“Phàm chỗ nào có rắn thì đều có thứ lá trị rắn độc”
Nguyễn Việt
Nữ
Trên đây là câu nói
đầy triết lý của Sư cụ Vân Không tục danh là Trần Xà Nhân. Xà là rắn, rắn lớn,
rắn độc như rắn mãng xà.
Một “thần dược” tâm
lý tìm được dưới mái chùa hoang thời xa xưa nhưng lại rất gần gũi để chữa bệnh
cho mọi người.
Dù xa, gần; cũ,
mới, tưởng cũng rất hợp để nhắc lại khi chúng ta sắp đi vào mùa Xuân Quý Tỵ 10
tháng 2 năm 2013.
Xin mời quí vị đọc tác phẩm do Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
dịch
DƯỚI MÁI CHÙA HOANG
Thích Quảng Độ
Bản dịch của HT.Thích Quảng Độ
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam , có một
ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa
xuân năm ấy, giặc dã và Dưới Mái Chùa
Hoang - HoPhap.Net
trộm cướp nổi lên, dân chúng miền phụ cận đã
chạy tản mác đi nơi khác, vị trụ trì trong chùa cũng bỏ trốn, chỉ để một mình
ông già “tứ cố vô thân”ở lại đèn hương sớm tối.
Hết xuân sang hạ, khí trời trở nên mát mẻ,
tối hôm ấy, như thường lệ, ông già dọn dẹp các nơi xong, đang định vào căn
phòng nhỏ phía sau Phật điện nghỉ ngơi, bỗng nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ vang
lên ở phía ngoài, ông đi ra mở cửa thì thấy một vị sư áo quần lam lũ, râu ria
xồm xoàm, tay cầm chiếc thiền trượng (cái gậy), trên lưng đeo một cái đãy nhỏ
đang đứng dưới thềm cửa trước chùa.
- Ngài cần việc gì? Ông già hỏi.
- Tôi đi vân du đến đây thì trời tối, không
có chỗ trọ, định vào quý tự xin tá túc một đêm.
- Chùa đây không phải chốn tùng lâm, không
tiện tá túc. Vả lại, sư cụ trụ trì đi vắng, tôi chỉ là người trông nom đèn
hương trong chùa, xin sư cụ từ mẫn cho. Ông già uyển chuyển đáp khéo.
- Tôi cũng biết chùa đây không phải chốn tùng
lâm. Vị khách tăng nói. Song đến đây không còn thấy nơi nào có thể ngủ trọ
được. Giờ trời đã tối, xin lão vui lòng cho tôi nghỉ tạm một đêm.
Sau một lát ngần ngừ, ông già nói:
- Trong chùa vẫn còn một căn phòng nhỏ bỏ
không, sư cụ có thể nghỉ tạm. Song chỉ hiềm là không có chiếu chăn gì cả, mà
lương thực cũng eo hẹp lắm!
- Điều đó không ngại, tôi ngồi được rồi,
không cần chiếu chăn. Còn thức ăn thì tôi đã có mang theo lương khô đây, không
dám phiền bàn đến lão.
- Vậy thỉnh cụ vào, nhưng xin cụ cho biết
pháp danh và cụ ở đâu tới?
- Tôi là Vân Không, từ Triết Giang đến.
Ông già đưa sư cụ Vân Không vào. Khi đi qua
Phật điện, ông thắp ngọn đèn dầu trên bàn thờ lên, rồi dẫn sư cụ vào căn phòng
phía sau đối diện với phòng của ông. Căn phòng bỏ không, nhưng ở góc phòng có
một đống cỏ khô chất gần đến mái nhà, mùi cỏ khô tỏa ra khắp căn phòng.
Ông già vừa nhìn sư cụ vừa nói:
- Xin cụ lượng thứ, thỉnh cụ hãy tạm nghỉ ở
đây!
- Ồ, không sao! Tôi đã sống qua nhiều ngày
thế này rồi, ở đây tương đối còn khá lắm!
Sư cụ để chiếc gậy và cái đãy vào góc phòng,
rồi nói với ông già:
- Thôi, mời lão đi nghỉ. Để mặc tôi, tôi còn
lên lễ Phật.
Ông già đi về phòng riêng. Vừa mới ngồi xuống
giường, đột nhiên lại thấy tiếng gõ cửa từ đằng trước vọng vào. Lần này, tiếng
gõ cửa rất gấp và cứ thình thình. Ông thấy trong lòng run sợ, còn đang phân vân
không biết có nên ra mở cửa hay không thì chợt thấy sư cụ Vân Không tiến đến
cửa phòng.
- Có người gọi cửa phía ngoài.
- Tôi nghĩ không nên mở. Ông già nói. Họ gõ
chán, không thấy mình ra, tất họ phải đi.
- Tại sao không mở? Sư cụ ngạc nhiên hỏi.
- Bạch cụ, cụ không biết, chứ ở vùng này lộn
xộn lắm, trộm cướp vô khối. Tiếng gõ cửa liên hồi như thế, tôi chắc bên ngoài
phải có nhiều người. Chả biết họ đến làm gì, tôi không dám cho họ vào đâu!
- Ông với tôi thì có gì đâu mà sợ họ cướp? Và
chắc đâu đã phải là cướp? Cứ ra xem nào!
