy, nguyện còn mất với cô thành. Vậy đủ rõ anh dũng, khí tiết của ngài là dường nào!
Kìa lúc kinh sư nghiêng đỗ, ngự giá vào Nam cọp đói cường áp vùng Định Viễn, rồng thần thất thế tại Cần Thơ, ngài thiếu cả binh nhung, bộ tướng cũng chẳng có, thế mà ngài liều thân bảo vệ Nguyễn vương, ủy thác phần con kháng cự với quân giặc. Vậy đủ rõ lòng trung nghĩa phấn phát của ngài là dường nào!
Kìa gặp hồi vận nước đa truân, anh hùng không nơi dụng võ, ngài sang đất Xiêm La, trù nghĩa phương thỉnh viện, chẳng may gặp phải vị vua vô đạo, nghe lầm lời sầm gián của triều thần, ngờ ngài lập cơ mưu chiếm nước đoạt ngôi, khiến ngài chịu hàm oan, ôm mối trung thành mà tự tận. Đó có phải là điềm thời chưa khai thông cuộc trị bình chăng?
Tôi vẫn khâm phục đạo làm người của Mạc công, mà cũng thương hại ngài ở chỗ thời mạng chẳng gặp. Tôi vẫn mong nêu cao danh tiết ngài sừng sựng đứng vững muôn năm, tranh vinh cùng sông núi.
Năm canh thìn (1820) mùa hạ, vâng mạng về kinh, thọ lãnh bô vụ, tôi (Trịnh Hòai Đức) may gặp được tập “Lư khê nhàn điếu” của ngài, rất khoan khoái đọc suốt cả đầu đuôi, mới rõ năm Bính Thần (1736), tháng hai, ngài in bản “Chiêu Anh Các”.
Nguyên bản có đọan khuyết mất không thể so sánh đâu được, tôi bèn lập ý bổ khuyết vào, rồi giao cho nhà in khắc bản. Chỗ dụng tâm là in lại sách của Mạc Công, mong để lại dấu tích như “Cam đàn”, “Nghiện bi”, khiến toàn hậu tiến còn nhớ tới Ngài luôn, chớ không phải vì muốn thỏa mãn bệnh mê thi họa của kẻ viết mấy hàng này.
Minh Mạng thứ hai (Tân Tỵ 1821), đầu mùa hạ, Lại bộ thượng thư An Toàn hầu Trịnh Cấn Trai tự tay thảo ra, Công thự ở kinh đô Phú Xuân.
(Ngạc Xuyên Đại Việt tạp chí số 12 ngày 01/06/1943)
TRÍCH VĂN:
1- Lư khê nhàn điếu :
                                  其一
鱸  溪  泛  泛  夕  陽  東
Lư khê phiếm phiếm tịch dương công
冰  線  閒  拋  白  練  中
Băng tuyển nhàn phao bạch luyện trung
鱗    頻  來  黏  玉  餌
Lân liệp tần lai niêm ngọc nhỉ
烟  波  長  自  控  秋  風
Yên ba trường tự khống thu phong
霜  橫  碧  翟  虹  初  霽

Sương hoành bích địch hồng sơ tể

水  浸  金  鉤  月  在  空
Thủy tẩm kim câu nguyệt tại không
海  上  斜  頭  時  獨  獨  笑
Hải thượng tà đầu thời độc tiếu
遗  民  天  外  有  漁  翁
Di dân thiên ngoại hữu ngư ông
Nghĩa:   Sông lư bảng lảng ánh dương hồng
               Ném sợi băng trên tấm lụa trong
               Mồi ngọc đã làm ngon miệng cá

               Gió thu đâu để nổi cơn giông

               Cầu vòng  cần trúc hơi sương đượm
               Trăng uốn vành câu bóng nước lồng
Lắm lúc ngửa nghiên cười với biển
               Bên trời riêng một cõi ngư ông
2- Hà Tiên Thập Vịnh :

金  嶼  攔  濤

Kim dự lan đào

一  島  崔  嵬  奠  碧  漣 
Nhất đảo thôi ngôi điện bích liên
橫  流  奇  勝  壯  河  仙
Hoành lưu kỳ thắng tráng Hà Tiên
波  濤  勢  截  東  南  海
Ba đào thế tiệt đông Nam hải
日  月  光  迴  上  下  天
Nhật nguyệt quang hồi thượng hạ thiên
得  水  魚  龍  隨  變  化
Đắc thủy ngư long tùy biến hóa
傍  崖  石  橱  自  聯  翩
Bàng nhai thạch thụ tự liên phiên
風  聲  浪  跡  應  長  據
Phong thanh lãng tích ứng trường cứ
濃  淡  山  川  異  國  懸
Nùng đạm sơn xuyên dị quốc huyền.
          莫  天  錫
Một dãy non xanh nước bích liền
Giăng ngang cho mạnh đẹp sông Tiên
Đông Nam sóng biển bằng trang cả

Trên dưới trăng trời sáng rực lên

Rồng cá vẩy vùng trong cõi nước
Đá xây xan xát khắp ven miền
Nghìn thu tiếng gió quanh chân sóng
Đậm nhạt tranh treo nét lạ lùng.

Đông Hồ dịch

3- Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh :
Nếu Hà Tiên thập vịnh có mục đích phổ biến trong giới trí thức về phong cảnh của Hà Tiên thì Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh là một áng văn Nôm có mục đích truyền bá trong giới bình dân, hay nói khác hơn nó thuộc về văn học Nôm.
Đây là khúc vịnh, chia thành 10 đọan mỗi đoạn tả một cảnh trong mười cảnh ở Hà Tiên, mỗi đoạn gồm một khúc lục bát giáng thất chừng 30 câu, cuối mỗi đoạn  có một bài vịnh làm theo thể Đường luật và cuối cùng có một bài tổng vịnh. Tóm lại Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh gồm 422 câu gồm 334 câu lục bát giáng thất và 88 câu của 11 bài đường luật thể thất ngôn bát cú.
Khúc vịnh này có lẽ được sáng tác cùng thời với Chinh phụ ngâm, nhưng đặc biệt hơn là suốt khúc vịnh áp dụng một lối gieo vần chữ thứ 8 câu 8 gieo vần vào chữ thứ 3 câu 7 và do đó thay vì câu thất trắc chữ thứ ba thanh trắc chữ thứ ba thanh trắc lại phải đổi sang thanh bằng. Thí dụ :
                .............................
Hễ là khách tiêu dao
Muôn cùng hứng ý trải bầu tam THIÊN
Trấn Hà TIÊN mỗi nơi một lạ
Người bốn phương riêng dạ ước ao
…………………………
Chúng ta cũng thấy lối gieo vần này qua bài ca dao “Nụ tầm xuân” sáng tác theo thể lục bát giáng thất biến thể
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm XUÂN
Nụ tầm XUÂN nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn CÂU
Cá cắn CÂU biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
Và Chinh Phụ Ngâm cũng dùng kỹ thuật ấy trong một số câu :
………………………………..
7 Chín lần gương báu trao tay
Nữa đêm truyền hịch định ngày xuất CHINH
Nước thanh BÌNH ba trăm năm cũ

Áo nhung trao quan vũ từ đây

…………………………………
110 Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân MÂY
Trong cửa NÀY đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
…………………………………
121 Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách hàn huyên bao ĐÀNH
Thuở lâm HÀNH oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo  uyên ca.
…………………………………
Chúng tôi trích đọan Kim Dự Lan Đào trong Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh để có dịp so sánh với bài Kim Dự Lan Đào trong Hà Tiên thập vịnh, và 10 bài đường luật còn lại.
1. Kim dự lan đào :
Giữa trời một đỉnh cao xây
Sáu ngao ấy gián năm mây là lầu
Trải nghìn thu con vua ngậm đá
Suy hình hài như thả ngọc phong
Kim thang đứng sựng giữa dòng
Công cao nhạc lộc, tuổi đồng kiền khôn
Chốn hải muôn tiết còn rành rạnh
Chống miếu đường một cảnh vơi xa
Đá chồng cây nhóm giao gia
Ngấn gành cây mực, cành hoa điểm ngần
Dầu quỷ thần hẳng âu chốn chở
Khách thoạt nhìn sực nhớ bồng lai
Thú mầu quyến rũ lòng ai
Say xưa biển rộng vùi mài non tiên.
Thế tự nhiên gành câu vịnh lưới
Nước cùng non, trên dưới đều ưa
E khi nổi trận nắng mưa
Sức lăm đánh Bắc, tài lừa phò Nam
Thời có lần dốc an dân chúng
Bồi thành dài, mặt chống nước xa
Ghe phen chiến hạm vào ra
Thu đào vỡ mật, phục ba kinh lòng
Hết rủi dong, gặp ngày ca khải
Thu quân về cảnh hải dưỡng an
Một tay vững đặt giang san
Danh phong Kim Dự, tước ban Lan Đào
Bọt như phau, núi gành chẳng động
Sông biển an khơi lộng đều thanh
Hây hây nước biết non xanh
Gõ gươm thần vũ, dân lành khỏi nghiêng
Ai chẳng khen, ai mà chẳng ngợi
Hằng lân la, diệu vợi nài chi
Muốn cho sáng cả sơn khê
Đáp trong nguyên vận, hòa đề một thiên.
Thơ rằng :