- Thảng hoặc họ là cướp thật và cái gì cũng
muốn vơ vét. Tôi còn mấy chiếc quần áo và chút ít tiền, nếu họ lấy mất thì sao?
- Ông đem giấu tiền đi, còn quần áo thì họ sẽ
không thấy đâu! Nếu thật là cướp thì còn có tôi đây, lão đừng sợ. Ví phỏng họ
muốn ăn thì cho họ ăn, tôi còn lương khô đây, ăn hết sẽ hay!
Ông già do dự nói:
- Họ gõ cửa đã lâu mà mãi bây giờ mới ra mở.
Giả sử họ là cướp, chắc chắn khi vào họ sẽ cho- Tôi đi với lão và để tôi mở cửa
cho!
- Bạch cụ. Ông già nhíu mày nói. Nếu chỉ là
một người khỏe mạnh, mình đối phó được còn khó thay! Huống hồ lại nhiều người,
họ sẽ nuốt sống mình mất.
- Một người khỏe mạnh cũng không sợ, mà có
bao nhiêu người cũng không sao, đã có tôi ở đây!
Sư cụ Vân Không đến bên ông già và cầm tay
kéo ông đi:
- Đây là một nơi hoang vắng, chắc có người lỡ
đường muốn vào chùa xin nghỉ trọ, nên cho họ vào, nếu họ đói thì cho họ ăn. Ở
đời, việc nên làm thì làm, chứ đừng so đo cân nhắc nhiều quá!
Ông già bị sư cụ kéo đi, đành cũng phải theo
người. Khi họ ra tới cửa thì tiếng gõ cũng vừa tắt. Sư cụ mở cửa ra, trời đã
tối hẳn. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy vì sao lấp lánh rọi xuống, sư cụ thấy một
người đang nằm gục trên bậc cửa.
Ông già vội đến trước hỏi:
- Giờ này, ông còn đến chùa làm gì?
- Tôi đi qua đây, không biết bị con gì cắn,
xin cho tôi vào nghỉ nhờ một lát!
Nói xong, không đợi ông già đáp, người ấy
tiến vào cửa, nhưng vừa khỏi cửa thì lại ngồi quỵ xuống. Ông già vội đỡ dậy,
hỏi:
- Tại sao lại ngồi đây, mời ông vào chùa
nghỉ.
- Bắp chân tôi đau quá, không đi được nữa!
- Tôi đỡ ông vào vậy! Ông già nói.
- Để tôi bế ông ấy vào!
Vừa nói, sư cụ Vân Không vừa gạt ông già ra,
rồi đỡ người ấy dậy và cõng vào chùa.
Sư cụ nhìn chỗ người ấy bị cắn một lát, rồi
nói vội:
- Chết chửa! Bị rắn độc cắn, vết thương tuy
nhỏ song nọc rắn độc lắm. Ở đây, giờ không tìm được thuốc, làm thế nào?
Dứt lời, sư cụ cúi ngay xuống, rồi để mồm vào
chỗ bị rắn cắn và dùng hết sức để nún; cứ nún đến đâu lại nhổ ra đến đấy; một
lúc lâu mới đứng dậy đi vào phòng lấy ra một gói thuốc bột rắc vào chỗ vết
thương.
tôi
một trận nên thân chứ chẳng chơi!
- Xin đừng động đậy! Ông bị cắn lâu chưa?
- Cách đây độ một tiếng đồng hồ.
- Lâu quá như thế thì phương thuốc này vẫn
chưa đủ. Không những chỉ rắc thuốc ở ngoài mà còn phải uống thuốc nữa mới được,
nhưng trong đãy của tôi lại không có thứ thuốc ấy!
Nói xong, sư cụ Vân Không quay sang hỏi ông
già:
- Có tiệm thuốc nào gần đây không?
- Mãi trên khu chợ mới có, cách đây ba cây
số. Ông già đáp.
- Tiệm thuốc e rằng cũng không có thứ thuốc
ấy. Sư cụ nói. Vả lại, đường xa thế, đi về sợ lâu quá! Phàm
chỗ nào có rắn thì đều có thứ lá trị rắn độc, nhưng cần phải đi tìm mới được!
- Nhưng ai biết thứ lá đó? Ông già hỏi.
- Tôi biết. Sư cụ đáp.
Người bị rắn cắn đang nằm phục trên chiếc
chiếu, cố ngẩng lên quay sang nói với sư cụ:
- Xin sư cụ cứu tôi! Ơn ấy, tôi xin ghi lòng
tạc dạ.
- Ông cứ yên tâm, tôi sẽ đi tìm thuốc cho
ông!
- Xin sư cụ cho biết quý danh.
- Tôi là Vân Không.
- Tôi muốn biết tên tục của sư cụ.
Sư cụ cười và đi ra cửa:
- Tôi họ Trần, ở cùng xóm với ông.
Rồi sư cụ ngoảnh lại nói với ông già:
- Bên ngoài tối quá, xin lão cho tôi một bó
đuốc!
Ông già đi xuống bếp, một lát sau đưa lên một
bó thanh nứa đã đốt sẵn, trao cho sư cụ rồi đưa sư cụ ra ngoài cửa, đoạn trở
vào Phật điện nói chuyện với ông khách lạ.
- Xin ông cho biết quý danh.
- Tôi là Đoàn Quốc Hùng.
- Hiện giờ, ông thấy trong người thế nào, có
bớt đau không?
- Đau thì không đau lắm, chỉ buôn buốt, nhưng
giờ đã đỡ nhiều rồi.
- Nếu không đau mà thấy buốt thì đúng là rắn
độc cắn. Sư cụ Vân Không coi bộ thạo về môn này lắm! Thế là ông đã gặp được vị
cứu tinh, nhưng mong sao Ngài tìm ra thuốc mới được.
Đoàn Quốc Hùng nói:
- Thưa lão, tôi đang băn khoăn suy nghĩ để
biết xem sư cụ Vân Không đây trước khi xuất gia là người thế nào.
- Tôi cũng như ông, chẳng hiểu gì cả! Nhưng
điều đó có gì quan hệ? Ông già lấy làm lạ, hỏi. Công việc trọng yếu của ông
hiện giờ là phải điều trị nọc độc. Ông với sư cụ tình cờ gặp nhau như cánh bèo
trên mặt nước. Sư cụ chữa khỏi vết thương cho ông rồi ngày mai lại trôi giạt
mỗi người mỗi phương. Nếu ông muốn đền đáp ơn người thì cứ ghi nhớ tên người là
Vân Không để sau này tìm cách báo đền. Còn như trước khi xuất gia, người làm gì
hoặc tên tuổi của người là gì thì thiết tưởng điều đó ông không nên băn khoăn.
Hay ông hoài nghi trước kia người không là thầy thuốc nên sẽ không dám uống
thuốc của người?
- Đây không phải là vấn đề thuốc thang, tôi
còn mang nặng một tâm tư khác. Tôi và vị sư ấy không phải tình cờ gặp nhau. Tuy
đã nhiều năm không thấy nhau, hai chúng tôi đều đã già. Vả lại, người mặc tấm
áo nâu và râu ria bờm sờm che kín mặt, song tôi vẫn hơi nhận ra người, nhất là
khi sư cụ cho tôi biết sư cụ họ Trần và theo lối nói thì hình như sư cụ cũng đã
nhận ra tôi. Đúng sư cụ là Trần Phán! Giữa tôi và sư cụ có một mối oan cừu mà
mười năm qua không lúc nào tôi ăn ngon ngủ yên.
- Thế việc đó ra sao? Ông già hỏi.
- Sư cụ và tôi là người cùng xóm. Trần Quốc
Hùng hạ giọng nói. Lúc còn trẻ, ông ở sát cạnh nhà tôi. Ông làm nghề đi bán các
trò chơi. Ông nuôi nào khỉ, nào chuột, nào rắn và luyện tập chúng biểu diễn các
trò. Nhất là rắn, lớn bé hơn mươi con, cứ thay đổi luôn luôn. Do đó, người
trong làng mới đặt cho ông tên là Trần Xà Nhân. Trần Xà Nhân chỉ có một người
con gái còn nhỏ tuổi, thường theo cha đi biểu diễn các trò. Bấy giờ, tôi rất
ghét ông ta ở cạnh nhà tôi, vì những con vật ông ta nuôi, sau khi luyện tập
thành thục, ông ta cứ thả ra. Có lúc những con khỉ chạy sang vườn phá phách hoa
quả của tôi, còn rắn thì lúc nào cũng nằm cuộn tròn trên cành cây trước nhà ông
ta, những cành cây vươn ra sát đầu tường hoa nhà tôi. Tuy rắn không bò qua
tường bao giờ, nhưng ở bên nhà tôi trông rất rõ và rất đáng sợ. Tôi đã từng
cảnh cáo ông ta và cũng có khi ông ta bồi thường thiệt hại về hoa quả cho tôi,
nhưng nghề nghiệp của ông ta bắt buộc phải làm bạn với khỉ và rắn, rốt cuộc là
tôi không thể chịu đựng được nữa. Cuối cùng, tôi bảo ông ta phải dọn nhà đi nơi
khác. Nhưng ông ta nói là nhà của ông bà để lại nên không dám bán, mà đi nơi
khác mua cũng không dễ dàng gì! Bảo ông ta dọn nhà không có kết quả, tôi bèn
thuê người đến sinh sự phá phách. Nhưng ông ta rất giỏi võ, những người tôi
thuê đều bị ông ta đánh bại và bị thương. Tôi liền đi thưa quan huyện để vu
khống ông ta là cố ý đả thương. Tôi là người giàu có và thuộc giòng dõi quý tộc
rất có thế lực, nên quan huyện cũng nể và sai người về bắt Trần Xà Nhân giải
lên huyện và bị tống giam. Còn mỗi đứa con gái ở nhà không đi biểu diễn được và
cũng không đủ sức trông nom những con vật, nên sau khi ông ta bị bắt mấy hôm
thì khỉ, rắn và chuột đều bỏ đi. Đứa con gái vào nhà giam báo cho ông ta biết.
Ông ta đành phải chịu dọn đi nơi khác. Khi về tới nhà, thấy súc vật đã đi hết
và đứa con gái tiều tụy sau hai tháng trời sống lây lất, Trần Xà Nhân liền bỏ
nhà dẫn con ra đi. Sau khi ông ta đi khỏi, tôi liền sang chiếm cứ nhà ông ta.