Kim dự này là núi chốt then

Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên
Ngăn ngừa nước dữ không vùng vẩy
Che chở dân lành khỏi ngữa nghiêng
Thế cả vững vàng trên Bắc Hải
Công cao đồ sộ giữa Nam Thiên
Nước yên chẳng chút lông thu động
Rộng bủa nhơn xa tiếp bách xuyên
2- Bình san điệp thúy :
Một bước càng thêm một thú yêu
Lằn cây vết đá vẽ hay thêu?
Mây tùng, khối liễu chồng rồi chập
Đàn suối chim ca, thấp lại cao
Luật ngọc trâu ông chăng phải trổi
Ngòi sương ma cật đã thua nhiều
Đến đây mới biết lâm tuyền quý
Chẳng trách Sào, Do lánh đế Nghiêu.
3- Tiêu tự thần chung :
Rừng thiên sít sát án ngoài tào
Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao
Chày thỏ bạt vang muôn khóm sóng
Oai kình tan tác mấy cung sao
Não phiền kẻ nấu sôi như vạc
Trí tuệ người mài sắc tựa dao
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh
Phù sinh trong một giấc chiêm bao
4- Giang thành dạ cổ :
Trống quân giang thú nội uy phong
Nghiêm gióng đòi canh ỏi núi sông
Đánh phá mặt gian người biết tiếng
Vang truyền lịnh sấm chúng nghiêng lòng
Phao tuôn đã thấy yên ba vạc
Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông
Thỏ lụn sớm hầu chờ bóng ác
Tiếng xe sầm sạt mới nên công
5- Thạch động thôn vân :
Quỷ trổ thần xoi nổi một tòa
Chòm cây, khóm lá dấu tiên gia
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua
Trống lỏng bốn bề thâu thế giới
Chang bang một dãy chứa yên hà
Chân dời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rở ý, la.
6- Châu nham lạc lộ :
Biết chỗ mà nương ấy mới khôn
Bay về đầm cũ mấy mươi muôn
Đã giăng chữ nhất dài trăm trượng
Lại sắp bàn vây trắng mấy non
Ngày giữa ba xuân ngân phấn vẽ
Đêm trường chín hạ tuyết sương còn
Quen cây chim thể người quen chúa
Dễ đổi nghìn cân một tấc son.
7- Đông hồ ấn nguyệt :
Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang
Giữa có vầng trăng nổi rõ ràng
Đáy nước chân mây in một sắc
Ả Hằng, nàng Tố lố đôi phương
Rạng thanh đã hứng thuyền Tô Tử
Lạnh lẽo càng đau kiếng nhạc xương
Canh một mà tình người dễ một
Kẻ thì ngả nhớn kẻ sầu thương.
8- Nam phố trừng ba :
Dòng Nam phẳng lặng khách dầu chơi
Hai thức như thêu nước với trời
Bãi khói dưới kia hương lại bủa
Hồ gương trong đó gấm thêm rơi
Sống chôn vảy ngạc tình chi xiết
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi
Một lá yên ba đầu lỏng lẽo
Đông trăng lường gió nước vơi vơi.
9- Lộc trỉ thôn cư :
Lâm lộc ai rằng thú chẳng thanh?
Nữa kề nước biếc, nữa non xanh
Duỗi co chẳng túng kiền khôn hẹp
Cuối nghĩa vì vâng đức giáo lành
Lưu loát hưởng dư ơn nước thạnh
Ê hề sẳn có của trời dành
Đâu no thì đó là an lạc
Lựa phải chen chân chốn thị thành
10- Lư khê ngư bạc :
Bến vượt nhà ngư chật mấy từng
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng
Lưới chày phơi trải đầy trời hạ
Gỏi rượu say sưa toại nghiệp hằng
Nghề thuấn hãy truyền bền trác trác
Dân Nghiêu còn thấy đủ răng răng
So đây mười cảnh thanh hòa lạ
Họa cảnh Đào nguyên mới sánh chăng
11- Hà Tiên thập cảnh tống vịnh :
Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình
Non non nước nước gẫm nên xinh
Đông hồ Lộc trỉ luôn dòng chảy
Nam phố,Llư khê một mạch xanh
Tiêu tự, Giang thành chuông trống ỏi
Châu nham, Kim dự cá chim quanh
Bình san, Thạch động là rường cột
Sừng sựng muôn năm cũng để dành
Mạc Cữu dựng nên Hà Tiên trấn, Mạc Thiên Tích dựng lên Chiêu Anh Các, bao nhiêu lần làm cho đất đai miền Nam mở mang thêm, trọn đời thờ Chúa Nguyễn, xông xáo trước lằn tên mũi đạn, bôn ba nơi hải ngoại để góp công dựng nên nhà Nguyễn, ông cũng chọn một cái chết cho Chúa Nguyễn nơi hải ngoại xa xôi. Trên tao đàn văn học, ông và nhóm Chiêu Anh Các còn để lại những bài thơ ca tụng cảnh đẹp ở miền đất xa xôi, để nói lên cái công nghiệp mà họ Mạc đã dựng lên ở đất Hà Tiên một cách vững vàng, ông là người thành công chẳng những chẳng cả võ mà lẫn văn ở miền Nam trong thời kỳ sơ khởi.
 
Ghi chú :
(X, H, T, Đ) các danh nhân có thơ họa bốn mùa được Lê Quý Đôn trích – (+) 6 vị không có tên trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn và Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức không có Tôn Quý Mậu.
1- Đồng lúa oằn oại thay vào cánh đô thành của cha Chu bị giặc Khuyên nhung chiếm cứ, cảnh mất nước.
2- Hai mươi tuổi.

II- VÕ TRƯỜNG TOẢN (? – 1792):
Không rõ ông sanh vào năm nào, người huyện Bình Dương, trấn Phiên An (Gia Định ngày nay), lúc Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, lấy được Gia Định (1777); thường có triệu ông đến bàn việc nước, Chúa Nguyễn rõ tài ông, muốn phong quan tước, nhưng ông không nhận để tâm chuyên lo dạy học, các công thần đã từng phò vực Nguyễn Ánh lúc chống chỏi với Tây Sơn như Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Phạm Trọng Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phạm, Ngô Nhân Tịnh, Phạm Đăng Hưng… và hai ẩn sĩ nổi tiếng thời bấy giờ là ông Chiêu và ông Trúc đều đã từng thọ nghiệp với ông.
Ông mất năm 1792, được an táng tại làng Hòa Hưng (Hòa Hưng – Sài Gòn ngày nay), được Chúa Nguyễn truy tặng danh hiệu Gia Định Xử Sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh. Nhiều danh nhân miền Nam mặc dù không phải là học trò của ông nhưng đã chịu ảnh hưởng và tôn thờ ông là bậc Tôn sư đức độ.
Dưới triều Gia Long, các vị thượng thư (phần nhiều là học trò ông) có đôi liễn truy niệm :
Sinh tiền giáo huấn đắc nhân, vô tử như hữu tử.
Một hậu thinh danh tại thế, tuy vong dã bất vong
Dịch nghĩa :
Sống, dạy dỗ nên người, không con mà vẫn có
Chết, lưu truyền được tiếng, tuy mất tỷ như còn
Và vua Gia Long có ân tứ một đôi liễn như sau :
“Triều đẩu huân danh, bán thuộc Hà phần cựu học
Đẩu nam phong giáo, tề khâm Nhạc lộc dư huy”
Đại ý có nghĩa là Võ Trường Tỏan đã đem sự giáo hóa của ông Vương Thông (ở Hà Phần) và Châu Hy (ở Nhạc Lộc) làm cho rực rỡ trong triều ngoài quận đạo thánh hiền.
Võ Trường Toản có nhân phẩm hơn người, các danh nhân miền Nam sau này đều ngưỡng mộ tài đức của ông, sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông và triều đình Huế đã phải ký hòa ước năm Nhâm Tuất (1862), thì ba tỉnh ấy là đất của Pháp, cho nên đến năm 1865, Phan Thanh Giản được vua Tự Đức cử làm Kinh lược chánh xứ toàn quyền đại thần, vào Nam trấn nhậm tại Vĩnh Long để cai quản ba tỉnh miền Tây, nhất là để đối phó với quân Pháp, vì ông đã thay mặt cho triều đình để ký hòa ước kể trên với đề đốc Bonard. Khi vào Nam, Phan Thanh Giản xót xa về nắm xương tàn của bậc hiền tài gửi trong đất địch, nên ông cùng đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông, Hiến xứ An Giang Phạm Hữu Chính và Tú tài Võ Gia Hội lo việc cải táng hài cốt Võ Trường Toản về miền Tây.
Ngày 28 tháng 10 năm Tự Đức thứ 18 (1865), di hài ông được cải táng tại làng Bảo Thạnh, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Nơi đây chính là quê hương của Phan Thanh Giản. Hai năm sau ngày 28/3 năm Tự Đức thứ 20 (1867), Phan Thanh Giản soạn xong bài biểu để dựng ở mộ của Võ Trường Toản, nhưng sau đó Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, Phan Thanh Giản dùng độc dược quyên sinh, nên mãi đến năm 1872 mới trùng tu và dựng bia được.
Dưới đây là bài biểu của Phan Thanh Giản do Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh dịch :
“Đạo trời thánh tuy là đồng, mà chỗ hiểu biết con người do điều thấy điều nghe có khác, vậy nên người đời sở dị lập thành được công thật là khó vậy.
Huống hồ mình sinh ra trong đời không gặp được bậc thánh, không thể gần được bậc hiền. Muốn biết chỗ an vi, xa rộng, được sáng tỏ to lớn như mặt nhật nguyệt, như các sông ngòi, thật rất khó khăn!
Ôi! Ngắm non Thái, chỉ mong tới đảnh
Trông Đẩu nam, chân cố nhón lên cao