Phía sau, tôi cho người làm ở; còn phía trước thì làm chuồng trâu và chuồng
ngựa. Như thế, qua nửa năm, bỗng một hôm, Trần Xà Nhân đưa con về. Ông ta thấy
nhà mình hoàn toàn đổi khác, trong nhà đầy người ở. Sau khi biết tôi đã chiếm
cứ, ông ta liền sang kêu van tôi trả lại nhà cho ông ta. Tôi không trả lời và
bảo ông ta cứ đi thưa quan huyện. Ông ta đứng ngoài kêu nài mãi, nhưng tôi vẫn
tảng lờ như không nghe thấy. Đột nhiên, ông ta trợn mắt nhìn tôi một cách dữ
tợn và lẩm bẩm nói: “Món nợ này sau sẽ thanh toán!”. Dứt lời, ông ta nhảy một
cái qua tường hoa để về nhà bên kia. Tôi kinh ngạc, chạy vội ra cổng xem thì
thấy Trần Xà Nhân đang ung dung dắt con đi. Từ đó, ông ta không trở về nữa.
Cũng từ đấy, lòng tôi bắt đầu thấy sợ hãi không yên, nhất là ánh mắt dữ tợn của
ông ta nhìn tôi trước khi ra đi đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng tôi.
Bất cứ lúc nào tôi cũng thấy ánh mắt trừng trừng nhìn tôi và câu nói của ông ta
trước khi ra đi lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi, nhất là trong đêm tối hoặc
trong mộng mị, tôi vẫn cứ nghe câu nói ấy, giọng nặng nề và rùng rợn. Có khi
tôi thấy trong góc nhà và bốn chung quanh tường, những ánh mắt đang nhìn tôi.
Đó là ánh mắt của Trần Xà Nhân nhìn tôi lúc ra đi, nhưng lúc này còn dữ tợn hơn
nữa.
Tôi sợ hãi như thế nên không lúc nào dám ngồi
một mình trong nhà, cũng không dám lên giường ngủ. Tôi cần nhiều người đứng
xung quanh và bắt họ la thét vang lên để trấn áp những lời chú thuật và che ánh
mắt dữ tợn của Trần Xà Nhân. Tôi lại sợ Trần Xà Nhân nhảy qua tường hoa như hôm
nào, nên sai người xây cao thêm lên. Song vô ích, vì từ khi Trần Phán đi rồi
thì không ai còn thấy tung tích hay hình bóng ông ta đâu nữa! Ông ta không trở
về để nhảy qua tường hoặc dùng bất cứ một phương pháp nào khác để vào nhà tôi.
Chỉ có ánh mắt và lời nguyền rủa của ông ta luôn luôn theo sát tôi khiến tôi
không có chỗ trốn tránh. Bản tính tôi vốn sợ rắn. Khi Trần Xà Nhân đi rồi, tôi
cứ nghĩ đến rắn là lòng lại run lên. Nếu thấy con rắn nào thì tôi lại tưởng đó
là rắn của Trần Xà Nhân nuôi và sai về để cắn tôi. Bởi thế, ngoài sự tưởng
tượng đến ánh mắt và lời nguyền rủa của Trần Xà Nhân, tôi còn tưởng tượng cả
rắn; đến nỗi thấy một vật gì dài, nhỏ và uốn khúc hoặc một cái bóng ngoằn
ngoèo, tôi đều sợ hãi. Vì khổ sở như thế, nên tôi chỉ thích đến những nơi huyên
náo đông người, thậm chí cả nơi cờ bạc để mong những tiếng ồn ào ấy sẽ đàn áp
sự sợ sệt của tôi. Nhưng khi tan canh ra về thì lại ghê rợn vô cùng, tôi sợ gặp
Trần Xà Nhân giữa đường hoặc gặp rắn của ông ta sai phục sẵn bên đường để chờ
tôi. Bởi thế, bao nhiêu người đi theo hộ vệ tôi và la thét ầm ỉ. Vì thế, tôi đã
đam mê cờ bạc, gia cảnh cũng dần dần suy sụp, thanh danh giảm bớt. Người ta
không còn kêu tôi là “thân sĩ “hoặc “trí thức “mà họ gọi tôi là “đồ cờ bạc ”.
Sức khỏe mỗi ngày một kém, kết quả là mọi người đều cho tôi đã mắc chứng “bệnh
tinh thần ”.
Để giải trừ nỗi oan cừu ấy, tôi đã đăng lời
rao trên các báo chí tìm Trần Phán, nói rõ là xin bồi thường tất cả những sự
tổn thất. Nhưng từ bấy đến nay, vẫn không một hồi âm. Vô pháp khả thi, tôi chỉ
còn cách ra đi tìm kiếm, mong được gặp ông ta để tạ tội và xin bồi thường thiệt
hại. Tôi tưởng rằng ông ta vẫn làm nghề cũ, nên không một đám biểu diễn trò
chơi nào mà tôi không vào xem, nhưng tuyệt không thấy Trần Xà Nhân hay con gái
ông ta trong đó. Trên đường tìm kiếm, hôm nay đến nơi hoang vắng quạnh quẽ này,
không ngờ tôi lại bị rắn cắn!