Đối với nhà xử sĩ Võ Tiên Sinh ở Gia Định trịu trịu một tấm lòng thành.
Tiên sinh tính Võ, húy Trường Toản, đời trước hoặc nói là người Thanh
Kệ (Quảng Đức), hoặc nói là người Bình Dương (Gia Định), trước thọ nghiệp cùng ai chưa hề được rõ. Chỉ biết sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn đầy đủ, chân thật, có thuật nghiệp thâm uyên thông đạt. Xảy hồi loạn Tây Sơn, tiên sinh ẩn trú mở trường dạy học, thường học trò tới mấy trăm. Ông Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất. Bậc thứ nhất là chư công Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhân Tịnh. Bậc danh sĩ là ông Chiêu, ông Trúc, nhà ẩn dật, ngoài ra không thể kể hết được. Các ông ấy đều gặp hồi phong vận, thời trung hưng triều Gia Long đứng vào bậc tôi hiền, có người hoạt sát thân để làm nên điều nhân, hoặc quên mình để trọn tiết nghĩa, thảy đều nên công nghiệp lớn trong đời.
Lúc ngự vào Gia Định, đức Thế Tổ Cao Hoàng đế hằng triệu tiên sinh tới ứng đối. Lại nghe tiên sinh học rộng khắp các kinh, và sở trường nhất một bộ Tứ thư. Ông Chiêu nhà ẫn dật là bậc túc học được theo tiên sinh học thấu nghĩa “Tri ngôn, dưỡng khí”. Từng thấy tiên sinh đề trong sách vỡ lời này “Sách đại học một nghìn bảy trăm chữ”, tan ra gồm vô số sự vật, tóm lại còn hai trăm chữ, tóm lại nữa thì một chữ cũng không”.
Hay thay! Sở học của tiên sinh. Thật là rộng lớn mà tinh vi vậy. Dẫu học bất cứ ngàn muôn kinh sách nào cũng rõ nghĩa lý được.
Tiên sinh không khứng ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp. Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều bậc nhân tài mà còn truyền thuật, giảng luận trau dồi về sau, tới nay dân gian trong sáu tỉnh Nam kỳ, tỏ lòng trung nghĩa, cảm phát dám hy sinh tới tánh mạng, xét ra tuy nhờ đức thân nhân của quân vương nhuần gội, cố kết nhân tâm, nhưng nếu không có đức mở mang huấn dục của tiên sinh từ thuở trước thì làm sao có được nhân tâm thế này.
Đến năm Nhâm Tý (1792), ngày mồng chín tháng sáu, tiên sinh ra người thiên cổ, lòng vua cảm mến tiếc thương ân tứ hiệu “Gia Định Xử sĩ Sùng đức Võ tiên sinh” để ghi vào mộ.
Sau thời thái bình, chư môn đệ của tiên sinh tản lạc xa xuôi, không thể nêu cao tài đức tiên sinh được. Tới triều Tự Đức thứ 5 (1852), được chỉ vua ban chuẩn lập phường để tinh biểu tại huyện Bình Dương, làng Hòa Hưng, bậc đồng nhân lại lập đền thờ, hiến ruộng để phụng tự, mỗi năm xuân thu cúng tế.
Gần đây xảy ra việc binh lửa, cảnh đền thờ hoang phế, mộ phần lâu ngày hư đổ để vậy bất tiện. Cùng với người đồng quận tiên sinh là Nguyễn Thông, đốc học Vĩnh Long. Chúng tôi hội các thân sĩ mưu toan việc dời mộ. Gởi tờ thông tư cùng quan Hiến sứ tỉnh An Giang là Phạm Hữu Chánh tỉnh Hà Tiên cũng hiệp vào, liền ủy thác cho bọn tú tài Võ Gia Hội, nhóm các thôn mục làng Hòa Hưng, kính cẩn việc khai mộ, thâu liệm hài cốt trong quan quách mới. Cùng nhau thương nghị, nhờ quan học sứ Nguyễn Thông đứng chủ tang, đồ tang phục thì chiếu theo lễ tế thầy xưa mà sắp đặt. Việc tang lễ làm xong, năm nay (1867), chọn ngày 8 tháng 3 đưa di hài an táng lại trên đất giồng làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, lại táng luôn di hài của đức nguyên phối và ấu nữ.
Mộ xây hướng Đông Bắc ngó về Tây Nam, dựa vào một gò cao ngó qua một đám cây vẹt, đối diện là khoảng trống vừa rộng vừa xa, trông ra u tịch mà thanh tú rõ là quang cảnh tốt đẹp thật.
Trước mộ mười trượng có lập đền thờ, trước đền bảy trượng có xây phường, đâu đấy đều an bài tất cả. Tại tỉnh trên các bạn đồng liêu, dưới phủ huyện huấn giáo, sỉ tử, các thân sĩ hai tỉnh An Giang và Hà Tiên cùng các sĩ phu ba tỉnh vùng Gia Định lưu ngụ trong ba tỉnh này đều tham dự vào lễ kết táng.
Việc an táng vừa xong, chúng tôi tâu vua xin ghi tinh biểu cũ, lại xin năm người dân giữ mộ, một người phu trưởng để lo giữ gìn quét tước.
Chúng tôi lo sợ nổi lâu năm, thời buổi đổi thay, sau này người không biết tới để chiêm ngưỡng, nên kính cẩn thuật lại mọi điều và làm bài minh.
Minh rằng :
Than ôi! Tốt thay vì tiên sinh, sở học kính sâu, sở hành dày dặn.
(Bình sinh hằng) giấu kín chôn lắp trong thâm tâm điều sáng suốt, tài lỗi lạc, tinh anh.
(Tiên sinh khác nào như) một cái chuông to, tùy theo sức người đánh, bổng phát ra tiếng lớn.
(Tiên sinh yêu ta) dạy ta mối đạo rộng.
Kẻ hậu giáo (như ta) nhón chân (ngưỡng trông) “cái đạo” mà trọn đời ta dùi không lủng, ngẩng mặt trông không thấy hết.
Càng già lại càng chắc chắn rõ rệt.
(Tiên sinh) gần bậc ông Hà Phần (Vương Thông nhà Tùy), ông Lộc Động (Châu Hy đời tống), ta khổ tâm mà trông cái đạo ấy.
(Sở dĩ) Sùng Đức Võ tiên sinh còn để cho đời những vinh quang rực rỡ, vì tiên sinh noi theo nhân nghĩa đạo đức, tước của trời ban cho.
Tự Đức năm thứ 20, Đinh Mão (1867) tháng 3 ngày 28
Kẻ vãng sinh Phan Thanh Giản tắm gội trước để ghi bài minh.
Ngày nay văn chương ông chỉ còn để lại bài “Hoài cổ phú”.
TRÍCH VĂN
HOÀI CỔ PHÚ
Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo, hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.
Cho hay vực thẳm nên cồn, khá biết gò cao hóa bể.
Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm, đò tạo hóa đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến.
Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng, lênh đênh bóng nguyệt dòm sông.
Đường ngu (1) ấp tổn (2) rượu ba chung dường say dường tỉnh, Thang Võ (3) chinh Tru (4) cờ một cuộc thoạt đặng thoạt thua.
Của có không nào khác khóm mây, người tan hiệp dường như bọt nước.
Lánh non thú (5) can bề ngạ tử (6) hai con Cô Trúc (7) đã về đâu.
Luyện linh đan lo chước trường sinh, bốn lão Thương san (8) đà bặt dấu!
Mộng tàn nửa gối, bướm Trang chu (9) giấc hỡi mơ màng, xuân lụn mấy canh, quyên Thục đế (10) tiếng còn khấp khởi.
Tha thiết bấy! Một gò hoàng nhưỡng (11), ngọc lấp hương chôn, Áo não thay! Mấy cụm bạch vân (12), mưa sầu gió thảm.
Ngựa trên ải một may một rủi (13), Hưu dưới Tần bên có bên không (14)
Hán Võ ngọc đường (15), người ngọc nọ xưa đã theo gió, Thạch Sùng kim cốc (16), của tiền xưa nay đã lấp sương.
Lao xao cõi trần ai, trường hoan lạc gẫm không mấy lúc, Thắm thoát cơn mộng ảo, đoạn biệt ly há dễ bao lâu.
Nghìn năm hồn phách Hán anh hùng, hồn phách mất người kia cũng mất, Muôn dậm nước non Đường thể võ, nước non còn đời ấy đâu còn.
Thương hỡi thương! Huyền quản (17) cung Tần, chim làm tổ tiếng kêu văng vẳng, Tiếc ỷ tiếc! Y quan (18) đời Tấn, biển nên cồn cỏ mọc xanh xanh.
Cung Tùy xưa chim nói líu lo, mấy độ xuân về hoa sái lụy (19), Đài Ngô trước hưu năm ngã ngớn, đổi ngàn sương ngọn cỏ đeo sầu.
Ô giang  đêm thẳm hé trăng mành, quạnh quẻ vó chùng họ Hạng (20), Cai hạ ngày chiều hiu gió mát, phất phơ ngọn cỏ nàng Ngu (21)
Đài vắng Nghiêm lăng (22), mấy khúc quanh cho sông chảy tuyết, Thuyền không Phạm Lãi (23) năm hồ lai láng nước ken mù.
Cho hay dời đổi ấy lẽ chừng, mới biết thảo ngay là nghĩa cả.
Lụy rơi non lịch (24), Đại Thuấn từng đời tính hay thân, Sương lọt áo bô, Tử khiên (25) lại trọn niềm một thảo.
Tôn (26) khóc măng, Tường (27) nằm giá, nằn nằn lo giữ đạo con, Tích (28) dấu quít, Cự (29) chôn con, nắm nắm đua đền nghĩa mẹ.
Trước đền Trụ mổ gan một tấm (30), muôn kiếp còn danh để tạc bia, Dưới thành Ngô treo mắt đôi trồng (31), nghìn năm hãy người đều nhởn gáy.
Tám trăm dặm xông pha ải Bắc, thương họ Hàn chói chói lòng đan (32), Mười chín thu giữ một niềm tây, cám ơn ông Võ phơ phơ đầu bạc (33).
Cật Võ mục nhuộm thanh bốn chữ (34), tấm trung thành đã thấu trời xanh, Áo Thiên tường (35) ghi đượm hai câu, phương tựu nghĩa chi phai lòng đỏ.
Trời mõn đất già danh hỡi rạng, lụy non Ngưu nghĩ cũng sụt sùi, Biển khô đá rã tiết nào phai, sử họ Mã (36) chép còn tỏ rõ.