Vị sư cụ vừa chữa vết thương cho tôi lúc nãy,
thoạt nhìn đôi mắt, tôi đã nhận ra đó là cặp mắt của Trần Xà Nhân. Bởi thế, tôi
mới hỏi tên tục của người, nhưng người chỉ cho tôi biết người họ Trần mà không
nói tên. Song nghe đến họ Trần, tôi đã tin chắc đó là Trần Xà Nhân, nhất là
người lại bảo ở cùng xóm với tôi. Vậy không phải “ông ta “thì còn là ai? Tôi cứ
suy nghĩ mãi tự nãy đến giờ là nếu “ông ta “nhận ra tôi thì tại sao “ông ta
“lại chữa cho tôi? Tôi đang băn khoăn tự hỏi khi “ông ta”đưa thuốc về thì tôi
có nên uống hay không?
Nghe xong, ông già nói:
- Sư cụ này cũng mới vào đây xin tá túc trước
khi ông đến chừng mấy phút thôi. Bởi thế, tôi cũng không hiểu biết gì về sư cụ
hơn ông mấy! Nhưng nếu người tìm được thuốc thang về, làm sao ông có thể từ
chối không uống? Không uống, tất không có hy vọng trừ hết nọc rắn độc. Theo
tôi, khi sư cụ để mồm vào vết thương hút nọc độc ra chắc không phải có ý giả
dối đâu! Trên đời này, không có ai đối với kẻ thù của mình bằng cử chỉ ấy. Còn
họ Trần thì rất phổ thông, chắc trong số bạn bè của ông cũng có nhiều người
mang họ Trần. Ông hãy cứ tưởng tượng sư cụ là một người họ Trần khác đi, chứ
nhất định không phải Trần Xà Nhân. Ông cũng coi như là người không nhận ra ông.
Nếu thật người đã nhận ra ông là kẻ oan gia đối đầu với người, chắc người đã
khoanh tay đứng nhìn, chứ đâu lại khổ công lo chữa cho ông? Người đã chịu cực
hút nọc rắn độc để cứu ông thì người đâu còn dùng thuốc độc để hại ông nữa!
Đoàn Quốc Hùng nghe ông già nói xong, gật gật
đầu, nhưng vẫn cứ phân vân. Đúng lúc ấy, có tiếng gõ cửa bên ngoài, ông già
liền đi ra mở cửa. Sư cụ Vân Không, một tay xách bó cỏ, tay kia cầm cây đuốc đã
cháy gần hết, đang đứng trên bậc cửa. Ông già vội đỡ lấy bó cỏ từ tay sư cụ,
rồi hai người cùng tiến vào Phật điện. Đoàn Quốc Hùng thấy sư cụ đã vào, cố
gượng ngồi dậy, nhưng sư cụ cản lại:
- Ông đừng cử động! Người bị rắn cắn càng nằm
yên càng tốt. Ông bị cắn lâu mới chữa, tuy tôi đã hút máu ra, song sợ chưa hút
hết được nọc độc. Bởi thế, ông cần phải uống thuốc trong và rịt thuốc ngoài.
Thuốc ngoài tôi đã rịt rồi, bây giờ tôi sắc cho ông uống!
Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và duỗi thẳng
hai chân ra. Sư cụ Vân Không đi vào phòng, cầm chiếc thuyền trượng ra, rồi để
bên người; sau đó lấy một phần bó cỏ thuốc và rải ra mặt đất trên nền chùa.
Ông già đến trước hỏi:
- Bạch cụ, cụ định giã lá thuốc?
- Vâng, phải giã thật nát mới rịt được!
- Cụ để tôi giã đỡ!
Ông già đến cầm lấy chiếc thuyền trượng đặt
trên chốc chiếu, lúc đó mới biết chiếc thuyền trượng làm bằng sắt. Ông già nhấc
một tay không nổi, liền dùng cả hai tay cũng vẫn không nhấc bổng lên được. Ông
đành lắc đầu, lè lưỡi.
- Ông đi sắc thuốc đi! Sư cụ Vân Không nói.
Còn việc giã thuốc để đấy tôi làm cho!
Ông già vâng theo, đứng dậy cầm lấy nửa bó cỏ
rồi đi xuống bếp. Sư cụ Vân Không nhấc chiếc thuyền trượng lên và nện xuống sàn
chùa. Tiếng kêu côm côm vang lên trong Phật điện, long cả tai. Đoàn Quốc Hùng
nhắm nghiền mắt lại, vùi đầu xuống chiếu. Sau khi giã nát thuốc, sư cụ lấy tay
cầm đắp vào vết thương trên ống chân Đoàn Quốc Hùng, rồi xé một miếng áo của
mình để buộc vết thương lại. Đang buộc, bỗng nhiên sư cụ hỏi:
- Ông thấy đau nhức hay sao mà run thế?
Đoàn Quốc Hùng ngóc đầu dậy, nhìn sư cụ Vân
Không như muốn nói, nhưng hễ mở miệng ra lại thôi, lâu lắm mới hơi thốt lên
những lời líu nhíu:
- Bạch cụ, tôi cảm ơn cụ lắm! Song thật cụ có
nhận ra tôi là ai không?
- Tôi nhận ra. Sư cụ vừa nói vừa cười. Ông là
Đoàn Quốc Hùng.