Ghi chú:
 1- Vua Nghiêu họ Đào Đường, vua Thuấn họ Hữu Ngu
2. Ấp Tổn: Vua Nghêu nhường ngôi cho vua Thuấn thiên hạ xưng tụng là đời “Ấp Tổn”
3. Vua Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt nhà Hạ (2205-1784 TTL) lập nên nhà Thương (1783-1135 TTL) về sau đổi thành nhà Ân. Võ vương đánh đuổi Trụ vương mà lập nên nhà Chu (1134-247 TTL), chia làm hai thời kỳ : Tây Chu (1134-770 TTL), Đông Chu (770-247).
4. Chinh Tru: đánh giết
5. Non Thú: núi Thú dương nơi Bá Di, Trúc Tề ở ẩn (xem lời chú 7)
6. Ngạ tử: chết đói.
7. Cô Trúc: Bá Di, Trúc Tề là hai người con của vua Cô Trúc, can ngăn Võ vương đừng đánh Trụ vương, sau Võ vương diệt Trụ hai ông buồn bực không ăn, bỏ lên ở ẩn nơi núi Thú Dương.
8. Thương san: hay Thương lĩnh là tên núi bên Trung Hoa, khoảng đầu nhà Hớn có bốn ông già ở ẩn nơi núi Thương Sơn, tuổi hơn 80 râu tóc bạc trắng, đời sau gọi là “Thương Sơn tứ hao”. Đó là Đông viên công tên Đường Bỉnh tư Tử Minh, Ỷ Lý Quý, Hạ Quỳnh Công tên Thôi Huỳnh tự Thiếu Thông, Lộc Lý tiên sinh tên Châu Thuật tự Ngươn Đạo. Vua hớn cao tổ sai sứ Triệu mà không ra.
9. Trang Chu: Người thời chiến quốc, học rộng có làm sách Nam Hoa kinh, ông nằm mộng thấy mình hóa bướm, bay phất phới thấy làm vui sướng lắm, khi tỉnh dậy ông ngờ không rõ Trang Chu hóa bướm hay bướm hóa Trang Chu.
10. Thục đế: Vua nước Thục tên là Đỗ Vũ, xưng đế bảy nước, hiệu là Vọng đế, gặp phải năm nước lụt, nhường ngôi lại cho tướng Khai Minh rồi lên núi ở ẩn, sau nhớ nước mà chết, hồn hóa làm con cuốc (quốc) chữ Hán là Đỗ Vũ hay Đỗ Quyên. Do đấy khi nói đến lòng yêu nước các thi sĩ thường lấy tích này.
11. Hoàng nhưỡng: nắm đất vàng. Nơi nghĩa địa.
12. Cụm Bạch vân: Sách Trang Tử có câu “Thừa bỉ Bạch vân, chí vu đế hương”: cưỡi đám mây trắng kia mà đến nơi thiên đế, ý nói người chết.
13. Ý nói chuyện Tái công mất ngựa, cốt truyện trong may có rủi, trong rủi có may.
14. Do sách có câu: “Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục” (Nhà Tần xông mất con hươu, thiên hạ đua nhau tranh), con hưu tượng trưng cho đất nước.
15. Ngọc đường : Nhà ngọc, nơi sang trọng.
16. Thạch Sùng kim cốc: Thạch Sùng, người đời Tấn, giàu có nổi tiếng, lập vườn Kim cốc làm chỗ mua vui, sau trận thách đố với Vương Khải, ông thua mất cả gia tài chỉ vì ông quá giàu, có đủ cả những thứ quý giá, nhưng lại không có cái trách mẻ (cái xon đất có tay cầm, mẻ miệng), uất hận nên hóa kiếp thành con Thạch sùng (thằn lằn), đêm đêm chắt lưỡi, tiếc cho sự nghiệp của mình bị tiêu tan.
17. Huyền quản: dây đàn và ống sáo. Y nói âm nhạc, vì nhà Tần có tiếng là ăn chơi.
18. Y quan: đời Tần có tiếng là áo mão loè loẹt.
19. Sái lụy: nước mắt nhỏ giọt như tưới nước.
20. Họ Hạng: Hạng Võ khi bại binh, chạy đến Ô Giang thì chỉ còn một thân với con ngựa Ô Truy mà thôi. Đỗ Mục (803-852) thi sĩ thời vãn Đường đề thơ ở Ô Giang đình như sau:
乌  江  亭
勝  敗  兵  家  事  不  期
Thắng bại binh gia sự bất kỳ
包  羞  忍  耻  是  男  兒
Bao tu nhẫn sĩ thị nam nhi
江  東  子  弟  多  才  俊
Giang Đông tử đệ đa tài tuấn
捲  土  重  來  未  可  知
Quyển thổ trùng lai vị khả tri.
Dịch nghĩa :
Thua được nhà binh sự đã từng,
Nam nhi : hận, nhục kín nhường bưng.
Giang Đông vây cánh nhiều tay giỏi,
Cuốn đất phen sau chửa biết chừng.
21. Nàng Ngu: tức là Ngu Cơ, vợ Hạng Võ, tự vẫn chết khi Hạng Võ thất trận ở Cai Hạ, tương truyền hồn nàng sau hóa thành một loại cỏ thơm gọi là cỏ nàng Ngu (Ngu mỹ nhơn thảo)
22. Nghiêm Lăng: Cao sĩ đời Hán, giúp Quang Vũ đế trung hưng hiệp Hán, rồi cáo quan về ở ẩn núi Phú Xuân, sớm cày, tối câu.
23. Phạm Lãi: sau khi giúp vua Việt là Câu Tiển khôi phục được đất nước, ông cáo quan, hưởng thú ngao du sơn thủy.
24. Vua Thuấn, cày ở non Lịch, tính hiếu để làm cảm động được mẹ ghẻ và cha.
25. Tử Khiên: Mẫn Tử Khiên bị mẹ ghẻ cai nghiệt, mùa đông chỉ cho mặc áo mỏng mà ông không than phiền, để cho cha được vui lòng.
26. Tôn: Mạnh Tông, người nước Ngô, thờ mẹ chí hiếu, mùa Đông mẹ thèm ăn măng, ông đi đến rừng tre tìm không gặp, rồi ngồi ở đó khóc, một lúc măng mọc lên, sau này có thứ tre gọi là tre Mạnh Tông.
27. Tường: Vương Tường, người nước Tống, có mẹ ghẻ mà ông phụng dưỡng chí hiếu, mùa đông nước đóng băng, bà mẹ ghẻ thèm ăn cá tươi, ông nằm trên băng khóc, sau băng nứt ra ông bắt được cá.
28. Tích: Lục Tích, người nước Hán, lúc nhỏ theo cha đến nhà Viên Thuật Thái thú quận Cữu Giang, quan Thái thú có làm tiệc nhỏ đãi cha con ông, tiệc có quít là trái cây mẹ ông thích, nên ông dấu trong áo để dành cho mẹ, khi tiệc tàn, lúc vái chào vô ý trái quít rớt ra Viên Thuật hỏi vì sao dấu quít. Ông thưa để dành cho mẹ.
29. Cự: Quách Cự, người đời Hán, gia thế nghèo, còn mẹ già lại sinh con trẻ, nhà không đủ ăn, ông định chôn con để dành phần nuôi mẹ, lúc đào huyệt ông bắt được vàng.
30. Vua Trụ, nhà Thương (1783-1135 TTL) say mê Đắc Kỷ, bỏ phế việc triều chính, còn làm nhiều điều sằn bậy. Tỉ Can mổ bụng lấy gan để cảnh cáo ông.
31. Ngủ Tử Tư can vua Ngô không nên dùng Bá Hy. Vua Ngô không nghe, lại quá nghe lời gièm pha mà bức tử ông. Ông xin móc mắt treo trước cửa triều, để được nhìn cảnh lũ nịnh hoành hành.
32. Họ Hàn: Hàn Dũ (768-824) người đời Đường bài xích đạo Phật, nhiệt thành bên vực đạo Nho, bị vua Đường Huyền Tôn đày ra đất Triều Châu, ở đây ông bị khổ sở và hối hận nên dâng biểu tạ, ca tụng nhà vua và hết mạt sát đạo Phật.
33. Ông Võ: Tô Võ đời Hán, đi sứ Hung Nô, bị vua Hung Nô đày đi chăn dê, đến 19 năm sau nhà Hán đánh Hung Nô ông mới được về xứ.
34. Nhạc Phi được mẹ xâm trên lưng bốn chữ “Tận trung báo quốc”.
35. Thiên tường: Văn Sơn tự Thiên Tường một đời trung nghĩa, ông ghi ở vạt áo hai câu để giữ vẹn tấm lòng (chuộng nghĩa mà quên thân sống).
36. Sử họ Mã : Bộ sử ký của Tư Mã Thiên, ông tự là Tử Trường (145?-87? TTL), con của Sử quan Tư Mã Đàm, khi làm chức Thái sử nhà Hán, ông bắt đầu viết bộ Sử ký, rất có giá trị. Đây là bộ sử có ba đặc điểm :
a- Là bộ sử đầu tiên của Trung Hoa chép nhiều đời.
b- Chú trọng niên đại.
c- Ghi chép hành vi của vua chúa và cả văn hóa, vượt cả sử gia Hy Lạp và La Mã về điểm này.