Đoàn Quốc Hùng ngồi nhỏm dậy, tỏ vẻ kinh
hoảng và bi thương nhìn Vân Không:
- Thế ra sư cụ là Xà nhân Trần Phán?
- Đó là tên họ ngày xưa. Sư cụ mỉm cười.
- Bạch cụ. Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và
nước mắt trào ra. Trước đây mười năm, sư cụ muốn thanh toán tôi. Tôi còn nhớ
mãi câu nói ấy! Bất cứ ở đâu và giờ phút nào, tôi cũng phảng phất như thấy ánh
mắt sư cụ nhìn tôi trước khi bỏ đi. Đã mười năm qua, ánh mắt ấy cứ theo tôi như
bóng với hình. Không một thời khắc nào mà tôi thấy lòng được bình yên và thanh
thản! Lúc nào tôi cũng sống trong hồi hộp và lo sợ. Tôi muốn sám hối tội ác tôi
đã gây nên nhưng chưa gặp cơ hội, ngày đêm tôi mong sư cụ về để trả thù tôi
nhưng vẫn bặt tin. Tôi. Tôi đã đăng tin trên các báo chí để tìm sư cụ, nói rõ
là tôi đã ăn năn và đau đớn. Song không được hồi âm của sư cụ, cuối cùng tôi
đành bỏ nhà ra đi tìm sư cụ. Dù có bị sư cụ thanh toán, tôi cũng đỡ khổ. Hôm
nay, ta gặp nhau ở đây, chính là dịp để sư cụ trả cho xong mối oan cừu năm xưa.
Nhưng trái lại, sư cụ vẫn cứu tôi. Tôi cứ tưởng sư cụ đã quên tất! Đã biết tôi
là Đoàn Quốc Hùng, tại sao sư cụ lại nhọc công cứu tôi? Thật tôi không hiểu
dụng ý của sư cụ, hay chữa khỏi rồi mới trả thù?
- Món nợ ấy, tôi không còn tính nữa! Vân
Không bình tĩnh nói. Lúc ông vừa vào cửa chùa, tôi đã nhận ra ông. Nếu tôi còn
nghĩ đến thù oán, tôi cứ đứng khoanh tay nhìn ông đau đớn đến chết, chứ vạ gì
tôi phải chịu bẩn thỉu để cứu ông? Giờ đây, tôi là Vân Không Hòa thượng, chứ
không phải Trần Xà Nhân. Xin ông cứ tin như thế!
Đúng lúc ấy, ông già từ dưới bếp đang bưng
lên một tô thuốc vừa sắc xong. Ông từ từ tiến vào Phật điện, trao bát thuốc cho
Đoàn Quốc Hùng. Hùng đỡ lấy để xuống chiếu, chờ cho thuốc nguội bớt. Một lúc
sau, Hùng bưng bát thuốc lên uống một hơi, đoạn lại nằm xuống.
Sư cụ Vân Không nói:
- Lát nữa, nọc độc trong người ông sẽ tiêu
hết! Ông đi tìm tôi và đã gặp tôi ở đây, song người hiện đang ngồi trước mặt
ông là Vân Không Hòa thượng chứ không phải Trần Xà Nhân. Ngày mai, ông cứ yên
tâm trở về, đừng đi lang thang nữa!
- Bạch cụ, như vậy là cụ đã tha thứ cho tôi?
- Còn hơn cả tha thứ nữa! Sư cụ Vân Không
nói. Lòng tôi đối với tội ác không còn sầu hận, chỉ có thương xót mà thôi!
- Việc này phải nhìn theo hai khía cạnh để
giải quyết. Giọng Trần Quốc Hùng bi thảm. Tâm sư cụ tuy không còn cừu hận, song
lòng tôi vẫn ăn năn sợ hãi. Mười năm qua, tôi đã luôn luôn sống trong tâm trạng
ấy. Nhiều khi tôi có một hy vọng kỳ quặc là hy vọng sư cụ về để thanh toán tôi
cho hết mối cừu hận, cho lòng tôi được yên ổn. Nhưng tôi vẫn không thấy hình
bóng của sư cụ xuất hiện. Bởi thế, tôi mới quyết định đi tìm sư cụ và sẵn sàng
bồi thường thiệt hại cho sư cụ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xin sư cụ về
Thượng Hải với tôi có được không?
- Về Thượng Hải làm gì? Vân Không ngạc nhiên
hỏi.
- Trước khi ra đi, tôi đã sắp sẵn một số tiền
để bồi thường cho sư cụ. Nhưng vì đường xa, đi một mình nên tôi không dám mang
theo, tôi phải gửi số tiền ấy ở ngân hàng tại Thượng Hải. Sư cụ đòi bao nhiêu,
tôi xin trả bấy nhiêu! Nhưng sư cụ không ở đâu nhất định, ngày mai chia tay rồi
sẽ khó gặp lại sư cụ. Bởi thế, tôi muốn mời sư cụ về Thượng Hải để tôi trả cho
xong món nợ đó!
- Ý ông muốn trả tiền tôi? Tôi lấy tiền làm
gì? Tôi không cần tiền.
- Tôi cũng biết món nợ đó không phải hoàn
toàn trả bằng tiền mà xong, nhưng vẫn còn nợ tinh thần nữa. Chẳng hạn tôi đã vu
khống sư cụ đến nỗi sư cụ phải bị tù đày một cách oan uổng trong hai tháng
trời.