III- NGUYỄN VĂN THÀNH (1757-1817) :
Viễn tổ ông tên Toán người tỉnh Thừa Thiên dời vào đất Gia Định, cha ông là Nguyễn Văn Hiền có mộ quân nghĩa dũng, theo Lưu thú Long hồ Tống Phúc Hợp đánh Tây Sơn, trước giữ chức cai đội quản bộ quân tiền chi, ông giao chiến với địch ở đảo Tam Sơn (Trung phần) rồi tử trận. Sau được truy tặng chức Chưởng dinh.
Khi cha mộ quân thì Nguyễn Văn Thành đã theo cha, khi cha tử trận thì ông được phong Cai đội, ông cũng chiêu tập được 800 quân tráng dũng, theo Đỗ Thành Nhân đánh Tây Sơn thâu phục được Gia Định năm 1777.
Mùa xuân năm Ất Vị (1785) Nguyễn Văn Thành theo Nguyễn Ánh sang Vọng Các và giúp vua Xiêm đánh thắng quân Miến.
Dưới trướng của Chúa Nguyễn, Nguyễn Văn Thành dự nhiều trận đánh với quân Tây Sơn ở Qui Nhơn, Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Ngải... ông giữ chức Tiền quân, Hậu quân Võ Tánh, Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức, Tả quân Lê Văn Duyệt. Năm 1800 trong khi thành Qui Nhơn bị vây, Nguyễn Ánh đem hết thủy quân ra đánh Phú Xuân, quân ông đóng tại Tây Sơn để chống với địch, chính nơi đây ông được thứ phong tước Quận công.
Đến tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long khắc phục được Bắc Hà. Đến tháng 9 hồi loan về Phú Xuân. Vua đổi tên Bắc Hà là Bắc Thành, đặt chức Tống trấn rồi cho vời tiền quân Nguyễn Văn Thành ở Qui Nhơn ra sung chức ấy. Lại đặt ra Tam Tào là Tào Hộ, Tào Binh và Tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường và Phạm Như Đăng ra trông nom các Tào ấy. Dịp này Nguyễn Văn thành có tổ chức trai đàn và đọc bài “Văn tế chiến sĩ trận vong”.
Năm 1808, bốn trấn ở Bắc Thành là Hải Dương, Kinh Bắc (Bắc Ninh), Sơn Tây và An Quản (Quảng Yên), có giặc giả danh tôn Lê, Nguyễn Văn Thành sai Tiền quân Phó tướng Trương Tấn Bửu, điều khiển ba quân dẹp giặc và dạy Trần Hựu làm ra “Điểm mê khúc” để hiểu thị dân chúng.
Năm 1811, Nguyễn Văn Thành phụng mạng sung chức Tổng Tài, sửa lại luật lệ, định thành 28 quyển, gồm có 398 điều.
Con ông là Nguyễn Văn Thuyên đỗ cử nhân khoá Quý Dậu (1813), hay làm văn thơ giao du với các văn sĩ, nghe ở Thanh Hóa có Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận hay chữ nên mới làm bài thơ cho người nhà đưa ra mời, chẳng may bài thơ này lại đến tay Lê Văn Duyệt, Duyệt đưa bài thơ ấy vào triều mật tâu, cho rằng Thuyên có ý phản nghịch với lời lẽ trong thơ như sau :
Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệ,t
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
Vô tâm cửu bão Kinh sơn phác,
Thiện tướng phương tri Ký bắc kỳ.
U cốc hữu hương thiên lý viễn,
Cao cương minh phượng cửu thiên tri.
Thử hồi nhược đắc sơn trung tế,
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky.
Dịch nghĩa :
Ái châu nghe nói lắm người hay,
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phác Kinh sơn tài sẳn đó,
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa ngàn dặm
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này.
Vua Gia Long cho đó là bệnh ngông của bọn thư sinh trẻ, nên không bắt tội cha con ông. Nhưng sau có kẻ hạch tâu nên vua Gia Long sai Lê Văn Duyệt xét lại cái án của Thuyên. Vì bị khảo tra nhiều nên Thuyên nhận càn là có ý làm phản. Nguyễn Văn Thành lấy làm kinh hãi xin chịu tội. Vua nghĩ ông là người có công, nên chỉ thu hết ấn sắc và cho về ở nhà. Rồi tiếp theo đó Lê Duy Hoán ở Bắc thành mưu phản nghịch nên bị giải về kinh, Hoán lại đề quyết cho Thuyên cầm đầu. Đình thần xin bắt cha con ông Nguyễn Văn Thành giam vào Thị trung quân xá, lúc bãi triều, Nguyễn Văn Thành chạy theo níu áo vua Gia Long, xin cứu vì ông không có tội. Nhưng vua giựt áo rồi đi thẳng. Ông chỉ còn biết than thở cùng Huỳnh Công Lý, rồi uống thuốc độc mà chết thọ 60 tuổi.
Sau khi Nguyễn Văn Thành chết rồi, thơ lại nhặt được tờ biếu “Trần tình” của ông, Huỳnh Công Lý bèn dâng lên vua Gia Long, trong ấy có đoạn:
“..... sớm rèn tối luyện kết thành tội cực ác cho cha con tôi, không còn kêu oan vào đâu được nữa, chỉ còn có chết mà thôi!”.
Vua đọc xong hối hận nói với quần thần : “Thành theo trẫm từ nhỏ, gian nan  khôn kể xiết, công nghiệp lớn lao, nay nhất đán thế này mà trẩm không bảo toàn được, thực đức trẫm rất bạc vậy”. Rồi phán cho Lễ bộ xuất tiền kho mà làm ma chay cho tử tế.
Đến đời vua Tự Đức nguyên niên (1847) Đông Các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn làm sớ xin gia ân cho bọn Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất. Vua Tự Đức xuống chiếu truy phong cho các cựu thần và ban phẩm hàm cho các con cháu của họ.
Về bài văn tế Trận vong tướng sĩ, có người cho là của Phan Huy Ích làm, ông Hoa Bằng đã tìm ra được bài của Phan Huy Ích khác hẳn với bài sẽ dẫn, chắc là Phan Huy Ích được giao soạn bài trên nhưng Nguyễn Văn Thành không dùng đến. Dưới trướng ông còn có Đặng Trần Thường, chắc cũng có góp ý, ngoài ra ông còn làm Tổng tài biên tập quốc sử và pháp luật, như vậy có thể quyết chắc rằng ông là tác giả bài văn tế vào năm 1802 ở thành Thăng Long.
TRÍCH VĂN
VĂN TẾ TƯỚNG SĨ TRẬN VONG
Than ôi! Trời Đông phố (1) vận ra Sóc cảnh (2), trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay – nước Lô hà (3) chảy xuống Lương giang (4), nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ.
Cho hay sinh là ký mà tử là quy (5) – Mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ (6).
Xót thay! Tình dưới viên mao (7) – Phật trong giới trụ (8)
Ba nghìn họp con em đất Bái (9), cung tên ngang dọc chí nam nhi, - Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ (10), cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắc một lòng, - Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích (11) chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung, - Kẻ thời đón việt mao (12) trở lại chốn sơ cơ (13), dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật (14), chung nổi ân ưu, - Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La (15), Cao Miên (16) về Gia Định, mới dần ra Khánh, Thuận (17), đã mấy buổi sơn phong (18) hải lễ (19) trời cao, Quang (20) soi tỏ tấm kiên trinh, - Rồi lại từ Đồ Bàn (21) Nam, Ngãi (22) lấy Phú Xuân (23) và thẳng tới Thăng Long (24), biết bao phen vũ pháo vân thê (25), đất Lũng, Thục, (26) lăn vào nơi hiếm cố.
Phận truy tùy (27), gẫm lại cũng cớ duyên, - Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng (28) theo đạn lạc tên bay. - Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thâu khinh, phong da ngựa (29) mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu niềm minh mạc (30), mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương, - Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan lập loè lửa trời, soi chừng cổ độ (31).
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu (32), - Nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ.
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài, - Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu (33) xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ (34).
Phận dù không gác khói đài mây (35), - Danh đã rậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường (36), - Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã  về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ (37).
Vâng thượng đức (38) hồi loan (39) tháng trước (40), đoàn ứng nghĩa (41) dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh (42) cũng vậy, giội ân quang (43) gieo khắp xuống đèo Ngang (44). - Mà những người từng thượng trận (45) ngày xưa, rắp (46) tấu công từ Ngọ, Vị, Thân, Dậu (48) đến giờ, treo tính tự (49) nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui, - Nhịp trống dồn hoa, chốn tươi chốn ủ.
Đã biết rằng anh hùng thời chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt (50) cái sinh không, cái tử cũng là không, - Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng (51), phận thủy có, phận chung (52) sao chẳng có.
Bản chức nay, vâng việc biên phòng (53), chạnh niềm viễn thú (54)
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh (55), sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh, - Trong nhà rõ vẽ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu (56) vun trước gió.
Bâng khuâng kẻ khuất với người còn, tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định (57) tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng, - Chữ tương đồng (58) ngẫm lại vốn đinh ninh (59), khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.
Có cảm thông thì tới đó khuyên mời, - Dù linh thính (60) hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc là oan hay chẳng cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho, - Hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu, vợ góa, con côi an tập (61) hết, cũng ban tồn tuất (62) đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu (63), - Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ (64).
Cơ huyền diệu (65) hoặc thâm trầm chưa rõ, thiên thời về cố quận để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh cửa tiền quân, - Niềm tôn thân (66) dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều (67) cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ (68) Chúa dời ngôi bảo tộ (69).
Ghi chú:
1. Đông phố: tên cũ của Gia Định thành.
2. Sóc cảnh: cõi Bắc
3. Lô hà: sông Lô chảy qua tỉnh Tuyên Quang rồi đổ ra sông Nhị Hà
4. Lương giang: sông Phú Lương, tên cũ của sông Nhị Hà
5. Sinh ký, tử quy : Tức sống là gửi, thác là về.
6. Mệnh yếu, danh thọ: Tính mệnh sớm mất, danh tiếng còn để lại lâu dài.
7. Viên mao: Cửa trại quân cờ kết bằng lông đuôi con mao (một loài trâu)
8. Giới trụ: áo giáp, mủ trụ, nói về đồ nhung phục của tướng sĩ đời xưa.
9. Đất Bái: nơi lưu bang, Hán Cao tổ khởi binh đánh Tần
10. Non Kỳ: nơi dựng nghiệp ban đầu của vua Văn vương nhà Chu (1134-247 TTL).
11. Cơ đích: Hàm thiếc, dây cương ngựa.
12. Việt mao: Việt là thứ binh khí hình như cái búa, mao là cờ kết bằng lông nai, vật này biểu hiện mệnh lệnh trong quân ngũ.
13. Sơ cơ: nền tảng lúc ban đầu
14. Nằm gai nếm mật: Dịch câu “Ngọn tân, thường đảm”. Nói sự gian khổ. Do điển tích: vua Câu Tiển nước Việt, khi mất nước thường lên nằm gai nếm mật đắng để luôn tưởng nghĩ đến việc khôi phục lại cơ đồ, sau nhờ Phạm Lãi giúp khôi phục lại được nghiệp cũ.
15. Xiêm La (Thái Lan): Nguyễn Văn Thành theo chúa Nguyễn sang Xiêm năm 1784 có giúp Xiêm đánh thắng Miến Điện.
16. Cao Miên : Tên gọi cũ của Campuchea
17. Khánh, Thuận: Diên Khánh, Bình Thuận, Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường giữ Diên Khánh năm 1797, sau khi lấy thành này từ tay Tây Sơn.
18. Sơn phong: gió núi, khi vua Gia Long đóng ở đảo Côn lôn, bị quân Tây Sơn đánh rất nguy. Bổng trời nổi gió bão, thuyền Tây Sơn bị đắm, nhờ đó mà thoát nạn.
19. Hải lễ: nước ngọt ở bể, khi vua Gia Long phải chạy trốn trên mặt bể, hết cả nước ngọt uống, mới khấn trời, chợt thấy dưới biển có nước ngọt, nhờ đó khỏi chết khát.
20. Cao Quang: Cao chỉ cho vua Cao tổ, quang chỉ cho vua Quang Vũ là hai vua sáng nghiệp và trung hưng nhà Hán. Ví với vua Gia Long.
21. Đồ Bàn: kinh thành cũ của Chiêm Thành, thuộc huyện Tuy Viễn – Khánh Hòa ngày nay, chúa Nguyễn lấy được từ 1797 sau khi thắng Tây Sơn ở đây.
22. Nam Ngãi: Quảng Nam, Quảng Ngải. Chúa Nguyễn đánh với Tây Sơn năm 1801.
23. Phú Xuân: Tên cũ của kinh đô Huế, chúa Nguyễn thu phục được vào ngày mồng 3 tháng 5 Tân Dậu (1801).
24. Thăng Long: Tên cũ của thành Hà Nội, vua Lý Thái Tổ (1010-1028) dời kinh đô từ Hoa Lư ra La Thành và đặt tên là Thăng Long vào tháng 7 năm 1010. Cũng tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long khắc phục được Bắc Hà. Đến tháng 9, Ngài hồi loan về kinh đô Phú Xuân.
25. Vũ pháo vân thê: Đạn nhiều như mưa, thang cao giáp mây
26. Lũng, Thục: Tên đất hiểm cổ bên Trung Hoa. Lũng là Lũng Tây thuộc tỉnh Thiểm Tây. Thục là tỉnh Tứ Xuyên.
27. Truy Tùy : Theo và chịu sự sai khiến của một người nào đó.
28.-Lông hồng: Lông con ngổng trời. Tư mã Thiên có nói ”Người ta chỉ có một lần chết, có cái nặng hơn núi Thái, cũng có cái nhẹ hơn lông hồng”. -Thơ của Lý Bạch (thi sĩ đời Đường) có câu: ”Yên  Nam tráng sĩ Ngô môn hào. Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao: 燕  南  壯  士  吳  門  豪  太  山  一  擲  輕  鴻  毛 nghĩa là hào kiệt ở Ngô  môn, gieo núi thái sơn nhẹ như lông hồng vậy.
29 . Phong da ngựa: nói người chết ở chiến trường lấy da ngựa bọc thây. Phục ba tướng quân Mã viện, tướng nhà Hán có nói: “Trượng phu đương mã cách khỏa thi, ninh khả tử ư nhi nữ tử chi thủ hồ” 丈  夫  當  馬  革  裹  尸  寧  可  死  於  兒  女  子  之  手  乎 nghĩa là bật trượng phu phải lây da ngựa boc thây,sao lại chịu chết trên ở tay kẻ nữ nhi!
30. Minh Mạc: Tối tăm, mênh mông.
31. Cổ độ: Bến đò xưa
32. Đoản tu: Ngắn , dài.
33. Bạch câu: Tức là “bạch câu quá khích” nghĩa là ngựa trắng qua kẽ hở. Trang tử có nói: “người ta sống trong khoảng trời đất, như con ngựa trắng chạy ngang qua khe cửa sổ, vụt qua mà thôi”.
34. Phế-phủ: Trong người gồm có sáu phủ: Tiểu trường (ruột non), Đởm (mật), Bàng quang (bọng đáy), Đại trường ( ruột già), Vỵ (dạ dày), Tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu), còn ngũ tạng gồm có: Tâm (tim) Can (gan), Tỳ (lá lách), Phế (phổi), Thận.
35. Gác khói đài mây: nơi treo hình vẽ các công thần. Điển cũ: Vua Đường Thái Tông có yên các (gác khói), vua Hán Minh Đế có vân đài (đài mây), để treo hình vẽ các bậc công thần.
36. Cân thường: Cân là thứ cờ có thiêu rồng, đeo nhạc , thường là thứ cờ có thêu treo mặt trời, mặt trăng.
37. Ơn Vũ Lộ: Ơn vua, ý như mưa móc thấm nhuần ngàn cây nội cỏ.
38. Thượng đức: Bề trên  chỉ vua Gia Long.
39. Hồi loan: Xe vua trở về
40. Vua hồi loan vào tháng 9, mà trong bài này nói tháng trước, có lẽ bài văn tế này đọc vào dip rằm tháng 10 âm lịch, để đính chính có sách nói ông đọc vào tháng 12.
41. Ứng  nghĩa: Theo việc nghĩa.
42. Quảng , Thuận , Nghệ, Thanh: Bốn tỉnh quảng: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng  Ngãi, Thuận  Hóa , Nghệ An, Thanh  Hóa.
43. Ân quang: Vẻ sáng sũa của ân vua
44. Đèo ngang: Đèo ở biên giới tỉnh Quảng  Bình, Hà Tĩnh.
45. Thượng trận: Ra trận.
46. Rắp: Toan, định.
47. Tấu công: Tâu vua những công trạng.
48. Ngọ, vị, thân, dậu: Chỉ các năm Mậu ngọ (1798), Kỷ vị (1799) chúa Nguyễn cử đại binh lần thứ ba đánh thành Qui Nhơn, Canh Thân (1800), Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu tướng Tây Sơn đem quân vây thành Bình Định (chúa Nguyễn đổi tên thành Qui Nhơn) do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ, chúa Nguyễn đích thân đem quân từ Gia Định ra tiếp ứng. Thủy binh chúa Nguyễn đóng ở cửa Thị Nại, còn bộ binh của Tiền quân Nguyễn Văn Thành thì đóng tại núi Thị Dã, vì cả hai đạo quân tiếp viện không thông tin được với nhau, và vì quân Tây Sơn rất mạnh nên việc tiếp cứu không hiệu quả. Năm Tân Dậu (1801) trong trận đánh giải vây thành Bình Định, Võ Duy Nghi trúng đạn tử trận, Võ Tánh trước, Ngô Tùng Châu sau cùng uống thuốc độc tự tử, vì thành bị vây thiếu lương thực, cũng trong năm này chúa Nguyễn lấy lại Phú Xuân. Tóm lại đây là một năm có những trận đánh ác liệt nhất giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn.
49. Tính tự: Họ và tên.
50. Oanh liệt: Hiển hách, lừng lẩy.
51. Tao phùng: Gặp gỡ.
52. Thủy, chung: Trước, sau.
53. Biên phòng: Giữ gìn nơi bờ cõi.
54. Viễn thú: Đóng quân ở nơi xa.
55. Nghĩa đen là cái chung, cái vạc, nghĩa bóng là giàu sang.
56. Cừu: Áo làm bằng da.
57. Phủ định: Do chữ “ Can qua phủ định”: nghĩa là cuộc chinh chiến vừa mới dẹp xong.
58. Tương đồng: Cùng chịu nổi gian khổ, cùng chung hưởng vinh quang.
59. Đinh ninh: Khăng khăng một lòng.
60. Linh thính: Vì thiêng liêng mà nghe được
61. An tập: Ở yên.
62. Tồn tuất: An ủi, cứu giúp.
63. Thuấn, Nghiêu: Hai đời vua thái bình, thịnh trị thời thượng cổ bên Trung Hoa chỉ cho đời Gia Long cũng thái bình thịnh trị.
64. Thang,Vũ: Chỉ vua Thành Thang, diệt nhà Hạ lập nhà Thương (1783-1135 TTL), về sau đổi thành  nhà Ân, Võ vương diệt Trụ dựng nên nhà Chu (1134-247 TTL) ví với vua Gia Long.
65. Cơ huyền diệu: Máy trời đất xoay vòng bí mật và thần dịu.
66. Tôn thân: Do chữ “Tôn quân thân, thân thượng” nghĩa là tôn vua, thân với bề trên.
67. Hoàng triều: Chỉ cho triều đình nhà Nguyễn.
68. Duy vạn kỷ : Đến 10 ngàn kỷ (mỗi kỷ là 12 năm), ý nói lâu dài.
69. Bảo tộ : Ngôi báu.

IV- GIA ĐỊNH TAM GIA :
Nhóm người Minh Hương ở huyện Bình Dương (Phiên An trấn lập ra một hội thơ gọi là Bình Dương thi xã, có ba nhân vật lỗi lạc nhất, được xưng tụng là “Gia Định Tam Gia” đó là Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức) và văn thơ họ được nhiều người biết đến là “Gia Định Tam Gia Thi Tập” do Trịnh Hoài Đức sưu tập.

1. Lê Quang Định (1759 – 1813)
Ông tự Tri Chỉ, hiệu Tấn Trai, gốc người ở Phú Vinh, Thừa Thiên, cha mất sớm, nhà nghèo ông theo anh tên Hiến vào đất Gia Định, ở huyện Bình Dương.
Lê Quang Định là học trò của Võ Trường Toản. Kết thân với Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức... lập ra Bình Dương thi xã nhưng vì ông là người Việt Nam nên không có chân trong Sơn Hội (tức là nhóm có chủ trương phản Thanh phục Minh), ông có tài vẽ và viết chữ đẹp.
Năm 1788 sau khi chúa Nguyễn thu phục được Gia Định, mở khoa thi chọn nhân tài, ông cùng Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức ra ứng thi, ông được bổ làm Hàn Lâm Viện chế cáo, chuyên việc khuyến nông. Sau sung chức Đông cung thị giảng rồi thăng Binh bộ hữu tham tri.
Năm 1802, lãnh chức Hiệp trấn Thanh ba rồi Thăng binh Bộ thượng thư, mùa đông năm này, ông được cử làm Chánh sứ sang Trung Hoa để xin đổi Quốc hiệu là Nam Việt. Năm 1804, vua nhà Thanh sai Quảng Tây Án sát sứ Tề Bố Sum sang đổi Quốc hiệu nước ta là Việt Nam thay vì Nam Việt và phong cho vua Gia Long là Việt Nam Quốc vương, ông có lãnh sắc làm bộ “Đại Việt nhất thống dư địa chí”, làm xong năm 1806 gồm 10 quyển, ghi đủ mọi việc từ Lạng Sơn cho đến Hà Tiên.
Năm 1809, lãnh chức Thượng thư bộ Hộ kiêm Khâm Thiên Giám, năm sau lại coi sắp bộ điền thổ.
Năm 1813 ông thọ bệnh, nghỉ ở nhà. Vua Gia Long sai ông hoàng Kiến An thân đến tận nhà hỏi thăm bệnh tình, vua có ban cho ông nhân sâm và quế. Song chẳng bao lâu ông mất, hưởng thọ 54 tuổi. Vua Gia Long thương tiếc ông vô cùng. Hôm đưa đám có cả chiến thuyền đưa tiễn.
Lúc đi sứ Trung Hoa, đến đâu ông cũng ngâm thơ, họa cảnh làm cho người Trung Hoa có lời khen ngợi.
Năm 1852 (Dưới đời vua Tự Đức) ông được liệt vào Trung hưng công thần. Văn thơ của ông được Trịnh Hoài Đức sưu tầm cùng với thơ của Ngô Nhân Tịnh và Trịnh Hoài Đức, in thành một tập gọi là “Gia Định Tam Gia Thi Tập”.

2. Ngô Nhân Tịnh (? – 1813) :
Ông tự Nhử Đơn hiệu Nhữ Sơn, tổ phụ ông người Quảng Đông, thuở thiếu thời ông có theo học với Võ Trường Toản. Năm 1788, cùng với các bạn ra phò chúa Nguyễn, đầu tiên ông lãnh chức Hàn Lâm Viện thị độc, đến năm 1798, Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đưa ra ý kiến cử người sang Trung Hoa, dò la tin tức của vua Lê Chiêu Thống, ông được thăng binh bộ Hữu tham tri lãnh Quốc thư rồi theo tàu buôn đi Trung Quốc. Nhưng đi đến Quảng Đông được tin vua Lê mất rồi, nên ông quay trở về. Năm 1800, ông theo chúa Nguyễn ra cứu thành Bình Định (lúc ấy do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ, bị đạo quân của Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng vây).
Đến năm Gia Long nguyên niên (1802), Ngô Nhân Tịnh được cử làm Giáp phó sứ cùng Chánh sứ Trịnh Hoài Đức và Ất Phó sứ Hoàng Ngọc Uẩn đem các phẩm vật cùng ấn tín của nhà Thanh, trước kia đã phong cho Tây Sơn để nạp lại cho Thanh triều.
Sứ bộ sử dụng hai chiến thuyền Bạch Yến và Huyền Hạc rời cửa Thuận An ra đến giữa biển thì bị bão to, nên đến tháng bảy năm ấy mới đến Hổ môn quan. Viên tổng đốc lưỡng Quảng dâng số tấu về triều, sứ bộ phải dừng lại, trong khi chờ đợi ở Quế tỉnh (Quảng Tây) thì sứ bộ của Lê Quang Định đi cầu phong sang đến nơi, cả hai sứ bộ phải chờ đợi mệnh lệnh của vua Thanh. Đến tháng tư năm Quý Hợi (1803), hai sứ bộ mới được lệnh Thanh triều theo đường Quảng Tây lên Hồ Bắc, đến Hán Khẩu rồi lên bộ qua Vạn lý trường thành, mãi đến tháng tám năm ấy mới tới Nhiệt Hà vào chầu vua Gia Khánh (Thanh Nhân Tôn 1795 – 1820). Sau khi làm xong nhiệm vụ, hai xứ đoàn về đến nước ta vào mùa xuân Giáp Tý (1804). Ông vẫn giữ chức Binh bộ Hữu tham tri (tòng nhị phẩm) trong khi Lê Quang Định giữ chức Binh bộ Thượng thư (Chánh nhị phẩm).
Năm 1807, Ngô Nhân Tịnh được cử làm Chánh sứ, đem ấn sắc vào thành La Bích phong cho Nặc Ông Chân làm Chân Lạp Quốc vương.
Năm 1811, Ngô Nhân Tịnh lãnh chức Hiệp Trấn Nghệ An ( 1 ), thấy dân chúng khốn khổ, ông xin về triều bệ kiến, vua gia Long thuận cho. Nhân việc ấy, ông xin cải cách thuế má để cho dân bớt thuế nặng. Ông cùng đốc học Nghệ An Bùi Dương Lịch soạn quyển “Nghệ An Phong Thổ Ký”.
Năm 1812, Ngô Nhân Tịnh được thăng Công bộ thượng thư, lãnh chức Hiệp trấn Gia Định thành, ông cùng Hộ bộ tham tri Lê Viết Nghĩa phụng mạng đi  kiểm soát tiền lương và án văn các dinh .
Tới năm 1813, ông cùng Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt đem 10.000 quân đưa Nặc Ông Chân về nước, rồi hội họp với sứ của Xiêm La để bàn định việc của nước Chân Lạp. Đến khi trở về, có người vu khống cho ông về tội ăn hối lộ, mặc dù không có bằng cớ, nhưng Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tâu về triều. Vua Gia Long không được hài lòng về việc này, ông bị tai tiếng hàm oan, khiến buồn rầu mà thọ bệnh rồi mất cùng năm ấy. Ông được an táng tại xã Chí Hòa huyện Bình Dương (ngày nay là ga hàng hóa của Hỏa xa ở Hòa Hưng).
Trịnh Hoài Đức nhiều lần xin truy tặng cho ông không được, mãi đến năm 1852, ông mới được liệt vào miếu Trung hưng công thần và được cắt phu coi sóc mộ phần.
Ngày 01 tháng 10 năm 1936, để lập ga hàng hóa (Sài Gòn marchandises), Chánh phủ Pháp cho bốc mộ ông để cải táng nơi khác.
Ngôi mộ cũ ở ga hàng hóa Hòa Hưng có dựng tấm bia “Khâm sai Công bộ Thượng thư, Hiệp hành Gia Định thành Tống trấn, thụy Túc gian, Ngô hầu chi mộ”. Trong khi đào mộ có hội viên Đông Dương Học hội,  Hội trưởng Minh Hương Gia Thạnh – Chợ Lớn và một người cháu của Ngô Nhân Tịnh, sau khi dở nấp áo quan, người ta thấy tấm triệu có ghi “Hoàng Việt tán trị công thần, đặc tấn kim tử đại phu, Chánh trị vinh lộc thượng khanh, Khâm sai Công bộ Thượng thư, Hiệp hành Gia Định thành Tổng trấn sự, Tịnh Viễn Hầu, thụy Túc Gian, Ngô phủ quân chi cữu”.
Hiếu tôn Ngô Tế Thế, Ngô Nhân Thọ.
Nghĩa là: “Linh cửu của ông quan họ Ngô, là vị công thần giúp Việt Nam, được phong tới chức kim tử đại phu, Chánh trị vinh lộc thượng khanh, Khâm sai Công bộ Thượng thư, Hiệp Tổng trấn Gia Định thành, tước Tịnh Viễn hầu, được vua ban tên Túc Gian”.
Cháu Ngô Tế Thế, Ngô Nhân Thọ.
Văn nghiệp ông gồm có :
- Nghệ An phong thổ ký
- và một số thơ trong tập “Gia Định Tam Gia thi tập”.