- Ô, điều đó đối với tôi có một tác dụng
luyện tập! Tôi không cho đó là “tai vạ tù đày”.
- Không những thế, sau khi sư cụ bị giam cầm,
những rắn, khỉ và chuột của sư cụ đã bỏ đi hết!
- Khỉ, rắn và chuột đều bị tôi bắt buộc đi
theo biểu diễn, chứ tự chúng không muốn. Khỉ luôn luôn nhớ rừng, rắn muốn trở
về bụi rậm và chuột mong được về hang tổ của chúng. Sau khi tôi bị giam, chúng
đều được tự do và giải thoát. Như thế càng tốt chứ sao?
- Còn con gái của sư cụ?
- Nó đã lập gia đình cách đây năm năm, nghe
nói đời sống cũng dễ chịu.
- Vì tôi ức hiếp mà sư cụ đi tu?
- Điều đó chính tôi phải cảm ơn ông! Sư cụ
vừa cười vừa nói. Tôi bây giờ cũng tự do và giải thoát như những khỉ, rắn và
chuột của tôi vậy!
- Còn nhà của sư cụ mà tôi đã chiếm đoạt để
làm chuồng trâu, chuồng ngựa?
- Nhà cửa đều là không. Giả sử ông trả nhà
lại hay bồi thường cho tôi thì đó chỉ là lụy cho tôi.
- Vậy thì biết làm thế nào? Giọng Đoàn Quốc
Hùng khổ sở. Một người mang nợ muốn trả cho hết nợ mà chủ nợ lại không nhận
mình là chủ nợ, lại còn phủ nhận cả nửa cuộc đời trước của mình. Tâm sư cụ lâng
lâng và thanh thoát, nhưng lòng tôi thì một cái “nút”trói buộc suốt đời tôi.
- Nút gì? Trói buộc ở chỗ nào? Sư cụ hỏi
- Tội nghiệt là “nút “trói buộc tâm tôi!
- Ông đưa cái “nút “và cái “tâm” bị trói buộc
ra đây cho tôi xem để tôi cởi trói cho ông.
- Tội nghiệt và tâm đều không phải thực chất,
làm thế nào tôi có thể nắm lấy mà đưa ra được?
- Như thế là hết trói buộc rồi! Sư cụ Vân
Không phá lên cười.
- Bạch cụ, cụ cho là hết trói buộc, chứ tôi
vẫn thấy còn bị buộc.
- Tôi cũng biết thế! Sư cụ nói. Xin hỏi ông
ngoài việc đó ra, ông còn thắc mắc điều gì không?
- Dĩ nhiên là còn và còn nhiều hơn nữa!
- Nếu bình sinh ông gây tội nghiệt cho tôi và
coi đó là một món “nợ tinh thần ”, một cái “nút ”, ông tìm đến chủ nợ để thanh
toán. Như thế là hết nợ rồi! Giả sử ông mắc nhiều nợ tinh thần mà chủ nợ không
phải chỉ có một người, trường hợp đó thì ông tính sao?
- Tôi sẽ lần lượt trả hết, nhưng phải tìm đến
người chủ nợ thứ nhất cho xong đã.
- Ông tìm được tôi rồi, nhưng con người tôi
đã đổi khác! Từ Trần Phán đổi thành Vân Không, cho đến cái tâm cũng đổi khác.
Nhưng hãy cứ tưởng tượng rằng ông đi tìm mà không gặp chủ nợ thì ông làm thế
nào? Sư cụ hỏi. Nói thí dụ: Chủ nợ đã chết?
- Tôi tìm con cái của người ấy.
- Nếu họ không có con thì ông tìm ai? Thí dụ
ông mang nợ một con rắn mà con rắn đó đã chết, ông biết con rắn nào là con cái
của nó để mà trả?
Đoàn Quốc Hùng khổ sở không biết nói sao!
- Ông nên biết! Sư cụ nói tiếp. Ông mang nợ
oan nghiệt nhiều hay ít, xét đến ngọn nguồn thì đó đều là việc của ông. Chủ nợ
không nhất định sẽ đến đòi ông, mà cũng không cần chủ nợ phải đến đòi, chỉ cái
“nợ “ấy trói buộc ông thôi! Song cái nợ đó vốn không có thực chất, đúng như lúc
nãy ông nói “tội nghiệt “trói buộc cái tâm của ông không phải là một vật có
thực chất, mà cái “tâm “bị trói buộc cũng không phải cái cục thịt trong người
ông. Ông không thể nắm bắt được! Trong khi ông thấy rõ như thế thì cũng như ông
vừa tỉnh mộng, nợ cũng không còn là nợ nữa!
- Những lời đó cao siêu mầu nhiệm quá, tôi
không hiểu nổi! Xin sư cụ giảng giải tường tận một chút nữa.
Sư cụ Vân Không cầm một sợi dây buộc bó cỏ
thuốc lúc nãy, thắt lại thành cái nút, rồi giơ ra trước, hỏi Quốc Hùng:
Đây là cái gì?
Cái nút
Nút là cái gì?
Nút là nút chứ còn là cái gì bây giờ? Quốc
Hùng cười.
Ngoài sợi dây ra, còn có cái “nút “tồn tại
không?
- Ngoài dây thì dĩ nhiên không có “nút “tồn
tại riêng biệt.
- Như vậy nút là cái gì? Vân Không hỏi dồn.
Đoàn Quốc Hùng chịu không đáp được. Sau đó,
Vân Không chỉ vào cái nút, nói:
- Nút là do nhiều vòng dây thắt lại mà thành,
nhưng những vòng dây không có thực thể, chỉ là giả tướng mà thôi! Nhiều vòng
dây tập hợp lại mà thành nút, lúc chưa thành thì không có nút và khi cởi ra rồi
thì nút cũng không còn. Sư cụ vừa nói vừa cởi cái nút ra.
- Hiện giờ còn nút không?
Đoàn Quốc Hùng lắc đầu nói:
- Sư cụ nhìn sự vật như mộng ảo. Nếu tất cả
đều là giả tướng thì còn có gì gọi là nhân quả? Sư cụ định tạm dùng những lời
huyền diệu ấy để mở rộng lòng cho kẻ tội ác này chăng?
- Trong cái rỗng không, có gì ngăn lại nhân
quả? Vân Không đáp. Chẳng hạn cái nút này do nhiều vòng dây thắt lại mà thành,
nhưng vòng dây không có tự tính, cho nên nút cũng không có tự tính. Bây giờ,
cởi nút ra làm cho vòng dây thẳng lại thì cái thẳng đó cũng không có tự tính.
Nói đến rốt ráo thì chính sợi dây này cũng không thật có, dây là do các thứ cỏ
bện thành. Khi cỏ chưa sinh thì không có cỏ và dĩ nhiên cũng không có dây, lúc
cỏ chưa được bện lại thì cũng không thành dây, nếu đem đốt dây đi thì cuối cùng
còn gì? Song ông tưởng trong cái rỗng không ấy không có nhân quả? Nếu tôi đem
sợi dây không có thực thể thắt chặt vào cổ hư giả của ông, ông sẽ thấy đau đớn
khó chịu. Nhưng sự đau đớn ấy cũng chỉ là ảo giác, cũng như dây và cổ đều không
có tự tính. Vậy cứ gì trong cái chân thật mới có nhân quả?
- Tuy sư cụ chỉ dạy cho như thế, nhưng tôi
vẫn không thể lĩnh hội được, biết làm thế nào? Giọng Quốc Hùng bi ai.
- Tôi không trông mong ông lĩnh hội một cách
triệt để. Đối với người còn trong mộng, không có cách nào làm cho họ hiểu được
cảnh giới lúc thức; trong cảnh mộng tuy giả dối không thực nhưng không có gì
ngăn trở người ta làm ác, chịu báo, sám hối hoặc làm thiện; nhưng khi người ta
tỉnh dậy thì mới biết tất cả việc làm lúc trước đều là chiêm bao; đã thoát ly
được cảnh mộng, trở về cảnh giác thì hết thảy đều rỗng rang và thanh tịnh; lúc
đó thì thiện còn chẳng làm, huống chi là ác!
Nghe đến đây, Đoàn Quốc Hùng phủ phục xuống
lạy sư cụ. Ông già đứng bên cạnh, coi bộ cũng hiểu được phần nào. Đoàn Quốc
Hùng nói với sư cụ Vân Không:
- Tôi không muốn trở về nữa, xin cho tôi theo
sư cụ xuất gia.
- Nếu trong lòng ông thật đã giác ngộ thì hà
tất cứ phải xuất gia như tôi! Bỏ mộng, trở về giác đều có nhân duyên. Không nên
câu chấp hình thức!
Dứt lời, sư cụ Vân Không trở vào phòng riêng.
Đoàn Quốc Hùng không dám theo vào, nằm trên chiếc chiếu và trằn trọc mãi quá
nửa đêm cũng không thể ngủ được. Đến khi nghe tiếng gà gáy, trời đã sắp sáng,
Hùng mới đứng dậy đi vào phòng định bày tỏ thêm nỗi lòng mình với sư cụ, nhưng
khi tới nơi thì thấy căn phòng vắng lạnh. Vân Không Hòa thượng đã bỏ đi tự lúc
nào mà không ai biết!
Bản dịch của HT.Thích Quảng Độ
(Hết)
Trong suốt bài dịch, ta thấy
Sư cụ Vân Không nói 2 điều hệ trọng và làm cũng chỉ hai điều trọng hệ thôi:
1. “Phàm chỗ nào
có rắn thì đều có thứ lá trị rắn độc”, nhưng cần phải đi tìm mới
được!
2. Và Sư cụ đã
thật sự đi tìm để cứu kẻ cựu thù. Rồi Vân Không Hòa thượng đã bỏ đi tự lúc
nào mà không ai biết!
3. Vân Không Hòa thượng đã thực hành giáo lý “Tam vô” của
Phật pháp: “Vô úy, Vô ngã, Vô thường” trái ngược với chủ thuyết “Tam vô” của
Mác-Lênin là: “Vô gia đình, Vô tôn giáo, Vô tổ quốc” như hiện giờ ta thấy rõ.
Nguyễn Việt
Nữ
(30 tháng 1 năm 2013)
No comments:
Post a Comment