Ghi chú:
1. Trên đường đi trấn nhậm, khi đến Quảng Bình gặp lại thi sĩ Nguyễn Du đang làm Cai bạ nơi đó. Nguyên trước kia khi ở kinh đô, hai người là bạn thân với nhau nên Nguyễn Du có làm bài: “Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn Nghệ An” trong Nam Trung tạp ngâm.
Cẩm la giang thượng khấu chinh an
Bái hội phi nan tích diệt nan
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc
Nhất xa cao vũ nhuận toàn Hoan
Nhân tòng đạm bạc tư vi chánh
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn
Bắc vọng Hồng sơn khai đức diệu
Thiên nhai cử tửu khánh hương quan.
TIỂN NGÔ NHỮ SƠN RA TRẤN NGHỆ AN
Cẩm La dừng tạm vó chinh an,
Gặp dễ xa nhau chẳng dễ dàng.
Hai nước danh thơm tài ngọc chuốt,
Đầy xe mưa thắm dặm châu Hoan.
Việc theo tánh đạm mong thường rảnh,
Trời vị dân đen khiến chửa nhàn.
Ngắm vọi Hồng sơn sao đức mọc,
Rượu xa mừng rót chén hương quan.
Quách Tấn dịch (TỐ NHƯ THI)

3. Trịnh Hoài Đức (1765-1825) :
Trịnh Hoài Đức còn có tên An ( 1 ) tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, vốn dòng dõi khoa hoạn đời Minh ở Trung Quốc, quê ở Phúc Kiến. Khi nhà Thanh lên thay nhà Minh (1644), tổ phụ Trịnh Hoài Đức tên là Hội vì không chịu sự cai trị của nhà Thanh, nên cùng những người có tinh thần phản Thanh phục Minh sang thần phục chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) năm 1679. Chúa Nguyễn cho vào  khai khẩn ở đất Chân Lạp vùng Biên Hòa ngày nay.
Thân phụ Trịnh Hoài Đức tên là Khánh, một người viết chữ tốt, đánh cờ cao có tiếng thời bấy giờ. Vào đời Võ vương (Nguyễn Phúc Khoát 1738 –1765), ông Khánh làm chức Cai đội ở Qui Nhơn, Qui Hóa, Bản Canh.
Khi cha mất, Trịnh Hoài Đức được 10 tuổi, mẹ ông đưa gia đình về ở trấn Phiên An, rồi ông được theo thụ nghiệp với Võ Trường Toản, trong khi miền Nam loạn lạc, ông cũng từng lưu lạc sang đất Chân Lạp Thời gian này, ông có làm thơ gởi cho Diệp Minh Phụng và Hoàng Ngọc Uẩn vào những năm 1783 và 1786 ghi lại tình cảm của ông khi làm khách Việt chốn tha hương, chẳng những ghi đậm nét cảm tình của ông với bạn, mà còn vẽ nên phong cảnh từ Tân Châu đạo cho đến thành Nam Vang.
Đây là bài thơ gửi cho Diệp Minh Phụng năm 1783, trong “Cấn trai thi tập” tập thượng.
Khách Cao Miên quốc ký hoài Diệp Minh Phụng Kỳ sơn.
Tân Châu giải lãm hệ phiên thành,
Việt khách tương tư xúc xứ sinh.
Đế thích tự tiền Hồ kệ điệu,
Nam Vinh giang thượng mạch ca thinh.
Đồng ngâm nhan sắc cô bông nguyệt,
Cố quốc âm thư vạn lý trình.
Cực mục phong đào hành bất đắc,
Liên nhân thôi phục giá cô minh.
Bản dịch của Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh :
Làm khách nước Cao Miên nhớ gửi bạn Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng
Tân Châu mở đỏi đậu Phiên thành,
Khách Việt tương tư khúc cảnh sinh.
Câu kệ rợ hồ chùa Đế Thích,
Tiếng hò khách mạch đất Nam Vinh.
Thuyền côi, trăng đội dung quang bạn,
Nước cũ âm tin mấy dặm trình.
Mút mắt ba đào đi chẳng được,
Giá cô kêu gọi gợi thâm tình.
Và bài “Ký hoài Hoàng Ngọc Uẩn Hối Sơn Chân Lạp hành”, năm 1786.
Viên mai biên bạch cúc su hoàng,
Phồn thép trần sinh thảo mộng mang.
Đắc lộ côn bằng nam tỉ hải
Ly quần hồng nhạn dạ minh sương
Thạch thành tuý phỏng chung mai tích
Kim tháp thành bình bố hệ phương
Lao ngã Võ lầu tằng ỷ vọng
Thê mê lãnh thọ thủy thương mang
Ngạc Xuyên dịch :
Ký gởi Hoàng Ngọc Uẩn tự Hối Sơn, đi Chân Lạp
Vườn mai phơi bạc, cúc khoe vàng,
Bụi đóng vạc trần ( 2 ) giấc mộng hoang.
Rời biển côn bằng nam gặp hộ,i
Kêu sương hồng nhạn tới chia đàn.
Thạch thành hỏi tích chôn chuông cổ,
Kim tháp bàn phương buộc vải mành.
Tớ nhọc hằng trông lầu Võ lượng ( 3 ),
Tích mù non núi, nước mênh mang.
Sau khi Nguyễn Phúc Ánh khôi phục được đất Gia Định. Năm 1788, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức cùng ứng cử và Trịnh được Chúa Nguyễn bổ làm Hàn Lâm Viện chế cáo, năm sau được bổ Điền Tuấn huyện Tân Bình (Gia Định), chuyên coi việc canh nông, sau lại được vào làm việc trong Bộ hình.
Năm 1793, Trịnh Hoài Đức được bổ làm Đông cung thị giảng, theo Đông cung ra giữ thành Diên Khánh (Khánh Hòa), ông cũng theo Đông cung ra đánh lấy Phú Yên.
Năm 1794, Trịnh được bổ làm Hộ bộ Hữu tham tri.
Ngày mồng hai tháng năm năm Quý Tuất (1802) Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi xưng đế hiệu Gia Long, lập ra sáu bộ : Bộ binh, bộ hình, bộ công, bộ lễ, bộ hộ, bộ lại. Trịnh Hoài Đức được cử làm Hộ bộ Thượng thư rồi sung chức Chánh sứ cùng với Giáp phó sứ, Binh bộ hữu tham tri Ngô Nhân Tịnh và Ất Phó Sứ Hình bộ tham tri Hoàng Ngọc Uẩn đi sứ sang nhà Thanh, cho đến mùa xuân Giáp Tý (1804), sứ bộ mới về đến Việt Nam. Trong thời gian đi sứ, ông có làm “Bắc sứ thi tập”, ông có cảm tác bài “Tạ mẹ đi sứ”, một sứ trình trên một năm, làm sao tránh khỏi nỗi nhớ nhung mẹ già, nên ông đã ký thác tâm sự mình vừa nói lên lòng hiếu thảo cùng mẹ và tấm lòng thành của ông đối với nhà vua.
Lìa hiệp thương nhau kể mấy hồi,
Ân tình ai cũng khéo phanh phui.
Trăng lòa ải Bắc nhàn chinh bóng,
Thu quạnh trời Nam quạ đúc mồi.
Ngay thảo tưởng rồi sa nước mắt,
Công danh nghĩ lại mướt mồ hôi.
Quân thân tuy cách lòng đâu cách,
Trọn đạo con là trọn đạo tôi.
Sau khi đi sứ về, Trịnh Hoài Đức vẫn ở chức vụ cũ, đến năm 1805, ông lãnh chức Hiệp hành Gia Định lưu trấn. Năm 1808, vua Gia Long đổi miền Nam ra Gia Định thành, Trịnh Hoài Đức lại lãnh chức Hiệp Tổng trấn Gia Định thành.
Đến năm 1812, Trịnh Hoài Đức về kinh đô dự lễ ninh lăng Hiếu khương Hoàng hậu. Sau đó ông được cử làm Lễ bộ thượng thư kiêm Khâm thiên giám. Năm 1813, đổi qua làm Lại bộ thượng thư.
Năm 1816, Nguyễn Huỳnh Đức làm Tổng trấn Gia Định thành, thay cho Lê Văn Duyệt. Trịnh Hoài Đức được cử làm Hiệp trấn Gia Định thành đến năm 1820, Trịnh Hoài Đức được cử quyền Tổng trấn Gia Định thành, rồi trong năm ấy khi Lê Văn Duyệt vào làm Tống trấn lần thứ hai, ông được vua Minh Mạng dời về kinh giữ Lại bộ Thượng thư kiêm Phó Tổng tài Quốc sứ quán. Sau thăng Hiệp Biện Đại học sĩ (tòng nhất phẩm), lãnh Lại bộ thượng thư kiêm Binh bộ thượng thư.
Vua Minh Mạng mới lên ngôi đã lo việc văn học, nên cho lập Quốc sử quán, cử Trịnh Hoài Đức giữ chức Phó Tổng tài, vua lại xuống chiếu đại để: “Hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới thì được ban thưởng”, nên năm 1821, Trịnh Hoài Đức dâng lên quyển “Minh bột di ngư văn thảo” và “Gia Định thông chí”, quyển “Minh bột di ngư” chúng ta đã biết qua bài Tân tự trong phần Mạc Thiên Tích. Riêng quyển Gia Định thông chí, ông ghi đầy đủ từ các thành lũy, phong tục, các thứ thổ sản, văn miếu, đền chùa.... trong năm trấn thuộc Gia Định thành, chẳng những là một quyển sách viết có phương pháp mà còn ghi chép rất tỉ mỉ, chứng tỏ ông có óc quan sát và thực tế. Đấy là một tài liệu quý giá cho ngành nhân văn.
Năm 1825, Trịnh Hoài Đức mất, vua Minh Mạng lấy làm thương tiếc, vì Trịnh Hoài Đức rất được vua tin dùng mà Lê Văn Duyệt và Lê Chất rất ghét ông, nên khi ông mất vua bãi triều ba hôm, sai hoàng thân Miêu Hoằng thay mặt đưa đám tang, xuất tiền kho làm lễ đưa về Gia Định, ông được truy tặng Thiếu phó Cần chánh điện Đại học sĩ, thụy Văn Khác.
Năm Tự Đức thứ 5 (1852), Trịnh Hoài Đức cùng bảy vị khác là Đặng Đức Siêu, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Nguyễn Đình Đức, Phạm Đăng Hưng, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Văn Hiếu được đưa vào thờ ở Trung hưng công thần miếu và đến năm 1858, ông được thờ ở đền Hiền Lương.
Trong nhà hội quán Minh Hương Gia Thạnh ở đường Đồng Khánh Chợ lớn có bài vị thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh vì hai ông là Hội viên của Sơn hội. Về văn nghiệp, Trịnh Hoài Đức có soạn những tập sách sau đây :
- Bắc sứ thi tập
- Gia Định thông chí
- Cấn trai thi tập
- Lịch đại ký
- Nguyên Khang
- Khang tế lục
Ngoài ra ông còn sao lục tất cả văn thơ của Gia Định tam gia thành một tập nhan đề là “Gia Định Tam Gia thi tập”, ngày nay không còn nữa và cho trùng bản “Minh bột di ngư”
TRÍCH VĂN
QUA ĐÈO HẢI VÂN
Đôi liểu ngàn mai cảnh quạnh hiu,
Chia hai Thuận, Quảng một con đèo.
Đá dòm mặt nước cây mong lội,
Biển dọc chân non sóng muốn trèo.
Mặt đất day ngang đường đứt khúc,
Sườn non dựng ngược đá cheo leo.
Vén mây muốn bước lên trên tột,
Đoái lại dì trăng lẽo đẽo theo.
ĐI SỨ CẢM TÁC
(Liên hoàn khúc)
Vuông tròn trời đất nói khôn cùng,
Tháng bảy ngày rằm đến Quảng Đông.
Kẹo kéo lăng nhăng nhai chẳng đứt,
Tơ vò rối rắm gỡ hầu xong.
Nửa năm cơm thịt đôi tên khách,
Ngàn dặm non sông một cái tròng.
Chừ gặp cố nhân ( 4 ) bày khoản khúc,
Kẻo đây thương đó, đó ngùi trông.
II
Ngùi trông nên phải gắng chìu lòn,
Tháng Tý ngày Dần đến Úc môn.
Ngàn dặm ơn sâu lai láng biển,
Muôn trùng nghĩa nặng chập chồng non.
Dưới trời ai dễ không tôi chúa,
Trên đất người đều có vợ con.
Đồ sộ vật chi xem hỡi đấy,
Chẳng sau chẳng trước chẳng đen mòn.
III
Đen mòn sao đặng nghĩ cùng ta,
Năn nỉ cùng nhau việc cửa nhà.
Ít sống xưa nay người bảy chục,
Nhiều lo lui tới đạo năm ba.
Trăng tròn mặt ủ mày chưa vén,
Biển mạn lòng thương nước khó pha.
Cây có diềm vàng soi tỏ dạ,
Dễ đâu chẳng biết sợ nhưng là.
IV
Nhưng là muốn nở nẻo chông gai,
Bao quản đường xa mấy dặm dài.
Dưới nguyệt tham vui nên rót chén,
Trong sương chịu lạnh bởi tầm mai.
Đã cam mình chịu cây vô dụng,
Chớ nệ ai che đứa bất tài.
Nghĩ kể hai trăm năm có lẻ,
Xin đừng lần lựa sự nay mai.
V
Nay mai còn có việc chưa tường,
Huống đã xa xuôi mấy dặm trường.
Đường nọ phải chăng còn nhộn nhộn,
Sự này khôn dại hãy ương ương.
Chanh ranh bởi đó sao lăng líu,
Mắc mỏ vì ai khéo vấn vương.
Trình với bao nhiêu người quyến thức,
Đem lòng quân tử mặc đo lường.
VI
Đo lường lại giận sự con cua,
Tưởng đến càng thêm nổi đắng đua.
Mây mịt mù che trời nhớ bạn,
Nước mênh mông chảy bể trông vua.
Đi cờ thấy đó tay không thấp,
Điểm nước lo ai cuộc chẳng thua.
Để biết làm người thì phải vậy,
Để đâu chẳng biết một bàn vùa.
VII
Một bàn vùa sạch đám hoang hung,
Phong cảnh như vầy phỉ luống trông.
Lối vịnh năm ba thuyền đỗ liễu,
Bên non bảy tám hạc về tong.
Vật còn chút biết trời khuya sớm,
Người dễ không hay đất lạnh lùng.
Lố thấy chín trùng chưa khỏe gối,
Dám đâu mình chịu sự thong dong.
VIII
Trong dong như vậy ít ai bì,
Mượn mỏ làm vui dễ khó gì.
Thu hứng tám bài thơ Đỗ Phủ,
Đông ngâm một bức họa Vương Duy.
Cầm xoang chấm phím thương tri kỷ,
Cờ sắp thưa con học chính sư.
Nguôi thế thì thôi nguôi dễ đặng,
Nguôi thì dễ đặng khó chi chi.
IX
Chi chi nghe đến tấm lòng xiêu,
Chập trổi tỳ bà oán hận nhiều.
Riêng trách chẳng vàng người vẽ tượng,
Tây than không bạc nịnh mua yêu.
Đất Hồ hoa ủ màu không lợt,
Trời Hán trăng tròn bóng xế theo.
Bao quản Ngọc Quan tình mấy dặm,
Mưa sầu gió thảm thuở Ban Siêu.
X
Ban Siêu bên núi bóng cờ giơ,
Tuyết trải năm ba hỡi đợi chờ.
Lố dạng ác vàng lòng có Hán,
Liếc xem tuyết bạc mắt không Hồ.
Chong sương một cán cờ ngay thẳng,
Chải gió năm canh dãi phất phơ.
Vó hỏi xanh xanh kia biết chẳng,
Ngày về nào đặng nước nhà xưa?
XI
Nước nhà xưa có phụ chi ai,
Nhắn với bao nhiêu kẻ cõi ngoài.
Gắng sức dời non khoan nói tướng,
Trải lòng nâng vạc mới rằng trai.
Nắng sương chưa đội trời chung một,
Sông núi đừng cho đất rẽ hai.
Giúp cuộc Võ, Thang ra sức đánh,
Người coi để tiếng nhấc lâu dài.
XII
Lâu dài mong trả nợ quân than,
Bao quản đường xa gánh  nặng hoằng.
Chớp lụy anh hùng khi tái biệt,
Bày lòng trung nghĩa đạo vi thần.
Con ve mới dứt hơi kêu hạ,
Cái vỏ mò canh tiếng khóc xuân.
Gió thảm mưa sầu đang dập dã,
Bút hoa mượn chép sự khùng khằng.
XIII
Khùng khằng lại giận đứa lăng nhăng,
Sớm tối mưa mai gẫm chẳng bằng.
Bến nước mười hai đưa chiếc lá,
Đất trời ba bảy đợi con trăng.
Thương đây lại đặng đừng thương lảng,
Nhớ đó thôi thì chớ nhớ săn.
Mối nợ sự duyên ai có hỏi,
Xưa nay cũng một tấm lòng chăng?
XIV
Tấm lòng chăng phải phải phân trần,
Ít nói là người dưỡng tính chân.
Đã bệnh bó rơm làm đứa quỷ,
Lại trau cúc đá tượng ông thần.
Dù chưa đất phấn tô gương mặ,t
Sẵn có cây đa tựa tấm than.
Cũng muốn đem mình đi thế ấy,
Đem mình đi thế ấy bần thần.
XV
Bần thần lại giận đứa xung xăng,
Quán Sở lầu Tần đã mấy trăng.
Phới phới mưa xuân hang dễ lấp,
Chan chan nắng hạ lửa đang hừng.
Thu trao thu nhạn lời no ấm,
Đông gặp tin mai chuyện khó khăn.
Trời đất bốn phương non nước ấy,
Làm chi nên nổi việc lăng nhăng.
XVI
Lăng nhăng bửa díp sự hoang đàng,
Tiệc ngọc thuyền qua bạn đải đằng.
Than phận lênh đênh đào thớ lợ,
Trách duyên lạt lẽo liễu xây quàng.
Con trăng nhắm bóng cây mai bạc,
Dì gió đưa duyên đóa cúc vàng.
Ơn dội chúa xuân cơn gặp gỡ,
Coi trầu chén rượu dám mê mang.
XVII
Mê mang cho đến Bụt là Tiên,
Năm đẩu năm bài giả dạng điên.
Vui sẳn trước hoa vài đóa cúc,
Lo chi trong dãy một đồng tiền.
Lưu linh vợ lại không từ chén,
Lý Bạch vua kêu chẳng xuống thuyền.
Hầu muốn học đòi theo thế ấy,
Song lo thời thế hãy chưa yên.
XVIII
Chưa yên ta phải tính làm sao,
Cơm áo ngồi không dễ đặng nào?
Phải mượn binh sương trừ giặc cỏ,
Lại đem trận gió phất cờ lau.
Đất yên cõi Việt rừng nho rậm,
Trời giúp nhà Ngu biển thánh cao.
Mới biết tài non đền nợ nước,
Dám đâu nói chuyện ẩn nguồn Đào.
Ghi chú:
1. Chúa Nguyễn thường lấy tên tộc của các công thần để ban tước hiệu như Mạc Cữu tước là Cửu Lộc hầu, Nguyễn Du tước Du Đức hầu, Mạc Thiên Tích tên Tông tước Tông Đức hầu, Trịnh Hoài Đức tên An tước An toàn hầu, Nguyễn Hữu Thoại tước Thoại ngọc hầu.
2. Lấy điển Trần Phồn đời Hậu Hán có bạn là Từ Trỉ. Tran nhà nghèo, chỉ có bộ vạt tre, thường treo lên, khi nào có Từ Trỉ đến mới hạ xuống cho bạn ngồi đàm đạo.
3. Trong bài Bạc Vân phú có câu :Dạ lăng Võ lượng chi lầu, nguyệt minh thiên lý Mộ nhập lương chi uyển, tuyết mãn quần sơn. Nghĩa là : đêm lên lầu Võ lượng trăng sáng nghìn dặm, chiều vào vườn Lương vương, tuyết đầy đám núi. Y nói nhớ bạn tri kỷ.
4. Lê Quang Định.

V- TỔNG KẾT :
Ngoài những bài thơ ngâm vịnh, để tả cảnh đẹp ở miền Nam lại còn đề cao công nghiệp của tiền nhân, tỏ lòng trung hiếu với gia đình, đất nước Việt Nam. Bài văn tế “Tướng sĩ trận vong” của Tiền quân Quận công Nguyễn Văn Thành chẳng những có giá trị về văn học mà còn vẽ lại một trang lịch sử oai hùng của dân tộc chúng ta, trong công việc thống nhất đất nước, sĩ phu miền Nam đã đóng góp xương máu của mình để dựng nên một miền Nam với đất đai phù trú, hết lòng với chúa Nguyễn để khôi phục lại công nghiệp và dựng nên nhà Nguyễn sau này, phải chăng đấy là tinh thần quốc gia tích cực của người miền Nam. Từ đó, vừa nhen nhúm vừa un đúc cho những cuộc cách mạng sau này khi người Pháp đặt nền móng đô hộ trên dãi đất miền Nam, quyển “Gia Định thống chí” của Trịnh Hoài Đức là một tác phẩm đầu tiên trong bộ sưu khảo miền Nam này, rất có giá trị trong ngành nhân văn. Những tác giả được đề cập trong tiết này, cho chúng ta thấy rõ hoàn cảnh lịch sử đã ảnh hưởng đến văn học và vẽ nên một thời kỳ sơ khởi trong văn học sử miền Nam.


No comments:

Post a Comment